Ban đầu, Đức Chúa Trời sáng tạo trời đất. Lúc ấy, đất không có hình thể và còn trống không. Bóng tối, bao trùm vực thẳm và Thần Linh của Đức Chúa Trời vận hành trên mặt nước. Bấy giờ, Đức Chúa Trời phán: “Phải có ánh sáng!” Ánh sáng liền xuất hiện. Đức Chúa Trời thấy ánh sáng là tốt. Đức Chúa Trời phân rẽ ánh sáng và bóng tối. Đức Chúa Trời gọi sáng là Ngày và tối là Đêm. Đó là buổi chiều và buổi sáng ngày thứ nhất. Đức Chúa Trời phán: “Phải có khoảng không phân cách nước với nước”. Vậy, Đức Chúa Trời tạo khoảng không phân cách nước dưới khoảng không với nước trên khoảng không, thì có như vậy. Đức Chúa Trời gọi khoảng không là bầu trời. Đó là buổi chiều và buổi sáng ngày thứ nhì. Đức Chúa Trời phán: “Nước dưới bầu trời hãy tụ lại một chỗ và đất khô phải xuất hiện”, thì liền có như thế. Đức Chúa Trời gọi đất khô là Đất, và vùng nước tụ lại là Biển. Đức Chúa Trời thấy điều ấy là tốt. Đức Chúa Trời phán: “Đất phải sinh cây cỏ; cỏ kết hạt và cây kết quả có hạt tùy theo loại” thì có như vậy. Đất sinh sản cây cỏ, cỏ kết hạt tùy theo loại, cây kết quả có hạt tùy theo loại. Đức Chúa Trời thấy điều ấy là tốt. Đó là buổi chiều và buổi sáng ngày thứ ba. Đức Chúa Trời phán: “Phải có các vì sáng trên bầu trời để phân biệt ngày và đêm, làm dấu cho thì tiết, ngày và năm, và hãy có những vì sáng trên bầu trời để soi sáng trái đất,” thì có như vậy. Đức Chúa Trời tạo hai vì sáng lớn, vì sáng lớn hơn cai quản ban ngày; vì sáng nhỏ hơn cai quản ban đêm, và các tinh tú. Đức Chúa Trời đặt các vì sáng trên bầu trời để soi sáng trái đất, cai quản ngày và đêm và phân rẽ ánh sáng với bóng tối. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt. Đó là buổi chiều và buổi sáng ngày thứ tư. Đức Chúa Trời phán: “Nước phải đầy dẫy sinh vật và phải có chim bay trên trời!” Đức Chúa Trời tạo các loài thủy quái, mọi loài sinh vật đầy dẫy dưới nước tùy theo loại, và các loài chim có cánh tùy theo loại. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt. Đức Chúa Trời ban phước cho chúng và bảo: “Hãy sinh sản, tăng thêm; sinh đầy dẫy dưới biển. Các loài chim hãy gia tăng trên đất.” Đó là buổi chiều và buổi sáng ngày thứ năm. Đức Chúa Trời phán: “Đất phải sinh các sinh vật tùy theo loại, các súc vật, các loài bò sát và thú rừng tùy theo loại!” thì có như vậy. Đức Chúa Trời tạo nên các thú rừng tùy theo loại, súc vật tùy theo loại và mọi loài bò sát trên đất tùy theo loại. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt đẹp. Đức Chúa Trời phán: “Chúng ta hãy tạo nên loài người như hình thể Ta và giống như Ta, để quản trị các loài cá biển, chim trời, súc vật trên cả trái đất và các loài vật bò trên đất.” Đức Chúa Trời tạo loài người theo hình ảnh Ngài. Ngài sáng tạo loài người như hình ảnh Đức Chúa Trời. Ngài tạo nên người nam và người nữ. Đức Chúa Trời ban phước cho loài người và phán: “Hãy sinh sản gia tăng đầy dẫy mặt đất và thống trị đất. Hãy quản trị loài cá biển, chim trời và tất cả các loài vật bò trên đất.” Đức Chúa Trời phán: “Ta ban cho các ngươi mọi thứ rau cỏ kết hạt mọc trên đất và mọi thứ cây cối sinh quả kết hạt, để dùng làm thực phẩm cho các ngươi. Ta cũng ban tất cả cây cỏ xanh cho các thú vật, chim trời và mọi loài vật bò trên đất, mọi loài có sinh khí làm thực phẩm thì có như vậy.” Đức Chúa Trời nhìn mọi vật Ngài dựng nên và thấy là rất tốt. Đó là buổi chiều và buổi sáng ngày thứ sáu. Thế là hoàn thành trời, đất và tất cả vạn vật. Đức Chúa Trời hoàn tất công việc Ngài đã làm vào ngày thứ bảy, Ngài nghỉ mọi công việc Ngài đã làm. Đức Chúa Trời chúc phước cho ngày thứ bảy và thánh hóa nó vì vào ngày ấy Đức Đức Chúa Trời nghỉ ngơi mọi công việc sáng tạo. Đó là gốc tích trời đất khi được sáng tạo, trong ngày CHÚA, Đức Chúa Trời dựng nên trời đất. Bấy giờ chưa có cây cối và rau cỏ mọc lên ngoài đồng trên mặt đất, vì CHÚA, Đức Chúa Trời chưa cho mưa xuống đất, và cũng chưa có người cầy bừa đất đai. Một nguồn nước từ mặt đất dâng lên và tưới toàn thể mặt đất. CHÚA, Đức Chúa Trời nắn lên loài người từ bụi đất, hà sinh khí vào lỗ mũi và người trở nên một linh hồn sống. CHÚA, Đức Chúa Trời trồng một khu vườn tại Ê-đen ở phía đông và đặt người Ngài đã dựng nên tại đó. CHÚA, Đức Chúa Trời khiến từ đất mọc lên mọi cây cối đẹp mắt và ăn ngon. Giữa vườn có Cây Sự Sống và Cây Biết Thiện Ác. Một dòng sông chảy ra từ Ê-đen để tưới vườn và từ đó chia làm bốn nhánh. Nhánh thứ nhất tên Phi-song, chảy quanh đất Ha-vi-la là nơi có vàng, vàng xứ này rất tốt, cũng có nhũ hương và bích ngọc. Nhánh sông thứ hai tên Ghi-hôn chảy quanh xứ Cút. Nhánh sông thứ ba tên Ti-gơ chảy về phía đông A-si-ri. Nhánh sông thứ tư tên Ơ-phơ-rát. CHÚA, Đức Chúa Trời đem người đặt vào vườn Ê-đen để canh tác và chăm sóc vườn. CHÚA, Đức Chúa Trời truyền lệnh cho người rằng: “Con có thể ăn bất cứ trái cây nào trong vườn, nhưng về ‘Cây Biết Thiện Ác’ thì không được ăn, vì ngày nào con ăn trái đó chắc chắn con sẽ chết.” CHÚA, Đức Chúa Trời lại nói: “Con người ở một mình không tốt! Ta sẽ dựng nên cho người một kẻ giúp đỡ thích hợp.” CHÚA, Đức Chúa Trời lấy đất nắn nên mọi thú đồng và mọi chim trời rồi đem đến cho người để xem người đặt tên chúng là gì; và bất cứ tên gì người gọi mỗi sinh vật đều thành tên riêng của nó. A-đam đặt tên cho tất cả các loài gia súc, chim trời và thú rừng.Nhưng về phần A-đam thì không tìm được một người giúp đỡ thích hợp với mình. CHÚA, Đức Chúa Trời khiến A-đam ngủ mê. Khi người đang ngủ, Ngài lấy một chiếc xương sườn của người rồi lấp chỗ thịt đó lại. Từ xương sườn lấy nơi A-đam, CHÚA, Đức Chúa Trời dựng nên một người nữ và đem đến cho người. A-đam nói:“Bây giờ đây là xương từ xương tôi,Thịt từ thịt tôi,Người này được gọi là người nữVì từ người nam mà ra. Vì thế, người nam sẽ rời cha mẹ để kết hiệp với vợ và hai người trở thành một thân.” A-đam và vợ, cả hai đều trần truồng nhưng không thấy xấu hổ. Trong tất cả các thú rừng mà CHÚA, Đức Chúa Trời tạo nên, rắn xảo quyệt hơn cả. Rắn nói với người nữ: “Có phải Đức Chúa Trời cấm bà không được phép ăn bất cứ thứ cây nào trong vườn không?” Người nữ đáp cùng rắn: “Chúng tôi được ăn các cây trong vườn, nhưng về trái của cây trồng ở giữa vườn, Đức Chúa Trời đã phán: Các con không được ăn trái cây đó, cũng không được động đến nữa, kẻo các con sẽ chết!” Rắn bảo người nữ: “Chắc chắn không chết đâu! Vì Đức Chúa Trời biết ngày nào đó ông bà ăn trái ấy mắt ông bà sẽ mở ra, ông bà sẽ trở nên giống như Đức Chúa Trời, biết điều thiện, ác.” Người nữ thấy trái cây vừa ăn ngon vừa đẹp mắt, lại quý vì mở mang trí khôn, liền hái và ăn rồi trao cho chồng đang ở đó; chồng cũng ăn nữa. Mắt cả hai người đều mở ra và nhận biết mình đang trần truồng. Họ kết lá vả làm khố che thân. Khi nghe tiếng CHÚA, Đức Chúa Trời đi lại trong vườn lúc chiều mát. A-đam và vợ ẩn nấp giữa lùm cây trong vườn để tránh mặt CHÚA, Đức Chúa Trời. CHÚA, Đức Chúa Trời gọi A-đam hỏi: “Con ở đâu?” A-đam thưa: “Con nghe tiếng Ngài trong vườn nên sợ vì con trần truồng nên trốn!” Đức Chúa Trời hỏi: “Ai nói cho con biết con trần truồng? Con đã ăn trái cây Ta dặn đừng ăn phải không?” A-đam thưa: “Người nữ Ngài đặt bên con đã đưa con trái cây đó và con ăn rồi!” CHÚA, Đức Chúa Trời hỏi người nữ: “Con đã làm gì vậy?”Người nữ thưa: “Con rắn lừa gạt con nên con ăn!” CHÚA, Đức Chúa Trời bảo con rắn:“Vì mầy đã làm điều đó nên mày bị rủa sả giữa tất cả các loài gia súc và thú rừng.Mày sẽ bò bằng bụngVà ăn bụi đất trọn đời. Ta sẽ làm cho mầy và người nữ,Dòng dõi mầy và dòng dõi người nữ thù nghịch nhau.Người ấy sẽ chà đạp đầu mầy,Còn mầy sẽ cắn gót chân Người.” Ngài nói với người nữ:“Ta sẽ tăng thêm nhiều đau đớn khi thai nghén,Con sẽ đau đớn khi sinh nở;Dục vọng con sẽ hướng về chồngVà chồng sẽ quản trị con!” Ngài phán với A-đam:“Vì con đã nghe lời vợ, ăn trái cây Ta đã truyền lệnh đừng ăn nên đất đai bị rủa sả vì con;Cả đời con phải làm lụng khó nhọc mới có miếng ăn. Đất sẽ sinh các loài gai gócVà con sẽ ăn cây cỏ ngoài đồng. Con phải đổ mồ hôi trán mới có thức ăn,Cho đến ngày con trở về đất,Vì con từ đất mà ra.Vì con là bụi đất,Con sẽ về với đất bụi!” A-đam đặt tên vợ là Ê-va, vì nàng sẽ là mẹ của cả loài người. CHÚA, Đức Chúa Trời lấy da thú làm áo mặc cho A-đam và vợ người. CHÚA, Đức Chúa Trời phán: “Này, loài người đã trở nên một bậc giống như chúng ta, biết phân biệt thiện ác, bây giờ coi chừng nó cũng đưa tay ra hái trái cây sự sống mà ăn và sống mãi mãi!” Vì thế, CHÚA, Đức Chúa Trời đuổi A-đam ra khỏi vườn Ê-đen để canh tác đất đai vì loài người từ đó mà ra. Ngài đuổi loài người ra và đặt các chê-ru-bim và một thanh gươm sáng lòa đưa qua đưa lại ở phía đông vườn Ê-đen để canh giữ con đường dẫn đến cây sự sống. A-đam ăn ở với Ê-va, vợ mình. Nàng thụ thai và sinh Ca-in. Nàng nói: “Nhờ CHÚA, tôi đã sinh được một người.” Nàng lại sinh A-bên, em Ca-in.A-bên chăn chiên còn Ca-in canh tác đất đai. Sau một thời gian, Ca-in đem hoa lợi đồng ruộng dâng lên cho CHÚA. A-bên cũng mang con vật đầu lòng luôn với mỡ dâng cho CHÚA. CHÚA chiếu cố đến A-bên và lễ vật của ông, nhưng Ngài không chiếu cố đến Ca-in và lễ vật của ông. Vì thế Ca-in rất giận và sầm mặt xuống. CHÚA hỏi Ca-in: “Tại sao con giận? Tại sao con sầm mặt xuống? Nếu con làm phải, lẽ nào không được chấp nhận? Còn nếu con làm không phải thì tội ác đang rình rập trước cửa, thèm con lắm, nhưng con phải quản trị nó.” Ca-in nói chuyện với A-bên, em mình, khi hai anh em đang ở ngoài đồng, Ca-in tấn công và giết A-bên em mình. CHÚA hỏi Ca-in: “A-bên, em ngươi ở đâu?” Ca-in thưa: “Con không biết! Con là người giữ em con sao?” Chúa tiếp: “Ngươi đã làm chi vậy? Tiếng của máu em ngươi từ dưới đất đang kêu van cùng Ta. Bây giờ, ngươi bị rủa sả từ đất, đất đai đã hả miệng uống máu em ngươi từ tay ngươi đổ ra! Khi ngươi canh tác đất đai, đất sẽ không sinh hoa lợi cho ngươi nữa. Ngươi sẽ lang thang phiêu bạt trên đất.” Ca-in thưa với Chúa: “Hình phạt con nặng quá, mang không nổi. Này, ngày nay Chúa đuổi con đi ra khỏi đất này, con sẽ trốn tránh mặt CHÚA. Con sẽ lang thang phiêu bạt trên đất, có ai gặp con, họ sẽ giết con đi.” CHÚA đáp: “Không đâu, nếu ai giết Ca-in sẽ bị báo thù gấp bảy lần.” CHÚA cũng đánh dấu trên người Ca-in để có ai gặp người, sẽ không giết. Ca-in đi khỏi mặt CHÚA và sống tại xứ Nốt ở phía đông Ê-đen. Ca-in ăn ở với vợ, nàng thụ thai, sinh Ê-nót. Ông xây một thành và đặt tên là Ê-nót, theo tên con trai mình. Ê-nót sinh I-rát, I-rát sinh Mê-hu-gia-ên; Mê-hu-gia-ên sinh Mê-lu-sa-ên; Mê-lu-sa-ên sinh Lê-méc. Lê-méc cưới hai vợ, vợ cả tên A-đa, vợ thứ tên Xin-la. A-đa sinh Gia-banh; Gia-banh là ông tổ của dân ở lều trại, nuôi gia súc. Em Gia-banh là Giu-banh, ông tổ của mọi người chơi đàn hạc và thổi sáo. Xin-la cũng sinh Tu-banh Ca-in, ông tổ của những người rèn mọi thứ dụng cụ bằng đồng, bằng sắt và em gái của Tu-banh Ca-in tên là Na-a-ma. Lê-méc bảo hai vợ là A-đa và Xin-la, hỡi các bà vợ của Lê-méc, hãy lắng nghe tiếng ta! Hãy nghe lời ta! Ta đã giết một người, vì làm ta bị thương và một thanh niên vì gây thương tích cho ta! Nếu Ca-in được báo thù bảy lần thì Lê-méc phải được báo thù gấp bảy mươi bảy lần. A-đam lại ăn ở với vợ, nàng sinh một trai, đặt tên là Sết vì nàng nói: “Đức Chúa Trời đã ban cho tôi một con trai khác thay cho A-bên đã bị Ca-in giết!” Sết cũng sinh con trai đặt tên là Ê-nót. Từ đó, người ta bắt đầu cầu khẩn danh CHÚA. Đây là sách ghi dòng dõi A-đam khi Đức Chúa Trời tạo nên loài người, Ngài làm nên loài người giống Đức Chúa Trời. Ngài sáng tạo nên người nam và người nữ, ban phước cho họ và gọi họ là “người” khi Ngài sáng tạo nên họ. A-đam được một trăm ba mươi tuổi sinh một con trai giống như hình dạng mình và đặt tên là Sết. Sau khi sinh Sết, A-đam còn sống được tám trăm năm, sinh con trai con gái. A-đam sống tất cả được chín trăm ba chục năm, rồi qua đời. Sết được một trăm lẻ năm tuổi sinh Ê-nót. Sau khi sinh Ê-nót, Sết còn sống được tám trăm lẻ bảy năm, sinh con trai con gái. Sết sống tất cả chín trăm mười hai năm, rồi qua đời. Ê-nót được chín mươi tuổi sinh Kê-nan. Sau khi sinh Kê-nan, Ê-nót còn sống được tám trăm mười lăm năm, sinh con trai con gái. Ê-nót sống tất cả được chín trăm lẻ năm năm, rồi qua đời. Kê-nan được bảy mươi tuổi sinh Ma-ha-la-ên. Sau khi sinh Ma-ha-la-ên, Kê-nan còn sống tất cả được chín trăm mười năm, rồi qua đời. Ma-ha-la-ên được sáu mươi lăm tuổi, sinh Giê-rệt. Sau khi sinh Giê-rệt, Ma-ha-la-ên còn sống được tám trăm ba mươi năm, sinh con trai con gái. Ma-ha-la-ên sống tất cả được tám trăm chín mươi lăm năm, rồi qua đời. Giê-rệt được một trăm sáu mươi hai tuổi sinh Ê-nót. Sau khi sinh Ê-nót, Giê-rệt còn sống được tám trăm năm, sinh con trai con gái. Vậy Giê-rệt sống tất cả được chín trăm sáu mươi hai tuổi rồi qua đời. Ê-nót được sáu mươi lăm tuổi sinh Mê-tu-sê-la. Sau khi sinh Mê-tu-sê-la, Ê-nót đồng đi với Đức Chúa Trời ba trăm năm, sinh con trai con gái. Ê-nót sống tất cả được ba trăm sáu mươi lăm tuổi. Ê-nót đồng đi với Đức Chúa Trời rồi biệt tăm vì Đức Chúa Trời đã đem ông đi. Mê-tu-sê-la được một trăm tám mươi bảy tuổi sinh Lê-méc. Sau khi sinh Lê-méc, Mê-tu-sê-la còn sống được bảy trăm tám mươi hai năm, sinh con trai con gái. Mê-tu-sê-la sống tất cả được chín trăm sáu mươi chín tuổi rồi qua đời. Lê-méc được một trăm tám mươi hai tuổi sinh một con trai, đặt tên là Nô-ê và nói: “Đứa con này sẽ an ủi ta về công việc ta và sự nhọc nhằn của bàn tay ta vì đất đã bị CHÚA rủa sả.” Sau khi sinh Nô-ê; Lê-méc còn sống được năm trăm chín mươi lăm năm, sinh con trai con gái. Vậy, Lê-méc sống tất cả được bảy trăm bảy mươi bảy tuổi rồi qua đời. Nô-ê được năm trăm tuổi sinh Sem, Cham và Gia-phết. Khi loài người bắt đầu gia tăng trên mặt đất và sinh con gái. Các con trai Đức Chúa Trời thấy các con gái loài người xinh đẹp bèn cưới làm vợ những người họ chọn. CHÚA phán: “Thần Ta sẽ chẳng ở mãi với loài người nữa vì chúng chỉ là xác thịt; đời người sẽ chỉ được một trăm hai mươi năm.” Trong thời gian đó và cả về sau có những người khổng lồ trên mặt đất khi con trai Đức Chúa Trời ăn ở với con gái loài người mà sinh con cái. Họ là các bậc anh hùng thời thái cổ, những người danh tiếng. CHÚA thấy tội ác của loài người trên đất thật lớn lao, mọi khuynh hướng, tư tưởng của lòng họ lúc nào cũng xấu xa. CHÚA hối tiếc vì đã dựng nên loài người trên đất, và đau buồn trong lòng. CHÚA phán: “Ta sẽ quét sạch khỏi mặt đất mọi loài Ta đã tạo nên, cả loài người lẫn thú vật, loài bò sát và chim trời, vì Ta hối tiếc đã dựng nên chúng.” Nhưng Nô-ê được ơn trước mặt CHÚA. Đây là dòng dõi Nô-ê.Nô-ê là một người công chính và không có gì đáng trách giữa những người đồng thời với ông. Nô-ê đồng đi với Đức Chúa Trời. Nô-ê sinh ba con trai là Sem, Cham và Gia-phết. Thế gian bại hoại dưới mắt Đức Chúa Trời và đất đầy dẫy hung bạo. Đức Chúa Trời nhìn xem thế gian, thấy nó bại hoại, vì mọi người trên mặt đất đều làm bại hoại đường lối mình. Đức Chúa Trời bảo Nô-ê: “Sự cuối cùng của mọi người đã đến, vì chúng làm cho quả đất đầy dẫy sự hung bạo. Này, Ta sẽ hủy diệt chúng luôn với cả trái đất nữa. Con hãy đóng một chiếc tàu bằng gỗ gô-phe, chia làm nhiều phòng, trát nhựa cả trong lẫn ngoài. Con hãy đóng tàu như thế này: bề dài 133.20m, bề rộng 22.20m, bề cao 13.32m. Con hãy lợp mái tàu cách thành tàu 0.50m, và một cửa bên hông tàu. Con sẽ làm tầng dưới, tầng giữa và tầng trên. Kìa, chính Ta sẽ đem nước lụt đến trên đất để tiêu diệt tất cả các loài sinh vật có hơi thở dưới bầu trời, mọi loài vật trên đất đều sẽ chết hết. Nhưng Ta sẽ lập giao ước Ta với con; con sẽ vào tàu cùng với các con trai, vợ và các nàng dâu của con. Con sẽ đem vào tàu mọi loài sinh vật, mỗi loài một cặp, có đực có cái, để giữ cho chúng sống. Chim tùy theo loại, súc vật tùy theo loại, loài bò sát trên đất tùy theo loại, mỗi loài hai con sẽ đến với con để bảo toàn mạng sống. Con hãy đem theo đủ mọi thứ lương thực để ăn và để tích trữ cho con và cho chúng nó.” Như vậy Nô-ê làm theo mọi điều Đức Chúa Trời đã truyền bảo. CHÚA bảo Nô-ê: “Con và cả gia đình con hãy vào tàu vì Ta thấy con công chính trước mặt Ta giữa thế hệ này. Trong các thú vật tinh sạch, hãy đem theo mỗi loại bảy con, đực và cái, còn các thú vật không tinh sạch mỗi loài một cặp, đực và cái. Con cũng hãy đem theo các chim trời, mỗi loài bảy con, trống và mái, để giữ cho sống trên khắp mặt đất. Vì bảy ngày nữa, Ta sẽ cho mưa xuống đất bốn mươi ngày và bốn mươi đêm, và Ta sẽ quét sạch khỏi mặt đất mọi loài sinh vật Ta đã dựng nên.” Nô-ê làm theo mọi điều CHÚA đã truyền bảo. Nô-ê được sáu trăm tuổi khi nước lụt đến trên đất. Nô-ê vào tàu cùng vợ, các con trai, và các dâu mình để tránh nước lụt. Các loài vật tinh sạch, loài vật không tinh sạch, loài chim, và mọi loài bò sát trên mặt đất từng cặp, đực và cái, trống và mái, đều đến với Nô-ê và vào tàu, đúng như Đức Chúa Trời đã truyền bảo Nô-ê. Đúng bảy ngày sau, nước lụt đến trên đất. Trong năm thứ sáu trăm đời Nô-ê, đúng ngày mười bảy tháng hai, vào ngày đó tất cả các nguồn nước của vực lớn đều dâng lên và các cửa sổ trên các tầng trời đều mở tung. Mưa đổ xuống đất suốt bốn mươi ngày bốn mươi đêm. Chính ngày đó, Nô-ê cùng vợ, các con trai Sem, Cham và Gia-phết và vợ của ba con trai ông đều vào tàu. Họ và mọi loài dã thú, mọi thứ súc vật tùy theo loại, mọi loài bò sát trên đất tùy theo loại, mọi thứ chim tùy theo loại và mọi loài có cánh. Chúng đến với Nô-ê và vào tàu từng cặp, mọi loài có sinh khí, đực và cái, đều vào tàu, theo như lời Đức Chúa Trời truyền bảo người. Rồi CHÚA đóng cửa tàu lại. Nước lụt đến trên mặt đất bốn mươi ngày, nước dâng cao, nâng chiếc tàu lên khỏi mặt đất. Nước dâng lên rất cao trên đất và chiếc tàu nổi trên mặt nước. Nước dâng cao lên, rất cao trên đất đến nỗi ngập hết tất cả các ngọn núi cao dưới bầu trời. Nước dâng lên cao phủ ngập các núi đến bảy mét. Tất cả các loài sinh vật trên mặt đất đều bị diệt, nào chim trời, dã thú, súc vật, loài bò sát trên đất và mọi người. Tất cả các loài có sinh khí trong mũi và sống trên đất đều bị chết. Mọi loài sinh vật trên mặt đất đều bị quét sạch khỏi mặt đất, từ loài người đến thú vật, từ loài bò sát đến loài chim trời. Chúng đều bị quét sạch khỏi mặt đất, chỉ có Nô-ê và những người, những sinh vật ở với ông trong tàu còn sống sót mà thôi. Nước lụt bao phủ mặt đất suốt một trăm năm mươi ngày. Đức Chúa Trời nhớ đến Nô-ê và các loài sinh vật, súc vật ở trong tàu với ông. Đức Chúa Trời cho một trận gió thổi ngang qua mặt đất, nước lụt bèn rút xuống. Các nguồn nước của vực sâu, các cửa sổ trên trời đóng lại, và mưa từ trời ngưng đổ trên đất. Nước rút xuống, cứ tiếp tục rút xuống, trong một trăm năm mươi ngày, nước mới hạ xuống. Ngày mười bảy tháng bảy, chiếc tàu tấp trên dãy núi A-ra-rát. Nước cứ rút cho đến tháng thứ mười; ngày mồng một tháng mười các đỉnh núi mới lộ ra. Sau bốn mươi ngày, Nô-ê mở cửa sổ mình đã làm trên tàu, ông thả một con quạ ra, nó bay đi lượn lại cho đến khi nước cạn khô trên mặt đất. Ông cũng thả một con bồ câu để xem nước rút khỏi mặt đất chưa. Nhưng bồ câu không tìm được chỗ nào đáp chân xuống, nên quay về với ông trên tàu, vì nước vẫn còn trên khắp mặt đất. Ông đưa tay đón bồ câu đem vào trong tàu với mình. Ông đợi thêm bảy ngày rồi lại thả bồ câu ra khỏi tàu. Đến chiều, bồ câu quay về, mỏ ngậm một chiếc lá ô-liu mới hái; Nô-ê biết rằng nước đã rút khỏi mặt đất. Đợi bảy ngày nữa, ông lại thả bồ câu ra, nhưng lần này bồ câu không quay về với ông nữa. Ngày mồng một tháng giêng năm thứ 601 đời Nô-ê, nước trên đất đã cạn khô, Nô-ê giở mui tàu nhìn xuống và thấy mặt đất đã khô nước. Ngày hai mươi bảy tháng hai, đất đã khô hoàn toàn. Đức Chúa Trời phán bảo Nô-ê: “Con hãy ra khỏi tàu cùng với vợ, các con trai và các dâu con. Hãy đem ra với con các sinh vật đã ở cùng con, các loài thú vật, chim chóc, súc vật và mọi loài bò sát trên đất để chúng sinh sôi nẩy nở và gia tăng trên đất.” Vậy Nô-ê ra khỏi tàu, với vợ, con và dâu mình, mọi loài dã thú, bò sát, chim chóc và mọi loài bò trên đất, đều ra khỏi tàu, loài nào đi theo loài nấy. Bấy giờ, Nô-ê xây một bàn thờ để thờ phượng CHÚA và bắt đủ các con thú tinh sạch và chim tinh sạch dâng tế lễ thiêu trên bàn thờ. CHÚA ngửi mùi thơm tế lễ thì tự nhủ trong lòng: “Ta sẽ chẳng bao giờ vì loài người mà rủa sả địa cầu nữa; cho dù xu hướng của loài người là xấu xa từ lúc còn nhỏ. Ta cũng sẽ chẳng hủy diệt các loài sinh vật như Ta đã làm; Một khi quả đất còn,Thì mùa gieo và mùa gặt,Thời tiết lạnh và nóng,Mùa hạ và mùa đông,Ngày và đêmSẽ chẳng bao giờ chấm dứt.” Đức Chúa Trời ban phước cho Nô-ê và các con trai ông. Ngài nói với họ rằng: “Hãy sinh sản và gia tăng làm đầy địa cầu. Tất cả các loài thú vật trên mặt đất, các loài chim trên trời, các loài sống động trên đất và các loài cá dưới biển đều sẽ kinh hãi, khiếp sợ các con; chúng đều được giao phó vào tay các con. Mọi loài vật bò trên đất sẽ dùng làm thực phẩm cho các con cũng như cây, rau xanh mà Ta đã ban cho các con. Nhưng thịt còn mạng sống, còn máu thì các con đừng ăn. Chắc chắn Ta sẽ đòi lại máu của sinh mạng các con, Ta sẽ đòi lại nơi mọi loài thú, nơi tay loài người và Ta sẽ đòi lại nơi tay mỗi người mạng sống của đồng loại nó. Kẻ nào làm đổ máu ngườiSẽ bị người khác làm đổ máu lại,Vì Đức Chúa Trời đã dựng nên loài ngườiTheo hình ảnh Ngài. Vậy các con hãy sinh sản và gia tăng nhiều gấp bội trên đất!” Đức Chúa Trời nói với Nô-ê và các con trai đang ở với ông: “Bây giờ, Ta lập giao ước với các con và dòng dõi mai sau của các con, và với mọi loài sinh vật ở với các con, với loài chim, loài súc vật, loài dã thú trên đất, với tất cả các loài vật đã ra khỏi tàu, tức là mọi loài vật trên đất. Ta lập giao ước Ta với các con, mọi loài sinh vật sẽ không bị nước lụt trừ diệt nữa, sẽ chẳng bao giờ có nước lụt tiêu hủy mặt đất nữa.” Đức Chúa Trời phán: “Đây là dấu hiệu về giao ước Ta lập giữa Ta với các con và mọi sinh vật ở với các con, cho đến các thế hệ mãi về sau. Ta đặt cầu vồng của Ta trên mây, nó sẽ là dấu hiệu về giao ước giữa Ta và địa cầu. Khi nào Ta gom góp mây trên đất, và cầu vồng hiện ra trong mây thì Ta sẽ nhớ lại giao ước Ta đã lập cùng các con và cùng mọi loài sinh vật, và nước sẽ chẳng trở thành hồng thủy tiêu diệt mọi sự sống nữa. Khi cầu vồng mọc trên mây, Ta sẽ thấy nó mà nhớ lại giao ước đời đời giữa Ta và mọi sinh vật sống trên mặt đất.” Vậy Đức Chúa Trời nói với Nô-ê: “Đây là dấu hiệu về giao ước mà Ta đã lập giữa Ta và mọi loài sinh vật trên đất.” Các con trai của Nô-ê đã ra khỏi tàu là: Sem, Cham và Gia-phết. Cham là cha của Ca-na-an. Đó là ba con trai của Nô-ê, do họ mà có loài người tràn ra khắp mặt đất. Nô-ê là nhà nông, nên bắt đầu trồng một vườn nho. Ông uống rượu say và nằm trần truồng trong trại mình. Cham, cha của Ca-na-an, thấy cha mình trần truồng thì kể lại cho anh và em mình ở bên ngoài. Sem và Gia-phết lấy áo vắt lên vai mình rồi đi thụt lùi đến che đắp sự trần truồng của cha mình; mặt họ nhìn về phía trước nên chẳng nhìn thấy sự trần truồng của cha mình. Khi Nô-ê tỉnh rượu, hay biết được điều đứa con thứ đã làm cho mình, thì nói rằng:“Nguyện Ca-na-an bị rủa sả!Nó sẽ làm nô lệ thấp hènCho các anh em nó.” Ông tiếp:“Chúc tụng CHÚA, Đức Chúa Trời của Sem!Nguyện Ca-na-an phải làm nô lệ cho Sem! Nguyện xin Đức Chúa Trời cho Gia-phết phát triển,Nó sẽ sống trong trại của Sem,Và Ca-na-an sẽ làm nô lệ cho nó.” Sau trận lụt, Nô-ê còn sống được ba trăm năm mươi năm nữa, hưởng thọ được chín trăm năm mươi tuổi rồi qua đời. Đây là dòng dõi các con trai của Nô-ê là Sem, Cham và Gia-phết; sau trận lụt, họ sinh con cái. Con trai của Gia-phết làGô-me, Ma-gót, Ma-đai, Gia-van, Tu-banh, Mê-siếc và Ti-ra. Con trai của Gô-me làÁch-kê-na, Ri-phát và Tô-ga-ma. Con trai của Gia-van làÊ-li-sa, Ta-rê-si, Kít-tim và Đô-da-nim. Do họ mà có người khắp các bờ biển của các dân, chia ra tùy theo ngôn ngữ và họ hàng trong các nước của họ. Con trai của Cham làCúc, Mích-ra-im, Phút và Ca-na-an. Con trai của Cúc làSê-ba, Ha-vi-la, Sáp-ta, Ra-ê-ma và Sáp-tê-ca.Con trai của Ra-ê-ma làSê-ba và Đê-đan. Cúc sinh Nim-rốt, là người đầu tiên trở thành một người dũng mãnh trên đất. Nim-rốt là một thợ săn dũng mãnh trước mặt CHÚA, vì thế có câu tục ngữ: “Giống như Nim-rốt, thợ săn dũng mãnh trước mặt CHÚA.” Trước tiên, người lập vương quốc tại Ba-bên, Ê-rết, A-cát và Ca-nê trong xứ Si-nê-a. Từ xứ đó, người tiến qua A-si-ri rồi xây thành Ni-ni-ve, Rê-hô-bốt, Ca-lách và Rô-sen, một thành lớn ở khoảng giữa Ni-ni-ve và Ca-lách. Míc-ra-in sinhLu-đim, A-na-mim, Lê-ha-bim, Náp-tu-him, Pha-ru-sim, Cách-lu-him (tổ tiên dân Phi-li-tin và dân Cáp-tô-rim). Ca-na-an sinhSi-đôn, con đầu lòng và Hếch, cùng Giê-bu-sít, A-mô-rít, Ghi-rê-ga-sít, Hê-vít, A-rê-kít, Si-nít, A-va-đi, Sê-ma-ri, Ha-ma-tít.Sau đó, các gia tộc Ca-na-an tản ra. Lãnh thổ của người Ca-na-an về hướng Ghê-na, chạy từ Si-đôn đến Ga-xa, về hướng Sô-đôm, Gô-mô-rơ, Át-ma và Sê-bô-im cho đến Lê-sa. Đó là con cháu của Cham, chia theo gia tộc, ngôn ngữ trong các lãnh thổ và quốc gia. Sem là anh cả của Gia-phết và là tổ phụ của dòng dõi Hê-be. Con trai của Sem làÊ-lam, A-sua, A-bác-sát, Lút và A-ram. Con trai của A-ram làU-xơ, U-lơ, Ghê-te và Mách. A-bác-sát sinhSê-lách; Sê-lách sinh Hê-be, Hê-be sinh hai con trai,một người tên Be-léc, vì trong đời người này, người ta chia mặt đất ra làm nhiều xứ; người em tên Giốc-tan. Giốc-tan sinhA-mô-đát, Sê-lép, Ha-sa-ma-vết, Giê-ra, Ha-đô-ram, U-danh, Đích-la, Ô-banh, A-bi-ma-ên, Sê-ba, Ô-phia, Ha-vi-la và Giô-báp. Tất cả các người đó là con trai của Giốc-tan. Lãnh thổ của họ chạy từ Mê-sa cho đến Sê-pha, vùng đồi núi ở phương đông. Đó là con cháu của Sem, sắp theo gia tộc, ngôn ngữ, lãnh thổ và dân tộc. Trên đây là dòng dõi của ba con trai Nô-ê sắp theo từng thế hệ và dân tộc; do họ mà các dân tộc chia ra trên mặt đất sau trận nước lụt. Bấy giờ cả thế giới chỉ có một ngôn ngữ, và cùng một thứ tiếng. Khi đi về phương đông, người ta gặp một thung lũng bằng phẳng trong xứ Si-na nên định cư ở đấy. Họ rủ người lân cận: “Nào, ta hãy làm gạch và lấy lửa nung cho chín!” Lúc đó, người ta dùng gạch thay cho đá và nhựa chai thay vôi hồ. Họ lại nói: “Nào, chúng ta hãy xây một thành và một ngôi tháp ngọn cao tận trời Chúng ta hãy lưu danh mình kẻo bị tản lạc khắp mặt đất!” CHÚA ngự xuống quan sát thành và ngôi tháp các con cái loài người đang xây cất. CHÚA phán: “Kìa, toàn thể loài người chỉ có một dân tộc, một ngôn ngữ. Kìa chúng đang khởi công làm việc này, nay không còn gì ngăn cản chúng làm mọi điều chúng hoạch định nữa. Nào, Chúng Ta hãy xuống xáo trộn ngôn ngữ của chúng, làm chúng không thể nào hiểu tiếng nói của nhau được.” CHÚA phân tán loài người từ nơi đó ra khắp mặt đất, và họ ngưng xây cất thành này. Vì thế, thành ấy mang tên là Ba-bên, vì tại đấy CHÚA làm xáo trộn ngôn ngữ cả thế giới và Ngài phân tán họ ra khắp mặt đất. Đây là dòng dõi của Sem:Hai năm sau cơn lụt, Sem được một trăm tuổi và sinh A-bác-sát. Sau khi sinh A-bác-sát, Sem còn sống được năm trăm năm, sinh con trai con gái. A-bác-sát được ba mươi lăm tuổi sinh Sa-lách. Sau khi sinh ra Sa-lách, A-bác-sát còn sống được bốn trăm lẻ ba năm, sinh con trai con gái. Sa-lách được ba mươi tuổi sinh Hê-be. Sau khi sinh Hê-be, Sa-lách còn sống được bốn trăm lẻ ba năm, sinh con trai con gái. Hê-be được ba mươi bốn tuổi sinh Bê-léc. Sau khi sinh Bê-léc, Hê-be còn sống được bốn trăm ba mươi năm, sinh con trai con gái. Bê-léc được ba mươi tuổi sinh Rê-hu. Sau khi sinh Rê-hu, Bê-léc còn sống được hai trăm lẻ chín năm, sinh con trai con gái. Rê-hu được ba mươi hai tuổi sinh Sê-rúc. Sau khi sinh Sê-rúc, Rê-hu còn sống được hai trăm lẻ bảy năm, sinh con trai con gái. Sê-rúc được ba mươi tuổi sinh Na-cô. Sau khi sinh Na-cô, Sê-rúc còn sống được hai trăm năm, sinh con trai con gái. Na-cô được hai mươi chín tuổi sinh Tha-rê. Sau khi sinh Tha-rê, Na-cô còn sống được một trăm mười chín năm, sinh con trai con gái. Tha-rê được bảy mươi tuổi sinh Áp-ram, Na-cô và Ha-ran. Đây là dòng dõi của Tha-rê:Tha-rê sinh Áp-ram, Na-cô và Ha-ran, Ha-ran sinh Lót. Ha-ran qua đời tại quê hương mình ở thành U-rơ của người Canh-đê khi cha mình là Tha-rê còn sống. Áp-ram và Na-cô cưới vợ; vợ Áp-ram tên là Sa-rai; còn vợ Na-cô tên là Minh-ca, con gái của Ha-ran. Ha-ran là cha của Minh-ca và Dịch-ca. Sa-rai son sẻ, không có con. Tha-rê đem Áp-ram, con trai mình, Lót, con Ha-ran, cháu mình và Sa-rai, dâu mình, vợ của Áp-ram đồng ra khỏi U-rơ của người Canh-đê để qua xứ Ca-na-an. Nhưng khi đến Cha-ran, họ ở lại tại đó. Tha-rê hưởng thọ được hai trăm lẻ năm tuổi rồi qua đời tại Cha-ran. CHÚA bảo Áp-ram: “Con hãy rời bỏ quê hương, dân con và nhà cha con để đi đến xứ Ta sẽ chỉ cho. Ta sẽ làm cho con thành một nước lớn.Ta sẽ ban phước lành cho conVà làm nổi danh conVà con sẽ thành một nguồn phước. Ta sẽ ban phước lành cho ai chúc phước conVà rủa sả kẻ nào nguyền rủa con;Tất cả các dân tộc trên thế giớiSẽ nhờ con mà được phước.” Áp-ram ra đi đúng theo lời CHÚA truyền bảo. Lót cùng đi với ông. Áp-ram được bảy mươi lăm tuổi khi ông rời bỏ Cha-ran. Áp-ram đem Sa-rai vợ mình, Lót, cháu mình, tất cả tài sản ông tạo được và các tôi tớ ông đã có được ở Cha-ran ra đi, và đến xứ Ca-na-an. Áp-ram đi qua trong xứ đến tận thành Si-chem, tại cây sồi của Mô-rê. Dân Ca-na-an đang ở tại đó. CHÚA hiện ra, nói với Áp-ram: “Ta sẽ ban cho dòng giống con đất nước này!” Tại đây Áp-ram lập một bàn thờ CHÚA, Đấng đã hiện ra với ông. Từ đó, Áp-ram đến vùng đồi núi ở phía đông Bê-tên và hạ trại ở đó. Ông lập một bàn thờ tại đó, Bê-tên ở phía tây và A-hi ở phía đông và ông cầu khẩn danh CHÚA. Áp-ram tiếp tục di chuyển, tiến xuống phía nam. Xứ này bị nạn đói, Áp-ram xuống Ai-cập kiều ngụ vì nạn đói rất trầm trọng. Khi sắp vào Ai-cập, Áp-ram nói với Sa-rai, vợ mình: “Anh biết em là người đàn bà đẹp. Khi người Ai-cập thấy em, họ sẽ nói đấy là vợ nó; rồi họ sẽ giết anh và để em sống. Xin em hãy nói em là em gái anh để vì cớ em mà họ đối xử tốt với anh và để anh khỏi mất mạng vì em.” Áp-ram vào Ai-cập, dân Ai-cập thấy người đàn bà này rất đẹp. Các quan lớn trong triều đình của Pha-ra-ôn cũng thấy Sa-rai và ca tụng trước Pha-ra-ôn, nên nàng bị đem vào cung Pha-ra-ôn. Vì Sa-rai, vua biệt đãi Áp-ram, ban thưởng nhiều chiên, bò, lừa lạc đà và cả nô lệ nam nữ nữa. Nhưng vì cớ Sa-rai, vợ Áp-ram, CHÚA trừng phạt Pha-ra-ôn và hoàng tộc Ai-cập làm cho họ bị bịnh dịch trầm trọng. Pha-ra-ôn cho gọi Áp-ram vào và nói: “Nhà ngươi làm gì cho ta vậy? Sao không nói cho ta biết rằng Sa-rai là vợ ngươi? Sao lại bảo nàng là em gái ngươi để ta đã lấy nàng làm vợ? Vậy bây giờ vợ ngươi đây, hãy dẫn nàng đi đi!” Vua sai quần thần đưa Áp-ram, vợ người và tất cả tài sản đi. Vậy, Áp-ram từ Ai-cập đi lên cùng với vợ, Lót và tất cả tài sản mình, đến Nê-ghép. Áp-ram trở nên rất giầu có về gia súc, bạc và vàng. Từ xứ Nê-ghép, ông tiếp tục cuộc hành trình đến Bê-tên, địa điểm ông hạ trại lần trước, giữa hai thành Bê-tên và A-hi, là nơi ông đã lập bàn thờ đầu tiên. Tại đây, Áp-ram cầu khẩn danh CHÚA. Lót cùng di chuyển với Áp-ram, ông cũng có các bầy chiên, bầy bò và lều trại. Đất đai không đủ chỗ cho họ sống chung vì tài sản họ quá nhiều nên không còn sống chung được nữa. Có sự tranh chấp nổi lên giữa người chăn súc vật của Áp-ram và của Lót. Lúc đó dân Ca-na-an và dân Phê-rê-sết sống ở trong xứ. Áp-ram nói với Lót: “Không nên có tranh chấp giữa bác và cháu, giữa những người chăn súc vật của bác và của cháu, vì chúng ta là bà con với nhau. Cả xứ ở trước mặt cháu đó; chúng ta hãy chia tay nhau. Nếu cháu chọn bên trái bác sẽ qua bên phải, nếu cháu chọn bên phải, bác sẽ qua bên trái.” Lót ngước mắt lên và nhìn thấy toàn thể đồng bằng của sông Giô-đanh, trước khi CHÚA hủy diệt thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ, có nước xanh tươi như vườn của Đức Chúa Trời, như đất Ai-cập, đến tận thành Xoa, nên Lót chọn cho mình toàn thể đồng bằng sông Giô-đanh và dời về hướng đông. Hai bác cháu chia tay nhau. Áp-ram định cư trong đất Ca-na-an, và Lót định cư trong các thành của đồng bằng, ông đóng trại gần Sô-đôm. Dân thành Sô-đôm lúc bấy giờ rất gian ác, tội lỗi nghịch lại CHÚA. Sau khi Lót bỏ đi, CHÚA nói với Áp-ram: “Từ chỗ con đang ở, con hãy ngước mắt lên nhìn bốn hướng đông, tây, nam, bắc. Tất cả đất đai con nhìn thấy Ta sẽ ban cho con và dòng dõi con đời đời. Ta sẽ làm cho dòng dõi con đông đảo như bụi trên mặt đất, ai đếm được bụi trên đất thì có thể đếm được dòng dõi của con. Con hãy đứng lên, đi dọc ngang khắp xứ vì Ta ban nó cho con.” Áp-ram dời trại đi đến sống gần những cây sồi ở Mam-rê tại Hếp-rôn và lập một bàn thờ CHÚA. Lúc bấy giờ, Am-ra-phin vua Si-nê-a, A-ri-óc vua Ê-la-sa, Kế-rô-lao-me vua Ê-lam và Ti-đanh vua Gô-im gây chiến với Bê-ra vua Sô-đôm, Bi-rê-sa vua Gô-mô-rơ, Si-nê-áp vua Át-ma, Sê-mê-bê vua Yê-bô-in và vua của Bê-la tức là Xoa. Tất cả các vua này tập trung lực lượng tại thung lũng Si-đim, tức biển Muối. Các vua này trước kia đã thần phục vua Kết-rô-lao-me suốt mười hai năm, nhưng đến năm thứ mười ba, họ nổi loạn. Năm thứ mười bốn, vua Kết-rô-lao-me và các vua đồng minh kéo quân đánh bại quân Rê-pha-im ở Ách-ta-rốt Ca-ma-in, quân Su-sim ở Ham, quân Ê-min ở cánh đồng Ki-ria-tim, và quân Hô-rít trên vùng đồi núi Sê-i-rơ, đến tận Ên-pha-ran, giáp sa mạc. Quân đồng minh quay về suối Xử-đoán, (cũng gọi là Ca-đê), đánh bại luôn quân A-ma-léc và quân A-mô-rít đang đóng quanh vùng Ha-xa-san Ta-ma. Các vua Sô-đôm, Gô-mô-rơ, Át-ma, Xê-bô-im, và Bê-la tức là Xoa hợp lực xuất trận dàn binh trong thung lũng Si-đim chống lại Kết-rô-lao-me vua Ê-lam, Ti-đanh vua Gô-im, Am-ra-phin vua Si-nê-a và A-ri-óc vua Ê-la-sa. Bốn vua đánh với năm vua. Thung lũng Si-đim có những nhựa chai. Khi thua chạy vua Sô-đôm và vua Gô-mô-rơ ngã vào hố, còn tàn quân trốn lên núi. Quân chiến thắng cướp đoạt tất cả tài sản và thực phẩm của hai thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ rồi bỏ đi. Họ cũng bắt Lót, cháu Áp-ram đang định cư tại Sô-đôm đem đi với của cải của người. Một người trốn thoát, đến báo cáo cho Áp-ram, người Hy-bá, đang kiều ngụ gần các cây sồi của Mam-rê. Mam-rê là người A-mô-rít, anh của Ếc-côn và A-ne, ba anh em đều đã kết ước với Áp-ram. Nghe tin cháu bị bắt, Áp-ram liền triệu tập đoàn gia nhân đã được huấn luyện thuần thục, gồm ba trăm mười tám người, đuổi theo quân đồng minh đến tận Đan. Áp-ram chia gia nhân mình ra tấn công vào ban đêm, đánh bại địch quân và truy nã chúng tận Hô-ba, phía bắc Đa-mách. Áp-ram đoạt lại tất cả tài sản và đem Lót, cháu mình trở về với tài sản của ông, cùng với phụ nữ và dân chúng. Sau khi chiến thắng Kết-rô-lao-me và các vua đồng minh, Áp-ram quay về. Vua Sô-đôm ra đón người tại thung lũng Sa-vê, tức là thung lũng các vua. Mên-chi-xê-đéc, vua Sa-lem và là thầy tế lễ của Đức Chúa Trời Chí Cao, đem bánh và rượu ra đón. Mên-chi-xê-đéc chúc phước cho Áp-ram rằng:“Cầu Đức Chúa Trời Chí Cao ban phước lành cho Áp-ram,Ngài là Đấng sáng tạo trời đất. Đức Chúa Trời Chí Cao đáng được ca ngợi.Vì Ngài đã giao nạp quân thù vào tay ngươi!”Áp-ram dâng cho người một phần mười tất cả chiến lợi phẩm. Vua Sô-đôm yêu cầu Áp-ram: “Ông chỉ cần giao trả người lại cho chúng tôi, còn tài vật xin ông cứ giữ lại!” Nhưng Áp-ram đáp: “Tôi đã đưa tay lên thề trước với CHÚA là Đức Chúa Trời Chí Cao, Đấng đã sáng tạo trời đất, rằng tôi không lấy vật gì của Vua cả, dù một sợi chỉ hay dây giầy cũng không, để vua sẽ chẳng bao giờ nói được là: ‘Ta đã làm cho Áp-ram giàu.’ Tôi không lấy gì cả, ngoại trừ số thực phẩm mà đám gia nhân đã ăn và phần chiến lợi phẩm chia cho các chiến sĩ đã đi với tôi. Hãy để cho A-ne, Ết-côn và Mam-rê chia phần của họ đi!” Sau các việc đó, CHÚA phán bảo Áp-ram trong khải tượng:“Áp-ram, con đừng sợ,Ta sẽ là cái khiên bảo vệ con,Phần thưởng cho con rất lớn.” Nhưng Áp-ram nói: “Lạy Chúa, CHÚA sẽ cho con điều gì? Con vẫn không có con và Ê-li-ê-se, người Đa-mách sẽ thừa hưởng sản nghiệp của con.” Áp-ram tiếp: “Chúa chẳng cho con con cái, nên một đầy tớ trong nhà con sẽ kế nghiệp con!” CHÚA đáp: “Người ấy sẽ không kế nghiệp con, một con trai ra từ con sẽ kế nghiệp con!” Chúa đem Áp-ram ra sân và bảo: “Con hãy nhìn lên bầu trời và thử đếm sao đi, nếu con đếm được!” Rồi Ngài nói với ông: “Dòng dõi con sẽ đông như thế.” Áp-ram tin CHÚA, nên Ngài kể cho người là công chính. Ngài cũng nói: “Ta là CHÚA đã đem con ra khỏi U-rơ, xứ Canh-đê, để ban cho con đất này làm sản nghiệp.” Áp-ram nói: “Thưa CHÚA, làm sao con biết chắc rằng con sẽ được xứ này làm sản nghiệp?” Ngài nói: “Con hãy đem đến đây một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con chiên đực ba tuổi, một con chim cu và một con bồ câu non.” Áp-ram đem dâng tất cả các con vật này lên cho Chúa, xẻ các thú vật làm đôi, sắp lại phần đối nhau, nhưng không xẻ đôi các con chim. Các loài chim săn mồi sà xuống các sinh tế nhưng Áp-ram đuổi chúng đi. Mặt trời vừa lặn, Áp-ram ngã ra ngủ thật say. Bóng tối dày đặc khủng khiếp phủ xuống bao bọc ông. Chúa bảo Áp-ram: “Con phải biết chắc rằng dòng dõi con sẽ kiều ngụ nơi đất khách quê người, phải phục dịch dân bản xứ và bị áp bức suốt bốn trăm năm. Nhưng Ta sẽ trừng phạt quốc gia mà dòng dõi con phục dịch. Sau đó, dòng dõi con sẽ thoát ra và đem theo rất nhiều của cải. Còn con sẽ sống rất thọ, được về với tổ phụ con cách bình an và được chôn cất. Đến đời thứ tư, dòng dõi con sẽ quay lại đất nước này vì hiện nay tội ác dân A-mô-rít chưa đầy dẫy.” Khi mặt trời đã lặn hẳn và bóng tối phủ xuống, bỗng có một lò lửa bốc khói và một ngọn lửa cháy phừng đi qua giữa các sinh tế bị phân đôi. Ngày hôm ấy, CHÚA kết ước với Áp-ram rằng: “Ta đã ban cho dòng dõi con đất nước này, từ sông Ai-cập đến sông cái Ơ-phơ-rát, đất của các dân Kê-nít, Kê-ni-xít, Cát-mô-nít, Hi-tít, Phê-rê-sít, Rê-pha-im, A-mô-rít, Ca-na-an, Ghê-rê-ga-sít và Giê-bu-sít.” Lúc ấy, Sa-rai, vợ Áp-ram không sinh con được. Bà có một đầy tớ gái người Ai-cập tên là A-ga. Sa-rai nói với Áp-ram: “Vì CHÚA không cho tôi sinh sản, ông hãy ăn ở với con đầy tớ gái của tôi đi; có lẽ nhờ nó tôi có thể có được gia đình.”Áp-ram nghe theo lời Sa-rai. Thế là sau mười năm kiều ngụ tại xứ Ca-na-an, Sa-rai đưa A-ga, người đầy tớ gái Ai-cập của mình, cho Áp-ram làm vợ. Áp-ram ăn ở với A-ga và nàng thụ thai.Biết mình đã có thai, A-ga khinh bỉ bà chủ mình. Sa-rai nói với Áp-ram: “Lỗi này ông phải chịu! Tôi trao con đầy tớ gái tôi vào vòng tay ông, và bây giờ khi thấy mình có thai, mắt nó khinh bỉ tôi; nguyện CHÚA phân xử giữa ông và tôi.” Nhưng Áp-ram đáp: “Đầy tớ gái của bà ở trong tay bà, bà muốn làm gì thì làm!” Sa-rai hành hạ A-ga, nàng bỏ chủ trốn đi. Thiên sứ của CHÚA gặp A-ga bên suối giữa sa mạc, trên đường đi Shu-rơ, và hỏi: “Này A-ga, đầy tớ của Sa-rai, chị từ đâu đến đây, và chị định đi đâu?”Nàng đáp: “Tôi đi trốn Sa-rai, bà chủ tôi!” Thiên sứ của CHÚA bảo: “Chị hãy về với bà chủ và chịu phục dưới tay bà đi.” Thiên sứ của CHÚA lại nói: “Ta sẽ làm cho dòng dõi chị gia tăng đông đảo đến nỗi không ai đếm được. Chị đang có thaiVà sẽ sinh con trai,Chị hãy đặt tên cho nó là Ích-ma-ênVì CHÚA đã đoái thương cảnh khốn khổ của chị. Con trai chị sẽ như một con lừa rừng,Cánh tay nó sẽ chống mọi ngườiVà mọi người chống lại nó,Và nó sẽ sống đối nghịchVới tất cả anh em nó.” A-ga gọi CHÚA, Đấng phán dạy nàng là “Đức Chúa Trời thấy rõ,” vì nàng nói: “Bây giờ, tôi đã thấy Chúa là Đấng đoái xem tôi!” Vì thế, nàng đặt tên suối nước là “Bê-la-cha-roi.” Dòng suối ấy chảy giữa Ca-đê và Bê-rết. Nàng sinh cho Áp-ram một con trai, ông đặt tên con là Ích-ma-ên. Áp-ram đã được tám mươi sáu tuổi khi A-ga sinh Ích-ma-ên cho ông. Khi Áp-ram được chín mươi chín tuổi, CHÚA xuất hiện và phán: “Ta là Đức Chúa Trời Toàn Năng, con hãy sống một cách thánh thiện trước mặt Ta. Ta sẽ củng cố giao ước giữa Ta với con và sẽ làm cho dòng dõi con gia tăng bội phần.” Áp-ram sấp mặt xuống đất, Đức Chúa Trời nói với ông: “Về phần Ta, đây là giao ước của Ta với con: con sẽ là tổ phụ của nhiều dân tộc. Người ta không gọi con là Áp-ram ‘cha tôn quý’ nữa, nhưng gọi là Áp-ra-ham ‘cha của các dân tộc’ vì Ta cho con làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ta làm cho con sinh sôi nẩy nở thành nhiều dân tộc, hậu tự con gồm nhiều vua chúa. Ta lập giao ước này với con và hậu tự con đời này sang đời khác. Giao ước này còn mãi đời đời: Ta làm Đức Chúa Trời của con và của hậu tự con. Ta sẽ cho con và hậu tự con toàn thể đất Ca-na-an mà con đang kiều ngụ làm sản nghiệp vĩnh viễn, Ta sẽ làm Đức Chúa Trời của họ.” Rồi Đức Chúa Trời nói với Áp-ra-ham: “Con và hậu tự con phải giữ giao ước của Ta đời đời. Giao ước của Ta với con và dòng dõi con là tất cả người nam trong vòng các con phải chịu lễ cắt bì: Da quy đầu của các con phải bị cắt đi, đó là dấu chứng giao ước giữa Ta và con. Mọi người nam phải chịu cắt bì sau khi sanh được tám ngày, những người sinh trong nhà con lẫn những người con lấy tiền mua từ người ngoại quốc không phải hậu tự con. Người sinh trong nhà con hoặc người con mua đều phải chịu cắt bì. Giao ước Ta được ghi vào thân thể các con sẽ là một giao ước vĩnh viễn. Kẻ nào không chịu cắt bì sẽ bị khai trừ ra khỏi dân tộc vì nó đã vi phạm giao ước Ta.” Đức Chúa Trời cũng nói với Áp-ra-ham: “Sa-rai vợ con, con không còn gọi là Sa-rai nữa, vì tên của nàng sẽ là Sa-ra. Ta sẽ ban phước lành cho nàng và qua nàng Ta sẽ ban cho con một con trai. Phải, Ta sẽ ban phước lành dồi dào cho Sa-ra và nàng sẽ là tổ mẫu nhiều dân tộc, vua chúa của nhiều nước sẽ ra từ nàng.” Áp-ra-ham cúi mặt sát đất và cười thầm trong lòng: “Trăm tuổi như con mà sinh con được sao? Sa-ra đã chín mươi tuổi còn sinh nở sao?” Rồi Áp-ra-ham nói với Đức Chúa Trời: “Ước gì Chúa cho Ích-ma-ên được sống.” Đức Chúa Trời đáp: “Nhưng Ta bảo: Sa-ra vợ con sẽ sinh cho con một con trai. Con sẽ đặt tên nó là Y-sác. Ta sẽ lập giao ước với nó và hậu tự nó đời đời. Còn Ích-ma-ên, Ta nghe lời con, Ta sẽ ban phước lành cho nó và cho nó sinh sôi nẩy nở, gia tăng rất nhiều. Nó sẽ làm tổ phụ mười hai vua chúa và Ta sẽ làm cho nó thành một nước lớn. Nhưng Ta sẽ lập giao ước với Y-sác mà Sa-ra sẽ sinh ra cho con vào độ này năm sau.” Khi chấm dứt câu chuyện với Áp-ra-ham Đức Chúa Trời lìa ông về trời. Ngày hôm ấy, Áp-ra-ham làm lễ cắt bì cho Ích-ma-ên, con trai mình, và tất cả những người nam sinh trong nhà hay nô lệ ông đã mua về, đúng theo lời Đức Chúa Trời phán dạy. Áp-ra-ham đã được chín mươi chín tuổi khi chịu cắt bì, còn Ích-ma-ên lên mười ba khi chịu cắt bì. Áp-ra-ham và con là Ích-ma-ên chịu cắt bì cùng trong một ngày, luôn với tất cả những người nam sinh trong nhà và những người ông mua về. CHÚA xuất hiện gặp Áp-ra-ham cạnh các cây sồi ở Mam-rê khi ông đang ngồi tại cửa trại vào một ngày trời nắng nóng. Vừa ngước mắt nhìn lên, ông thấy ba người đến gần mình, ông liền rời cửa trại chạy ra nghênh đón và cúi đầu. Áp-ra-ham thưa: “Thưa Chúa, nếu tôi được ơn dưới mắt Chúa, xin đừng bỏ qua đầy tớ Chúa. Xin cho tôi đem một ít nước các vị rửa chân và kính mời các vị nghỉ mát dưới bóng cây. Cho tôi lấy bánh để các vị ăn lót lòng rồi sẽ lên đường, vì các vị đã hạ cố đến thăm nhà đầy tớ Chúa.” Ba người ấy đáp:“Tốt lắm, ông cứ làm theo như ông nói.” Áp-ra-ham vội vã vào trại bảo Sa-ra: “Mau lên, lấy ba đấu bột lọc nhồi cho nhuyễn rồi làm bánh đi.” Áp-ra-ham chạy thẳng đến bầy gia súc, chọn một con bê béo, giao cho đầy tớ nấu dọn gấp. Áp-ra-ham đem sữa và bơ cùng thịt con bê đã nấu xong, dọn ra trước mặt ba người ấy rồi đứng gần bàn dưới tàng cây. Trong khi đang ăn, họ hỏi Áp-ra-ham: “Sa-ra vợ ngươi ở đâu?” Áp-ra-ham thưa: “Nàng ở trong trại.” Một vị bảo: “Độ một năm nữa, Ta sẽ trở lại đây thăm con. Khi đó, Sa-ra, vợ con sẽ có một con trai.”Sa-ra đứng nghe tại cửa trại sau lưng vị ấy. Áp-ra-ham đã già và Sa-ra đều tuổi đã cao. Sa-ra đã quá tuổi sinh sản. Sa-ra cười thầm tự bảo: “Già như tôi mà còn được niềm vui làm mẹ nữa sao! Chúa tôi cũng đã quá già rồi!” CHÚA hỏi Áp-ra-ham: “Tại sao Sa-ra cười và nói: ‘Già cả như tôi thể này mà thật còn sinh sản được sao?’ Có điều gì quá khó cho CHÚA không? Đúng kỳ ấn định, trong một năm nữa, Ta sẽ trở lại thăm con, lúc ấy Sa-ra sẽ có một con trai.” Sa-ra sợ hãi, chối rằng: “Con có cười đâu!”Chúa đáp: “Thật con đã có cười!” Các vị đứng dậy lên đường hướng về Sô-đôm. Áp-ra-ham theo tiễn chân họ đi. CHÚA nói: “Ta có nên giấu Áp-ra-ham điều Ta sẽ làm không? Áp-ra-ham sẽ thành một dân tộc lớn, hùng cường và mọi dân tộc trên thế giới sẽ nhờ người mà được phước. Vì Ta đã chọn Áp-ra-ham để người hướng dẫn con cháu và gia nhân theo người vâng giữ đường lối của CHÚA, làm điều phải và công chính, để CHÚA có thể thực hiện các lời Ngài đã hứa với Áp-ra-ham.” Bấy giờ CHÚA bảo Áp-ra-ham: “Tiếng than oán về Sô-đôm và Gô-mô-rơ quá lớn, tội ác chúng nó thật trầm trọng. Ta sẽ xuống đó xem có đúng như tiếng than vãn đã thấu đến Ta không. Nếu không thì Ta sẽ biết.” Các người ấy quay đi về hướng Sô-đôm, nhưng Áp-ra-ham còn đứng lại trước mặt CHÚA. Áp-ra-ham đến gần Chúa và hỏi: “Chúa tiêu diệt người công chính chung với người ác sao? Nếu có năm mươi người công chính trong thành thì sao? Chúa sẽ tiêu diệt hay Chúa sẽ dung thứ họ vì năm mươi người công chính ở giữa họ.” “Chúa không bao giờ làm việc ấy! Không bao giờ Chúa diệt người công chính chung với kẻ ác! Không bao giờ Chúa đối xử với người công chính cũng giống như các người ác. Không thể như vậy! Vị thẩm phán tối cao của cả thế giới không xử đoán công minh sao.” CHÚA đáp: “Nếu Ta tìm thấy năm mươi người công chính trong thành Sô-đôm thì vì cớ họ Ta sẽ dung thứ cả thành.” Áp-ra-ham tiếp lời: “Thưa Chúa, con xin đánh bạo thưa với Chúa, dù con chỉ là tro bụi. Nhỡ thiếu năm người công chính trong số năm mươi người công chính đó, Chúa có tiêu diệt thành không?”Chúa đáp: “Nếu Ta tìm được bốn mươi lăm người công chính, Ta sẽ không tiêu diệt cả thành!” Áp-ra-ham lại nói với Chúa: “Thưa Chúa, nếu chỉ có bốn mươi người công chính thì sao?”Chúa đáp: “Vì cớ bốn mươi người đó, Ta sẽ không tiêu diệt họ.” Rồi ông nói: “Xin Chúa đừng giận, cho con được thưa: ‘Nếu trong thành có ba mươi người công chính thì sao?’”Chúa trả lời: “Ta sẽ chẳng tiêu diệt nếu Ta tìm được ba mươi người công chính.” Áp-ra-ham nói: “Con lại đánh bạo xin thưa với Chúa: Nếu chỉ có hai mươi người công chính thì sao?”Chúa đáp: “Vì hai mươi người đó, Ta sẽ chẳng tiêu diệt thành.” Áp-ra-ham lại thưa: “Xin Chúa đừng giận, con chỉ xin thưa một lời nữa: Nếu trong đó có mười người công chính thì sao?”Chúa đáp: “Vì cớ mười người đó, Ta cũng chẳng tiêu diệt nó!” Xong câu chuyện với Áp-ra-ham CHÚA ra đi, Áp-ra-ham quay về trại. Chiều tối, hai thiên sứ đến thành Sô-đôm, Lót đang ngồi tại cổng thành. Thấy khách đến, Lót đứng dậy nghênh đón, ông cúi lạy mặt sát đất. Lót mời: “Thưa hai ngài, kính mời hai ngài đến nhà tôi rửa chân nghỉ tạm đêm nay. Sáng mai, hai ngài có thể dậy sớm lên đường!” Hai vị khách đáp:“Không, tối nay chúng tôi sẽ ở ngoài đường!” Lót hết sức nài nỉ nên hai vị khách đi với ông về nhà. Lót dọn bữa cho họ, ông nướng bánh không men và họ ăn. Trước khi họ đi ngủ, những người đàn ông Sô-đôm từ trẻ đến già khắp trong thành phố đến vây quanh nhà. Chúng gọi Lót ra hỏi: “Hai người khách vào nhà anh khi tối ở đâu? Đem họ ra cho chúng ta ngủ với họ!” Lót ra khỏi nhà, đóng sập cửa sau lưng, rồi van nài họ: “Anh em ơi, đừng làm điều ác đó! Đây tôi có hai con gái còn trinh, để tôi dẫn chúng ra cho anh em muốn làm gì mặc ý. Nhưng xin đừng động đến hai ông khách của tôi, vì họ đến tá túc dưới mái nhà tôi!” Nhưng họ đáp lại: “Tránh ra! Tên này đến kiều ngụ mà nay dám giở giọng quan tòa! Ta phải xử tội mày nặng hơn hai người kia.” Chúng xông lên, ép mạnh Lót, tiến gần cửa để đập cửa ra. Nhưng hai khách đưa tay kéo Lót vào nhà, đóng sập cửa lại, rồi làm cho đám đàn ông đang vây quanh cửa, từ trẻ đến già đều bị mù mắt, kiếm cửa vào không được. Hai khách hỏi Lót: “Gia đình ngươi còn có ai khác nữa không? Con rể, con trai, con gái và người nào khác trong thành thuộc về ngươi, hãy đem hết họ ra khỏi đây. Chúng ta sắp tiêu diệt thành vì tiếng kêu oán đã thấu đến CHÚA nên Ngài sai chúng ta xuống hủy diệt nó.” Lót chạy ra nói với các rể hứa: “Hãy đứng dậy, rời bỏ chỗ này ngay vì CHÚA sắp tiêu diệt thành này!” Nhưng hai cậu rể tưởng ông nói đùa. Trời gần sáng, hai thiên sứ hối thúc Lót: “Hãy dậy đem vợ và hai con gái ra khỏi đây, kẻo bị tiêu diệt chung với thành này!” Thấy Lót chần chờ, hai thiên sứ nắm tay Lót, vợ và hai con gái kéo ngay ra khỏi thành, vì Chúa thương xót họ. Khi đem ra cách khỏi thành, một vị thiên sứ bảo họ: “Hãy chạy trốn để cứu mạng, đừng ngoảnh lại sau lưng! Đừng dừng lại ở bất cứ chỗ nào dưới đồng bằng, hãy trốn ngay lên núi, kẻo bị tiêu diệt.” Nhưng Lót nói với họ: “Thưa các chúa, kẻ tôi tớ này đã được ơn dưới mắt các chúa, và các ngài đã tỏ sự nhân từ tha mạng cho con, nhưng con sợ chạy trốn lên núi không kịp, tai nạn ập đến và con chết mất. Kìa, đàng kia có một thành nhỏ, không xa mấy. Xin cho con đến ẩn náu trong thành đó, ấy là một thành nhỏ. Như thế, con mới được bảo toàn mạng sống!” Thiên sứ đáp: “Được, ta chấp thuận lời yêu cầu của con, không tiêu diệt thành nhỏ đó. Chạy trốn vào đó nhanh lên, vì ta không hành động được cho đến khi con vào thành đó.” Do đó thành này được người ta gọi là Xoa, nghĩa là “Thành nhỏ”. Mặt trời vừa mọc, Lót chạy đến nơi, vào thành Xoa. CHÚA lập tức cho mưa diêm sinh và lửa từ trời đổ xuống thiêu đốt Sô-đôm, Gô-mô-rơ. Vậy Ngài tiêu hủy các thành và toàn thể đồng bằng luôn cả mọi người sống trong các thành và cây cỏ trên đất. Nhưng vợ Lót ngoảnh nhìn lại phía sau và bị biến thành tượng muối. Sáng hôm sau, Áp-ra-ham thức dậy đi ra chỗ ông đứng với CHÚA hôm qua. Ông nhìn xuống hướng Sô-đôm, Gô-mô-rơ và toàn vùng đồng bằng, ông thấy khói bốc lên như khói của lò lửa lớn. Khi Đức Chúa Trời tiêu diệt các thành trong vùng đồng bằng, Đức Chúa Trời nhớ đến Áp-ra-ham và cứu Lót thoát khỏi họa thiêu hủy cùng với các thành mà Lót đã ở. Sợ ở Xoa, Lót dẫn hai con gái lên ở trên núi, trú trong một hang đá. Bấy giờ cô chị bảo cô em: “Cha đã già, trong cả vùng không còn đàn ông để ăn ở với chúng ta như phong tục khắp nơi trên đất. Chúng ta hãy phục rượu cho cha say rồi đến nằm với cha, để qua cha chúng ta bảo tồn dòng giống gia đình mình.” Đêm đó, hai cô phục rượu cho cha say, rồi cô chị vào ngủ với cha, người cha chẳng biết lúc nào nàng nằm lúc nào nàng dậy. Hôm sau, cô chị lại bảo cô em: “Này, đêm qua chị đã ngủ với cha. Tối nay, chúng ta cũng hãy phục rượu cho cha uống say, rồi em vào nằm với cha để bảo tồn dòng giống gia đình.” Đêm ấy, hai cô phục rượu cho cha say, rồi cô em vào ngủ với cha, nhưng cha chẳng biết lúc nào nàng vào nằm với mình và lúc nào nàng dậy. Vậy hai con gái của Lót thụ thai do cha mình. Cô chị sinh một trai, đặt tên là Mô-áp, tổ phụ của dân Mô-áp ngày nay. Cô em cũng sinh con trai, đặt tên Bên-am-mi tổ phụ của dân Am-môn ngày nay. Từ đó, Áp-ra-ham tiến xuống phía nam, đến vùng Nê-ghép và cư ngụ giữa Ka-đe và Su-rơ. Ông ở tại Ghê-ra một thời gian, ông nói với người ta về Sa-ra vợ ông: “Nàng là em gái tôi.” nên A-bi-mê-léc vua xứ Ghê-ra cho người đến đón Sa-ra. Nhưng đêm ấy, Đức Chúa Trời đến báo mộng cho A-bi-mê-léc: “Ngươi phải chết vì người đàn bà ngươi lấy đã có chồng!” Vì A-bi-mê-léc chưa đến gần nàng nên ông nói: “Không lẽ Chúa tiêu diệt một nước vô tội? Áp-ra-ham đã nói ‘Nàng là em gái tôi’. Nàng cũng xác nhận: ‘Áp-ra-ham là anh tôi.’ Con làm điều này với lòng ngay thẳng và với bàn tay thanh sạch.” Trong giấc mộng, Đức Chúa Trời đáp: “Phải, Ta biết ngươi làm với lòng ngay thẳng nên Ta ngăn ngươi phạm tội với Ta và không cho ngươi động đến nàng. Bây giờ hãy trả vợ người lại, người là một tiên tri, người sẽ cầu nguyện cho ngươi và ngươi sẽ được sống. Nếu ngươi không trả nàng lại thì chắc chắn ngươi và mọi kẻ thuộc về ngươi sẽ chết!” A-bi-mê-léc dậy sớm, triệu tập tất cả quần thần và thuật cho họ nghe mọi việc, ai nấy đều khiếp sợ. A-bi-mê-léc mời Áp-ra-ham đến, và nói: “Ngươi làm gì cho chúng ta vậy? Ta đã làm gì xấu đối với ngươi đến nỗi ngươi làm cho ta và nước ta mắc tội lớn như vậy?” A-bi-mê-léc nói với Áp-ra-ham: “Ngươi đã làm cho ta điều mà ngươi không nên làm. Lý do nào khiến ngươi làm như thế?” Áp-ra-ham đáp: “Tôi tưởng nơi này chắc không có người kính sợ Chúa, e vì cớ vợ tôi mà có người sẽ giết tôi đi. Thật ra, nàng cũng là em tôi, một cha khác mẹ, nhưng tôi cưới nàng làm vợ. Khi Chúa làm tôi đi lưu lạc xa nhà cha tôi, tôi bảo nàng: ‘Đây là cách nàng có thể bày tỏ tình yêu đối với ta là đi đến đâu nàng cũng hãy nói ta là anh của nàng.’” A-bi-mê-léc đem tặng cho Áp-ra-ham nhiều chiên bò, tôi trai tớ gái và giao trả Sa-ra lại cho ông. Vua bảo: “Đất ta ở trước mặt ngươi, nơi nào ngươi thích thì cứ định cư ở đó.” Rồi vua quay lại Sa-ra: “Đây, ta trả cho anh ngươi một ngàn nén bạc để bồi thường danh dự ngươi trước mặt mọi người ở với ngươi, danh dự ngươi được hoàn toàn phục hồi trước mặt mọi người.” Áp-ra-ham cầu nguyện với Đức Chúa Trời, Ngài chữa lành cho A-bi-mê-léc, vợ vua, và các đầy tớ gái để họ có thể sinh sản được, vì CHÚA đã đóng dạ con của toàn nhà A-bi-mê-léc khi vua bắt Sa-ra, vợ của Áp-ra-ham. Bấy giờ, CHÚA tỏ ra nhân hậu với Sa-ra như Ngài nói; CHÚA làm cho Sa-ra như Ngài đã hứa. Sa-ra thụ thai, sinh cho Áp-ra-ham một con trai trong tuổi già, đúng thời gian Đức Chúa Trời đã hứa với ông. Áp-ra-ham đặt tên con mà Sa-ra sinh cho mình là Y-sác, và làm lễ cắt bì cho Y-sác, con mình khi được tám ngày, như lời Chúa truyền dạy. Lúc Y-sác ra đời, Áp-ra-ham đã được một trăm tuổi. Sa-ra nói: “Đức Chúa Trời làm cho tôi vui cười, ai nghe đến cũng vui cười với tôi. Ai dám nói với Áp-ra-ham có ngày Sa-ra sẽ cho con bú? Thế mà tôi đã sinh được một đứa con trai cho người lúc người đã già!” Đứa trẻ lớn lên, và dứt sữa. Ngày Y-sác dứt sữa, Áp-ra-ham làm một bữa tiệc thật lớn. Nhưng Sa-ra thấy đứa con mà A-ga, người đầy tớ gái Ai-cập đã sinh cho Áp-ra-ham nhạo cười, bà bảo Áp-ra-ham: “Hãy đuổi người đầy tớ gái và con nó đi; con của nó không thể hưởng gia tài với Y-sác, con tôi đâu!” Sự việc này làm cho Áp-ra-ham vô cùng buồn bã vì nó liên hệ đến con trai ông. Nhưng Đức Chúa Trời bảo Áp-ra-ham: “Con đừng buồn vì đứa con và vì nàng hầu của con. Cứ làm theo lời của Sa-ra vì dòng dõi con sẽ do Y-sác mà ra. Nhưng vì đứa con của tớ gái cũng là giống nòi con, nên ta sẽ cho nó thành một quốc gia.” Sáng hôm sau, Áp-ra-ham dậy sớm, lấy thực phẩm và bầu da nước trao cho A-ga, đặt lên vai nàng rồi bảo mẹ con ra đi. A-ga đi lang thang trong sa mạc miền Biệt-sê-ba. Khi bầu đã hết nước, A-ga để con dưới một bụi cây nhỏ, rồi đi cách đó độ một khoảng tên bắn, vì nàng nói: “Ta không thể nào nhìn đứa trẻ chết.” Nàng ngồi gần đó và cất tiếng khóc nức nở. Đức Chúa Trời nghe tiếng khóc của đứa bé nên một thiên sứ của Đức Chúa Trời từ trời gọi A-ga: “A-ga! Có việc gì thế? Đừng sợ vì Đức Chúa Trời đã nghe tiếng đứa bé khóc tại chỗ nó đang nằm. Hãy đứng dậy, đỡ nó lên, bồng nó trên tay, vì Ta sẽ làm cho nó thành một nước lớn!” Rồi Đức Chúa Trời mở mắt nàng, nàng thấy một giếng nước, liền đến múc đầy bầu nước và đem cho đứa trẻ uống. Chúa phù hộ đứa trẻ. Nó lớn lên, sống giữa sa mạc và trở thành một người bắn cung giỏi. Khi ngụ tại sa mạc Pha-đan, Ích-ma-ên được mẹ cưới cho một cô vợ người Ai-cập. Lúc ấy, vua A-bi-mê-léc và Phi-côn người chỉ huy quân lực của vua, nói với Áp-ra-ham: “Đức Chúa Trời có ở với ông trong mọi việc ông làm. Bây giờ hãy thề với tôi trước Đức Chúa Trời rằng ông sẽ không lừa gạt tôi, con tôi hay dòng dõi tôi. Hãy đối xử tử tế với tôi và với xứ ông đến cư ngụ như tôi đã đối xử với ông.” Áp-ra-ham đáp: “Tôi xin thề.” Rồi Áp-ra-ham than phiền với A-bi-mê-léc về vụ cái giếng nước mà bầy tôi của vua đã chiếm đoạt. A-bi-mê-léc đáp: “Tôi không biết ai đã làm việc này. Ông không nói cho tôi, và tôi cũng không nghe nói cho đến bữa nay.” Áp-ra-ham đem hiến chiên bò cho A-bi-mê-léc và hai người lập hòa ước. Áp-ra-ham để riêng ra bảy con chiên tơ trong bầy. A-bi-mê-léc hỏi: “Ông để bảy con chiên đó riêng ra làm gì vậy?” Áp-ra-ham đáp: “Xin vua hãy nhận bảy con chiên này nơi tay tôi để làm chứng là tôi đã đào cái giếng này.” Do đó người ta gọi chỗ này là Biệt-sê-ba, vì tại đó hai người đã thề với nhau. Sau khi kết ước với nhau tại Biệt-sê-ba, A-bi-mê-léc và tướng Phi-côn lên đường về xứ Phi-li-tin. Áp-ra-ham trồng một cây me tại Biệt-sê-ba và tại đó ông cầu khẩn danh CHÚA, Đức Chúa Trời đời đời. Áp-ra-ham kiều ngụ lâu ngày trong xứ Phi-li-tin. Sau đó, Đức Chúa Trời thử nghiệm Áp-ra-ham. Chúa gọi: “Áp-ra-ham.” Người thưa: “Có con đây.” Chúa bảo: “Hãy dắt Y-sác, đứa con một mà con yêu quý, đem đến vùng Mô-ri-a và dâng nó làm tế lễ thiêu trên một ngọn núi mà Ta sẽ chỉ cho con.” Vậy, Áp-ra-ham dậy sớm, thắng lừa, đem Y-sác con mình và hai đầy tớ đi theo. Ông chặt củi để dâng tế lễ thiêu, rồi đứng dậy, đi đến địa điểm Đức Chúa Trời đã chỉ định. Ngày thứ ba, Áp-ra-ham ngước lên, nhìn thấy địa điểm ấy từ đằng xa, liền bảo hai thanh niên: “Các anh cứ đứng lại đây và giữ lừa. Tôi và Y-sác sẽ lên đó thờ phượng Chúa, rồi sẽ trở lại.” Áp-ra-ham lấy bó củi để dâng tế lễ thiêu chất trên vai Y-sác, con mình và cầm theo mồi lửa và một con dao. Rồi hai cha con cùng đi. Y-sác nói: “Cha ơi!”Áp-ra-ham đáp: “Có cha đây, con!”Y-sác hỏi: “Củi lửa có sẵn rồi, nhưng chiên con ở đâu để dâng tế lễ thiêu?” Áp-ra-ham đáp: “Con ơi, Đức Chúa Trời sẽ cung ứng chiên con làm tế lễ thiêu!” Hai cha con tiếp tục đi với nhau. Đến chỗ Đức Chúa Trời đã chỉ định, Áp-ra-ham dựng một bàn thờ, sắp củi lên, rồi trói Y-sác, con mình và đem đặt lên lớp củi trên bàn thờ. Áp-ra-ham đưa tay cầm dao để giết con mình. Bỗng thiên sứ của CHÚA từ trên trời gọi: “Áp-ra-ham! Áp-ra-ham!”Ông thưa: “Có con đây!” Thiên sứ bảo: “Đừng giết đứa trẻ, cũng đừng làm gì nó cả! Vì bây giờ, ta biết ngươi kính sợ Đức Chúa Trời và không tiếc con ngươi với Ta, dù là con một của ngươi!” Áp-ra-ham ngước mắt nhìn thấy một con chiên đực, sừng đang mắc vào bụi gai rậm phía sau mình. Ông liền bắt nó dâng tế lễ thiêu thay thế con trai mình. Áp-ra-ham gọi địa điểm này là CHÚA cung ứng. Vì thế, cho đến ngày nay, người ta vẫn nói; “Trên núi của CHÚA, điều ấy sẽ được cung ứng!” Từ trời, thiên sứ của CHÚA lại gọi Áp-ra-ham lần thứ nhì, mà bảo: “Ta đã lấy chính Ta mà thề, vì con đã làm điều ấy, không tiếc sinh mạng đứa con, dù là con một, nên Ta sẽ ban phước hạnh cho con, tăng gia dòng dõi con như sao trên trời, như cát bãi biển, và dòng dõi con sẽ chiếm lấy cổng thành quân địch. Tất cả các dân tộc trên thế giới sẽ nhờ dòng dõi con mà được phước, vì con đã vâng lời Ta.” Vậy, Áp-ra-ham trở lại cùng hai thanh niên, rồi tất cả lên đường quay về Biệt-sê-ba. Áp-ra-ham cư trú tại đó. Sau đó, có người báo cáo cho Áp-ra-ham: “Minh-ca đã sinh con trai cho Na-cô, em ông!” Con đầu lòng tên U-xơ, các con kế là Bu-xơ và Kê-mu-ên, cha của A-ram, Kê-sết, Ha-xô, Phin-đát, Díp-láp và Bê-tu-ên, được tất cả tám người. Kê-mu-ên sinh A-ram và Bê-tu-ên sinh Rê-bê-ca. Ru-mân, vợ kế của Na-cô, sinh Tê-ba, Ga-ham, Ta-hách và Ma-a-ca. Sa-ra qua đời tại Ki-ri-át A-ra-ba Hếp-rôn xứ Ca-na-an, hưởng thọ một trăm hai mươi bảy tuổi. Áp-ra-ham để tang và than khóc vợ. Đứng bên thi hài Sa-ra, Áp-ra-ham yêu cầu gia đình họ Hết: “Tuy sống giữa các anh, tôi chỉ là một kiều dân. Xin các anh bán cho tôi một miếng đất chôn cất để an táng vợ tôi!” Dân họ Hết đáp: “Vâng, chúng tôi vẫn coi ông là một bậc vương hầu của Đức Chúa Trời. Ông muốn chọn đất chôn cất nào tùy ý, chúng tôi không từ khước đất chôn cất của chúng tôi để ông chôn người chết của ông đâu!” Áp-ra-ham cúi đầu trước mặt họ, yêu cầu: “Các anh đã có nhã ý như thế, xin làm ơn nói giúp Ếp-rôn, con trai Xô-a, vui lòng bán cho tôi cái động Mặc-bê-la ở cuối khu đất của anh ta. Tôi xin trả đúng theo thời giá để mua cái động ấy làm đất chôn cất.” Đang ngồi giữa gia đình họ Hết, Ếp-rôn người Hê-tít, trả lời trước mặt dân chúng đến trước cổng thành; “Thưa ông, tôi xin biếu ông cả cái động lẫn khu đất. Đây có dân chúng làm chứng, tôi xin tặng cả cho ông để ông an táng xác bà.” Áp-ra-ham lại cúi đầu trước mặt dân chúng trong xứ và đáp lời Ép-rôn trong khi dân chúng lắng tai nghe: “Tôi chỉ xin mua và trả tiền sòng phẳng. Xin anh vui lòng nhận tiền, tôi mới dám an táng vợ tôi.” Ép-rôn đáp: “Miếng đất trị giá bốn trăm lạng bạc nhưng chỗ tôi và ông, có gì đâu! Xin ông an táng bà đi!” Nghe chủ đất định giá, Áp-ra-ham cân bốn trăm lạng bạc theo cân lượng thị trường trả cho Ép-rôn trước sự chứng kiến của người Hết. Cánh đồng của Ếp-rôn tại Mặc-bê-la, giáp ranh Mam-rê, gồm khu đất và cái động cùng cây cối trong khuôn viên, từ nay thuộc quyền sở hữu của Áp-ra-ham. Hai bên thỏa thuận tạo mãi, có dân Hết chứng kiến tại cổng thành. Áp-ra-ham an táng vợ mình trong khu đất và cái động mua của Ép-rôn. Động và hang đá đều được chuyển nhượng cho Áp-ra-ham dùng làm mộ địa trước mặt dân Hết. Tuổi cao, Áp-ra-ham được Chúa ban phước dồi dào. Áp-ra-ham bảo người đầy tớ, cai quản trong nhà: “Con hãy đặt tay con trên đùi ta! Ta muốn con nhân danh CHÚA là chủ tể trời đất mà thề rằng con sẽ không cưới người Ca-na-an làm vợ cho Y-sác, con ta, dù ta kiều ngụ trong xứ họ, rằng con sẽ đi về quê hương ta, cưới cho Y-sác con ta, một người vợ trong vòng bà con ta.” Đầy tớ đáp: “Nếu cô gái không chịu bỏ quê hương để đi đến xứ này lấy chồng, con có nên đưa cậu Y-sác về quê cưới vợ không?” Áp-ra-ham quả quyết: “Tuyệt đối không! Con không bao giờ được đem Y-sác trở lại xứ ấy! CHÚA, là chủ tể trời đất đã đem ta ra khỏi nhà cha ta, nơi chôn nhau cắt rốn, đã phán dạy ta và thề với ta: ‘Ta sẽ cho dòng giống con đất này’. Chúa sẽ sai thiên sứ Ngài đi trước dìu dắt con qua đó để cưới vợ cho Y-sác. Nếu cô dâu nhất định không theo con về đây, con sẽ khỏi mắc lời thề này. Dù sao tuyệt đối không bao giờ được đem con ta về xứ ấy!” Đầy tớ đặt tay lên đùi Áp-ra-ham và thề nguyện như lời chủ dặn. Người đầy tớ chọn lấy mười con lạc đà chuyên chở đủ các loại bảo vật của chủ rồi lên đường. Đến thành Na-cô, xứ Lưỡng Hà, đầy tớ cho lạc đà dừng lại, quỳ xuống nghỉ chân bên giếng, vào buổi chiều đúng vào giờ phụ nữ trong thành ra múc nước. Đầy tớ cầu nguyện: “Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, chủ con, xin cho con thành công hôm nay, để chứng tỏ lòng nhân từ của Chúa đối với Áp-ra-ham. Con đang đứng đây, bên giếng, các thiếu nữ trong thành ra múc nước. Khi con xin cô nào cho con uống nước, mà cô ấy đáp: ‘Ông cứ uống đi, tôi sẽ cho bầy lạc đà của ông uống nữa’, thì cô ấy đúng là người Chúa chọn cho Y-sác, tôi tớ Chúa. Do đó, con biết rõ Chúa đã tỏ lòng nhân từ với chủ con!” Đầy tớ chưa dứt lời cầu nguyện, cô Rê-bê-ca vừa vác bình ra đến giếng. Cô là con Bê-tu-ên, cháu Minh-ca. Bà này là vợ Na-cô, em của Áp-ra-ham. Rê-bê-ca là một thiếu nữ tuyệt đẹp và trinh trắng. Cô xuống giếng, múc đầy bình nước, đặt trên vai, rồi leo lên. Đầy tớ chạy đến nói: “Xin cô làm ơn cho tôi uống một ngụm nước trong bình!” Cô đáp: “Thưa vâng, mời ông uống nước!” Vừa nói, cô vội vã đỡ bình nước xuống, mời đầy tớ uống. Đầy tớ uống xong, cô sốt sắng nói: “Để tôi múc thêm nước cho lạc đà ông uống cho đã khát!” Cô nhanh nhẹn trút bình nước vào máng nước, rồi chạy xuống giếng múc thêm nước cho cả đàn lạc đà uống. Đầy tớ đứng lặng nhìn Rê-bê-ca suy nghiệm xem Chúa có giúp chuyến đi của mình thành đạt hay không. Khi đàn lạc đà uống nước xong, đầy tớ lấy ra một chiếc nhẫn vàng cân nặng nửa xiếc-lơ (khoảng 5.50gm) và một đôi vòng vàng nặng mười xiếc-lơ (khoảng 110gm) và hỏi: “Cô là con ai? Nhà cô có chỗ cho tôi nghỉ tạm tối nay không?” Cô đáp: “Tôi là con gái của Bê-tu-ên, cháu Minh-ca, ông nội tôi là Na-cô. Nhà tôi có nhiều rơm và đồ ăn cho lạc đà, cũng có phòng trọ cho khách nữa.” Đầy tớ cảm kích cúi đầu thờ phượng CHÚA, và nói: “Cảm tạ CHÚA là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, chủ tôi. Cảm tạ Chúa vì lòng nhân từ, thành tín đối với người khi Ngài dắt con đến đúng ngay gia đình bà con của Áp-ra-ham!” Trong lúc đó, Rê-bê-ca chạy về nhà báo tin. Vả, Rê-bê-ca có một người anh, tên là La-ban. Vừa thấy chiếc khoen và đôi vòng vàng trên tay em và nghe em thuật lại rằng: “Người này nói vậy.” thì La-ban chạy đến với người đầy tớ, lúc ấy đương đứng gần bên mấy con lạc đà, ở nơi giếng nước, La-ban niềm nở: “Hỡi người được CHÚA ban phước, mời ông đến nhà tôi, sao cứ đứng bên ngoài, nhà tôi có sẵn phòng ngủ cho ông và chỗ cho lạc đà!” Đầy tớ theo La-ban về nhà. La-ban còn đem rơm lót chỗ lạc đà nằm, cho chúng ăn và lấy nước cho người đầy tớ và mấy người nài rửa chân. Cơm đã dọn ra rồi, nhưng đầy tớ nói: “Tôi sẽ không ăn uống trước khi trình bầy mục đích chuyến đi này!”La-ban giục: “Ông cứ nói đi!” Đầy tớ đáp: “Tôi là đầy tớ của Áp-ra-ham. CHÚA ban phước dồi dào cho chủ tôi, người giàu có. Chúa cho người bao nhiêu bầy súc vật, bạc vàng, tôi trai tớ gái, lạc đà và lừa. Bà chủ tôi sinh cho ông một con trai trong tuổi già nua; và cậu con trai được hưởng trọn gia tài. Chủ tôi có buộc tôi thề không cưới vợ cho cậu trong số các thiếu nữ Ca-na-an là xứ chủ tôi trú ngụ, nhưng phải về quê cha đất tổ của chủ và cưới một thiếu nữ trong gia tộc về cho cậu. Tôi có thưa lại chủ: Nếu cô ấy không chịu theo tôi về làm vợ cho cậu, thì tôi phải làm sao? Nhưng chủ tôi bảo: ‘CHÚA, là Đấng ta phụng vụ sẽ sai thiên sứ đi với ngươi và giúp ngươi thành công, ngươi sẽ cưới cho con ta một người vợ trong gia tộc ta, con cháu nhà cha ta. Khi nào ngươi về thăm gia tộc ta và nếu người trong gia tộc ta không chịu gả con thì ngươi mới thoát được lời thề buộc này.’ Hôm nay, khi đến giếng nước, tôi cầu nguyện: Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham là chủ của con, xin CHÚA cho con thành công trong công tác này: Trong khi con đứng bên giếng, và các thiếu nữ ra múc nước, nếu con xin cô nào cho con uống nước trong bình, nếu nàng đáp: ‘Mời ông uống, rồi tôi cũng múc nước cho các lạc đà của ông uống nữa’, thì cô ấy chính là người vợ CHÚA đã chọn cho con trai chủ tôi. Tôi cầu nguyện thầm chưa xong thì kìa cô Rê-bê-ca đến, vai vác vò nước, đi xuống giếng múc nước. Tôi bảo cô: xin cô cho tôi uống nước. Cô ấy vội vã đặt ngay vò nước trên vai xuống và nói: ‘Mời ông uống đi, rồi tôi cũng cho các con lạc đà của ông uống luôn.’ Tôi hỏi: ‘Cô con ai?’ Cô đáp: ‘Cháu là con của Bê-tu-ên, cháu nội cụ Na-cô’.Tôi đã đeo chiếc vòng vào mũi cô và đôi xuyến vào tay cô. Tôi cúi đầu thờ phượng CHÚA, ca ngợi Ngài là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham chủ tôi vì Ngài hướng dẫn tôi đúng đường để đem cô cháu nội của em chủ tôi đi theo về làm vợ cho con chủ tôi. Vậy bây giờ, nếu quý vị tỏ lòng nhân từ và chân thành với chủ tôi, xin nói cho tôi biết, nếu không cũng xin tỏ cho tôi hay, để tôi tùy nghi định liệu.” La-ban và Bê-tu-ên đáp: “Việc này là do CHÚA mà đến, chúng tôi đâu có thể nói được hay không. Kìa, cháu Rê-bê-ca ở trước mặt anh, anh cứ đưa cháu đi, để nó làm vợ cho con trai chủ anh, như CHÚA đã phán dạy.” Nghe lời ấy, người đầy tớ của Áp-ra-ham phủ phục sát đất trước mặt CHÚA. Rồi đem ra các nữ trang bằng bạc và vàng, và các bộ y phục đưa tặng Rê-bê-ca, cũng tặng các bảo vật cho anh và mẹ nàng. Rồi người đầy tớ và những người ở với mình đều ăn uống và nghỉ ngơi tại đó.Sáng hôm sau khi họ thức dậy, người đầy tớ nói: “Xin cho tôi trở về với chủ tôi!” Mẹ và anh của Rê-bê-ca đáp: “Để cháu ở lại đây với chúng tôi mười ngày nữa, sau đó hãy đi.” Nhưng Ê-li-ê-se nói: “Xin đừng cầm giữ tôi vì CHÚA đã cho công việc tôi được hanh thông, nên xin quý vị cho tôi về với chủ tôi!” Họ đáp: “Chúng tôi sẽ gọi cháu và hỏi ý kiến nó!” Vậy họ gọi Rê-bê-ca vào mà hỏi: “Em có muốn đi theo người này không?”Nàng đáp: “Em muốn đi!” Vậy, họ đưa Rê-bê-ca, em gái mình, chị vú của nàng cùng đầy tớ của Áp-ra-ham và đoàn tùy tùng lên đường. Họ chúc phước cho Rê-bê-ca:“Em ơi! Chúc em trở thành tổ mẫuCủa ức triệu người,Và chúc cho dòng dõi em chiếm đượcCổng thành quân thù!” Rê-bê-ca và các nàng hầu đứng dậy, cưỡi lạc đà, đi theo người đầy tớ, người đầy tớ đưa Rê-bê-ca lên đường. Trong lúc ấy, Y-sác đã từ vùng La-chai-roi quay về và cư trú tại miền nam. Xế chiều, Y-sác ra ngoài đồng ruộng để suy tư, chợt ngước mắt lên, bỗng thấy đàn lạc đà kéo đến. Rê-bê-ca cũng ngước mắt, chợt thấy Y-sác, bèn lật đật xuống khỏi lạc đà. Nàng hỏi người đầy tớ: “Người đàn ông đang đi trong đồng ruộng chờ đón chúng ta là ai thế?” Người đầy tớ đáp: “Ông ấy là chủ tôi đấy!” Lập tức, Rê-bê-ca lấy tấm voan phủ mặt mình. Người đầy tớ báo cáo cho Y-sác tất cả những việc mình đã làm. Y-sác đưa Rê-bê-ca vào trại của Sa-ra, mẹ mình và cưới nàng làm vợ. Y-sác yêu Rê-bê-ca và được an ủi sau khi mẹ mình qua đời. Áp-ra-ham tục huyền, cưới Kê-tu-ra làm vợ. Nàng sinh cho người Xim-ram, Giốc-chan, Mê-đan, Ma-đi-an, Dích-bác và Su-ách. Giốc-chan sinh Sê-ba và Đê-đan; dòng dõi Đê-đan là các gia tộc A-chu-rim. Lê-lu-chim và Lê-um-mim. Con trai của Ma-đi-an là Ê-pha, Ê-phe, Ha-nóc, A-gi-đa và Ên-đa. Đó là dòng dõi của bà Kê-tu-ra. Áp-ra-ham cho Y-sác tất cả gia tài; còn các con dòng thứ thì cho tiền bạc, và lúc còn sinh tiền, người sai họ qua cư trú tại miền đông, cách xa con cháu dòng chánh là Y-sác. Áp-ra-ham hưởng thọ một trăm bảy mươi lăm tuổi khi qua đời tuổi cao tác lớn và mãn nguyện được qui về với tổ tông. Y-sác và Ích-ma-ên, hai con trai người, an táng người trong hang đá Mặc-bê-la giữa cánh đồng của Ép-rôn, con trai Sô-ha, người Hê-tít, ở đối ngang Mam-rê. Đây là cánh đồng Áp-ra-ham đã mua của gia tộc Hết. Cả Áp-ra-ham và Sa-ra đều được an táng tại đó. Sau khi Áp-ra-ham qua đời, CHÚA ban phước cho Y-sác, con trai người. Y-sác cư trú bên cái giếng La-chai-roi. Đây là dòng dõi Ích-ma-ên, con trai Áp-ra-ham và bà A-ga, người Ai-cập, nàng hầu của Sa-ra. Tên các con trai của Ích-ma-ên sắp theo thứ tự: trưởng nam: Nê-ba-giốt; thứ nam: Kê-đa, Át-bê-ên, Mi-bô-san, Mích-ma, Đu-ma, Ma-sa, Ha-đa, Thê-ma, Giê-thu, Na-phích và Kết-ma. Đó là tên các con trai của Ích-ma-ên tùy theo tên làng và địa điểm cắm trại của họ, tất cả là mười hai lãnh tụ của dân tộc họ. Ích-ma-ên hưởng thọ một trăm ba mươi bảy tuổi rồi qua đời, được qui về với tổ tông. Dòng dõi ông định cư trước mặt tất cả các anh em mình, từ Ha-vi-la đến Su-rơ, đối ngang Ai-cập, đến tận A-si-ri. Đây là dòng dõi của Y-sác, con trai Áp-ra-ham: Áp-ra-ham sinh Y-sác. Được bốn mươi tuổi, Y-sác cưới Rê-bê-ca, con gái của Bê-tu-ên, em La-ban là dân A-ram ở xứ Pha-đan A-ram. Y-sác cầu khẩn CHÚA cho vợ mình vì nàng son sẻ. CHÚA nhậm lời, nên Rê-bê-ca thụ thai. Nhưng các thai nhi đánh nhau trong bụng nên nàng nói: “Việc này xảy ra cho tôi sao?” Nàng bèn cầu hỏi CHÚA. CHÚA phán:“Hai nước đang ở trong bụng conVà hai dân tộc sẽ từ lòng con mà ra,Dân nầy mạnh hơn dân kiaVà đứa lớn phải phục tùng đứa nhỏ.” Đến ngày sinh nở, hai con sinh đôi trong lòng nàng chào đời. Đứa ra trước da đỏ hồng, toàn thân đầy cả lông như chiếc áo lông, được đặt tên là Ê-sau. Em nó ra sau, tay nắm gót chân Ê-sau, được đặt tên là Gia-cốp. Khi sinh hai con trai, Y-sác đã sáu mươi tuổi. Khi hai đứa bé lớn lên, Ê-sau trở thành một thợ săn giỏi, một người của đồng ruộng, còn Gia-cốp là một người trầm lặng thường ở quanh quẩn trong trại. Y-sác thương Ê-sau vì thích ăn thịt rừng; còn Rê-bê-ca lại thương Gia-cốp. Một hôm, Gia-cốp nấu canh. Ê-sau ở ngoài đồng trở về đang mỏi mệt, bảo Gia-cốp; “Em cho anh ăn ngay món cháo đậu đỏ này đi vì anh đói lả.” Vì thế, người ta gọi Ê-sau là Ê-đôm. Gia-cốp đáp: “Giờ anh bán quyền trưởng nam cho em đi!” Ê-sau nói: “Kìa, anh gần chết, thì quyền trưởng nam có ích gì cho anh đâu!” Gia-cốp buộc: “Giờ anh thề đi!” Ê-sau thề và bán quyền trưởng nam cho Gia-cốp. Rồi Gia-cốp cho Ê-sau ăn bánh mì và canh đậu. Ăn uống xong, Ê-sau đứng dậy bỏ đi.Vậy, Ê-sau khinh dễ quyền trưởng nam. Ngoài nạn đói thời trước trong đời Áp-ra-ham, xứ lại bị nạn đói nữa. Y-sác đến với A-bi-mê-léc, vua dân Phi-li-tin ở xứ Ghê-ra. CHÚA hiện ra gặp Y-sác mà bảo: “Con đừng xuống Ai-cập, con cứ ở lại xứ mà Ta sẽ chỉ bảo con. Hãy tạm trú trong xứ này, thì Ta sẽ ở với con, ban phước cho con. Ta sẽ ban cho con và dòng dõi con tất cả các xứ này và Ta sẽ giữ vững lời Ta đã thề với Áp-ra-ham, thân phụ con. Ta sẽ tăng gia dòng dõi con đông như sao trên trời, sẽ ban cho chúng các xứ này. Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sẽ nhờ hậu tự con mà được phước; vì Áp-ra-ham đã nghe theo tiếng phán Ta, vâng lời Ta căn dặn, tuân hành các điều răn, qui luật và luật lệ Ta.” Vậy Y-sác ở tại Ghê-ra. Khi bọn đàn ông trong xứ hỏi thăm về vợ ông thì ông đáp: “Cô ấy là em tôi!” Vì ông sợ nếu nhận nàng là vợ thì bọn đàn ông trong xứ sẽ giết mình vì Rê-bê-ca, bởi nàng có nhan sắc. Y-sác cư ngụ tại đó lâu ngày, xảy ra khi A-bi-mê-léc, vua người Phi-li-tin nhìn qua cửa sổ, chợt thấy Y-sác âu yếm Rê-bê-ca. A-bi-mê-léc triệu Y-sác vào bảo: “Kìa, nàng quả là vợ nhà ngươi, sao ngươi lại nói: ‘Cô ta là em tôi?’”Y-sác tâu: “Vì tôi tự nhủ; phải nói thế để khỏi bỏ mạng vì nàng”. A-bi-mê-léc trách: “Ngươi làm chi cho chúng ta vậy? Nếu có ai trong dân ta ăn nằm với vợ ngươi, thế là ngươi gây cho chúng ta mắc tội đấy!” Vua A-bi-mê-léc truyền cho tất cả dân chúng: “Ai đụng đến người này hay vợ người thì sẽ bị xử tử!” Y-sác gieo trồng trong xứ đó, năm ấy gặt hái được hơn trăm lần vì CHÚA ban phước cho ông. Y-sác thành ra giầu có, của cải ngày càng gia tăng đến mức trở nên cực thịnh. Ông có nhiều bầy chiên, bầy bò và nhiều tôi tớ nên bị dân Phi-li-tin ganh tị. Họ lấp tất cả các giếng mà tôi tớ của cha ông là Áp-ra-ham đã đào lúc người còn sống. Vua A-bi-mê-léc bảo ông: “Ngươi hãy đi khỏi đây vì ngươi cường thịnh hơn chúng ta!” Y-sác từ đó ra đi và cắm trại tại thung lũng Ghê-ra và cư ngụ tại đó. Y-sác khơi lại các giếng đã đào trong thời cha mình là Áp-ra-ham còn sống nhưng đã bị dân Phi-li-tin lấp lại khi cụ qua đời. Ông gọi các giếng ấy theo tên cha mình đã đặt. Các tôi tớ của Y-sác còn đào thêm giếng trong thung lũng và tìm được một mạch nước. Nhưng các mục tử ở Ghê-ra giành giựt với các mục tử của Y-sác và bảo: “Mạch nước này là của chúng tao!” Y-sác gọi mạch nước ấy là Ê-sết (nghĩa là cãi lộn). Kế đó, các tôi tớ của Y-sác đào được một giếng khác, cũng bị tranh giành nữa nên ông gọi giếng này là Sít-na (nghĩa là ganh ghét). Ông rời nơi đó đi đào một giếng khác nữa; lần nầy không còn tranh giành nên ông đặt tên giếng này là Rê-hô-bốt (nghĩa là những nơi rộng rãi) và nói: “Bây giờ, CHÚA đã dành chỗ rộng rãi cho chúng ta nên chúng ta sẽ thịnh vượng trong xứ này.” Y-sác từ đó đi đến Biệt-sê-ba. Ngay đêm đó, CHÚA hiện ra cùng ông và phán dạy: “Ta là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, cha con. Con đừng sợ chi, Ta ở cùng con. Ta sẽ ban phước và tăng gia dòng dõi con vì Áp-ra-ham là tôi tớ Ta.” Y-sác lập một bàn thờ, cầu khẩn danh CHÚA và cắm trại tại đó. Rồi các tôi tớ ông đào một cái giếng tại đây. Vua A-bi-mê-léc ở Ghê-ra đến thăm Y-sác. Tháp tùng nhà vua có A-bu-sát, một cố vấn và Phi-côn là tổng tư lệnh. Y-sác hỏi: “Quý ngài đã ghét tôi, đuổi tôi đi rồi, tại sao quý ngài còn đến với tôi?” Họ đáp: “Chúng ta thấy rõ CHÚA đã ở với ngươi nên chúng ta nói: ‘Ta hãy lập một lời thề với nhau, giữa chúng ta với ngươi. Ta hãy lập giao ước với ngươi’ để ngươi không làm hại chúng ta cũng như trước kia chúng ta không động chạm đến ngươi và chỉ đối xử tốt với ngươi và để ngươi đi bình an. Bây giờ ngươi được CHÚA ban phước.” Y-sác dọn tiệc mời quan khách và họ ăn uống với nhau. Sáng hôm sau, họ dậy sớm và thề với nhau; rồi Y-sác tiễn đưa họ lên đường. Họ từ biệt ông và ra đi bình an. Chính hôm ấy, các tôi tớ của Y-sác đến báo cáo về cái giếng họ đã đào: “Chúng tôi đã tìm được nước.” Ông đặt tên giếng là Si-ba; vì thế thành này mang tên là Biệt-sê-ba cho đến ngày nay. Ê-sau được bốn mươi tuổi thì cưới vợ, một người tên Gia-đích con gái của Bê-ê-ri, người Hê-tít và một nàng tên Ba-sê-mát, con gái của Ê-long cũng người Hê-tít. Hai nàng dâu này gây nhiều sầu muộn cho Y-sác và Rê-bê-ca. Y-sác tuổi cao, mắt đã mù lòa. Ông gọi Ê-sau con lớn mà nói chuyện: “Ê-sau, con!” Dạ! Y-sác bảo: “Cha đã già cả rồi, không còn sống được bao nhiêu ngày nữa! Con hãy lấy cung tên vào rừng săn bắn và đem thịt về, rồi nấu nướng các món ngon cha thích, dọn lên cho cha ăn, để linh hồn cha chúc phước cho con trước khi cha chết.” Rê-bê-ca nghe được lời Y-sác dặn Ê-sau. Vậy, Ê-sau ra đồng săn thịt rừng để đem về. Rê-bê-ca bảo Gia-cốp, con trai mình: “Này, mẹ nghe cha bảo Ê-sau, anh con rằng: ‘Con hãy đem thịt rừng về cho cha và nấu dọn các món ngon cho cha ăn để cha chúc phước cho con trước mặt CHÚA trước khi cha qua đời!’ Bây giờ, con ơi, con hãy nghe lời mẹ bảo đây: ‘con hãy đi đến chỗ bầy gia súc, bắt hai con dê con cho tốt, rồi mẹ sẽ nấu nướng các món ngon cha thích dọn lên cho cha. Con sẽ đem mời cha ăn để cha chúc phước cho con trước khi qua đời.’” Gia-cốp thưa với mẹ: “Mẹ xem, anh Ê-sau con có nhiều lông, còn da con thì mịn màng. Có lẽ cha sẽ sờ người con và coi con như một tên lừa gạt, thì con sẽ chuốc lấy rủa sả chứ chẳng được phước lành đâu!” Mẹ Gia-cốp đáp: “Con ơi, để mẹ chịu rủa sả, con chỉ nên nghe lời mẹ, đi lấy thịt cho mẹ đi!” Gia-cốp ra bắt dê đem vào cho mẹ. Bà mẹ làm các món ngon mà ông cha ưa thích. Rê-bê-ca lấy các áo xống tốt nhất của Ê-sau, con lớn mình để trong nhà mà mặc cho Gia-cốp, con thứ mình, lấy da dê con bọc hai tay và cổ mịn màng của Gia-cốp, rồi đưa các món ăn ngon và bánh bà làm cho Gia-cốp bưng. Gia-cốp bưng đến gần cha thưa: “Cha ơi!” Y-sác đáp: “Cha đây! Con là ai đó?” Gia-cốp thưa với cha: “Con là Ê-sau, trưởng nam của cha. Con có làm như cha dặn bảo. Mời cha ngồi dậy, ăn thịt săn của con, rồi linh hồn cha chúc phước cho con!” Y-sác hỏi: “Sao con đi săn được thú nhanh thế?”Gia-cốp đáp: “Vì CHÚA, Đức Chúa Trời của cha cho con thành công!” Y-sác nói với Gia-cốp: “Con lại gần đây, để cha sờ xem có phải Ê-sau thật không?” Gia-cốp lại gần cho cha sờ mình. Y-sác nói: “Giọng nói thì của Gia-cốp mà cánh tay lại của Ê-sau!” Y-sác không nhận ra người, vì hai cánh tay đều có nhiều lông như tay của Ê-sau, nên chúc phước lành cho con. Y-sác hỏi: “Con có phải thật là Ê-sau không?”Gia-cốp thưa: “Chính con là Ê-sau mà!” Y-sác bảo: “Vậy con hãy đem thịt rừng đến đây cho cha ăn để cha chúc phước cho con!”Gia-cốp đem thịt đến mời cha ăn và rót rượu cho cha uống. Y-sác bảo: “Con lại đây hôn cha đi!” Gia-cốp đến hôn cha. Y-sác ngửi mùi thơm của áo Ê-sau và chúc phước: Mùi hương của con trai taChẳng khác nào hương hoa đồng nộiMà CHÚA ban phước. Cầu xin Đức Chúa Trời ban cho con nhiều sương móc trên trời,Đất đai màu mỡNhiều lúa mì, rượu mới. Nguyện các dân tộc sẽ phục vụ con.Các nước sẽ qui phục con.Con hãy cai trị các anh em con.Tất cả bà con quyến thuộc đều qui phục con.Tất cả những người nguyền rủa con, sẽ bị nguyền rủaVà tất cả những người chúc phước con sẽ hưởng phước lành. Y-sác vừa chúc phước cho Gia-cốp xong, Gia-cốp mới rời khỏi cha mình, thì Ê-sau đi săn trở về. Ê-sau cũng nấu món ăn ngon rồi dọn lên cho cha. Ê-sau thưa: “Cha ơi, mời cha ngồi dậy, dùng thịt rồi cha sẽ chúc phước cho con!” Y-sác hỏi: “Ai đó?”“Con đây, cha. Con là Ê-sau, con trưởng nam của cha đây mà!” Y-sác run rẩy dữ dội hỏi: “Thế thì đứa nào mới dọn thịt rừng cho cha ăn trước khi con đến? Cha đã ăn và chúc phước lành cho nó rồi, vậy nó sẽ được phước.” Ê-sau bật lên khóc rất cay đắng: “Cha ơi, cha cũng chúc phước cho con với!” Y-sác đáp: “Em con đã vào đây gạt cha nên đã cướp các lời chúc lành cho con rồi!” Ê-sau cay đắng nói: “Hèn chi người ta gọi nó là ‘Thằng lường gạt’. Nó đã cướp quyền trưởng nam của con, bây giờ nó lại đánh cắp phước lành của con nữa! Cha ơi, cha còn dành cho con ít phước lành nào không?” Y-sác đáp: “Cha đã lập nó làm chủ con, cha đã cho các anh em họ hàng làm tôi tớ nó. Ta đã cho nó lúa và rượu mới. Vậy cha có thể làm gì cho con đây?” Ê-sau năn nỉ: “Cha chỉ có một phước lành thôi sao? Cha ơi, xin cha cũng ban phước cho con.” Ê-sau khóc lóc. Y-sác nói:“Con sẽ ở một nơiCằn cỗi, khô hạn,Thiếu sương móc từ trời. Nhưng con sẽ dùng lưỡi gươm chiến đấu để sống còn.Con phải phục dịch em con một thời gianNhưng về sau con sẽChống đốiVà thoát ách nó.” Từ đó, Ê-sau căm ghét Gia-cốp vì Gia-cốp đã cướp phước lành của mình. Ê-sau tự nhủ: “Cha ta gần qua đời rồi; bấy giờ ta sẽ giết Gia-cốp!” Có người thuật lại các lời của Ê-sau cho bà Rê-bê-ca. Bà sai gọi Gia-cốp đến, và bảo: “Nầy, Ê-sau định giết con. Bây giờ, con nghe lời mẹ, trốn qua nhà La-ban, cậu con ở Cha-ran. Con cứ ở đó cho đến khi nào anh con nguôi giận và quên đi việc con đã làm, lúc đó mẹ sẽ tin cho con biết mà trở về nhà; không lẽ mẹ phải mất cả hai đứa con trong một ngày sao?” Bà Rê-bê-ca nói với chồng: “Tôi đã chán ngấy mấy cô dâu người Hếch. Nếu Gia-cốp cưới phải một cô vợ người Hếch như thế trong xứ, thì tôi thà chết còn hơn!” Y-sác gọi Gia-cốp vào chúc phước lành rồi căn dặn: “Con đừng cưới vợ Ca-na-an! Trái lại, con hãy lên đường về xứ Pha-đan A-ram, đến nhà Bê-tu-ên, ông ngoại con; rồi cưới một cô con gái của cậu La-ban làm vợ! Cầu Đức Chúa Trời Toàn Năng ban phước cho con, cho con đông con, cho dòng dõi con sinh sôi nẩy nở và trở thành một cộng đồng nhiều dân tộc. Cầu Chúa cho con và dòng dõi con hưởng phước lành của Áp-ra-ham và cho con làm chủ miền đất con đang kiều ngụ mà Đức Chúa Trời đã ban cho Áp-ra-ham!” Vậy, Y-sác sai Gia-cốp đi qua xứ Pha-đan A-ram, đến nhà La-ban, cậu của Gia-cốp, và là con trai của Bê-tu-ên, người A-ram. Ê-sau nhận thấy cha mình chúc phước cho Gia-cốp, bảo Gia-cốp qua xứ Pha-đan A-ram kiếm vợ và nghiêm cấm Gia-cốp cưới vợ người Ca-na-an; và được cha chúc phước lành. Gia-cốp vâng lời và lên đường qua xứ Pha-đan A-ram. Ê-sau thấy những người vợ Ca-na-an không đẹp lòng Y-sác, cha mình. Ê-sau bèn đi đến nhà chú mình là Ích-ma-ên, cưới thêm cô vợ thứ ba. Nàng tên là Ma-ha-bát, con Ích-ma-ên, cháu nội Áp-ra-ham và em của Nê-ba-giốt. Gia-cốp từ giã Biệt-sê-ba đi qua xứ Pha-đan A-ram. Đêm ấy, Gia-cốp dừng chân, chọn một tảng đá gối đầu nằm ngủ. Gia-cốp nằm mộng thấy một chiếc thang bắc từ đất lên trời và thấy các thiên sứ lên xuống trên thang ấy. CHÚA đứng trên đầu thang, gọi Gia-cốp: “Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, và của Y-sác, cha con. Đất con đang nằm đây thuộc về con! Ta ban miền đất này cho con và cho dòng dõi con. Dòng dõi con sẽ đông như cát bụi trên mặt đất. Con sẽ mở rộng biên cương cả đông tây, nam bắc. Các dân tộc trên thế giới sẽ nhờ con và hậu tự của con mà được phước. Này, Ta sẽ ở cùng con luôn, con đi đâu Ta sẽ theo gìn giữ đó và đem con về xứ này, vì Ta không bao giờ bỏ con, cho đến khi Ta hoàn thành lời Ta đã hứa với con.” Gia-cốp thức giấc, tự nhủ: “Thật, CHÚA ngự tại đây mà ta không biết!” Ông sợ hãi nói: “Nơi này thật đáng kính sợ. Đây chính là nhà của Đức Chúa Trời, là cổng trời!” Gia-cốp dậy sớm, lấy tảng đá gối đầu đêm qua dựng lên làm trụ kỷ niệm, đổ dầu ô-liu trên đỉnh, rồi đặt tên địa điểm này là Bê-tên, thay vì tên cũ là Lu-xơ. Gia-cốp khấn nguyện: “Nếu Đức Chúa Trời ở với con, gìn giữ con trên đường con đang đi, cho con đủ ăn đủ mặc, và đưa con trở về nhà cha con bình an vô sự, thì CHÚA sẽ là Đức Chúa Trời của con. Còn tảng đá kỷ niệm này sẽ trở thành nhà Chúa và con sẽ dâng lại cho Chúa một phần mười mọi vật Chúa ban cho.” Gia-cốp tiếp tục đi đường, và đến một xứ ở phương đông. Thấy đàng xa có ba bầy chiên đang nằm bên giếng, giữa một cánh đồng, là nơi chiên đến uống nước. Tuy nhiên trên miệng giếng có một tảng đá lớn đậy lại. Vì theo lệ thường phải đợi cho bầy súc vật họp lại đông đủ, người ta mới lăn tảng đá đi. Khi chúng uống xong, họ đặt tảng đá lên miệng giếng như cũ. Gia-cốp đến chào kẻ đang chăn chiên, hỏi họ từ đâu đến đây.Họ đáp: “Từ Pha-đan A-ram.” Gia-cốp hỏi: “Các anh có biết ông La-ban, con Na-cô không?” Họ đáp: “Biết chứ!” Gia-cốp tiếp: “Ông ấy mạnh giỏi không?”Đáp: “Ông ta vẫn mạnh khỏe. Kìa, cô Ra-chên, con ông ấy đang dẫn bầy chiên đến kia kìa!” Gia-cốp gợi ý: “Trời hãy còn sớm, chưa đến giờ tập họp các bầy gia súc để đem đến, sao các anh không cho chúng uống nước rồi thả chúng đi ăn trở lại?” Họ đáp: “Không được, theo lệ phải đợi các bầy súc vật tề tựu đông đủ mới lăn tảng đá đi, cho chúng uống nước!” Hai bên còn đang chuyện trò, cô Ra-chên dẫn bầy chiên của cha đến giếng vì cô cũng là người chăn. Gia-cốp biết Ra-chên là em cô cậu với mình và bầy chiên này cũng của cậu mình, nên Gia-cốp một mình đến lăn tảng đá để trên miệng giếng rồi múc nước cho bầy chiên của cậu mình uống. Gia-cốp hôn Ra-chên rồi khóc òa lên và cho nàng biết mình là bà con, là cháu gọi La-ban bằng cậu ruột. Ra-chên nghe xong, vội vả chạy về báo tin cho cha. La-ban được tin của Gia-cốp, cháu mình đã đến, liền chạy ra đón tiếp, ôm chầm lấy Gia-cốp mà hôn, rồi đưa về nhà. Gia-cốp kể lại mọi điều cho La-ban nghe. La-ban đáp: “Cháu đúng là cốt nhục của cậu!” Gia-cốp ở nhà cậu một tháng. Một hôm, La-ban bảo Gia-cốp: “Không lẽ vì tình bà con ruột thịt mà cháu làm việc không công sao? Cháu muốn cậu trả lương bao nhiêu?” La-ban có hai cô con gái, cô chị tên Lê-a có cặp mắt yếu, còn cô em, tên Ra-chên, có một thân hình cân đối, dung nhan tuyệt đẹp. Gia-cốp yêu Ra-chên nên đề nghị với cậu: “Cháu xin giúp việc cho cậu bảy năm nếu cậu gả cho cháu cô Ra-chên, con gái út của cậu!” La-ban chấp thuận ngay: “Thà cậu gả nó cho cháu, còn hơn gả cho người ngoài, hãy ở với cậu!” Vậy Gia-cốp phục dịch cậu suốt bảy năm để được cưới Ra-chên. Nhưng vì yêu Ra-chên, nên Gia-cốp coi bảy năm như bằng đôi ba ngày. Gia-cốp nhắc La-ban: “Cháu đã làm đầy đủ, xin cậu gả nàng cho con để chúng con chung sống.” La-ban bèn đặt tiệc lớn, mời tất cả những người trong cộng đồng đến dự lễ cưới. Nhưng đêm ấy, La-ban đánh tráo Lê-a thay cho Ra-chên. Gia-cốp ngủ với Lê-a. La-ban cũng cho đầy tớ gái Xinh-ba theo hầu Lê-a. Sáng hôm sau, Gia-cốp thức dậy thấy Lê-a! Gia-cốp nói với La-ban: “Sao cậu gạt tôi vậy? Tôi phục dịch cậu chỉ vì Ra-chên.” La-ban đáp: “Phong tục đây là thế! Không được gả em trước chị sau. Cháu cứ đợi qua tuần trăng mật với Lê-a, cậu sẽ gả luôn Ra-chên cho, với điều kiện cháu giúp việc thêm cho cậu bảy năm nữa!” Gia-cốp đồng ý. Sau tuần ấy, La-ban gả luôn Ra-chên cho Gia-cốp và cho cô đầy tớ gái Bi-la theo hầu Ra-chên. Gia-cốp sống với Ra-chên và yêu Ra-chên hơn Lê-a. Gia-cốp phục dịch La-ban thêm bảy năm nữa. CHÚA thấy Lê-a bị ghét, bèn cho nàng sinh sản còn Ra-chên phải son sẻ. Lê-a thụ thai sinh con trai đầu lòng, đặt tên là Ru-bên, vì bà nói: “CHÚA thấy nỗi đau khổ của tôi; bây giờ chồng tôi sẽ yêu tôi.” Lê-a thụ thai nữa, sinh con trai thứ nhì, đặt tên là Si-mê-ôn, vì bà nói: “CHÚA đã nghe rằng tôi bị ghét bỏ, nên ban nó cho tôi.” Lê-a thụ thai lần thứ ba, sinh con trai và đặt tên là Lê-vi vì bà nói: “Bây giờ chồng tôi sẽ khắng khít với tôi, vì tôi sinh được ba con trai cho người!” Lần thứ tư, Lê-a thụ thai, sinh con trai và đặt tên là Giu-đa, vì bà nói: “Bây giờ, tôi ca ngợi CHÚA!” Sau đó, nàng thôi sinh nở một thời gian. Ra-chên thấy mình son sẻ, bèn ganh tức với chị, lại trách móc Gia-cốp: “Anh phải cho tôi có con! Bằng không, tôi sẽ chết!” Gia-cốp nổi giận, nói: “Anh có thay quyền Đức Chúa Trời được đâu! Chỉ một mình Ngài có quyền để cho em son sẻ!” Ra-chên đề nghị: “Đây Bi-la, đầy tớ gái của em, anh ngủ với nó, để nó sinh con cho em và nhờ nó em cũng tạo dựng một gia đình cho em.” Vậy Ra-chên trao Bi-la, đầy tớ gái của mình cho chồng. Gia-cốp ngủ với Bi-la, nàng thụ thai, sinh một con trai. Ra-chên đặt tên nó là Đan, rồi giải thích: “Đức Chúa Trời đã minh oan cho tôi, nghe lời tôi van nài và ban cho tôi một con trai.” Bi-la thụ thai lần thứ nhì và sinh một con trai nữa cho Gia-cốp. Ra-chên đặt tên nó là Nép-ta-li, rồi giải thích: “Tôi đã tranh đấu với chị tôi và thắng cuộc!” Trong khi đó, Lê-a thấy mình thôi sinh nở, bèn giao cô đầy tớ gái Xinh-ba cho chồng làm vợ. Xinh-ba thụ thai, sinh một con trai cho Gia-cốp. Lê-a nói: “Thật may mắn,” nên đặt tên nó là Gát (nghĩa là may mắn). Xinh-ba lại thụ thai và sinh con trai thứ nhì. Lê-a đặt tên nó là A-se, rồi giải thích: “Tôi vui sướng vô cùng! Các phụ nữ sẽ nhìn nhận tôi là người có phước.” Một hôm, giữa mùa gặt lúa mì, Ru-bên ra đồng ruộng, hái được mấy trái táo rừng đem về biếu mẹ. Ra-chên thấy được, xin Lê-a cho một vài quả. Lê-a nói: “Mày cướp chồng tao, chưa đủ hay sao, lại còn muốn cướp táo của con tao?”Ra-chên đáp: “Chị cho em ăn táo, em sẽ để anh ấy ngủ với chị tối nay!” Đến chiều tối, Gia-cốp ở đồng áng về đến nhà, đã thấy Lê-a ra đón: “Anh phải ngủ với em đêm nay, vì em đã lấy táo của con em mà ‘thuê’ anh một đêm đó!” Gia-cốp ngủ với nàng đêm ấy. Chúa nhậm lời cầu nguyện của Lê-a và cho nàng thụ thai trở lại. Nàng sinh con trai thứ năm và đặt tên là Y-sa-ca và giải thích rằng: “Đức Chúa Trời đã trả công lại cho tôi vì tôi đã giao đầy tớ gái cho chồng.” Lê-a thụ thai nữa, sinh con trai thứ sáu, đặt tên là Sa-bu-luân rồi giải thích: “Đức Chúa Trời đền lại cho tôi một món quà quý báu. Bây giờ, chàng sẽ quý trọng tôi vì tôi đã sinh cho chàng sáu con trai rồi.” Sau hết, Lê-a sinh được một con gái, đặt tên là Đi-na. Đức Chúa Trời nhớ lại Ra-chên, nhậm lời cầu nguyện của nàng và cho nàng sinh nở. Nàng thụ thai và sinh một con trai, nên nàng ca ngợi Chúa: “Đức Chúa Trời đã cất sự sỉ nhục khỏi tôi rồi!” Nàng đặt tên con là Giô-sép và thầm nguyện: “Xin CHÚA cho con thêm một đứa nữa!” Sau khi Ra-chên sinh Giô-sép, Gia-cốp yêu cầu La-ban: “Xin cậu cho cháu về quê. Cháu đã tận tình phục vụ cậu, xin cậu cho cháu đem vợ con lên đường!” Nhưng La-ban đáp: “Xin cháu đừng bỏ đi. Vì theo bói khoa cậu biết CHÚA ban phước lành cho cậu đều là do cháu cả. Cháu muốn cậu tăng lương bao nhiêu, cậu cũng bằng lòng trả!” Gia-cốp đáp: “Cậu đã biết cháu phục vụ thế nào, lo cho gia súc cậu ra sao. Trước ngày cháu đến, cậu chỉ có ít tài sản, bây giờ cậu đã giàu có lớn. CHÚA đã ban phước dồi dào cho cậu qua mọi việc cháu làm. Nhưng còn phần cháu thì sao? Bao giờ cháu mới lo cho gia đình?” La-ban lại hỏi: “Cháu đòi lương hướng bao nhiêu?”Gia-cốp đáp: “Không có gì cả. Nếu cậu chấp thuận điều này, cháu sẽ trở lại làm việc cho cậu. Hôm nay cậu để cháu đi kiểm soát các bầy gia súc của cậu. Những con chiên, con dê nào có rằn, có đốm hoặc lông đen thì cậu để riêng cho cháu, kể là tiền công. Từ nay về sau, khi cậu xét tiền công, lòng thành thật của cháu sẽ làm chứng cho cháu. Nếu cậu bắt gặp con chiên, con dê nào lông trắng trong bầy gia súc của cháu, thì cậu cứ kể là ăn cắp!” La-ban chấp thuận đề nghị ấy: “Cháu đã nói thế thì cậu cũng bằng lòng!” Ngay hôm ấy, La-ban chọn riêng tất cả dê chiên lông đen hoặc có rằn, có đốm, kể cả các con có đốm trắng, và giao cho các con trai mình chăn, rồi bảo chúng lùa tất cả đi cách xa địa điểm La-ban và Gia-cốp đang ở đến ba ngày đường. Gia-cốp chăn bầy gia súc còn lại của La-ban. Gia-cốp lấy những cành bạch dương, cành hạnh và cành ngô đồng mới nứt, lột bớt vỏ từng đường dài trắng, để lộ phần trắng trên cành, rồi đặt cạnh các máng nước cho dê, chiên trông thấy mỗi khi chúng đến uống nước và giao hợp nhau. Sau đó, chúng đẻ con, con nào cũng có sọc có rằn, có đốm cả. Gia-cốp bèn bắt các con này để riêng ra. Gia-cốp cũng đem các chiên cái của La-ban ra, cho chúng giao hợp với chiên đực đen của mình. Thế là Gia-cốp gây được nhiều bầy dê, bầy chiên cho mình và không để chúng chung với bầy của La-ban. Gia-cốp chỉ đặt các cành lột vỏ trong máng trước các dê chiên mập mạp khi chúng giao hợp nhau. Người không để cành trước các con yếu. Các con ốm yếu vẫn tiếp tục đẻ con gầy guộc cho La-ban; chỉ những đàn con mập mạnh mới về tay Gia-cốp. Kết quả là bầy gia súc của Gia-cốp gia tăng nhanh chóng. Gia-cốp trở nên rất thịnh vượng, có nhiều súc vật, nhiều nô lệ, lạc đà và lừa. Gia-cốp nghe các con La-ban nói mình sang đoạt tài sản của La-ban và nhờ tài sản của cha mà nên giàu có như vậy. Gia-cốp để ý nét mặt La-ban và thấy rằng ông ta đã đổi thái độ đối với mình. CHÚA bảo Gia-cốp: “Con hãy về quê mình, nơi họ hàng con, Ta sẽ ở cùng con!” Gia-cốp sai gọi hai vợ ra đồng cỏ, nơi ông đang chăn bầy súc vật. Gia-cốp nói: “Anh thấy cha đã đổi thái độ đối với anh, nhưng Đức Chúa Trời của cha anh vẫn phù hộ anh. Hai em đã biết anh hết sức phục vụ cha, còn cha đã gạt anh, thay đổi tiền công liên tiếp cả mười lần. Nhưng Đức Chúa Trời đâu có để người hại ta. Cha bảo cho anh các chiên có đốm là tiền công, thế là chiên cứ đẻ con có đốm. Cha bảo chiên nào có sọc là tiền công; thế là chiên cứ đẻ con có sọc. Như thế, chính là Đức Chúa Trời đã lấy súc vật của cha mà cho anh đấy! Việc xẩy ra thế này: khi bầy vật giao hợp, anh nằm mộng thấy các con dê đực giao hợp trong bầy đều là những con có sọc, có rằn, có đốm. Lúc ấy, thiên sứ của Chúa liền báo mộng cho anh. Thiên sứ gọi: ‘Gia-cốp!’ Anh thưa: ‘Có tôi đây!’ Thiên sứ bảo: ‘Con hãy nhìn lên! Các dê đực đang giao hợp kia đều sanh ra những con có sọc, có rằn, có đốm, vì ta biết cách La-ban đối xử với con. Ta là Đức Chúa Trời đã hiện ra gặp con tại Bê-tên, là nơi con xức dầu trên trụ đá và hứa nguyện với Ta. Bây giờ, con hãy đứng dậy, bỏ xứ này để trở về quê hương con!’” Ra-chên và Lê-a đáp: “Chúng em đâu còn cơ nghiệp, gia tài gì ở nhà cha nữa! Cha đã coi chúng em như người dưng, gả bán chúng em, và cha ăn xài hết! Dĩ nhiên, tất cả tài sản Đức Chúa Trời lấy nơi cha là để cho mẹ con chúng em. Bây giờ anh cứ làm theo điều Chúa dạy.” Gia-cốp liền đứng dậy đỡ vợ con lên lưng lạc đà, lùa đi hết các bầy gia súc, di chuyển tất cả của cải đã thâu trữ được tại xứ Pha-đan A-ram, đi về xứ Ca-na-an, nơi cha mình cư ngụ. Thừa dịp cha bận đi hớt lông chiên, Ra-chên đánh cắp các thần tượng gia đình. Gia-cốp đánh lừa La-ban, người Sy-ri, không cho ông biết ý định hồi hương của mình, bất ngờ đem cả gia đình, tài sản qua sông Ơ-phơ-rát, trực chỉ về núi Ga-la-át. Ba ngày sau, có người báo cáo Gia-cốp đã trốn đi, La-ban lập tức triệu tập người nhà, đuổi theo Gia-cốp suốt bảy ngày, đến tận núi Ga-la-át mới bắt kịp. Đức Chúa Trời bèn báo mộng cho La-ban: “Dù lành hay dữ, hãy thận trọng, đừng nói gì với Gia-cốp!” Đuổi đến núi Ga-la-át, La-ban thấy gia đình Gia-cốp cắm trại bên sườn núi bên kia, bèn cho người nhà cắm trại bên này. La-ban hỏi Gia-cốp: “Cháu làm chi vậy? Tại sao cháu gạt cậu và áp giải các con gái cậu như tù binh? Sao lại bí mật trốn đi và gạt cậu, không cho cậu biết, để cậu vui vẻ tiễn đưa trong tiếng hát, tiếng trống và đàn? Sao không để cho cậu hôn từ biệt con cháu của cậu? Việc cháu làm thật là điên dại! Cậu có quyền hại cháu, nhưng Đức Chúa Trời của cha cháu đã dặn cậu tối qua: ‘Dù lành hay dữ, hãy thận trọng đừng nói gì với Gia-cốp!’ Nay cháu mong mỏi về quê nhà nên đã ra đi, nhưng tại sao lại đánh cắp thần tượng của cậu?” Gia-cốp đáp: “Vì tôi sợ cậu bắt lại hai con gái của cậu nên tôi phải ra đi bất thường như thế. Còn các thần tượng của cậu, đứa nào lấy thì sẽ chết! Trước mặt đông đủ anh em, cậu cứ vào soát các hành lý của tôi đi, xem có vật gì thuộc về cậu thì thu hồi.” Gia-cốp không biết Ra-chên đã đánh cắp các thần tượng ấy! Vậy, La-ban lần lượt vào lục soát các trại của Gia-cốp, của Lê-a và của cả hai người thiếp, nhưng chẳng tìm được gì cả. Từ trại Lê-a, La-ban bước qua trại Ra-chên. Số là Ra-chên đã đem giấu mấy thần tượng đó dưới bành lạc đà rồi ngồi lên trên. La-ban soát khắp trại cũng chẳng tìm thấy các tượng. Ra-chên giải thích: “Thưa cha, vì con đang có kinh nguyệt, nên không đứng dậy đón rước cha được, xin cha miễn chấp!” La-ban lại lục soát nhưng cũng chẳng tìm ra các tượng. Gia-cốp bèn nổi giận trách La-ban: “Tôi có phải là phạm nhân hay tội lỗi gì mà cậu rượt bắt như thế? Cậu lục soát các hành lý của tôi, cậu có tìm ra vật gì thuộc quyền sở hữu của cậu không? Cậu cứ đem tang vật ra đây cho bà con xét xử. Suốt hai mươi năm tôi trú tại nhà cậu, có đời nào tôi để cho chiên, dê của cậu bị sảo thai, có đời nào tôi ăn thịt chiên đực trong bầy cậu không. Tôi chẳng bao giờ đem về cho cậu một con gia súc nào bị thú dữ cắn xé! Nếu có thì tôi cũng đã bồi thường cho cậu. Thế mà cậu đòi tôi phải trả những con bị trộm cắp ban ngày và ban đêm! Ban ngày tôi bị nắng nóng như thiêu, ban đêm tôi chịu lạnh lẽo, ngủ cũng không an giấc. Suốt hai mươi năm trời tôi phục vụ trong nhà cậu; cũng vì muốn cưới hai cô con gái cậu mà phải lao công mười bốn năm, còn sáu năm cũng chỉ vì mấy bầy súc vật, thế mà cậu còn tráo trở, thay đổi tiền công tôi cả mười lần! Nếu tôi không được sự phù hộ của Đức Chúa Trời của cha tôi là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham mà cha tôi kính thờ, chắc hẳn bây giờ cậu đuổi tôi đi với hai bàn tay trắng. Đức Chúa Trời đã thấy rõ nỗi đau khổ của tôi và nhìn nhận công khó của tôi, nên đêm qua Ngài đã xét xử rồi!” La-ban đáp: “Các người đàn bà này là con gái của cậu, các đứa trẻ này là cháu của cậu, các bầy gia súc cháu có đây cũng là của cậu. Bất cứ vật gì cháu có ngày nay cũng là tài sản của cậu hết. Hôm nay cậu có thể làm gì cho con, cho cháu của cậu đây? Cháu hãy đến đây kết ước với cậu, để có một sự thỏa thuận từ nay về sau giữa đôi bên!” Gia-cốp bèn chọn một tảng đá, dựng lên làm một tấm bia, rồi bảo gia nhân lượm đá dồn lại làm một đống đá. Gia-cốp và La-ban ngồi ăn bên đống đá. La-ban gọi là Y-ê-ga Sa-ba-đu-la còn Gia-cốp gọi là Ga-lét. La-ban nói: “Đống đá này sẽ làm chứng cho cậu và cháu hôm nay nên nó được gọi là Ga-lét.” Vì thế đống đá này cũng được gọi là Mích-ba “Tháp canh” và La-ban giải thích: “Cầu Chúa canh giữ cháu và cậu khi ta xa cách nhau. Nếu cháu bạc đãi con gái cậu mà lấy vợ khác, thì cháu nên nhớ rằng dù cậu không biết đi nữa, thì Đức Chúa Trời sẽ làm chứng giữa chúng ta.” La-ban lại nói cùng Gia-cốp rằng: “Này đống đá, này cây trụ mà cậu đã dựng lên giữa cậu và cháu đây. Đống đá này làm chứng giữa cháu và cậu về lời cam kết hai bên chẳng bao giờ vượt qua giới hạn này để tấn công nhau. Nguyện Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham và Na-cô và của tổ phụ họ phân xử giữa chúng ta!”Vậy Gia-cốp thề trước mặt Đức Chúa Trời mà Y-sác, cha mình kính sợ. Gia-cốp bèn dâng cho Đức Chúa Trời một tế lễ trên đỉnh núi và mời bà con dự tiệc, rồi ở cả đêm với họ trên núi. Hôm sau, La-ban dậy sớm hôn từ biệt các con gái và các cháu mình, chúc phước cho con cháu rồi lên đường về nhà. Gia-cốp và cả gia đình tiếp tục cuộc hành trình. Gặp các thiên sứ tại một địa điểm, Gia-cốp nói: “Đây là trại Đức Chúa Trời!” nên ông gọi chỗ ấy là Ma-ha-na-im. Gia-cốp sai sứ giả lên núi Sê-i-rơ trong xứ Ê-đôm tìm Ê-sau, trình rằng: “Tôi tớ ông là Gia-cốp nói: ‘Tôi đã kiều ngụ với cậu La-ban cho đến ngày nay; tôi có nhiều tôi trai tớ gái, bò, lừa và các bầy gia súc. Nay chúng tôi sắp về tới quê nhà, xin kính tin anh rõ. Mong anh vui lòng tiếp đón!’” Sứ giả quay về báo cáo: “Chúng tôi đã tìm gặp Ê-sau, anh của ông. Ông ấy đang đem bốn trăm người đến đón ông chủ!” Gia-cốp được tin rất sợ hãi và buồn, ông chia gia nhân, chiên, dê, bò lừa thành hai toán. Ông tự bảo: “Nếu anh ta tấn công toán này, toán kia có thể chạy thoát.” Gia-cốp cầu nguyện khẩn thiết: “Lạy Đức Chúa Trời của ông nội con là Áp-ra-ham, và của cha con là Y-sác, CHÚA là Đấng đã bảo: ‘Con hãy trở về quê hương, sống với bà con thân thích. Ta sẽ hậu đãi con!’ Thật ra, con chẳng xứng đáng nhưng Chúa đã thương xót và giữ đúng tất cả những lời Ngài hứa. Khi con vượt sông Giô-đanh này chỉ có một cây gậy mà nay con có hai toán người. Con xin Chúa giải thoát con khỏi tay Ê-sau, anh con. Vì con sợ anh ấy đến đánh giết con và vợ con con. Chúa đã hứa: ‘Chắc chắn Ta sẽ hậu đãi con, cho dòng dõi con đông như cát biển không ai đếm được.’” Tối hôm ấy, Gia-cốp ở lại Ma-ha-na-im và chọn các món quà để biếu Ê-sau. Quà tặng gồm có: hai trăm dê cái, hai mươi dê đực, hai trăm chiên cái, hai mươi chiên đực, ba mươi lạc đà cái và đàn con, bốn mươi bò cái, mười bò đực, hai mươi lừa cái và mười lừa đực. Gia-cốp giao các bầy súc vật cho đám tôi tớ mình, mỗi người coi sóc một bầy, và căn dặn họ: “Các anh cứ đi trước, giữ một khoảng cách giữa các bầy súc vật.” Gia-cốp cũng dặn người dẫn bầy thứ nhất: “Khi Ê-sau gặp anh và hỏi: ‘Chủ anh là ai? Anh đi về đâu? Bầy vật này thuộc về ai?’ Anh cứ đáp: ‘Bầy vật này là của Gia-cốp, tôi tớ ngài, xin kính tặng ngài. Gia-cốp còn ở phía sau!’ Gia-cốp lại dặn các tôi tớ chăn bầy khác cũng nói với Ê-sau những lời đó, rồi thêm: ‘Này, Gia-cốp tôi tớ ngài, đang theo sau chúng tôi!’” Gia-cốp tự nhủ: “Ta gửi các tặng phẩm này trước, cho Ê-sau nguôi giận đã, rồi mình giáp mặt sau, chắc hẳn Ê-sau sẽ tiếp mình tử tế!” Các lễ vật được đem đi hết; tối hôm ấy, Gia-cốp ở lại trong trại. Giữa đêm khuya, Gia-cốp thức dậy, đưa hai vợ, hai cô hầu và mười một con trai qua suối Gia-bốc với tất cả tài sản còn lại. Gia-cốp ở lại một mình, có một người đấu vật với mình cho đến rạng đông. Thấy mình không thắng được, người ấy liền đụng vào khớp xương hông của Gia-cốp làm trật xương hông, và bảo rằng: “Trời đã sáng, hãy để ta đi!”Nhưng Gia-cốp đáp: “Nếu Ngài không ban phước lành cho tôi, tôi không để Ngài đi đâu!” Người ấy hỏi: “Tên con là chi?”Đáp rằng: “Gia-cốp.” Người liền bảo: “Tên con không phải là Gia-cốp nữa, nhưng bây giờ là Y-sơ-ra-ên vì con đã vật lộn với Chúa và người, con đều thắng cả!” Gia-cốp thưa: “Xin cho con biết tên Ngài.”Người ấy đáp: “Con hỏi tên ta làm chi?” Rồi người ban phước lành cho Gia-cốp tại đó. Gia-cốp gọi địa điểm này là Phê-niên và giải thích rằng ông đã đối diện cùng Đức Chúa Trời mà vẫn còn sống. Gia-cốp ra khỏi Phê-niên lúc trời rạng đông, ông đi khập khểnh vì trật khớp xương hông. Về sau, dân Y-sơ-ra-ên không bao giờ ăn gân đùi ở khớp xương hông vì người ấy đã đụng vào khớp xương hông, vào gân đùi của Gia-cốp. Ngước mặt lên, Gia-cốp thấy Ê-sau và bốn trăm người tiến đến. Gia-cốp lập tức chia đàn con cho Lê-a, Ra-chên và hai cô hầu. Hai cô hầu và đàn con họ đi trước. Kế đến là Lê-a và năm con, rồi Ra-chên và Giô-sép đi sau cùng. Gia-cốp vượt lên trước vợ con để đón Ê-sau, cúi mọp xuống đất bảy lần trước mặt anh mình. Nhưng Ê-sau chạy đến ôm choàng Gia-cốp, bá lấy cổ mà hôn. Hai anh em đều khóc. Thấy vợ con Gia-cốp tiến đến, Ê-sau hỏi: “Những người đi theo em đó là ai?” Gia-cốp đáp: “Đó là con cái Chúa đã cho em.” Hai cô hầu dẫn đàn con đến cúi mọp xuống chào Ê-sau, đến Lê-a và các con và sau hết là Ra-chên và Giô-sép. Ê-sau hỏi: “Các bầy vật đó em định làm chi?”Gia-cốp đáp: “Xin hiến dâng cho anh để anh dủ lòng thương.” Ê-sau từ khước: “Anh có đủ tài sản rồi; em cứ giữ các bầy vật đó.” Gia-cốp khẩn khoản: “Không, em nài xin anh vui lòng nhận các lễ vật ấy, vì em được gặp anh cũng như gặp Chúa rồi; anh đã vui lòng tiếp đón em! Xin anh nhận lễ vật em đã dâng hiến vì Đức Chúa Trời đã hậu đãi em và cho em đầy đủ mọi sự.” Gia-cốp nài nỉ mãi cho đến khi Ê-sau nhận các lễ vật ấy. Ê-sau đứng dậy đề nghị: “Này, anh em ta hãy lên đường, anh sẽ hộ tống em.” Nhưng Gia-cốp phân trần: “Anh biết đám trẻ con còn yếu, bầy chiên, bò có nhiều con đang bú, nếu ép đi nhanh, chắc chỉ một ngày là chúng bỏ mạng. Xin anh cứ đi trước, còn em sẽ chậm rãi theo sau, đi cho vừa sức của trẻ con và súc vật đang bú, cho đến chừng nào tới nhà anh trên núi Sê-i-rơ.” Ê-sau đề nghị: “Để anh bảo gia nhân ở lại làm hướng đạo cho em.”Nhưng Gia-cốp từ khước: “Không cần, anh đã tỏ lòng thương em là quý lắm rồi.” Ngay hôm ấy, Ê-sau quay về núi Sê-i-rơ. Còn Gia-cốp đi đến Su-cốt hạ trại và làm chuồng cho các bầy súc vật. Từ đó người ta gọi địa điểm này là Su-cốt. Kể từ ngày lìa xứ Pha-đan A-ram, Gia-cốp đi đường bình an đến xứ Ca-na-an và hạ trại trước thành Si-chem. Gia-cốp tậu một miếng đất cắm trại giá một trăm miếng bạc của anh em Si-chem tức là các con trai của Hê-mô. Gia-cốp lập một bàn thờ tại Si-chem, và đặt tên bàn thờ là Ên, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Một hôm, cô Đi-na, con gái của Lê-a và Gia-cốp, đi thăm các thiếu nữ trong vùng. Hoàng tử Si-chem, con vua Hê-mô của dân Hê-vít, thấy cô liền bắt cóc và cưỡng hiếp. Si-chem say đắm Đi-na, dùng đủ lời đường mật quyến rũ cô. Si-chem lại xin vua Hê-mô cho chàng cưới Đi-na làm vợ. Gia-cốp được tin, lặng người, không nói một lời trong lúc các con trai còn bận chăn bầy vật ngoài đồng chưa về. Vua Hê-mô, cha Si-chem, đến thăm Gia-cốp để cầu hôn cho con. Các con trai Gia-cốp đang làm việc ngoài đồng rất buồn rầu và giận dữ khi nghe Si-chem cưỡng hiếp em và gây sỉ nhục cho gia đình mình. Vua Hê-mô cũng đến yêu cầu Gia-cốp: “Con trai tôi đã yêu Đi-na tha thiết. Xin hãy gả cô Đi-na cho con trai tôi. Xin quý vị cứ làm thông gia với chúng tôi, hai bên cưới gả với nhau. Quý vị cứ định cư tại đây; đất nước chúng tôi sẵn sàng tiếp đón quý vị, xin quý vị ở đây buôn bán, tậu mãi tài sản đất ruộng.” Si-chem thưa với Gia-cốp và các con trai ông: “Xin quý vị làm ơn cho tôi. Quý vị thách cưới thế nào, tôi cũng xin vâng. Quý vị cứ đòi hồi môn cho cao, sính lễ cho nhiều, tôi xin nộp đủ số, miễn là quý vị gả cô ấy cho tôi làm vợ.” Các con trai Gia-cốp đáp lời Hê-mô và Si-chem cách mưu mẹo vì em mình bị cưỡng bức: “Gả em gái cho người chưa chịu cắt bì là một điều sỉ nhục, chúng tôi không thể nào chấp thuận. Nhưng nếu mỗi người nam của dân tộc ông đều chịu lễ cắt bì, chúng tôi sẵn lòng cưới gả với dân tộc các ông, như thế chúng ta sẽ thành một dân tộc thống nhất. Nhưng nếu các ông không chịu cắt bì, chúng tôi sẽ bắt em gái lại và dọn đi xứ khác.” Nghe đề nghị ấy, Hê-mô và Si-chem đều thỏa mãn. Quá say mê sắc đẹp của Đi-na, Si-chem vội vã triệu tập dân chúng tại cổng thành để thúc đẩy mọi người chấp nhận đề nghị trên vì Si-chem là người được tôn trọng nhất trong hoàng tộc. Hê-mô và Si-chem kêu gọi: “Những người này đã sống chung hòa bình với chúng ta. Vậy hãy cho họ cư ngụ trong xứ để làm ăn buôn bán; vì xứ chúng ta đất rộng, đủ chỗ cho họ định cư. Chúng ta hãy cưới gả với họ. Họ chỉ đòi một điều kiện là tất cả các người nam của chúng ta đều phải chịu cắt bì như họ, vậy rồi họ mới chịu đồng hóa với chúng ta thành một dân tộc thống nhất. Đồng bào cứ chấp thuận điều kiện đó để họ định cư với chúng ta, tất nhiên bao nhiêu tài sản, bầy chiên, bầy bò của họ đều về tay chúng ta hết!” Tất cả dân chúng có mặt ở cổng thành đều vâng theo lời của Hê-mô và Si-chem và chịu lễ cắt bì. Ngày thứ ba, khi họ còn đau nhức, Si-mê-ôn và Lê-vi, anh của Đi-na, rút gươm bất thần xông vào, tàn sát tất cả người nam trong thành luôn với Hê-mô và Si-chem rồi giải thoát Đi-na. Các con trai của Gia-cốp thừa thắng xông lên, cướp phá thành để báo thù cho em gái. Họ bắt các bầy chiên, bò, lừa và tất cả của cải, bảo vật trong thành cũng như sản vật ngoài đồng ruộng. Họ cũng bắt vợ con của các nam đinh thành Si-chem và cướp đoạt tài sản trong nhà họ. Gia-cốp được tin liền trách mắng Si-mê-ôn và Lê-vi: “Chúng mày gây rối cho cha, làm cho chúng ta bị ghét giữa dân chúng xứ này, giữa dân Ca-na-an và dân Phê-ri-sít. Chúng ta chỉ có ít người, dân bản xứ sẽ liên minh tấn công và tàn sát cha và cả gia đình, thì chúng ta đành bị tiêu diệt.” Nhưng họ đáp: “Thưa cha, không lẽ để nó hành hạ em chúng con như gái mãi dâm sao?” Đức Chúa Trời bảo Gia-cốp: “Con hãy lên định cư tại Bê-tên, và lập một bàn thờ cho Đức Chúa Trời là Đấng đã hiện ra gặp con lúc con đang chạy trốn Ê-sau, anh con!” Gia-cốp thuật lại cho cả gia nhân quyến thuộc và căn dặn: “Hãy vứt bỏ hết các thần tượng, dọn mình cho thanh sạch và thay áo xống đi! Chúng ta hãy đứng dậy, lên Bê-tên; tôi sẽ lập một bàn thờ cho Đức Chúa Trời là Đấng nhận lời tôi trong ngày hoạn nạn và ở cùng tôi trong các chặng đường đời.” Họ liền nộp cho Gia-cốp các thần tượng đang cất giấu và các đôi bông tai họ đang đeo. Gia-cốp đem chôn hết dưới gốc cây sồi tại Si-chem. Gia đình Gia-cốp nhổ trại ra đi. Đức Chúa Trời làm cho dân các thành chung quanh khiếp sợ, không dám đuổi theo các con trai Gia-cốp. Gia-cốp và cả gia đình đến Bê-tên mà người Ca-na-an gọi là Lu-xơ. Gia-cốp xây một bàn thờ và đặt tên nơi đó là Ên-bê-tên vì Đức Chúa Trời đã xuất hiện gặp ông tại đây trong ngày ông chạy trốn anh mình. Đê-bô-ra, người vú của Rê-bê-ca qua đời và được an táng tại Bê-tên dưới gốc một cây sồi mang tên là A-long-ba-cúc. Đức Chúa Trời lại xuất hiện, gặp Gia-cốp lần thứ nhì sau khi ông lìa xứ Pha-đan A-ram và ban phước cho người. Ngài bảo: “Tên cũ của con là Gia-cốp, nhưng đừng dùng tên ấy nữa. Tên con sẽ là Y-sơ-ra-ên.” Và Ngài gọi ông là Y-sơ-ra-ên. Chúa dạy tiếp: “Ta là Đức Chúa Trời Toàn Năng. Con hãy sinh sôi nẩy nở, không những thành một dân tộc nhưng nhiều dân tộc. Dòng dõi con sẽ có nhiều vua chúa. Ta sẽ cho con và dòng dõi con vùng đất Ta đã cho Áp-ra-ham và Y-sác.” Rồi Đức Chúa Trời ngự lên khỏi nơi này. Gia-cốp liền dựng tại đó một cây trụ đá, dâng tế lễ và tưới dầu vào. Gia-cốp gọi địa điểm này, nơi ông nói chuyện với Đức Chúa Trời là Bê-tên. Gia-cốp cùng gia đình bỏ Bê-tên ra đi. Khi gần đến Ép-ra-ta, Ra-chên chuyển bụng nhưng khó sinh. Trong khi sinh khó khăn, Ra-chên nghe người nữ hộ sinh bảo: “Bà đừng sợ, vì bà sắp sinh một con trai nữa.” Nhưng Ra-chên đã hấp hối, bà đặt tên con là Bên-ô-ni Gia-cốp đặt tên con là Bên-gia-min. Ra-chên qua đời và được an táng trên đường đến Ép-ra-ta, cũng gọi là Bết-lê-hem. Gia-cốp dựng bia tại ngôi mộ Ra-chên, đến ngày nay vẫn còn. Y-sơ-ra-ên tiếp tục cuộc hành trình, đi quá tháp Ê-đa, thì cắm trại để nghỉ chân. Trong thời gian ở đó, Ru-bên vào ngủ với Bi-la, vợ hầu của cha mình. Có người báo cáo cho Gia-cốp. Đây là tên mười hai con trai của Gia-cốp:Các con của Lê-a:Ru-bên, trưởng nam,Si-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, Y-sa-ca và Sa-bu-luân. Các con của Ra-chên:Giô-sép và Bên-gia-min. Các con của Bi-la, cô hầu của Ra-chên:Đan và Nép-ta-li. Các con của Xinh-ba, cô hầu của Lê-a:Gát và A-se.Tất cả mười hai con trai đều sinh tại xứ Pha-đan A-ram. Rốt cuộc, Gia-cốp về đến nhà cha tại Mam-rê, thành Ki-ri-át Ạc-ta, nay là Hếp-rôn, cũng là nơi ngụ của Áp-ra-ham và Y-sác ngày trước. Y-sác hưởng thọ một trăm tám mươi tuổi rồi qua đời. Ông sống trọn đời đến già và được hai con trai là Ê-sau và Gia-cốp an táng. Đây là dòng dõi của Ê-sau, tức Ê-đôm. Ê-sau cưới ba vợ đều là người Ca-na-an, A-đa, con gái của Ê-luân, người Hê-tít; Ô-hô-li-ba-ma, con gái của A-na, cháu của Xi-bê-ôn, người Hê-tít và Bách-mát, con gái của Ích-ma-ên, con của Nê-ba-út. A-đa sinh Ê-li-pha, Bách-mát sinh Ru-ên. Ô-hô-li-ba-ma sinh Giê-úc, Gia-lam và Cô-ra. Tất cả các con trai ấy đều sinh tại xứ Ca-na-an. Ê-sau đưa vợ con, gia nhân và đem các bầy súc vật và tất cả tài sản gây dựng tại xứ Ca-na-an qua vùng cách xa gia đình Gia-cốp vì cả hai anh em đều có quá nhiều tài sản không thể sống chung được nữa và xứ họ đang cư ngụ cũng không cung ứng nổi nhu cầu của hai gia đình đông đúc ấy. Vậy, Ê-sau, tức là Ê-đôm, ở trên núi Sê-i-rơ. Hậu tự của Ê-sau, tức là người Ê-đôm, sinh tại núi Sê-i-rơ gồm có: Các con trai Ê-sau:A-đa vợ người, sanh Ê-li-pha; Bách-mát, cũng vợ người, sanh Ru-ên. Con trai của Ê-li-pha làThê-man, Ô-ma, Xê-phô, Ga-tham, Kê-nát; Thim-na, người vợ hầu của Ê-li-pha sinh A-ma-léc. Đó là cháu của A-đa, vợ Ê-sau. Còn đây là gia tộc Ru-ên, con trai của Bách-mát:Na-hát, Xê-ra, Sam-ma và Mích-xa. Ấy là các cháu của Bách-mát, cũng vợ Ê-sau. Và mấy người này là con trai của Ô-hô-li-ba-ma, vợ của Ê-sau, con gái A-na, cháu ngoại Xi-bê-ôn. Nàng sanh cho Ê-sauGiê-úc, Gia-lam, và Cô-ra. Các cháu nội của Ê-sau trở thành các tộc trưởng:chi tộc Thê-man, chi tộc Ô-ma, chi tộc Xê-phô, chi tộc Kê-na, chi tộc Cô-ra, chi tộc Ga-tham, chi tộc A-ma-léc. Các chi tộc ấy là hậu tự của Ê-li-pha, con trưởng nam của Ê-sau và A-đa. Các chi tộc do Ru-ên, thứ nam của Ê-sau và Bách-mát; sinh ra trong xứ Ca-na-an:chi tộc Na-hát, chi tộc Xê-ra, chi tộc Sam-ma, chi tộc Mích-xa. Các chi tộc dòng thứ ba, do các con của Ê-sau và Ô-hô-li-ba-ma, con gái A-na:chi tộc Giê-úc, chi tộc Gia-lam, chi tộc Cô-ra. Ấy là các con trai của Ê-sau, tức là Ê-đôm, và đó là mấy chi tộc của họ. Các sắc tộc bản xứ, là hậu tự của Sê-i-rơ, người Hô-rít:sắc tộc Lô-than, sắc tộc Sô-banh, sắc tộc Xi-bê-ôn, sắc tộc A-na, sắc tộc Đi-sôn, sắc tộc Ê-xe, sắc tộc Đi-san. Con của Lô-lân làHô-ri và Hê-man; em gái của Lô-lân là Thim-na. Con của Sô-banh làAnh-nan, Ma-na-hát, Ê-ban, Sê-phô và Ô-nam. Con của Xi-bê-ôn làAi-gia và An-na cậu này đã tìm thấy các suối nước trong giữa sa mạc trong lúc chăn lừa cho cha mình. Con của A-na làĐi-sôn và Ô-bê-li-ba-ma. Con của Đi-sôn làHem-đan, Ếch-ban, Ích-ran và Chê-ran. Con của Ê-xe làBinh-ban, Xa-van và A-can. Con của Đi-san làU-xơ và A-ran. Còn đây là các sắc tộc dân Hô-rít:sắc tộc Lô-than, sắc tộc Sô-ranh, sắc tộc Xi-bê-ôn, sắc tộc A-na, sắc tộc Đi-sôn, sắc tộc Ê-xe, sắc tộc Đi-san. Đó là các sắc tộc của dân Hô-rít, ở tại xứ Sê-i-rơ. Đây là tên các vua đã cai trị xứ Ê-đôm trước thời Y-sơ-ra-ên có vua cai trị. Bê-la, con trai Bê-ô, trị vì xứ Ê-đôm; tên thành người là Đin-ha-ba. Vua Bê-la chết, Giô-báp, con trai Xê-rách, người Bốt-ra, lên kế vị. Giô-báp chết, Hu-ram người Thê-man lên kế vị. Vua Hu-ram chết, Ha-đát, con trai Bê-đát, lên kế vị. Ấy là Vua này đánh thắng dân Ma-đi-an tại đồng Mô-áp; và tên thành người là A-vít. Vua Ha-đát chết, Sam-la, người Ma-rê-ca lên kế vị. Vua Sam-la chết, Sau-lơ, người Rê-hô-bốt ở trên mé sông lên kế vị. Vua Sau-lơ băng, Ba-anh-Ha-nan, con trai Ạc-bồ, lên kế vị. Vua Ba-anh-Ha-nan chết, Ha-đa lên kế vị. Tên thành người là Ba-u; vợ người là Mê-hê-ta-bên, con gái của Mát-rết, cháu ngoại Mê-sa-hạp. Đây là tên các chi tộc của Ê-sau, xứ họ ở được gọi theo tên chi tộc:chi tộc Thim-na, chi tộc Anh-va, chi tộc Giê-thi, chi tộc Ô-hô-li-ba-ma, chi tộc Ê-la, chi tộc Phi-nôn, chi tộc Kê-na, chi tộc Thê-man, chi tộc Míp-xa, chi tộc Mạc-đi, chi tộc I-ram.Tất cả các chi tộc ấy đều là dòng dõi của Ê-sau. Gia-cốp được định cư tại xứ Ca-na-an, nơi cha mình đã cư ngụ. Giô-sép, con Gia-cốp, đã lên mười bảy, thường đi chăn chiên cho cha mình với các anh, là con của Bi-la và Xinh-ba. Nhưng Giô-sép nói cho cha biết các việc xấu họ làm. Gia-cốp thương Giô-sép hơn các con khác, vì là con sinh ra lúc Gia-cốp đã cao tuổi. Gia-cốp cho Giô-sép món quà đặc biệt: một cái áo choàng nhiều màu sặc sỡ. Các anh Giô-sép ganh tỵ vì thấy cha thiên vị, nên họ không còn dịu ngọt với Giô-sép nữa. Một đêm, Giô-sép nằm mộng, sáng hôm sau liền thuật cho các anh nghe, nên càng bị họ ganh ghét: “Các anh nghe đây! Tối qua, tôi nằm mộng thấy anh em chúng ta đang bó lúa ngoài đồng. Bó lúa của tôi đứng lên, còn những bó lúa của các anh đều xúm quanh, cúi mọp xuống trước bó lúa của tôi.” Các anh bảo: “Thế là mày muốn làm vua chúng tao sao?” Họ càng ganh ghét vì câu chuyện chiêm bao và vì lời nói của Giô-sép. Giô-sép lại nằm mộng và thuật cho các anh: “Các anh hãy nghe chiêm bao của tôi. Tôi thấy mặt trời, mặt trăng và mười một ngôi sao đều cúi xuống trước mặt tôi.” Giô-sép nói với cha và anh em mình, cha quở trách Giô-sép về những lời này: “Mộng mị gì quái gở thế! Không lẽ cha mẹ, anh em đều phải cúi mọp trước mặt mày sao?” Các anh càng căm tức nhưng cha lại lưu ý điều ấy. Một hôm, các anh của Giô-sép dắt các bầy vật đến đồng cỏ Si-chem. Y-sơ-ra-ên bảo Giô-sép: “Các anh con đang chăn bầy tại Si-chem phải không? Con đi thăm xem chúng nó mạnh giỏi thế nào, bầy vật ra sao rồi về cho cha biết.” Giô-sép thưa: “Vâng ạ, con đi ngay!” Từ Hếp-rôn, Giô-sép lên đường qua Si-chem, nhưng đi lạc vào một khu đồng không mông quạnh. Một người bắt gặp, hỏi Giô-sép: “Cậu đi tìm ai?” Giô-sép đáp: “Tôi đi tìm các anh tôi. Xin ông cho biết họ chăn bầy tại đâu?” Người ấy nói: “Họ đi nơi khác rồi. Tôi nghe họ rủ nhau đi Đô-than.”Giô-sép tìm đến Đô-than để gặp các anh. Thấy Giô-sép còn ở đằng xa, các anh âm mưu giết em: “Kìa, thằng nằm mộng đến đây rồi! Anh em ta hãy giết nó, vất xác dưới hố rồi báo cáo cho cha rằng nó bị thú dữ ăn, để xem giấc mộng của nó có thành hay không?” Nhưng Ru-bên muốn cứu Giô-sép, liền bàn ra: “Đừng giết nó! Đổ huyết nó ra làm chi? Chỉ quăng nó xuống hố trong sa mạc!” Thật ra, Ru-bên lập mưu cứu em để nó an toàn về với cha. Giô-sép vừa đến nơi, các anh xúm nhau lột chiếc áo choàng sặc sỡ và quăng Giô-sép vào một cái hố cạn, không có nước. Các anh của Giô-sép đang ngồi ăn, chợt thấy một đoàn lái buôn Ả-rập cỡi lạc đà chở nhũ hương, dầu thơm và nhựa thơm từ xứ Ga-la-át thẳng tiến xuống Ai-cập. Giu-đa đề nghị: “Đem bán quách nó đi cho bọn lái buôn Ả-rập là lợi nhất! Chứ giết nó rồi tìm cách phi tang cũng chẳng ích gì! Anh em đừng giết nó vì nó là đứa em ruột thịt!” Họ đều chấp thuận đề nghị ấy. Khi các lái buôn Ả-rập đến nơi, họ kéo Giô-sép lên khỏi giếng và bán em cho người Ả-rập được hai mươi miếng bạc. Giô-sép bị đem xuống Ai-cập. Ru-bên quay lại giếng cạn tìm Giô-sép. Không thấy em đâu cả, Ru-bên xé áo chạy đến bảo các em: “Đứa bé mất tích rồi! Biết làm sao bây giờ?” Các anh em chọc huyết một con dê, nhúng áo choàng của Giô-sép vào huyết và gửi áo về cho cha với lời báo cáo: “Chúng con tìm được chiếc áo này. Xin cha xem có phải là của Giô-sép không?” Gia-cốp nhận ra áo của con nên than rằng: “Đúng là áo của con ta! Một thú dữ đã xé xác và ăn thịt nó rồi!” Gia-cốp xé toạc áo xống, mặc bao gai và để tang cho con mình một thời gian dài. Các con trai, con gái cố gắng an ủi cha, nhưng cha họ gạt đi: “Không! cha cứ khóc nó cho đến ngày xuống mồ.” Gia-cốp thương tiếc con. Trong khi đó, bọn lái buôn Ả-rập xuống Ai-cập bán Giô-sép cho Phô-ti-pha, quan chỉ huy đoàn ngự lâm quân của vua Ai-cập. Giu-đa lìa gia đình xuống A-đu-lam trọ tại nhà Hi-ra. Phải lòng một thiếu nữ Ca-na-an, con gái của Su-a, Giu-đa cưới nàng làm vợ. Hai vợ chồng sinh được đứa con trai, đặt tên là Ê-rơ. Nàng thọ thai nữa, sanh một con trai, đặt tên là Ô-nan; lại sanh thêm một con trai, đặt tên là Sê-la. Giu-đa đang ở Kê-xíp thì vợ sinh. Giu-đa cưới vợ cho Ê-rơ, con trưởng nam mình, cô này tên Ta-ma. Nhưng Ê-rơ là người gian ác, nên bị Chúa phạt phải chết sớm. Giu-đa bảo Ô-nan: “Con phải ăn nằm với Ta-ma và sinh con nối dõi cho anh, đúng theo luật định.” Nhưng Ô-nan biết nếu có sinh con cũng không thuộc về mình nên cứ để xuất tinh ra ngoài, cho Ta-ma đừng thụ thai. Hành động ấy không đẹp lòng Chúa, nên Ô-nan cũng phải chết sớm. Giu-đa bảo Ta-ma: “Con cứ về nhà cha mẹ ở góa đợi chờ một thời gian, cho đến khi Sê-la khôn lớn!” vì ông sợ không khéo Sê-la cũng chết luôn như hai anh nó. Ta-ma vâng lời về nhà cha mẹ. Sau một thời gian, vợ Giu-đa qua đời. Qua kỳ tang chế, Giu-đa rủ Hy-ra đi Thim-na thăm các nhân công chuyên hớt lông cừu của mình. Được tin ông gia sắp đến Thim-na để hớt lông chiên, Ta-ma liền bỏ áo quả phụ, hóa trang mang mạng che mặt và đến ngồi bên cổng thành Ê-nam trên đường đi Thim-na, hy vọng được ông gia mình kết hợp với Sê-la vì chàng đã khôn lớn rồi. Giu-đa đến nơi, thấy Ta-ma che mặt, không biết là dâu mình, tưởng lầm là gái mãi dâm, ông đến bảo muốn ngủ với cô ta.Ta-ma hỏi: “Ông cho tôi bao nhiêu?” Giu-đa đáp: “Một con dê con.”Ta-ma đề nghị: “Ông phải đặt cọc một cái gì trước khi gởi dê con đến cho tôi chứ!” “Đặt cọc gì đây?”“Cái nhẫn, sợi dây và cây gậy trong tay ông đó là được rồi!” Giu-đa đồng ý; do đó Ta-ma thụ thai. Nàng đứng dậy về nhà mặc lại chiếc áo quả phụ. Giu-đa nhờ Hy-ra đem chiên con đến Ê-nam để thu lại các vật đặt cọc, nhưng Hy-ra tìm mãi không thấy người đàn bà ấy. Hy-ra hỏi dân chúng Ê-nam: “Cô gái mãi dâm thường ngồi bên lề đường tại Ê-nam đi đâu rồi?”Họ đáp: “Ở đây làm gì có gái mãi dâm!” Hy-ra quay về, báo cáo cho Giu-đa: “Tôi tìm nó không được, hỏi dân chúng thì họ quả quyết rằng trong thành không có gái mãi dâm.” Giu-đa đáp: “Thôi cứ để nó giữ các thứ ấy cũng được, đừng để người ta chê cười chúng ta. Tôi đã đúng hẹn gửi chiên cho nó, mà anh tìm nó không được thì đành chịu vậy!” Ba tháng sau, có người đến báo cho Giu-đa: “Ta-ma, con dâu ông làm điếm nên chửa hoang rồi!”Giu-đa nổi giận quát: “Đem nó ra thiêu sống đi!” Ta-ma bị bắt ra dàn hỏa thiêu, liền nhờ người đem các vật đặt cọc trình cho Giu-đa: “Xin cha xét lại, xem các vật này của ai đây! Con thụ thai với người đó!” Giu-đa giật mình nhìn nhận: “Ta-ma phải lẽ hơn ta rồi! Chỉ vì ta đây không chịu cho Sê-la lấy nó như luật định...” Từ đó Giu-đa không ăn ở với Ta-ma nữa. Đến ngày sinh, Ta-ma sinh đôi. Một đứa sắp lọt lòng mẹ, cô hộ sinh cột sợi chỉ đỏ vào tay nó, nhưng nó rút tay vào. Thấy đứa kia ra trước cô hộ sinh ngạc nhiên: “Mày ở đâu mà xông ra đây?” Vì thế người ta đặt tên nó là Phê-rết có nghĩa là “xông ra”. Em nó lọt lòng sau, tay vẫn còn sợi chỉ đỏ, được đặt tên là Xê-ra. Bấy giờ, Giô-sép đã bị đưa xuống Ai-cập. Phô-ti-pha một người Ai-cập, làm quan trong triều Pha-ra-ôn, chỉ huy ngự lâm quân, mua Giô-sép nơi tay bọn người Ả-rập đã đem chàng đến. CHÚA ở với Giô-sép nên chàng được thịnh lợi trong nhà chủ mình là người Ai-cập. Chủ thấy CHÚA ở với chàng trong mọi việc chàng làm, khiến việc gì chàng chịu trách nhiệm cũng đều được thành công. Vậy Giô-sép được chủ mến chuộng, cử làm phụ tá, cho chàng làm quản gia và giao thác chàng coi sóc mọi người và mọi sự thuộc về chủ. Từ khi ông cử Giô-sép làm quản gia, coi sóc mọi tài sản thì CHÚA vì Giô-sép mà ban phước cho gia đình ông. Phước lành của CHÚA giáng xuống trên khắp mọi vật thuộc về chủ, cả trong nhà lẫn ngoài đồng. Chủ giao thác cho Giô-sép coi tất cả gia sản mình, không cần gì lo đến, chỉ lưu ý đến thực phẩm mình ăn.Giô-sép là người vạm vỡ, đẹp trai. Sau các việc đó, bà chủ liếc mắt đưa tình với Giô-sép mà bảo: “Hãy ngủ với em!” Nhưng Giô-sép từ khước và đáp: “Ông chủ đã giao thác cho tôi tất cả trong nhà này nên ông không cần lo đến nữa. Trong nhà không có ai lớn hơn tôi, chủ không giữ lại bất luận điều gì ngoại trừ bà vì bà là vợ ông chủ. Lẽ nào tôi làm điều đại ác và phạm tội với Đức Chúa Trời sao?” Ngày này qua ngày khác, bà chủ cứ tiếp tục quyến rũ, nhưng chàng vẫn từ khước không chịu ngủ với bà hoặc ở gần bà. Một hôm, chàng vào nhà làm việc, không có người đầy tớ nào ở đó. Bà nắm áo chàng mà bảo: “Hãy ngủ với em!” nhưng chàng bỏ áo lại trong tay bà và bỏ chạy ra ngoài. Thấy chàng để lại áo trong tay mình và chạy thoát ra ngoài nhà, bà chủ liền gọi các đầy tớ trong nhà mà bảo: “Coi kìa, tên Do Thái này được đem vào đây, nó nhục mạ chúng ta. Nó vào đây định làm nhục ta, nhưng ta kêu lớn lên. Khi nó nghe ta kêu cứu liền bỏ áo lại bên ta mà trốn ra ngoài nhà.” Bà chủ giữ chiếc áo của Giô-sép ở bên mình chờ ông chủ về nhà. Bà mách với chồng: “Thằng nô lệ Do Thái mà mình mang về đây đã đến chọc ghẹo em. Nhưng vừa khi nó nghe em kêu la cầu cứu, nó liền bỏ áo lại bên em và chạy trốn ra ngoài nhà.” Ông chủ nghe câu chuyện vợ kể rằng: “Đây là cách tên nô lệ của mình đối xử với em” thì nổi giận. Ông chủ bắt Giô-sép tống giam vào ngục là nơi giam cầm các tù nhân của vua.Nhưng khi Giô-sép ở trong tù, CHÚA ở với chàng, tỏ lòng nhân từ cùng chàng, làm cho chàng được ơn trước mặt giám ngục. Giám ngục giao thác hết các tù nhân trong tay Giô-sép. Chàng chịu trách nhiệm kiểm soát tất cả các việc xảy ra trong ngục. Giám ngục không cần quan tâm đến những việc đặt dưới quyền của Giô-sép nữa vì CHÚA ở với Giô-sép khiến cho bất luận việc gì chàng làm cũng đều thành công. Sau đó một thời gian, quan chước tửu và quan hỏa đầu Ai-cập xúc phạm đến nhà vua. Vua giận hai ông quan này và tống giam vào ngục trong nhà của sĩ quan chỉ huy ngự lâm quân, cùng một chỗ giam Giô-sép. Hai quan bị giam lâu ngày trong ngục và chỉ huy trưởng ngự lâm quân cắt Giô-sép phục vụ hai quan. Một đêm quan chước tửu và quan hỏa đầu đều nằm mộng, giấc mộng mỗi người có ý nghĩa khác nhau. Sáng hôm sau Giô-sép vào thấy hai quan đều buồn bã. Chàng hỏi hai quan chức của Pha-ra-ôn đang bị giam với mình trong nhà chủ mình: “Tại sao hôm nay sắc mặt của hai quan buồn như thế?” Hai quan trả lời: “Chúng tôi đều nằm mộng nhưng không có ai giải thích giấc mộng đó.”Giô-sép thưa: “Không phải việc giải mộng thuộc về Đức Chúa Trời sao? Xin hai quan thuật cho tôi nghe các giấc mộng đó.” Quan chước tửu thuật giấc mộng mình cho Giô-sép như sau: “Trong giấc mộng tôi thấy trước mặt có một dây nho, trên cây nho có ba cành, vừa khi cây nho nứt đọt trổ hoa thì các chùm nho cũng chín. Tôi đang cầm chén của Pha-ra-ôn trong tay, tôi hái nho vắt nước vào chén của Pha-ra-ôn và dâng vào tay nhà vua.” Giô-sép đáp: “Đây là ý nghĩa của giấc mộng đó: ba cành nho nghĩa là ba ngày trong ba ngày nữa nhà vua sẽ phóng thích, và phục chức cho quan. Quan sẽ dâng rượu cho nhà vua như quan đã làm ngày trước khi còn giữ chức chước tửu. Nhưng xin quan nhớ đến tôi khi quan gặp mọi việc hanh thông và làm ơn tâu với Pha-ra-ôn sự tình của tôi và đem tôi ra khỏi ngục tù này. Vì tôi đã bị bắt cóc đem ra khỏi đất của người Do Thái và ngay tại Ai-cập đây tôi cũng chẳng làm điều gì đáng bị bỏ tù cả.” Quan hỏa đầu thấy Giô-sép giải mộng tốt liền bảo Giô-sép: “Ta cũng có một giấc mộng: trên đầu ta đội ba giỏ bánh mì, Trong giỏ trên hết có đủ các thứ bánh làm cho nhà vua, nhưng đàn chim trời đến ăn các bánh đó trong giỏ trên đầu tôi.” Giô-sép đáp: “Đây là ý nghĩa giấc mộng đó: ba cái giỏ chỉ về ba ngày, trong ba ngày nữa Pha-ra-ôn sẽ đem quan ra nhưng lại treo cổ quan trên cây. Đàn chim trời sẽ ăn rỉa thịt quan.” Ba ngày sau đến sinh nhật của Pha-ra-ôn. Nhà vua thết tiệc đãi tất cả quần thần. Vua đem quan chước tửu và quan hỏa đầu ra trước mặt cả triều đình. Vua phục chức cho quan chước tửu để quan lại dâng rượu vào tay Pha-ra-ôn, nhưng vua treo cổ quan hỏa đầu đúng như Giô-sép đã nói với họ trong khi giải mộng. Quan chước tửu không nhớ đến Giô-sép, quên hẳn chàng đi. Hai năm trôi qua, Pha-ra-ôn nằm mộng thấy mình đang đứng bên bờ sông Ninh chợt thấy bảy con bò cái mập tốt từ dưới sông lên ăn cỏ giữa đám sậy. Sau đó, bảy con bò cái khác xấu xí gầy guộc cũng từ sông Ninh lên theo và đứng bên con bò kia trên bờ sông. Các con bò cái xấu xí gầy guộc nuốt mất bảy con bò mập tốt. Pha-ra-ôn thức giấc. Nhà vua ngủ tiếp và thấy giấc mộng thứ hai: bảy gié lúa chắc và tốt mọc chung trên một cọng lúa. Sau đó bảy gié lúa lép và bị gió đông làm sém đi mọc theo sau. Các gié lúa lép nuốt chửng bảy gié lúa chắc. Pha-ra-ôn thức giấc, đó là một điềm chiêm bao. Sáng hôm sau, tâm trí nhà vua bối rối nên cho triệu tập tất cả các pháp sư và các nhà thông thái Ai-cập. Pha-ra-ôn thuật các giấc mộng mình cho họ nhưng không một ai giải nổi cho nhà vua. Lúc ấy quan chước tửu mới tâu với Pha-ra-ôn: “Hôm nay tôi nhớ lỗi lầm của tôi. Khi bệ hạ nổi thạnh nộ với quần thần, bệ hạ đã cầm tù tôi và quan hỏa đầu trong nhà chỉ huy trưởng ngự lâm quân. Một đêm kia mỗi người chúng tôi đều nằm mộng; giấc mộng mỗi người có một ý nghĩa riêng. Lúc đó chàng thanh niên Do Thái ở trong ngục với chúng tôi; nó vốn là đầy tớ của chỉ huy trưởng ngự lâm quân. Chúng tôi thuật giấc mộng mình cho nó nghe, rồi nó giải mộng cho chúng tôi; mỗi người được một lời giải mộng khác nhau. Mọi việc diễn ra đúng như lời nó đã giải mộng: tôi được phục chức còn người kia bị treo cổ.” Pha-ra-ôn triệu Giô-sép vào, và chàng lập tức được đem ra khỏi ngục, cạo râu, thay quần áo rồi vào chầu Pha-ra-ôn. Pha-ra-ôn bảo Giô-sép: “Ta có một giấc mộng mà chẳng ai giải được. Nhưng ta nghe nói ngươi có tài giải mộng.” Giô-sép tâu với Pha-ra-ôn: “Không phải tôi nhưng Đức Chúa Trời sẽ cho nhà vua câu giải đáp thuận lợi.” Pha-ra-ôn thuật cho Giô-sép: “Trong giấc mộng, ta thấy mình đang đứng bên bờ sông Ninh. Bỗng nhiên dưới sông có bảy con bò cái mập tốt, lên ăn cỏ giữa đám lau sậy. Sau đó bảy con bò cái khác gầy guộc và xấu xí lên theo. Trong khắp xứ Ai-cập, ta chưa bao giờ thấy con bò cái nào xấu xí đến như thế. Bảy con bò xấu xí gầy guộc đó nuốt trửng bảy con bò béo tốt lên trước, dù nuốt rồi mà như không nuốt vì chúng vẫn xấu xí như trước; ta thức giấc. Rồi ta lại thấy một giấc mộng khác: bảy gié lúa chắc và tốt mọc chung trên một cọng lúa. Sau đó bảy gié lúa khác mọc ra vừa khô vừa lép như bị gió đông làm sém. Các gié lúa lép nuốt bảy gié lúa tốt. Ta đã thuật cho các pháp sư nhưng không ai giải mộng được cho ta.” Giô-sép tâu với Pha-ra-ôn: “Các giấc mộng mà vua thấy chỉ là một mà thôi. Đức Chúa Trời đã tiết lộ cho Pha-ra-ôn biết việc Ngài sẽ làm. Bảy con bò tốt chỉ về bảy năm và bảy gié lúa tốt cũng chỉ về bảy năm; đó chỉ về cùng một giấc mộng thôi. Bảy con bò gầy guộc xấu xí theo sau chỉ về bảy năm cũng như bảy gié lúa lép bị gió đông làm sém; chúng chỉ về bảy năm đói kém. Như tôi đã tâu với nhà vua: Đức Chúa Trời tiết lộ cho nhà vua việc Ngài sắp làm. Xứ Ai-cập được hưởng bảy năm được mùa dư dật, nhưng liền sau đó, sẽ đến bảy năm đói kém. Đến lúc ấy người ta sẽ quên sự dư dật trong xứ Ai-cập và nạn đói sẽ tàn phá đất đai. Người ta không còn nhớ sự dồi dào trong xứ vì nạn đói theo sau rất trầm trọng. Sở dĩ nhà vua được báo mộng dưới hai hình thức khác nhau là vì Đức Chúa Trời đã quyết định và Ngài sắp thực hiện việc này. Bây giờ xin nhà vua hãy tìm một người khôn ngoan có tài nhận thức và cử người lên lãnh đạo đất nước Ai-cập. Cũng xin nhà vua bổ nhiệm các ủy viên coi sóc đất nước để thu một phần năm hoa lợi mùa màng của Ai-cập trong bảy năm được mùa dư dật. Họ phải thu góp tất cả thực phẩm trong những năm được mùa sắp đến và tồn trữ lúa trong các thành dưới quyền của nhà vua. Thực phẩm đó phải giữ lại để dự trữ cho cả nước dùng trong bảy năm đói kém sắp xảy ra tại Ai-cập ngõ hầu đất nước không bị tàn hại về nạn đói.” Kế hoạch đó đẹp lòng Pha-ra-ôn và tất cả quần thần. Pha-ra-ôn bàn với triều đình: “Ta tìm đâu thấy một người có thần của Đức Chúa Trời ngự như người này?” Pha-ra-ôn bảo Giô-sép: “Vì Đức Chúa Trời đã tỏ cho ngươi biết tất cả những điều này nên không có ai khôn ngoan nhận thức bằng ngươi cả. Ngươi sẽ lãnh đạo cung điện ta và toàn thể dân tộc ta phải phục tùng ngươi. Ta lớn hơn ngươi chỉ vì ta ngự trên ngai này mà thôi.” Pha-ra-ôn bảo Giô-sép: “Đây, ta đặt ngươi lãnh đạo cả nước Ai-cập.” Pha-ra-ôn lấy chiếc nhẫn ấn trong ngón tay mình mà đeo vào ngón tay Giô-sép, cho ông mặc các áo dài bằng vải gai mịn và choàng trên cổ ông một chiếc dây chuyền bằng vàng. Pha-ra-ôn cũng cho Giô-sép ngồi xe đi sau xe nhà vua, nhân vật thứ hai trong nước, có người tiền hô la lớn: “Quỳ xuống!” Như thế Giô-sép được cầm quyền cả xứ Ai-cập. Pha-ra-ôn lại bảo Giô-sép: “Ta làm vua nhưng chẳng có ngươi thì khắp cả xứ Ai-cập không ai dơ tay hay đưa chân lên nổi cả.” Pha-ra-ôn đặt tên cho Giô-sép là Xa-phơ-nát Pha-nê-ách và gả A-sê-na, con gái của Phô-ti-pha, thầy trưởng tế thành Ôn cho ông. Vậy Giô-sép cầm quyền khắp nước Ai-cập. Giô-sép được ba mươi tuổi khi nhậm chức. Ông từ cung vua, ra đi kinh lý khắp nước. Trong bảy năm được mùa, đất sinh hoa lợi đầy dẫy. Giô-sép thu tất cả lương thực sản xuất trong bảy năm được mùa đó tại Ai-cập và tồn trữ trong các thành. Trong mỗi thành ông tồn trữ hoa lợi từ các đồng ruộng xung quanh. Giô-sép thu trữ lúa má rất nhiều, như cát bờ biển, nhiều đến nỗi không thể nào ghi vào sổ được nữa vì số lượng quá lớn lao. Trước khi những năm đói kém đến Giô-sép và A-sê-na sinh hạ được hai con trai; A-sê-na là con gái Phô-ti-pha, nguyên thầy tế lễ thành Ôn. Giô-sép đặt tên con đầu lòng là Ma-na-se mà nói: “Vì Đức Chúa Trời đã làm cho tôi quên tất cả nỗi gian truân và cả gia đình thân phụ tôi.” Ông đặt tên con trai thứ nhì là Ép-ra-im và giải thích: “Đó là vì Đức Chúa Trời làm cho tôi hưng vượng trong xứ mà tôi phải chịu đau khổ.” Bảy năm được mùa tại Ai-cập chấm dứt, và bảy năm đói kém bắt đầu, đúng như lời Giô-sép tiên đoán. Mọi xứ chung quanh đều đói, chỉ riêng Ai-cập vẫn còn lương thực. Khi cả nước Ai-cập bắt đầu bị đói, nhân dân kêu nài với Pha-ra-ôn xin cấp thực phẩm. Pha-ra-ôn bảo tất cả nhân dân Ai-cập: “Các ngươi hãy đi đến Giô-sép và làm theo điều người dặn bảo.” Khi cả đất nước Ai-cập bị nạn đói kém, Giô-sép mở các nhà kho và bán lúa cho dân vì nạn đói thật trầm trọng khắp xứ Ai-cập. Dân cư tất cả các nước đều đến Ai-cập mua lúa nơi Giô-sép vì nạn đói trở nên trầm trọng khắp thế giới. Gia-cốp được tin xứ Ai-cập còn có lúa, liền bảo các con trai: “Tại sao các con cứ nhìn nhau như thế? Cha nghe Ai-cập còn có lúa. Các con hãy xuống đó mua lúa cho chúng ta để chúng ta sống còn, khỏi chết.” Mười người anh của Giô-sép bèn đi xuống Ai-cập mua lúa. Nhưng Gia-cốp không cho Bên-gia-min, em của Giô-sép đi với các anh vì sợ nó bị tổn hại. Vậy các con của Y-sơ-ra-ên cũng ở trong số những người đi mua lúa vì nạn đói cũng đang hoành hành tại xứ Ca-na-an. Lúc ấy, Giô-sép làm tể tướng Ai-cập, kiêm việc bán lúa cho dân chúng. Các anh Giô-sép đến quỳ gối, sấp mình xuống đất trước mặt ông. Nhìn thấy các anh, Giô-sép nhận ra ngay nhưng ông giả bộ làm người xa lạ và gắt gao hỏi họ: “Các người từ đâu đến đây?” Họ đáp: “Chúng tôi từ xứ Ca-na-an đến để mua lúa.” Mặc dù Giô-sép nhận ra ngay các anh mình nhưng họ không biết ông là ai. Ông sực nhớ lại các giấc mộng về anh em nên bảo họ: “Các ngươi là thám tử, các ngươi đến đây để thăm dò nhược điểm của đất nước ta!” Họ đáp: “Thưa chúa không phải vậy đâu, các tôi tớ chúa đến để mua thực phẩm. Chúng tôi tất cả là con một cha và là người lương thiện, không phải là thám tử.” “Không! các ngươi đến đây để dò xét những địa điểm không được phòng thủ của đất nước chúng ta.” Nhưng họ đáp: “Các tôi tớ chúa vốn là mười hai anh em, con một cha đang sống tại xứ Ca-na-an. Người con út đang ở nhà với cha chúng tôi, còn một người đã mất biệt.” Giô-sép bảo họ: “Đúng như lời ta nói, các ngươi là thám tử! Đây là cách thử nghiệm các ngươi: Ta lấy sinh mạng Pha-ra-ôn thề rằng các ngươi không thể nào rời nơi này cho đến khi em út các ngươi đến đây. Hãy sai một người trong vòng các ngươi đem em út các ngươi xuống đây, còn tất cả sẽ bị tống giam để thử cho biết lời các ngươi khai có thật không. Nếu không, thì ta lấy sinh mạng của Pha-ra-ôn mà khẳng định rằng các ngươi là thám tử.” Rồi ông cho giam giữ họ ba ngày. Đến ngày thứ ba, Giô-sép bảo họ: “Các ngươi hãy làm điều này thì được sống vì ta kính sợ Đức Chúa Trời. Nếu các ngươi là người lương thiện, hãy để cho một người trong các anh em ở lại trong tù còn tất cả hãy ra về, chở lúa về nuôi gia đình đang đói. Nhưng các ngươi phải đem em út xuống cho ta để xác nhận lời khai của các ngươi là thật thì các ngươi khỏi chết.” Vậy họ vâng theo lời đó. Họ bảo nhau: “Thật chúng ta đang bị hình phạt vì em chúng ta. Chúng ta đã thấy nó sầu thảm khi nó năn nỉ xin tha mạng nhưng chúng ta không chịu nghe. Chính vì đó mà bây giờ chúng ta phải bị sầu thảm.” Ru-bên đáp: “Anh đã chẳng bảo các em đừng phạm tội ác ấy đối với đứa trẻ hay sao? Nhưng các em chẳng thèm nghe nên bây giờ chúng ta phải trả nợ máu đó.” Họ không biết Giô-sép hiểu được lời họ nói vì ông đã dùng một người thông ngôn. Giô-sép xoay qua chỗ khác mà khóc rồi ông lại tiếp tục nói chuyện với họ. Ông bắt Si-mê-ôn ở giữa các anh và ra lịnh trói lại trước mặt họ. Giô-sép bảo xúc lúa đổ đầy bao và để bạc lại trong bao cho mỗi người và cấp thêm lương thực đi đường. Người phụ tá vâng lời. Anh em Giô-sép chất các bao lúa lên lưng lừa rồi ra đi. Đến một quán trọ, một người mở bao ra cho lừa ăn lúa, thấy số bạc mình đã trả, nay nằm ngay miệng bao; ông sợ nên nói với các anh em: “Bạc của tôi đã được trả lại, và nằm ngay trong bao tôi!”Với lòng sợ hãi, họ run rẩy nhìn nhau mà nói: “Đức Chúa Trời làm gì cho chúng ta đây?” Khi về đến nhà cha mình là Gia-cốp ở xứ Ca-na-an, họ thuật cho cha tất cả những việc đã xảy ra. Họ thưa: “Người đang làm chúa tể trong xứ đó đã dùng lời xẳng xớm mà nói với chúng con và đối xử với chúng con như thám tử đang trinh sát xứ họ. Nhưng chúng con đã trình với ông ta: ‘Chúng tôi là người lương thiện không phải là thám tử đâu. Chúng tôi là mười hai anh em cùng một cha; một người đã mất biệt, và một người con út đang ở với cha chúng tôi tại xứ Ca-na-an.’ Lúc ấy người đang làm chúa tể trong xứ ấy bảo chúng con: ‘Đây là phương cách giúp ta biết các ngươi có phải là người lương thiện không: hãy để lại một người trong anh em lại đây với ta, còn các ngươi hãy đem lương thực về cho gia đình đang đói. Đi đi. Nhưng hãy đem em út xuống cho ta thì ta mới biết các ngươi không phải là thám tử nhưng chỉ là người lương thiện. Khi ấy ta sẽ trả người anh em kia lại cho các ngươi và các ngươi có thể buôn bán tại đất nước này.’” Khi họ trút lúa ra khỏi bao, bao của mỗi người đều có số bạc. Khi họ và thân phụ mình thấy các bao bạc đó, họ đều kinh khiếp. Gia-cốp, cha họ liền nói: “Bay đã tước đoạt các con trai ta. Giô-sép không còn nữa, Si-mê-ôn cũng biệt tăm; thế mà bây giờ bay muốn đem Bên-gia-min đi nữa. Mọi sự đều nghịch với ta!” Ru-bên thưa với cha mình: “Nếu con không đem em về cho cha thì cha hãy giết hai đứa con của con đi. Xin cha giao thác em cho con thì con sẽ đem em về.” Nhưng Gia-cốp đáp: “Con ta sẽ không xuống đó với bay đâu. Anh nó đã chết, chỉ còn một mình nó; nếu nó gặp tổn hại gì trong cuộc hành trình của bay tức là bay làm cho đầu bạc này đau buồn xuống mộ địa.” Nạn đói vẫn còn trầm trọng. Khi đã ăn hết lúa từ Ai-cập đem về, cha họ lại bảo: “Các con hãy trở xuống và mua một ít lương thực cho chúng ta.” Nhưng Giu-đa thưa với cha: “Người ấy đã nghiêm cấm chúng con: ‘nếu em các ngươi không đi theo các ngươi thì các ngươi sẽ chẳng bao giờ gặp mặt ta nữa.’ Nếu cha cho em cùng đi với chúng con, chúng con sẽ xuống mua lương thực cho cha và gia đình. Nhưng nếu cha không cho em đi thì chúng con sẽ không xuống đó đâu vì ông đó đã bảo chúng con: ‘Nếu em các ngươi không xuống đây với các ngươi thì các ngươi sẽ không bao giờ thấy mặt ta nữa.’” Y-sơ-ra-ên hỏi: “Tại sao các con khai còn một đứa em nữa mà gây rối cho cha?” Họ đáp: “Ông ấy tra hỏi chúng con thật kỹ về chúng con và về gia đình ta: cha các ngươi còn sống không? Các ngươi còn anh em nào nữa không? Chúng con chỉ trả lời câu hỏi của ông ấy. Chúng con đâu có biết ông ấy lại bảo: ‘Hãy đem em xuống đây.’” Giu-đa thưa cùng Y-sơ-ra-ên cha mình: “Xin cha cho cậu em đi với con thì chúng con sẽ ra đi tức khắc, ngõ hầu chúng ta tức là cha và con cái chúng con đều được sống và khỏi chết. Chính con xin bảo đảm an toàn cho em; bản thân con xin chịu trách nhiệm về em trước mặt cha. Nếu con không đem em nó về cho cha và đặt nó tại đây trước mặt cha thì con xin hứng chịu sự quở trách của cha suốt đời. Thật ra nếu chúng ta không lần lửa thì đã đi và về được hai chuyến rồi.” Lúc ấy Y-sơ-ra-ên, cha họ mới bảo: “Nếu việc chẳng đặng đừng thì các con hãy làm điều này. Hãy mang theo trong bao các phẩm vật cho người ấy: một ít nhũ hương và mật ong, hương liệu và nhựa thơm, hạt dẻ và hạnh nhân. Cũng hãy đem theo số bạc gấp đôi số trước vì các con phải trả lại bạc người ta để trong miệng bao của các con. Có lẽ đó là một sự lầm lẫn. Hãy dẫn em các con theo và trở xuống gặp người ấy ngay. Cầu xin Đức Chúa Trời toàn năng cho các con được ơn thương xót trước mặt người ấy để tha đứa con kia và cho Bên-gia-min về với các con. Còn phần cha, nếu phải mất đứa con thì đành phận vậy!” Vậy các anh em đem theo tặng phẩm và số bạc gấp đôi cùng với Bên-gia-min lên đường xuống Ai-cập và yết kiến Giô-sép. Vừa khi thấy Bên-gia-min xuống với anh em. Giô-sép bảo quản gia: “Hãy đưa những người này vào nhà ta, làm thịt một gia súc và dọn bữa ăn vì trưa nay họ sẽ ăn với ta.” Quản gia làm theo mọi điều Giô-sép đã dặn và đưa các anh em vào nhà Giô-sép. Thấy mình bị đưa vào nhà Giô-sép, các anh em hoảng sợ thầm nghĩ: “Chúng ta bị giải vào đây vì số bạc đã để lại trong bao chúng ta lần thứ nhất. Ông ấy muốn tấn công chúng ta, đàn áp chúng ta, bắt chúng ta làm nô lệ và cướp lừa của chúng ta.” Vậy họ đến gần quản gia của Giô-sép và thưa với ông tại ngoài cửa: “Thưa chúa, chúng tôi đã đến đây lần thứ nhất để mua lương thực. Nhưng khi đến nơi dừng lại để qua đêm, chúng tôi dỡ các bao ra thì đều thấy số bạc để nơi miệng bao mình cân nặng đúng y như cũ. Đây chúng tôi có mang theo số bạc đó. Chúng tôi cũng mang thêm số bạc để mua lương thực nữa, không biết ai để bạc đó trong bao chúng tôi.” Quản gia đáp: “Mọi việc đều tốt cả. Đừng sợ chi! Đức Chúa Trời của các anh và Đức Chúa Trời của thân phụ các anh đã để bảo vật trong bao các anh. Còn bạc các anh tôi đã nhận đủ.” Rồi quản gia đưa Si-mê-ôn đến cùng anh em. Quản gia đưa các anh em vào nhà Giô-sép, đem nước cho họ rửa chân và đem cỏ cho lừa ăn. Các anh em sắp xếp tặng phẩm chờ đợi trưa Giô-sép về vì được nghe sẽ phải ăn trưa tại đây. Khi Giô-sép về đến nhà, anh em dâng cho ông các tặng phẩm họ đã đem đến rồi sấp mình xuống đất trước mặt ông. Giô-sép chào hỏi họ và tiếp: “Vị cha già các ngươi từng nói đến có mạnh giỏi không? Cụ còn sống không?” Họ đáp: “Kẻ tôi tớ chúa là cha chúng tôi vẫn còn sống và mạnh khỏe.” Họ lại cúi đầu sấp mình xuống đất. Ngước mắt nhìn, Giô-sép thấy Bên-gia-min em ruột mình, con của mẹ mình, liền hỏi: “Đó có phải là người em út mà các ngươi đã nói không?” Ông tiếp: “Con ơi, cầu xin Đức Chúa Trời ban ơn cho con!” Khi thấy em mình, Giô-sép rất cảm động nên vội vã bước ra ngoài tìm chỗ để khóc. Ông vào phòng riêng để khóc. Sau khi rửa mặt, Giô-sép bước ra tự chủ được và ra lịnh: “Dọn ăn đi.” Người ta dọn cho Giô-sép ăn riêng, còn các anh em cũng ăn riêng và người Ai-cập thường ăn với Giô-sép cũng ăn riêng nữa, vì người Ai-cập ghê tởm người Do Thái nên không thể nào ăn chung được. Các anh em được xếp ngồi trước mặt Giô-sép theo thứ tự tuổi tác từ anh cả đến em út. Họ ngạc nhiên nhìn nhau. Khi dọn các món ăn bầy trước mặt mình cho các anh em, Giô-sép cho Bên-gia-min nhiều gấp năm phần của các người khác. Vậy họ tiệc tùng ăn uống vui vẻ với Giô-sép. Giô-sép ra chỉ thị cho quản gia: “Những người đó chở được bao nhiêu thì hãy đổ đầy lương thực trong bao họ bấy nhiêu, rồi để bạc của mỗi người lại trong bao của họ. Cũng hãy để cái chén bạc của ta nơi miệng bao chung với số bạc mua lúa của người em út.” Quản gia vâng lời làm mọi điều Giô-sép căn dặn. Hôm sau trời vừa sáng họ cho các người đó cỡi lừa ra đi. Họ ra khỏi thành chưa xa, Giô-sép bảo quản gia: “Anh hãy đuổi theo những người đó, khi bắt kịp hãy nói: ‘Tại sao các ngươi lấy oán trả ơn? Phải chăng đây là cái chén mà chủ ta thường dùng để uống rượu và bói toán? Các ngươi đã làm một việc gian ác!’” Khi bắt kịp, quản gia lặp lại những lời đó. Nhưng họ đáp: “Tại sao ngài trách chúng tôi như thế? Chẳng bao giờ các tôi tớ ngài làm như thế cả. Chúng tôi đã mang cho ngài số bạc tìm được trong miệng bao từ xứ Ca-na-an xuống đây. Lẽ nào chúng tôi lại ăn cắp bạc hoặc vàng trong nhà chủ ngài sao? Nếu người ta tìm được cái chén ấy trong bất cứ người nào trong vòng chúng tôi là tôi tớ ngài thì người đó phải chết còn chúng tôi xin làm nô lệ cho ngài.” Quản gia đáp: “Được, hãy làm như điều các ngươi nói. Ta tìm được cái chén ấy nơi ai thì người đó sẽ làm nô lệ cho ta; còn các ngươi không có gì đáng trách.” Mỗi người vội vã hạ bao mình xuống đất và mở ra. Quản gia bắt đầu lục từ người anh cả đến người em út, và tìm được cái chén trong bao của Bên-gia-min. Họ liền xé áo mình, mỗi người chất lại bao lúa trên lừa mình rồi cùng quay lại thành. Giô-sép vẫn còn ở nhà khi Giu-đa và các anh em bước vào. Họ sấp mình xuống đất trước mặt ông. Giô-sép trách: “Các ngươi làm chi vậy! Các ngươi không biết một người như ta có tài bói sao?” Giu-đa đáp: “Chúng tôi sẽ thưa với chúa làm sao, trình bày làm sao, biện minh làm sao? Đức Chúa Trời đã khám phá tội ác của chúng tôi rồi. Bây giờ chúng tôi xin làm nô lệ cho chúa. Tất cả chúng tôi lẫn người đã bị bắt quả tang có chén.” Nhưng Giô-sép đáp: “Ta chẳng bao giờ muốn làm điều như thế. Chỉ kẻ nào bị bắt được quả tang có chén mới làm nô lệ cho ta, còn các ngươi cứ về nhà cha mình bình an.” Giu-đa tiến lên gần Giô-sép mà nói: “Thưa chúa, xin cho phép kẻ tôi tớ chúa được thưa một lời với chúa. Xin đừng nổi giận cùng kẻ tôi tớ chúa dù chúa ngang vai với Pha-ra-ôn. Chúa tôi đã hỏi các tôi tớ chúa: ‘Các ngươi còn có cha hay anh em nào không?’ Chúng tôi đã thưa: ‘Chúng tôi còn cha già và một đứa em út sinh ra trong lúc người đã tuổi cao tác lớn. Anh ruột nó đã chết, trong các con của mẹ nó chỉ còn một mình nó và cha thương nó lắm.’ Lúc ấy chúa bảo: ‘Hãy đưa nó xuống với ta để ta được thấy tận mắt.’ Chúng tôi đã thưa với chúa: ‘Đứa trẻ không thể nào lìa cha được; nếu nó rời cha thì cha sẽ chết.’ Nhưng chúa lại dạy: ‘Nếu em út các ngươi không xuống với các ngươi thì các ngươi chẳng bao giờ được thấy mặt ta nữa.’ Nên khi chúng tôi quay về kẻ tôi tớ chúa là cha tôi, chúng tôi có thuật lại cho người nghe lời chúa dạy. Sau đó cha chúng tôi lại bảo: ‘Các con hãy trở xuống để mua ít lương thực.’ Chúng tôi thưa lại: ‘Không thể nào được, chỉ khi nào em út đi với chúng con thì chúng con mới xuống đó được. Còn không chúng con chẳng bao giờ được thấy mặt lại người đó.’ Kẻ tôi tớ chúa là cha tôi đáp: ‘Các con biết vợ ta sinh cho ta hai đứa con trai. Một đứa đã biệt tích nên ta nói chắc nó bị thú dữ xé xác rồi; vì từ đó ta chẳng bao giờ thấy nó nữa. Nếu các con cũng đem đứa này xa mặt cha và nếu có điều tổn hại xảy đến cho nó thì các con sẽ làm cho đầu bạc này đau lòng xót dạ mà xuống mộ địa.’ Bây giờ nếu em út không theo chúng tôi trở về với kẻ tôi tớ chúa là cha tôi, và nếu cha tôi đã khắng khít với em út tôi là thế, bây giờ nếu thấy đứa trẻ không còn đó nữa chắc người sẽ chết, và các tôi tớ chúa sẽ làm cho đầu bạc của cha chúng tôi đau lòng xót dạ xuống mộ địa. Vì kẻ tôi tớ này của chúa đã bảo đảm an ninh cho em út trước mặt cha. ‘Nếu con không đem em con về cho cha thì con sẽ mang tội cùng cha suốt đời.’ Vậy bây giờ xin cho tôi làm nô lệ thế cho đứa trẻ và cho đứa trẻ quay về với các anh nó. Nếu đứa trẻ không theo tôi, làm sao tôi có thể quay về với cha tôi? Không! tôi không nỡ nào chứng kiến cảnh đau lòng xót dạ của cha tôi đâu!” Lúc ấy Giô-sép không còn tự chủ được nữa trước mặt tất cả những người phụ tá, nên ông thét lên: “Mọi người phải rời đây ngay!” Như thế không còn người nào tại đó với Giô-sép khi ông tiết lộ danh tánh mình cho các anh em. Ông khóc lớn đến nỗi người Ai-cập nghe và triều đình Pha-ra-ôn cũng nghe nữa. Giô-sép bảo các anh em: “Tôi là Giô-sép, Cha tôi còn sống không?” Trước mặt Giô-sép, các anh em quá hoảng sợ nên không đáp lời được. Ông tiếp: “Mời các anh lại gần tôi.” Họ lại gần, ông nói: “Tôi là Giô-sép, em các anh đã bị các anh bán để đem qua Ai-cập. Bây giờ xin đừng khổ não cũng đừng tự trách về việc bán tôi qua đây, vì nhằm mục đích bảo tồn mạng sống mà CHÚA sai tôi đến đây trước các anh. Đã hai năm qua trên mặt đất có nạn đói kém, lại còn năm năm nữa không thể nào cày cấy hay gặt hái gì được cả. Nhưng Đức Chúa Trời sai tôi đi trước các anh để bảo tồn dòng dõi các anh trên mặt đất và để cứu mạng sống các anh bằng một cuộc giải cứu vĩ đại. Vậy, đó không phải là các anh, nhưng chính CHÚA sai tôi đến đây. Ngài đã làm cho tôi thành như cha của Pha-ra-ôn, chủ tể của cả hoàng gia và tể tướng cả nước Ai-cập. Bây giờ xin các anh hãy vội vã về với cha tôi và thưa với người: Đây là lời Giô-sép thưa với cha. Đức Chúa Trời đã lập con làm chủ tể cả nước Ai-cập. Kính mời cha xuống đây với con đừng trì hoãn. Cha sẽ sống tại vùng Gô-sen và ở gần con. Cha, các con và các cháu của cha, các bầy bò, bầy chiên và tất cả tài sản của cha. Con sẽ cung cấp mọi sự cho cha tại đó vì vẫn còn năm năm đói kém nữa. Nếu không, cha và nhà cha cùng tất cả những gì thuộc về cha sẽ bị tổn hại nặng nề. Các anh có thể thấy tận mắt cũng như em tôi là Bên-gia-min rằng chính tôi đang nói chuyện với các anh em. Xin thuật lại cho cha tôi về tất cả vinh dự tôi hưởng được tại xứ Ai-cập và tất cả những gì anh em thấy, rồi gấp rút đưa cha tôi xuống đây.” Giô-sép ôm choàng lấy Bên-gia-min em mình mà khóc. Bên-gia-min cũng ôm anh mình mà khóc. Giô-sép cũng hôn các anh mà khóc với họ. Sau đó các anh em chuyện trò với Giô-sép. Có tin tức loan truyền đến cung điện Pha-ra-ôn rằng: “Các anh em Giô-sép đã đến.” Pha-ra-ôn và tất cả triều thần đều vui thỏa. Pha-ra-ôn bảo Giô-sép: “Hãy nói với các anh em ngươi và bảo họ điều này. Hãy chất hành lý lên lừa và quay về xứ Ca-na-an, rồi đưa cha các ngươi và gia đình các ngươi xuống với ta. Ta sẽ ban cho các ngươi vùng đất tốt nhứt của Ai-cập, và các ngươi sẽ hưởng mầu mỡ của đất đai. Ngươi cũng truyền lệnh cho họ làm điều này: hãy lấy một số xe từ Ai-cập về cho con cái và vợ các ngươi và đưa cha các ngươi xuống đây. Đừng tiếc tài sản mình vì những gì quý nhất trong cả nước Ai-cập sẽ thuộc về các ngươi.” Các con trai của Y-sơ-ra-ên thực thi điều đó. Giô-sép vâng mạng Pha-ra-ôn cho các anh em mình xe cộ và lương thực đi đường. Ông tặng mỗi anh em y phục mới, nhưng cho Bên-gia-min ba trăm miếng bạc và năm bộ quần áo. Giô-sép gửi về cho cha các thứ sau đây: muời con lừa đực chở đầy phẩm vật tốt nhứt của Ai-cập và muời con lừa cái chở đầy lúa mì, bánh mì, và lương thực để cha dùng lúc đi đường. Vậy Giô-sép đưa các anh em mình lên đường. Trước khi họ ra đi, ông còn căn dặn: “Xin anh em đừng cãi nhau dọc đường.” Vậy họ từ xứ Ai-cập trở lên xứ Ca-na-an, về với Gia-cốp cha mình. Họ thưa với cha: “Giô-sép hãy còn sống. Thật ra Giô-sép đang tể trị cả nước Ai-cập.” Gia-cốp sững sờ không tin lời họ nói. Nhưng khi các con thuật lại mỗi lời Giô-sép đã nói và khi Gia-cốp thấy các cỗ xe mà Giô-sép gửi lên để rước cha xuống Ai-cập thì tâm thần người tỉnh lại. Y-sơ-ra-ên nói: “Bây giờ ta mới tin! Giô-sép con trai ta hãy còn sống; ta sẽ đi thăm nó trước khi ta qua đời.” Vậy Y-sơ-ra-ên ra đi đem theo tất cả tài sản mình. Đến Bê-e-sê-ba, người dâng các sinh tế cho Đức Chúa Trời của cha mình là Y-sác. Đức Chúa Trời phán bảo Y-sơ-ra-ên trong một khải tượng vào ban đêm: “Gia-cốp, Gia-cốp ơi!”Người đáp: “Có con đây.” Đức Chúa Trời phán: “Ta là Đức Chúa Trời của cha con. Con đừng ngại xuống Ai-cập, vì tại đó ta sẽ làm cho con thành một dân tộc lớn. Ta sẽ xuống Ai-cập với con và chắc chắn sẽ đem con về. Chính bàn tay Giô-sép sẽ vuốt mắt con.” Gia-cốp rời khỏi Bê-e-sê-ba. Các con trai Y-sơ-ra-ên đưa Gia-cốp cha mình, các con cái mình và vợ mình lên các cỗ xe mà Pha-ra-ôn đã gửi lên để chuyên chở. Họ cũng đem theo gia súc và của cải mình đã gây dựng tại Ca-na-an. Gia-cốp và tất cả con cháu mình đều xuống Ai-cập. Người đem theo các con trai và cháu trai cùng các con gái và cháu gái tức là tất cả con cháu mình. Đây là tên của con cháu Y-sơ-ra-ên đi xuống Ai-cập:Ru-bên, con trưởng nam của Gia-cốp. Các con trai của Ru-bên làÊ-nót, Pha-lu, Hết-rôn, và Cạt-mi. Các con trai của Si-mê-ôn là:Giê-mu-ên, Gia-min, Ô-hát, Gia-kin, Xê-ha, và Sau-lơ, tức là con của người vợ xứ Ca-na-an. Các con trai của Lê-vi là:Ghẹt-sôn, Kê-hát và Mê-ra-ri. Các con trai của Giu-đa là:Ê-rơ và Ô-nan, Sê-la, Phê-rết, và Xa-rách. Nhưng Ê-rơ và Ô-nan đã thác tại xứ Ca-na-an;con của Phê-rết làHết-rôn và Ha-mun. Các con trai của Y-sa-ca là:Thô-la, Phu-va, Gióp và Sim-rôn. Các con trai của Sa-bu-luân là:Sê-rết, Ê-lôn, và Gia-lê-ên. Các con trai và một con gái tên Đi-na mà Lê-a đã sinh cho Gia-cốp tại xứ Pha-đan A-ram, cùng các cháu đã cộng được ba mươi ba người. Các con trai của Gát là:Xi-phi-ôn, Ha-ghi, Su-ni, Ét-bôn, Ê-ri, A-rô-di, và A-rê-li. Các con trai của A-se là:Dim-na, Dích-và, Dích-vi, và Bê-ri-a,cùng Sê-rách, em gái các người đó.Con của Bê-ri-a làHê-be, và Manh-ki-ên. Các con trai Xinh-ba sinh cho Gia-cốp, cùng các cháu đó cộng được mười sáu người. Xinh-ba là đầy tớ gái La-ban đã cho hầu Lê-a, con gái mình. Các con trai của Ra-chên, vợ Gia-cốp làGiô-sép, và Bên-gia-min. Giô-sép đã có con tại xứ Ai-cập là Ma-na-se, và Ép-ra-im, mà A-sê-na, con gái của Phô-ti-pha, thầy tế lễ thành Ôn, đã sinh cho người. Các con trai của Bên-gia-min làBê-la, Bê-ka, Ách-bên, Giê-ra, Na-a-man, Ê-bi, Rô-sơ, Mốp-bim, Hốp-bim, và A-rết. Các con trai Ra-chên sinh cho Gia-cốp cùng các cháu đã cộng được mười bốn người. Các con trai của Đan là:Hu-sim. Các con trai của Nép-ta-li là:Giát-sê-ên, Gu-ni, Dít-se, và Si-lem. Các con trai Bi-la sinh cho Gia-cốp, cùng các cháu đó, cộng lại là bảy người. Bi-la là đầy tớ gái La-ban đã cho theo hầu Ra-chên, con gái mình. Những người đi xuống Ai-cập với Gia-cốp tức là con cháu của Gia-cốp nếu không kể các cô dâu cộng được sáu mươi sáu người. Con của Giô-sép sinh tại xứ Ai-cập là hai đứa. Vậy, những người thuộc gia đình Gia-cốp đi xuống Ai-cập, cộng tất cả là bảy mươi người. Gia-cốp sai Giu-đa đi trước để xin chỉ đường vào xứ Gô-sen. Khi họ vào đến xứ Gô-sen, Giô-sép đã chuẩn bị xe sẵn sàng và đến xứ Gô-sen đón Y-sơ-ra-ên, cha mình. Vừa thấy cha, Giô-sép ôm choàng lấy cha mình mà khóc rất lâu. Y-sơ-ra-ên bảo Giô-sép: “Bây giờ cha sẵn sàng qua đời vì cha được thấy con tận mắt và biết rằng con vẫn còn sống.” Giô-sép nói với các anh em và những người trong gia đình: “Tôi sẽ lên tâu với Pha-ra-ôn: các anh em tôi và nhà cha tôi trước kia sinh sống tại xứ Ca-na-an, bây giờ đã đến với tôi. Các người đàn ông làm nghề chăn chiên nuôi gia súc, và họ đã đem theo bầy bò, bầy chiên và tất cả của cải mình. Khi Pha-ra-ôn gọi anh em mà hỏi: các ngươi làm nghề gì? Các anh em phải trả lời: tôi tớ của bệ hạ chăn bầy gia súc từ tuổi thiếu niên như tổ phụ chúng tôi đã làm. Như thế anh em sẽ được vua cho phép định cư trong vùng Gô-sen vì người Ai-cập ghê tởm tất cả những người chăn bầy gia súc.” Giô-sép đi tâu với Pha-ra-ôn: “Thân phụ tôi và các anh em tôi từ xứ Ca-na-an đã xuống đây với bầy bò và bầy chiên của họ cùng với tất cả tài sản và hiện đang ở vùng Gô-sen.” Giô-sép cũng chọn năm anh em và trình diện họ cho Pha-ra-ôn. Pha-ra-ôn hỏi các anh em: “Các ngươi làm nghề gì?”Họ đáp: “Các tôi tớ vua làm nghề chăn bầy gia súc như tổ phụ chúng tôi đã làm.” Họ tâu với vua: “Chúng tôi đến đây để sinh sống một thời gian vì nạn đói ở xứ Ca-na-an thật trầm trọng và bầy gia súc của các tôi tớ vua không còn có nữa. Bây giờ xin vua cho các tôi tớ vua định cư tại Gô-sen.” Pha-ra-ôn bảo Giô-sép: “Thân phụ ngươi và anh em ngươi đã đến với ngươi. Đất nước Ai-cập ở trước mặt các ngươi, hãy cho thân phụ ngươi và anh em ngươi định cư tại phần đất đai tốt nhất trong xứ. Hãy để họ ở tại Gô-sen, và ngươi biết ai trong vòng họ có biệt tài, hãy đặt người ấy coi sóc bầy gia súc của ta.” Giô-sép đưa Gia-cốp cha mình vào bệ kiến Pha-ra-ôn. Sau khi được Gia-cốp chúc phước, Pha-ra-ôn hỏi người: “Cụ được bao nhiêu tuổi?” Gia-cốp thưa với Pha-ra-ôn: “Những năm tôi sống phiêu lưu kéo dài đến một trăm ba mươi năm. Các năm của đời tôi thật ngắn ngủi và nhọc nhằn không được bằng các năm phiêu lưu của thân phụ tôi.” Gia-cốp chúc phước cho Pha-ra-ôn một lần nữa rồi từ biệt nhà vua. Giô-sép giúp cha và các anh em mình định cư tại Ai-cập và cấp cho họ sản nghiệp tại phần đất tốt nhất trong xứ, trong địa hạt Ram-se, theo lệnh của Pha-ra-ôn. Giô-sép cũng cung cấp thực phẩm cho cha và các anh em mình cùng tất cả những người ở trong nhà cha mình tùy theo số trẻ em. Tuy nhiên khắp cả vùng đó không có lương thực vì nạn đói trầm trọng. Cả Ai-cập lẫn Ca-na-an đều điêu tàn vì nạn đói trầm trọng. Giô-sép thu hết tiền bạc trong xứ Ai-cập và trong xứ Ca-na-an tức là số tiền nhân dân mua lúa rồi chứa tiền bạc vào kho của Pha-ra-ôn. Khi tiền bạc trong xứ Ai-cập và xứ Ca-na-an đã hết, toàn thể nhân dân Ai-cập kéo đến với Giô-sép mà yêu cầu: “Xin cấp lương thực cho chúng tôi; không lẽ vì hết tiền mà chúng tôi phải chết đói trước mặt ngài sao?” Giô-sép đáp: “Nếu hết tiền bạc thì giao gia súc các ngươi cho ta, ta sẽ cấp phát lương thực đổi lại.” Dân dẫn các bầy gia súc lại cho Giô-sép. Giô-sép cấp phát lương thực đổi lấy ngựa, bầy chiên, bầy bò và lừa. Năm đó Giô-sép thu các bầy gia súc của họ mà đánh đổi bằng lương thực. Hết năm ấy, qua năm sau nhân dân lại kéo đến cùng Giô-sép trình bầy: “Chúng tôi không giấu chi ngài: tiền bạc hết sạch, bầy gia súc đã giao cho ngài. Bây giờ chỉ còn bản thân chúng tôi và đất ruộng. Không lẽ chúng tôi phải gầy mòn và đất ruộng phải điêu tàn trước mặt ngài hay sao? Xin hãy lấy lương thực đánh đổi chúng tôi và đất ruộng. Vậy chúng tôi và đất ruộng sẽ làm nô lệ cho Pha-ra-ôn. Xin hãy cấp hạt giống cho chúng tôi gieo để chúng tôi sống còn, khỏi chết và đất đai không bị bỏ hoang.” Giô-sép mua tất cả ruộng đất trong xứ Ai-cập cho Pha-ra-ôn. Vì đói kém ngặt nghèo nên tất cả dân Ai-cập đều đem bán ruộng mình; nên tất cả ruộng đất đều thuộc về Pha-ra-ôn. Người Ai-cập trở thành nô lệ từ đầu này đến đầu kia của đất nước. Tuy nhiên Giô-sép không mua đất đai của các thầy tế lễ vì họ được lãnh một phần lương thực như Pha-ra-ôn đã ấn định và đủ ăn nhờ phần lương thực do Pha-ra-ôn cấp phát, vì thế họ không bán đất đai của mình. Giô-sép nói với nhân dân Ai-cập: “Hôm nay ta đã mua các ngươi với đất ruộng các ngươi cho Pha-ra-ôn; đây là hạt giống để các ngươi trồng tỉa. Đến mùa gặt hái, các ngươi hãy đem một phần năm hoa lợi cho Pha-ra-ôn. Các ngươi được giữ bốn phần năm kia làm hạt giống cho đồng ruộng, làm lương thực cho các ngươi, con cái các ngươi và cả nhà các ngươi.” Họ đáp: “Ngài đã cứu mạng chúng tôi! Nguyện chúng tôi được ơn trước mặt ngài thì chúng tôi sẽ làm nô lệ cho Pha-ra-ôn.” Vậy Giô-sép đặt luật này về đất ruộng trong nước Ai-cập hãy còn hiệu lực đến ngày nay: một phần năm hoa lợi thuộc về Pha-ra-ôn, chỉ có đất ruộng của các thầy tế lễ không thuộc về Pha-ra-ôn mà thôi. Dân Y-sơ-ra-ên định cư tại Ai-cập trong vùng Gô-sen. Họ mua sản nghiệp trong vùng ấy; họ sinh sôi nảy nở và gia tăng dân số rất nhiều. Gia-cốp sống tại Ai-cập mười bảy năm, hưởng thọ được một trăm bốn mươi bảy tuổi. Đến lúc gần qua đời, Y-sơ-ra-ên cho gọi con trai mình là Giô-sép và bảo: “Nếu cha được ơn trước mặt con, hãy đặt bàn tay con trên đùi cha và hứa với cha rằng con sẽ xử sự cách nhân từ và thành tín với cha. Đừng an táng cha tại Ai-cập. Nhưng khi cha về cùng tổ phụ, con hãy đem cha ra khỏi Ai-cập và an táng cha tại mộ địa của các tổ phụ.”Giô-sép hứa: “Con sẽ làm điều cha dạy.” Gia-cốp bảo: “Con hãy thề đi.” Giô-sép liền thề với cha. Y-sơ-ra-ên nương trên đầu cây gậy mình mà thờ lạy. Sau các việc này có người báo tin cho Giô-sép: “Thân phụ ông lâm bịnh.” Giô-sép đem hai con trai là Ma-na-se và Ép-ra-im theo mình. Khi Gia-cốp nghe báo cáo: “Giô-sép, con trai cụ đến thăm cụ.” Gia-cốp thu toàn lực và ngồi dậy trên giường. Gia-cốp bảo Giô-sép: “Đức Chúa Trời toàn năng đã hiện ra gặp cha tại Lu-xơ trong xứ Ca-na-an và tại đó Ngài ban phước cho ta và bảo: ‘Ta sẽ làm cho con sinh sôi nẩy nở và gia tăng rất nhiều. Ta sẽ khiến con trở thành một cộng đồng của nhiều dân tộc, và ta sẽ ban cho dòng dõi con xứ này làm sản nghiệp đời đời.’ Bây giờ hai đứa con trai con sinh ra tại Ai-cập trước khi cha đến cũng được kể là thuộc về cha; Ép-ra-im và Ma-na-se sẽ thuộc về cha như Ru-bên và Si-mê-ôn. Những con cái con sinh về sau hai đứa ấy sẽ thuộc về con; chúng sẽ hưởng cơ nghiệp trong đất dưới danh nghĩa của anh em chúng. Khi cha ở Pha-đan quay về, Ra-chên đã qua đời dọc đường gần Ê-phơ-rát; cha chôn mẹ con bên đường đi Ê-phơ-rát (tức là Bết-lê-hem).” Khi Y-sơ-ra-ên thấy các con trai của Giô-sép liền hỏi: “Ai đây?” Giô-sép thưa: “Đó là những đứa con Đức Chúa Trời ban cho con tại đây.” Y-sơ-ra-ên bảo: “Con hãy đem chúng đến với cha để cha chúc phước cho chúng.” Cặp mắt Y-sơ-ra-ên đã làng vì tuổi cao không thấy rõ được. Giô-sép đưa hai con đến gần cha. Cha hôn và ôm chúng. Y-sơ-ra-ên bảo Giô-sép: “Cha chẳng bao giờ tưởng sẽ gặp mặt con lần nữa mà bây giờ Đức Chúa Trời lại cho cha thấy con cái con.” Giô-sép đỡ hai con ra khỏi đầu gối của cha mình rồi sấp mặt xuống đất. Giô-sép đưa hai con đến sát cha mình. Tay hữu Giô-sép dẫn Ép-ra-im qua phía tả của cha, và tay tả dẫn Ma-na-se qua phía hữu. Y-sơ-ra-ên đưa tay mặt ra đặt trên đầu Ép-ra-im là đứa em còn bàn tay trái lại đưa tréo qua đặt lên đầu Ma-na-se, dù Ma-na-se là con trưởng. Y-sơ-ra-ên chúc phước cho Giô-sép:“Cầu xin Đức Chúa Trời của tổ phụ tôi làÁp-ra-ham và Y-sác,Đức Chúa Trời là Đấng chăn giữ tôiSuốt đời cho đến ngày nay, Thiên sứ đã giải cứu tôi khỏi mọi tai họa,Hãy ban phước cho hai đứa con trai này.Cầu cho chúng được gọi bằng tên tôiVà tên của tổ phụ tôi là Áp-ra-ham và Y-sác;Cầu cho chúng sinh sôi nẩy nở rất nhiều trên mặt đất.” Khi Giô-sép thấy cha mình đặt tay hữu trên đầu Ép-ra-im thì không bằng lòng nên nắm bàn tay cha đang để trên đầu Ép-ra-im mà chuyển qua đầu Ma-na-se. Giô-sép thưa với cha: “Thưa cha, không; đứa này mới là con trưởng, xin cha đặt tay hữu trên đầu nó.” Nhưng cha người không chịu mà nói: “Cha biết, con ơi, nó cũng sẽ trở nên một dân và nó cũng trở thành vĩ đại. Tuy nhiên em nó sẽ vĩ đại hơn nó và dòng dõi của em nó sẽ trở nên một nhóm dân tộc.” Hôm ấy Gia-cốp chúc phước cho chúng rằng:“Dân Y-sơ-ra-ên sẽ nhân danh các cháu mà chúc phước lành:Cầu xin Đức Chúa Trời làm cho ngươi như Ép-ra-im và Ma-na-se.”Như thế Gia-cốp đặt Ép-ra-im trước Ma-na-se. Y-sơ-ra-ên lại bảo Giô-sép: “Cha gần qua đời nhưng Đức Chúa Trời sẽ ở với các con và đem các con trở về xứ của tổ phụ các con. Riêng phần con, ta cho con dãy đất mà ta đã dùng cung kiếm đoạt lấy của dân A-mô-rít vì con trổi hơn các anh em con.” Gia-cốp triệu tập các con và bảo: “Hãy tập hợp quanh cha để cha nói cho các con biết những gì sẽ xảy đến cho các con trong tương lai. Hỡi các con trai Gia-cốp, hãy tập họp mà nghe.Hãy nghe lời của Y-sơ-ra-ên, cha các con: Ru-bên, con trưởng nam của cha;Sức mạnh và dấu hiệu đầu tiên của năng lực cha.Con được vinh dự cao cả và quyền năng tuyệt hảo; Con hỗn loạn như nước nên sẽ chẳng còn trổi hơn ai;Vì con đã lên giường cha,Lên chõng cha mà làm hoen ố. Si-mê-ôn và Lê-vi là anh em ruột;Lưỡi gươm của chúng là khí giới tàn bạo. Cầu cho tâm hồn cha đừng tham gia mưu nghị của chúng.Vinh quang cha không hợp cùng phe chúng.Vì chúng đã giết người trong cơn giận dữ;Và cắt gân chân bò đực theo sở thích, Cơn giận chúng đáng rủa sả vì thật hung tàn;Thạnh nộ chúng thật dữ dằn.Ta sẽ làm cho chúng tản lạc trong nhà Gia-cốp,Và phân tán chúng giữa Y-sơ-ra-ên. Giu-đa ơi, các anh em sẽ khen ngợi con.Tay con sẽ nắm cổ quân thù;Các con trai cha sẽ cúi đầu trước mặt con. Giu-đa ơi, con là một sư tử tơ.Con ta ơi, con bắt được mồi rồi quay về,Nó thu gối nằm xuống như sư tử đực,Như sư tử cái, ai dám chọc nó? Cây trượng sẽ không rời khỏi Giu-đa;Gậy chỉ huy cũng không ra khỏi hai chân nó,Cho đến khi người đến Si-lô,Và các dân tộc vâng phục người. Người về buộc con lừa mình vào cây nho,Và lừa con mình vào cành tươi tốt nhất;Ngươi sẽ giặt y phục mình trong rượu nho,Và áo dài mình trong huyết nho. Mắt người đậm hơn rượu nho,Và răng người trắng hơn sữa. Sa-bu-luân sẽ sống ở miền duyên hải,Và trở thành nơi các tàu ẩn trú.Bờ cõi người chạy hướng Si-đôn. Y-sa-ca là một con lừa mạnh mẽ,Nằm xuống giữa hai cái yên. Khi người thấy nơi mình nghỉ ngơi thật thoải mái,Và đất đai thật tốt đẹp;Người sẽ ghé vai mang gánh nặng,Và chịu làm sưu dịch. Đan sẽ xét xử dân tộc mình theo công lý.Như các chi tộc khác của Y-sơ-ra-ên. Đan sẽ là con rắn nằm bên đường;Con rắn hổ nằm dọc đường mòn,Cắn gót chân ngựaLàm người cưỡi té ngửa ra sau. Lạy CHÚA, con trông mong sự giải cứu của Ngài! Gát sẽ bị một băng đảng xông đánh,Nhưng người sẽ phản công và đuổi theo chúng. A-se có thực phẩm dồi dào,Cung cấp cao lương mỹ vị cho nhà vua. Nép-ta-li là một con sơn dương được phóng thích,Nói những lời văn hoa. Giô-sép là một cây nho sai trái;Một cây nho trồng gần suối nước,Nhánh leo lên tường. Các xạ thủ cay đắng tiến công người,Bắn tên vào người cách thù hận. Nhưng nhờ tay Đấng Toàn Năng của Gia-cốp,Nhờ Đấng chăn chiên, vầng đá của Y-sơ-ra-ên,Nên cung người vẫn vững chắcVà cánh tay người vẫn mạnh mẽ. Nhờ Đức Chúa Trời của cha giúp đỡ con,Nhờ Đấng Toàn Năng ban phước cho con,Với phước lành từ các từng trời sa xuống,Và phước lành từ vực thẳm dâng lên,Phước lành của vú và dạ con mẹ, Phước lành cha chúc cho con,Lớn hơn các phước lành của núi cổVà của đồi xưa.Nguyện các phước ấy ở trên đầu của Giô-sép,Nơi trán của ông hoàng giữa các anh em mình. Bên-gia-min là một con chó sói ưa cấu xé.Buổi sáng đi cắn nuốt mồi;Buổi tối phân chia mồi cướp được.” Các người đó là mười hai tộc trưởng của Y-sơ-ra-ên, và đó là những lời cha họ đã nói khi chúc phước cho họ, mỗi người được một lời chúc thích hợp cho mình. Gia-cốp ra chỉ thị cho các con: “Cha sắp được tiếp về với tổ tông. Các con hãy chôn cha chung với các tổ phụ nơi hang đá trong cánh đồng Ếp-rôn, người Hê-tít, tức bộng đá trong đồng ruộng của Mặc-bê-la, gần Mam-rê trong xứ Ca-na-an, mà Áp-ra-ham đã mua của Hếp-rôn, người Hê-tít làm mộ địa luôn với cánh đồng. Áp-ra-ham và Sa-ra, vợ người đã được an táng tại đó. Y-sác và Rê-bê-ca, vợ người cũng được an táng nơi này. Cha cũng đã chôn Lê-a tại đó.” Đồng ruộng và hang đá trong đó đã mua của người Hếch. Sau khi trối xong những lời đó cho các con trai, Gia-cốp rút chân mình vào giường rồi tắt hơi và được rước về với tổ tông. Giô-sép ngã mình trên thi hài cha mà khóc và hôn người. Rồi Giô-sép ra chỉ thị cho các y sĩ đang phục vụ mình phải ướp thuốc thơm cho xác Y-sơ-ra-ên cha mình; các y sĩ liền ướp thuốc thơm cho thi hài suốt bốn mươi ngày (vì đó là thời hạn ướp thuốc thơm cho xác chết). Dân Ai-cập khóc Gia-cốp bảy mươi ngày. Khi các ngày than khóc đã qua, Giô-sép thưa với triều đình Pha-ra-ôn: “Nếu tôi được ơn trước mặt các quan, xin hãy tâu giùm lời này lên Pha-ra-ôn: Thân phụ tôi có bảo tôi thề: Ta sắp qua đời; con hãy chôn ta trong ngôi mộ ta đào sẵn ở xứ Ca-na-an. Bây giờ xin cho phép tôi lên xứ ấy để chôn cha tôi rồi tôi sẽ trở về.” Pha-ra-ôn bảo: “Ngươi cứ đi lên chôn cha ngươi như lời người đã bảo ngươi thề đó.” Vậy Giô-sép đi lên chôn cha mình. Tất cả triều thần của Pha-ra-ôn cũng đi theo, các quan lớn trong triều và các nhân sĩ Ai-cập, toàn thể gia đình Giô-sép và các anh em người và gia nhân quyến thuộc của nhà cha mình trong khắp xứ Gô-sen, chỉ còn trẻ con với các bầy bò, bầy chiên ở lại mà thôi. Công xa và các đội kỵ binh cũng cùng đi theo Giô-sép. Thật là một đoàn người rất đông đảo. Khi đến sân đạp lúa của A-tát, gần sông Giô-đanh, họ lớn tiếng kêu la và khóc than cay đắng. Tại đây Giô-sép cử hành tang lễ cho cha mình suốt bảy ngày. Dân Ca-na-an, tức là người bản xứ, thấy tang lễ tại sân đạp lúa của A-tát thì nói: “Người Ai-cập cử hành tang lễ thật long trọng.” Vì thế người ta gọi địa điểm này gần bên sông Giô-đanh là A-bên-Mích-ra-im. Các con trai Gia-cốp làm theo điều cha mình truyền bảo: Họ đưa thi hài người về xứ Ca-na-an và an táng người trong hang đá tại cánh đồng Mặc-bê-la gần Mam-rê. Áp-ra-ham đã mua hang đá ấy luôn với cánh đồng của Hếp-rôn, người Hê-tít làm mộ địa. Sau khi an táng cha mình, Giô-sép quay về Ai-cập với các anh em và tất cả những người đã theo ông dự tang lễ. Các anh của Giô-sép thấy cha mình đã mất thì nói: “Nếu Giô-sép giữ mối căm hờn và báo trả chúng ta về các việc ác chúng ta đã làm cho nó thì sao?” Họ sai người thưa với Giô-sép: “Trước khi qua đời cha có ra chỉ thị này: ‘Các con hãy nói với Giô-sép: Cha xin con hãy tha thứ tội ác của các anh con và những tội họ đã phạm khi đối xử tàn tệ với con. Bây giờ xin con hãy tha thứ tội lỗi cho các đầy tớ Đức Chúa Trời của cha.’” Nghe lời ấy Giô-sép khóc. Lúc ấy các anh Giô-sép cũng đến quỳ mọp trước mặt người mà nói: “Các anh đây là nô lệ của em đó.” Nhưng Giô-sép đáp: “Xin các anh đừng sợ. Tôi đâu dám thay thế Đức Chúa Trời! Các anh có ý làm hại tôi, nhưng Đức Chúa Trời lại dụng ý làm điều ích lợi để hoàn thành mọi việc đã qua tức là cứu mạng sống của nhiều người. Vậy xin các anh đừng sợ. Tôi sẽ cấp dưỡng cho các anh và con cái các anh.” Giô-sép trấn an các anh và nói chuyện dịu dàng với họ. Giô-sép cùng gia đình mình cư trú tại nước Ai-cập. Người hưởng thọ một trăm mười tuổi. Thấy được con cháu Ép-ra-im đến đời thứ ba, và nâng niu trên đầu gối mình các con của Ma-ki (Con trai Ma-na-se) khi chúng mới sinh ra. Giô-sép bầy tỏ cho các anh em: “Tôi sắp qua đời, nhưng chắc chắn Đức Chúa Trời sẽ đến cứu giúp các anh em và đưa các anh em ra khỏi xứ này để quay về xứ mà Ngài đã thề ban cho Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp.” Giô-sép bảo các con trai Y-sơ-ra-ên thề rằng: “Chắc chắn Đức Chúa Trời sẽ đến cứu giúp anh em; lúc ấy anh em phải dời hài cốt tôi ra khỏi nơi này.” Vậy, Giô-sép qua đời lúc được một trăm mười tuổi. Người ta lấy thuốc thơm ướp xác người rồi liệm trong một chiếc quan tài tại Ai-cập. Sau đây là tên các con trai Y-sơ-ra-ên đã theo Gia-cốp xuống Ai-cập với gia đình mình. Ru-bên, Si-mê-ôn, Lê-vi và Giu-đa, Y-sa-ca, Sa-bu-luân và Bên-gia-min; Đan, Nép-ta-li, Gát và A-se. Tổng cộng số con cháu của Gia-cốp là bảy mươi người; còn Giô-sép đã ở trong xứ Ai-cập. Thế rồi, Giô-sép, tất cả anh em và tất cả người đồng thời với ông đều qua đời. Nhưng dân Y-sơ-ra-ên sinh sôi nẩy nở rất nhiều, trở nên rất đông đảo, mạnh mẽ và ở đầy cả xứ. Sau đó có một vua mới lên ngôi cai trị Ai-cập và vua này không biết Giô-sép. Vua bảo thần dân rằng: “Kìa, dân Y-sơ-ra-ên bây giờ quá đông và mạnh hơn chúng ta. Chúng ta phải khôn khéo đối xử với họ, e rằng họ cứ tiếp tục gia tăng và đến khi có chiến tranh, họ sẽ cấu kết với quân thù, đánh lại chúng ta và trốn thoát khỏi xứ.” Vì vậy người Ai-cập đặt những cai nô áp bức dân Y-sơ-ra-ên bằng cách cưỡng bức họ lao động để xây dựng thành Phi-thom và Ram-se làm kho tàng cho Pha-ra-ôn. Nhưng càng bị áp bức bao nhiêu, dân Y-sơ-ra-ên càng sinh sôi nẩy nở và lan tràn bấy nhiêu, vì vậy người Ai-cập sợ người Y-sơ-ra-ên, và càng bắt họ phục dịch cực khổ, khiến cho người Y-sơ-ra-ên có cuộc sống cay đắng vì phải làm lụng nặng nhọc trong việc nhồi đất sét làm gạch và phải làm đủ thứ công việc đồng áng. Trong mọi công việc người Ai-cập bắt người Y-sơ-ra-ên làm việc cực khổ. Vua Ai-cập bảo các cô đỡ của người Hê-bơ-rơ là Siếp-ra và Phu-a rằng: “Khi đỡ cho các sản phụ Y-sơ-ra-ên hai người phải xem trên bàn sanh, nếu đứa bé là con trai, hãy giết nó đi. Nếu là con gái, cứ để cho sống.” Tuy nhiên mấy cô đỡ này có lòng kính sợ Đức Chúa Trời không làm theo chỉ thị của vua Ai-cập và cứ để cho các em bé trai sống. Vua Ai-cập đòi hai cô đỡ này đến và hỏi: “Tại sao các người làm như vậy? Tại sao các người để cho những đứa con trai sống?” Hai cô đỡ đáp: “Phụ nữ Hê-bơ-rơ không phải như phụ nữ Ai-cập; họ rất khỏe mạnh và trước khi cô đỡ đến họ đã sinh rồi.” Đức Chúa Trời ban phước cho mấy cô đỡ và dân Y-sơ-ra-ên cứ ngày càng đông và rất mạnh. Vì mấy cô đỡ kính sợ Đức Chúa Trời nên Ngài cho gia đình họ thịnh vượng. Sau đó Pha-ra-ôn ra lệnh cho toàn dân: “Phải ném tất cả con trai của dân Hê-bơ-rơ xuống sông Ninh còn con gái thì để cho sống.” Một người trong nhà Lê-vi đi cưới một thiếu nữ Lê-vi. Cô này thụ thai và sinh một bé trai. Thấy con mình xinh đẹp, cô giấu con trong ba tháng. Nhưng khi thấy không thể nào giấu con lâu hơn nữa, cô lấy một cái thúng bằng cói đem trát nhựa thông và dầu hắc, đặt con vào thúng rồi đem thả giữa các bụi sậy dọc bờ sông Ninh. Chị của cậu bé đứng ở đằng xa để xem thử có gì xảy ra cho em mình không. Lúc ấy, công chúa Ai-cập xuống sông tắm trong khi các nữ tì đi dọc trên bờ sông. Công chúa thấy cái thúng giữa các bụi sậy nên sai nữ tì vớt thúng lên. Khi mở thúng ra, công chúa thấy cậu bé đang khóc, công chúa động lòng thương cậu bé, nói rằng: “Đây là con của người Hê-bơ-rơ.” Chị cậu bé nói với công chúa: “Công chúa muốn tôi kiếm một bà vú nuôi Hê-bơ-rơ để nuôi em bé cho công chúa không?” Công chúa đáp: “Phải, đi đi.” Cô chị liền chạy đi gọi mẹ em bé đến. Công chúa bảo bà: “Bà đem em bé này về nuôi bú cho ta, ta sẽ trả công cho.” Bà nhận đứa bé và nuôi vú nó. Khi đứa bé đã khôn lớn, bà dẫn nó vào cung trao cho công chúa. Công chúa nhận cậu bé làm con, đặt tên là Môi-se vì nói rằng: “Ta đã cứu vớt nó ra khỏi nước.” Môi-se đã trưởng thành. Một ngày kia, ông đến thăm anh chị em của mình và thấy họ làm việc cực nhọc. Ông cũng thấy một người Ai-cập đánh đập một người Hê-bơ-rơ là anh chị em của mình. Ngó quanh quất không thấy ai, Môi-se liền giết người Ai-cập và đem vùi dưới cát. Qua hôm sau, ông lại ra và thấy hai người Hê-bơ-rơ đang đánh lộn. Môi-se hỏi người có lỗi rằng: “Sao lại đánh anh chị em mình?” Người ấy nói: “Ai đặt anh làm người cai trị và xét xử chúng tôi? Anh định giết tôi như đã giết người Ai-cập sao?” Môi-se sợ hãi, nghĩ thầm rằng: “Việc ta làm chắc đã bại lộ rồi.” Khi việc đến tai Pha-ra-ôn, vua tìm bắt Môi-se để xử tử, nhưng ông đã tẩu thoát khỏi mặt Pha-ra-ôn qua xứ Ma-đi-an và đến ngồi bên một giếng nước. Một thầy tế lễ Ma-đi-an có bảy con gái. Các cô này đến giếng để múc nước đổ đầy các máng cho bầy gia súc của cha họ uống. Có mấy người chăn chiên đến đuổi họ, nhưng Môi-se đứng ra bênh vực các cô gái và cho bầy của họ uống. Khi họ về đến nhà, cha họ là Rê-tu-ên hỏi: “Sao hôm nay các con về sớm vậy?” Họ đáp: “Có một người Ai-cập giải cứu chúng con thoát khỏi tay bọn chăn chiên và còn múc nước cho chúng con và bầy gia súc uống.” Người cha hỏi tiếp: “Người ấy đâu? Sao các con bỏ đi vậy? Hãy mời người ấy ăn bữa cơm.” Môi-se bằng lòng ở lại với Rê-u-ên và ông gả con gái là Sê-phô-ra cho Môi-se. Sê-phô-ra sinh một con trai. Môi-se đặt tên cho con là Ghẹt-sôn vì nói rằng: “Tôi là kiều dân nơi đất ngoại quốc.” Trong khoảng thời gian khá dài đó, vua Ai-cập qua đời. Dân Y-sơ-ra-ên ta thán dưới ách nô lệ và tiếng khóc than của họ lên đến Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời nghe tiếng ta thán đó và nhớ lại giao ước Ngài đã lập với Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp. Đức Chúa Trời đoái xem dân Y-sơ-ra-ên và lưu tâm đến họ. Môi-se chăn bầy chiên của Giê-trô, ông gia mình và là thầy tế lễ Ma-đi-an. Ông dẫn đàn chiên đến mé xa của sa mạc và đến gần Hô-rếp là núi của Đức Chúa Trời. Ở đây thiên sứ của CHÚA hiện ra với ông trong ngọn lửa giữa bụi gai đang cháy. Môi-se nhận thấy bụi gai cháy nhưng không tàn rụi. Vì vậy Môi-se tự nhủ: “Ta lại đó xem hiện tượng kỳ lạ này, tại sao bụi gai cháy mà không tàn.” CHÚA thấy Môi-se lại gần để xem, Đức Chúa Trời từ bụi gai gọi ông rằng: “Môi-se! Môi-se!” Môi-se đáp: “Dạ, con đây!” Chúa phán: “Đừng lại gần! Cởi dép ra vì chỗ con đứng là đất thánh.” Rồi Chúa phán tiếp: “Ta là Đức Chúa Trời của tổ phụ con, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác và Đức Chúa Trời của Gia-cốp.” Nghe vậy Môi-se che mặt lại vì sợ nhìn thấy Đức Chúa Trời. CHÚA phán: “Ta thật đã thấy hết nỗi khổ nhục của dân Ta tại xứ Ai-cập. Ta đã nghe tiếng ta thán của họ vì những tên cai nô và Ta lưu ý đến nỗi thống khổ của họ. Vì vậy Ta xuống để giải cứu họ ra khỏi tay người Ai-cập và đem họ vào xứ tốt đẹp rộng rãi, xứ tuôn tràn sữa và mật ong, là đất của các dân Ca-na-an, Hê-tít, A-mô-rít, Phê-rê-sít, Hê-vít và Giê-bu-sít. Tiếng kêu của dân Y-sơ-ra-ên đã thấu đến Ta và Ta đã thấy cách dân Ai-cập áp bức họ. Vậy, con hãy đi. Ta sai con đến với Pha-ra-ôn để đem dân Ta ra khỏi Ai-cập.” Nhưng Môi-se thưa với Đức Chúa Trời: “Con là ai mà dám đến với Pha-ra-ôn để đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập?” Đức Chúa Trời phán: “Ta sẽ ở với con, và đây là dấu hiệu cho con biết chính Ta đã sai con: khi con đã đem dân Ta ra khỏi Ai-cập các con sẽ thờ phượng Đức Chúa Trời trên chính núi này.” Môi-se thưa với Đức Chúa Trời: “Giả thử con đến nói với dân Y-sơ-ra-ên, Đức Chúa Trời của tổ tiên chúng ta sai tôi đến với anh chị em và họ hỏi con: ‘Ngài tên chi?’ thì con phải trả lời thế nào?” Đức Chúa Trời đáp: “Ta là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu. Đây là điều con phải nói với dân Y-sơ-ra-ên: ‘Đấng Tự Hữu Hằng Hữu sai tôi đến với anh chị em.’” Đức Chúa Trời cũng bảo Môi-se: “Con hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên: ‘CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ tiên chúng ta, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp, đã sai tôi đến với anh chị em.’ Đó là danh hiệu vĩnh viễn của Ta, danh hiệu phải được ghi nhớ từ thế hệ này đến thế hệ khác. Con cũng hãy triệu tập các bô lão Y-sơ-ra-ên và nói với họ: ‘CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ tiên chúng ta, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp đã hiện ra với tôi và phán rằng: Ta đã chăm nom các con và đã thấy rõ cảnh huống các con đang chịu đựng trong xứ Ai-cập. Ta đã hứa đem các con ra khỏi cảnh khốn cùng ở Ai-cập và đem các con vào đất của các dân Ca-na-an, Hê-tít, A-mô-rít, Phê-rê-sít, Hê-vít và Giê-bu-sít, là đất tuôn tràn sữa và mật ong.’ Các bô lão Y-sơ-ra-ên sẽ nghe theo con, rồi con và những người đó sẽ yết kiến vua Ai-cập và nói với vua: ‘CHÚA, Đức Chúa Trời của người Hê-bơ-rơ đã hiện ra với chúng tôi. Xin cho chúng tôi đi ba ngày đường vào sa mạc để dâng tế lễ cho CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng tôi.’ Nhưng Ta biết vua Ai-cập sẽ không để cho các con đi nếu Ta chưa dùng tay quyền năng bắt buộc vua. Như vậy Ta sẽ đưa tay Ta đánh dân Ai-cập với các phép lạ Ta sẽ làm giữa vòng họ, rồi đến cuối cùng họ sẽ để các con ra đi. Ta cũng sẽ khiến dân Ai-cập có thiện cảm với các con, khi rời xứ đó các con sẽ không ra đi tay không. Phụ nữ Y-sơ-ra-ên sẽ hỏi xin hàng xóm láng giềng và phụ nữ sống trong nhà họ những món nữ trang bằng bạc bằng vàng và áo xống để mặc cho con trai con gái mình. Như vậy các con sẽ lột trần dân Ai-cập.” Nhưng Môi-se thưa Lại: “Nếu họ không tin, cũng không chịu nghe con mà lại nói rằng: ‘CHÚA đâu có hiện ra với ông’ thì sao?” CHÚA hỏi Môi-se: “Con đang cầm cái gì trong tay?” Môi-se thưa: “Một cây gậy.” CHÚA bảo: “Con hãy ném cây gậy xuống đất.” Môi-se ném cây gậy xuống đất và gậy biến thành con rắn. Môi-se chạy trốn rắn. Nhưng CHÚA bảo ông: “Con đưa tay ra nắm lấy đuôi rắn đi.” Môi-se đưa tay nắm con rắn và rắn lại thành cây gậy trong tay Môi-se. CHÚA phán: “Phép lạ này để cho họ biết rằng CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ tiên họ, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác, Đức Chúa Trời của Gia-cốp, đã hiện ra với con.” CHÚA bảo: “Con hãy đặt tay vào bụng.” Môi-se đặt tay vào bụng, khi rút tay ra ông thấy tay bị phung trắng như tuyết. Chúa lại bảo: “Bây giờ con đặt tay vào bụng trở lại.” Môi-se đặt tay vào bụng và khi ông rút tay ra, tay đã lành lặn như những chỗ khác. Sau đó Chúa phán: “Nếu họ không tin con hay không chú ý đến phép lạ thứ nhất, họ có thể tin phép lạ thừ nhì. Nhưng nếu họ không tin hai dấu lạ ấy hay không nghe con, con hãy lấy nước dưới sông Ninh và đổ ra trên đất khô. Nước con lấy dưới sông sẽ trở thành máu trên mặt đất.” Môi-se thưa với CHÚA: “Thưa Chúa, con đâu có tài hùng biện, trong quá khứ đã vậy mà từ khi Chúa phán với con cũng chẳng hơn gì, vì miệng lưỡi con chậm chạp ngập ngừng.” CHÚA hỏi ông: “Ai tạo ra miệng? Ai làm điếc làm câm? Ai ban thị giác và ai làm đui mù? có phải Ta, CHÚA không? Con cứ đi đi, Ta sẽ giúp đỡ miệng lưỡi con và chỉ dạy cho con điều phải nói.” Nhưng Môi-se vẫn chối từ: “Thưa Chúa, xin Chúa sai người khác làm việc đó.” Cơn giận của CHÚA phừng lên nghịch cùng Môi-se và Ngài hỏi: “Còn A-rôn người Lê-vi anh con, thì sao? Ta biết anh con nói giỏi. A-rôn đang đến đây kiếm con và sẽ vui mừng lắm khi gặp mặt con. Con sẽ nói với anh con và đặt lời con trong miệng người ấy. Chính Ta sẽ giúp đỡ hai anh em con ăn nói và sẽ dạy các con điều phải làm. A-rôn sẽ thay con nói chuyện với dân chúng và con sẽ như miệng lưỡi của A-rôn và như chúa của người ấy vậy. Con cầm gậy trong tay để có thể dùng gậy làm các phép lạ.” Môi-se trở về gặp Giê-trô ông gia mình và thưa rằng: “Xin cha cho con trở về với dân tộc con tại Ai-cập để xem họ sống chết thế nào.” Giê-trô đáp: “Chúc con lên đường bình an.” CHÚA đã phán dạy Môi-se trong xứ Ma-đi-an rằng: “Con cứ trở lại xứ Ai-cập vì những người tìm giết con đã chết hết rồi.” Môi-se đỡ vợ con lên lưng lừa và lên đường trở về Ai-cập, trong tay có cầm cây gậy của Đức Chúa Trời. CHÚA phán dặn Môi-se: “Khi trở về Ai-cập, con sẽ làm trước Pha-ra-ôn các dấu kỳ phép lạ với quyền năng Ta ban cho. Nhưng Ta sẽ làm cứng lòng vua Ai-cập để người ấy không cho phép dân chúng ra đi.” Khi ấy con hãy nói với Pha-ra-ôn: CHÚA phán: “Y-sơ-ra-ên là con trưởng nam Ta, và Ta bảo nhà ngươi: ‘Hãy để con Ta đi, để nó có thể thờ phượng Ta, nhưng nhà ngươi từ chối không để con Ta ra đi, như vậy Ta sẽ giết trưởng nam của ngươi.’” Dọc đường, CHÚA gặp Môi-se trong một quán trọ và suýt giết ông. Nhưng Sê-phô-ra lấy con dao đá, cắt dương bì của con mình ném đụng chân Môi-se và nói: “Anh chính là chàng rể dính máu của tôi.” Nhờ vậy CHÚA để cho ông yên. (Khi nói “Chàng rể dính máu” Sê-phô-ra đề cập đến lễ cắt bì). CHÚA phán dạy A-rôn: “Con đi vào sa mạc để gặp Môi-se.” Như vậy ông gặp Môi-se tại núi của Đức Chúa Trời và hôn em mình. Môi-se thuật lại cho A-rôn tất cả những điều CHÚA bảo ông nói và cũng kể lại các dấu kỳ phép lạ Chúa ra lệnh cho ông thi hành. Môi-se và A-rôn triệu tập các bô lão Y-sơ-ra-ên, rồi A-rôn thuật lại cho họ mọi điều CHÚA đã phán với Môi-se. Ông cũng làm các phép lạ trước mặt dân chúng. và những người ấy tin lời ông. Khi nghe rằng CHÚA lưu tâm đến họ và thấu rõ nỗi đau khổ của họ, họ liền cúi đầu thờ phượng. Sau đó Môi-se và A-rôn đến yết kiến Pha-ra-ôn và thưa: “CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán rằng: ‘Hãy để dân Ta đi, để họ có thể thờ phượng Ta trong sa mạc.’” Pha-ra-ôn hỏi: “CHÚA là ai mà ta phải vâng lời và để cho Y-sơ-ra-ên ra đi? Ta chẳng biết CHÚA là ai và cũng chẳng cho dân Y-sơ-ra-ên đi đâu.” Môi-se và A-rôn thưa: “Đức Chúa Trời của người Hê-bơ-rơ đã viếng thăm chúng tôi. Bây giờ xin bệ hạ cho chúng tôi đi ba ngày đường vào sa mạc để dâng tế lễ cho CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng tôi, nếu không Ngài sẽ dùng dịch hạch và gươm dao hình phạt chúng tôi.” Tuy nhiên Pha-ra-ôn trả lời: “Môi-se và A-rôn! Tại sao hai ông làm cho họ ngưng công việc như vậy? Về làm việc đi!” Vua nói tiếp: “Dân số trong xứ đã lên rất cao mà mấy ông lại xui cho họ bỏ bê công việc.” Ngay hôm ấy, Pha-ra-ôn ban lệnh này cho các cai nô và các đốc công: “Đừng cấp rơm cho dân làm gạch như trước nữa; để chúng tự đi kiếm rơm lấy. Nhưng vẫn bắt chúng phải làm đủ số lượng gạch như trước chớ không được giảm bớt mức sản xuất. Phải bắt chúng làm việc thật nặng nề để chúng đừng để ý đến những lời dối trá.” Các cai nô và đốc công đi ra nói với dân rằng: “Đây là lệnh của Pha-ra-ôn: ‘Ta sẽ không cấp rơm như trước nữa. Mỗi người phải tự đi kiếm rơm ở đâu thì đi, nhưng không được giảm bớt mức sản xuất.’” Dân chúng phân tán đi ra khắp Ai-cập để kiếm rạ thay cho rơm. Các cai nô cứ đốc thúc: “Mỗi ngày phải làm cho xong phần việc, như khi được cấp rơm vậy.” Những trưởng toán người Y-sơ-ra-ên do các cai nô chỉ định bị họ đánh đập và hạch sách: “Sao hôm qua và hôm nay các anh không sản xuất đúng mức ấn định như trước?” Các trưởng toán người Y-sơ-ra-ên đến kêu van với Pha-ra-ôn: “Sao bệ hạ đối xử với các tôi tớ của bệ hạ như vậy? Chúng tôi không được cấp rơm nhưng vẫn cứ nhận được lệnh ‘Làm gạch đi!’ Tôi tớ của bệ hạ bị đánh đập, nhưng lỗi là lỗi của dân của bệ hạ.” Pha-ra-ôn đáp: “Làm biếng! Các anh là bọn làm biếng! Vì vậy mà các anh cứ đòi ‘Xin cho chúng tôi đi dâng tế lễ cho CHÚA.’ Trở về làm việc đi! Chẳng ai cấp rơm cho đâu, nhưng mức sản xuất gạch vẫn giữ nguyên như cũ!” Các trưởng toán Y-sơ-ra-ên rất bối rối khi nghe câu “Chẳng ai cấp rơm cho đâu, nhưng mức sản xuất gạch vẫn giữ nguyên như cũ”. Khi lui ra khỏi cung vua, họ gặp Môi-se và A-rôn đang đứng chờ họ, nên nói rằng: “Xin CHÚA xem xét và xử đoán hai ông! Hai ông đã làm chúng tôi thành một vật hôi hám trước mặt Pha-ra-ôn và quần thần và hai ông đã đưa gươm cho họ giết chúng tôi!” Môi-se trở về với CHÚA và thưa: “Lạy Chúa! Sao Chúa lại mang họa đến cho dân này? Chúa sai con đến với họ là vì mục đích ấy sao? Từ lúc con đến với Pha-ra-ôn để nhân danh Chúa mà nói thì vua càng ngược đãi dân này, nhưng Chúa lại chẳng giải cứu họ!” Lúc ấy, CHÚA phán với Môi-se: “Bây giờ con sẽ thấy việc Ta làm cho Pha-ra-ôn: Vì tay quyền năng của Ta, vua ấy sẽ để cho dân ra đi; vì tay quyền năng của Ta vua ấy sẽ trục xuất dân ra khỏi xứ.” Đức Chúa Trời phán tiếp với Môi-se: “Ta là CHÚA. Ta đã hiện ra với Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp với danh hiệu ‘Đức Chúa Trời Toàn Năng’ nhưng Ta không hề tỏ cho họ danh hiệu ‘CHÚA’. Ta cũng đã lập giao ước với họ để ban cho họ xứ Ca-na-an là xứ họ đã kiều ngụ như người ngoại quốc. Ta đã nghe tiếng ta thán của dân Y-sơ-ra-ên là dân bị người Ai-cập bắt làm nô lệ và Ta nhớ lại giao ước của Ta. Vậy, con hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên rằng: ‘Ta là CHÚA, Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi ách của người Ai-cập. Ta sẽ phóng thích các ngươi khỏi vòng nô lệ, Ta sẽ cứu chuộc các ngươi bằng cánh tay đưa thẳng ra và đoán phạt người Ai-cập với các việc quyền năng. Ta sẽ nhận các người làm dân Ta và Ta làm Đức Chúa Trời các ngươi. Khi đó các ngươi sẽ biết Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của các ngươi, Đấng đem các ngươi ra khỏi ách nô lệ của người Ai-cập. Ta sẽ đem các ngươi vào xứ Ta đã thề hứa với Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp. Ta sẽ cho các ngươi xứ ấy làm sản nghiệp. Ta là CHÚA.’” Môi-se thuật lại những lời này cho dân Y-sơ-ra-ên nhưng họ không chịu nghe ông, vì họ thất vọng và vì ách nô lệ quá nặng nề. CHÚA lại phán bảo Môi-se: “Con đến nói với Pha-ra-ôn hãy để cho dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ.” Nhưng Môi-se thưa với CHÚA: “Nếu dân Y-sơ-ra-ên đã không nghe con thì Pha-ra-ôn lại nghe con là người nói ngập ngừng hay sao?” CHÚA lại phán với Môi-se và A-rôn về dân Y-sơ-ra-ên và về Pha-ra-ôn, vua Ai-cập. Ngài truyền lệnh cho họ đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai-cập. Sau đây là danh sách các trưởng tộc của họ: Các con trai của Ru-bên, trưởng nam của Y-sơ-ra-ên, là Hê-nóc, Pha-lu, Hết-rôn và Cạt-mi. Đó là các tộc của Ru-bên. Các con trai của Si-mê-ôn là Giê-mu-ên, Gia-min, Ô-hát, Gia-kin, Xô-ha và Sau-lơ (có mẹ là người Ca-na-an). Đó là các tộc của Si-mê-ôn. Đây là tên các con trai Lê-vi, theo gia phả: Ghẹt-sôn, Kê-hát và Mê-ra-ri. Lê-vi thọ một trăm ba mươi bảy tuổi. Các con trai của Ghẹt-sôn, tùy theo tộc, là Líp-ni và Si-mê-i. Các con trai của Kê-hát là Am-ram, Dít-sê-ha, Hếp-rôn và U-xi-ên. Kê-hát thọ một trăm ba mươi ba tuổi. Mê-ra-ri có hai con trai là Mách-li và Mu-si. Am-ram cưới Giô-kê-bết là cô mình, sinh A-rôn và Môi-se. Am-ram thọ một trăm ba mươi bảy tuổi. Đít-sê-ba có ba con trai: Cô-rê, Nê-phết và Xiếc-ri. U-xi-ên cũng có ba con trai: Mi-sa-ên, En-sa-phan và Sít-ri. A-rôn cưới Ê-li-sê-ba, con gái A-mi-na-đáp, em Na-ha-sôn; các con trai họ là Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa và Y-tha-na. Các con trai của Cô-rê là Át-si, Ên-ca-na và A-bi-a-sáp. Ê-lê-a-sa, con A-rôn, cưới con gái Phu-ti-ên; một trong những con trai của họ tên là Phi-nê-a. Đó là các trưởng tộc Lê-vi và gia đình họ. Gia phả trên cho ta biết qua gốc tích A-rôn và Môi-se, hai người đã nhận lệnh CHÚA đem toàn dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập. Chính họ đã đi yết kiến Pha-ra-ôn vua Ai-cập để xin cho dân Y-sơ-ra-ên ra đi. CHÚA cũng đã bảo Môi-se: “Ta là CHÚA. Đi gặp Pha-ra-ôn, truyền lại cho vua ấy mọi lời Ta đã bảo!” Vào lúc ấy, Môi-se có thưa: “Con ăn nói vụng về, làm sao thuyết phục Pha-ra-ôn được?” CHÚA bảo Môi-se: “Ta cho con làm chúa của Pha-ra-ôn, còn A-rôn làm phát ngôn viên cho con. Con thuật cho A-rôn mọi lời Ta bảo, A-rôn sẽ nói lại cho Pha-ra-ôn, để vua này cho dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập. Nhưng Ta sẽ khiến cho Pha-ra-ôn trở nên ương ngạnh, không cho dân Ta đi, nhân đó Ta càng thực hiện nhiều phép lạ hơn trong nước Ai-cập. Tuy nhiên, Pha-ra-ôn vẫn tiếp tục ngoan cố, chẳng xiêu lòng. Ta sẽ trừng trị Ai-cập nặng nề và đem dân Ta ra. Lúc ấy, người Ai-cập mới ý thức được rằng Ta chính là Đức Chúa Trời.” Môi-se và A-rôn làm đúng theo lời CHÚA bảo họ. Lúc yết kiến Pha-ra-ôn, Môi-se đã được tám mươi tuổi, còn A-rôn tám mươi ba. CHÚA lại bảo Môi-se và A-rôn: “Khi nào Pha-ra-ôn đòi hỏi các con làm phép lạ để chứng tỏ các con được Đức Chúa Trời sai đến, A-rôn sẽ theo lời Môi-se quăng gậy xuống đất, gậy sẽ hóa ra một con rắn.” Vậy hai ông đi yết kiến Pha-ra-ôn, làm những điều Đức Chúa Trời bảo họ. A-rôn quăng gậy xuống đất trước mặt Pha-ra-ôn và quần thần. Gậy liền biến ra một con rắn. Pha-ra-ôn ra lệnh triệu tập các thầy pháp, các nhà ảo thuật Ai-cập. Họ đến, dùng pháp thuật, cũng làm được điều A-rôn đã làm. Gậy họ cũng biến thành rắn. Nhưng rắn của A-rôn nuốt rắn của họ đi. Pha-ra-ôn lòng vẫn không lay chuyển, không nghe lời hai ông, đúng như Đức Chúa Trời đã nói trước với Môi-se. CHÚA nhắc lại cho Môi-se: “Pha-ra-ôn ngoan cố, sẽ tiếp tục từ khước không cho dân Ta đi. Nhưng sáng mai, con cứ đi ra bờ sông gặp vua. Đừng quên cầm theo cây gậy đã biến thành rắn. Tại đó, con sẽ nói với Pha-ra-ôn: CHÚA, Đức Chúa Trời của người Hê-bơ-rơ có sai tôi tâu với bệ hạ để cho dân Y-sơ-ra-ên đi thờ phượng Ngài trong sa mạc, nhưng vua đã từ chối. Bây giờ, Ngài bảo: ‘Ngươi sẽ biết chính Ta là Đức Chúa Trời, vì Ta đã sai Môi-se lấy gậy đập nước sông, nước sẽ hóa ra máu. Cá sẽ chết, sông sẽ thối, người Ai-cập sẽ kinh tởm khi uống nước dưới sông!’” Rồi CHÚA dặn Môi-se: “Con bảo A-rôn cầm gậy đưa về hướng các sông, suối, hồ, tất cả các nguồn nước của Ai-cập kể cả nước đã chứa vào vại đất, vào bình đá, tất cả sẽ biến thành máu.” Môi-se và A-rôn tuân hành lệnh CHÚA. Trước mặt Pha-ra-ôn và quần thần. A-rôn đưa cao cây gậy đập xuống nước sông Ninh, nước sông biến thành máu. Cá chết, nước thối, người Ai-cập không uống nước sông được nữa. Khắp Ai-cập, đâu đâu cũng thấy máu. Các thầy pháp Ai-cập dùng pháp thuật, cũng biến nước thành máu, cho nên Pha-ra-ôn vẫn ương ngạnh không nghe lời Môi-se và A-rôn, đúng như CHÚA đã nói. Vua quay về cung, lòng dửng dưng. Người Ai-cập phải đào giếng dọc bờ sông lấy nước uống, vì không uống được nước sông. Một tuần lễ trôi qua. CHÚA lại bảo Môi-se: “Con vào cung gặp Pha-ra-ôn, thưa với vua như sau: CHÚA bảo để cho dân Ta đi thờ phượng Ngài. Nếu không, Ngài sẽ sai ếch nhái đến, tràn khắp bờ cõi Ai-cập. Sông ngòi sẽ đầy lúc nhúc ếch nhái. Chúng sẽ nhảy vào cung, vào tận phòng ngủ của vua, đầy cả giường. Trong nước Ai-cập, nhà nào cũng sẽ đầy ếch nhái; ếch nhái trong lò, trong bếp, trong cả thùng nhồi bột; ếch nhái sẽ bò lên người của mọi công dân Ai-cập, bò lên cả mình vua.” Rồi CHÚA dặn Môi-se: “Bảo A-rôn đưa gậy hướng về các sông, suối, hồ, để ếch nhái từ các nơi đó tràn lên khắp Ai-cập.” A-rôn vâng lời và ếch nhái tràn lan khắp nơi trong nước. Các thầy pháp dùng pháp thuật, cũng làm cho ếch nhái bò lên, chỉ thêm chật đất. Pha-ra-ôn liền cho đòi Môi-se và A-rôn đến, nói: “Hãy cầu xin Đức Chúa Trời, để Ngài cho ếch nhái lánh xa chúng ta, rồi ta sẽ để cho dân Hê-bơ-rơ đi thờ phượng Ngài!” Môi-se tâu: “Xin bệ hạ vui lòng cho biết bệ hạ muốn lúc nào ếch nhái rời khỏi Ai-cập, để tôi cầu Đức Chúa Trời cho đúng lúc ấy ếch nhái chết đi, chỉ còn lại ở dưới sông mà thôi.” Pha-ra-ôn đáp: “Ngày mai.”“Thưa vâng!” Môi-se nói: “Như vậy để bệ hạ biết rằng chẳng có ai như CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng tôi. Trừ dưới sông ra, ếch nhái ở những nơi khác đều sẽ chết hết.” Rời cung vua, Môi-se liền cầu xin CHÚA về vụ này. Chúa thực hiện lời Môi-se xin. Ếch nhái chết la liệt từ trong nhà đến tận ngoài đồng. Người ta dồn xác chúng lại thành từng đống lớn, mùi hôi thối xông lên khắp nơi. Còn Pha-ra-ôn, khi thấy mình đã thoát nạn này, liền trở lòng, chai lì, không chịu cho dân Y-sơ-ra-ên đi, đúng như CHÚA đã báo trước. CHÚA lại dạy Môi-se: “Bảo A-rôn lấy gậy đập đất bay lên, bụi bay lên, bụi sẽ biến thành muỗi dầy đặc trong nước Ai-cập.” Hai ông vâng lời Chúa, muỗi tràn lan khắp Ai-cập, đậu đầy dẫy trên người Ai-cập và bu đầy mình súc vật của họ. Các thầy pháp thử dùng pháp thuật hóa bụi ra muỗi, nhưng không làm được. Họ tâu với Pha-ra-ôn: “Đây là ngón tay của Đức Chúa Trời!” Nhưng Pha-ra-ôn ngoan cố, không nghe Môi-se và A-rôn, như lời CHÚA đã dạy. Sau đó, Chúa bảo Môi-se: “Sáng mai con dậy sớm, đi ra bờ sông gặp Pha-ra-ôn, thưa với vua rằng: CHÚA bảo vua tha cho dân Y-sơ-ra-ên ra đi, để họ thờ phượng Ngài. Nếu không, Ngài sẽ sai ruồi nhặng đến. Nhà nào cũng đầy ruồi. Ruồi sẽ bu khắp người vua, quần thần và công dân Ai-cập. Nhưng đặc biệt đất Gô-sen sẽ không có ruồi, vì là nơi dân Y-sơ-ra-ên ở. Chúa phân biệt dân Ngài với dân của vua. Vua sẽ biết rằng Ta là CHÚA, Ta đang ở giữa lãnh thổ. Ngày mai, việc này sẽ xảy ra.” CHÚA thực hiện lời Ngài. Vô số ruồi nhặng đến thành từng đàn, tàn hại đất Ai-cập, bay vào nhà người Ai-cập, từ vua chí dân. Pha-ra-ôn liền cho đòi Môi-se và A-rôn đến. Vua nói: “Đem người Hê-bơ-rơ đi dâng tế lễ cho Đức Chúa Trời của họ đi! Nhưng không được ra khỏi Ai-cập.” Môi-se đáp: “Không được. Chúng tôi dâng cho Đức Chúa Trời các lễ vật người Ai-cập ghê tởm. Nếu chúng tôi dâng trước mặt họ, họ sẽ giết chúng tôi sao? Chúng tôi phải đi sâu vào sa mạc chừng ba ngày đường và dâng lễ cho CHÚA tại đó, như Ngài đã bảo chúng tôi.” Pha-ra-ôn nhượng bộ: “Thôi được, ta cho đi vào sa mạc, nhưng không được đi xa hơn nữa. Cũng nhớ cầu nguyện cho ta với!” Môi-se hứa: “Tôi sẽ xin CHÚA cho ruồi nhặng rời Ai-cập. Nhưng xin vua đừng đánh lừa chúng tôi như lần trước!” Rời cung vua, Môi-se xin CHÚA cho ruồi nhặng rút đi hết. Chúa nhậm lời ông, làm cho ruồi đi hết, không còn lại một con. Nhưng lòng của Pha-ra-ôn lại trở nên chai lì, và không cho dân đi. CHÚA lại bảo Môi-se: “Con đi gặp Pha-ra-ôn, nói với vua ấy: CHÚA, Đức Chúa Trời của người Hê-bơ-rơ bảo vua phải để cho dân đi thờ phượng Ngài. Nếu không, CHÚA sẽ làm cho súc vật bị bệnh dịch. Ngựa, lừa, lạc đà cùng các loài gia súc khác đều phải chết. Nhưng nạn dịch này chỉ giết hại súc vật của người Ai-cập mà thôi, không một con nào của người Y-sơ-ra-ên bị chết cả. Ngày mai, việc này sẽ xảy ra.” Đúng như lời CHÚA, vừa sáng hôm sau, súc vật của người Ai-cập chết la liệt, nhưng súc vật của người Y-sơ-ra-ên không việc gì cả. Pha-ra-ôn sai người đi quan sát, xem thử có phải súc vật của người Y-sơ-ra-ên đều an toàn cả không? Đến khi biết rõ điều ấy là đúng. Pha-ra-ôn vẫn cứ cố chấp, không để cho người Y-sơ-ra-ên đi. Bấy giờ, CHÚA bảo Môi-se và A-rôn: “Vốc tro trong lòng bàn tay, rồi trước mặt Pha-ra-ôn, Môi-se sẽ tung tro lên trời. Tro sẽ là bụi phủ khắp nước Ai-cập, gây nên mụn nhọt lỡ lói đầy mình cả người lẫn thú vật.” Môi-se và A-rôn vâng lời, làm đúng như CHÚA bảo họ. Ung nhọt nổi lên khắp thân thể của người Ai-cập và trên cả thú vật nữa. Các thầy pháp cũng bị lở lói, không còn đứng trước mặt Môi-se được nữa. Nhưng CHÚA khiến lòng Pha-ra-ôn chai đá, không chịu nghe lời Môi-se và A-rôn, như Chúa đã báo trước. Sau đó, CHÚA bảo Môi-se: “Sáng mai con dậy sớm đi gặp Pha-ra-ôn, nói rằng: CHÚA, Đức Chúa Trời của người Hê-bơ-rơ bảo vua để cho dân Y-sơ-ra-ên đi để họ thờ phượng Ngài! Ngài nói: Lần này Ta sẽ giáng tai họa hiểm nghèo khiến cho ngươi, quần thần và mọi công dân Ai-cập đều phải nhận thức rằng, trên khắp thế giới, không có thần nào khác như Ta. Ta có thể dùng tai họa tiêu điệt ngươi và dân ngươi khỏi mặt đất, nhưng Ta để cho ngươi sống vì muốn cho ngươi thấy quyền năng của Ta và danh Ta sẽ được truyền rao khắp thế giới. Nếu ngươi còn dám ra mặt ngăn cản việc ra đi của dân Ta thì ngày mai, đúng vào ngày giờ này, Ta sẽ giáng một trận mưa đá rất lớn, trong lịch sử Ai-cập chưa hề có trận mưa đá nào lớn như vậy. Bây giờ, ngươi nên cho người dắt súc vật ở ngoài đồng về, vì mưa đá sẽ rơi, giết hại cả người lẫn súc vật còn ở ngoài đồng.” Quần thần Pha-ra-ôn nghe những lời này, có người lo sợ, vội sai gọi đầy tớ đem súc vật về, nhưng cũng có người dửng dưng, không đếm xỉa gì đến lời CHÚA, cứ để đầy tớ và súc vật ở ngoài đồng. CHÚA bảo Môi-se: “Đưa tay lên trời, mưa đá sẽ rơi xuống khắp nước Ai-cập, trên người, thú vật và cây cỏ.” Môi-se, tay cầm gậy, đưa lên trời. CHÚA làm cho sấm động vang trời, chớp nhoáng sáng rực và mưa đá trút xuống dữ dội. Thật là một cảnh khủng khiếp chưa hề thấy trong lịch sử Ai-cập. Cả nước Ai-cập bị tàn phá. Người, súc vật, cây cỏ, mùa màng còn lại ngoài đồng đều bị mưa đá hủy hoại, chỉ trừ ra Gô-sen, đất cư trú của dân Y-sơ-ra-ên, là không bị mưa đá hôm ấy. Pha-ra-ôn cho mời Môi-se và A-rôn vào, nói: “Bây giờ, ta nhận biết lỗi mình. CHÚA phải, còn ta và dân ta đều là quấy cả. Xin cầu CHÚA cho ta, để Ngài chấm dứt sấm sét và mưa đá, rồi ta sẽ cho dân Y-sơ-ra-ên đi lập tức.” Môi-se đáp: “Ra khỏi thành, tôi sẽ đưa tay lên hướng về CHÚA, sấm sét sẽ lặn, mưa đá sẽ tan. Làm thế để bệ hạ ý thức được rằng CHÚA nắm quyền khắp hoàn vũ. Tuy nhiên tôi biết bệ hạ và quần thần vẫn chưa thật tâm kính sợ Ngài.” Lúc ấy đúng vào mùa lúa mạch và cây gai trổ hoa, nên lúa mạch và cây gai đều bị mưa đá vùi dập. Còn lúa mì và tiểu mạch không bị hại vì chưa mọc lên. Như thế Môi-se rời Pha-ra-ôn, ra ngoài thành, đưa tay lên hướng về Đức Chúa Trời. Sấm sét lặn, mưa đá ngừng, mưa cũng không rơi xuống nữa. Vừa thấy thế, Pha-ra-ôn và quần thần lại ương ngạnh, một lần nữa phạm tội nuốt lời hứa. Vậy, Pha-ra-ôn không để cho dân Y-sơ-ra-ên ra đi, đúng như lời CHÚA đã bảo trước với Môi-se. Sau đó, CHÚA phán bảo Môi-se: “Con đến gặp Pha-ra-ôn. Ta đã làm cứng lòng của vua và của quần thần để Ta làm thêm giữa vòng họ nhiều dấu lạ nữa và để con có thể kể lại cho con cháu cách Ta đối xử nghiêm khắc với người Ai-cập và thuật lại cho chúng những dấu kỳ phép lạ Ta đã làm, để các con biết Ta là CHÚA.” Vậy Môi-se và A-rôn đến yết kiến Pha-ra-ôn và thưa rằng: “Đây là lời CHÚA, Đức Chúa Trời của người Hê-bơ-rơ phán: Đến bao giờ người mới chịu hạ mình trước mặt Ta? Hãy để cho dân Ta đi để chúng thờ phượng Ta. Nếu ngươi khước từ không để chúng đi, ngày mai Ta sẽ đem cào cào đến trên đất nước ngươi. Cào cào sẽ che phủ mặt đất đến nỗi không còn thấy đất nữa. Chúng sẽ ăn nuốt hết những gì còn sót lại sau cơn mưa đá, kể cả cây cối ngoài đồng. Chúng sẽ vào cả trong cung điện ngươi, vào nhà quần thần và nhà dân Ai-cập. Đây là điều ông cha và tổ phụ các ngươi chưa hề thấy, kể từ ngày họ định cư trong xứ này.” Nói xong, Môi-se quay lại và ra đi. Quần thần tâu với Pha-ra-ôn: “Bao giờ người này mới thôi gài bẫy chúng ta bằng cách yêu sách cho dân Y-sơ-ra-ên đi, để chúng thờ phượng CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng nó. Bệ hạ không nhận thấy Ai-cập đang suy vong sao?” Môi-se và A-rôn lại được triệu đến gặp Pha-ra-ôn. Vua nói: “Đi thờ phượng CHÚA, Đức Chúa Trời của các ngươi đi. Nhưng ai sẽ ra đi?” Môi-se đáp: “Chúng tôi đi hết, cả già lẫn trẻ, cả con trai lẫn con gái, cả bầy bò lẫn bầy cừu, vì chúng tôi phải tổ chức một đại lễ cho CHÚA.” Pha-ra-ôn nói: “Cầu CHÚA ở với các ngươi! Nhưng ta đâu để các ngươi đi hết, kể cả đàn bà con nít! Đây chính là một quỷ kế của các ngươi. Không được đâu! Chỉ có đàn ông được đi thờ phượng CHÚA, vì đó là điều các ngươi đã yêu cầu.” Rồi họ đuổi Môi-se và A-rôn ra. CHÚA phán dạy Môi-se: “Con đưa tay ra trên xứ Ai-cập để cào cào tràn ngập xứ và cắn nuốt tất cả cây cỏ ngoài đồng là những thứ còn sống sót sau trận mưa đá.” Vậy, Môi-se đưa gậy trên xứ Ai-cập và CHÚA sai gió đông thổi ngang qua xứ suốt ngày và suốt đêm đó. Qua sáng hôm sau, gió đem cào cào đến; vô số cào cào tràn ngập Ai-cập không chừa một địa điểm nào cả. Từ trước chưa hề có nạn cào cào kinh khủng như thế và về sau cũng không thấy nữa. Cào cào đầy dẫy trên mặt đất làm cả xứ đen kịt. Chúng cắn nuốt tất cả những gì trận mưa đá để lại, kể cả cây cỏ ngoài đồng và hoa quả trên cành. Khắp xứ Ai-cập không còn ngọn cỏ hay lá cây xanh nào cả. Pha-ra-ôn vội vàng cho triệu Môi-se và A-rôn đến, nói rằng: “Ta đã phạm tội với CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi và cũng có lỗi với hai ngươi. Bây giờ xin tha tội cho ta một lần nữa và cầu nguyện với CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi, và xin Ngài đem tai vạ kinh khủng này đi khỏi ta.” Môi-se rời khỏi Pha-ra-ôn, cầu nguyện với CHÚA. CHÚA đổi gió thành một trận gió tây rất mạnh, đùa hết cào cào xuống Hồng Hải. Khắp xứ Ai-cập không còn một con cào cào nào cả. Nhưng CHÚA làm cho Pha-ra-ôn cứng lòng, và vua không chịu để cho dân Y-sơ-ra-ên ra đi. Sau đó CHÚA phán dạy Môi-se: “Con đưa tay lên trời để đem tối tăm đến bao trùm xứ Ai-cập, tối tăm dầy đặc như có thể sờ được.” Vậy, Môi-se đưa tay lên trời và tối tăm toàn diện bao phủ xứ Ai-cập trong ba ngày. Suốt ba ngày đó, không ai có thể thấy gì hay có thể rời khỏi chỗ mình. Tuy nhiên, tại chỗ dân Y-sơ-ra-ên cư ngụ vẫn có ánh sáng. Pha-ra-ôn cho triệu Môi-se và A-rôn đến, nói rằng: “Đi thờ phượng CHÚA đi! Đàn bà và con nít cũng cho đi hết, nhưng phải để bầy bò và bầy cừu lại.” Nhưng Môi-se thưa rằng: “Bệ hạ phải để cho chúng tôi dâng lễ vật và tế lễ thiêu cho CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng tôi. Đàn gia súc phải đi theo chúng tôi, dù một cái móng cũng không thể để lại. Chúng tôi phải dùng một số súc vật để thờ phượng CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng tôi, nhưng chỉ khi nào đến chỗ đó chúng tôi mới biết phải dùng thứ gì để thờ phượng CHÚA.” Nhưng CHÚA làm cứng lòng Pha-ra-ôn và vua không bằng lòng để cho dân Y-sơ-ra-ên ra đi. Pha-ra-ôn nói với Môi-se: “Đi cho khuất mắt ta! Đừng trở lại cho ta thấy mặt nữa! Ngày nào các ngươi thấy mặt ta lần nữa, ngày đó các ngươi phải chết!” Môi-se đáp: “Bệ hạ nói đúng. Tôi sẽ không bao giờ thấy mặt bệ hạ nữa.” Lúc ấy, CHÚA phán với Môi-se: “Ta sẽ giáng một tai vạ nữa trên Pha-ra-ôn và xứ Ai-cập. Sau đó, vua ấy sẽ để các con ra đi; không những cho đi mà thôi mà còn đuổi đi cho hết. Con dặn dân chúng, cả đàn ông lẫn đàn bà, phải hỏi xin người láng giềng những đồ bằng bạc và vàng.” CHÚA làm cho dân Y-sơ-ra-ên được cảm tình của người Ai-cập, và chính Môi-se được mọi người thán phục; từ Pha-ra-ôn đến quần thần và dân chúng. Vậy Môi-se nói: Đây là lời CHÚA phán: “Khoảng nửa đêm, Ta sẽ đi qua khắp xứ Ai-cập. Tất cả các con trưởng nam của người Ai-cập sẽ chết hết, từ thái tử con Pha-ra-ôn đang ngồi trên ngôi cho đến con trưởng nam của người nữ tì đang xay cối, thậm chí đến con đầu lòng của gia súc cũng đều chết hết. Sẽ có tiếng khóc than trong toàn xứ Ai-cập. Từ trước đến giờ chưa hề có và trong tương lai cũng sẽ không có cảnh đó. Nhưng giữa vòng dân Y-sơ-ra-ên sẽ không có cả tiếng chó sủa. Như vậy các ngươi sẽ ý thức được rằng CHÚA phân biệt dân Y-sơ-ra-ên với dân Ai-cập. Tất cả quần thần của Pha-ra-ôn sẽ đến với tôi, cúi xuống trước mặt tôi và nói: ‘Xin các ông và toàn dân Y-sơ-ra-ên ra đi’; lúc ấy tôi mới ra đi.” Nói xong, Môi-se lìa Pha-ra-ôn trong cơn nóng giận. CHÚA đã báo trước cho Môi-se rằng: “Pha-ra-ôn sẽ khước từ không chịu nghe con, để Ta làm thêm nhiều dấu kỳ phép lạ tại Ai-cập.” Môi-se và A-rôn thực hiện nhiều phép lạ trước mặt Pha-ra-ôn, nhưng vì CHÚA đã làm cho vua cứng lòng nên vua không chịu để cho dân Y-sơ-ra-ên ra đi. Khi còn ở Ai-cập, CHÚA có phán với Môi-se và A-rôn: “Tháng này sẽ được kể là tháng giêng, tức là tháng thứ nhất trong năm. Con ra lệnh cho toàn dân Y-sơ-ra-ên: vào mồng mười tháng này mỗi người đàn ông phải bắt một con cừu con cho gia đình mình, mỗi gia đình một con cừu con. Nếu gia đình nào có ít người không thể ăn hết một cừu con thì phải chia sẻ với người láng giềng gần nhất, tính thế nào cho đủ số người ăn. Các con cũng ước tính số lượng thịt cần thiết cho mỗi người ăn. Thú vật các con chọn trong bầy cừu hay bầy dê phải là con đực, đúng một tuổi, không tì vết. Các con vật này phải được chăm sóc cho đến ngày mười bốn tháng này, là ngày toàn dân Y-sơ-ra-ên đem chúng ra giết vào lúc chiều tối. Rồi họ sẽ lấy huyết cừu đem bôi trên thanh ngang và trên hai thanh dọc của khung cửa vào nhà, là nơi sẽ ăn thịt cừu. Nội đêm đó họ sẽ ăn thịt cừu đã quay trên lửa với rau đắng và bánh không men. Đừng ăn thịt sống hay thịt luộc, nhưng phải đem quay cả con cừu trên lửa, với cái đầu, chân và bộ lòng. Đừng để thừa lại cho đến sáng mai; nếu còn thừa chút gì, hãy đem đốt hết. Đây là cách các con ăn thịt đó; phải nai nịt gọn gàng, chân mang dép và tay cầm gậy. Các con phải ăn vội vàng; đó là lúc CHÚA Vượt Qua. Trong đêm ấy, Ta sẽ vượt qua khắp xứ Ai-cập và giết hết các con đầu lòng của loài người cũng như của các loài súc vật, và Ta cũng sẽ đoán phạt các thần của Ai-cập. Ta là CHÚA. Huyết bôi trên cửa là dấu hiệu của nhà các con ở và khi Ta thấy huyết, Ta sẽ vượt qua, và bệnh dịch sát hại sẽ không đụng đến các con trong khi ta hành hại người Ai-cập. Đây là ngày các con phải kỷ niệm; từ thế hệ này đến thế hệ khác, các con phải tổ chức lễ này cho CHÚA. Đây là mạng lệnh có hiệu lực vĩnh viễn. Trong bảy ngày, các con phải ăn bánh không men. Vào ngày thứ nhất, các con phải đem hết men ra khỏi nhà, vì ai ăn bất cứ món gì có men từ ngày thứ nhất cho đến ngày thứ bảy sẽ bị khai trừ ra khỏi Y-sơ-ra-ên. Vào ngày thứ nhất các con phải tổ chức một cuộc hội họp thánh; đến ngày thứ bảy cũng tổ chức một cuộc họp thánh nữa. Trong những ngày này, các con không được làm việc chi cả, ngoại trừ việc chuẩn bị thức ăn là việc duy nhất có thể làm. Các con hãy tổ chức Lễ Bánh Không Men, vì vào chính ngày này Ta đem các đơn vị Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập. Việc tổ chức lễ này là một mạng lệnh vĩnh viễn cho các thế hệ trong tương lai. Từ tối ngày mười bốn cho đến tối ngày hai mươi mốt tháng giêng, các con phải ăn bánh không men. Trong bảy ngày đó, không ai được giữ men trong nhà. Bất cứ người nào ăn món gì có men sẽ bị khai trừ khỏi cộng đồng Y-sơ-ra-ên, dù là ngoại kiều hay người sinh trong xứ. Đừng ăn món gì có men. Bất cứ sinh sống ở đâu, các con cũng phải ăn bánh không men.” Môi-se triệu tập các bô lão Y-sơ-ra-ên lại và nói với họ: “Các ông phải lập tức đi chọn cừu con cho gia đình mình và giết nó để làm lễ Vượt Qua. Hãy lấy một bó bài hương thảo, nhúng vào chậu huyết và đem bôi trên thanh ngang và hai thanh dọc của khung cửa. Không ai được ra khỏi nhà khi trời chưa sáng. Khi CHÚA đi qua xứ để hình phạt người Ai-cập, Ngài sẽ vượt qua nhà nào khi thấy khung cửa nhà ấy có bôi huyết trên thanh ngang và hai thanh dọc. Ngài sẽ không cho phép đấng Hủy Diệt vào nhà để giết hại. Phải vâng giữ các huấn thị này như một mạng lệnh có hiệu lực vĩnh viễn cho các ông và cho hậu tự các ông. Cũng phải giữ Lễ này khi đã vào xứ CHÚA hứa sẽ ban cho. Khi con cháu các ông hỏi: ‘Lễ này có ý nghĩa gì?’ thì nói với chúng: ‘đây là lễ Vượt Qua cho CHÚA, để kỷ niệm ngày Ngài đã vượt qua nhà của dân Y-sơ-ra-ên khi còn ở trong xứ Ai-cập. Ngài vượt qua nhà của chúng ta trong khi giết hại người Ai-cập.’” Nghe xong, dân chúng cúi xuống và thờ phượng. Rồi dân Y-sơ-ra-ên làm đúng theo mọi điều CHÚA đã phán dạy Môi-se và A-rôn. Lúc nửa đêm, CHÚA giết hại tất cả các con đầu lòng trong xứ Ai-cập, từ thái tử con Pha-ra-ôn đang ngồi trên ngai cho đến con đầu lòng của tù nhơn đang bị giam trong ngục, cả đến con đầu lòng của gia súc. Pha-ra-ôn, quần thần và mọi công dân Ai-cập chợt thức giấc lúc nửa đêm, rồi có tiếng than khóc vang lên khắp nước vì không nhà nào mà không có người chết. Ngay đêm ấy, Pha-ra-ôn cho triệu Môi-se và A-rôn đến và nói: “Yêu cầu hai ông và toàn dân Y-sơ-ra-ên lìa khỏi chúng tôi! Các ông hãy đi thờ phượng CHÚA như điều hai ông đã xin. Cũng dẫn theo cả bò cừu như các ông đã nói, rồi đi hết đi! Và cũng cầu phước cho chúng tôi với!” Dân Ai-cập hối thúc người Y-sơ-ra-ên phải cấp tốc ra khỏi nước họ, vì nói rằng: “Nếu các ngươi không đi, chúng tôi sẽ chết hết!” Dân Y-sơ-ra-ên lấy áo bọc thùng nhồi bột, với bột mới nhồi nhưng chưa kịp pha men, rồi vác lên vai mà đi. Họ làm theo điều Môi-se đã dặn bảo và hỏi xin người Ai-cập các món bằng bạc và bằng vàng và cả áo xống nữa. CHÚA làm cho người Ai-cập có cảm tình với họ và cho họ những thứ họ hỏi xin; như vậy, người Ai-cập bị họ bóc lột. Dân Y-sơ-ra-ên ra đi từ Ram-se đến Su-cốt, tổng số người đi độ sáu trăm ngàn người. Đây là số đàn ông, chưa kể đàn bà con nít. Cũng có rất nhiều người ngoại tộc cùng đi, dẫn theo từng đàn gia súc rất lớn. Với bột đã nhồi ở Ai-cập, họ làm bánh không men. Bột này nhồi không pha men vì họ bị đuổi đi gấp, không kịp chuẩn bị lương thực đi đường. Thời gian dân Y-sơ-ra-ên cư ngụ trong xứ Ai-cập là bốn trăm ba mươi năm. Đúng vào ngày cuối cùng của thời gian bốn trăm ba mươi năm ấy, các đơn vị của CHÚA rời khỏi Ai-cập. Vì CHÚA đã rút dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập vào đêm ấy, nên dân Y-sơ-ra-ên phải giữ đêm ấy làm kỷ niệm, từ thế hệ này đến thế hệ khác. CHÚA phán bảo Môi-se và A-rôn: “Đây là các quy tắc về lễ vượt qua: người ngoại quốc không được ăn lễ ấy. Nô lệ các con đã mua chỉ được phép ăn lễ sau khi chịu cắt bì, nhưng những kiều dân tạm trú và người làm mướn không được phép ăn. Thịt phải ăn trong nhà và không được đem ra khỏi nhà, cũng không được làm gẫy một cái xương nào cả. Toàn thể cộng đồng Y-sơ-ra-ên phải dự lễ vượt qua. Những ngoại kiều sống chung với người Y-sơ-ra-ên nếu muốn dự lễ vượt qua thì đàn ông phải chịu cắt bì; sau đó họ được phép ăn lễ như người sinh ra trong xứ. Đàn ông không chịu cắt bì không được phép ăn lễ. Luật này áp dụng cho cả người sinh trong xứ lẫn người kiều ngụ.” Tất cả dân Y-sơ-ra-ên đều làm theo điều CHÚA đã phán dạy Môi-se và A-rôn. Trong chính ngày đó, CHÚA dẫn dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập, tùy theo các đơn vị của họ. CHÚA phán dạy Môi-se: “Dân Y-sơ-ra-ên phải hiến dâng cho Ta tất cả các con trưởng nam. Con đầu lòng của Y-sơ-ra-ên đều thuộc về Ta, kể cả con trưởng nam của loài người và con đầu lòng của súc vật.” Sau đó Môi-se nói với dân chúng: “Hãy kỷ niệm ngày này là ngày anh chị em ra khỏi Ai-cập, ra khỏi đất nô lệ vì CHÚA đã đem anh chị em ra bằng cánh tay quyền năng của Ngài. Đừng ăn món chi có men. Anh chị em ra đi hôm nay, vào tháng giêng. Khi CHÚA đã đem anh chị em vào xứ của người Ca-na-an, Hê-tít, A-mô-rít, và Giê-bu-sít, xứ Ngài đã hứa ban cho tổ phụ anh chị em, là xứ tràn trề sữa và mật ong, thì anh chị em phải giữ lễ này vào tháng này. Trong bảy ngày phải ăn bánh không men và đến ngày thứ bảy phải tổ chức lễ thờ phượng CHÚA. Trong suốt bảy ngày này phải ăn bánh không men, giữa vòng anh chị em sẽ không có món gì có men, và không được thấy men trong toàn lãnh thổ. Vào ngày đó, anh chị em nói cho con cái: ‘Cha làm như vậy vì điều CHÚA đã làm cho cha, khi Ngài đem cha ra khỏi xứ Ai-cập.’ Việc giữ lễ này đối với anh chị em sẽ như một dấu trên tay, một kỷ niệm trên trán, để nhắc nhở luật pháp của CHÚA nơi môi của anh chị em, vì CHÚA đã dùng cánh tay quyền năng đem anh chị em ra khỏi Ai-cập. Anh chị em phải giữ mạng lệnh này, vào đúng thời điểm ấn định, từ năm này qua năm khác. Khi CHÚA đã đem anh chị em vào xứ của người Ca-na-an và ban xứ ấy cho anh chị em, như Ngài đã thề hứa với anh chị em và với tổ phụ thì anh chị em phải dâng hiến cho CHÚA tất cả các con trưởng nam. Tất cả các con đực đầu lòng của bầy súc vật cũng thuộc về CHÚA. Phải dùng cừu con để chuộc con lừa đầu lòng, nhưng nếu không chuộc thì phải bẻ cổ lừa. Phải chuộc lại tất cả con trưởng nam của anh chị em. Trong tương lai, khi con cái hỏi anh chị em: ‘Ý nghĩa của việc này là gì?’ thì hãy trả lời: ‘Với cánh tay quyền năng, CHÚA đã đem chúng ta ra khỏi Ai-cập là đất nô lệ. Khi Pha-ra-ôn ngoan cố không chịu để chúng ta đi, CHÚA đã sát hại tất cả các con đầu lòng trong xứ Ai-cập, cả người lẫn súc vật. Đó là lý do tại sao cha hiến dâng cho CHÚA tất cả các con đầu lòng của súc vật và chuộc lại con trưởng nam của cha.’ Điều ấy sẽ là dấu ghi trên tay và kỷ niệm trên trán để anh chị em nhớ rằng CHÚA đã dùng tay quyền năng đem chúng ta ra khỏi Ai-cập.” Khi Pha-ra-ôn để cho dân Y-sơ-ra-ên ra đi, Đức Chúa Trời không dẫn họ theo con đường đi ngang qua xứ Phi-li-tin, là đường ngắn nhất, vì Đức Chúa Trời phán rằng: “Nếu gặp chiến tranh, chúng có thể đổi ý mà quay trở về Ai-cập.” Vì vậy Đức Chúa Trời dẫn dân chúng đi vòng con đường sa mạc, về hướng Biển Đỏ. Khi ra khỏi Ai-cập, dân Y-sơ-ra-ên đã được vũ trang để chiến đấu. Môi-se đem theo mình hài cốt của Giô-sép vì Giô-sép có bảo các con của Y-sơ-ra-ên thề, và nói rằng: “Chắc chắn Đức Chúa Trời sẽ đến cứu giúp các anh, và lúc đó các anh phải đem hài cốt của tôi theo khi đi ra khỏi xứ này.” Sau khi rời Su-cốt, dân Y-sơ-ra-ên đóng trại tại Ê-lam, giáp ranh sa mạc. Ban ngày, CHÚA đi trước họ trong một trụ mây để dẫn đường và ban đêm trong một trụ lửa để chiếu sáng, như vậy họ có thể đi cả ngày lẫn đêm. Trụ mây vào ban ngày và trụ lửa vào ban đêm không bao giờ lìa khỏi họ. CHÚA phán dạy Môi-se: “Con bảo dân Y-sơ-ra-ên quay lại và đóng trại gần Phi-ha Bi-rốt, giữa Mít-đôn và biển, chúng sẽ đóng trại dọc biển, đối diện với Ba-anh Sê-phôn. Pha-ra-ôn sẽ nghĩ rằng: ‘Dân Y-sơ-ra-ên đi lẩn quẩn vì bị sa mạc làm lạc hướng.’ Ta sẽ làm cho Pha-ra-ôn cứng lòng để vua ấy đuổi theo dân Y-sơ-ra-ên. Nhưng Ta sẽ rạng danh vì Pha-ra-ôn và quân đội của vua ấy, và dân Ai-cập sẽ biết Ta là CHÚA.” Dân Y-sơ-ra-ên làm đúng như vậy. Khi vua Ai-cập được báo cáo rằng dân Y-sơ-ra-ên đã tẩu thoát, vua và quần thần đổi ý và nói: “Chúng ta đã làm gì vậy? Chúng ta để cho dân Y-sơ-ra-ên ra đi, không còn phục vụ chúng ta nữa sao?” Vậy, vua ra lệnh chuẩn bị xe chiến mã và dẫn quân đội theo. Vua đem theo sáu trăm xe chiến mã tốt nhất, cùng với một số xe chiến mã khác, do các sĩ quan chỉ huy. CHÚA làm cứng lòng Pha-ra-ôn, vua nước Ai-cập và vua đuổi theo dân Y-sơ-ra-ên trong khi dân này can đảm ra đi. Người Ai-cập, với tất cả ngựa, xe chiến mã, lính kỵ và bộ binh, đều đuổi theo dân Y-sơ-ra-ên và bắt kịp họ khi họ đóng trại dọc biển gần Phi-ha Bi-rốt, đối diện Ba-anh Sê-phôn. Vừa khi thấy Pha-ra-ôn và đạo quân Ai-cập đuổi theo kịp, dân Y-sơ-ra-ên khiếp sợ và kêu la với CHÚA. Họ nói với Môi-se: “Có phải vì Ai-cập không đủ chỗ chôn nên ông mới dẫn chúng tôi vào sa mạc để chết hay sao? Ông làm gì cho chúng tôi khi đem chúng tôi ra khỏi Ai-cập? Khi còn ở Ai-cập chúng tôi đã nói với ông cứ bỏ mặc chúng tôi, để chúng tôi cứ phục vụ người Ai-cập. Vì thà phục vụ người Ai-cập còn hơn chết trong sa mạc!” Nhưng Môi-se đáp: “Đừng sợ! Cứ đứng vững rồi anh chị em sẽ thấy sự giải cứu của CHÚA ngày hôm nay. Những người Ai-cập anh chị em thấy hôm nay sẽ không bao giờ còn thấy nữa. CHÚA sẽ chiến đấu thay thế cho anh chị em, anh chị em chỉ cần yên lặng.” CHÚA hỏi Môi-se: “Tại sao các con kêu van với Ta? Con bảo dân Y-sơ-ra-ên cứ tiến bước. Con đưa cây gậy lên, giang tay con ra trên biển để rẽ nước cho dân Y-sơ-ra-ên đi qua biển như đi trên đất khô. Ta sẽ làm cứng lòng người Ai-cập để họ đuổi theo dân Y-sơ-ra-ên và Ta sẽ rạng danh vì Pha-ra-ôn, quân đội, xe chiến mã và kỵ binh của vua ấy. Người Ai-cập sẽ nhận biết Ta là CHÚA khi Pha-ra-ôn, xe chiến mã và kỵ binh của người làm Ta rạng danh.” Thiên sứ của Đức Chúa Trời, cho đến lúc ấy vẫn đi trước đạo quân Y-sơ-ra-ên, liền quay lại đi phía sau. Trụ mây cũng từ đằng trước dời ra đằng sau và án ngữ giữa đạo quân Ai-cập và đạo quân Y-sơ-ra-ên. Suốt đêm ấy, trụ mây che một phía làm cho bị tối tăm nhưng lại chiếu sáng cho phía bên kia, vì vậy cả đêm hai đạo quân không thể đến gần nhau. Sau đó Môi-se đưa tay trên biển và CHÚA cho một trận gió đông thổi mạnh dồn nước lại và làm cho biển trở thành đất khô. Nước rẽ ra, và dân Y-sơ-ra-ên đi ngang qua biển như đi trên đất khô, bên phải và bên trái đều có bức tường bằng nước. Dân Ai-cập đuổi theo họ, tất cả ngựa, xe chiến mã và lính kỵ của Pha-ra-ôn đều theo họ xuống biển. Vào canh cuối đêm ấy, CHÚA từ trụ lửa và trụ mây nhìn xuống đạo quân Ai-cập và làm cho họ rối loạn. Ngài làm cho xe chiến mã họ sút bánh không chạy được, nên người Ai-cập bảo nhau: “Chúng ta hãy mau lánh xa dân Y-sơ-ra-ên, vì CHÚA thay thế họ mà chiến đấu chống Ai-cập!” Lúc đó CHÚA phán bảo Môi-se: “Con đưa tay lên biển để đem nước lại phủ lấp người Ai-cập, xe chiến mã và lính kỵ của họ.” Môi-se đưa tay lên biển vào lúc trời bình minh và biển trở lại như trước. Người Ai-cập tìm cách tẩu thoát nhưng bị CHÚA lùa xuống biển hết. Nước tràn lại, phủ lấp các xe chiến mã và lính kỵ, toàn thể đạo quân của Pha-ra-ôn đã đuổi theo dân Y-sơ-ra-ên đều bị lùa xuống biển, không một người sống sót. Nhưng dân Y-sơ-ra-ên đi băng qua biển như đi trên đất khô, với bức tường nước bên phải và bên trái. Hôm đó CHÚA giải cứu dân Y-sơ-ra-ên khỏi tay người Ai-cập và họ thấy xác người Ai-cập nằm la liệt trên bờ biển. Khi được chứng kiến quyền năng phi thường CHÚA đã bầy tỏ để trừng trị người Ai-cập, dân Y-sơ-ra-ên đem lòng kính sợ CHÚA và tin tưởng nơi Ngài và nơi Môi-se là tôi tớ Ngài. Môi-se và dân Y-sơ-ra-ên hát bài ca này để ca ngợi CHÚA:“Tôi sẽ ca ngợi CHÚAVì Ngài vô cùng cao cả.Ngựa lẫn người cỡi ngựa.Đều bị Chúa lùa xuống biển. CHÚA là sức mạnh và là bài ca của tôi,Ngài là Đấng Cứu Rỗi tôi.CHÚA là Đức Chúa Trời tôi, tôi ca ngợi Ngài,Là Đức Chúa Trời của tổ phụ tôi, Đấng tôi tôn đại. CHÚA là chiến sĩDanh Ngài là CHÚA. Xe chiến mã và quân lính của Pha-ra-ôn,Đều bị Ngài lùa xuống biển,Sĩ quan ưu tú nhất của Pha-ra-ôn,Đều chết chìm dưới Biển Đỏ. Nước sâu che phủ họ.Như viên đá, họ chìm xuống đáy biển. Lạy CHÚA, cánh tay phải Chúa đầy quyền uy,Tay phải CHÚA dẹp tan quân thù. Với uy quyền vô cùng vĩ đại,Chúa ném kẻ chống đối xuống đất,Với lửa giận phừng phừng,Chúa thiêu họ khác nào rơm rác. Hơi thở từ môi Chúa dồn nước lên cao,Nước đang chảy dừng lại như bức tường,Nước sâu đông đặc giữa lòng đại dương. Địch quân khoác lác:‘Ta đuổi theo, ta sẽ bắt kịp,Ta sẽ chia nhau chiến lợi phẩmTha hồ mà chiếm đoạt!Ta vung gươm tiêu diệt quân thù.’ Nhưng Chúa thổi hơi ra,Biển liền phủ lấp họ,Họ chìm nghỉm như chìTận đáy biển sâu. Trong vòng các thần ai giống như CHÚA,Ai giống Chúa,Uy nghiêm thánh khiết,Đấng vinh quang đáng kính sợ,Đấng làm bao phép lạ dấu kỳ? Chúa đưa tay phải ra,Đất liền nuốt họ trọn đám. Với tình thương vô biên,Chúa dắt dẫn dân Chúa đã chuộc;Với sức mạnh toàn năng,Chúa dắt đưa họ vào nơi ngự thánh. Các nước sẽ nghe và run sợ,Cơn kinh hoàng bám chặt Phi-li-tin. Các lãnh tụ Ê-đôm đều khiếp đảm,Cấp chỉ huy Mô-áp run cầm cập,Dân Ca-na-an kinh hãi rụng rời; Tất cả đều khủng khiếp hoang mang.Lạy Chúa! Tay quyền năng Chúa đưa ra,Làm chúng đứng trân như phỗng đá,Cho đến khi dân Chúa đã đi qua,Cho đến khi dân Chúa chuộc đã qua khỏi. Lạy Chúa! Chúa đem dân Chúa về trồngTrên núi thánh là sản nghiệp Chúa chọn,Là nơi Chúa đặt nơi cư ngụ,Là Nơi Thánh chính tay Ngài thiết lập. CHÚA cầm quyển tể trị,Từ đời đời cho đến đời đời.” Trong khi chiến mã, xe chiến mã và kỵ binh của Pha-ra-ôn đều chìm dưới đáy biển vì CHÚA đem nước biển trở lại phủ lấp họ; còn dân Y-sơ-ra-ên đi ngang qua biển như đi trên đất khô. Nữ tiên tri Mi-ri-am, chị của A-rôn, và các phụ nữ đều cầm trống cơm nhảy múa. Mi-ri-am cất tiếng ca:“Hãy hát lên ca ngợi CHÚA,Vì Ngài cao cả tuyệt vời.CHÚA ném xuống biển sâu,Bao nhiêu chiến mã cùng đoàn kỵ binh.” Sau đó Môi-se dẫn dân Y-sơ-ra-ên từ Biển Đỏ đi đến sa mạc Su-rơ. Suốt ba ngày đi trong sa mạc họ không tìm được nước uống. Khi đến Ma-ra, họ không thể uống nước ở đó được, vì nước đắng. (Đó là lý do tên của địa điểm đó là Ma-ra). Do đó dân chúng than phiền với Môi-se: “Chúng tôi lấy gì uống đây?” Môi-se kêu cầu CHÚA và Chúa chỉ cho ông một khúc cây. Ông nắm lấy khúc cây, liệng xuống nước và nước hóa ngọt. Tại đó, CHÚA công bố quy luật và sắc lệnh cho dân chúng và Ngài thử họ. Chúa phán dạy: “Nếu các ngươi cẩn thận nghe theo tiếng của CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi, và làm điều ngay lành trước mắt Ta, nếu các ngươi lưu tâm đến mạng lệnh và quy luật Ta, Ta sẽ không đem đến cho các ngươi các thứ bệnh tật Ta đã giáng trên người Ai-cập, vì Ta là CHÚA, Đấng chữa bệnh các ngươi.” Khi đến Ê-lim là nơi có mười hai suối nước và bảy mươi cây chà là, họ đóng trại bên cạnh các suối nước này. Toàn dân Y-sơ-ra-ên đi từ Ê-lim đến sa mạc Sin (sa mạc này nằm giữa Ê-lim và Si-nai) vào ngày mười lăm tháng hai, tính từ ngày họ ra khỏi Ai-cập. Khi ở trong sa mạc toàn dân Y-sơ-ra-ên phiền trách Môi-se và A-rôn. Họ nói với hai ông rằng: “Thà chúng tôi chết vì bàn tay của CHÚA trong xứ Ai-cập khi ngồi quanh nồi thịt và muốn chi có nấy còn hơn là để hai ông đem vào sa mạc để chết đói cả đám!” CHÚA phán dạy Môi-se rằng: “Ta sẽ cho bánh từ trời rơi xuống như mưa cho các ngươi. Mỗi ngày dân chúng sẽ đi lượm đủ bánh cho ngày đó. Ta sẽ dùng cách ấy thử chúng để xem chúng có vâng giữ các giáo huấn của Ta hay không. Vào ngày thứ sáu chúng sẽ thu lượm gấp đôi số lượng chúng thu lượm trong những ngày khác.” Vậy Môi-se và A-rôn nói với toàn dân Y-sơ-ra-ên: “Chiều nay, anh chị em sẽ nhận biết rằng chính CHÚA đã đem anh chị em ra khỏi Ai-cập. Chiều nay anh chị em sẽ trông thấy vinh quang của CHÚA vì Ngài đã nghe tiếng phiền trách của anh chị em rồi. Chúng tôi là ai mà anh chị em phiền trách chúng tôi?” Môi-se tiếp: “Anh chị em sẽ nhận biết CHÚA khi Ngài ban cho dư dật thịt vào buổi chiều và bánh vào buổi sáng, vì Ngài đã nghe tiếng anh chị em phiền trách Ngài. Chúng tôi là ai? Không phải anh chị em phiền trách chúng tôi đâu, nhưng chính anh chị em phiền trách CHÚA đó.” Sau đó Môi-se nói với A-rôn: “Anh truyền cho dân chúng đến trước mặt CHÚA vì Ngài đã nghe tiếng than phiền của họ.” Đang khi A-rôn nói chuyện với toàn dân Y-sơ-ra-ên, họ ngó về hướng sa mạc và thấy vinh quang của CHÚA hiện ra trên đám mây. CHÚA phán với Môi-se: “Ta đã nghe tiếng phiền trách của dân Y-sơ-ra-ên. Con nói với chúng: ‘đến chiều các ngươi sẽ ăn thịt và đến sáng mai sẽ có bánh ăn dư dật,’ rồi chúng nó sẽ nhận biết Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng nó.” Chiều đó, chim cút bay đến phủ cả doanh trại và qua sáng mai có một lớp sương xung quanh doanh trại. Lớp sương tan đi và để lại trên cát sa mạc những hạt nhỏ mịn như sương muối. Khi thấy các hạt nhỏ này, dân Y-sơ-ra-ên hỏi nhau: “Cái gì vậy?” vì họ không biết đó là vật gì. Môi-se đáp: “Đó là bánh CHÚA ban cho anh chị em ăn. Và đây là mạng lệnh của Ngài: ‘Mỗi người đi lượm đủ cho nhu cầu của mình. Lượm hai lít cho mỗi người trong lều của mình.’” Người Y-sơ-ra-ên làm theo lời ấy, người lượm nhiều kẻ nhặt ít. Nhưng khi đong, người lượm nhiều cũng chẳng thừa, kẻ nhặt ít cũng không thiếu. Mỗi người thu lượm tùy theo nhu cầu của mình. Môi-se có căn dặn họ đừng để bánh thừa đến sáng mai. Tuy nhiên có một số người không để ý đến lời Môi-se và để bánh thừa đến sáng hôm sau, bánh hóa sâu và có mùi hôi hám. Vì vậy Môi-se giận họ. Cứ đến sáng, mỗi người đi thu lượm đủ số cần dùng và khi mặt trời đã nóng, bánh tan đi hết. Vào ngày thứ sáu, họ thu lượm gấp đôi, tức là mỗi người bốn lít. Khi thấy vậy các người lãnh đạo trong cộng đồng đến báo cáo với Môi-se. Nhưng Môi-se nói rằng: “Đây là điều CHÚA truyền dạy: ‘ngày mai là ngày nghỉ, là ngày Sa-bát thánh cho CHÚA. Hãy nấu nướng món gì các ngươi muốn nấu nướng, luộc món gì các ngươi muốn luộc, rồi để dành một phần cho ngày hôm sau.’” Họ làm theo lời Môi-se và để thức ăn đến sáng hôm sau; thức ăn không hôi hám cũng không hóa sâu. Khi ấy Môi-se nói với họ: “Anh chị em ăn các món đó hôm nay đi, vì hôm nay là ngày Sa-bát cho CHÚA. Hôm nay anh chị em sẽ không tìm thấy bánh trên mặt đất đâu. Anh chị em đi thu lượm trong sáu ngày nhưng qua ngày thứ bảy là ngày Sa-bát, sẽ không có bánh.” Tuy nhiên, một số người đi ra kiếm bánh vào ngày Sa-bát nhưng không tìm thấy gì cả. CHÚA phán hỏi Môi-se: “Các ngươi cứ từ chối không chịu vâng theo mạng lệnh và giáo huấn của Ta cho đến khi nào? Nên nhớ rằng CHÚA đã cho các ngươi ngày Sa-bát; vì đó mà vào ngày thứ sáu Ngài cho các ngươi đủ bánh cho hai ngày. Tất cả mọi người phải nghỉ ngơi trong ngày thứ bảy; không ai được phép đi ra ngoài.” Như vậy dân chúng nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy. Dân Y-sơ-ra-ên gọi bánh đó là ma-na, nó giống hạt ngò, có vị như bánh mật ong. Môi-se nói: “Đây là mạng lệnh CHÚA truyền dạy: ‘Lấy hai lít ma-na và giữ lại cho các thế hệ hậu lai, để chúng được thấy thứ bánh Ta ban cho các ngươi ăn trong sa mạc khi Ta đem các ngươi ra khỏi xứ Ai-cập.’” Vậy Môi-se nói với A-rôn: “Anh lấy một cái bình, bỏ vào đấy hai lít ma-na, rồi đem bình để trước mặt CHÚA để giữ lại cho các thế hệ hậu lai.” Đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se, A-rôn đem ma-na đặt trước Giao Ước để lưu truyền. Dân Y-sơ-ra-ên ăn ma-na trong bốn mươi năm, cho đến khi họ vào định cư, tức là họ ăn ma-na cho tới biên giới xứ Ca-na-an. Một ô-me bằng một phần mười ê-pha. Toàn dân Y-sơ-ra-ên từ sa mạc Sin ra đi từng chặng theo lệnh của CHÚA. Họ đến cắm trại ở Rê-phi-đim, nhưng ở đó không có nước cho dân chúng uống. Họ cãi nhau với Môi-se và nói: “Ông cho chúng tôi nước uống!” Môi-se đáp: “Tại sao anh chị em cãi nhau với tôi? Tại sao anh chị em thử CHÚA?” Nhưng vì quá khát nên họ cứ phiền trách Môi-se và nói: “Tại sao ông đem chúng tôi ra khỏi Ai-cập để cho chúng tôi, con cái chúng tôi và bầy súc vật phải chết khát?” Môi-se kêu cầu CHÚA: “Con phải làm chi cho dân này? Chỉ còn chút nữa là họ ném đá con.” CHÚA đáp lời Môi-se: “Con hãy đi trước dân chúng, dẫn theo con một số bô lão Y-sơ-ra-ên và cầm trong tay cây gậy con đã dùng đập nước sông Ninh. Ta sẽ đứng đó, trước mặt con ở bên vầng đá Hô-rếp. Con sẽ đập vầng đá và nước sẽ tuôn tràn ra cho dân chúng uống.” Môi-se làm đúng theo điều Chúa phán dạy trước mắt các bô lão Y-sơ-ra-ên. Ông đặt tên chỗ đó là Ma-sa và Mê-ri-ba vì dân Y-sơ-ra-ên có cãi lộn và vì họ thử CHÚA khi nói rằng: “CHÚA có ở giữa chúng ta không?” Người A-ma-léc đến tấn công dân Y-sơ-ra-ên tại Rê-phi-đim. Môi-se bảo Giô-suê: “Hãy tuyển chọn người của chúng ta để ra chiến đấu chống lại dân A-ma-léc. Ngày mai tôi sẽ đứng trên ngọn đồi với cây gậy của Đức Chúa Trời trong tay.” Như vậy Giô-suê chiến đấu chống lại dân A-ma-léc theo lệnh Môi-se, còn Môi-se, A-rôn và Hu-rơ lên đứng trên đỉnh đồi. Trong khi Môi-se đưa tay lên thì dân Y-sơ-ra-ên thắng thế, nhưng khi nào ông hạ tay xuống thì dân A-ma-léc lại thắng thế. Khi tay Môi-se đã mỏi, A-rôn và Hu-rơ cùng đứng mỗi người một bên để đỡ tay Môi-se và giữ cho tay ông không chuyển động cho đến khi mặt trời lặn. Như vậy Giô-suê dùng gươm đánh bại đạo quân A-ma-léc. Sau đó CHÚA phán dạy Môi-se: “Con chép lại việc này trong một cuốn sách để ghi nhớ, và cũng nói cho Giô-suê biết rằng Ta sẽ xóa sạch kỷ niệm của dân A-ma-léc khỏi dưới trời.” Môi-se thiết lập một bàn thờ, đặt tên là: “CHÚA, ngọn cờ của tôi.” Ông nói rằng: “Vì tay họ đã đưa lên nghịch với ngôi của CHÚA nên Ngài sẽ chống nghịch dân A-ma-léc từ đời này đến đời kia.” Ông gia Môi-se là Giê-trô, thầy tế lễ Ma-đi-an, có nghe về mọi việc Đức Chúa Trời đã làm cho Môi-se và cho dân Y-sơ-ra-ên, cũng như về cách CHÚA đã đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai-cập. Trước đấy Môi-se có gởi vợ là Sê-phô-ra cho ông gia là Giê-trô, cùng với hai con trai Môi-se đặt tên cho một người con là Ghẹt-sôn, vì nói rằng: “Tôi đã thành một kiều dân ở ngoại quốc” và đặt tên cho người kia là Ê-li-ê-se vì nói: “Đức Chúa Trời của tổ phụ tôi là Đấng đã giúp đỡ tôi, Ngài giải cứu tôi khỏi lưỡi gươm của Pha-ra-ôn.” Giê-trô, ông gia Môi-se, cùng với vợ và hai con trai Môi-se, đến gặp ông khi ông đang cắm trại gần bên núi của Đức Chúa Trời. Giê-trô cho người đến báo cáo cho Môi-se rằng: “Ta là Giê-trô, ông gia của con, cùng với vợ và các con của con đã đến đây.” Môi-se ra tiếp đón ông gia mình, cúi đầu chào và hôn ông. Sau khi chào thăm nhau, hai người vào lều. Môi-se thuật lại cho ông gia nghe mọi việc CHÚA đã vì dân Y-sơ-ra-ên mà thi thố trên Pha-ra-ôn và trên dân Ai-cập; ông cũng kể lại những nỗi khó khăn dân Chúa đã gặp dọc đường và cách CHÚA giải cứu họ. Giê-trô rất hoan hỉ khi nghe tất cả những việc lành CHÚA đã thực hành cho dân Y-sơ-ra-ên để giải cứu họ ra khỏi tay người Ai-cập. Ông nói: “Cảm tạ CHÚA là Đấng đã giải cứu con ra khỏi tay của người Ai-cập và của Pha-ra-ôn cũng như đã giải cứu dân Ngài khỏi tay người Ai-cập. Bây giờ cha biết CHÚA vĩ đại hơn tất cả các thần vì Ngài đã làm những việc này cho những người đối xử với dân Y-sơ-ra-ên cách kiêu căng.” Rồi Giê-trô, ông gia Môi-se dâng tế lễ thiêu và các tế lễ khác cho Đức Chúa Trời, rồi A-rôn và các bô lão Y-sơ-ra-ên ăn bữa với ông gia Môi-se trước mặt Đức Chúa Trời. Qua hôm sau, Môi-se ra ngồi tòa xét đoán toàn dân, và họ đứng xung quanh ông từ sáng đến chiều. Khi thấy mọi việc Môi-se làm cho dân chúng, Giê-trô hỏi: “Có phải điều đó là điều con làm cho dân chúng không? Tại sao chỉ một mình con ngồi ghế thẩm phán còn toàn dân đứng chung quanh con từ sáng đến chiều như vậy?” Môi-se đáp: “Họ đến với con để tìm biết ý muốn của Đức Chúa Trời. Khi có ai tranh tụng điều gì thì đem đến với con để con phân xử giữa đôi bên và cho họ biết mạng lệnh và luật pháp của Đức Chúa Trời.” Ông gia Môi-se nói: “Con làm như vây không tiện. Cả con lẫn những người đến với con cũng đều mệt nhoài. Công việc quá nặng nề cho con, một mình con gánh không xuể. Con sẽ kiệt quệ mà dân cũng mỏi mòn. Con nghe cha nói rồi cha sẽ trình bầy cho con một vài lời khuyên; cầu xin CHÚA ở với con. Con phải là người đại diện của dân chúng trước mặt Đức Chúa Trời và trình cho Ngài biết các cuộc tranh tụng của họ. Con dạy cho họ các mạng lệnh và luật lệ và chỉ dẫn cho họ biết cách họ phải sống và bổn phận họ phải thi hành. Trong toàn dân con cũng phải lựa chọn những người có khả năng, kính sợ Đức Chúa Trời, đáng tin cậy và ghét lợi bất chánh, rồi bổ nhiệm họ vào cấp lãnh đạo, chỉ huy từng ngàn, trăm, năm mươi và mười người. Con dùng họ làm người xét xử thường xuyên để giải quyết những vụ đơn giản, còn vụ khó khăn thì đem trình cho con. Như vậy họ sẽ chia sẻ trách nhiệm với con và gánh nặng của con sẽ vơi đi rất nhiều. Nếu con làm như vậy, và nếu Đức Chúa Trời cho phép, con mới có thể đảm đương trọng trách và dân chúng mới an lòng khi về nhà.” Môi-se nghe lời ông gia mình và làm theo mọi điều ông khuyên bảo. Môi-se chọn những người có khả năng trong dân chúng và đặt họ làm những người lãnh đạo, chỉ huy hàng ngàn, trăm, năm mươi và mười người. Những người này thường xuyên xét xử dân chúng và giải quyết những vụ đơn giản, còn vụ khó khăn thì đem trình Môi-se. Sau đó Môi-se tiễn đưa ông gia mình là Giê-trô, khi ông lên đường về xứ mình. Sau khi ra khỏi Ai-cập đúng ba tháng, dân Y-sơ-ra-ên đến sa mạc Si-nai và cắm trại đối diện với núi. Họ đi từ Rê-phi-đim đến sa mạc Si-nai, rồi cắm trại đối diện núi. Môi-se lên với Đức Chúa Trời khi CHÚA gọi ông và phán dạy rằng: “Đây là điều con sẽ thuật lại cho nhà Gia-cốp và nói lại cho dân Y-sơ-ra-ên: ‘Chính các ngươi đã thấy những việc Ta làm trong xứ Ai-cập và cách Ta đã đem các ngươi như bằng cánh chim ưng để đem các ngươi đến với Ta. Bây giờ nếu các ngươi vâng phục Ta hoàn toàn và giữ giao ước Ta thì trong tất cả các nước, các ngươi sẽ là cơ nghiệp quý giá của Ta. Mặc dù cả thế gian đều thuộc về Ta, riêng các ngươi sẽ là vương quốc thầy tế lễ và là dân tộc thánh cho Ta.’ Đó là những lời con phải nói lại cho dân Y-sơ-ra-ên.” Như vậy trở về, triệu tập các bô lão đến và thuật lại cho họ nghe những lời CHÚA đã truyền cho ông nói lại. Toàn dân đồng thanh trả lời rằng: “Chúng tôi sẽ làm theo mọi điều CHÚA đã phán dạy.” Môi-se trình lại lời của họ với CHÚA. CHÚA phán với Môi-se rằng: “Ta sẽ đến với con trong đám mây dày đặc và cho dân chúng được nghe Ta nói chuyện với con để chúng luôn tin tưởng con.” Môi-se cũng trình lên cho CHÚA những điều dân Y-sơ-ra-ên đã nói. CHÚA phán dạy Môi-se: “Con hãy đến với dân Y-sơ-ra-ên và bảo họ làm cho mình thánh sạch trong ngày hôm nay và ngày mai. Bảo họ giặt áo xống và phải sẵn sàng vào ngày thứ ba vì ngày đó CHÚA sẽ giáng lâm trên núi Si-nai trước mắt toàn dân. Con phải vạch ranh giới xung quanh núi cho dân chúng và bảo họ: ‘Phải cẩn thận đừng lên núi cũng đừng đụng đến chân núi. Ai đụng đến núi phải bị xử tử. Người đó sẽ bị ném đá hoặc bị bắn tên cho chết; không ai được đưa tay sờ đến người đó. Dù là người ta hay súc vật, hễ đụng đến núi thì phải chết. Chỉ khi nào có tiếng kèn thổi dài người ta mới được lên núi.’” Môi-se ở trên núi xuống, đến với dân chúng, bảo họ giữ mình thánh sạch và giặt áo xống. Sau đó ông nói với họ: “Anh chị em phải chuẩn bị cho ngày thứ ba, và phải kiêng đến gần đàn bà.” Vào buổi sáng ngày thứ ba có sấm sét chớp nhoáng, mây đen kịt bao phủ núi và có tiếng kèn thổi vang làm cho mọi người trong doanh trại đều run sợ. Môi-se hướng dẫn dân chúng từ doanh trại bước ra để ra mắt Đức Chúa Trời và họ dừng lại ở chân núi. Khói bao phủ núi Si-nai, vì CHÚA giáng lâm trong lửa. Khói từ núi bay lên như khói từ lò lửa hực và cả núi rung chuyển dữ dội. Tiếng kèn càng lâu càng vang động. Lúc đó Môi-se bắt đầu nói và có tiếng của Đức Chúa Trời đáp lời ông. CHÚA giáng lâm trên đỉnh núi Si-nai, gọi Môi-se lên núi. Ông liền vâng lời. CHÚA phán với Môi-se: “Con xuống cảnh cáo dân chúng bảo họ không được vượt ranh giới tìm xem CHÚA mà nhiều người phải thiệt mạng. Ngay cả các thầy tế lễ khi đến gần CHÚA cũng phải làm cho mình thánh sạch, nếu không, họ sẽ bị CHÚA tiêu diệt.” Môi-se trình với CHÚA: “Dân chúng không thể lên núi Si-nai vì chính Chúa có bảo con vạch ranh giới quanh núi và biệt núi riêng ra thánh.” CHÚA phán bảo Môi-se: “Con xuống đem A-rôn lên với con. Nhưng các thầy tế lễ và dân chúng không được vượt ranh giới lên đến Ta; ai bất tuân sẽ bị Ta tiêu diệt.” Như vậy Môi-se xuống núi đến với dân chúng và căn dặn họ. Đức Chúa Trời công bố những lời này: “Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của các ngươi, đã đem các ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi đất nô lệ. Ngoài Ta ra, các ngươi không được thờ các thần khác. Các ngươi không được làm cho mình tượng theo hình dạng của bất cứ vật gì ở trên trời cao, ở trên mặt đất hay ở dưới nước. Các ngươi không được sấp mình thờ phượng các tượng ấy; vì Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi, Đức Chúa Trời kỵ tà. Ta hình phạt con cháu cho đến thế hệ thứ ba, thứ tư vì tội khước từ Ta của tổ tiên họ, nhưng bầy tỏ tình thương đến ngàn đời cho ai yêu mến Ta và vâng giữ các điều răn Ta. Các ngươi không được dùng tên CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi cách thiếu tôn kính, vì CHÚA không coi người dùng tên Ngài cách thiếu tôn kính là người vô tội. Phải nhớ ngày Sa-bát và giữ làm ngày thánh. Các ngươi phải làm tất cả các công việc mình trong sáu ngày, nhưng ngày Sa-bát là ngày dành cho CHÚA, Đức Chúa Trời của các ngươi. Trong ngày đó các ngươi, con trai con gái, tôi trai tớ gái, súc vật và cả đến khách ở trong nhà các ngươi đều không được làm việc gì cả. Vì trong sáu ngày CHÚA đã dựng nên trời, đất, biển và mọi vật trong đó, nhưng Ngài nghỉ vào ngày thứ bảy. Như vậy CHÚA chúc phước cho ngày thứ bảy và thánh hóa ngày ấy. Phải hiếu kính cha mẹ, để các ngươi có thể sống lâu trên đất mà CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi ban cho. Không được giết người. Không được tà dâm. Không được trộm cắp. Không được làm chứng dối nghịch người khác. Không được tham muốn nhà cửa của người khác. Không được tham muốn vợ, tôi trai, tớ gái, bò lừa hay bất cứ thứ gì của người khác.” Khi nghe thấy sấm chớp, tiếng kèn và núi bốc khói, dân chúng run rẩy sợ sệt. Họ đứng tận đằng xa và nói với Môi-se rằng: “Xin chính ông nói với chúng tôi và chúng tôi sẽ nghe lời. Xin đừng để Đức Chúa Trời phán với chúng tôi, kẻo chúng tôi chết mất!” Môi-se nói với dân chúng: “Anh chị em đừng sợ. Đức Chúa Trời đến để thử anh chị em, để anh chị em có lòng kính sợ Đức Chúa Trời và không phạm tội với Ngài.” Trong khi Môi-se đến gần đám mây dầy đặc là nơi Đức Chúa Trời ngự thì dân chúng cứ đứng ở đằng xa. Sau đó, CHÚA phán dạy Môi-se: “Con truyền lại cho dân Y-sơ-ra-ên lời này: ‘Chính các ngươi đã thấy tận mắt Ta từ trời phán cùng với các ngươi; vậy các ngươi không được làm và đặt bên cạnh Ta bất cứ thần tượng nào; đừng làm cho mình các thần bằng bạc hay các thần bằng vàng. Các ngươi phải làm một bàn thờ bằng đất cho Ta và dâng trên bàn thờ ấy tế lễ thiêu, tế lễ cầu an, cừu, dê và bò. Bất cứ nơi nào Ta làm cho tên Ta được tôn kính, Ta sẽ đến và ban phước cho các ngươi. Nếu các ngươi thiết lập cho Ta một bàn thờ bằng đá thì đừng dùng đá đẽo, vì các ngươi sẽ làm ô uế bàn thờ khi dùng dụng cụ để đẽo đá. Không được đi lên bàn thờ Ta bằng bậc thang để khỏi bộc lộ sự trần truồng của ngươi.’” Đây là những luật lệ con phải truyền cho dân Y-sơ-ra-ên: “Nếu các ngươi mua một người Hê-bơ-rơ làm nô lệ, người đó sẽ phục vụ trong sáu năm. Nhưng đến năm thứ bảy người đó sẽ được tự do, không cần phải trả tiền chuộc. Nếu đến nhà ngươi một mình, người ấy cũng ra đi một mình; nhưng nếu có vợ khi đến nhà ngươi, người ấy sẽ ra đi với vợ mình. Nếu chủ cưới vợ cho người nô lệ và họ có con cái, khi ra đi người nô lệ sẽ đi một mình còn vợ và con đều thuộc về người chủ. Nhưng nếu người nô lệ tuyên bố rằng: ‘Tôi yêu chủ, yêu vợ con và không muốn ra đi tự do’ thì người chủ phải đem người nô lệ này đến trước mặt các thẩm phán. Chủ sẽ dẫn người nô lệ đến cửa, hay trụ cửa, rồi dùng dùi xỏ tai người ấy và người ấy sẽ làm nô lệ cho chủ trọn đời. Nếu người có bán con gái mình làm nữ tỳ, đến năm thứ bảy nữ tỳ này sẽ không được trả tự do như các tôi tớ đàn ông. Nếu nữ tỳ này không còn vừa lòng chủ mặc dù đã được chủ chọn cho mình, chủ phải để cho người khác chuộc nữ tỳ này và không được phép bán cho người nước ngoài vì chủ đã thất tín với nàng. Nếu chủ đã chọn một nữ tỳ cho con trai mình, chủ phải cho người này các đặc quyền như là con gái mình. Nếu chủ đã cưới một nữ tỳ sau lại cưới vợ khác, chủ không được phép giảm thức ăn, áo xống và tình nghĩa vợ chồng với người vợ thứ nhất. Nếu chủ không cung cấp ba thứ này, người vợ thứ nhất có thể ra đi tự do mà không cần phải đóng tiền chuộc. Ai đánh chết người, chắc chắn sẽ bị xử tử. Tuy nhiên nếu không có dự mưu và tai nạn do Đức Chúa Trời cho phép xảy ra, người ấy phải chạy trốn đến chỗ Ta sẽ chỉ định. Nhưng nếu có ai dự mưu và cố tình giết người, các ngươi phải dẫn tên sát nhân ra khỏi bàn thờ Ta và đem xử tử. Ai đánh cha mẹ mình, phải bị xử tử. Ai bắt cóc một người, hoặc đem bán đi hoặc giữ lại, phải bị xử tử. Ai rủa cha mẹ, phải bị xử tử. Nếu hai người cãi lộn rồi một người đánh người kia bằng đá hay bằng nắm tay làm cho bị thương phải nằm liệt giường nhưng không chết, người gây ra thương tích sẽ không bị buộc tội nếu người bị thương có thể đứng dậy chống gậy đi ra khỏi nhà. Tuy nhiên người gây thương tích phải bồi thường thiệt hại cho người bị thương suốt thời gian người ấy không làm việc được cho đến khi lành mạnh. Nếu một người chủ dùng cây đánh nô lệ nam hay nữ của mình làm người nô lệ chết liền tại chỗ, người chủ phải bị trừng phạt, nhưng nếu một hai ngày sau người nô lệ này dậy được thì chủ khỏi bị trừng phạt, vì nô lệ là tài sản của chủ. Nếu hai người đang đánh nhau, đụng nhằm một phụ nữ đang có thai và làm cho phụ nữ này bị sinh thiếu tháng nhưng không bị thương tích trầm trọng thì người có lỗi phải bồi thường theo mức chồng của phụ nữ ấy đòi hỏi và được thẩm phán chấp thuận. Nhưng nếu gây thương tích trầm trọng thì mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân, phỏng đền phỏng, thương tích đền thương tích, bầm giập đền bầm giập. Nếu người chủ đánh nhằm con mắt của người nô lệ của mình, dù nam hay nữ, và làm cho mù thì người chủ phải bồi thường thiệt hại bằng cách để cho người nô lệ ra đi tự do. Nếu người chủ đánh rụng răng một người nô lệ, dù nam hay nữ, chủ phải để người nô lệ ra đi tự do để bồi thường răng bị rụng. Nếu một con bò báng chết một người đàn ông hay đàn bà, bò đó phải bị ném đá chết và không ai ăn thịt nó. Chủ bò sẽ không bị buộc phải chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, nếu bò có tật báng và chủ bò đã được cảnh cáo nhưng không chịu nhốt bò lại để bò báng chết người, dù nam hay nữ, thì bò phải bị ném đá chết và chủ bò cũng bị xử tử. Tuy nhiên nếu thân nhân người chết cho phép chuộc mạng, chủ bò sẽ trả bất cứ giá nào thân nhân đòi hỏi. Luật này cũng áp dụng khi bò báng chết một thiếu niên nam hay nữ. Nếu bò báng chết một người nô lệ nam hay nữ, chủ bò phải trả ba mươi miếng bạc cho chủ người nô lệ còn bò phải bị ném đá cho chết. Nếu có người mở miệng hầm hay đào hầm mà không đậy lại và có bò hay lừa té xuống hầm, người chủ hầm phải bồi thường thiệt hại cho chủ bò và con bò chết sẽ thuộc về chủ hầm. Nếu bò của người này báng chết bò của người khác, hai người chủ sẽ đem bán con bò còn sống rồi chia tiền bán và chia con bò chết cho công bằng. Tuy nhiên, nếu chủ biết bò mình có tật báng mà không chịu nhốt bò lại, người chủ này phải bồi thường, bò đền bò, và được giữ con bò chết. Nếu một người bắt trộm bò hay cừu rồi đem giết hay đem bán đi, người ấy phải bồi thường: nếu là bò thì một thường năm; còn cừu thì một thường bốn. Nếu kẻ trộm bị bắt quả tang và bị đánh chết, người đánh chết không mang tội sát nhân, nhưng nếu nội vụ xảy ra sau khi mặt trời mọc, người đánh chết sẽ mang tội sát nhân. Người trộm cắp phải bồi thường, nhưng nếu không có gì, người ấy phải bị đem bán để bồi thường cho vụ trộm cắp. Nếu tìm lại được con vật bị mất cắp, dù là bò lừa hay cừu trong tay kẻ trộm và con vật vẫn còn sống, kẻ trộm chỉ phải bồi thường gấp đôi. Nếu một người thả gia súc đi ăn trong một cánh đồng hay trong vườn nho rồi để chúng đi lạc qua và ăn trong cánh đồng của người khác, thì phải lấy hoa lợi tốt nhất của cánh đồng hay vườn nho mình để bồi thường thiệt hại. Nếu một người nổi lửa đốt bụi gai rồi lửa cháy lan qua cháy hoa lợi đã gặt, hoa lợi chưa gặt, hay cháy cả cánh đồng của người khác, người đã nổi lửa phải bồi thường thiệt hại. Nếu một người gởi tiền bạc hay đồ vật nhờ hàng xóm giữ hộ, và những món này bị trộm cắp trong nhà của hàng xóm, kẻ trộm sẽ bồi thường gấp đôi nếu bị bắt. Nhưng nếu không bắt được kẻ trộm, người chủ nhà phải ra tòa để các thẩm phán xác định người này có nhúng tay vào vụ trộm cắp tài sản của người kia hay không. Trong trường hợp có người giữ một con bò, lừa, cừu, áo xống hay bất cứ vật gì đã mất cắp và có người nói rằng: ‘Cái này là của tôi’ thì cả hai bên phải đem nội vụ trình tòa. Người bị thẩm phán kết tội phải bồi thường gấp đôi cho láng giềng mình. Nếu một người gởi lừa, bò, cừu hay con vật nào khác cho láng giềng giữ hộ, nhưng con vật bị chết, bị thương hay bị lạc mất khi không có ai chứng kiến, sự tranh chấp giữa hai bên sẽ được giải quyết bằng lời thề trước mặt CHÚA rằng người láng giềng không nhúng tay vào tài sản của sở hữu chủ, người này phải chấp nhận lời thề và không được đòi bồi thường. Nhưng nếu con vật bị bắt trộm khi được gởi cho láng giềng giữ, người này phải bồi thường. Nếu con vật bị thú rừng xé xác, người này sẽ đưa xác con vật ra làm tang chứng và sẽ không bị buộc phải bồi thường. Nếu có người mượn của láng giềng một con vật và nó bị chết hay bị thương trong khi không có mặt người chủ, người mượn con vật phải bồi thường, nhưng nếu người chủ có mặt tại đó, người mượn sẽ không phải bồi thường. Nếu con vật được cho mướn, tiền mướn sẽ trang trải số thiệt hại. Nếu một người quyến rũ một người con gái còn trinh chưa hứa hôn với ai và ngủ với nàng, người này phải nạp sính lễ và nàng sẽ thành vợ người. Nếu người cha nhất quyết không chịu gả con gái mình, người kia vẫn phải trả đủ sính lễ như khi cưới con gái còn trinh. Không được để cho người hành nghề phù thủy sống. Người nào nằm với một con vật phải bị xử tử. Người nào dâng tế lễ cho thần nào ngoài CHÚA phải bị tiêu diệt. Đừng bạc đãi ngoại kiều cũng đừng áp bức họ, vì các ngươi đã là ngoại kiều trong xứ Ai-cập. Đừng làm cho góa phụ và trẻ mồ côi đau khổ. Nếu các ngươi làm cho họ đau khổ, họ sẽ kêu van Ta và chắc chắn Ta sẽ nghe tiếng kêu của họ. Cơn giận của Ta sẽ nổi lên và Ta sẽ dùng gươm giết các ngươi; như vậy vợ các ngươi sẽ thành góa phụ và con các ngươi sẽ thành mồ côi. Nếu các ngươi cho một anh chị em thiếu thốn mượn tiền, đừng lấy lãi như người cho vay vẫn làm. Nếu ngươi cầm áo xống của láng giềng làm của thế chân thì phải trả áo lại trước khi mặt trời lặn, vì áo đó là món duy nhất người láng giềng dùng để che thân, lấy gì người đó dùng để đắp khi ngủ? Khi người đó kêu van Ta, Ta sẽ nghe, vì Ta giầu lòng thương xót. Đừng nói xúc phạm đến Đức Chúa Trời cũng đừng rủa các cấp lãnh đạo dân mình. Đừng chậm trễ trong việc dâng hiến ngũ cốc và rượu nho. Các ngươi phải dâng con trưởng nam cho Ta. Cũng phải dâng bò và cừu đầu lòng. Hãy để cho chúng ở với mẹ trong bảy ngày, nhưng phải đem chúng dâng cho Ta vào ngày thứ tám. Các ngươi phải là một dân tộc thánh cho Ta. Vậy đừng ăn thịt con vật bị thú rừng cắn xé, nhưng phải quăng cho chó ăn. Đừng loan tin thất thiệt. Đừng làm chứng dối giúp người ác. Đừng hùa theo đám đông để làm ác. Khi ngươi là nhân chứng trong một vụ án, đừng hùa theo đám đông mà bẻ cong công lý, cũng đừng thiên vị người nghèo trong phiên tòa. Nếu ngươi gặp bò hay lừa của kẻ thù đi lạc, phải dẫn nó về cho chủ. Nếu ngươi thấy lừa của kẻ thù ngã quỵ vì chở quá nặng, đừng làm ngơ nhưng phải ra tay giúp đỡ. Đừng làm lệch cán cân công lý trong các vụ kiện liên hệ đến người nghèo. Đừng chấp nhận lời cáo gian và đừng để người vô tội hay ngay thẳng phải chịu tử hình, vì Ta không dung thứ người có tội đâu. Đừng nhận hối lộ, vì của hối lộ làm mù mắt người sáng suốt và bẻ cong lời lẽ của người công bình. Đừng áp bức ngoại kiều; chính các ngươi đã biết rõ tâm trạng của ngoại kiều vì các ngươi vốn là ngoại kiều trong xứ Ai-cập. Các ngươi sẽ gieo giống và gặt hái trong sáu năm, nhưng trong năm thứ bảy phải để cho đất nghỉ, không cầy bừa gieo trồng gì cả. Như vậy người nghèo khó của ngươi sẽ kiếm được lương thực ngoài đồng và thú rừng cũng được ăn những gì còn lại. Luật này cũng áp dụng cho vườn nho và vườn ô-liu của các ngươi. Các ngươi làm việc trong sáu ngày, nhưng ngày thứ bảy phải nghỉ, để cho bò, lừa được nghỉ ngơi, và nô lệ sinh trong nhà ngươi cũng như ngoại kiều đều được dưỡng sức. Phải cẩn thận làm theo mọi điều Ta đã phán dạy. Đừng cầu đảo tên các thần khác, môi miệng ngươi không được nhắc đến tên các thần ấy. Mỗi năm các ngươi phải giữ ba đại lễ cho Ta. Phải giữ Lễ Bánh Không Men; trong bảy ngày các ngươi ăn bánh không men, như Ta đã dạy bảo. Lễ này phải giữ đúng thời điểm đã ấn định vào tháng giêng vì vào tháng đó các ngươi ra khỏi Ai-cập. Không một ai đi tay không đến trước mặt Ta. Phải giữ Lễ Gặt Hái bằng cách dâng hiến hoa quả đầu tiên của hoa lợi do các ngươi canh tác. Phải giữ Lễ Thu Hoạch vào cuối năm, khi các ngươi thu hoạch mùa màng từ ngoài đồng mang về. Mỗi năm ba lần tất cả các người đàn ông phải trình diện trước CHÚA, Đức Chúa Trời của các ngươi. Đừng dâng hiến huyết sinh tế cho Ta chung với bất cứ món gì có men. Mỡ của sinh tế không được giữ cho đến sáng hôm sau. Phải đem hoa quả đầu mùa tốt nhất do đất ruộng ngươi sản xuất đến Nhà của CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi. Đừng nấu dê con trong sữa mẹ nó. Ta sai một thiên sứ đi trước các ngươi để bảo vệ các ngươi dọc đàng và đem các ngươi vào nơi Ta đã chuẩn bị. Phải chú ý và vâng theo lời thiên sứ dạy bảo. Đừng phản nghịch chống lại thiên sứ, thiên sứ sẽ không tha thứ tội phản nghịch đâu, vì tên Ta ở trong thiên sứ. Nếu các ngươi cẩn thận nghe lời thiên sứ và làm theo mọi điều Ta phán dậy, Ta sẽ nghịch với cừu địch của các ngươi và chống đối những người chống đối các ngươi. Thiên sứ Ta sẽ đi trước các ngươi và đem các ngươi vào lãnh thổ của các dân A-mô-rít, Hê-tít, Phê-rê-sít, Ca-na-an, Hê-vít và Giê-bu-sít và Ta sẽ quét sạch chúng nó. Đừng sấp mình trước các thần của chúng cũng đừng thờ phượng các thần ấy hay bắt chước các thói tục của họ. Các ngươi phải hủy diệt các thần ấy và đập vụn các trụ thờ của họ. Các ngươi chỉ thờ phượng CHÚA, Đức Chúa Trời các người và Ngài sẽ ban phước lành cho thức ăn nước uống của các ngươi. Ta sẽ đem bệnh tật tránh xa các ngươi, trong toàn quốc sẽ không có ai sẩy thai hay son sẻ. Ta sẽ cho các ngươi trường thọ. Ta sẽ sai kinh hoàng đi trước các ngươi và làm náo loạn mọi nước đối nghịch các ngươi. Ta sẽ làm mọi thù nghịch các ngươi quay đầu bỏ chạy. Ta sẽ sai ong vò vẽ bay trước các ngươi để đuổi các dân Hê-vít, Ca-na-an và Hê-tít khỏi trước mặt các ngươi. Nhưng Ta sẽ không đuổi chúng nó hết trong một năm, vì nếu làm vậy đất sẽ hoang vu và thú rừng sẽ trở nên quá nhiều, các ngươi không kham nổi. Ta sẽ đuổi chúng lần lần, cho đến khi các ngươi sinh sôi nẩy nở đủ để chiếm hữu toàn xứ. Ta sẽ thiết lập biên giới cho các ngươi từ Biển Đỏ cho đến Biển Phi-li-tin và từ sa mạc đến Sông Lớn. Ta sẽ trao cho các ngươi các dân tộc sống trong phần đất đó và các ngươi sẽ đuổi họ đi. Đừng kết ước với các dân tộc ấy hay với các thần của họ. Đừng để họ sống lẫn lộn trên đất các ngươi, vì họ sẽ xui giục các ngươi phạm tội với Ta và việc thờ phượng các thần đó chắc chắn sẽ đưa các ngươi vào cạm bẫy.” CHÚA phán dạy Môi-se: “Con đem A-rôn, Na-đáp, A-bi-hu và bảy mươi bô lão dân Y-sơ-ra-ên đến với Ta. Họ sẽ thờ phượng từ đằng xa, nhưng chỉ một mình Môi-se được đến gần CHÚA; các người kia không được phép đến gần. Trong dân chúng không ai được theo Môi-se lên núi.” Khi Môi-se đã đi và thuật lại cho dân Y-sơ-ra-ên nghe những lời phán và luật pháp của CHÚA, họ đồng thanh đáp: “Chúng tôi sẽ làm theo mọi điều CHÚA phán dạy.” Môi-se ghi chép lại tất cả những điều CHÚA đã phán. Sáng hôm sau, ông dậy sớm, thiết lập một bàn thờ tại chân núi và dựng lên mười hai trụ đá, tượng trưng cho mười hai chi tộc Y-sơ-ra-ên. Ông cũng cắt đặt một số thanh niên Y-sơ-ra-ên, và họ dâng tế lễ thiêu và dâng bò tơ làm tế lễ cầu an cho CHÚA. Môi-se đựng phân nửa huyết trong một cái chậu còn phân nửa kia ông đem rẩy lên bàn thờ. Rồi ông đem cuốn Sách Giao Ước ra đọc trước dân chúng. Họ đáp: “Chúng tôi sẽ làm theo mọi điều CHÚA phán dạy; chúng tôi sẽ tuân theo.” Môi-se lấy huyết rẩy trên dân chúng và nói: “Đây là huyết giao ước CHÚA đã lập với các ngươi đúng theo mọi lời này.” Môi-se, A-rôn, Na-đáp, A-bi-hu và bảy mươi bô lão của dân Y-sơ-ra-ên đứng dậy và trông thấy Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Dưới chân Ngài có cái gì giống như cái bệ bằng ngọc xa-phia, trong sáng như bầu trời xanh. Nhưng Đức Chúa Trời không đưa tay Ngài nghịch các cấp lãnh đạo của Y-sơ-ra-ên; họ trông thấy Đức Chúa Trời rồi ăn uống. CHÚA phán dạy Môi-se: “Con đến với Ta trên núi và chờ đợi Ta ban cho con mấy bảng đá với luật pháp và điều răn Ta đã ghi chép để dạy dỗ dân Y-sơ-ra-ên.” Môi-se với phụ tá là Giô-suê lên núi của Đức Chúa Trời. Ông căn dặn các bô lão: “Các ông chờ đợi tại đây cho đến khi chúng tôi trở lại. A-rôn và Hu-rơ ở lại với các ông, ai có tranh chấp gì có thể đến với hai ông ấy.” Khi Môi-se lên núi, mây che phủ núi, và vinh quang của CHÚA bao trùm núi Si-nai. Trong sáu ngày, mây che phủ núi và qua ngày thứ bảy CHÚA từ trong đám mây gọi Môi-se. Đối với dân Y-sơ-ra-ên, vinh quang của CHÚA trông giống đám lửa cháy hực trên núi. Khi lên núi, Môi-se vào trong đám mây. Ông ở trên núi bốn mươi ngày và bốn mươi đêm. CHÚA phán dạy Môi-se: “Con bảo dân Y-sơ-ra-ên đem lễ vật dâng cho Ta và con tiếp nhận lễ vật do mỗi người tự nguyện dâng hiến. Đây là những thứ lễ vật con sẽ nhận từ dân chúng: vàng, bạc, đồng, chỉ mầu xanh, tím và đỏ, sợi lanh, lông dê, da cừu nhuộm đỏ, da dê, gỗ si-tim, dầu phong chức và hương thơm, bạch ngọc và các loại ngọc khác để gắn vào ê-phót và bảng đeo ngực. Con bảo họ làm cho Ta một Đền Thánh và Ta sẽ ở giữa họ. Hãy làm Đền Tạm và các vật dụng giống hệt kiểu mẫu Ta sẽ chỉ cho con.” “Làm một cái rương bằng gỗ si-tim, dài 1.25m, rộng 0.75m và cao 0.75m Dùng vàng ròng bọc bên ngoài lẫn bên trong và làm cái viền bằng vàng quanh rương. Đúc bốn khoen vàng và gắn khoen vào bốn góc rương, hai khoen bên này và hai khoen bên kia. Làm hai cái đòn bằng gỗ si-tim và dùng vàng bọc đòn. Xỏ hai cái đòn vào các khoen hai bên rương để khiêng rương. Phải để đòn khiêng trong khoen, đừng bao giờ rút ra. Sau đó con sẽ để trong rương Bảng Giao Ước Ta sẽ ban cho con. Làm cái Nắp Chuộc Tội bằng vàng ròng, dài 1.25m và rộng 0.75m Làm hai chê-ru-bim bằng vàng đặt ở hai đầu Nắp Chuộc Tội, một chê-ru-bim ở đầu này và một ở đầu kia; hai chê-ru-bim phải dính liền với nắp và đứng ở hai đầu nắp. Các chê-ru-bim đứng đối diện nhau, với hai cánh xòe ra hướng lên phía trên và che trên nắp. Đặt nắp lên trên rương và đặt Bảng Giao Ước Ta sẽ ban cho vào trong rương. Trên Nắp Chuộc Tội, giữa hai chê-ru-bim và trên Rương Giao Ước là nơi Ta sẽ gặp con để ban cho con tất cả các mạng lệnh áp dụng cho dân Y-sơ-ra-ên.” “Đóng một cái bàn bằng gỗ si-tim, dài 1m, rộng 0.50m và cao 0.75m Dùng vàng ròng bọc bàn và làm viền xung quanh bàn. Làm khung xung quanh mặt bàn, bề rộng khung bằng một bàn tay và viền vàng quanh khung. Làm bốn khoen vàng để gắn vào bốn chân bàn, ở bốn góc. Các khoen này giữ các đòn dùng để khiêng bàn. Các đòn này được làm bằng gỗ si-tim bọc vàng và được dùng để khiêng bàn. Làm đĩa, muỗng bằng vàng ròng; cũng làm bình và bát bằng vàng ròng dùng để của lễ quán. Phải để bánh thánh trên bàn này trước mặt Ta luôn luôn.” “Làm một cái chân đèn bằng vàng dát; từ chân đèn đến thân, đài, bầu và hoa của đèn đều dính liền thành một khối. Từ thân đèn mọc ra sáu cành, ba cành bên này và ba cành bên kia. Trên mỗi cành có ba cái đài, hình hoa hạnh nhân, với bầu và nụ, cành kế bên cũng có ba cái đài và tất cả sáu cành từ thân đèn ra cũng giống như vậy. Thân của chân đèn có bốn cái đài hình hoa hạnh nhân, với bầu và nụ. Chân đèn có sáu cành, cứ dưới mỗi hai cành thì có một cái bầu. Tất cả các bầu và cành đều dính liền với chân đèn thành một khối và đều làm bằng vàng ròng đánh dát. Sau đó, làm bảy ngọn đèn rồi đặt trên chân đèn thế nào để ánh sáng chiếu ra phía trước. Kéo cắt tim đèn và đĩa đựng tàn cũng làm bằng vàng ròng. Một ta-lâng vàng ròng sẽ được dùng để làm chân đèn và các đồ phụ tùng trên đây. Con phải lưu ý làm các món này đúng theo kiểu mẫu đã cho con xem trên núi.” Làm Đền Tạm với mười tấm màn dệt bằng chỉ gai mịn mầu xanh, tím và đỏ với hình chê-ru-bim do một người thợ tài giỏi thêu lên. Tất cả các màn này đều cùng cỡ: bề dài 14m và bề ngang 2m Kết năm tấm màn thứ nhất dính lại thành một tấm lớn, rồi cũng kết năm tấm màn còn lại thành một tấm lớn. Làm các vòng bằng chỉ xanh dọc theo biên của tấm màn lớn thứ nhất, rồi cũng làm các vòng cho tấm màn lớn thứ hai. Làm năm mươi cái vòng trên một cạnh của tấm màn lớn thứ nhất, cũng làm năm mươi cái vòng trên tấm màn lớn thứ hai, và các vòng trên hai tấm màn này được đặt đối diện nhau. Làm năm mươi cái móc bằng vàng, và dùng các móc này để kết hai tấm màn lớn lại với nhau thành một đơn vị duy nhất dùng làm Đền Tạm. Cũng lấy lông dê làm mười một tấm màn dùng làm mái che Đền Tạm. Tất cả mười một tấm màn này đều cùng cỡ: bề dài 15m và bề rộng 2m. Kết năm tấm màn lại thành một bộ. Sáu tấm màn còn lại cũng được kết thành một bộ nhưng tấm thứ sáu được xếp đôi lại cho phủ xuống trước Đền. Làm năm mươi cái vòng dọc theo đường biên của bộ thứ nhất, và cũng làm năm mươi vòng như vậy cho bộ kia. Rồi làm năm mươi móc đồng để móc liền hai bộ màn lông dê này lại thành một mái che Đền. Mái này có một phần thặng dư được thả thòng ở mặt sau Đền; cũng có phần thặng dư với chiều dài 0.50m để thả thòng hai bên Đền. Phủ trên mái che này một lớp da cừu nhuộm đỏ, rồi phủ trên lớp da cừu một lớp da dê. Làm vách Đền Tạm bằng ván si-tim. Một tấm ván dài 5m, rộng 0.75m và đặt thẳng đứng, với hai lỗ móng song song với nhau. Các tấm ván trong Đền Tạm đều có lỗ mộng. Vách phía nam Đền có hai mươi tấm ván, dưới mỗi tấm ván có hai lỗ mộng bằng bạc, tất cả là bốn mươi lỗ mộng cho các tấm ván này. Về phía kia, tức là phía bắc của Đền, cùng làm hai mươi tấm ván và bốn mươi lỗ mộng bằng bạc, hai lỗ mộng cho mỗi tấm ván. Làm sáu tấm cho phía sau, tức là phía tây của Đền; và làm hai tấm ván cho hai góc phía sau này. Ở hai góc này, ván phải làm hai lớp, từ dưới lên đến trên cùng và ghép lại với nhau bằng một cái khoen; cả hai góc đều làm giống như vậy. Như vậy vách này có tám tấm ván và mười sáu lỗ mộng bằng bạc, dưới mỗi tấm ván có hai lỗ mộng. Cũng làm các thanh xà ngang bằng gỗ si-tim: năm thanh xà ngang cho phía này, năm thanh cho phía kia và năm thanh cho phía tây, tức là phía sau của Đền Tạm. Thanh xà ngang chính giữa chạy dài từ đầu này đến đầu kia và nằm ở chính giữa các vách. Lấy vàng bọc các tấm ván vách và làm vòng vàng để giữ các thanh xà ngang. Cũng lấy vàng bọc các thanh này. Con phải dựng Đền Tạm theo kiểu mẫu được chỉ cho con trên núi. Dệt một tấm màn bằng chỉ lanh mầu xanh, tím và đỏ, rồi một người thợ tài giỏi thêu hình chê-ru-bim lên tấm màn. Dùng móc vàng treo màn này trên bốn trụ gỗ si-tim. Các trụ này đều bọc vàng và được đặt trên bốn đế trụ bằng bạc. Treo bức màn vào các móc và đặt Rương Giao Ước phía sau bức màn. Bức màn này sẽ phân chia Nơi Thánh và Nơi Chí Thánh. Lấy Nắp Chuộc Tội đậy lên Rương Giao Ước và đặt Rương trong Nơi Chí Thánh. Đặt Bàn Bánh Thánh bên ngoài về phía bắc của Đền và đặt cây đèn đối diện với Bàn, về phía nam. Làm một cái màn cho cửa vào Trại, màn phải được một thợ thêu dệt bằng chỉ lanh mầu xanh, tím và đỏ. Làm móc bằng vàng để treo màn này trên năm trụ bằng gỗ si-tim bọc vàng. Các trụ này được đặt trong đế trụ bằng đồng. Đóng một bàn thờ bằng gỗ si-tim hình vuông, dài 2.50m ngang 2.50m, và cao 1.50m. Làm bốn cái sừng và gắn sừng liền vào góc bàn thờ thế nào cho bốn sừng với bàn thờ thành một khối. Dùng đồng bọc bàn thờ. Các vật phụ tùng của bàn thờ là thùng đựng tro, xuồng, bồn chứa nước, đỉnh ba và dĩa đựng than lửa đều làm bằng đồng. Làm một cái rá giữ than bằng lưỡi đồng và làm bốn cái khoen cho bốn góc rá. Đặt rá dưới thành bàn thờ để nó nhô lên đến phân nữa bề cao của bàn thờ. Làm đòn khiêng bàn thờ bằng gỗ si-tim và lấy đồng bọc đòn. Xỏ đòn vào các khoen ở hai bên bàn thờ để khiêng. Bàn thờ làm bằng ván, rỗng ở giữa, đúng theo kiểu mẫu đã chỉ cho con trên núi. Làm một hành lang cho Đền Tạm. Phía nam dài 46m có màn sợi lanh, với hai mươi trụ đồng và hai mươi lỗ trụ cũng bằng đồng, cùng với các móc bạc và các đai cũng bằng bạc. Phía bắc cũng dài 46m và cũng có màn, với hai trụ và hai mươi lỗ trụ bằng đồng, cùng với các móc và đai bạc. Cạnh phía tây của hành lang rộng 23m với các màn được treo trên mười cột trụ đặt trên mười lỗ trụ. Về phía đông, tức là hướng mặt trời mọc, hành lang cũng rộng 23m. Một bên cửa Đền có màn dài 7m treo trên ba cột trụ đặt trên ba lỗ trụ; bên kia cửa vào cũng có màn dài 7m treo trên ba cột trụ đặt trên ba lỗ trụ. Cửa vào hành lang có một bức màn dài 9m, do một người thợ thêu tài giỏi thêu với chỉ gai mịn mầu xanh, tím và đỏ; bức màn được treo trên bốn cột trụ đặt trên bốn lỗ trụ. Tất cả các cột trụ xung quanh hành lang đều được nối liền với nhau bằng cây bạc, các móc cũng bằng bạc và các lỗ trụ bằng đồng. Như vậy chiều dài của hành lang là 46m, chiều rộng 23m, với các bức màn bằng sợi lanh bề cao 2.30m và với các lỗ trụ bằng đồng. Tất cả các dụng cụ khác dùng trong Đền Tạm, bất cứ có công dụng gì, kể cả các cọc cắm lều dùng cho Đền và cho hành lang, đều làm bằng đồng. Con truyền cho dân Y-sơ-ra-ên đem dầu trong, ép với trái ô-liu, để đốt đèn cháy sáng luôn. A-rôn và các con trai phải giữ cho đèn cháy sáng luôn trước mặt CHÚA, từ tối đến sáng, trong Trại Hội Kiến, đặt bên ngoài bức màn, bên trong có Rương Giao Ước. Đây là một luật lệ vĩnh viễn áp dụng cho các thế hệ hậu lai của dân Y-sơ-ra-ên. Trong dân Y-sơ-ra-ên, con hãy chọn A-rôn, anh con, cùng với các con trai người là Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma, để họ phục vụ Ta với chức vụ thầy tế lễ. May bộ áo lễ thánh cho A-rôn, anh con, để người được uy tín và vinh dự. Con bảo những người thiện nghệ đã được Ta ban cho sự khôn ngoan để họ may bộ áo lễ A-rôn mặc trong khi được tấn phong và trong chức vụ thầy tế lễ để phục vụ Ta. Sau đây là các phần của bộ áo lễ họ sẽ may: bảng đeo ngực, ê-phót, áo dài, áo lá, khăn đội đầu và đai thắt lưng. Như vậy, họ phải may các bộ áo lễ thánh cho A-rôn và cho các con trai của người, để họ phục vụ Ta với chức vụ thầy tế lễ. Con bảo họ dùng vàng, chỉ mầu xanh, tím, đỏ và sợi lanh. Con bảo một người thợ tài giỏi làm cái ê-phót bằng vàng, chỉ mầu xanh, tím, đỏ và sợi lanh. Ê-phót có hai đai vai gắn liền vào hai góc, để có thể thắt chặt lại. Dây thắt ê-phót cũng được làm cách tinh vi và dùng cùng các thứ vật liệu là vàng, chỉ mầu xanh, tím, đỏ và sợi lanh. Lấy hai viên bạch ngọc và khắc trên đó tên của các con trai Y-sơ-ra-ên theo thứ tự ngày sinh của họ, sáu tên trên một viên bạch ngọc này và sáu tên trên viên bạch ngọc kia. Khắc tên của các con trai Y-sơ-ra-ên trên hai viên bạch ngọc theo cách người cắt ngọc khắc con dấu. Sau đó đem hai viên ngọc nhận vào hai khuôn vàng và gắn hai viên ngọc này vào hai đai vai của ê-phót làm ngọc tưởng niệm cho các con trai Y-sơ-ra-ên. A-rôn sẽ mang các tên này trên hai vai mình làm kỷ niệm trước mặt CHÚA. Làm các khuôn bằng vàng, với hai sợi dây chuyền bằng vàng ròng, giống sợi dây thừng, rồi gắn hai dây chuyền vào khuôn vàng. Con bảo một người thợ tài giỏi làm một bảng đeo ngực dùng để đi đến các quyết định. Làm bảng này bằng các vật liệu dùng để làm ê-phót, là vàng, chỉ mầu xanh, tím, đỏ và sợi lanh. Bảng này hình vuông, bề dài một gang tay, bề rộng một gang tay và làm bằng hai lớp vải. Gắn lên bảng bốn hàng ngọc. Hàng thứ nhất có hồng mã não, hoàng ngọc và hồng ngọc; hàng thứ hai có bích ngọc, lam ngọc và kim cương; hàng thứ ba có ngọc hồng bửu, ngọc mã não và ngọc tím; hàng thứ tư có lục ngọc, bạch ngọc và vân ngọc. Nhận các viên ngọc này lên khuôn vàng. Có tất cả mười hai viên cho mỗi con trai của Y-sơ-ra-ên; tên của các chi phái được khắc lên các viên ngọc như cách khắc con dấu. Làm các dây chuyền bằng vàng ròng xoắn trôn ốc, giống sợi dây thừng, cho bảng đeo ngực. Làm hai cái khoen vàng gắn liền vào hai góc của bảng đeo ngực. Gắn hai dây chuyền vàng vào hai khoen vàng ở hai góc của bảng đeo ngực; còn đầu kia của hai dây chuyền được gắn vào hai khuôn vàng, để cho liền vào hai đai vai của ê-phót về phía trước. Làm hai khoen vàng và gắn ở góc bên trong của bảng đeo ngực kế bên ê-phót; làm hai khoen vàng khác và gắn vào bên dưới của đai vai ở phía trước ê-phót, sát với đường biên ngay trên dây thắt lưng của ê-phót. Dùng sợi dây mầu xanh buộc bảng đeo ngực với cái ê-phót, qua các khoen vàng, để cho bảng đeo ngực và ê-phót khỏi rời nhau. Mỗi khi vào trong Nơi Thánh, A-rôn sẽ mang trên lòng mình tên của các con trai Y-sơ-ra-ên, là tên được khắc trên bảng đeo ngực để làm kỷ niệm thường xuyên trước mặt CHÚA. Cũng đặt U-rim và Thu-mim trong bảng đeo ngực, để A-rôn đeo trên lòng mình mỗi khi người vào trước sự hiện diện của CHÚA. May áo dài khoác ngoài ê-phót hoàn toàn bằng vải xanh, với một cái lỗ để tròng đầu ở chính giữa. Dệt một đường viền quanh lỗ này để giữ cho khỏi rách. Thắt trái lựu bằng chỉ xanh, tím, đỏ; kết các trái lựu này theo gấu áo, xen kẽ với chuông vàng. Các chuông vàng và trái lựu được kết xen kẽ với nhau vòng theo gấu của áo dài. A-rôn phải mặc áo này mỗi khi thi hành chức vụ. Người ta sẽ nghe tiếng chuông vàng mỗi khi A-rôn vào Nơi Thánh trước sự hiện diện của CHÚA, và khi ra khỏi nơi này để người khỏi phải chết. Làm một cái thẻ bằng vàng ròng, và khắc trên thẻ như cách khắc con dấu “Thánh cho CHÚA”. Dùng dây mầu xanh buộc thẻ vào khăn đội đầu, ngay ở phía trước khăn. Thẻ sẽ ở trên trán A-rôn và người sẽ mang lấy tội của dân Y-sơ-ra-ên, khi họ dâng tế lễ thánh, bất cứ loại của lễ nào. Thẻ sẽ thường trực ở trên trán A-rôn để của lễ được CHÚA chấp nhận. Dệt một áo lót bằng chỉ gai mịn, một khăn đội đầu cũng bằng sợi lanh. Một người thợ thêu sẽ thêu dây thắt lưng. Cũng dệt áo lót, khăn đội đầu và thắt lưng cho các con trai, để cho họ được uy tín và vinh dự. Sau khi con mặc các bộ áo lễ đó cho A-rôn và các con trai của người, con sẽ xức dầu và tấn phong họ để họ phục vụ Ta với chức vụ thầy tế lễ. Cũng may quần lót để che thân thể, từ bụng xuống đến đùi. A-rôn và các con trai người phải mặc quần này khi vào Trại Hội Kiến hay khi đến gần bàn thờ để phục vụ trong Nơi Thánh, để họ khỏi mang tội và chết. Đây là một luật lệ vĩnh viễn áp dụng cho A-rôn và cho dòng dõi người. Đây là điều con phải làm để tấn phong họ, để cho họ có thể phục vụ Ta với chức vụ thầy tế lễ: bắt một con bò đực tơ và hai con cừu đực không vết tích, dùng bột mì mịn nhưng không dùng men, để làm bánh lạt, bánh ngọt pha dầu và bánh kẹp tẩm dầu. Để các bánh này vào một cái giỏ để dâng cùng với con bò và hai con cừu. Sau đó con đem A-rôn và các con trai người đến cửa vào Trại Hội Kiến và lấy nước tắm rửa họ. Lấy bộ áo lễ gồm có áo dài, áo khoác ngoài ê-phót, cái ê-phót và bảng đeo ngực để mặc cho A-rôn. Dùng đai thắt lưng đã được dệt cách khéo léo để giữ ê-phót cho chặt. Lấy khăn đội đầu đội lên đầu người và gắn cái thẻ thánh lên khăn. Lấy dầu xức cho người bằng cách đổ dầu lên đầu. Cũng mặc áo dài cho các con trai A-rôn, đội khăn lên đầu họ. Sau đó lấy dây thắt lưng thắt cho A-rôn và các con trai người. Họ sẽ giữ chức vụ tế lễ theo một mạng lệnh vĩnh viễn. Đó là cách con tấn phong cho A-rôn và các con trai người. Dắt con bò đực đến trước Trại Hội Kiến, rồi A-rôn và các con trai sẽ đặt tay trên đầu con bò. Giết con bò trước sự hiện diện của CHÚA tại cửa vào Trại Hội Kiến. Con lấy ngón tay, nhúng vào huyết bò và bôi lên các sừng bàn thờ và đổ phần huyết còn lại nơi chân bàn thờ. Lấy hết mỡ bọc ruột, mỡ bọc gan, hai quả bồ dục với mỡ bọc quanh đem đốt trên bàn thờ. Nhưng thịt, da và phân bò phải đem đốt bên ngoài doanh trại. Đó là của lễ chuộc tội. Dắt một con cừu đực đến để A-rôn và các con trai người đặt tay lên đầu nó. Giết cừu và lấy huyết cừu rẩy khắp xung quanh bàn thờ. Chặt cừu ra từng miếng; rửa bộ lòng và chân rồi đem để chung với đầu và các miếng khác. Sau đó đem đốt cả con cừu trên bàn thờ. Đó là của lễ thiêu, một của lễ có mùi thơm, dùng lửa dâng cho CHÚA. Dắt con cừu thứ hai đến để A-rôn và các con trai người đặt tay lên đầu nó. Giết cừu, lấy huyết cừu bôi lên trái tai bên phải, trên ngón cái bàn tay phải và trên ngón cái bàn chân phải của A-rôn và của các con trai người. Rồi lấy huyết cừu rẩy khắp các phía của bàn thờ. Lấy một ít huyết trên bàn thờ trộn với một ít dầu xức, đem rẩy trên A-rôn và trên áo xống người, trên các con trai A-rôn và trên áo xống họ. Như vậy A-rôn, các con trai người với áo xống của họ đều trở nên thánh. Vì đây là con cừu dùng vào việc tấn phong, nên con lấy mỡ cừu, gồm cả mỡ đuôi và mỡ bọc bộ lòng, phần bọc lá gan, hai trái bồ dục với mỡ bọc quanh, cái đùi phải; cũng lấy trong giỏ bánh không men ở trước mặt CHÚA một ổ bánh, một bánh ngọt pha dầu và một bánh kẹp, rồi đem đặt các món này vào tay A-rôn và tay các con trai người để họ đưa qua đưa lại trước mặt CHÚA, làm của lễ đưa qua đưa lại. Sau đó con lấy các món ấy từ tay họ và đem đốt trên bàn thờ cùng với của lễ thiêu có mùi thơm dâng lên CHÚA, và là một của lễ dùng lửa dâng cho CHÚA. Sau khi con lấy cái ngực con cừu dùng vào việc tấn phong, đưa qua đưa lại cái ngực ấy trước mặt CHÚA làm của lễ đưa qua đưa lại, rồi cái ngực đó sẽ thuộc phần con. Con làm nên thánh các phần của con cừu dùng vào việc tấn phong, là các phần thuộc về A-rôn và các con trai người, tức là cái ức đã đưa qua đưa lại với cái đùi đã trình dâng. Đây là phần do dân Y-sơ-ra-ên dâng hiến và được chia cho A-rôn và các con trai người. Đây là phần do dân Y-sơ-ra-ên đóng góp khi họ dâng tế lễ cầu an cho CHÚA. Bộ áo thánh của A-rôn sẽ được truyền lại cho con cháu, để họ mặc khi được xức dầu và được tấn phong. Người con trai kế vị A-rôn làm thầy tế lễ sẽ mặc bộ áo thánh này trong bảy ngày khi đến Trại Hội Kiến và thi hành chức vụ trong Nơi Thánh. Đem con cừu dùng vào việc tấn phong và nấu thịt nó trong một địa điểm thánh. A-rôn và các con trai người phải ăn thịt con cừu đó với bánh trong giỏ tại cửa vào Trại Hội Kiến. Họ phải ăn các món này là của lễ chuộc tội và họ được tấn phong và được biệt riêng ra thánh. Không một ai khác được ăn các món này, vì là thức ăn thánh. Nếu thịt và bánh còn thừa đến sáng hôm sau, phải đem đốt hết và không được ăn, vì là các món thánh. Con phải thực hành cho A-rôn và các con trai người tất cả mọi điều Ta truyền bảo con và lễ tấn phong họ sẽ kéo dài trong bảy ngày. Mỗi ngày phải dâng một con bò làm của lễ chuộc tội. Làm cho bàn thờ tinh sạch bằng cách làm lễ chuộc tội, và thánh hóa bàn thờ bằng cách xức dầu. Trong bảy ngày con làm lễ chuộc tội và thánh hóa bàn thờ. Sau đó bàn thờ sẽ trở nên rất thánh và bất cứ cái gì đụng đến bàn thờ đều trở nên thánh. Đây là những thứ con phải thường xuyên dâng mỗi ngày trên bàn thờ: hai cừu con một tuổi. Dâng một con vào buổi sáng và một con vào chạng vạng tối. Cùng với con cừu thứ nhất, con dâng hai lít bột mịn trộn với một lít dầu ép từ trái ô-liu, và một lít rượu nho để làm lễ quán. Dâng con cừu thứ hai vào lúc chạng vạng tối, với của lễ chay và lễ quán cũng giống như dâng vào buổi sáng: đó là của lễ dùng lửa dâng có mùi thơm lên CHÚA. Từ thế hệ này sang thế hệ khác, của lễ thiêu phải được dâng thường xuyên tại cửa vào Trại Hội Kiến trước mặt CHÚA. Tại đó Ta sẽ gặp và trò chuyện với con; tại đó Ta cũng sẽ gặp dân Y-sơ-ra-ên và vinh quang Ta sẽ làm cho nơi này nên thánh. Như vậy Ta sẽ thánh hóa Trại Hội Kiến và bàn thờ, cũng thánh hóa A-rôn và các con trai người để họ phục vụ Ta với chức vụ thầy tế lễ. Ta sẽ ở giữa dân Y-sơ-ra-ên và sẽ là Đức Chúa Trời của họ. Họ sẽ biết Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của họ, Đấng đã đem họ ra khỏi Ai-cập để Ta có thể ở giữa họ. Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của họ. Làm một bàn thờ bằng gỗ si-tim để dâng hương. Bàn thờ này hình vuông, dài 0.60m, ngang 0.60m và cao 1.0m, có các sừng được gắn liền và trở thành một khối với bàn thờ. Dùng vàng ròng bọc mặt bàn, các cạnh bàn, các sừng và làm đường viền khắp xung quanh bàn. Làm mỗi bên bàn hai cái khoen vàng và gắn khoen vào ngay bên dưới đường viền, để giữ đòn khiêng. Làm hai cái đòn khiêng bằng gỗ si-tim bọc vàng. Đặt bàn thờ này trước bức màn che Rương Giao Ước và Nắp Chuộc Tội đậy trên Rương, là nơi Ta sẽ gặp con. A-rôn phải đốt hương thơm trên bàn thờ này vào mỗi buổi sáng, khi trông nom các đèn, và cũng phải đốt hương khi người đốt đèn lúc chạng vạng tối; như vậy hương sẽ được đốt thường xuyên trước mặt CHÚA, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đừng đốt trên bàn thờ này thứ hương gì khác, cũng đừng dâng của lễ thiêu hay lễ quán trên đó. Mỗi năm một lần, A-rôn sẽ làm lễ chuộc tội trên các sừng của bàn thờ. Lễ chuộc tội hằng năm này phải được làm với huyết con sinh tế chuộc tội cho các thế hệ hậu lai. Đây là một bàn thờ rất thánh cho CHÚA. Sau đó CHÚA phán dạy Môi-se rằng: “Khi con kiểm tra dân số Y-sơ-ra-ên, mỗi người phải nạp cho CHÚA một món tiền chuộc mạng. Như vậy chứng bệnh dịch sẽ không phát ra khi con kiểm tra họ. Mỗi người được kiểm kê sẽ nạp 6gm theo hệ cân đo nơi thánh, mỗi siếc-lơ bằng hai mươi gê-ra. Nửa siếc lơ này là tiền dâng hiến cho CHÚA. Tất cả những người được kiểm tra, là người từ hai mươi tuổi trở lên đều phải nạp món tiền dâng này cho CHÚA. Người giầu không nạp hơn 6gm và người nghèo không nạp kém khi các ngươi dâng hiến cho CHÚA để chuộc mạng sống mình. Con nhận tiền chuộc mạng này do dân Y-sơ-ra-ên nạp và xử dụng vào việc Trại Hội Kiến. Đây là một kỷ niệm cho dân Y-sơ-ra-ên trước mặt CHÚA, khi họ nạp tiền để chuộc mạng mình.” CHÚA phán dạy Môi-se rằng: “Làm một cái bồn bằng đồng, với chân cũng bằng đồng, dùng để rửa ráy. Đặt bồn vào khoảng giữa Trại Hội Kiến và bàn thờ và đổ nước vào bồn. A-rôn và các con trai người sẽ dùng nước trong bồn để rửa tay chân. Bất cứ khi nào vào Trại Hội Kiến, họ phải lấy nước rửa tay chân để khỏi chết. Cũng vậy, mỗi khi đến gần bàn thờ để dâng của lễ thiêu cho CHÚA họ cũng phải rửa tay và chân để khỏi phải chết. Đây là một mạng lệnh vĩnh viễn cho A-rôn và dòng dõi người từ thế hệ này sang thế hệ khác.” CHÚA phán dạy Môi-se rằng: “Con lấy các hương liệu sau đây: 6kg một dược nước, 3kg đan quế, 3kg nhựa thơm, 6kg quế bì, tất cả đều theo hệ cân đo nơi thánh, và 4l dầu ô-liu. Một chuyên viên chế nước hoa sẽ dùng các hương liệu này chế ra một thứ dầu xức thánh. Đây là một thứ dầu xức thánh. Dùng dầu này xức lên Trại Hội Kiến, Rương Giao Ước, bàn và các dụng cụ của bàn, chân đèn và các dụng cụ đốt đèn, bàn thờ dâng hương, bàn thờ dâng của lễ thiêu và các dụng cụ của bàn thờ, bồn nước và chân bồn. Con biệt riêng các món này ra thánh để tất cả đều trở nên rất thánh và bất cứ thứ gì đụng đến cũng đều được thánh hóa. Con xức dầu phong chức lên A-rôn và các con trai người để họ phục vụ Ta trong chức vụ thầy tế lễ. Con cũng hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên rằng: ‘Đây là dầu thánh và các ngươi phải coi là một vật thánh. Đừng đổ dầu này trên thân thể của người nào cả và cũng đừng chế dầu theo công thức này. Đây là dầu thánh và các ngươi phải coi là một vật thánh. Bất cứ ai chế dầu giống như dầu này và bất cứ người nào đổ dầu trên người không phải là thầy tế lễ sẽ bị truất ra khỏi cộng đồng dân Y-sơ-ra-ên.’” CHÚA phán dạy Môi-se: “Con lấy các hương liệu gồm có tổ hợp hương, hoa yểm hương, phong tử hương và nhũ hương nguyên chất, tất cả đều có phần lượng bằng nhau, và một chuyên viên chế nước hoa sẽ chế thành một thứ hương thánh. Đây là thứ hương thánh, có muối và tinh chất. Lấy một phần nghiền thành bột và rẩy bột này trước Rương Giao Ước trong Trại Hội Kiến là nơi Ta sẽ gặp con. Hương này rất thánh. Không được chế hương theo công thức này để dùng cho mình; phải coi đây là một vật thánh cho CHÚA. Bất cứ ai làm một thứ hương giống hương này để thưởng thức sẽ phải bị truất khỏi cộng đồng Y-sơ-ra-ên.” CHÚA phán dạy Môi-se rằng: “Nầy, Ta đã chọn Bết-sa-lê-ên, con trai U-ri, cháu Hu-rơ, thuộc chi tộc Giu-đa, và Ta đã cho người này đầy dẫy thần của Đức Chúa Trời, với tài khéo, khả năng và hiểu biết trong ngành thủ công nghệ, để vẽ kiểu và chế tạo các món bằng vàng, bạc và đồng, để cắt và nhận ngọc, để chạm gỗ và làm các loại thủ công nghệ. Ngoài ra, Ta cũng chỉ định Ô-hô-li-áp, con trai A-hi-sa-mạc, thuộc chi tộc Đan để làm phụ tá cho Bết-sa-lê-ên. Ta cũng ban tài năng cho các thợ khéo để họ thực hiện mọi thứ Ta đã truyền dạy con, kể cả Trại Hội Kiến, Rương Giao Ước với Nắp Chuộc Tội đậy trên Rương và tất cả mọi dụng cụ khác trong Đền, gồm có bàn và các món dụng cụ, chân đèn bằng vàng ròng và các món dụng cụ, bàn thờ dâng hương, bàn thờ dâng của lễ thiêu và các món phụ tùng, bồn nước và chân bồn, cũng như các thứ áo lễ: bộ áo lễ thánh cho thầy tế lễ A-rôn, các bộ áo lễ cho các con trai người khi những người này thi hành chức tế lễ, dầu xức thánh và hương thánh cho Nơi Thánh. Họ phải thực hiện các món này đúng theo mạng lệnh Ta đã truyền cho con.” CHÚA phán dạy Môi-se rằng: “Con hãy truyền mạng lệnh này cho dân Y-sơ-ra-ên: ‘Các ngươi phải giữ ngày Sa-bát của Ta. Đây là một dấu hiệu giữa Ta và các ngươi, từ thế hệ này sang thế hệ khác, để các ngươi biết Ta là CHÚA, Đấng làm các ngươi nên thánh.’ Phải giữ ngày Sa-bát vì là ngày thánh cho các ngươi. Ai vi phạm ngày ấy sẽ bị xử tử, ai làm bất cứ công việc gì trong ngày ấy phải bị truất khỏi cộng đồng Y-sơ-ra-ên. Các ngươi làm việc trong sáu ngày, nhưng ngày thứ bảy là ngày Sa-bát tức là ngày nghỉ và thánh cho CHÚA. Ai làm bất cứ công việc gì trong ngày Sa-bát phải bị xử tử. Người Y-sơ-ra-ên phải giữ ngày Sa-bát, từ thế hệ này sang thế hệ khác vì đây là một giao ước vĩnh viễn. Đây là một dấu hiệu vĩnh viễn giữa Ta và dân Y-sơ-ra-ên, vì CHÚA dựng nên trời đất trong sáu ngày và qua ngày thứ bảy Ngài ngưng công việc và nghỉ ngơi.” Sau khi phán dạy Môi-se những điều này trên núi Si-nai, CHÚA ban cho Môi-se hai bảng Giao Ước, là hai bảng đá do ngón tay của Đức Chúa Trời viết lên trên. Khi thấy đã quá lâu mà Môi-se chưa xuống núi, dân Y-sơ-ra-ên họp quanh A-rôn và nói: “Xin ông làm ra một vị thần để hướng dẫn chúng ta, vì không biết có gì đã xảy ra cho Môi-se, người đã đem chúng ta ra khỏi Ai-cập.” A-rôn đáp: “Hãy tháo các đôi bông tai bằng vàng của vợ, con trai và con gái các ông và đem đến đây cho tôi.” Như vậy dân chúng tháo bông tai của họ và đem đến cho A-rôn. Ông lấy các món họ đem đến, đúc một tượng hình bò con và dùng dụng cụ trau chuốt. Rồi họ reo hò: “Hỡi người Y-sơ-ra-ên, đây là thần của các ngươi, đã đem các ngươi ra khỏi xứ Ai-cập.” Khi thấy vậy, A-rôn lập một bàn thờ trước con bò con và tuyên bố: “Ngày mai chúng ta sẽ tổ chức lễ mừng CHÚA.” Qua ngày hôm sau dân chúng dậy sớm, dâng của lễ thiêu và của lễ cầu an rồi đứng dậy mở cuộc truy hoan. Lúc ấy, CHÚA phán dạy Môi-se: “Con xuống núi đi, vì đoàn dân con đem ra khỏi Ai-cập đã hư hỏng rồi. Chúng đã vội bỏ con đường Ta truyền dạy mà làm cho mình một tượng theo hình bò con. Chúng đã quỳ lạy trước tượng đó, dâng của lễ cho nó và nói: ‘Hỡi người Y-sơ-ra-ên, đây là thần của chúng ta, đã đem chúng ta ra khỏi Ai-cập.’” CHÚA phán tiếp với Môi-se: “Ta đã thấy rõ dân này, chúng là một dân cứng cổ. Con để mặc Ta để cho cơn giận Ta cháy phừng lên nghịch với chúng và Ta sẽ tiêu diệt chúng. Rồi Ta sẽ làm cho con trở thành một dân tộc lớn.” Nhưng Môi-se nài xin ơn huệ của CHÚA, Đức Chúa Trời của mình rằng: “Lạy CHÚA, tại sao cơn giận của Chúa cháy lên nghịch dân Chúa, là dân Chúa đã đem ra khỏi xứ Ai-cập với quyền năng lớn và với cánh tay toàn năng? Tại sao để cho người Ai-cập nói rằng: ‘Khi đem họ ra Chúa có ác ý là để cho họ chết trên núi và để xóa sạch họ khỏi mặt đất?’ Xin Chúa nguôi cơn giận, đổi ý và không giáng tai họa trên dân Chúa. Xin Chúa nhớ lại các tôi tớ của Chúa là Áp-ra-ham, Y-sác và Y-sơ-ra-ên, là những người được Chúa chỉ chính mình Chúa mà thề rằng: ‘Ta sẽ làm cho dòng dõi các ngươi đông như sao trên trời, Ta sẽ ban cho dòng dõi các ngươi tất cả đất đai Ta đã hứa với họ, và đất đó sẽ là cơ nghiệp vĩnh viễn của họ.’” CHÚA đổi ý không giáng tai họa trên dân của Ngài như Ngài đã đe dọa. Môi-se quay xuống núi, trong tay có cầm hai bảng Giao Ước. Hai bảng này viết cả hai mặt, mặt trước và mặt sau. Hai bảng này là việc của Đức Chúa Trời làm, chữ trên đó là chữ của Đức Chúa Trời và được khắc trên bảng đá. Khi Giô-suê nghe tiếng dân chúng reo hò liền nói với Môi-se: “Có tiếng chiến tranh trong doanh trại.” Nhưng Môi-se đáp: “Đó không phải là tiếng chiến thắng, cũng không phải là tiếng chiến bại; tiếng ta nghe là tiếng hát xướng.” Khi đến gần doanh trại và thấy bò con với cảnh nhẩy múa, Môi-se nổi giận, ném hai bảng đá vào chân núi, làm bể tan tành. Sau đó ông lấy tượng bò con đem đốt trong lửa; rồi ông nghiền tượng nát thành bột, đem bột rắc trên nước và bắt dân Y-sơ-ra-ên uống. Rồi Môi-se nói với A-rôn: “Dân này đã làm gì cho anh mà anh dẫn họ vào tội lỗi trầm trọng như thế này?” A-rôn đáp: “Xin chúa tôi đừng giận; chúa đã biết họ là dân có khuynh hướng làm điều ác. Họ nói với tôi: ‘xin ông làm ra một vị thần để hướng dẫn chúng tôi vì không biết có gì xảy ra cho Môi-se là người đã đem chúng tôi ra khỏi Ai-cập.’ Vì vậy tôi nói với họ: ‘Ai có các món đồ bằng vàng thì tháo ra’. Họ đem vàng đến cho tôi, tôi ném vàng đó vào lửa và từ đó mà ra bò con này.” Môi-se nhận thấy dân chúng phóng đãng, vì A-rôn đã để cho họ buông lung và họ đã trở thành trò cười cho quân thù. Vì vậy ông đứng tại cửa vào doanh trại và nói: “Ai thuộc về CHÚA, hãy đến đây với tôi.” Tất cả người Lê-vi tập họp xung quanh Môi-se. Môi-se nói với những người này: “Đây là điều CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán: ‘Mỗi người phải đeo gươm bên mình, rồi đi qua đi lại suốt doanh trại từ đầu này đến đầu kia, mỗi người giết anh em, bạn hữu và láng giềng của mình.’” Người Lê-vi vâng theo mạng lệnh Môi-se và trong ngày đó có độ ba ngàn người chết. Môi-se nói với họ: “Hôm nay anh em đã được biệt riêng ra cho CHÚA, chẳng sá chi đến cả con cái và anh em mình; vì vậy Chúa giáng phước cho anh em hôm nay.” Qua ngày hôm sau, Môi-se nói với dân chúng: “Anh chị em đã phạm một trọng tội. Nhưng tôi sẽ lên với CHÚA, có lẽ tôi có thể chuộc tội cho anh chị em.” Vậy, Môi-se trở lên gặp CHÚA và thưa: “Chúa ôi! Dân này đã phạm tội quá nặng, đã làm cho mình một thần bằng vàng. Nhưng xin Chúa tha tội cho họ, nếu không, xin Chúa xóa tên con khỏi sách Chúa đã viết đi!” CHÚA đáp lời Môi-se: “Ai phạm tội với Ta, Ta sẽ xóa tên người đó khỏi sách Ta. Còn bây giờ, con phải đi dẫn dân Y-sơ-ra-ên đến nơi Ta đã bảo con và thiên sứ của Ta sẽ đi trước con. Tuy nhiên, khi thời điểm hình phạt đến. Ta sẽ hình phạt dân này vì tội lỗi của họ.” CHÚA giáng bệnh dịch trên dân Y-sơ-ra-ên vì họ thờ phượng bò con A-rôn đã làm ra. Sau đó CHÚA phán dạy Môi-se rằng: “Con và dân sự con đã đem ra khỏi Ai-cập hãy rời bỏ chỗ này và đi lên xứ Ta đã hứa ban cho Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp khi Ta thề với họ: ‘Ta sẽ ban xứ này cho dòng dõi các con.’ Ta sẽ sai một thiên sứ đi trước dẫn đường cho con và Ta sẽ đuổi các dân Ca-na-an, A-mô-rít, Hê-tít, Phê-rê-sít, Hê-vít và Giê-bu-sít đi. Các ngươi sẽ vào xứ tràn đầy sữa và mật ong. Nhưng Ta không đi với các ngươi đâu, vì các ngươi là một dân cứng cổ và Ta có thể tiêu diệt các ngươi dọc đường.” Khi nghe tin dữ này, dân chúng đều khóc than như có tang chết và không một người nào đeo đồ trang sức. Vì CHÚA có phán bảo Môi-se nói với dân Y-sơ-ra-ên: “Các ngươi là một dân cứng cổ; nếu Ta đi với các ngươi, dù chỉ trong một thời gian ngắn, Ta có thể tiêu diệt các ngươi. Bây giờ, hãy tháo hết đồ trang sức, đợi xem Ta sẽ quyết định làm gì cho các ngươi.” Vì vậy ngay từ khi rời khỏi núi Hô-rếp dân Y-sơ-ra-ên tháo hết mọi đồ trang sức. Lúc đó Môi-se đem cái lều thánh ra dựng bên ngoài doanh trại một khoảng xa và gọi lều ấy là “Trại Hội Kiến”. Ai muốn cầu hỏi ý CHÚA đều đến lều này ở bên ngoài doanh trại. Mỗi khi Môi-se đi ra Lều, toàn dân đều đứng lên và đứng ở cửa trại của họ, nhìn theo Môi-se cho đến khi ông vào Lều. Vừa khi ông vào Lều, trụ mây hạ xuống và dừng trước cửa trong khi CHÚA trò chuyện với Môi-se. Khi thấy trụ mây dừng ở cửa vào Lều, ai nấy đều đứng lên ở cửa trại mình rồi cúi sấp mình xuống mà thờ phượng. CHÚA đối diện trò chuyện với Môi-se, như một người nói chuyện với bạn mình. Sau đó, Môi-se trở về doanh trại, nhưng thanh niên phụ tá ông là Giô-suê, con trai Nun, không rời khỏi lều. Môi-se thưa với CHÚA: “Chúa có bảo con lãnh đạo dân này, nhưng Chúa không cho con biết Chúa sẽ sai ai đi với con. Chúa cũng đã phán ‘Ta biết đích danh con và con làm vui lòng Chúa’. Nếu con làm Chúa vui lòng, xin dạy con đường lối Chúa để con biết Chúa và tiếp tục nhận được đặc ân của Chúa. Xin Chúa nhớ dân này là dân của Chúa.” CHÚA đáp: “Chính Ta sẽ đi với con và sẽ cho con được an nghỉ.” Môi-se thưa: “Nếu chính Chúa không đi với chúng con, xin đừng sai chúng con đi lên khỏi đây. Làm sao người ta biết được rằng con và dân này được Chúa vui lòng nếu Chúa không đi với chúng con? Việc Chúa đi với chúng con sẽ phân biệt con và dân Chúa với tất cả các dân tộc khác trên mặt đất.” CHÚA phán với Môi-se: “Ta sẽ làm mọi điều con cầu xin, vì con làm Ta vui lòng và vì Ta biết đích danh con.” Lúc ấy Môi-se thưa: “Xin cho con được nhìn xem vinh quang Chúa.” CHÚA đáp: “Ta sẽ phát hiện đức nhân ái Ta trước mặt con, Ta sẽ tuyên bố danh Ta, là CHÚA trước mặt con. Ta bầy tỏ lòng từ ái với ai Ta muốn từ ái, Ta thi thố lòng thương xót với ai Ta muốn thương xót. Nhưng con không thể thấy diện mạo Ta, vì không ai thấy mặt Ta mà còn sống.” Rồi Chúa phán tiếp: “Kìa là tảng đá bên cạnh Ta, con hãy đứng nơi đó. Khi vinh quang Ta đi ngang qua, Ta sẽ đặt con vào khe đá và lấy tay che con cho đến khi Ta qua khỏi. Lúc ấy Ta sẽ rút tay lại và con sẽ thấy sau lưng Ta, chứ không thấy được mặt Ta.” CHÚA phán dạy Môi-se: “Con đục hai bảng đá giống hai bảng trước, và Ta sẽ viết lại trên đó những lời đã viết trên hai bảng con đã đập vỡ. Phải sẵn sàng vào sáng mai để lên núi Si-nai. Con trình diện với Ta trên đỉnh núi. Không ai được đi theo con, cũng không ai được lảng vảng trên núi; cả đến bầy bò và bầy cừu cũng không được ăn cỏ dưới chân núi.” Vậy, Môi-se đục hai bảng đá giống hai bảng đá trước và leo lên núi Si-nai lúc sáng sớm, như CHÚA đã dạy bảo; trong tay ông có cầm hai bảng đá. CHÚA giáng lâm trong đám mây, đứng đó với Môi-se và tuyên bố danh Ngài là CHÚA. Chúa đi ngang qua trước mặt Môi-se và tuyên bố: “Ta là CHÚA, Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời có lòng thương xót và nhân từ, chậm giận, đầy dẫy tình thương và thành tín, giữ lòng bác ái đến ngàn đời, tha thứ gian ác, phản nghịch và tội lỗi; nhưng không để cho người có tội được thoát hình phạt và nhân tội tổ phụ phạt con cháu đến ba bốn đời.” Môi-se lập tức cúi mặt sát đất và thờ phượng. Ông thưa với Chúa: “Ôi Chúa! Nếu con được đặc ân dưới mắt Chúa, xin Chúa cùng đi với chúng con. Xin Chúa tha thứ gian ác và tội lỗi chúng con, chấp nhận chúng con là sản nghiệp của Chúa, mặc dù chúng con là một dân cứng cổ.” CHÚA phán: “Này Ta lập giao ước với các con. Trước mặt dân con, Ta sẽ làm những phép lạ trước đây chưa hề thấy trong bất cứ dân tộc nào trên đất. Toàn dân Y-sơ-ra-ên, là dân con chung sống, sẽ thấy những việc hết sức đáng sợ mà Ta, CHÚA, sẽ làm cho các ngươi. Phải tuân theo mạng lệnh Ta truyền cho con hôm nay. Ta sẽ đuổi các dân A-mô-rít, Ca-na-an, Hê-tít, Phê-rê-sít, Hê-vít và Giê-bu-sít trước mặt các ngươi. Phải cẩn thận không được kết ước với các dân sinh sống trong xứ các ngươi sẽ vào, vì nếu làm vậy, họ sẽ thành cạm bẫy cho các ngươi. Phải hủy phá bàn thờ, đập nát các hình tượng và triệt hạ các trụ A-sê-ra của các dân ấy. Đừng thờ lạy bất cứ thần nào khác, vì CHÚA là Đức Chúa Trời kỵ tà, danh Ngài là kỵ tà. Phải cẩn thận đừng kết ước với các dân bản xứ, vì khi họ hành dâm với các tà thần, cúng tế lễ vật cho các thần đó rồi mời mọc các ngươi và các ngươi sẽ ăn của cúng. Cũng đừng cưới con gái họ cho con trai các ngươi, vì những người con gái này sẽ hành dâm với các tà thần và hướng dẫn con trai các ngươi thờ lạy các thần ấy. Đừng đúc hình tượng. Phải giữ lễ Bánh Không Men. Trong bảy ngày phải ăn bánh không men như Ta đã truyền dạy con. Giữ lễ này vào thời điểm đã ấn định trong tháng giêng, vì trong tháng đó các ngươi ra khỏi Ai-cập. Tất cả các con đầu lòng đều thuộc về Ta, kể cả con đầu lòng đực của bầy gia súc, dù là bầy cừu hay bầy bò. Dùng cừu con để chuộc con lừa đầu lòng; nếu không chuộc thì phải bẻ gẫy cổ con lừa. Phải chuộc tất cả con trưởng nam của các ngươi. Không ai được trình diện trước mặt Ta với hai bàn tay trắng. Các ngươi làm việc trong sáu ngày, nhưng phải nghỉ vào ngày thứ bảy; ngay trong mùa cầy cấy và mùa gặt hái, các ngươi cũng phải nghỉ. Phải giữ lễ Các Tuần với hoa lợi đầu mùa của mùa gặt lúa mì, và lễ Thu Hoạch vào cuối năm. Mỗi năm ba lần toàn thể nam giới phải trình diện trước CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Ta sẽ đuổi các dân tộc khỏi các ngươi, mở rộng bờ cõi các ngươi, và không một ai sẽ thèm muốn xứ sở các ngươi khi các ngươi ra mắt CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi mỗi năm ba lần. Đừng dâng huyết con sinh tế cho Ta chung với bất cứ món gì có men và đừng để thịt sinh tế của lễ Vượt Qua còn lại đến sáng hôm sau. Phải đem hoa lợi đầu mùa tốt nhất của ruộng đất ngươi lên nhà của CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi. Đừng nấu dê con trong sữa mẹ nó.” Rồi CHÚA phán dạy Môi-se: “Con ghi chép lại những lời này, vì căn cứ trên những lời này mà Ta đã lập giao ước với con và với dân Y-sơ-ra-ên.” Môi-se ở trên núi với CHÚA bốn mươi ngày và bốn mươi đêm, không ăn bánh cũng không uống nước. CHÚA viết trên hai bảng đá lời của giao ước, tức là Mười Điều Răn. Khi từ trên núi Si-nai xuống, với hai bảng Giao Ước trong tay, Môi-se không biết rằng mặt ông sáng rực vì ông đã trò chuyện với CHÚA. Khi A-rôn và toàn dân Y-sơ-ra-ên thấy mặt Môi-se sáng rực thì sợ không dám đến gần ông. Nhưng khi nghe Môi-se gọi, A-rôn và tất cả các cấp lãnh đạo trong cộng đồng đến và ông trò chuyện với họ. Sau đó, toàn thể dân Y-sơ-ra-ên cũng đến gần và ông truyền lại cho họ các mạng lệnh CHÚA đã ban cho ông trên núi Si-nai. Sau khi nói chuyện với họ, Môi-se lấy màn che mặt mình lại. Nhưng khi vào trong sự hiện diện của CHÚA để thưa chuyện với Ngài, ông tháo màn che mặt cho đến khi ông trở ra và truyền lại cho dân Y-sơ-ra-ên những mạng lệnh của Chúa. Lúc ấy dân chúng thấy mặt ông sáng rực nên ông lấy màn che mặt cho đến khi ông trở lại hầu chuyện với CHÚA. Môi-se triệu tập toàn thể cộng đồng Y-sơ-ra-ên lại và nói với họ: “Đây là những điều CHÚA truyền bảo anh chị em phải vâng giữ. Sáu ngày đầu là những ngày để làm việc nhưng ngày thứ bảy là ngày thánh, tức là ngày nghỉ dành cho CHÚA. Bất cứ người nào làm công việc gì trong ngày đó phải bị xử tử. Lửa cũng không được đốt lên trong ngày Sa-bát, bất cứ nơi nào các ngươi ở.” Môi-se nói với toàn thể cộng đồng Y-sơ-ra-ên rằng: “Đây là điều CHÚA truyền dạy: Anh chị em trích trong của cải mình có để dâng hiến cho CHÚA. Mỗi người tự nguyện đem dâng cho CHÚA vàng, bạc và đồng; chỉ xanh, tím, đỏ, sợi lanh, lông dê, da cừu nhuộm đỏ, da dê, gỗ si-tim, dầu ô-liu để thắp đèn, các hương liệu để chế dầu xức và hương thơm; bạch ngọc và các thứ ngọc để gắn lên ê-phót và bảng đeo ngực. Tất cả những người khéo tay trong dân phải đến để làm mọi thứ CHÚA truyền bảo: Đền Tạm với trại, mái che, móc, khuôn, thanh xà ngang, trụ và đế trụ; Rương Giao Ước với đòn khiêng và Nắp Chuộc Tội, bức màn che Rương; các bàn, đòn khiêng cùng với tất cả phụ tùng và bánh thánh; cây đèn với các đồ phụ tùng, đèn và dầu thắp đèn; bàn thờ dâng hương và đòn khiêng, dầu tấn phong và hương thơm; màn che cửa vào Đền Tạm; bàn thờ dâng của lễ thiêu, rá đồng, đòn khiêng với các món phụ tùng; bồn nước bằng đồng và chân bồn; màn che hành lang, trụ và lỗ trụ; màn che cửa hành lang; cọc cắm lều cùng với dây dùng cho Đền Tạm và hành lang; các bộ áo lễ thêu dệt công phu dùng trong Nơi Thánh, gồm có bộ áo lễ thánh cho thầy tế lễ A-rôn và các con trai người khi họ phục vụ Ta với chức vụ thầy tế lễ.” Nghe Môi-se dạy xong, toàn thể cộng đồng Y-sơ-ra-ên ra về. Sau đó những người được lòng mình thúc giục tự nguyện đem đến các lễ vật dâng hiến cho CHÚA để dựng Đền Tạm, làm tất cả trang bị cần thiết cho sự thờ phượng và các bộ áo thánh. Tất cả những người tự nguyện, cả nam lẫn nữ, đều mang đến đủ loại trang sức bằng vàng như vòng đeo mũi, bông tai, nhẫn, vòng đeo tay dâng hiến lên CHÚA. Những người khác đem đến chỉ xanh, tím, đỏ, hay sợi lanh, lông dê, da cừu nhuộm đỏ, da dê để dâng hiến. Tất cả những người nào để dành bạc và đồng dâng lên CHÚA đều mang đến. Những người có gỗ si-tim để dâng vào việc thờ phượng đều mang đến dâng. Các phụ nữ khéo tay đem đến chỉ xanh, vàng, đỏ, và sợi lanh chính tay họ đã làm, cũng có bà tình nguyện dệt lông dê theo khả năng mình. Các cấp lãnh đạo dâng hiến bạch ngọc và các loại ngọc khác để gắn lên ê-phót và bảng đeo ngực. Họ cũng mang đến dầu ô-liu để thắp đèn và các hương liệu để chế dầu tấn phong và hương thơm. Như vậy, toàn dân Y-sơ-ra-ên, cả nam lẫn nữ, đều vui lòng đem dâng hiến lên CHÚA những lễ vật tự nguyện để làm tất cả các công việc CHÚA đã truyền bảo họ qua Môi-se. Môi-se nói với dân Y-sơ-ra-ên: “Nầy, CHÚA đã gọi đích danh Bết-sa-lê-ên, con U-ri, cháu Hu-rơ thuộc chi tộc Giu-đa và cho người đầy dẫy thần của Đức Chúa Trời, với tài khéo, khả năng và hiểu biết về mọi ngành thủ công nghệ, để vẽ kiểu và chế tạo các vật bằng vàng, bạc, đồng, để cắt và nhận ngọc, chạm gỗ và làm mọi công tác mỹ thuật. Bết-sa-lê-ên cùng với Ô-hô-li-áp, con trai A-hi-sa-mạc, thuộc chi tộc Đan, được Chúa ban cho khả năng để dạy người khác. Chúa cũng phú cho hai người này tài khéo để làm tất cả các công việc chạm trỗ thủ công, vẽ kiểu, thêu thùa và dệt với chỉ xanh, đỏ, tím và sợi lanh, vì cả hai đều có biệt tài thủ công nghệ và vẽ kiểu.” Như vậy, Bết-sa-lê-ên, Ô-hô-li-áp cùng với những người được CHÚA phú cho tài khéo và khả năng để hiểu biết và thực hiện tất cả công việc liên quan đến việc thờ phượng trong nơi thánh phải làm công việc đúng theo mạng lệnh CHÚA truyền. Môi-se triệu tập Bết-sa-lê-ên, Ô-hô-li-áp và những người khác đã được CHÚA phú cho khả năng và có tinh thần tự nguyện đến để bắt tay vào việc. Họ nhận từ tay Môi-se những lễ vật dân Y-sơ-ra-ên đã đem đến dâng vào công việc thờ phượng trong nơi thánh. Mỗi buổi sớm mai dân chúng cứ tiếp tục mang lễ vật đến, làm cho các người thợ chuyên môn đang tham dự vào việc thiết lập Đền Tạm phải ngưng công tác. Họ nói với Môi-se: “Dân chúng dâng hiến quá nhiều, hơn số cần thiết để thực hiện các việc CHÚA đã dạy bảo.” Vì vậy Môi-se ra lệnh và cho người loan báo trong khắp doanh trại rằng: “Đừng ai đem bất cứ lễ vật nào cho công tác thiết lập Đền Tạm nữa.” Phải ngăn cản dân chúng như vậy để họ đừng dâng hiến thêm, vì đã có thừa vật liệu để làm tất cả các công việc. Tất cả những thợ khéo nhất trong số người tham gia công tác thiết lập Đền Tạm dệt mười bức màn bằng chỉ lanh mầu xanh, tím và đỏ với hình chê-ru-bim thêu sắc sảo. Mười bức màn này đều có cùng cỡ: dài 14m, rộng 2m Họ nối năm bức màn lại với nhau, năm bức màn kia cũng được nối lại như vậy. Họ kết các vòng bằng chỉ xanh dọc theo đường biên của tấm màn lớn thứ nhất, rồi làm các vòng trên đường biên của tấm thứ hai. Họ cũng làm năm mươi cái vòng trên tấm màn thứ nhất và năm mươi vòng trên tấm màn thứ hai, để cho các vòng đối diện nhau. Sau đó họ làm năm mươi cái móc bằng vàng và dùng các móc này kết hai tấm màn lại thành một đơn vị duy nhất dùng làm Đền Tạm. Họ làm mười một bức màn bằng lông dê để làm cái trại che trên Đền Tạm. Mười một bức màn này có cùng một cỡ: dài 15m, rộng 2m. Họ kết năm bức màn này thành một bộ, và kết sáu bức màn còn lại thành bộ thứ hai. Rồi họ làm năm mươi cái vòng dọc theo đường biên của tấm màn lớn thứ nhất, và cũng làm vòng dọc đường biên của tấm màn lớn thứ hai. Họ làm năm mươi móc đồng để kết hai bộ này lại thành một mái lều cho Đền Tạm. Họ cũng làm một tấm phủ che lều bằng da cừu nhuộm đỏ rồi làm bên trên mái này một tấm phủ khác cũng bằng da dê. Họ dùng ván si-tim làm các bức vách thẳng đứng cho Đền Tạm. Mỗi tấm ván dài 14m, rộng 0.75m, với hai cái mộng song song. Họ làm tất cả các bức vách trong Đền Tạm theo cách này. Họ làm hai mươi tấm ván cho bức vách phía nam Đền Tạm và làm bốn mươi lỗ mộng bằng bạc, mỗi tấm ván có hai lỗ mộng, ngay dưới hai cái mộng của tấm ván. Phía đối diện, tức là phía bắc của Đền Tạm, họ cũng làm hai mươi tấm ván, với bốn mươi đế bằng bạc, cứ mỗi tấm ván có hai đế có ổ ăn khớp với mộng. Họ làm sáu tấm ván cho phía sau, tức là phía tây của Đền Tạm, và làm hai tấm nữa cho hai góc phía sau của Đền Tạm. Ở hai góc này, hai tấm ván được ghép đôi, từ đất lên đến mái, và có một cái khoen cài lại. Cả hai tấm ván ở hai góc đều làm giống nhau. Như vậy phía tây có tám tấm ván và mười sáu đế bằng bạc có ổ ăn khớp với mộng, mỗi tấm ván có hai đế bạc. Họ cũng làm các thanh xà ngang bằng gỗ si-tim: năm thanh cho bức vách ở một phía Đền, năm thanh cho bức vách phía tây, về phía sau của Đền Tạm. Họ cũng làm thanh chính giữa đặt nằm giữa các tấm ván, từ đầu này đến đầu kia của vách. Họ lấy vàng bọc các tấm ván vách và làm các khoen vàng để giữ các thanh xà ngang. Các thanh xà ngang cũng được bọc bằng vàng. Họ làm một bức màn bằng sợi lanh với chỉ xanh, tím, đỏ và có hình chê-ru-bim thêu sắc sảo. Họ làm bốn cây trụ bằng gỗ si-tim để treo bức màn và lấy vàng bọc các trụ này. Họ cũng làm các móc vàng cho các cây trụ, và đúc bốn đế có lỗ trụ bằng bạc để dựng trụ lên. Để che cửa vào Đền Tạm, họ làm một bức màn bằng sợi lanh, chung với chỉ màu xanh, tím và đỏ có thêu hình sặc sở; họ làm năm cây trụ với các móc, lấy vàng bọc đầu trụ và các đai trụ và làm năm đế có lỗ trụ bằng đồng. Bết-sa-lê-ên đóng cái rương bằng gỗ si-tim, dài 1.25m, ngang 0.75m và cao 0.75m. Ông lấy vàng ròng bọc cả bên trong lẫn bên ngoài và làm đường viền quanh Rương. Ông làm bốn cái khoen vàng và gắn vào bốn chân rương, hai khoen phía này và hai khoen phía kia. Ông cũng làm các đòn khiêng bằng cây si-tim bọc vàng, rồi xỏ đòn vào các khoen ở hai bên để khiêng rương đi. Ông làm Nắp Chuộc Tội bằng vàng ròng, bề dài 1.25m và bề ngang 0.75m. Ông dùng vàng dát làm hai chê-ru-bim gắn liền ở hai đầu Nắp Chuộc Tội, một chê-ru-bim ở đầu này và một chê-ru-bim ở đầu kia; cả hai được gắn liền vào hai đầu và trở nên một khối với Nắp Chuộc Tội. Các chê-ru-bim đứng đối diện nhau, mặt cúi xuống Nắp Chuộc Tội và xòe hai cánh ra phủ trên Nắp. Ông làm một cái bàn bằng gỗ si-tim, bề dài 1m, bề ngang 0.50m và bề cao 0.75m. Ông lấy vàng ròng bọc bàn và làm đường viền quanh bàn. Ông đóng khung quanh mặt bàn, bề rộng của khung bằng một gang tay rồi làm đường viền vàng xung quanh khung. Ông làm bốn cái khoen và gắn khoen vào bốn chân ở bốn góc bàn. Các khoen này được gắn gần khung của mặt bàn để xỏ đòn dùng khiêng bàn. Các đòn khiêng làm bằng cây si-tim bọc vàng. Ông cũng lấy vàng ròng làm các dụng cụ là: chén đĩa, bát và bình dùng để làm lễ quán. Bết-sa-lê-ên làm một cây đèn bằng vàng ròng: chân đèn, thân đèn, đài, bầu và nụ đều bằng vàng dát và dính liền với nhau thành một khối. Từ thân đèn mọc ra sáu cành, ba cành bên này và ba cành bên kia. Cành thứ nhất có ba cái hoa, mầm và nụ giống hình hoa hạnh nhân; cành kế bên và cả sáu cành mọc từ thân đèn ra đều có hoa như vậy. Thân đèn có bốn cái hoa, với mầm và nụ, giống hình hoa hạnh nhân. Ông cũng làm một cái bầu bên dưới hai cành thứ nhất từ thân đèn ra, rồi làm cái bầu thứ hai ở dưới hai cành thứ hai, và làm cái bầu thứ ba ở dưới hai cành thứ ba, có tất cả sáu cành. Bầu và cành được làm bằng vàng ròng dát ra, và gắn liền thành một khối với chân đèn. Ông cũng làm bảy ngọn đèn, kéo cắt tim đèn và đĩa đựng tàn bằng vàng ròng. Ông dùng 34kg vàng ròng để làm chân đèn và đồ phụ tùng. Bết-sa-lê-ên đóng bàn thờ dâng hương bằng gỗ si-tim. Bàn thờ hình vuông, bề dài 0.50m, bề ngang 0.50m và bề cao 1.0m. Các sừng được gắn liền với bàn thờ thành một khối. Ông lấy vàng ròng bọc mặt bàn, các cạnh bàn, các sừng và làm đường viền quanh bàn. Ông làm hai cái khoen vàng, gắn bên dưới đường viền, mỗi bên một khoen, để xỏ đòn khiêng. Ông làm đòn khiêng bằng gỗ si-tim bọc vàng. Ông cũng chế dầu xức thánh và hương thơm thuần túy, pha chế cách chuyên nghiệp. Bết-sa-lê-ên đóng bàn thờ dâng sinh tế bằng gỗ si-tim hình vuông, bề dài 2.50m, bề ngang 2.50m và bề cao 1.50m. Ông đẽo bốn góc bàn thờ nhô lên như bốn cái sừng, sừng dính liền vào một khối với bàn thờ, rồi lấy đồng bọc bàn thờ. Ông cũng làm tất cả đồ phụ tùng bằng đồng, gồm có thùng đựng tro, xẻng, bình để rẩy, chỉa ba và nồi đựng than lửa. Ông làm một cái rá bằng lưới đồng, đặt dưới thành bàn thờ, để nó thòng xuống đến phân nửa chiều cao của bàn thờ. Ông làm bốn khoen đồng ở bốn góc rá để xỏ đòn khiêng. Các đòn khiêng này làm bằng cây si-tim bọc đồng. Đòn khiêng được xỏ vào các khoen đồng ở hai bên bàn thờ để khiêng đi. Bàn thờ được đóng bằng ván và rỗng ở giữa. Ông dùng các gương soi bằng đồng do các phụ nữ phục vụ tại cửa vào Trại Hội Kiến dâng hiến để làm ra bồn nước và chân bồn. Sau đó ông làm hành lang. Phía nam hành lang dài 46m, có màn che làm bằng sợi lanh, với hai mươi cây trụ và hai mươi lỗ trụ bằng đồng, cùng với các móc và đai bạc gắn vào trụ. Phía bắc hành lang cũng dài 46m, với hai mươi cây trụ, hai mươi lỗ trụ bằng đồng, cùng với các móc và đai bạc gắn vào trụ. Phía tây hành lang dài 23m, có màn che, với mười cây trụ và mười lỗ trụ, cùng với các móc và đai bạc gắn vào trụ. Phía đông, là hướng mặt trời mọc, cũng dài 23m. Một bên cửa vào hành lang có bức màn dài 7.50m, cùng với ba cây trụ và ba lỗ trụ; bên kia cửa vào cũng có một bức màn dài 7.5m, cùng với ba cây trụ và ba lỗ trụ. Tất cả các bức màn chung quanh hành lang đều làm bằng sợi lanh, các cây trụ và lỗ trụ bằng đồng, các móc và đai trụ bằng bạc và các đầu trụ đều bọc bạc. Các cây trụ trong hành lang đều có đai bạc. Bức màn che cửa vào hành lang bằng sợi lanh, do một thợ thêu bằng chỉ xanh, tím và đỏ. Màn này dài 10m, có bề cao 2m như các bức màn bao quanh hành lang, cùng với bốn cây trụ và bốn lỗ trụ bằng đồng. Các cây trụ này có móc và đai bằng bạc với đầu trụ bọc bạc. Tất cả các cọc cắm trại dùng cho Đền Tạm và hành lang xung quanh đều bằng đồng. Sau đây là tổng số vật liệu dùng để thực hiện Đền Tạm, là nơi cất giữ hai bảng đá ghi chép Mười Điều Răn. Những người Lê-vi ghi chép lại tổng số này theo lệnh của Môi-se và dưới sự hướng dẫn của Y-tha-ma, con trai thầy tế lễ A-rôn. Bết-sa-lê-ên, con U-ri, cháu Hu-rơ thuộc chi tộc Giu-đa, hoàn tất mọi việc theo mạng lệnh CHÚA truyền; cộng tác với ông có Ô-hô-li-áp, con A-hi-sa-mạc, thuộc chi tộc Đan, là người có tài thủ công nghệ, vẽ kiểu và thêu thùa với chỉ xanh, tím, đỏ và sợi lanh. Tổng số vàng được dùng để thực hiện các công việc trong Đền Tạm, do dân Y-sơ-ra- ên dâng hiến theo cách dâng đưa qua đưa lại, là 1.000kg vàng theo tiêu chuẩn cân đo nơi thánh. Tổng số bạc do những người được kiểm tra dân số đem đến dâng là 3.400kg theo tiêu chuẩn cân đo nơi thánh. Có tất cả sáu trăm lẻ ba ngàn năm trăm năm chục nam công dân từ hai mươi tuổi trở lên được kiểm tra, mỗi người dâng 5.50gm, tức là nửa siếc-lơ, theo tiêu chuẩn cân đo nơi thánh. Có 3.400kg bạc được dùng để làm một trăm lỗ mộng cho các bức màn trong Đền Tạm, có tất cả một trăm lỗ mộng và một trăm ta-lâng, mỗi ta-lâng dùng làm một lỗ mộng. Số 30kg bạc còn lại được dùng để bọc đầu trụ và để làm móc và đai. Tổng số đồng được dâng hiến theo cách dâng nâng lên là 2.400kg đồng. Số đồng này được dùng để làm lỗ trụ cho cửa vào Trại Hội Kiến, bàn thờ bằng đồng với rá đồng và các đồ phụ tùng của bàn thờ này, các đế có lỗ trụ của hành lang, các đế có lỗ trụ cửa vào hành lang và tất cả các cọc cắm trại dùng cho Đền Tạm và hành lang. Bết-sa-lê-ên dùng chỉ xanh, tím và đỏ để dệt các bộ áo lễ rực rỡ dùng cho công tác phục vụ trong Nơi Thánh và làm bộ áo lễ thánh cho A-rôn, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se. Bết-sa-lê-ên dùng vàng, chỉ xanh, tím, đỏ và sợi lanh để làm cái ê-phót. Ông dát mỏng vàng, cắt thành sợi rồi thêu cách tinh vi lên sợi lanh cùng với chỉ xanh, tím và đỏ. Họ làm hai cầu vai và nối hết vào hai thân của ê-phót ở hai đầu ráp thành một áo. Thắt lưng cũng được may bằng sợi lanh và thêu bằng vàng sợi, chỉ xanh, tím, đỏ và được gắn thành một với ê-phót, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se. Ông nhận các viên bạch ngọc vào khuông vàng và khắc tên các con trai Y-sơ-ra-ên lên ngọc như cách khắc con dấu. Rồi họ gắn hai viên ngọc lên hai cầu vai của ê-phót để làm ngọc tưởng niệm cho các con trai Y-sơ-ra-ên, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se. Bết-sa-lê-ên làm bảng đeo ngực một cách tinh vi, và cũng như khi làm ê-phót, ông dùng vàng, chỉ xanh, tím, đỏ và sợi lanh. Bảng này hình vuông, bề dài một gang tay bề ngang một gang tay và may hai lớp vải. Họ gắn lên bốn hàng ngọc, hàng thứ nhất có hồng mã não, hoàng ngọc và hồng ngọc; hàng thứ nhì gồm có bích ngọc, lam ngọc và kim cương; hàng thứ ba gồm có ngọc hồng bửu, ngọc mã não và ngọc tím; hàng thứ tư gồm có lục ngọc, bạch ngọc và vân ngọc. Ngọc được nhận trên khuôn bằng vàng. Tất cả mười hai viên ngọc, mỗi viên có khắc tên một con trai Y-sơ-ra-ên, theo cách khắc con dấu. Các viên ngọc tượng trưng cho mười hai chi tộc. Họ làm dây chuyền bằng vàng ròng, bện chặt lại cho bảng đeo ngực. Họ cũng làm hai khuông vàng với hai khoen vàng và gắn khoen vào hai góc của bảng đeo ngực. Họ gắn một đầu của hai dây chuyền vàng vào hai cái khoen, nơi góc bảng đeo ngực, còn đầu kia gắn vào hai khuôn vàng rồi gắn vào hai cầu vai phía trước ê-phót. Họ làm hai khoen vàng và gắn vào hai góc bên trong của bảng đeo ngực, sát với ê-phót. Họ làm thêm hai khoen vàng khác và gắn vào bên dưới của hai dải đeo vai ở phía trước ê-phót, gần với đường nối ngay trên thắt lưng của ê-phót. Ông dùng dây mầu xanh buộc các khoen của bảng đeo ngực lại với các khoen của ê-phót và để cho bảng đeo ngực nằm yên lên trên đai lưng thêu sặc sở và không xê dịch trên áo ê-phót, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se. Áo khoác ngoài ê-phót được dệt toàn bằng chỉ len mầu xanh, có khoét cổ để tròng đầu, quanh cổ áo có đường viền để cho khỏi sờn rách. Họ dùng chỉ mầu xanh, tím, đỏ và chỉ gai thắt trái lựu và kết vòng theo gấu áo. Họ cũng làm các lục lạc bằng vàng và gắn trên gấu áo, xen kẽ giữa các trái lựu. Các chuông vàng và trái lựu được kết xen kẽ quanh gấu áo. Thầy tế lễ phải mặc áo này khi phục vụ, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se. Họ dùng sợi lanh dệt áo dài cho A-rôn và các con trai người. Sợi lanh mịn cũng được dùng để dệt mũ, mũ xếp cao và quần lót ngắn. Dây thắt lưng được dệt với sợi lanh mịn và thêu chỉ xanh, tím, và đỏ, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se. Họ làm một bông hoa, một biệt hiệu thánh bằng vàng ròng và khắc trên đó như khắc dấu ấn dòng chữ: THÁNH CHO CHÚA. Rồi họ dùng dây mầu xanh buộc thẻ vào khăn đội đầu, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se. Như vậy việc thiết lập Đền Tạm và Trại Hội Kiến được hoàn tất. Dân Y-sơ-ra-ên làm xong mọi việc đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se. Họ đem Đền Tạm đến cho Môi-se: lều, các đồ phụ tùng, móc, vách ván, thanh xà ngang, trụ và đế trụ, mái che bằng da cừu nhuộm đỏ, mái che bằng da dê và các bức màn, Rương Giao Ước với đòn khiêng và Nắp Chuộc Tội, bàn với các đồ phụ tùng và bánh thánh, cây đèn bằng vàng ròng, các đèn gắn lên cây đèn theo thứ tự hẳn hoi, tất cả đồ phụ tùng và dầu thắp, bàn thờ bằng vàng, dầu xức, hương thơm và bức màn che cửa Đền, bàn thờ bằng đồng với rá đồng, đòn khiêng và tất cả các đồ phụ tùng, bồn nước và chân bồn, các bức màn che quanh hành lang với các trụ và đế trụ, bức màn che cửa vào hành lang, dây thừng và cọc cắm trại cho hành lang cùng với tất cả các đồ phụ tùng dùng trong Đền Tạm và Trại Hội Kiến; các bộ áo lễ rực rỡ may dệt cho các thầy tế lễ mặc khi thi hành chức vụ tại Nơi Thánh, kể cả các bộ áo lễ thánh cho thầy tế lễ A-rôn và các con trai người khi họ thi hành chức vụ thầy tế lễ. Dân Y-sơ-ra-ên làm tất cả các công việc đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se. Môi-se thanh tra và thấy họ làm đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền nên ông chúc phước cho họ. Sau đó CHÚA phán dạy Môi-se: “Con dựng Đền Tạm và Trại Hội Kiến vào ngày mồng một tháng giêng. Đặt Rương Giao Ước vào trong Đền và lấy bức màn để ngăn che Rương. Đem cái bàn vào, sắp đặt các đồ phụ tùng trên bàn. Rồi đem cây đèn vào và gắn đèn lên cây đèn. Đặt bàn thờ dâng hương bằng vàng trước Rương Giao Ước và giăng bức màn che cửa Đền Tạm. Đặt bàn thờ dâng sinh tế trước cửa Đền Tạm, tức là Trại Hội Kiến; đặt bồn nước giữa Trại Hội Kiến và bàn thờ rồi đổ nước vào bồn. Dựng hành lang xung quanh Đền Tạm và giăng bức màn che cửa vào hành lang. Con lấy dầu thánh xức cho Đền Tạm và mọi vật trong Đền; hiến dâng Đền và mọi vật trong Đền và Đền sẽ được thánh hóa. Sau đó con xức dầu cho bàn thờ dâng sinh tế và các đồ phụ tùng; hiến dâng bàn thờ và bàn thờ sẽ trở nên rất thánh. Con cũng xức dầu cho bồn nước và chân bồn và hiến dâng bồn. Con đem A-rôn và các con trai người đến cửa vào Trại Hội Kiến và lấy nước rửa họ. Sau đó mặc cho A-rôn bộ áo lễ thánh, xức dầu cho người và hiến dâng người để người có thể phục vụ Ta với chức vụ thầy tế lễ. Con cũng đem các con trai A-rôn đến và mặc áo dài cho họ. Xức dầu cho họ cũng như con đã xức dầu cho cha họ để họ có thể phục vụ Ta với chức vụ thầy tế lễ. Lễ xức dầu phong chức thầy tế lễ này có hiệu lực vĩnh viễn từ thế hệ này sang thế hệ khác.” Môi-se làm tất cả mọi điều đúng theo mạng lệnh CHÚA truyền dạy. Như vậy, Đền Tạm được dựng lên vào ngày mồng một tháng giêng năm thứ hai. Khi dựng Đền Tạm, Môi-se đặt các lỗ trụ, dựng các vách ván, đặt các thanh xà ngang và dựng các trụ. Sau đó, ông dựng trại lên che Đền và giăng mái che bên trên trại, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền dạy. Môi-se để hai bảng đá có ghi Mười Điều Răn vào Rương Giao Ước, xỏ đòn khiêng vào và đặt Nắp Chuộc Tội lên trên Rương. Sau đó ông đem Rương vào Đền Tạm rồi giăng bức màn che, để ngăn che Rương Giao Ước, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền dạy. Môi-se đặt cái bàn trong Trại Hội Kiến, về phía bắc, bên ngoài bức màn và để bánh thánh trên bàn, trước mặt CHÚA, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền dạy. Ông đặt cây đèn trong Trại Hội Kiến đối diện với bàn, về phía nam và thắp đèn lên trước mặt CHÚA, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền dạy. Môi-se đặt bàn thờ bằng vàng trong Trại Hội Kiến trước bức màn rồi đốt hương trên bàn thờ, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền dạy. Sau đó ông giăng bức màn che cửa Đền Tạm. Ông đặt bàn thờ dâng sinh tế gần cửa Trại Hội Kiến rồi dâng tế lễ thiêu và tế lễ chay trên bàn thờ, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền dạy. Ông đặt bồn nước ở khoảng giữa Trại Hội Kiến và bàn thờ rồi đổ nước vào bồn để rửa. Môi-se, A-rôn và các con trai A-rôn dùng nước này để rửa tay chân. Mỗi lần vào Trại Hội Kiến hay đến gần bàn thờ, họ rửa tay chân đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se. Môi-se dựng hành lang xung quanh Đền Tạm và bàn thờ, giăng bức màn che cửa vào hành lang. Vậy, Môi-se đã hoàn tất mọi công việc. Một đám mây bao phủ Trại Hội Kiến và vinh quang của CHÚA đầy dẫy Đền Tạm. Môi-se không thể vào Trại Hội Kiến vì mây bao phủ Lều và vinh quang của CHÚA tràn ngập Đền Tạm. Trong suốt cuộc hành trình của dân Y-sơ-ra-ên, mỗi khi thấy trụ mây bay lên khỏi Đền Tạm, họ nhổ trại ra đi nhưng nếu trụ mây không bay lên, họ cũng không ra đi nhưng cứ ở lại cho đến khi trụ mây bay lên. Như vậy toàn dân Y-sơ-ra-ên thấy trụ mây của CHÚA ở trên Đền Tạm vào ban ngày, còn vào ban đêm có lửa trong đám mây trong suốt cuộc hành trình của họ. Từ trại hội kiến, CHÚA gọi Môi-se và phán dạy: Con hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên: Khi có ai trong các ngươi dâng tế lễ cho CHÚA phải dâng bò hay chiên, dê bắt trong bầy gia súc. Nếu lễ vật là tế lễ thiêu bằng bò, phải dùng con đực không tì vết, dâng lên tại cửa trại hội kiến để tế lễ được CHÚA vui nhậm. Người dâng phải đặt tay mình trên đầu sinh tế, nó sẽ được nhậm thay thế để chuộc tội cho người. Người ấy phải giết bò tơ trước mặt CHÚA, rồi các thầy tế lễ con trai A-rôn sẽ dâng huyết lên, rảy khắp xung quanh bàn thờ tại cửa trại hội kiến. Sau đó, họ phải lột da sinh tế và sả thịt ra từng miếng. Các thầy tế lễ con trai A-rôn sẽ nhóm lửa trên bàn thờ và sắp củi lên. Các thầy tế lễ con trai A-rôn sẽ sắp xếp các miếng thịt, kể cả cái đầu và mỡ lên củi đang cháy trên bàn thờ. Thầy tế lễ sẽ lấy nước rửa bộ đồ lòng và giò rồi đem thiêu tất cả trên bàn thờ. Đó là tế lễ thiêu, tức một lễ vật dùng lửa dâng lên, có mùi thơm cho CHÚA. Nếu người dâng tế lễ thiêu dùng gia súc nhỏ như chiên hoặc dê, phải dâng con đực không tì vết, giết nó tại phía bắc bàn thờ trước mặt CHÚA, rồi các thầy tế lễ con trai A-rôn sẽ rảy huyết khắp xung quanh bàn thờ, sả thịt ra từng miếng, cả đầu và mỡ, thầy tế lễ phải sắp tất cả lên củi đang cháy trên bàn thờ. Thầy tế lễ sẽ lấy nước rửa bộ lòng và giò, rồi dâng lên và thiêu tất cả trên bàn thờ. Đó là tế lễ thiêu, tức một lễ vật dùng lửa dâng lên, có mùi thơm cho CHÚA. Nếu người dâng tế lễ thiêu bằng loài chim, phải dâng chim gáy hoặc bồ câu non. Thầy tế lễ đem sinh tế đến bàn thờ, vặn đứt đầu nó rồi thiêu trên bàn thờ, vắt huyết chảy ra trên thành bàn thờ. Thầy tế lễ sẽ gỡ cái diều, nhổ lông vứt gần bàn thờ, về phía đông, là nơi đổ tro; rồi xé thân chim tại nơi cánh, nhưng không cho cánh rời ra, và đem thiêu tất cả trên bàn thờ, nơi củi đang cháy. Đó là tế lễ thiêu, tức là một lễ vật dùng lửa dâng lên, có mùi thơm cho CHÚA. Khi có người dâng cho CHÚA một tế lễ chay, lễ vật phải bằng bột lọc mịn. Người phải chế dầu và đặt nhũ hương lên trên, rồi đem đến cho các thầy tế lễ con trai A-rôn. Thầy tế lễ sẽ lấy một nắm bột lọc chế dầu và tất cả nhũ hương, đem thiêu trên bàn thờ làm kỷ niệm. Đó là một tế lễ dùng lửa dâng lên, có mùi thơm cho CHÚA. Phần còn lại trong lễ vật chay thuộc về A-rôn và con trai người. Đó là một vật chí thánh trong những vật dùng lửa dâng lên CHÚA. Khi người dùng vật nướng trong lò làm lễ vật chay, phải lấy bột lọc mịn làm bánh nhỏ không men nhồi dầu và bánh không men thoa dầu. Nếu dùng vật chiên trong chảo làm lễ vật chay, phải dùng bột lọc mịn không men nhồi dầu, bẻ từng miếng và chế dầu lên. Đó là tế lễ chay. Nếu dùng vật chiên trong chảo làm lễ vật chay, cũng phải bằng bột lọc mịn chế dầu. Các ngươi sẽ đem lễ vật chay sửa soạn như trên đến cho CHÚA, và giao cho thầy tế lễ; người sẽ mang lên bàn thờ. Thầy tế lễ sẽ lấy một phần để dâng làm kỷ niệm, thiêu trên bàn thờ. Đó là một tế lễ dùng lửa dâng lên, có mùi thơm cho CHÚA Phần lễ vật chay còn lại sẽ thuộc về A-rôn và con trai người. Đó là một vật chí thánh trong các tế lễ dùng lửa dâng lên CHÚA. Tế lễ chay dâng cho CHÚA không được pha men. Vì các ngươi không được thiêu men và mật ong trong tế lễ dùng lửa dâng lên CHÚA. Các người được dâng những vật đó cho CHÚA như lễ vật đầu mùa nhưng không được thiêu trên bàn thờ như tế lễ có mùi thơm. Phải nêm muối vào tất cả các tế lễ chay. Tế lễ chay dâng lên không bao giờ được thiếu muối giao ước của Đức Chúa Trời. Các ngươi phải dâng muối chung với tất cả các lễ vật. Nếu ngươi dâng tế lễ chay cho CHÚA bằng hoa quả đầu mùa, ngươi phải đem hạt lúa mới gặt, rang trên lửa, và tán nhỏ mà dâng lễ vật đầu mùa, rưới dầu vào và sắp nhũ hương lên. Đó là tế lễ chay. Thầy tế lễ sẽ lấy một phần hạt tán pha dầu với tất cả nhũ hương, thiêu đi làm kỷ niệm. Đó là một tế lễ dùng lửa dâng lên cho CHÚA. Nếu một người muốn dâng lễ vật bằng thú vật trong bầy gia súc, đực hay cái, phải dâng con vật không tì vết lên trước mặt CHÚA. Người ấy sẽ đặt tay trên đầu con sinh tế rồi giết nó tại cửa trại hội kiến. Các thầy tế lễ con trai A-rôn sẽ rảy huyết nó xung quanh bàn thờ. Do tế lễ cầu an này, người ấy sẽ dâng một lễ vật dùng lửa dâng lên CHÚA: mỡ bọc bộ lòng và tất cả mỡ trên bộ lòng, hai quả thận với mỡ bọc quanh cạnh hông, và tấm mỡ bọc gan (người ấy phải gỡ mỡ chung với hai quả thận). Rồi con trai A-rôn sẽ thiêu các vật ấy nơi bàn thờ trên tế lễ thiêu, trên củi đang cháy, như một lễ vật dùng lửa dâng lên có mùi thơm cho CHÚA. Nếu một người muốn dâng tế lễ cầu an bằng súc vật nhỏ hoặc đực hoặc cái, phải dâng con không tì vết lên trước mặt CHÚA. Nếu vật tế lễ là một con chiên con thì ngươi phải dâng nó lên trước mặt CHÚA. Người dâng phải đặt tay trên đầu con sinh tế và giết nó tại cửa trại hội kiến. Các con trai A-rôn sẽ rảy huyết nó xung quanh bàn thờ. Do tế lễ cầu an này, người ấy dâng lễ vật dùng lửa dâng lên CHÚA: mỡ, cả cái đuôi chặt gần cuối cột sống, lớp mỡ bọc bộ lòng và tất cả mỡ trên bộ lòng, hai quả thận với mỡ bọc quanh cạnh hông và tấm mỡ bọc gan (người ấy phải gỡ tấm mỡ chung với hai quả thận). Thầy tế lễ sẽ thiêu các vật ấy trên bàn thờ như thức ăn. Đó là tế lễ dùng lửa dâng lên CHÚA. Nếu lễ vật là dê, phải dâng nó lên trước mặt CHÚA. Người dâng phải đặt tay trên sinh tế và giết nó tại trước cửa trại hội kiến. Rồi con trai A-rôn sẽ rảy huyết nó xung quanh bàn thờ. Do lễ vật này, người ấy dâng tế lễ dùng lửa dâng lên CHÚA: mỡ bọc bộ lòng và tất cả mỡ trên bộ lòng, hai quả thận với mỡ bọc quanh cạnh hông, và tấm mỡ bọc gan (người ấy phải gỡ tấm mỡ chung với hai quả thận). Thầy tế lễ sẽ thiêu các vật ấy trên bàn thờ như thức ăn. Đó là một tế lễ thiêu, có mùi thơm. Tất cả mỡ đều thuộc về Chúa. Đây là luật lệ đời đời cho dòng dõi các ngươi, dù bất cứ nơi nào: Các ngươi đừng nên ăn mỡ hoặc huyết. CHÚA lại phán dạy Môi-se Con hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên rằng: Khi có ai lầm lỡ phạm một điều răn nào của CHÚA là điều không nên làm và phạm một trong những điều ấy. Trường hợp thầy tế lễ được xức dầu phạm tội, gây cho nhân dân mắc tội, thầy tế lễ đó phải dâng lên CHÚA một con bò tơ không tì vết để làm lễ chuộc tội mình đã phạm. Thầy sẽ dẫn bò tơ đến cửa trại hội kiến trước mặt CHÚA, đặt tay trên đầu nó, rồi giết nó trước mặt CHÚA. Một thầy tế lễ đã được xức dầu sẽ lấy huyết bò tơ đem vào trong trại hội kiến, nhúng ngón tay mình trong huyết và rảy bẩy lần trước mặt CHÚA, ngay trước bức màn che Nơi Thánh. Thầy tế lễ sẽ bôi huyết trên các sừng bàn thờ xông hương trong trại hội kiến, trước mặt CHÚA rồi đổ tất cả huyết bò tơ nơi chân bàn thờ dâng tế lễ thiêu trước cửa trại hội kiến. Thầy phải gỡ hết mỡ của bò tơ sinh tế chuộc tội: mỡ bọc bộ lòng và tất cả mỡ trên bộ lòng, hai quả thận, mỡ bọc quanh hai quả thận cạnh hông, tấm mỡ bọc gan, người phải gỡ tấm mỡ chung với hai quả thận, như cách gỡ các vật này của bò tơ dâng trong lễ cầu an. Rồi thầy tế lễ sẽ thiêu các vật đó trên bàn thờ dâng tế lễ thiêu. Còn da, tất cả thịt, đầu, giò, bộ lòng và phân, tức là tất cả các phần khác của bò tơ, thầy tế lễ đem hết ra ngoài trại quân, đến một nơi tinh sạch, là chỗ đổ tro, rồi chất trên củi đã nhóm lửa để thiêu đi tất cả tại nơi đổ tro. Trường hợp toàn dân Y-sơ-ra-ên lầm lỡ phạm tội dù hội chúng không biết mà làm điều CHÚA ngăn cấm, và vì đó phải mắc tội: nếu lỗi ấy mới được phát giác thì nhân dân phải dâng một bò tơ làm tế lễ chuộc tội, dẫn nó đến tại cửa trại hội kiến. Các trưởng lão của hội chúng phải đặt tay trên đầu nó trước mặt CHÚA và giết nó tại trước mặt Ngài. Rồi thầy tế lễ đã được xức dầu sẽ đem huyết bò tơ vào trại hội kiến. nhúng ngón tay vào huyết và rảy bảy lần trước mặt CHÚA, ngay trước bức màn. Thầy sẽ lấy huyết xức các sừng bàn thờ đặt trong trại hội kiến trước mặt CHÚA rồi đổ huyết còn lại nơi chân bàn thờ tế lễ thiêu đặt tại cửa trại hội kiến. Thầy cũng sẽ gỡ tất cả mỡ của sinh tế và thiêu trên bàn thờ. Thầy tế lễ sẽ làm bò đực như đã làm cho con bò đực sinh tế chuộc tội để chuộc tội cho nhân dân và tội lỗi họ sẽ được tha thứ. Thầy sẽ đem con bò đực ra ngoài trại quân rồi thiêu đi như đã thiêu bò đực thứ nhất. Đó là tế lễ chuộc tội cho hội chúng. Khi một người lãnh đạo phạm tội, dù lầm lỡ phạm một điều răn nào của CHÚA, Đức Chúa Trời của ngươi, là điều chẳng nên làm, nên phải mắc tội. Khi người ấy ý thức được tội lỗi mình, người phải đem một con dê đực không tì vết làm tế lễ, đặt tay mình trên đầu nó và giết nó tại nơi người ta giết sinh tế thiêu trước mặt CHÚA. Đó là một tế lễ chuộc tội. Thầy tế lễ sẽ lấy một ít huyết con sinh tế chuộc tội, nhúng ngón tay vào và xức các sừng bàn thờ tế lễ thiêu; rồi đổ huyết còn lại nơi chân bàn thờ tế lễ thiêu. Thầy tế lễ phải thiêu tất cả mỡ trên bàn thờ như mỡ tế lễ cầu an. Thầy tế lễ sẽ chuộc tội cho mình và người sẽ được tha thứ. Nếu một người thường dân vô tình phạm điều răn của CHÚA, làm điều chẳng nên làm, thì phải mắc tội; một khi người ấy ý thức được tội lỗi mình, người ấy đem một dê cái con không tì vết, dâng lên làm lễ chuộc tội cho mình. Người sẽ đặt tay lên đầu sinh tế và giết nó nơi giết sinh tế thiêu. Thầy tế lễ sẽ lấy huyết sinh tế, nhúng ngón tay vào và xức các sừng bàn thờ tế lễ thiêu; và đổ tất cả huyết còn lại nơi chân bàn thờ. Thầy cũng sẽ gỡ tất cả mỡ sinh tế như đã gỡ mỡ của tế lễ cầu an, và thiêu tất cả trên bàn thờ, có mùi thơm lên CHÚA. Như thế, thầy tế lễ sẽ chuộc tội cho người và người sẽ được tha thứ. Nếu người ta dâng chiên con làm tế lễ chuộc tội, phải dâng chiên cái không tì vết. Người dâng sẽ đặt tay trên đầu sinh tế và giết nó làm tế lễ chuộc tội tại nơi giết sinh tế thiêu. Thầy tế lễ sẽ lấy một ít huyết sinh tế, nhúng ngón tay vào, và xức các sừng bàn thờ tế lễ thiêu rồi đổ tất cả huyết còn lại nơi chân bàn thờ. Thầy cũng sẽ gỡ tất cả mỡ sinh tế như đã gỡ mở chiên con làm sinh tế cầu an, rồi thiêu tất cả trên bàn thờ, cùng với tế lễ dùng lửa dâng lên CHÚA. Thầy tế lễ sẽ vì tội người ấy phạm, làm lễ chuộc tội cho người, và người sẽ được tha thứ. Nếu một người phạm tội vì sau khi nghe tuyên thệ để làm chứng nhưng không nói lên điều mình thấy hay biết, thì người đó sẽ mắc tội. Khi có ai chạm đến vật gì ô uế như xác một con dã thú ô uế, hoặc một gia súc ô uế, hoặc một côn trùng ô uế nhưng không hay biết thì người ấy bị ô uế và mắc tội. Khi có ai vô ý chạm phải vật gì ô uế nơi con người, bất cứ vật gì làm ô uế và người ấy không hay biết, người ấy sẽ mắc tội khi ý thức được. Khi có ai vô tình thề sẽ làm một điều--tốt hay xấu--khi ý thức được mình đã thề cách vô ý thì người ấy sẽ mắc tội. Nếu có ai mắc phải một trong các điều vừa kể, phải thú nhận tội mình đã phạm; và dâng tế lễ chuộc lỗi cho CHÚA bằng một con chiên cái hoặc dê cái bắt trong bầy để chuộc tội mình đã phạm; thầy tế lễ sẽ làm lễ chuộc tội cho người ấy. Nếu không đủ sức dâng chiên cái, phải dâng hai con chim gáy hay hai bồ câu con lên CHÚA để chuộc tội--một con làm lễ chuộc tội, con kia làm lễ thiêu. Người ấy phải đem chim đến thầy tế lễ; thầy sẽ dâng lễ chuộc tội trước: vặn đầu con chim nơi cổ nhưng không cho rời ra, thầy sẽ rảy huyết con chim làm lễ chuộc tội. Rồi thầy tế lễ sẽ dâng con chim kia làm lễ thiêu theo nghi thức đã ấn định để chuộc tội cho người ấy thì người sẽ được tha thứ. Nếu người phạm tội không đủ sức dâng hai chim gáy hoặc hai bồ câu con, thì phải dâng một phần mười ê-pha bột lọc mịn làm tế lễ chuộc tội, nhưng không được rưới dầu hoặc để nhũ hương lên trên vì đây là tế lễ chuộc tội. Người ấy phải đem bột đến thầy tế lễ; thầy sẽ lấy một nắm bột làm kỷ niệm và thiêu trên bàn thờ ngay trên các lễ vật dùng lửa dâng lên CHÚA. Đó là một tế lễ chuộc tội. Như thế thầy tế lễ sẽ làm lễ chuộc tội cho người này về bất cứ lỗi nào người đã phạm thì người sẽ được tha thứ. Phần còn lại của lễ vật sẽ thuộc về thầy tế lễ như các vật chay khác. CHÚA lại bảo Môi-se: Khi có ai vi phạm: vô ý phạm về bất kỳ vật thánh nào của CHÚA, phải đem đến dâng cho CHÚA một con chiên đực không tì vết, bắt từ trong bầy trị giá bằng siếc-lơ bạc đúng theo siếc-lơ nơi thánh. Đó là một tế lễ chuộc lỗi. Người phải bồi thường y giá và cộng thêm một phần năm giá của vật mình đã phạm đến nơi đền thánh, rồi giao nộp tất cả cho thầy tế lễ. Thầy sẽ dùng chiên con đực làm lễ chuộc lỗi cho người ấy và người sẽ được tha thứ. Nếu có ai phạm tội, làm điều CHÚA ngăn cấm, mặc dù không biết, nhưng vẫn mắc tội, và người ấy phải chịu trách nhiệm. Người phải đem đến cho thầy tế lễ một con chiên đực không tì vết bắt từ trong bầy, trị giá người định theo như tế lễ chuộc lỗi. Như thế, thầy tế lễ sẽ chuộc tội cho người về tội người vô ý mắc phải thì người sẽ được tha thứ. Đó là tế lễ chuộc lỗi vì người này đã mắc tội phạm đến CHÚA. CHÚA bảo Môi-se: Khi có ai phạm tội, không thành tín với CHÚA bằng cách lừa dối người lân cận về một vật nào được giao thác cho mình, hoặc nhờ mình chăm sóc, hoặc trộm cướp hay lừa gạt người lân cận mình, hoặc lượm được vật đã mất mà chối đi, hoặc thề dối, hoặc phạm một lỗi nào mà người ta thường phạm khi đã phạm và mắc tội như thế, phải hoàn lại vật đã trộm cướp hoặc lừa gạt, hoặc vật được giao thác cho mình, hoặc vật người ta đánh mất mà mình lượm được, hoặc bất cứ vật gì mình đã thề dối để chiếm hữu: kẻ ấy phải bồi hoàn nguyên vật ấy, cộng thêm một phần năm giá trị, và giao nộp cho sở hữu chủ trong ngày mình dâng tế lễ chuộc lỗi. Để chuộc lỗi, người ấy phải đem đến cho thầy tế lễ trước mặt CHÚA một lễ chuộc lỗi, tức là một dê đực bắt trong bầy không tì vít và đúng giá đã ấn định, như thế thầy tế lễ sẽ chuộc tội cho người ấy trước mặt CHÚA và người sẽ được tha thứ lỗi lầm mình đã phạm và mắc tội. CHÚA bảo Môi-se: Con hãy truyền lệnh này cho A-rôn và các con trai người: Đây là các quy luật về tế lễ thiêu: Sinh tế thiêu phải để trên mặt bàn thờ suốt đêm cho đến sáng và phải giữ cho lửa cháy luôn trên bàn thờ. Đoạn thầy tế lễ sẽ mặc y phục bằng vải gai với đồ lót cũng bằng vải gai vào mình, và hốt tro từ đám lửa của tế lễ thiêu trên bàn thờ đổ gần bên bàn thờ; rồi cởi áo này mặc áo khác, đem tro ấy ra ngoài trại quân để vào một nơi tinh sạch. Ngọn lửa trên bàn thờ phải giữ cho cháy luôn không tàn. Mỗi buổi sáng thầy tế lễ phải chất thêm củi và sắp sinh tế thiêu lên cùng đốt mỡ sinh tế cầu an. Phải giữ cho ngọn lửa trên bàn thờ cháy liên tục, không tắt. Đây là quy luật về tế lễ chay: Con trai A-rôn phải dâng tế lễ này phía trước bàn thờ trước mặt CHÚA. Họ sẽ bốc một nắm bột lọc trong lễ vật chay và dầu, với tất cả nhũ hương bên trên, đem thiêu trên bàn thờ làm kỷ niệm là tế lễ có mùi thơm cho CHÚA. A-rôn và con trai người sẽ ăn phần còn lại không pha men trong một nơi thánh: họ phải ăn lễ vật chay trong sân trại hội kiến. Không được hấp bánh với men: đó là phần Ta ban cho họ trong các lễ vật của Ta, mà người ta dùng lửa dâng lên. Đó là một vật chí thánh như tế lễ chuộc tội và tế lễ chuộc lỗi. Tất cả các người nam trong con trai A-rôn sẽ được ăn phần ấy. Đó là một quy luật đời đời cho dòng dõi các ngươi về các tế lễ dùng lửa dâng lên cho CHÚA: người hay vật nào chạm đến các tế lễ đó sẽ được thánh hóa. CHÚA lại bảo Môi-se: Đây là tế lễ A-rôn và con trai người phải dâng lên CHÚA trong ngày họ được xức dầu: một phần mười ê-pha bột lọc làm tế lễ chay thường xuyên (thông thường); sáng một nửa, chiều một nửa. Lễ vật đó sẽ được trộn với dầu và chiên sẵn trên chảo; khi chín rồi, người phải đem cắt ra từng miếng sẵn sàng dâng lên làm tế lễ có mùi thơm cho CHÚA. Người con trai nào của A-rôn được xức dầu thay thế ông cũng phải dâng tế lễ ấy. Đó là một quy luật đời đời trước mặt CHÚA; họ phải thiêu trọn lễ vật này. Lễ vật chay của các thầy tế lễ đều phải thiêu hết, không nên ăn. CHÚA lại bảo Môi-se: Con hãy truyền cho A-rôn và con trai người: Đây là quy luật về tế lễ chuộc tội: sinh tế chuộc tội phải giết trước mặt CHÚA tại nơi sinh tế thiêu bị giết; đó là một vật chí thánh. Thầy tế lễ dâng sinh tế chuộc tội sẽ ăn nó trong một nơi thánh tại sân trại hội kiến. Bất luận người hay vật nào chạm sinh tế ấy sẽ được thánh hóa; nếu huyết sinh tế văng trên một chiếc áo, ngươi phải giặt áo ấy trong một nơi thánh. Nồi đất dùng nấu thịt sinh tế ấy phải đập bể đi; nếu dùng nồi đồng thì phải cạo và rửa trong nước cho sạch. Tất cả người nam trong gia đình thầy tế lễ đều được ăn thịt sinh tế ấy; đó là một vật chí thánh. Nhưng sinh tế chuộc tội nào mà huyết nó được đem vào trại hội kiến để chuộc tội trong nơi thánh thì không được ăn; phải thiêu nó đi. Đây là quy luật về tế lễ chuộc lỗi: đó là một vật chí thánh. Tại nơi giết sinh tế để dâng tế lễ thiêu, phải giết sinh tế chuộc lỗi rồi rưới huyết nó xung quanh mặt bàn thờ. Hãy dâng tất cả mỡ: mỡ đuôi và mỡ chài, hai quả thận và mỡ hai quả thận cạnh hông, và tấm mỡ bọc gan, gỡ gần hai quả thận. Thầy tế lễ sẽ thiêu tất cả các vật ấy trên bàn thờ như tế lễ thiêu, dùng lửa dâng lên CHÚA: đó là tế lễ chuộc lỗi. Tất cả người nam trong dòng họ thầy tế lễ sẽ ăn thịt sinh tế tại một nơi thánh: đó là một vật chí thánh. Tế lễ chuộc lỗi cũng như tế lễ chuộc tội, phải theo cùng một quy luật; sinh tế sẽ thuộc về thầy tế lễ đứng dâng nó để chuộc tội. Thầy tế lễ đứng dâng tế lễ cho ai, sẽ được tấm da của sinh tế. Tất cả các lễ vật chay, hoặc nướng trong lò, hoặc chiên trên chảo, hoặc nướng trên vỉ, đều thuộc về thầy tế lễ đứng dâng. Tất cả lễ vật chay, dù chế dầu hay còn khô, đều được chia đều cho tất cả các con trai A-rôn. Đây là quy luật về tế lễ cầu an một người có thể dâng lên CHÚA: Nếu dâng để tạ ơn, phải kèm theo các bánh tráng làm bằng bột nhồi dầu, không pha men; bánh tráng bằng bột nhồi phết dầu, không pha men; bánh bột lọc nhồi dầu, không pha men. Cũng dâng thêm với lễ vật cầu an các ổ bánh có men. Người ấy phải đem dâng lên CHÚA mỗi loại một cái; lễ vật sẽ thuộc về thầy tế lễ đã rảy huyết của sinh tế cầu an. Thịt sinh tế cầu an để tạ ơn phải ăn ngay trong ngày dâng hiến, không được để gì lại đến sáng hôm sau. Nếu dâng tế lễ này vì có lời khấn nguyện hay lạc ý, tuy sinh tế phải ăn trong ngày dâng hiến, nhưng thịt còn lại có thể ăn hôm sau. Thịt còn lại đến ngày thứ ba phải đốt đi. Đến ngày thứ ba mà còn ăn thịt sinh tế, thì tế lễ cầu an ấy không được nhậm nữa; người dâng không được kể là đã dâng; vì đó là một điều bất khiết; và kẻ nào ăn thịt đó sẽ chịu trách nhiệm về tội mình. Đừng ăn thịt đã chạm phải vật gì ô uế, phải đem đốt đi. Còn thịt khác, ai tinh sạch thì được phép ăn. Nếu kẻ nào đang bị ô uế lại ăn thịt sinh tế cầu an thuộc về CHÚA, thì phải bị khai trừ ra khỏi nhân dân. Nếu chạm đến vật gì ô uế, đáng ghê tởm, rồi lại ăn thịt sinh tế cầu an thuộc về CHÚA, kẻ ấy phải bị khai trừ ra khỏi nhân dân. CHÚA phán dạy Môi-se: Con hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên: Đừng ăn bất cứ mỡ gì của bò, chiên hay dê. Mỡ của một con thú đã chết hoặc bị xé có thể dùng vào bất cứ việc gì nhưng không được ăn. Kẻ nào ăn mỡ sinh tế thiêu dâng lên CHÚA phải bị khai trừ ra khỏi nhân dân. Bất luận nơi nào các ngươi cư trú, cũng không được ăn huyết của loài chim hay loài thú. Kẻ nào ăn huyết phải bị khai trừ ra khỏi nhân dân. CHÚA phán dạy Môi-se: Con hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên: Nếu có ai dâng tế lễ cầu an cho CHÚA, chính người đó phải đem lễ vật đến cho Ngài từ trong sinh tế cầu an, tự tay mình mang đến các lễ vật dâng lên bằng lửa cho CHÚA; phải đem mỡ và cái ngực để dâng ngực ấy đưa qua đưa lại làm tế lễ đưa qua đưa lại trước mặt CHÚA. Thầy tế lễ sẽ thiêu mỡ trên bàn thờ, còn cái ngực thuộc về A-rôn và con cháu người. Cái đùi bên phải sẽ là quà cho thầy tế lễ đứng dâng sinh tế cầu an; trong các con trai A-rôn, người nào đứng dâng huyết và mỡ của sinh tế cầu an sẽ được cái đùi bên phải. Cái ngực đã dâng đưa qua đưa lại và cái đùi đã được dâng lên mà Ta thu nhận của dân Y-sơ-ra-ên, từ trong sinh tế cầu an, Ta đã ban cho thầy tế lễ A-rôn và các con trai người theo quy luật đời đời mà dân Y-sơ-ra-ên phải tuân giữ. Đây là phần của A-rôn và các con trai người, lấy từ trong các lễ vật dâng lên cho CHÚA bằng lửa, biệt riêng cho họ từ ngày họ được lập làm thầy tế lễ cho CHÚA. Đó là điều CHÚA truyền lệnh cho dân Y-sơ-ra-ên phải giao cho các thầy tế lễ trong ngày họ được xức dầu; đó là một quy luật đời đời trải qua các thế hệ. Đó là quy luật về tế lễ thiêu, tế lễ chay, tế lễ chuộc lỗi, tế lễ chuộc tội, tế lễ tấn phong và tế lễ cầu an. Quy luật ấy CHÚA đã truyền cho Môi-se trên núi Si-nai trong ngày Chúa truyền cho con dân Y-sơ-ra-ên đem các lễ vật đến dâng cho Ngài, trong sa mạc Si-nai. CHÚA bảo Môi-se: Con hãy đưa A-rôn và các con trai người, cùng đem theo các áo lễ, dầu xức, con bò đực làm tế lễ chuộc tội, hai con chiên đực và một giỏ đựng bánh chay không men, rồi triệu tập tất cả nhân dân tại cửa trại hội kiến. Môi-se làm đúng những điều CHÚA đã truyền bảo mình; nhân dân họp lại tại cửa trại hội kiến. Môi-se bảo nhân dân: Đây là điều CHÚA đã truyền dạy phải thi hành. Môi-se đem A-rôn và các con trai người tắm trong nước. Ông mặc áo ngắn cho A-rôn, nịt đai lưng, khoác áo lễ, mặc ê-phót và thắt chặt đai ê-phót để đeo ê-phót. Rồi đeo bảng đeo ngực, và gắn vào bảng ấy các U-rim và Thu-mim, đội cái mũ lên đầu, buộc tấm thẻ vàng phía trước, tức là mão triều thiên thánh, như CHÚA đã truyền bảo Môi-se. Môi-se lấy dầu xức, bôi lên đền tạm và tất cả các vật trong đó để thánh hóa chúng. Ông cũng rảy dầu bảy lần trên bàn thờ, xức dầu trên bàn thờ và tất cả các dụng cụ, thùng đựng nước tắm rửa và chân thùng để thánh hóa chúng. Môi-se đổ dầu xức trên đầu A-rôn để xức dầu tấn phong và thánh hóa người. Môi-se cũng đem các con trai A-rôn đến gần và mặc cho họ áo ngắn, cột đai và đội mũ lên đầu như CHÚA đã truyền bảo Môi-se. Người cũng đem đến con bò đực làm lễ chuộc tội; A-rôn và con trai người đặt tay trên đầu nó. Người giết nó đi và Môi-se nhúng huyết trên ngón tay xức trên các sừng bàn thờ và xung quanh bàn thờ để tẩy thanh bàn thờ; ông đổ huyết còn lại nơi chân bàn thờ và thánh hóa nó để làm lễ chuộc tội tại đó. Ông lấy tất cả mỡ chài, tấm mỡ bọc gan, hai quả thận và mỡ bọc hai quả thận, rồi Môi-se thiêu tất cả trên bàn thờ, còn con bò đực với bộ da, thịt và phân nó được đem ra ngoài trại quân; Môi-se thiêu tất cả trong lửa như CHÚA đã truyền bảo mình. Môi-se cũng đem con chiên đực dùng làm tế lễ thiêu đến gần; A-rôn và các con trai người đặt tay trên đầu nó. Môi-se giết chiên đực, rưới huyết xung quanh thành bàn thờ; rồi sả thịt ra từng miếng, thiêu cái đầu, các miếng thịt và mỡ. Môi-se cũng rửa bộ lòng và các giò trong nước rồi thiêu đi với cả con chiên đực trên bàn thờ. Đó là tế lễ thiêu có mùi thơm dùng lửa dâng lên cho CHÚA, như Ngài đã truyền dạy Môi-se. Môi-se cũng đem con chiên đực thứ nhì đến để làm lễ tấn phong. A-rôn và các con trai người đặt tay trên đầu nó. Người giết nó đi. Môi-se nhúng ngón tay trong huyết nó xức trên tai phải của A-rôn, trên ngón cái bàn tay phải và trên ngón cái bàn chân phải. Môi-se cũng đem các con trai A-rôn đến gần, xức huyết nơi trái tai phải, trên ngón cái của bàn tay phải, và trên ngón cái của bàn chân phải của họ: rồi rảy huyết còn lại xung quanh thành bàn thờ. Ông lấy mỡ, mỡ của đuôi và tất cả mỡ của bộ lòng, tấm mỡ bọc gan, hai quả thận và mỡ bọc hai quả thận, và cái đùi bên phải. Cũng lấy trong giỏ bánh không men đặt trước mặt CHÚA một cái bánh nhỏ không men, một cái bánh nhỏ có dầu và một cái bánh tráng, rồi để các bánh đó trên lớp mỡ và trên cái đùi bên phải. Ông giao tất cả các vật đó trong tay A-rôn và các con trai người để họ dâng đưa qua đưa lại trước mặt CHÚA. Môi-se lấy lại các vật đó khỏi tay họ, đem thiêu nơi bàn thờ cùng với của lễ thiêu. Đó là tế lễ tấn phong có mùi thơm, tức là tế lễ dùng lửa dâng lên CHÚA. Môi-se cũng lấy cái ngực của con chiên đực dâng trong lễ tấn phong, đưa qua đưa lại trước mặt CHÚA. Cái ngực ấy là phần của Môi-se, như CHÚA đã truyền dạy ông. Sau đó, Môi-se lấy dầu xức và huyết trên bàn thờ rảy trên A-rôn và trên lễ phục của ông, trên các con trai A-rôn và lễ phục của họ, để thánh hóa A-rôn và các con trai người cùng lễ phục của họ. Môi-se bảo A-rôn và các con trai người: Hãy nấu thịt tại cửa trại hội kiến và ăn tại đó với bánh trong giỏ dùng trong dịp lễ tấn phong, như Chúa đã dặn: A-rôn và các con trai người phải ăn thịt đó; hãy thiêu đi tất cả thịt và bánh còn lại; đừng rời khỏi trại hội kiến, cứ ở đó suốt bảy ngày cho đến mãn thời gian lễ tấn phong vì lễ tấn phong kéo dài bảy ngày. Những việc đã làm ngày nay đều được CHÚA truyền bảo để chuộc tội cho các người. Các người phải ở luôn tại cửa trại hội kiến suốt bảy ngày đêm và phải làm mọi điều CHÚA đòi hỏi hầu cho các người khỏi chết; vì đó chính là điều ta được Chúa truyền bảo. Vậy, A-rôn và các con trai người thực thi mọi điều CHÚA đã dùng Môi-se truyền bảo họ. Tám ngày sau, Môi-se triệu tập A-rôn, các con trai A-rôn và các trưởng lão dân Y-sơ-ra-ên. Ông nói với A-rôn: Anh đem dâng cho CHÚA một con bò đực làm tế lễ chuộc tội và một con dê đực làm tế lễ thiêu, cả hai đều không tì vết. Sau đó anh truyền cho dân Y-sơ-ra-ên đem dâng cho CHÚA một con dê đực làm tế lễ chuộc tội, một con bò và một con chiên con, cả hai đều một tuổi và không tì vết, làm của lễ thiêu, một con bò và một con chiên đực làm tế lễ cầu an, cùng với tế lễ chay có pha dầu, vì hôm nay CHÚA sẽ hiện ra với các ngươi. Những người này đem tất cả các tế lễ Môi-se dặn bảo trước trại hội kiến và toàn dân đều đến đứng trước mặt CHÚA. Môi-se nói: Đây là điều CHÚA truyền cho nhân dân thi hành để vinh quang của CHÚA có thể hiện ra với nhân dân. Sau đó Môi-se nói với A-rôn: Anh đến bàn thờ và dâng tế lễ chuộc tội và tế lễ thiêu để chuộc tội cho chính anh và cho nhân dân; sau đó anh dâng tế lễ cho dân để chuộc tội cho họ, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền dạy. Vậy, A-rôn đến gần bàn thờ và giết con bò làm tế lễ chuộc tội cho mình. Các con trai của A-rôn đem huyết bò đến cho ông, ông nhúng ngón tay vào huyết đem bôi lên các sừng bàn thờ và đem phần huyết còn lại đổ dưới chân bàn thờ. A-rôn đốt mỡ, thận và túi mật của con sinh tế chuộc tội lên bàn thờ, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền dạy Môi-se; còn thịt và da ông đem đốt bên ngoài doanh trại. A-rôn giết con sinh tế làm của lễ thiêu. Các con ông đem huyết đến và ông rảy huyết đó chung quanh bàn thờ. Họ đem con sinh tế đến cho ông từng miếng một, kể cả cái đầu và ông đem các miếng đó thiêu trên bàn thờ. Ông rửa bộ lòng và các chân con sinh tế rồi đem đốt trên bàn thờ chung với tế lễ thiêu. Sau đó A-rôn đem các sinh tế cho dân chúng đến. Ông giết con dê đực làm tế lễ chuộc tội cho dân chúng và dâng tế lễ theo cách ông đã làm lần đầu. Ông cũng đem sinh tế làm tế lễ thiêu cho dân chúng đến và dâng lên theo đường lối đã ấn định. Ông cũng đem tế lễ chay đến, bốc đầy một nắm tay, đem đốt trên bàn thờ, tế lễ này thêm vào tế lễ thiêu dâng vào buổi sáng. A-rôn giết con bò và con chiên đực làm tế lễ cầu an cho nhân dân. Các con ông đem huyết sinh tế đến và ông rảy huyết đó chung quanh bàn thờ. Họ cũng lấy mỡ của con bò và con chiên, gồm mỡ đuôi, lớp mỡ bọc bộ lòng cùng với hai quả thận và túi mật, đem để lên ngực hai con sinh tế, rồi A-rôn đốt mỡ trên bàn thờ. Ông đưa qua đưa lại, như Môi-se đã dặn bảo. Sau khi dâng tế lễ chuộc tội, tế lễ thiêu và tế lễ cầu an, A-rôn đưa tay lên hướng về phía nhân dân và chúc phước cho họ, rồi bước xuống. Môi-se và A-rôn vào trại hội kiến. Khi từ trại ra, hai ông chúc phước cho dân chúng và vinh quang của CHÚA hiện ra cho toàn thể nhân dân. Lửa từ sự hiện diện của CHÚA phát ra thiêu hóa tế lễ thiêu và mỡ trên bàn thờ. Khi thấy vậy, toàn dân reo mừng và cúi đầu sát đất. Hai con trai của A-rôn là Na-đáp và A-bi-hu lấy lư hương của họ, bỏ lửa vào rồi bỏ thêm hương và dâng một thứ lửa lạ trước mặt CHÚA, trái với mạng lệnh của Ngài. Lửa từ sự hiện diện của CHÚA phát ra thiêu đốt họ và họ chết trước mặt CHÚA. Môi-se nói với A-rôn: Việc này cho thấy ý nghĩa của lời CHÚA khi Ngài phán dạy rằng:Ta sẽ tỏ mình thánh khiếtGiữa vòng những người đến gần Ta:Ta sẽ được tôn vinhTrước mặt mọi người.A-rôn nín lặng. Môi-se gọi Mi-sa-ên và Ên-sa-phan, hai con trai của U-xi-ên, chú của A-rôn, và bảo họ: Đến đem xác hai anh các cháu ra khỏi nơi thánh và đem ra ngoài doanh trại. Họ mang xác hai người còn mặc áo lễ ra ngoài doanh trại, theo lệnh Môi-se. Sau đó, Môi-se nói với A-rôn và hai con trai người là Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma rằng: Đừng xõa tóc cũng đừng xé áo; nếu không vâng lời, anh và hai cháu sẽ chết và CHÚA sẽ nổi giận với toàn thể cộng đồng. Nhưng anh em các người và toàn dân Y-sơ-ra-ên có thể khóc than cho những người dã bị CHÚA dùng lửa thiêu đốt. Còn anh và hai cháu không được rời cửa trại: ai không vâng lời sẽ chết vì dầu thánh của CHÚA đã xức trên anh và hai cháu. Vậy, họ làm theo lời Môi-se nói. CHÚA phán với A-rôn: Ngươi và các con trai ngươi không được uống rượu nho hay rượu mạnh khác khi các ngươi vào trại hội kiến, nếu không vâng lời các ngươi sẽ chết. Đây là một mạng lệnh vĩnh viễn cho các thế hệ mai sau. Các ngươi phải phân biệt giữa thánh và phàm, giữa ô uế và tinh sạch, và các ngươi phải dạy cho dân Y-sơ-ra-ên tất cả các mạng lệnh CHÚA đã truyền qua Môi-se. Môi-se nói với A-rôn và hai con trai còn lại là Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma: Lấy phần ngũ cốc còn lại sau khi đã dùng lửa dâng các tế lễ cho CHÚA và ăn bên cạnh bàn thờ; nhưng không được pha men, vì là món ăn rất thánh. Phải ăn trong một nơi thánh, vì đó là phần chia cho anh và con anh trong số tế lễ dùng lửa dâng cho CHÚA. Đó là mạng lệnh Chúa đã truyền cho tôi. Nhưng anh, các con trai và con gái anh có thể ăn cái ngực đã được dâng đưa qua đưa lại và cái đùi đã dâng lên. Ăn các món này tại một nơi tinh sạch, vì là món chia cho anh và con cái anh, trích trong tế lễ cầu an của dân Y-sơ-ra-ên. Cái đùi để dâng lên và cái ngực để dâng đưa qua đưa lại cùng với các phần mỡ để thiêu bằng lửa, phải được đưa qua đưa lại trước mặt CHÚA làm tế lễ đưa qua đưa lại. Đây là phần chia thường lệ cho anh và con cái anh, theo mạng lệnh CHÚA đã truyền dạy. Sau khi cố công tìm kiếm con dê dùng làm sinh tế chuộc tội và được biết dê đã cháy thiêu, Môi-se giận Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma, hai con trai còn lại của A-rôn, và hỏi họ: Sao hai cháu không ăn sinh tế chuộc tội trong nơi thánh? Đó là vật rất thánh được ban cho hai cháu để cất bỏ tội lỗi của nhân dân, để chuộc tội cho họ trước mặt CHÚA. Nầy, huyết con sinh tế đã không được đem vào nơi thánh, hai cháu đáng lý phải ăn con dê trong nơi thánh, như điều ta đã căn dặn. A-rôn đáp lời Môi-se: Hôm nay chúng nó đã dâng tế lễ chuộc tội và tế lễ thiêu của chúng trước mặt CHÚA, nhưng những việc này đã xảy đến cho tôi, CHÚA sẽ vui lòng không nếu tôi ăn tế lễ chuộc tội hôm nay? Khi nghe vậy, Môi-se đồng ý. CHÚA phán dạy Môi-se và A-rôn rằng: Các con bảo dân Y-sơ-ra-ên: Trong số các loài vật sống trên đất, đây là các loài các ngươi được phép ăn: Các ngươi được phép ăn các loài vật có móng rẽ ra, bàn chân chia hai và nhai lại. Nhưng có một số chỉ nhai lại hay chỉ có móng rẽ ra; những loài đó các ngươi không được phép ăn. Lạc đà, mặc dù nhai lại nhưng không có móng rẽ ra, và là một loài vật không tinh sạch cho các ngươi. Loài chồn sống trên đá, mặc dù nhai lại nhưng không có móng rẽ ra; nó là vật không tinh sạch cho các ngươi. Con thỏ rừng mặc dù nhai lại nhưng không có móng rẽ ra, là một loài vật không tinh sạch cho các ngươi. Con heo, dù có móng rẽ, bàn chân chia hai nhưng không nhai lại, đó là vật không tinh sạch cho các ngươi. Các ngươi không được ăn thịt và không được đụng đến xác các thú đó, chúng không tinh sạch cho các ngươi. Đây là các loài vật ngươi được ăn, tất cả loài vật ở dưới nước, tất cả các loài có vây và vẩy dưới nước, hoặc dưới sông hay biển, những thú đó ngươi được ăn. Nhưng tất cả các loài tạo vật không vây không vẩy sống dưới biển hay dưới sông, hoặc sống từng đàn hay sống giữa các sinh vật khác dưới nước, đều đáng gớm ghiếc. Vì các ngươi phải gớm ghiếc các loài này, nên các ngươi không được phép ăn thịt chúng và phải gớm ghiếc xác chết của chúng. Bất cứ loài nào không vây không vẩy sống dưới nước đều đáng gớm ghiếc cho các ngươi. Sau đây là những loài chim các ngươi phải gớm ghiếc và không được phép ăn, vì là những loài đáng gớm ghiếc; chim ưng, kên kên, chim ngạc, diều hâu đỏ, tất cả các loài chim diều đen, tất cả các loài quạ, cú mèo, chim ó ăn đêm, hải âu và tất cả các loài diều hâu, chim cú nhỏ, còng cọc, cú lớn, cú trắng, cú sa mạc, ó biển, con cò, tất cả các loại chim diệc, chim rẽ quạt và dơi. Tất cả các loài côn trùng có cánh và đi bốn chân đều đáng gớm ghiếc cho các ngươi. Tuy nhiên có một số vật có cánh và đi bốn chân các ngươi có phép ăn: đó là những vật chân có khớp để nhảy trên đất. Trong số những loài các ngươi được phép ăn này có các loài châu chấu, châu chấu sói đầu, dế, cào cào. Các loài côn trùng có cánh và bốn chân khác đều là vật các ngươi phải gớm ghiếc. Sau đây là những trường hợp các ngươi làm cho mình không tinh sạch: ai đụng đến xác các loài đó sẽ bị ô uế đến tối; ai lượm xác chết các loài này phải giặt áo xống mình và sẽ bị ô uế đến tối. Mọi loài vật có móng rẽ nhưng chân không chẻ hai hay không nhai lại đều là vật không tinh sạch cho các ngươi; ai đụng đến các loài vật này sẽ bị ô uế. Trong tất cả các loài vật đi bốn chân có vuốt là loài không tinh sạch cho các ngươi; ai đụng đến xác chết các loài này sẽ bị ô uế đến tối. Ai lượm xác các loài này phải giặt áo xống mình và sẽ bị ô uế đến tối. Đó là những loài vật không tinh sạch cho các ngươi. Trong các loài vật di chuyển sát trên mặt đất, đây là những loài không tinh sạch cho các ngươi: chuột nhũi, chuột nhắt, tất cả các loại rắn mối, cắc ké, kỳ đà, thằn lằn, kỳ nhông, cắc kè, Trong tất cả các loài di chuyển sát trên mặt đất, đó là những loài không sạch cho các ngươi. Ai đụng đến xác chết các loài đó sẽ bị ô uế đến tối. Khi một con trong các loài vật đó chết và rơi nhằm một đồ dùng, bất cứ dùng vào việc gì cũng trở thành ô uế, kể cả đồ dùng làm bằng gỗ, vải, da hay bao bố. Phải ngâm đồ dùng này trong nước. Nó bị ô uế cho đến tối và sau đó sẽ được tinh sạch. Nếu xác chết đó rơi nhằm một bình đất, những gì chứa trong bình đều bị ô uế và phải đập bể bình đi. Thức ăn bị nước trong bình này đổ nhằm sẽ bị ô uế: bất cứ thức uống gì chứa trong bình cũng bị ô uế. Bất cứ vật gì bị xác các con vật này rơi nhằm sẽ bị ô uế; dù vật này là bếp hay nồi cũng phải đập bể, vì chúng không tinh sạch nên các ngươi phải coi là những vật ô uế. Tuy nhiên, dòng suối hay hồ chứa nước vẫn được kể là tinh sạch, nhưng ai đụng đến xác chết đó phải bị ô uế. Nếu xác chết rơi trên hạt giống sẽ được gieo trồng, hạt giống vẫn được tinh sạch. Nhưng nếu hạt giống đã được tưới nước và xác chết rơi nhằm, hạt giống đó bị ô uế cho các ngươi. Nếu một con vật thuộc loại có phép ăn bị chết, ai đụng đến xác nó sẽ bị ô uế đến tối. Ai ăn xác chết đó phải giặt áo xống mình và sẽ bị ô uế cho đến tối, còn ai nhặt xác chết đó cũng phải giặt áo sống và bị ô uế đến tối. Tất cả các loài sâu bọ bò trên đất đều đáng gớm ghiếc và không được phép ăn. Các ngươi không được ăn bất cứ loài sâu bọ nào bò trên mặt đất, dù bò bằng bụng, bằng bốn chân hay nhiều chân; các loài vật này đều đáng gớm ghiếc. Các ngươi đừng làm mình ô uế vì các loại sâu bọ này. Đừng tự làm ô uế vì chúng hay để chúng làm ô uế. Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi; phải biệt mình riêng ra thánh và nên thánh, vì Ta là thánh. Đừng để mình bị ô uế vì bất cứ loài sâu bọ nào bò trên đất. Ta là CHÚA, Đấng đã đem các ngươi ra khỏi Ai-cập để làm Đức Chúa Trời các ngươi; vì vậy các ngươi phải nên thánh, vì Ta là thánh. Đấy là luật lệ liên hệ đến các loài súc vật, loài chim, các loài sinh vật sống dưới nước và các loài sâu bọ bò trên đất. Các ngươi phải phân biệt giữa tinh sạch và ô uế, giữa các loài sinh vật ăn được và các loài không được ăn. CHÚA phán dạy Môi-se: Con bảo dân Y-sơ-ra-ên: khi một phụ nữ có thai và sinh con trai, người này sẽ bị ô uế bảy ngày cũng như lúc kinh nguyệt. Vào ngày thứ tám đứa con trai sẽ chịu cắt bì nơi da qui đầu. Thời gian tẩy uế huyết là ba mươi ba ngày. Bà không được đụng đến một vật thánh hay vào đền thánh cho đến khi thời kỳ tẩy uế huyết đã qua. Trường hợp sinh con gái, sản phụ sẽ bị ô uế trong hai tuần lễ, như trong lúc kinh nguyệt, thời gian tẩy uế huyết là sáu mươi sáu ngày. Đến khi thời gian tẩy uế huyết chấm dứt, dù sinh con trai hay con gái, sản phụ phải đem đến cho thầy tế lễ tại cửa trại hội kiến một con chiên một tuổi làm tế lễ thiêu và một con bồ câu con hoặc chim gáy con để làm tế lễ chuộc tội. Thầy tế lễ sẽ dâng cả hai con sinh tế trước mặt CHÚA để chuộc tội cho sản phụ và bà sẽ được tinh sạch về xuất huyết.Đây là luật áp dụng cho phụ nữ khi sinh con trai hay con gái. Nếu không đủ sức dâng một con chiên con, sản phụ phải dâng hai con chim bồ câu hay hai chim gáy, một con làm tế lễ thiêu và con kia dùng làm tế lễ chuộc tội. Như vậy thầy tế lễ sẽ chuộc tội cho bà và bà sẽ được tinh sạch. CHÚA phán dạy Môi-se và A-rôn: Khi một người thấy trên da mình có chỗ sưng, hay nổi mụn nhọt hay đốm trắng có thể thành bệnh phung, người này phải được dẫn đến với A-rôn, hay đến với một con trai của A-rôn cũng làm thầy tế lễ. Thầy tế lễ phải khám chỗ đau trên da của người đó. Nếu thấy lông trên chỗ ấy hóa trắng và chỗ đau lõm xuống sâu hơn mặt da, đó là bệnh phung. Khi khám xong, thầy tế lễ phải tuyên bố người ấy không tinh sạch. Nhưng nếu chỗ mầu trắng đó không lõm sâu hơn mặt da và lông chỗ đó không hóa trắng, thầy tế lễ sẽ giữ riêng người đó trong bảy ngày. Sau bảy ngày, thầy tế lễ phải khám lại. Nếu thấy chỗ đau không thay đổi và không lan ra, thầy tế lễ phải giữ riêng người ấy bảy ngày nữa. Bảy ngày sau thầy tế lễ khám lại một lần nữa. Nếu thấy chỗ đau tái đi, không lan trên da, thầy tế lễ sẽ tuyên bố người ấy tinh sạch. Chỗ đau chỉ là một mụn nhọt thường. Người ấy phải giặt áo xống và sẽ được tinh sạch. Nhưng nếu mụt nhọt lan ra trên da sau khi người ấy đến với thầy tế lễ để được xác nhận là tinh sạch, người ấy phải đến trình diện với thầy tế lễ một lần nữa. Thầy tế lễ phải khám lại và nếu thấy mụt nhọt đã lan ra trên da, sẽ tuyên bố người ấy không tinh sạch vì mắc bệnh phung. Khi có người mắc chứng phung người ấy phải được dẫn đến thầy tế lễ. Thầy tế lễ phải khám người ấy. Nếu thấy trên da có chỗ sưng lên, có màu trắng, lông trên chỗ đó đã hóa trắng và có thịt đỏ tươi trong chỗ sưng, đó là bệnh phung kinh niên trên thân thể người ấy. Thầy tế lễ sẽ tuyên bố người đó không tinh sạch và không cần phải giữ riêng nữa, vì rõ ràng người ấy đã không tinh sạch. Nhưng nếu thấy chứng phung đã lan khắp cơ thể, từ đầu đến chân khắp nơi nào thầy tế lễ thấy được. Thầy tế lễ phải khám người ấy và nếu thấy chứng bệnh đã lan trên toàn thân, vì tất cả đã trở thành trắng, người đó tinh sạch, thầy tế lễ sẽ tuyên bố người ấy tinh sạch. Nhưng nếu có thịt đỏ xuất hiện trên thân thể, người ấy không tinh sạch. Khi thấy vết thịt đỏ tươi, thầy tế lễ sẽ tuyên bố người ấy không tinh sạch. Thịt đỏ tươi là không tinh sạch và người ấy đã mắc chứng phung. Nhưng nếu chỗ thịt đỏ tươi tái đi và trở thành trắng, người ấy phải đến gặp thầy tế lễ. Sau khi khám, nếu thầy tế lễ thấy chỗ đau đã trở thành màu trắng, sẽ tuyên bố người ấy tinh sạch và người ấy sẽ tinh sạch. Nếu một người có mụt nhọt và đã lành rồi, nhưng chỗ vừa có mụt nhọt lại sưng lên, có màu trắng hay đỏ tái, người ấy phải trình diện với thầy tế lễ. Thầy tế lễ sẽ khám, và nếu thấy chỗ đó lõm xuống sâu hơn mặt da và lông đã hóa trắng, thầy tế lễ sẽ tuyên bố người ấy không tinh sạch, vì chứng phung đã phát ra tại chỗ trước có mụt nhọt. Nhưng nếu khi khám, thầy tế lễ thấy không có lông trắng và chỗ đó không lõm xuống sâu hơn mặt da, nhưng đã tái đi, thầy tế lễ sẽ giữ riêng người ấy trong bảy ngày. Nếu vết đó lan ra trên da, thầy tế lễ sẽ tuyên bố người ấy không tinh sạch, vì là bệnh. Nhưng nếu chỗ đó không thay đổi và không lan ra, đó là một vết sẹo của mụn nhọt và thầy tế lễ sẽ tuyên bố người ấy tinh sạch. Nếu một người bị bỏng và chỗ da thịt bị bỏng trở nên vết trắng hồng hay đỏ tái hay trắng, thầy tế lễ phải khám vết đó, và nếu lông chỗ bị bỏng đã hóa trắng, và chỗ đó lõm sâu hơn mặt da, đó là chứng phung đã phát ra chỗ bị bỏng. Thầy tế lễ sẽ tuyên bố người ấy không tinh sạch, vì đó là chứng phung. Nhưng nếu khi khám, thầy tế lễ thấy không có lông trắng ở chỗ bỏng, chỗ đó không lõm sâu hơn mặt da nhưng đã tái đi, thầy tế lễ sẽ giữ riêng người ấy trong bảy ngày. Sau bảy ngày, thầy tế lễ sẽ khám người đó, và nếu thấy vết đỏ lan ra trên da, sẽ tuyên bố người ấy không tinh sạch, vì đó là chứng phung. Nhưng nếu vết không thay đổi, không lan ra trên da và đã tái đi, ấy là vết sưng phỏng, thầy tế lễ sẽ tuyên bố người ấy tinh sạch, vì đó là sẹo của chỗ bỏng. Nếu một người đàn ông hay đàn bà có vết lở lói trên đầu hay trên râu, thầy tế lễ sẽ khám vết lở. Nếu thấy vết ấy lõm sâu hơn mặt da, lông ở chỗ đó thưa và có màu vàng, thầy tế lễ sẽ tuyên bố người ấy không tinh sạch vì là vết phung trên đầu hay trên râu. Nhưng nếu khi khám thầy tế lễ thấy vết đó không lõm sâu hơn mặt da và không có lông đen, thầy tế lễ sẽ giữ riêng người ấy trong bảy ngày. Bảy ngày sau, thầy tế lễ sẽ khám vết lở và nếu thấy vết không lan ra, không có lông vàng và không lõm sâu hơn mặt da, người ấy sẽ cạo râu tóc, nhưng phải chừa vết lở ra, và thầy tế lễ sẽ giữ riêng người ấy bảy ngày nữa. Bảy ngày sau, thầy tế lễ khám vết lở, và nếu vết lở không lan ra trên da, không lõm sâu hơn mặt da, thầy tế lễ sẽ tuyên bố người ấy tinh sạch. Người ấy sẽ giặt áo xống mình và sẽ được tinh sạch. Nhưng nếu sau khi người ấy được tuyên bố tinh sạch, vết lở lan ra trên da, thầy tế lễ sẽ khám lại. Nếu thấy vết lở lan ra trên da, người ấy không tinh sạch và thầy tế lễ không cần tìm xem có lông vàng hay không. Tuy nhiên, nếu thầy tế lễ thấy vết lở không thay đổi và lông đen mọc lên ở chỗ đó, thì vết đã lành và người ấy tinh sạch. Thầy tế lễ sẽ tuyên bố người ấy tinh sạch. Khi một người đàn ông hay đàn bà có một đốm trắng trên da, thầy tế lễ phải khám họ: nếu thấy đốm đó trắng mờ thì đó chỉ là một chỗ lở phát trên da và người ấy vẫn tinh sạch. Khi một người rụng tóc và bị hói, người ấy tinh sạch. Khi một người rụng tóc phía trước đầu và trở thành hói trán, người ấy tinh sạch. Nhưng nếu ở chỗ hói trên đầu hay trên trán phát ra một đốm trắng hồng, đó là chứng phung phát ra chỗ đầu hói hay trán hói. Thầy tế lễ phải khám người ấy, nếu chỗ sưng trên đầu hay trên trán có màu trắng hồng giống như chứng phung, thì người ấy là người phung không tinh sạch. Thầy tế lễ sẽ tuyên bố người ấy không tinh sạch vì mắc chứng phung trên đầu. Người mắc chứng phung phải mặc quần áo xé rách, đầu tóc xõa, che bên dưới mặt mình lại và kêu lên: không tinh sạch! không tinh sạch! Hễ chừng nào còn chứng phung, người ấy là người không tinh sạch, phải sống một mình bên ngoài doanh trại. Khi áo xống bị mốc meo, dù bằng len hay bằng vải gai, dù trên canh hay chỉ, dù trên da hay trên vật bằng da, nếu vết mốc trên áo xống, trên da, trên canh hay chỉ có màu xanh xanh hay đo đỏ, đó là loại mốc meo và phải đem trình cho thầy tế lễ. Thầy tế lễ phải khám chỗ mốc meo và giữ riêng vật ấy trong bảy ngày. Sau bảy ngày thầy tế lễ khám lại, nếu vết mốc meo đã lan ra trên áo xống, trên canh hay chỉ, hay trên vật bằng da, thì đó là chứng phung ăn lan, áo xống đó không tinh sạch. Thầy tế lễ phải đốt món áo xống, dù trên canh hay chỉ bằng len hay bằng vải gai, hay đồ vật bằng da đã bị mốc meo, vì loại phung đó ăn lan; vật đó phải bị thiêu bằng lửa. Nhưng nếu thầy tế lễ khám và thấy vết mốc không lan trên áo xống, trên canh hay chỉ, hoặc trên vật bằng da, thầy tế lễ bảo đem giặt món đồ đó, rồi giữ riêng nó trong bảy ngày nữa. Thầy tế lễ khám lại sau khi đem giặt, và nếu thấy vết mốc dù không lan ra nhưng không đổi mầu, món đồ đó không tinh sạch. Phải đem thiêu bằng lửa, dù vết mốc meo ở bề phải hay bề trái. Nếu thầy tế lễ khám thấy sau khi giặt vết mốc phai đi, thầy tế lễ sẽ xé bỏ phần bị mốc, hoặc trên áo xống, trên da, trên canh hay chỉ. Nhưng nếu mốc lại xuất hiện trên áo xống, trên da, trên canh hay chỉ và vết mốc đó lan rộng, món đồ bị mốc meo đó phải bị thiêu bằng lửa. Nhưng nếu sau khi đem giặt áo xống, canh hay chỉ hay món đồ bằng da và vết mốc biến mất, món đồ đó phải được giặt một lần nữa và sẽ tinh sạch. Đấy là luật lệ về mốc meo trên áo xống bằng len hay bằng vải gai, trên canh hay chỉ, hay trên món đồ bằng da, để tuyên bố món nào tinh sạch món nào không tinh sạch. CHÚA phán dạy Môi-se: Đây là luật lệ áp dụng cho người phung khi được tinh sạch và được dẫn đến với thầy tế lễ: thầy tế lễ phải ra ngoài doanh trại và khám người ấy. Nếu thấy người ấy đã khỏi bệnh phung, thầy tế lễ sẽ bảo đem đến cho người được khỏi bệnh hai con chim sống, thuộc loại tinh sạch, gỗ bá hương, chỉ sợi màu đỏ, cây bài hương. Thầy tế lễ ra lệnh giết một con chim trong chậu bằng đất trên dòng nước. Sau đó thầy tế lễ đem con chim còn sống, cùng với gỗ bá hương, chỉ sợi màu đỏ và cây bài hương, nhúng vào huyết con chim đã bị giết trên dòng nước, và rảy huyết bảy lần trên người khỏi bệnh phung rồi tuyên bố người ấy tinh sạch. Sau đó thầy tế lễ thả con chim còn sống ra đồng trống. Người được tẩy sạch phải giặt áo xống, cạo sạch râu tóc và tắm trong nước, rồi sẽ được sạch. Sau đó người ấy có thể trở vào doanh trại, nhưng phải ở bên ngoài lều của mình trong bảy ngày. Bảy ngày sau, người ấy lại phải cạo sạch hết tóc, râu, lông mày và lông trong người, phải giặt áo xống, tắm trong nước và được tinh sạch. Đến ngày thứ tám, người ấy phải đem đến hai con chiên đực không tì vết và một chiên con cái một tuổi và không tì vết, cùng với ba phần mười ê-pha bột mịn pha dầu để làm của lễ chay và một lót dầu Thầy tế lễ làm lễ tẩy sạch sẽ đem người được tẩy sạch và của lễ của người ấy đến trình diện trước mặt CHÚA, tại cửa trại hội kiến. Thầy tế lễ bắt một con chiên đực dâng làm của lễ chuộc tội, cùng với một lót dầu, và dâng các món này lên làm của lễ đưa qua đưa lại trước mặt CHÚA. Thầy tế lễ phải giết con chiên này trong nơi thánh, tại nơi giết sinh tế làm của lễ chuộc tội và của lễ thiêu. Cũng như sinh tế chuộc tội, sinh tế chuộc lỗi thuộc về thầy tế lễ và là một món rất thánh. Thầy tế lễ sẽ lấy một ít huyết của sinh tế chuộc lỗi, đem xức lên trái tai bên phải, lên ngón cái tay phải và ngón cái chân phải của người được tẩy sạch. Rồi thầy tế lễ sẽ đổ một ít dầu vào lòng bàn tay trái mình, nhúng ngón trỏ của bàn tay phải mình vào dầu trong lòng bàn tay trái, rồi dùng ngón tay rảy dầu bảy lần trước mặt CHÚA. Thầy tế lễ lấy một ít dầu trong lòng bàn tay, xức lên trái tai bên phải, lên ngón cái tay phải và ngón cái chân phải của người được tẩy sạch; phần còn lại để lên trên huyết của con sinh tế chuộc lỗi. Phần dầu còn lại trong lòng bàn tay được thầy tế lễ đem xức lên đầu của người được tẩy sạch để chuộc tội cho người ấy trước mặt CHÚA. Thầy tế lễ dâng sinh tế chuộc tội để chuộc tội cho người được tẩy sạch ô uế. Sau đó thầy tế lễ giết sinh tế làm của lễ thiêu, đem nó dâng trên bàn thờ cùng với của lễ chay để chuộc tội cho người ấy và người ấy sẽ được tinh sạch. Tuy nhiên, nếu người ấy nghèo, không đủ sức dâng các của lễ trên, người ấy sẽ dâng một chiên con đực để làm của lễ chuộc lỗi theo cách dâng đưa qua đưa lại, cùng với một phần mười ê-pha bột mịn pha dầu làm của lễ chay và một lót dầu, hai chim gáy hay hai chim bồ cầu con, theo khả năng mình, một con dùng làm của lễ chuộc tội và một con làm của lễ thiêu. Đến ngày thứ tám người ấy mang các con sinh tế làm lễ tẩy sạch cho mình đến cửa trại hội kiến, trước mặt CHÚA. Thầy tế lễ đem con chiên con dành làm của lễ chuộc lỗi, cùng với lót dầu và đưa qua đưa lại trước mặt CHÚA làm của lễ đưa qua đưa lại. Rồi thầy tế lễ giết chiên con làm lễ chuộc lỗi, lấy một ít huyết con chiên xức lên trái tai bên phải, trên ngón cái tay phải và ngón cái chân phải của người được tẩy sạch. Thầy tế lễ đổ một ít dầu vào lòng bàn tay trái mình, rồi dùng ngón trỏ của bàn tay phải rảy dầu lấy từ lòng bàn tay mình bảy lần trước mặt CHÚA. Thầy tế lễ lấy một ít dầu từ lòng bàn tay mình, đem xức lên những chỗ đã xức huyết con sinh tế chuộc lỗi, tức là lên trái tai phải, ngón cái tay phải và ngón cái chân phải của người được tẩy sạch. Phần dầu còn lại trong lòng bàn tay được thầy tế lễ đem xức lên đầu của người được tẩy sạch, để chuộc tội cho người ấy trước mặt CHÚA. Sau đó thầy tế lễ dâng hai con chim gáy hay hai chim bồ câu con, tùy theo khả năng của người ấy, một con làm của lễ chuộc tội và con kia làm của lễ thiêu, cùng với của lễ chay. Như vậy thầy tế lễ chuộc tội cho người ấy trước mặt CHÚA. Đó là những luật lệ áp dụng cho người đã mắc bệnh phung, nhưng không đủ khả năng dâng các tế lễ để làm lễ tẩy sạch cho mình. CHÚA phán dạy Môi-se và A-rôn: Khi các ngươi vào đất Ca-na-an, là xứ Ta cho các ngươi làm sản nghiệp, nếu Ta giáng mốc meo trên một nhà nào trong xứ đó, người chủ nhà phải đi trình với thầy tế lễ: tôi thấy trong nhà tôi có cái gì giống như mốc meo. Trước khi vào khám nhà đó, thầy tế lễ ra lệnh đem hết đồ đạc trong nhà ra, để không có một món đồ đạc nào trong nhà bị tuyên bố là không tinh sạch. Thầy tế lễ sẽ khám chỗ mốc meo trên tường; nếu thấy chỗ mốc meo có chỗ lõm màu xanh xanh hay đỏ đỏ và dường như sâu hơn mặt tường, thầy tế lễ sẽ bước ra khỏi cửa nhà và niêm phong nhà lại trong bảy ngày. Sau bảy ngày, thầy tế lễ trở lại để khám nhà. Nếu vết mốc meo lan rộng trên tường, thầy tế lễ sẽ ra lệnh gở các tảng đá bị mốc meo và đem đi vứt vào một nơi không tinh sạch bên ngoài thành. Thầy tế lễ sẽ bảo cạo tất cả các bức tường trong nhà, rồi hốt hết bụi cạo ra, đem đổ vào một nơi không tinh sạch bên ngoài thành. Sau đó, cho người lấy đá khác thay thế các tảng đá đã gỡ bỏ và tô hồ trở lại. Nếu sau khi đã gở bỏ đá, đã cạo sạch nhà và tô hồ lại mà mốc meo còn xuất hiện, thầy tế lễ sẽ khám nhà đó và nếu thấy mốc meo đã lan rộng trong nhà, thì đó là chứng phung ăn lan và nhà đó không tinh sạch. Người ta sẽ phá dỡ nhà ấy, đem đá, cây gỗ và hồ ra ngoài thành, đổ tại một nơi không tinh sạch. Ai vào nhà trong khi bị niêm phong sẽ bị ô uế đến tối. Ai ngủ hay ăn trong nhà ấy phải giặt áo xống mình. Nhưng nếu khi khám nhà và thấy mốc meo không lan ra sau khi nhà đã được tô hồ, thầy tế lễ sẽ tuyên bố nhà ấy tinh sạch vì đã hết mốc meo. Để làm tẩy sạch nhà, thầy tế lễ sẽ dùng hai con chim, một ít gỗ bá hương, chỉ sợi màu đỏ và cây bài hương. Thầy tế lễ sẽ giết một con chim trong chậu đất trên dòng nước, đem con chim còn sống, cùng với gỗ bá hương, cây bài hương và chỉ sợi mầu đỏ nhúng vào huyết con chim đã bị giết và dòng nước chảy rồi rảy lên nhà bảy lần. Thầy tế lễ sẽ tẩy sạch nhà với huyết chim, với dòng nước chảy, con chim sống, gỗ bá hương, cây bài hương và với chỉ sợi màu đỏ. Sau đó thầy tế lễ thả con chim còn sống ra đồng trống, bên ngoài thành. Như vậy thầy tế lễ làm lễ chuộc tội cho nhà và nhà sẽ được tinh sạch. Trên đây là những luật lệ áp dụng cho chứng bệnh phung và vết ngứa, cho vết mốc meo trên áo xống hay trong nhà, cho vết sưng, ung nhọt hay chỗ lở, để xác định cái gì tinh sạch, cái gì không tinh sạch. Đó là luật lệ về các chứng phung. CHÚA phán dạy Môi-se và A-rôn: Các con truyền lại cho Y-sơ-ra-ên rằng: Khi có chất lỏng từ thân thể của một người đàn ông xuất ra, chất xuất ra đó là ô uế. Sau đây là các trường hợp ô uế vì chất từ thân thể xuất ra, dù cứ tiếp tục xuất ra, hay đã ngưng xuất ra, đương sự cũng bị ô uế: Giường người ấy nằm và bất cứ vật gì người ấy ngồi lên đều bị ô uế. Ai đụng đến giường người ấy phải giặt áo xống, tắm bằng nước và bị ô uế đến tối. Ai ngồi trên bất cứ vật gì người ấy ngồi, phải giặt áo xống, tắm bằng nước và bị ô uế đến tối. Ai đụng đến người có chất đó xuất ra phải giặt áo xống, tắm bằng nước và bị ô uế đến tối. Nếu người có chất lỏng xuất ra nhổ nhằm một người tinh sạch, người này phải giặt áo xống, tắm bằng nước và bị ô uế đến tối. Bất cứ vật gì người ấy cưỡi lên, vật ấy sẽ bị ô uế, và ai đụng đến những vật gì người ấy ngồi lên sẽ bị ô uế đến tối. Người bưng các vật này phải giặt áo xống, tắm bằng nước và bị ô uế đến tối. Nếu người ấy sờ ai khi chưa rửa tay bằng nước, người bị sờ phải giặt áo xống, tắm bằng nước và bị ô uế đến tối. Bình bằng đất bị người ấy sờ đến, phải đập bể, còn dụng cụ bằng gỗ phải được rửa sạch bằng nước. Khi chất lỏng không còn xuất nữa, người ấy phải tính bảy ngày từ ngày ngưng để được tinh sạch, phải giặt áo xống, phải tắm tại một dòng nước chảy và được sạch. Đến ngày thứ tám, người ấy phải đem hai con chim gáy hay hai chim bồ câu con đến cửa trại hội kiến trước mặt CHÚA và trao cho thầy tế lễ. Thầy tế lễ sẽ dâng hai con chim này, một con làm của lễ chuộc tội và con kia làm của lễ thiêu. Như vậy thầy tế lễ sẽ chuộc tội trước mặt CHÚA cho người xuất chất lỏng. Khi một người đàn ông xuất tinh, người ấy phải tắm toàn thân trong nước và sẽ bị ô uế đến tối. Bất cứ áo xống hay dụng cụ bằng da nào dính tinh, phải đem giặt trong nước và bị ô uế đến tối. Khi một người đàn ông giao hợp với một người đàn bà và xuất tinh, cả hai phải tắm trong nước và bị ô uế đến tối. Khi một người đàn bà có kinh, thời gian ô uế vì kinh nguyệt là bảy ngày và ai đụng đến người ấy sẽ bị ô uế đến tối. Bất cứ vật gì người ấy nằm lên hay ngồi lên trong thời gian kinh nguyệt đều ô uế. Ai đụng đến người ấy phải giặt áo xống, tắm bằng nước và bị ô uế đến tối. Ai đụng đến vật gì người ấy ngồi lên phải giặt áo xống, tắm bằng nước và bị ô uế đến tối. Ai đụng đến giường người ấy nằm hay vật gì người ấy ngồi lên, sẽ bị ô uế đến tối. Nếu một người đàn ông giao hợp với người đàn bà đang có kinh và huyết người này vấy nhằm sẽ bị ô uế bảy ngày; giường nào người đàn ông này nằm cũng sẽ bị ô uế. Nếu một người đàn bà xuất huyết nhiều ngày ngoài thời gian kinh nguyệt, hoặc huyết tiếp tục ra sau thời gian kinh nguyệt, người này bị ô uế suốt thời gian xuất huyết, cũng như khi có kinh. Bất cứ giường nào người ấy nằm hay vật gì người ấy ngồi lên trong thời gian xuất huyết đều bị ô uế, cũng như khi có kinh. Ai đụng đến các món đồ này sẽ bị ô uế, phải giặt áo xống, tắm bằng nước và bị ô uế đến tối. Khi huyết cầm lại, người đàn bà đã bị xuất huyết phải tính bảy ngày và sau bảy ngày này, người ấy được sạch. Vào ngày thứ tám, người ấy phải đem hai chim gáy hay hai chim bồ câu con đến với thầy tế lễ tại trước cửa trại hội kiến. Thầy tế lễ sẽ dâng một con làm của lễ chuộc tội và dâng con kia làm của lễ thiêu. Như vậy, thầy tế lễ chuộc tội trước mặt CHÚA cho người đàn bà đã bị ô uế vì xuất huyết. Như vậy các con sẽ phân cách dân Y-sơ-ra-ên khỏi những gì làm cho họ ô uế, để họ không chết trong sự ô uế mình khi làm ô nhiễm đền tạm Ta ở giữa vòng họ. Đó là những luật lệ áp dụng cho đàn ông bị ô uế vì thân thể xuất chất lỏng hay vì xuất tinh; áp dụng cho đàn bà trong thời gian có kinh, cho bất cứ đàn ông hay đàn bà xuất chất lỏng và cho người đàn ông giao hợp với đàn bà đang bị ô uế. CHÚA phán với Môi-se sau khi hai con trai của A-rôn chết vào lúc họ đến gần CHÚA. CHÚA phán dạy Môi-se rằng: Con dặn A-rôn, anh con, không phải bất cứ lúc nào muốn là có thể vào nơi chí thánh, phía sau bức màn là nơi có nắp chuộc tội trên rương giao ước; nếu bất tuân sẽ chết, vì Ta có mặt trong đám mây bên trên nắp chuộc tội. Đây là cách A-rôn vào trong nơi thánh: phải đem theo một con bò đực làm của lễ chuộc tội và một con chiên đực làm của lễ thiêu. A-rôn phải mặc áo dài thánh bằng vải gai, quần cụt lót bằng vải gai mặc sát người, thắt lưng bằng vải gai thắt quanh người và đội một cái khăn bằng vải gai. Vì các món này đều thánh nên A-rôn phải tắm mình trong nước trước khi mặc vào. Cộng đồng Y-sơ-ra-ên phải đem đến cho người hai con dê đực làm của lễ chuộc tội và một con chiên đực làm của lễ thiêu. A-rôn phải dâng con bò đực làm sinh tế chuộc tội cho chính mình và cho nhà mình. Sau đó người sẽ đem hai con dê, trình trước mặt CHÚA tại cửa trại hội kiến. Người sẽ rút thăm giữa hai con dê để biết con nào thuộc về CHÚA và con nào gánh tội. A-rôn dâng con dê đã trúng thăm thuộc về CHÚA để làm sinh tế chuộc tội. Nhưng con trúng thăm làm con dê gánh tội vẫn còn sống được trình cho CHÚA, và được dùng để chuộc tội bằng cách thả nó ra sa mạc làm con dê gánh tội. A-rôn sẽ dẫn con bò đực dùng làm sinh tế chuộc tội cho mình đến, rồi giết nó và dâng lên để chuộc tội cho chính mình và nhà mình. Người sẽ lấy than đang cháy trên bàn thờ bỏ đầy lư hương và bốc hai nắm hương thơm xay mịn và đem vào phía sau bức màn. Người phải bỏ hương vào lửa trước mặt CHÚA, để khói hương bay lên phủ kín nắp chuộc tội trên rương giao ước, nhờ đó người khỏi chết. Người phải lấy một ít huyết của con bò đực, dùng ngón tay rảy huyết lên phần đầu nắp chuộc tội, rồi cũng dùng ngón tay rảy huyết bảy lần trước nắp này. Sau đó A-rôn sẽ giết con dê đực làm tế lễ chuộc tội cho dân chúng, đem huyết nó vào phía sau bức màn và rảy huyết trên nắp chuộc tội và trước nắp ấy, như người đã rảy huyết con bò đực. Như vậy người làm lễ chuộc tội trong nơi thánh vì tình trạng ô uế và vi phạm của dân Y-sơ-ra-ên và vì đủ thứ gian ác của họ. Người cũng chuộc tội cho trại hội kiến vì nơi này cũng ở giữa sự ô uế của họ. Không ai được phép có mặt trong trại hội kiến từ khi A-rôn vào cho đến khi đã làm xong lễ chuộc tội trong nơi thánh cho chính mình, cho nhà mình, và cho toàn thể nhân dân Y-sơ-ra-ên và từ đó đi ra. Sau đó, A-rôn ra đến trước bàn thờ trước mặt CHÚA và làm lễ chuộc tội cho bàn thờ. Người sẽ lấy một ít huyết con bò đực và một ít huyết con dê đực bôi trên tất cả các sừng bàn thờ. Người sẽ lấy ngón tay rảy huyết bảy lần trên bàn thờ, tẩy sạch và thánh hóa bàn thờ khỏi sự ô uế của dân Y-sơ-ra-ên. Khi đã làm xong lễ chuộc tội cho nơi thánh, trại hội kiến và bàn thờ, A-rôn sẽ đem con dê đực còn sống đến. Người đặt hai tay lên đầu con dê, xưng nhận tất cả gian ác và vi phạm của dân Y-sơ-ra-ên, để các tội lỗi đó trên đầu con dê và giao nó cho một người đã chỉ định để thả vào sa mạc. Con dê sẽ mang trên nó tất cả tội lỗi của họ và được dẫn đến một nơi cô tịch, tại đó người kia sẽ thả cho nó đi trong sa mạc. Rồi A-rôn đi vào trại hội kiến cởi ra tất cả những y phục bằng vải gai người đã mặc trước khi vào nơi thánh, và để tất cả các y phục này ở đó. Người sẽ tắm trong nước tại một nơi thánh, mặc lại y phục thường của mình, rồi dâng của lễ thiêu cho chính mình và cho nhân dân để chuộc tội cho chính mình và cho nhân dân, và đốt mỡ của sinh tế chuộc tội trên bàn thờ. Người đã đem thả con dê gánh tội trong sa mạc phải mặc áo xống, tắm trong nước và sau đó mới được phép trở vào doanh trại. Con bò đực và dê đực dùng làm sinh tế chuộc tội mà huyết đã được A-rôn đem vào nơi thánh làm lễ chuộc tội, sẽ được đem ra bên ngoài doanh trại và đốt đi, cả da, thịt và phân. Người đốt hai con sinh tế này phải giặt áo xống và tắm trong nước; sau đó mới được trở vào doanh trại. Đây là một quy luật vĩnh viễn: vào ngày mười tháng bảy, mọi người, kể cả người bản xứ lẫn ngoại kiều, đều phải thực hành khổ hạnh, nghỉ tất cả các công việc, vì trong ngày đó các ngươi được chuộc tội và tẩy sạch tất cả tội lỗi mình. Trước mặt CHÚA, các ngươi được tẩy sạch. Đó là một ngày Sa-bát nghỉ ngơi và các ngươi phải thực hành khổ hạnh. Đây là một quy luật vĩnh viển. Thầy tế lễ được xức dầu và tấn phong để kế nghiệp cha mình làm thầy tế lễ sẽ đứng ra làm lễ chuộc tội. Người ấy sẽ mặc bộ áo lễ thánh bằng vải gai, và làm lễ chuộc tội cho nơi chí thánh, trại hội kiến, bàn thờ, cho các thầy tế lễ và cho nhân dân. Đây là một quy luật vĩnh viễn cho các ngươi: lễ chuộc tội phải được thực hiện mỗi năm một lần, vì tội của dân Y-sơ-ra-ên.Lễ này được thực hiện đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se. CHÚA phán dạy Môi-se: Con nói với A-rôn, các con trai người cùng với toàn dân Y-sơ-ra-ên và bảo họ rằng đây là mạng lệnh của CHÚA truyền dạy: Người Y-sơ-ra-ên nào giết một con bò, chiên con hay dê làm sinh tế, hoặc ở trong doanh trại hay bên ngoài doanh trại, mà không mang đến cửa trại hội kiến để dâng làm của lễ cho CHÚA trước đền tạm của Ngài, thì người ấy bị kể là đã phạm tội làm đổ huyết. Người có tội làm đổ huyết phải bị truất khỏi cộng đồng dân sự. Như vậy dân Y-sơ-ra-ên sẽ đem đến trước mặt CHÚA những sinh tế họ giết ngoài đồng trống. Họ phải đem các sinh tế đến cho thầy tế lễ, tức là đem đến cho CHÚA, tại cửa trại hội kiến và dâng lên làm tế lễ cầu an. Thầy tế lễ sẽ rảy huyết sinh tế trên bàn thờ CHÚA tại cửa trại hội kiến và thiêu mỡ để lấy mùi thơm cho CHÚA. Họ không được tiếp tục giết sinh tế để dâng cho thần Dê, là những tà thần họ vẫn thông dâm. Đây là một qui luật vĩnh viễn, cho họ cũng như cho các thế hệ mai sau. Con cũng bảo họ rằng: Bất cứ người Y-sơ-ra-ên hay ngoại kiều nào dâng của lễ thiêu hay sinh tế mà không mang đến cửa trại hội kiến để dâng lên cho CHÚA người đó phải bị truất khỏi nhân dân. Ta sẽ chống nghịch người Y-sơ-ra-ên hay ngoại kiều nào ăn bất kỳ huyết gì và sẽ truất người đó khỏi nhân dân. Vì sự sống của xác thịt ở trong huyết và Ta đã ban huyết cho các ngươi trên bàn thờ để chuộc tội lỗi linh hồn các ngươi; chính huyết, tức là sự sống sẽ chuộc tội các ngươi. Do đó Ta phán dạy dân Y-sơ-ra-ên: Không một ai được phép ăn huyết, kể cả người Y-sơ-ra-ên và ngoại kiều sống giữa vòng các ngươi. Khi một người Y-sơ-ra-ên hay một ngoại kiều sống giữa vòng các ngươi đi săn và giết một con thú hay con chim thuộc loại được phép ăn thịt, người đó phải làm cho chảy hết huyết và lấy đất lấp huyết đó lại, vì sự sống của mọi xác thịt đều ở trong huyết chúng. Do đó Ta đã phán dạy dân Y-sơ-ra-ên “Các ngươi không được phép ăn huyết của bất cứ loài vật nào, vì sự sống trong xác thịt là huyết của nó. Bất kỳ ai ăn huyết sẽ bị trục xuất.” Người nào, dù là người bản xứ hay ngoại kiều, ăn con vật đã chết hay bị thú rừng cắn xé, phải giặt áo xống, tắm trong nước và bị ô uế đến chiều tối; sau đó mới được tinh sạch. Người ấy phải mang tội nếu không giặt áo xống và không tắm trong nước. CHÚA phán dạy Môi-se Con nói với dân Y-sơ-ra-ên và bảo họ rằng: Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của các ngươi. Các ngươi đừng làm những gì người ta làm trong xứ Ai-cập là nơi các ngươi từng sinh sống, cũng đừng làm những gì người ta làm trong xứ Ca-na-an, là nơi Ta sẽ dẫn các ngươi vào. Đừng bắt chước thói tục của họ. Các ngươi phải tuân theo các sắc lệnh Ta và giữ gìn quy luật Ta. Hãy tuân theo chúng. Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi. Hãy giữ các quy luật và sắc lệnh của Ta, vì ai tuân theo sẽ nhờ đó mà sống. Ta là CHÚA. Không ai được có quan hệ tình dục với một người bà con gần. Ta là CHÚA. Đừng sỉ nhục cha ngươi vì có quan hệ tình dục với mẹ mình. Bà ấy là mẹ ngươi; không được có quan hệ tình dục với bà. Đừng có quan hệ tình dục với mẹ kế của mình, vì như vậy là sỉ nhục cha mình. Đừng có quan hệ tình dục với chị em ruột, chị em cùng một cha hay chị em cùng mẹ, dù chị em ấy được sinh trong nhà mình hay sinh ở nơi khác. Đừng có quan hệ tình dục với cháu nội hay cháu ngoại mình; làm như vậy là sỉ nhục chính mình. Đừng có quan hệ tình dục với em một cha khác mẹ, vì là em gái ngươi. Đừng có quan hệ tình dục với chị em của cha ngươi, vì là bà con gần của cha ngươi. Đừng có quan hệ tình dục với chị em của mẹ ngươi, vì là bà con gần của mẹ ngươi. Đừng làm sỉ nhục anh em của cha ngươi vì có quan hệ tình dục với vợ của họ; người ấy là bác gái hay thím ngươi. Đừng có quan hệ tình dục với dâu ngươi, vì là vợ của con trai ngươi; không được có quan hệ tình dục với con dâu mình. Đừng có quan hệ tình dục với vợ của anh em ngươi, vì làm như vậy là sỉ nhục anh em mình. Đừng lấy một người đàn bà luôn với con gái, hoặc với cháu nội hay cháu ngoại của người ấy vì họ là bà con gần với nhau. Đó là một điều ác. Đừng cưới chị em của vợ mình làm vợ bé và có quan hệ tình dục với người nầy đang khi vợ còn sống. Đừng giao hợp với một người đàn bà trong thời gian người này ô uế vì kinh nguyệt. Đừng gian dâm với vợ láng giềng mà làm cho mình ô uế với người ấy. Đừng dâng con gái mình làm sinh tế cho thần Mô-lóc vì các ngươi không được làm ô danh Đức Chúa Trời các ngươi. Ta là CHÚA. Đừng ăn nằm với một người đàn ông như cách người ta ăn nằm với đàn bà; đó là một tội đáng ghê tởm. Đừng giao hợp với thú vật và làm cho mình ô uế với nó. Đàn bà cũng không đến với thú vật để giao hợp, đó là một việc tà ác. Đừng để cho các ngươi ô uế vì các thói tục đó, vì đó là cách các dân tộc Ta sẽ đuổi đi trước mặt các ngươi, đã tự làm cho chúng nó ô uế. Đến đất đai cũng bị ô uế, nên khi Ta phạt chúng nó vì các tội lỗi đó, đất sẽ mửa chúng nó ra. Nhưng các ngươi phải giữ các quy luật và sắc lệnh Ta. Cả dân bản xứ lẫn ngoại kiều đều không được làm bất cứ việc nào trong các việc đáng ghê tởm đó, vì các dân tộc sống trong xứ trước các ngươi đã làm tất cả các việc ghê tởm đó và đã làm cho đất thành ô uế. Nếu các ngươi làm ô uế đất, đất cũng sẽ mửa các ngươi như đã mửa các dân tộc ở đó trước các ngươi. Ai phạm một trong các tội đáng ghê tởm đó sẽ phải bị trục xuất khỏi nhân dân. Vậy, các ngươi phải làm theo lời Ta, không được làm theo các phong tục đáng ghê tởm các dân tộc ấy đã làm mà làm cho các ngươi ô uế với chúng nó. Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi. CHÚA phán dạy Môi-se: Con nói với toàn thể Y-sơ-ra-ên và bảo họ rằng: Các ngươi phải thánh, vì Ta, CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi là thánh. Ai nấy phải tôn kính cha mẹ mình và phải giữ ngày Sa-bát của Ta, Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi. Đừng hướng về hình tượng và làm cho mình các thần bằng kim khí đúc. Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi. Khi các ngươi dâng tế lễ cầu an cho CHÚA, phải dâng cho đúng cách để của lễ ấy được nhậm; phải ăn lễ vật trong ngày dâng hay trong ngày hôm sau; phần còn thừa qua ngày thứ ba phải đốt hết. Nếu ăn phần còn lại trong ngày thứ ba, phần đó là vật gớm ghiếc và của lễ không được chấp nhận. Người ăn sẽ mang tội vì đã vi phạm vật thánh của CHÚA. Người ấy phải bị trục xuất khỏi nhân dân. Khi gặt hái mùa màng của đất đai mình, đừng gặt tận góc đồng cũng đừng mót hoa quả còn sót lại. Đừng hái nho mót lại lần thứ nhì cũng đừng lượm những trái rơi xuống đất. Phải để những trái đó cho người nghèo và ngoại kiều. Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi. Đừng trộm cắp. Đừng dối trá. Đừng lừa gạt lẫn nhau. Đừng lấy danh Ta thề dối mà xúc phạm đến danh Đức Chúa Trời các ngươi. Ta là CHÚA. Đừng ức hiếp, cướp giựt láng giềng. Đừng giữ tiền công của người mình mướn cho đến hôm sau. Đừng rủa người điếc cũng đừng để đá làm vấp chân trước người mù, nhưng phải kính sợ Đức Chúa Trời. Ta là CHÚA. Đừng phán đoán bất công; đừng thiên vị đối với người nghèo, cũng đừng nể nang người có quyền thế, nhưng phải phân xử người lân cận ngươi cách công minh. Đừng đi phao vu trong dân chúng. Đừng mưu hại mạng sống kẻ lân cận ngươi. Ta là CHÚA. Đừng để lòng ghen ghét anh em ngươi. Phải quở trách láng giềng để ngươi khỏi phải mang tội vì người ấy. Đừng tìm cách báo thù cũng đừng mang oán hận người đồng hương, nhưng phải yêu thương người lân cận như chính bản thân. Ta là CHÚA. Phải vâng giữ các quy luật Ta.Đừng cho thú vật khác loại giao hợp nhau,đừng gieo hai loại hạt giống trên một cánh đồng,đừng mặc y phục dệt bằng vải làm bằng hai loại vật liệu. Nếu người đàn ông nào ngủ với một phụ nữ là nô lệ đã hứa gả cho một người khác nhưng chưa được chuộc hay chưa được trả tự do, phải có hình phạt xứng đáng nhưng không xử tử họ, vì nữ nô lệ chưa được phóng thích. Tuy nhiên, người đàn ông phải đem một con chiên đực đến cửa trại hội kiến để dâng cho CHÚA làm của lễ chuộc lỗi. Thầy tế lễ sẽ dâng con chiên đực làm của lễ chuộc tội trước mặt CHÚA để chuộc tội người ấy đã phạm tội và tội đó sẽ được tha. Khi các ngươi đã vào đất hứa và trồng bất cứ loại cây ăn trái nào, phải coi trái của cây đó là trái cấm. Trong ba năm các ngươi phải coi trái cây đó là trái cấm và không được ăn. Qua năm thứ tư, tất cả trái cây đó đều thánh và phải đem dâng cho CHÚA để tôn vinh Ngài. Đến năm thứ năm, các ngươi được phép ăn trái cây đó. Như vậy mùa màng các ngươi sẽ gia tăng. Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi. Đừng ăn thịt chưa sạch huyết. Đừng hành nghề bói toán hay pháp thuật. Đừng cắt tóc hai bên thái dương cũng đừng cắt mép râu. Đừng cắt thân thể vì người chết, cũng đừng xâm các dấu hiệu trên mình. Ta là CHÚA. Đừng làm sỉ nhục con cái các ngươi vì bắt nó hành nghề mãi dâm và làm cho đất đầy dẫy mãi dâm và tội ác. Phải giữ ngày Sa-bát Ta và tôn kính nơi thánh Ta. Ta là CHÚA. Đừng cầu hỏi đồng bóng hay phù thủy để khỏi bị họ làm ô uế. Ta là CHÚA Đức Chúa Trời các ngươi. Phải đứng dậy khi thấy người già cả, phải tôn trọng người cao niên và sùng kính Đức Chúa Trời các ngươi. Ta là CHÚA. Đừng bạc đãi ngoại kiều sống trong xứ các ngươi. Phải đối xử với họ như với người bản xứ. Phải yêu thương họ như chính bản thân, vì các ngươi vốn là ngoại kiều ở Ai-cập. Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi. Đừng dùng các tiêu chuẩn bất chính trong khi đo chiều dài, cân trọng lượng và đếm số lượng. Phải dùng cân đúng, trái cân đúng, ê-pha và hin đúng. Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi, Đấng đã đem các ngươi ra khỏi Ai-cập. Phải giữ và làm theo các quy luật và sắc lệnh của Ta. Ta là CHÚA. CHÚA phán dạy Môi-se: Con nói với dân Y-sơ-ra-ên rằng: Bất kỳ người Y-sơ-ra-ên hay ngoại kiều nào đem con cái mình dâng cho thần Mô-lóc phải bị xử tử. Nhân dân sẽ ném đá người ấy. Ta sẽ đối nghịch với người ấy và sẽ khai trừ nó khỏi nhân dân vì khi dâng con cái mình cho Mô-lóc, nó đã làm ô uế nơi thánh Ta và xúc phạm danh thánh Ta. Nếu nhân dân che mắt làm ngơ khi nó đem con dâng cho Mô-lóc và không xử tử nó, Ta sẽ đối nghịch nó và nhà nó, khai trừ nó và những kẻ đồng lõa với nó vì tội thông dâm với Mô-lóc. Ta đối nghịch với người cầu hỏi đồng bóng và phù thủy mà thông dâm với chúng nó, và sẽ khai trừ nó khỏi nhân dân. Phải đặt mình riêng biệt và thánh hóa, vì Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi. Phải giữ và làm theo các quy luật của Ta. Ta là CHÚA, Đấng thánh hóa các ngươi. Ai rủa cha hay mẹ mình phải bị xử tử. Nó đã rủa cha mẹ mình và máu nó sẽ ở trên nó. Nếu một người đàn ông gian dâm với vợ người khác, với vợ người láng giềng, cả hai đều bị xử tử. Nếu một người đàn ông ngủ với vợ của cha mình thì sỉ nhục cha mình. Cả người đàn ông lẫn người đàn bà đều phải bị xử tử; máu của họ sẽ ở trên đầu họ. Nếu một người đàn ông ngủ với con dâu mình, cả hai phải bị xử tử. Việc họ làm là một hành động tồi bại; máu họ sẽ ở trên họ. Nếu một người đàn ông nằm với một người đàn ông khác như nằm với đàn bà, cả hai đã làm một điều đáng ghê tởm. Họ phải bị xử tử; máu họ sẽ ở trên đầu họ. Nếu một người cưới cả mẹ lẫn con, đó là một việc ác. Cả ba phải bị thiêu trong lửa để không có tội ác giữa các ngươi. Nếu một người đàn ông giao hợp với một con thú, người này phải bị xử tử và con thú phải bị giết chết. Nếu người đàn bà đến gần để giao hợp với một con thú, phải giết cả người lẫn thú. Cả hai phải xử tử; máu họ sẽ ở trên đầu họ. Nếu một người đàn ông cưới chị hay em gái mình, hoặc một cha khác mẹ hoặc một mẹ khác cha và ăn nằm với nhau, đó là một điều sỉ nhục. Họ phải bị trục xuất khỏi nhân dân. Người đàn ông này đã làm nhục chị em mình và phải mang tội mình. Nếu một người đàn ông nằm với một người đàn bà đang thời kỳ kinh nguyệt và làm lộ ra nguồn máu của người đàn bà và người này cũng để lộ nguồn máu mình ra; cả hai phải bị trục xuất khỏi nhân dân. Đừng gian dâm với chị hay em gái của cha hay mẹ mình, vì như vậy là sỉ nhục một người bà con gần; cả hai người đều phải mang tội. Nếu một người ngủ với vợ của chú hay bác mình thì làm sỉ nhục chú hay bác mình. Họ phải mang tội và sẽ chết tuyệt tự. Nếu một người đàn ông lấy vợ của anh em mình, đó là một điều ô uế. Họ sẽ tuyệt tự. Phải vâng giữ và làm theo tất cả các quy luật và sắc lệnh Ta, để xứ Ta sẽ đem các ngươi vào cư ngụ sẽ không mửa các ngươi ra. Các ngươi đừng sống theo phong tục của các dân tộc Ta sẽ đuổi ra trước mặt các ngươi. Ta ghê tởm họ vì họ đã làm tất cả những việc đó. Nhưng Ta hứa với các ngươi: Các ngươi sẽ chiếm hữu đất hứa; Ta sẽ cho các ngươi đất ấy làm sản nghiệp, là đất tràn trề sữa và mật ong. Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi, Đấng đã phân cách các ngươi với mọi dân tộc. Vậy, các ngươi phải phân biệt giữa loài thú, loài chim tinh sạch và không tinh sạch. Đừng để cho mình bị ô uế vì bất cứ loài thú, loài chim, loài bò sát nào Ta đã bảo cho các ngươi biết là không tinh sạch. Các ngươi phải thánh cho Ta, vì Ta, CHÚA là thánh và Ta đã phân cách các ngươi khỏi mọi dân tộc để các ngươi thuộc về Ta. Người đàn ông hay đàn bà nào hành nghề đồng bóng hay phù thủy giữa các ngươi phải bị xử tử. Các ngươi phải ném đá họ. Máu họ sẽ ở trên họ. CHÚA phán dạy Môi-se: Con nói với các thầy tế lễ, là các con trai của A-rôn và bảo họ rằng: thầy tế lễ không được để mình bị ô uế vì người chết trong dân chúng, ngoại trừ trường hợp người chết là thân nhân gần, như cha mẹ, con trai, con gái, anh em ruột, hay chị em ruột còn độc thân và sống dựa vào thầy tế lễ vì chưa có chồng; thầy tế lễ có thể vì người này mà bị ô uế. Nhưng các thầy tế lễ không được để cho mình bị ô uế vì những quan hệ thông gia trong dân chúng. Các thầy tế lễ không được cạo đầu, cạo mép râu hay cắt thịt mình. Họ phải thánh cho Đức Chúa Trời của họ và không được xúc phạm đến danh Đức Chúa Trời. Vì họ là người dâng các tế lễ bằng lửa và dâng bánh cho CHÚA, Đức Chúa Trời của họ, nên họ phải thánh. Họ không được cưới người đàn bà bị ô uế vì mãi dâm hay bị chồng ly dị, vì các thầy tế lễ phải thánh cho Đức Chúa Trời của họ. Các ngươi phải coi các thầy tế lễ là thánh, vì họ dâng của lễ cho Đức Chúa Trời các ngươi. Hãy kể họ là thánh, vì Ta, CHÚA là thánh và là Đấng thánh hóa các ngươi. Nếu con gái của thầy tế lễ tự làm mình ô uế vì làm gái mãi dâm là làm sỉ nhục cha mình và phải bị thiêu trong lửa. Thầy tế lễ là người được tôn trọng trong vòng các anh em mình vì đã được đổ dầu thụ phong lên đầu và đã được tấn phong để mặc bộ áo lễ thánh, nên không được để đầu bù tóc rối và không được xé áo xống mình. Thầy tế lễ không được vào nơi có xác chết, không được để cho mình bị ô uế vì người chết, dù người đó là cha hay mẹ mình, cũng không được rời khỏi nơi thánh hay xúc phạm nơi thánh của Đức Chúa Trời mình; vì người đã được xức dầu để biệt riêng ra cho Đức Chúa Trời. Ta là CHÚA. Người phải cưới gái đồng trinh làm vợ. Người không được cưới đàn bà góa, đàn bà ly dị hay đàn bà bị ô uế về mãi dâm, nhưng phải cưới một gái đồng trinh từ trong dân mình, để khỏi phàm tục hóa con cháu mình giữa nhân dân. Ta là CHÚA, Đấng thánh hóa người. CHÚA phán dạy Môi-se: Con nói với A-rôn: Trong các con cháu ngươi, thuộc mọi thế hệ trong tương lai, không một ai có khuyết tật được phép đến gần để dâng tế lễ cho Đức Chúa Trời. Không ai có một trong các khuyết tật sau đây được phép đến gần: mù loà, què quặt, mặt mày biến dạng hay chân tay quá dài, chân tay có tật, gù lưng, lùn tịt, mắt có tật, lở loét, có lát, hòn nang dập. Trong số con cháu của thầy tế lễ A-rôn, ai có bất kỳ khuyết tật nào cũng không được đến gần để dùng lửa dâng các lễ vật cho CHÚA. Vì khuyết tật, người đó không được đến gần để dùng lửa dâng các lễ vật cho CHÚA. Vì khuyết tật, người đó không được đến gần để dâng bánh cho Đức Chúa Trời. Người đó được phép ăn bánh dâng cho Đức Chúa Trời, kể cả vật chí thánh và vật thánh; nhưng vì có khuyết tật, người ấy không được phép đến gần bức màn hay bàn thờ mà xúc phạm đến nơi thánh Ta. Ta là CHÚA, Đấng thánh hóa họ. Vậy, Môi-se thuật các lời này lại cho A-rôn, các con trai người và cho toàn dân Y-sơ-ra-ên. CHÚA phán dạy Môi-se: Con căn dặn A-rôn và các con trai người phải coi trọng các lễ vật thánh người Y-sơ-ra-ên đem dâng cho Ta, để họ không xúc phạm đến danh thánh Ta. Ta là CHÚA. Con nói với họ rằng: Con cháu các ngươi thuộc mọi thế hệ trong tương lai, nếu có ai đang bị ô uế mà đến gần các của lễ thánh do người Y-sơ-ra-ên dâng hiến cho CHÚA thì phải khai trừ khỏi sự hiện diện của Ta. Ta là CHÚA. Trong con cháu A-rôn, nếu có ai mắc bệnh phung, hay cơ thể xuất chất dơ, người đó không được ăn của lễ thánh cho đến khi được tinh sạch. Nếu có ai đụng đến vật gì đã bị xác chết hay bị người xuất tinh làm ô uế, hay nếu đụng đến một loại bò sát, hay đụng đến một người bị ô uế về bất cứ lý do gì, người ấy sẽ bị ô uế. Người bị ô uế vì một trong các trường hợp này sẽ bị ô uế đến tối. Người ấy không được phép ăn của lễ thánh nếu chưa tắm trong nước. Sau khi mặt trời lặn, người ấy sẽ được sạch, rồi sau đó được phép ăn các của lễ thánh, là thực phẩm của mình. Con cháu A-rôn không được ăn thịt thú vật chết tự nhiên hay bị thú rừng cắn xé, để khỏi bị ô uế. Ta là CHÚA. Các thầy tế lễ phải làm theo những điều Ta dạy bảo để không mang tội và không chết vì khinh lờn mạng lệnh Ta. Ta là CHÚA, Đấng thánh hóa họ. Người không thuộc về gia đình thầy tế lễ không được phép ăn của lễ thánh. Khách đến thăm thầy tế lễ hay người làm công cũng không được phép ăn. Nhưng nếu thầy tế lễ lấy tiền mua một nô lệ, hay nếu nô lệ sinh trong nhà thầy tế lễ, người ấy có phép ăn thực phẩm của thầy tế lễ. Con gái của thầy tế lễ lấy chồng không phải là thầy tế lễ, sẽ không được ăn lễ vật thánh. Nhưng nếu người này khi trở thành một góa phụ hay đàn bà ly dị không con trở về sống trong nhà cha như lúc còn nhỏ, người này được phép ăn thức ăn của cha mình. Tuy nhiên, không một ai ngoài gia đình thầy tế lễ được phép ăn. Nếu ai vì vô tình lỡ ăn lễ vật thánh, người ấy phải bồi thường cho thầy tế lễ món mình đã ăn, cộng với một phần năm giá trị món ấy. Thầy tế lễ không được xúc phạm đến tế lễ thánh người Y-sơ-ra-ên dâng cho CHÚA, bằng cách cho họ ăn của lễ thánh mà mang tội rồi phải dâng tế lễ chuộc tội. Ta là CHÚA, Đấng thánh hóa họ. CHÚA phán dạy Môi-se: Con nói với A-rôn, các con trai người và toàn dân Y-sơ-ra-ên rằng: Nếu có ai, dù là người Y-sơ-ra-ên hay là ngoại kiều sinh sống trong xứ, đem dâng một tế lễ thiêu cho CHÚA, hoặc để làm thành một lời hứa nguyện hoặc vì tự nguyện hiến dâng, người ấy phải dâng một con đực không tì vết trong bầy bò, bầy chiên hay bầy dê, thì tế lễ ấy mới được chấp nhận. Đừng dâng con vật nào có tì vết, vì nó sẽ không được chấp nhận. Khi ai đem một con bò hay chiên làm sinh tế cầu an cho CHÚA để làm thành một lời hứa nguyện hoặc vì tự nguyện hiến dâng, con sinh tế phải không tì vết hay không khuyết tật mới được chấp nhận. Không được dâng cho CHÚA con vật mù lòa, thương tích hay tàn tật, hoặc con vật có mụn cóc, ung nhọt hay ghẻ lở. Đừng bao giờ đem một con vật như thế lên bàn thờ để dâng cho CHÚA làm tế lễ thiêu. Tuy nhiên, con bò hay chiên có chân quá dài hay quá ngắn có thể dâng làm của lễ tình nguyện nhưng không được chấp nhận nếu dâng để hoàn thành một lời hứa nguyện. Người không được dâng cho CHÚA một con vật có hòn nang bầm, dập rách hay thiến. Người không được làm điều này trong toàn xứ ngươi, cũng không được nhận một con vật như vậy do một người nước ngoài dâng làm lễ vật cho Đức Chúa Trời. Những con vật đó sẽ không được chấp nhận, vì chúng đã bị thương tích hay có khuyết tật. CHÚA phán dạy Môi-se: Một con bò, con chiên hay con dê mới sinh ra phải ở với mẹ nó trọn bảy ngày. Đến ngày thứ tám trở đi, nó có thể được chấp nhận làm của lễ thiêu dâng cho CHÚA. Đừng giết bò mẹ hay chiên mẹ với con nó cùng trong một ngày. Khi dâng của lễ tạ ơn cho CHÚA, phải dâng đúng cách để của lễ được nhậm. Phải ăn hết của lễ đó nội trong ngày và không được để còn thừa đến sáng mai. Ta là CHÚA. Phải giữ và làm theo mọi luật lệ Ta. Ta là CHÚA. Không được xúc phạm đến danh thánh Ta, vì Ta phải được tôn thánh giữa toàn dân Y-sơ-ra-ên. Ta là CHÚA, Đấng thánh hóa các ngươi; Ta đã đem các ngươi ra khỏi Ai-cập để làm Đức Chúa Trời các ngươi. Ta là CHÚA. CHÚA phán dạy Môi-se: Con nói với dân Y-sơ-ra-ên và dạy họ rằng: Sau đây là những lễ Ta ấn định, những ngày lễ của CHÚA, là những ngày các ngươi công bố cuộc hội họp thánh. Có sáu ngày để các ngươi làm việc, nhưng ngày thứ bẩy là ngày Sa-bát an nghỉ, một ngày hội họp thánh. Trong ngày đó các ngươi không được làm bất cứ công việc gì; bất kỳ các ngươi sinh sống ở đâu, ngày đó cũng là ngày Sa-bát cho CHÚA. Đây là những lễ được CHÚA ấn định, những cuộc hội họp thánh các ngươi phải công bố vào thời điểm đã định: Lễ Vượt Qua của CHÚA bắt đầu từ chạng vạng tối ngày mười bốn tháng một. Đến ngày mười lăm tháng ấy, Lễ Bánh Không Men của CHÚA bắt đầu; trong bảy ngày các ngươi phải ăn bánh không men. Vào ngày thứ nhất, tổ chức một cuộc hội họp thánh và không được làm những việc ngành nghề. Trong bảy ngày, phải dâng tế lễ thiêu cho CHÚA. Đến ngày thứ bảy, tổ chức một cuộc hội họp thánh và không làm những việc ngành nghề. CHÚA phán dạy Môi-se, con nói với dân Y-sơ-ra-ên và bảo họ: Khi các ngươi vào xứ Ta sẽ ban cho và gặt hái hoa mầu, hãy đem đến cho thầy tế lễ bó lúa đầu tiên các ngươi gặt được. Vào ngày sau ngày Sa-bát, thầy tế lễ cầm bó lúa đưa qua đưa lại trước CHÚA thì bó lúa sẽ được nhậm. Trong ngày dâng bó lúa đưa qua đưa lại, ngươi cũng phải dâng một con chiên con một tuổi không tì vết làm của lễ thiêu cho CHÚA, của lễ chay bằng hai phần mười ê-pha bột mịn có pha dầu, dùng lửa dâng hương thơm lên cho CHÚA, cùng với một phần tư hin rượu nho làm lễ quán. Các ngươi không được ăn bánh ngũ cốc rang hay mới gặt, cho đến ngày các ngươi dâng các tế lễ này cho Đức Chúa Trời. Luật lệ này có hiệu lực vĩnh viễn qua các thế hệ hậu lai, tại bất cứ nơi nào các ngươi sinh sống. Kể từ ngày sau ngày Sa-bát, tức là ngày đem bó lúa dâng đưa qua đưa lại, các ngươi tính bảy tuần lễ trọn. Rồi tính đúng năm mươi ngày cho đến ngày sau ngày Sa-bát thứ bảy và dâng một tế lễ chay mới cho CHÚA. Các ngươi phải từ nhà mình đem đến hai ổ bánh làm với hai phần mười ê-pha bột mịn có pha men, và dâng đưa qua đưa lại làm tế lễ đầu mùa cho CHÚA. Cùng với hai ổ bánh, các ngươi sẽ dâng bảy chiên con một tuổi không tì vết, một con bò tơ đực và hai con chiên đực. Các sinh tế này sẽ được dâng làm tế lễ thiêu cho CHÚA, đồng thời với tế lễ chay và lễ quán, dâng trên lửa và có hương thơm lên cho CHÚA. Sau đó, dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội và hai con chiên con một tuổi làm tế lễ cầu an. Thầy tế lễ sẽ đưa qua đưa lại hai chiên con trước mặt CHÚA làm tế lễ đưa qua đưa lại, cùng với bánh làm bằng hoa quả đầu mùa; các vật đó sẽ là thánh cho CHÚA tức là thánh cho thầy tế lễ. Trong ngày hôm ấy, các ngươi phải công bố một cuộc hội họp thánh và không làm những việc ngành nghề. Luật lệ này có hiệu lực vĩnh viễn qua các thế hệ hậu lai, tại bất cứ nơi nào các ngươi sinh sống. Khi gặt hái hoa lợi của ruộng đất mình, đừng gặt tận đầu đồng cũng đừng mót những gì còn sót lại. Phải để lại cho người nghèo và ngoại kiều. Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi. CHÚA phán dạy Môi-se Con nói với dân Y-sơ-ra-ên rằng: Vào ngày mồng một tháng bảy các ngươi có một ngày nghỉ, tức là một ngày hội họp thánh với tiếng kèn thổi. Đừng ai làm các công việc ngành nghề, nhưng phải dâng tế lễ thiêu cho CHÚA. CHÚA phán dạy Môi-se Ngày mồng mười tháng bảy là ngày Lễ Chuộc Tội. Phải triệu tập một cuộc hội họp thánh, các người phải ăn năn hối lỗi và dâng tế lễ thiêu cho CHÚA. Trong ngày ấy không được làm việc, vì đó là ngày Lễ Chuộc Tội để chuộc tội cho các ngươi trước mặt CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi. Ai không ăn năn hối lỗi trong ngày hôm ấy sẽ bị trục xuất ra khỏi nhân dân. Ta sẽ diệt khỏi nhân dân người nào làm việc vào ngày hôm đó. Các ngươi sẽ không làm một công việc nào cả. Luật lệ này có hiệu lực vĩnh viễn qua các thế hệ hậu lai, tại bất cứ nơi nào các ngươi sinh sống. Đây là một ngày Sa-bát nghỉ ngơi cho các ngươi, và các ngươi phải ăn năn hối lỗi. Các ngươi phải giữ Lễ này từ tối mồng chín tháng này cho đến tối hôm sau. CHÚA phán dạy Môi-se: Con bảo dân Y-sơ-ra-ên rằng: Lễ Lều Tạm của CHÚA sẽ bắt đầu từ ngày mười lăm tháng bảy và kéo dài trong bảy ngày. Ngày thứ nhất sẽ có cuộc hội họp thánh và không ai làm công việc ngành nghề. Trong bảy ngày, các ngươi dâng tế lễ thiêu cho CHÚA. Đến ngày thứ tám các ngươi tổ chức cuộc hội họp thánh và dâng tế lễ thiêu cho CHÚA, tức là cuộc hội họp trọng thể. Không ai làm công việc ngành nghề trong ngày này. Đó là những Lễ do CHÚA ấn định và phải được công bố là những cuộc hội họp thánh để dâng tế lễ lên cho CHÚA bằng lửa, tức là tế lễ thiêu, tế lễ chay, các tế lễ và lễ quán các ngươi phải dâng theo đúng ngày. Ngoài ra còn có những ngày Sa-bát của CHÚA và những tế lễ khác như lễ vật khấn nguyện, lễ vật tạ ơn là những thứ các ngươi vẫn dâng cho CHÚA. Như vậy, bắt đầu vào ngày mười lăm tháng bảy, sau khi đã thu hoạch hoa lợi của ruộng đất mình, các ngươi phải tổ chức kỳ lễ cho CHÚA trong bảy ngày. Ngày thứ nhất là ngày nghỉ và ngày thứ tám cũng là ngày nghỉ. Vào ngày thứ nhất hãy lấy trái cây chọn lựa, tàu chà là, nhánh cây đầy lá, cành dương liễu và vui mừng trước mặt CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi trong bảy ngày. Mỗi năm các ngươi phải giữ lễ này cho CHÚA trong bảy ngày vào tháng bảy. Luật lệ này có hiệu lực vĩnh viễn qua các thế hệ hậu lai. Mọi người dân Y-sơ-ra-ên đều sống trong lều suốt bảy ngày, để con cháu các ngươi biết rằng toàn dân Y-sơ-ra-ên đều sống trong lều khi Ta đem họ ra khỏi xứ Ai-cập. Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi. Vậy Môi-se loan báo cho dân Y-sơ-ra-ên biết những kỳ lễ CHÚA đã ấn định. CHÚA phán dạy Môi-se: Con bảo dân Y-sơ-ra-ên đem dầu trong, ép từ trái ô-liu, để đốt đèn cháy liên tục. A-rôn phải giữ đèn cháy liên tục trước mặt CHÚA từ sáng đến tối, ở phía trước màn chứng cớ trong trại hội kiến. Đây là một luật lệ có hiệu lực vĩnh viễn qua các thế hệ hậu lai. Các đèn trên chân đèn bằng vàng ròng đặt trước mặt CHÚA phải được săn sóc thường xuyên. Lấy bột mì mịn làm mười hai ổ bánh, mỗi ổ dùng hai phần mười ê-pha bột. Sắp các ổ bánh này thành hai hàng, mỗi hàng sáu ổ, trên bàn bằng vàng ròng trước mặt CHÚA. Lấy nhũ hương nguyên chất rắc dọc theo mỗi hàng bánh để làm lễ vật tưởng niệm thế cho bánh và được dùng lửa dâng lên cho CHÚA. Bánh này phải được sắp trước mặt CHÚA thường xuyên, mỗi ngày Sa-bát, như một giao ước vĩnh viễn cho dân Y-sơ-ra-ên. Bánh được dành cho A-rôn và các con trai người. Họ phải ăn bánh này trong một nơi thánh, vì đó là một phần rất thánh trong số những lễ vật dùng lửa dâng lên cho CHÚA, đó là một lệ đời đời. Một người kia có mẹ là người Y-sơ-ra-ên và cha là người Ai-cập cùng ra đi với dân Y-sơ-ra-ên. Người này đánh lộn trong doanh trại với một người Y-sơ-ra-ên, nói lời rủa sả phạm thượng đến danh CHÚA, và bị dẫn đến Môi-se. (Mẹ của người này tên là Sê-lô-mi, con gái Điệp-ri, thuộc chi tộc Đan.) Người ấy bị cầm giữ lại trong khi Môi-se chờ đợi để biết rõ ý của CHÚA. Sau đó CHÚA phán dạy Môi-se: Đem người phạm thượng ra bên ngoài doanh trại. Những người đã nghe người ấy nói phạm thượng phải đặt tay trên đầu người rồi toàn thể nhân dân sẽ ném đá người cho chết đi. Con nói với dân Y-sơ-ra-ên: Ai rủa sả Đức Chúa Trời sẽ mang tội. Ai phạm thượng đến danh CHÚA phải bị xử tử. Toàn thể nhân dân phải ném đá người ấy. Bất kỳ người bản xứ hay ngoại kiều, hễ ai phạm thượng đến danh CHÚA thì phải bị xử tử. Ai làm thiệt mạng người khác, phải bị xử tử. Ai làm chết thú vật của người khác, phải bồi thường, mạng đền mạng. Ai gây cho láng giềng bị thương tích, phải bị thương tích giống như mình đã gây ra; xương đền xương, mắt đền mắt, răng đền răng. Gây cho người khác bị thương tích nào, sẽ bị gây lại thương tích ấy. Ai giết một thú vật sẽ phải bồi thường, ai giết người phải bị xử tử. Luật này áp dụng cho cả ngoại kiều lẫn người bản xứ. Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi. Sau khi nghe Môi-se thuật lại các lời đó, dân Y-sơ-ra-ên dẫn người phạm thượng ra bên ngoài doanh trại và ném đá cho chết. Họ làm đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se. CHÚA phán dạy Môi-se trên núi Si-nai: con nói với dân Y-sơ-ra-ên và bảo rằng: Khi các ngươi đã vào đất Ta sẽ ban cho các ngươi, chính đất đó cũng phải giữ năm Sa-bát cho CHÚA. Trong sáu năm, các ngươi sẽ cày cấy đồng ruộng; cũng trong sáu năm, các ngươi tỉa sửa vườn nho và thâu hoạch hoa lợi. Nhưng đến năm thứ bảy, đất phải giữ một năm Sa-bát an nghỉ, một Sa-bát cho CHÚA. Các ngươi không được cày cấy đồng ruộng cũng không tỉa sửa vườn nho, cũng không được gặt hái hoa lợi tự mọc lên ngoài đồng ruộng hay hái trái nho nơi vườn không chăm sóc. Phải để cho đất một năm an nghỉ. Bất kỳ những thứ gì đất sinh sản trong năm Sa-bát sẽ dùng làm lương thực cho các ngươi, tôi trai tớ gái, người làm công và người tạm trú trong nhà các ngươi, cũng như cho gia súc trong nhà và thú rừng trên đất ngươi. Bất kỳ thứ gì đất sinh sản cũng có thể dùng làm lương thực. Các ngươi hãy tính bảy thất niên, tức là bảy lần bảy năm, để có một thời kỳ bốn mươi chín năm. Vào ngày mồng mười tháng bảy, tức là ngày lễ chuộc tội, phải thổi kèn vang dội khắp trong nước. Phải biệt riêng năm thứ năm mươi làm năm thánh và công bố tự do khắp nơi cho mọi cư dân trong nước. Đó là năm hoan hỉ cho các ngươi, vì mỗi người sẽ nhận lại tài sản của mình và được trở về với gia đình mình. Vì năm thứ năm mươi là năm hoan hỉ của các ngươi nên đừng gieo trồng cũng đừng gặt hái hoa lợi tự mọc trong đồng ruộng và đừng hái nho trên cây nho các ngươi không tỉa sửa. Đó là năm hoan hỉ và năm thánh cho các ngươi; các ngươi chỉ ăn các thứ thổ sản của đất. Trong năm hoan hỉ mọi người sẽ trở về làm chủ tài sản mình. Nếu các ngươi bán cho người đồng hương hay mua của họ, đừng lợi dụng lẫn nhau. Khi mua đất các ngươi phải tính giá mua căn cứ trên số năm còn lại cho đến năm hoan hỉ. Người bán cũng tính theo số năm còn lại sản xuất mùa màng. Nếu số năm còn nhiều, giá đất phải tăng, nhưng nếu số năm còn ít giá phải giảm, vì thực ra đây là việc mua bán số mùa màng. Đừng lợi dụng nhau, nhưng phải kính sợ Đức Chúa Trời. Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi. Phải làm theo các quy luật Ta và tuân giữ các sắc lệnh Ta thì các ngươi sẽ được sống an ninh trong xứ. Đất sẽ sinh sản hoa lợi, các ngươi sẽ được ăn no nê và sống yên lành. Các ngươi có thể hỏi: Chúng tôi sẽ lấy gì ăn trong năm thứ bảy nếu không gieo trồng cũng không gặt hái hoa lợi? Ta sẽ ban phước cho các ngươi đến nỗi trong năm thứ sáu hoa màu sẽ đủ cho các ngươi ăn trong ba năm. Khi gieo trồng vào năm thứ tám, các ngươi sẽ ăn hoa lợi cũ và cứ tiếp tục ăn cho đến thu hoạch mùa màng năm thứ chín. Đất không được bán đứt vĩnh viễn, vì đất thuộc về Ta còn các ngươi chỉ là người ngoại kiều và ngụ cư với Ta. Quyền chuộc lại đất đai phải được áp dụng trên toàn thể đất đai ngươi sở hữu. Nếu một người đồng hương vì nghèo túng phải bán một phần tài sản mình, người bà con gần nhất phải đến chuộc tài sản đó lại. Tuy nhiên, nếu không ai chuộc tài sản giúp, và người ấy về sau trở nên thịnh vượng có đủ phương tiện chuộc lại tài sản mình, người ấy sẽ tính số năm kể từ lúc bán tài sản, và trả cho người mua số tiền bằng trị giá những năm còn lại, rồi lấy lại làm tài sản mình. Nhưng nếu người ấy không đủ khả năng để trả tiền lại cho người mua, người mua sẽ tiếp tục giữ tài sản cho đến năm hoan hỉ, là năm tài sản sẽ hoàn nguyên chủ, và người ấy sẽ nhận lại tài sản mình. Nếu ai bán nhà trong một thành phố có tường bao quanh, người bán có quyền chuộc lại trong vòng một năm kể từ ngày bán. Trong năm này, người bán có quyền chuộc nhà mình lại. Nhưng nếu thời gian một năm đã qua mà người bán không chuộc lại, nhà đó là nhà nằm trong thành phố có tường bao quanh sẽ thuộc về người mua và con cháu người vĩnh viễn, chứ không được hoàn nguyên chủ vào năm hoan hỉ. Nhưng nhà cửa ở những làng không có tường bao quanh sẽ được coi như đất trống. Những nhà này có thể chuộc lại và hoàn nguyên chủ vào năm hoan hỉ. Người Lê-vi luôn luôn có quyền chuộc lại tài sản trong các thành lớn dành riêng cho người Lê-vi, là lãnh thổ họ có quyền sở hữu. Như vậy tài sản trong bất cứ thành nào dành riêng cho người Lê-vi cũng có thể chuộc lại sau khi bán, còn nếu không chuộc tài sản đó cũng hoàn nguyên chủ vào năm hoan hỉ, vì các tài sản này nằm trong các thành đã được chia cho người Lê-vi làm sản nghiệp giữa dân Y-sơ-ra-ên. Không được phép bán đồng cỏ chăn nuôi thuộc phạm vi các thành này, vì đó là sản nghiệp vĩnh viễn của người Lê-vi. Nếu một người đồng hương vì quá nghèo mà không thể tự nuôi sống được, các ngươi phải giúp đỡ người ấy như giúp đỡ một ngoại kiều hay một người tạm trú, để người ấy có thể tiếp tục sống với các ngươi. Không được cho vay để lấy lãi, nhưng phải kính sợ Đức Chúa Trời để cho người đồng hương có thể sống với các ngươi. Không được cho người ấy vay tiền để lấy lãi hay bán thực phẩm cho người ấy để kiếm lợi. Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi, Đấng đã đem các ngươi lên khỏi xứ Ai-cập để ban cho các ngươi xứ Ca-na-an và để làm Đức Chúa Trời các ngươi. Nếu một người đồng hương vì nghèo quá phải bán mình cho các ngươi, các ngươi không được đối xử với người ấy như là một nô lệ, nhưng phải coi người ấy như một người làm mướn hay người tạm trú và người ấy sẽ làm việc cho các ngươi đến năm hoan hỉ. Lúc đó người ấy sẽ được tự do cùng với con cái mình để trở về gia đình và nhận lại sản nghiệp của tổ tiên. Vì người Y-sơ-ra-ên là tôi tớ của Ta, đã được Ta đem ra khỏi xứ Ai-cập nên không thể bị bán làm nô lệ. Không được hà khắc với anh chị em mình, nhưng phải kính sợ Đức Chúa Trời. Các ngươi được phép mua nô lệ, cả nam lẫn nữ, từ các nước láng giềng, cũng có thể mua một số người tạm trú, hay người sinh đẻ trong các gia đình ngoại kiều sống trong xứ và họ sẽ thuộc về các ngươi. Các ngươi có thể để họ lại làm di sản cho con cái cũng như có thể giữ họ làm nô lệ suốt đời, nhưng các ngươi không được đối đãi với anh chị em mình là người Y-sơ-ra-ên cách khắc nghiệt. Nếu một ngoại kiều hay một người tạm trú sống với các ngươi trở nên giàu có và có một người Y-sơ-ra-ên nghèo khổ đến bán mình cho ngoại kiều này, hay cho một gia đình ngoại kiều, người Y-sơ-ra-ên này vẫn được giữ quyền chuộc lại sau khi đã bán mình, và một trong các người bà con có thể chuộc người ấy lại: chẳng hạn như chú bác, anh em họ hay một người bà con máu mủ trong cùng gia tộc đều có thể chuộc người ấy lại. Hoặc nếu có khả năng, chính người ấy cũng có thể tự chuộc mình. Người ấy sẽ cùng với người chủ đã mua mình chiết tính số năm còn lại, kể từ lúc người ấy bán mình cho đến năm hoan hỉ. Tiền chuộc sẽ bằng tiền công một người làm mướn trong những năm còn lại đó. Nếu còn lại nhiểu năm, người ấy phải trả một món tiền chuộc, nhưng nếu tính đến năm hoan hỉ và thấy chỉ còn lại một ít năm, người ấy sẽ chiết tính số tiền chuộc cho tương xứng với số năm. Người ấy phải được đối đãi như là một người đi làm mướn từng năm một và chủ không được khắc nghiệt với người trước mặt ngươi. Dù người ấy không được chuộc lại bằng một trong những phương pháp vừa kể, đến năm hoan hỉ người ấy và con cái người cũng phải được trả tự do, vì người Y-sơ-ra-ên thuộc về Ta, là các tôi tớ Ta mà Ta đã đem ra khỏi xứ Ai-cập. Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi. Đừng làm cho mình các thần tượng, hình tượng chạm trổ, hay tượng đá, cũng đừng dựng lên các trụ đá chạm trổ trong xứ các ngươi để sấp mình thờ lạy. Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi. Phải giữ ngày Sa-bát và tôn kính nơi thánh của Ta. Ta là CHÚA. Nếu các ngươi đi theo các quy luật Ta, giữ và làm theo các mạng lệnh Ta, Ta sẽ ban cho mưa thuận mùa và đất sẽ sinh sản hoa màu, cây ngoài đồng ra hoa quả. Mùa đập lúa sẽ kéo dài đến mùa hái nho và mùa hái nho sẽ kéo dài đến mùa gieo mạ. Các ngươi sẽ ăn bánh no nê và sẽ sống bình an trong xứ. Ta sẽ ban cho xứ các ngươi được hưởng thái bình, các ngươi sẽ ngủ yên không bị ai làm cho sợ hãi. Ta sẽ đuổi các thú dữ khỏi đất và gươm đao sẽ không tàn phá xứ các ngươi. Các người sẽ đánh đuổi quân thù và chúng nó sẽ ngã dưới lưỡi gươm các ngươi. Năm người trong các ngươi sẽ đuổi một trăm, một trăm sẽ rượt đuổi mười ngàn, và quân thù sẽ bị gươm đánh ngã rạp trước mặt các ngươi. Ta sẽ xây mặt hướng về các ngươi, làm cho các ngươi sinh sôi nẩy nở và gia tăng dân số và giữ giao ước Ta đã lập với các ngươi. Các ngươi còn đang ăn hoa màu dự trữ cũ mà đã phải dọn chỗ để chứa hoa màu mới. Ta sẽ thiết lập chỗ ở Ta giữa các ngươi và Ta không ghê tởm các ngươi đâu. Ta sẽ đi giữa các ngươi, làm Đức Chúa Trời các ngươi và các ngươi làm dân Ta. Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi, Đấng đã đem các ngươi ra khỏi xứ Ai-cập để các ngươi không còn làm nô lệ cho người Ai-cập; Ta đã bẻ gãy ách các ngươi để các ngươi có thể đi ngước đầu lên cao. Nhưng nếu các ngươi không nghe Ta, không thi hành các điều răn này, nếu các ngươi khước từ các quy luật Ta, nếu tâm hồn các ngươi ghét bỏ luật lệ Ta để khỏi làm theo mọi điều răn Ta và vì thế vi phạm giao ước Ta, thì đây là những điều Ta sẽ làm cho các ngươi; Ta sẽ thình lình giáng trên các ngươi cơn khủng khiếp, các chứng bệnh hiểm nghèo và các cơn sốt làm cho mắt tối tăm, tâm hồn kiệt quệ. Các ngươi sẽ phí công gieo trồng, vì quân thù sẽ ăn hết. Ta sẽ xây mặt nghịch với các ngươi để các ngươi bị quân thù đánh bại; những người ghét các ngươi sẽ thống trị các ngươi và các ngươi sẽ chạy trốn mặc dù không bị ai rượt đuổi. Nếu đã vậy mà các ngươi vẫn không chịu nghe Ta, Ta sẽ phạt các ngươi gấp bảy lần vì tội lỗi các ngươi. Ta sẽ triệt hạ lòng kiêu căng về sức mạnh của các ngươi và sẽ làm cho trời trên đầu ngươi ra như sắt và đất dưới chân ngươi ra như đồng. Các ngươi sẽ phí công vô ích, vì ruộng đất sẽ không sinh sản hoa màu và cây ngoài đồng sẽ không sinh hoa quả. Nếu các ngươi vẫn chống nghịch Ta và không muốn nghe lời Ta, Ta sẽ nhân các tai ách lên gấp bảy lần vì tội lỗi các ngươi. Ta sẽ sai thú rừng đến vồ bắt con cái các ngươi, tàn sát các bầy gia súc, làm cho dân số các ngươi suy giảm đến nỗi đường phố vắng tanh. Nếu đến độ đó mà các ngươi không trở lại cùng Ta mà cứ tiếp tục chống nghịch Ta, chính Ta sẽ chống nghịch các ngươi và trừng phạt tội lỗi các ngươi gấp bảy lần nữa. Ta sẽ đem gươm dao đến trên các ngươi để báo trả việc các ngươi bội ước. Khi các ngươi rút vào các thành, Ta sẽ sai bệnh dịch đến với các ngươi và trao các ngươi vào tay quân thù. Khi Ta cắt đứt đường tiếp tế thực phẩm, mười phụ nữ có thể nướng bánh chung trong một lò và sẽ cân bánh khi trao cho các ngươi. Các ngươi sẽ ăn nhưng không đủ no. Nếu sau các tai họa đó các ngươi vẫn không nghe Ta và tiếp tục chống nghịch Ta, Ta sẽ chống nghịch các ngươi trong cơn thịnh nộ và chính Ta sẽ hình phạt các ngươi gấp bảy lần nữa vì tội ác các ngươi. Các ngươi sẽ ăn thịt con trai, con gái mình. Ta sẽ phá hủy các nơi cao, triệt hạ các bàn thờ xông hương và làm cho thây các ngươi chồng chất trên xác các thần tượng, vì Ta ghê tởm các ngươi. Ta sẽ làm cho thành thị ngươi trở nên điêu tàn, các nơi thánh ngươi ra hoang vắng, và không còn vui lòng chấp nhận hương thơm nữa. Ta sẽ làm cho xứ các ngươi hoang vắng đến nỗi kẻ thù ở đó cũng phải ngạc nhiên. Ta sẽ phân tán các ngươi khắp các nước, rút gươm Ta ra truy nã các ngươi. Lãnh thổ các ngươi sẽ ra hoang vắng, thành thị các ngươi trở nên điêu tàn. Đất các ngươi sẽ hưởng các năm Sa-bát vì bị bỏ hoang trong khi các ngươi sống trên đất kẻ thù; như vậy đất sẽ được nghỉ ngơi và vui hưởng các năm Sa-bát. Trong suốt thời gian hoang vu đất sẽ được an nghỉ vì khi các ngươi còn ở trong xứ, đất không được nghỉ các năm Sa-bát. Đối với những người sống sót, khi họ đang ở trong xứ của kẻ thù, Ta sẽ làm cho lòng họ khiếp đảm đến nỗi tiếng lá rơi cũng đủ làm họ chạy trốn. Họ chạy như chạy trốn gươm đao và sẽ ngã té dù không có ai đuổi theo. Họ sẽ vấp té lên nhau như người chạy trốn gươm đao dù không bị ai rượt đuổi. Vì vậy các ngươi không thể nào đương đầu với quân thù. Các ngươi sẽ bỏ mạng giữa các dân tộc và đất của kẻ thù sẽ nuốt lấy các ngươi. Ai còn sống sót sẽ kiệt quệ trên đất kẻ thù vị tội lỗi của họ cũng như vì tội lỗi của tổ tiên họ. Nhưng nếu họ xưng tội của họ và tội của tổ tiên họ, tức là tội phản bội và chống nghịch Ta, làm cho Ta chống cự họ, đưa họ vào đất kẻ thù, và nếu tấm lòng không chịu cắt bì của họ biết hạ xuống, chấp nhận các hình phạt do tội họ gây ra, thì Ta sẽ nhớ lại giao ước Ta với Gia-cốp, giao ước Ta với Y-sác và giao ước Ta với Áp-ra-ham và Ta cũng sẽ nhớ đến đất của họ. Đất đã bị họ bỏ hoang và được nghỉ Sa-bát trong thời gian hoang vu không có người ở. Họ phải chịu hình phạt vì khước từ luật pháp Ta và ghê tởm quy luật Ta. Tuy nhiên, khi họ ở trên đất kẻ thù, Ta không khước từ và ghê tởm họ. Ta sẽ vì họ mà nhớ lại giao ước Ta đã lập với tổ tiên họ là những người Ta đem ra khỏi xứ Ai-cập trước mắt các dân tộc để làm Đức Chúa Trời của họ. Ta là CHÚA. Trên đây là các quy luật, sắc lệnh và luật pháp mà CHÚA qua Môi-se thiết lập giữa Ngài với dân Y-sơ-ra-ên tại trên núi Si-nai. CHÚA phán dạy Môi-se: Con nói với dân Y-sơ-ra-ên và bảo họ rằng: Nếu một người có lời thề nguyện đặc biệt để dâng hiến cho CHÚA theo trị giá người, thì trị giá của một người đàn ông từ hai mươi đến sáu mươi là năm mươi siếc lơ bạc theo siếc lơ nơi thánh, còn trị giá của một người đàn bà là ba mươi siếc lơ, thanh thiếu niên nam từ năm đến hai mươi tuổi trị giá hai mươi siếc lơ, còn nữ trị giá mười siếc lơ. Một em bé trai từ một tháng đến năm tuổi trị giá năm siếc lơ, em bé gái trị giá ba siếc lơ. Nếu là người cao niên trên sáu mươi tuổi, thì đàn ông trị giá mười lăm siếc lơ, còn đàn bà trị giá mười siếc lơ. Nếu một người có lời thề nguyện nhưng vì nghèo quá không thể đóng số tiền đã ấn định, người ấy phải trình diện với thầy tế lễ, và thầy tế lễ ấn định số phải đóng tuỳ theo khả năng của người có lời thề nguyện. Nếu một người hứa dâng một con vật để làm sinh tế cho CHÚA, con vật đã dâng cho CHÚA sẽ trở nên thánh. Người đã dâng hiến không được phép thay thế hay đổi thay, dù đem con tốt để thay thế con xấu, hay đem con xấu để thay thế con tốt cũng không được. Nếu đem con vật này thay thế con vật khác, cả hai con đó đều trở nên thánh. Nếu con vật người ấy hứa dâng thuộc vào loại không tinh sạch, là loài vật không được chấp nhận để làm sinh tế dâng lên cho CHÚA, người ấy phải đem con vật đến với thầy tế lễ. Thầy tế lễ sẽ lượng giá tùy theo phẩm chất tốt hay xấu và giá thầy tế lễ ấn định là số tiền người chủ con vật phải trả. Nếu người ấy muốn chuộc nó lại thì phải trả thêm một phần năm trị giá con vật. Nếu có ai dâng hiến ngôi nhà của mình làm một vật thánh cho CHÚA, thầy tế lễ sẽ lượng giá tùy theo phẩm chất tốt hay xấu. Trị giá thầy tế lễ ấn định sẽ là giá nhà. Nếu muốn chuộc nhà lại, người đã hiến dâng phải trả thêm một phần năm trị giá đã ấn định, và nhà sẽ thuộc về người ấy trở lại. Nếu có ai dâng hiến một phần đất của gia đình cho CHÚA, việc ấn định trị giá sẽ căn cứ trên số lượng hạt giống có thể gieo trên đất ấy: miếng đất có thể gieo một ô-me lúa mạch trị giá năm mươi siếc lơ bạc. Nếu người ấy dâng miếng đất vào năm hoan hỉ, trị giá đó sẽ không thay đổi. Nhưng nếu người ấy dâng miếng đất sau năm hoan hỉ, thầy tế lễ sẽ ước tính trị giá căn cứ trên số năm còn lại cho đến năm hoan hỉ sau, vì vậy giá miếng đất đó sẽ giảm xuống. Nếu người đã dâng miếng đất muốn chuộc lại, người ấy sẽ cộng thêm một phần năm trị giá của miếng đất và đất sẽ lại thuộc về người. Tuy nhiên nếu người ấy không chuộc đất ấy lại hay nếu đã đem đất bán cho người khác, đất đó vĩnh viễn sẽ không thể chuộc lại. Đến năm hoan hỉ là năm đất được hoàn nguyên chủ thì miếng đất đó sẽ trở thành đất thánh vì đã dâng cho CHÚA và sẽ trở thành tài sản của các thầy tế tễ. Nếu ai dâng cho CHÚA một miếng đất mình mua, chớ không phải là tài sản của gia đình, thầy tế lễ sẽ tính giá đất ấy cho đến năm hoan hỉ, và người dâng sẽ nạp số tiền bằng trị giá miếng đất vào ngày hôm đó như là một của dâng thánh cho CHÚA. Đến năm hoan hỉ, miếng đất đó sẽ hoàn nguyên chủ, tức là được trả lại cho người đã bán đất và là người thừa hưởng đất. Việc quy định trị giá phải căn cứ trên siếc lơ nơi thánh, mỗi siếc lơ bằng hai mươi ghê-ra. Không ai được hiến dâng con vật đầu lòng, vì con vật đầu lòng này đã thuộc về CHÚA; dù bò hay chiên, con vật đầu lòng thuộc về CHÚA. Nhưng nếu con vật thuộc loại không tinh sạch, người ấy có thể mua lại theo giá quy định cộng thêm một phần năm giá ấy. Nếu người ấy không chuộc nó lại, con vật sẽ được bán theo giá quy định. Nhưng khi một người đã tận hiến một vật mình có cho CHÚA, dù là người, súc vật hay đất đai của gia đình, món này không được đem bán cũng không được chuộc lại, vì bất kỳ món gì đã được tận hiến đều trở nên rất thánh cho CHÚA. Ngay cả người đã bị định phải chết không thể được chuộc lại, nhưng phải bị xử tử. Tất cả một phần mười thổ sản, dù là ngũ cốc do đồng ruộng sinh sản hay hoa quả của các loại cây trái đều thuộc về CHÚA; các phần mười đều thánh cho CHÚA. Nếu ai muốn chuộc bất kỳ thứ phần mười nào của mình, người ấy phải trả thêm một phần năm trị giá phần mười đó. Tất cả phần mười của bầy bò hay bầy chiên, tức là tất cả các con thứ mười do người chăn dùng gậy đếm, đều là thánh cho CHÚA. Người chủ không được phân biệt tốt xấu và không được đổi các con vật này. Nếu đổi, cả con bị đổi và con đem đến để đổi đều trở nên thánh và không được phép chuộc lại. Trên đây là các mạng lệnh CHÚA ban bố cho Môi-se trên núi Si-nai để truyền lại cho dân Y-sơ-ra-ên. Ngày mồng một tháng hai năm thứ nhì, sau khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập, CHÚA phán bảo Môi-se tại Trại Hội Kiến trong sa mạc Si-nai: “Con hãy kiểm tra dân số của toàn dân Y-sơ-ra-ên tùy theo họ hàng và gia đình, liệt kê danh sách tất cả nam đinh từng người một. Con và A-rôn phải đếm tất cả người nam trong Y-sơ-ra-ên theo từng đơn vị, từ hai mươi tuổi trở lên, là những người có khả năng phục vụ trong quân đội. Các trưởng chi tộc sẽ đại diện cho chi tộc mình để cộng tác với con và A-rôn. Đây là danh sách những người đứng ra giúp các ngươi: Chi tộc Ru-bên, Ê-li-sua, con trai Sê-đêu; Chi tộc Si-mê-ôn, Sê-lu-miên, con trai Xu-ri-ha-đai; Chi tộc Giu-đa, Na-ha-sôn, con trai A-mi-na-đáp; Chi tộc Y-sa-ca, Na-tha-na-ên, con trai Xu-a; Chi tộc Sa-bu-luân, Ê-li-áp, con trai Hê-long. Con cháu Giô-sép:Chi tộc Ép-ra-im, Ê-li-sa-ma, con trai A-mi-hút;Chi tộc Ma-na-se, Ga-ma-liên, con trai Phê-đát-su. Chi tộc Bên-gia-min, A-bi-đan, con trai Ghi-đeo-ni. Chi tộc Đan, A-hi-ê-xe, con trai Am-mi-sa-đai. Chi tộc A-se, Pha-ghi-ên, con trai Óc-ran. Chi tộc Gát, Ê-li-a-sáp, con trai Đê-u-ên. Chi tộc Nép-ta-li, A-hi-ra, con trai Ê-nan.” Đó là những người được bổ nhiệm từ trong nhân dân, là trưởng chi tộc các chi tộc của tổ phụ mình và là những người chỉ huy các đơn vị quân đội Y-sơ-ra-ên. Môi-se và A-rôn tiếp nhận các người đã được nêu danh, và triệu tập toàn thể nhân dân vào ngày mồng một tháng hai theo danh sách từng người một từ hai mươi tuổi trở lên; mỗi người đăng ký theo họ hàng và gia đình mình, như CHÚA đã truyền lệnh cho Môi-se. Môi-se kiểm tra dân số trong sa mạc Si-nai: Con cháu Ru-bên là trưởng nam của Y-sơ-ra-ên, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo họ hàng và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả nam đinh có khả năng phục vụ trong quân đội, được 46.000 người. Con cháu Si-mê-ôn, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo họ hàng và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả nam đinh có khả năng phục vụ trong quân đội, được 59.300 người. Con cháu Gát, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo họ hàng và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả nam đinh có khả năng phục vụ trong quân đội, được 45.650 người. Con cháu Giu-đa, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo họ hàng và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả nam đinh có khả năng phục vụ trong quân đội, được 74.600 người. Con cháu Y-sa-ca, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo họ hàng và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả nam đinh có khả năng phục vụ trong quân đội, được 54.400 người. Con cháu Sa-bu-luân, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo họ hàng và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả nam đinh có khả năng phục vụ trong quân đội, được 57.400 người. Các con trai của Giô-sép gồm có Ép-ra-im và Ma-na-se.Con cháu Ép-ra-im, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo họ hàng và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả nam đinh có khả năng phục vụ trong quân đội, được 40.500 người. Con cháu Ma-na-se, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo họ hàng và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả nam đinh có khả năng phục vụ trong quân đội, được 32.200 người. Con cháu Bên-gia-min, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo họ hàng và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả nam đinh có khả năng phục vụ trong quân đội, được 35.400 người. Con cháu Đan, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo họ hàng và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả nam đinh có khả năng phục vụ trong quân đội, được 62.700 người. Con cháu A-se, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo họ hàng và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả nam đinh có khả năng phục vụ trong quân đội, được 41.500 người. Con cháu Nép-ta-li, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo họ hàng và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả nam đinh có khả năng phục vụ trong quân đội, được 53.400 người. Đó là những người mà Môi-se, A-rôn và mười hai trưởng chi tộc của Y-sơ-ra-ên đã kiểm tra, mỗi trưởng chi tộc đại diện cho chi tộc mình. Tất cả người Y-sơ-ra-ên từ hai mươi tuổi trở lên và có khả năng phục vụ trong quân đội Y-sơ-ra-ên đều được kiểm điểm theo gia đình mình. Tổng số được 603.550 người. Tuy nhiên, các gia đình của chi tộc Lê-vi không được kiểm tra như người các chi tộc khác. CHÚA đã bảo Môi-se: “Con không nên kiểm kê chi tộc Lê-vi, hoặc bao gồm họ trong cuộc kiểm tra dân số của người Y-sơ-ra-ên. Nhưng cử người Lê-vi đặc trách Đền Tạm Chứng Cớ, coi sóc tất cả vật dụng và những gì thuộc về Đền Tạm. Họ phải khuân vác Đền Tạm và tất cả các vật dụng, chăm sóc và cắm trại xung quanh Đền Tạm. Khi nào cần di chuyển, người Lê-vi phải tháo dỡ Đền Tạm ra; và mỗi khi nhân dân cắm trại, người Lê-vi sẽ dựng Đền Tạm lại. Bất cứ kẻ nào khác đến gần Đền Tạm sẽ bị xử tử. Dân Y-sơ-ra-ên phải cắm trại theo từng đơn vị, mỗi người ở trong trại riêng dưới ngọn cờ của chi tộc mình. Tuy nhiên người Lê-vi phải dựng trại xung quanh Đền Tạm Chứng Cớ để cơn thạnh nộ không đổ xuống trên dân Y-sơ-ra-ên. Người Lê-vi phải chịu trách nhiệm chăm sóc Đền Tạm Chứng Cớ.” Dân Y-sơ-ra-ên thực thi tất cả những điều CHÚA truyền bảo Môi-se. CHÚA phán dạy Môi-se và A-rôn: “Dân Y-sơ-ra-ên phải cắm trại xung quanh nhưng cách xa Trại Hội Kiến, mỗi người phải cắm trại dưới ngọn cờ của đơn vị mình với bảng hiệu chi tộc.” Trại quân Giu-đa sẽ cắm tại phía đông, hướng mặt trời mọc với ngọn cờ và các đơn vị mình. Chỉ huy trưởng chi tộc Giu-đa là Na-ha-sôn, con Am-mi-na-đáp. Quân số của người được 74.600 người. Chi tộc Y-sa-ca sẽ cắm trại gần bên Giu-đa. Chỉ huy trưởng của Y-sa-ca là Na-tha-na-ên, con Xu-a. Quân số của người được 54.400 người. Tiếp theo là chi tộc Sa-bu-luân. Chỉ huy trưởng của Sa-bu-luân là Ê-li-áp, con Hê-long. Quân số người được 57.400 người. Tất cả nhân số trong trại quân Giu-đa, chia từng đội ngũ, được 186.400 người. Họ sẽ đi tiên phong. Trại quân Ru-bên sẽ cắm tại phía nam, dưới ngọn cờ mình. Chỉ huy trưởng Ru-bên là Ê-li-sua, con Sê-đêu. Quân số của người được 46.500 người. Chi tộc Si-mê-ôn sẽ cắm trại gần bên Ru-bên. Chỉ huy trưởng Si-mê-ôn là Sê-lu-miên, con Xu-ri-ha-đai. Quân số của người được 59.300 người. Tiếp theo là chi tộc Gát. Chỉ huy trưởng Gát là Ê-li-a-sáp, con Đê-u-ên. Quân số của người được 45.650 người. Tất cả nhân số trong trại quân Ru-bên, chia từng đội ngũ, được 151.450 người. Họ sẽ đi thứ nhì. Sau đó, Trại Hội Kiến và trại quân Lê-vi sẽ ra đi chính giữa các trại quân khác. Họ sẽ ra đi theo đúng thứ tự như họ đã cắm trại, mỗi người theo hàng ngũ dưới ngọn cờ mình. Trại quân Ép-ra-im sẽ cắm tại phía tây, dưới ngọn cờ mình. Chỉ huy trưởng Ép-ra-im là Ê-li-sa-ma, con A-mi-hút. Quân số của người được 40.500 người. Chi tộc Ma-na-se sẽ cắm trại gần bên Ép-ra-im. Chỉ huy trưởng Ma-na-se là Ga-ma-liên, con Phê-đát-su. Quân số của người được 32.200 người. Tiếp theo là chi tộc Bên-gia-min. Chỉ huy trưởng Bên-gia-min là A-bi-đan, con Ghi-đeo-ni. Quân số người được 35.400 người. Tất cả nhân số trong trại quân Ép-ra-im, chia từng đội ngũ, được 108.100 người. Họ sẽ đi thứ ba. Trại quân Đan sẽ cắm tại phía bắc, dưới ngọn cờ mình. Chỉ huy trưởng Đan là A-hi-ê-xe, con Am-mi-sa-đai. Quân số của người được 62.700 người. Chi tộc A-se sẽ cắm trại gần bên Đan. Chỉ huy trưởng A-se là Pha-ghi-ên, con Óc- ran. Quân số của người được 41.500 người. Tiếp theo là chi tộc Nép-ta-li. Chỉ huy trưởng Nép-ta-li là A-hi-ra, con Ê-nan. Quân số của người được 53.400 người. Tất cả nhân số trong trại quân Đan, chia từng đội ngũ, được 157.600 người. Họ sẽ đi hậu tập. Đó là những người Y-sơ-ra-ên được kiểm kê theo từng chi tộc. Tổng số quân sĩ trong các trại quân, chia từng đội ngũ, là 603.550. Tuy nhiên, người Lê-vi không được kiểm kê với những người Y-sơ-ra-ên khác, như CHÚA đã truyền bảo Môi-se. Như thế, dân Y-sơ-ra-ên thực thi mọi điều CHÚA đã truyền bảo Môi-se. Đó là cách mà họ bố trí các trại quân dưới ngọn cờ mình; đó cũng là cách xuất quân mỗi người theo họ hàng và chi tộc mình. Đây là những người trong gia đình A-rôn và Môi-se trong thời gian CHÚA phán với Môi-se trên núi Si-nai. Tên các con trai A-rôn là: Na-đáp, con trưởng nam, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa, và Y-tha-ma. Đó là tên các con trai A-rôn tức các thầy tế lễ được xức dầu và tấn phong để phục vụ trong chức tế lễ. Tuy nhiên, Na-đáp và A-bi-hu đã ngã chết trước mặt CHÚA khi họ dâng hương lên CHÚA trong sa mạc Si-nai bằng một thứ lửa Ngài không cho phép. Họ không có con trai nên chỉ có Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma phục vụ trong chức thấy tế lễ dưới sự hướng dẫn của A-rôn, cha họ. CHÚA phán bảo Môi-se: “Con hãy đem chi tộc Lê-vi đến, đặt họ dưới quyền thầy tế lễ A-rôn để họ giúp đỡ người. Họ phải thi hành các nhiệm vụ thay cho A-rôn và toàn thể nhân dân tại Trại Hội Kiến bằng cách phục vụ trong Đền Tạm. Họ phải chăm sóc tất cả các vật dụng trong Trại Hội Kiến, thi hành các bổn phận của dân Y-sơ-ra-ên bằng cách phục vụ trong Đền Tạm. Trong vòng người Y-sơ-ra-ên họ là những người duy nhất được giao trọn cho A-rôn. Con hãy bổ nhiệm A-rôn và các con trai người làm thầy tế lễ; bất cứ người nào khác xâm phạm vào chức vụ này sẽ bị xử tử.” CHÚA lại bảo Môi-se: “Ta đã chọn người Lê-vi giữa dân Y-sơ-ra-ên để thay thế cho các con trai đầu lòng của mỗi người đàn bà Y-sơ-ra-ên. Người Lê-vi thuộc về Ta, vì tất cả các con đầu lòng đều thuộc về Ta. Khi Ta đánh hạ tất cả các con đầu lòng tại Ai-cập, Ta đã biệt riêng cho Ta tất cả các con đầu lòng của Y-sơ-ra-ên, cả người lẫn thú vật. Họ phải thuộc về Ta. Ta là CHÚA.” CHÚA bảo Môi-se tại sa mạc Si-nai: “Con hãy kiểm tra dân số người Lê-vi tùy theo gia tộc và họ hàng. Con hãy kiểm kê tất cả người nam từ một tháng trở lên.” Như vậy, Môi-se kiểm kê họ đúng như lời CHÚA truyền bảo mình. Đây là tên các con trai Lê-vi:Ghẹt-sôn, Kê-hát, và Mê-ra-ri. Đây là tên con trai Ghẹt-sôn:Líp-ni và Si-mê-i. Con trai Kê-hát là:Am-ram, Dít-sa, Hếp-rôn và U-xi-ên. Con trai Mê-ra-ri là:Mách-li và Mu-si.Đó là những tổ các thị tộc trong chi tộc Lê-vi. Con cháu Líp-ni là Si-mê-i thuộc về Ghẹt-sôn; đó là dòng họ Ghẹt-sôn. Tổng số người nam từ một tháng trở lên được 7.500 người. Dòng họ Ghẹt-sôn phải cắm trại phía tây đằng sau Đền Tạm. Người lãnh đạo gia tộc Ghẹt-sôn là Ê-li-a-sáp, con La-ên. Trách nhiệm của dòng họ Ghẹt-sôn tại Trại Hội Kiến gồm có: Đền Tạm, trại, mái phủ trại, bức màn tại cửa Trại Hội Kiến, các bức màn trong hành lang, bức màn tại cửa hành lang bao quanh Đền Tạm và bàn thờ, và các sợi dây thừng cùng tất cả các dịch vụ bảo quản những thứ đó. Dòng họ Am-ram, Dít-sa, Hếp-rôn, và U-xi-ên thuộc về Kê-hát; đó là dòng họ Kê-hát. Tổng số người nam từ một tuổi trở lên được 8.600 người. Dòng họ Kê-hát chịu trách nhiệm chăm sóc Nơi Thánh. Dòng họ Kê-hát phải cắm trại phía nam Đền Tạm. Người lãnh đạo gia tộc Kê-hát là Ê-li-sa-phan, con U-xi-ên. Họ chịu trách nhiệm chăm sóc Rương Giao Ước, cái bàn, chân đèn, các bàn thờ, và dịch vụ bảo quản những thứ đó, cùng tấm màn và các vật dụng phụ thuộc. Đứng đầu các vị lãnh đạo chi tộc Lê-vi là Ê-lê-a-sa, con trai thầy tế lễ A-rôn; ông giám sát những người chịu trách nhiệm coi sóc Nơi Thánh. Họ hàng Mách-li và họ hàng Mu-si thuộc về Mê-ra-ri: đó là dòng họ Mê-ra-ri. Tổng số người nam từ một tháng trở lên được 6.200 người. Người lãnh đạo gia tộc Mê-ra-ri là Xu-ri-ên, con A-bi-hai: họ phải cắm trại phía bắc Đền Tạm. Người Mê-ra-ri được bổ nhiệm coi sóc các khung của Đền Tạm, các cây xà ngang, các cây cột, đế cột, cùng tất cả các vật dụng. Họ chịu tránh nhiệm bảo quản những thứ đó cùng coi sóc các cây cột và đế cột xung quanh hành lang, các cây cọc và dây thừng. Môi-se và A-rôn cùng các con trai người phải cắm trại ở phía đông Đền Tạm, về phía mặt trời mọc ngay trước Trại Hội Kiến. Họ phải chịu trách nhiệm coi sóc Nơi Thánh thay cho dân Y-sơ-ra-ên. Kẻ nào khác xâm phạm đến gần Nơi Thánh sẽ bị xử tử. Tổng số người Lê-vi được kiểm kê theo lệnh CHÚA truyền cho Môi-se và A-rôn, chia theo từng họ hàng, tức là các con trai từ một tháng trở lên, được 22.000 người. CHÚA phán dạy Môi-se: “Con hãy kiểm kê tất cả các con trai đầu lòng người Y-sơ-ra-ên từ một tháng trở lên, và lập bảng danh sách. Con hãy thu nhận cho Ta người Lê-vi thay cho tất cả các con đầu lòng người Y-sơ-ra-ên, và các bầy gia súc của người Lê-vi thay cho tất cả các con đầu lòng của gia súc người Y-sơ-ra-ên. Ta là CHÚA.” Như thế, Môi-se kiểm kê tất cả các con đầu lòng của người Y-sơ-ra-ên như CHÚA đã truyền bảo người. Tổng số con trai đầu lòng liệt kê từng tên, được 22.273 người. CHÚA lại phán bảo Môi-se: “Con hãy thu nhận người Lê-vi thay cho tất cả các con đầu lòng người Y-sơ-ra-ên và gia súc của người Lê-vi thay cho gia súc của người Y-sơ-ra-ên. Người Lê-vi thuộc về Ta. Ta là CHÚA. Về phần 273 con đầu lòng Y-sơ-ra-ên là số trội hơn tổng số người Lê-vi, con hãy chuộc lại bằng cách thu mỗi người một lượng rưỡi bạc theo tiêu chuẩn cân đo trong Nơi Thánh. Hãy giao số bạc chuộc các người Y-sơ-ra-ên phụ trội đó cho A-rôn và các con trai người.” Như thế, Môi-se thu bạc chuộc của những người phụ trội đó. Môi-se thu được 415 lượng và hai chỉ bảy bạc của các con đầu lòng người Y-sơ-ra-ên, theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh. Môi-se giao bạc chuộc đó cho A-rôn và các con trai người, đúng như lời CHÚA đã truyền bảo mình. CHÚA phán dạy Môi-se và A-rôn: “Con hãy kiểm tra dân số người Kê-hát, tức là một ngành trong tộc Lê-vi, theo từng họ hàng và gia đình. Con hãy kiểm kê tất cả người nam từ ba mươi đến năm mươi tuổi, trong lứa tuổi phục vụ để họ đảm nhiệm công tác tại Trại Hội Kiến. Đây là công việc của người Kê-hát tại Trại Hội Kiến: chăm sóc các vật chí thánh. Khi nào trại quân dời đi, A-rôn và các con trai người phải vào gỡ bức màn ngăn che nơi thánh và phủ lên Rương Chứng Cớ; rồi phủ lên trên các tấm da cá heo, trải tấm vải mầu xanh lên trên cùng, rồi sửa đòn khiêng cho ngay ngắn. Họ sẽ trải lên bàn đựng bánh thánh tấm khăn xanh rồi đặt lên khăn các đĩa, tô, chén và các bình dùng dâng rượu; bánh thánh dâng liên tục vẫn để y trên bàn. Trên tất cả những vật ấy, họ phải trải một tấm khăn đỏ thẫm, và trên cùng, phủ lên các tấm da cá heo, rồi xỏ đòn khiêng vào. Họ phải lấy một tấm khăn xanh phủ lên giá đèn để thắp sáng và các cây đèn, kéo cắt tim đèn và khay, và tất cả các bình đựng dầu để thắp đèn; rồi bọc giá đèn và các đồ phụ tùng bằng tấm da cá heo và đặt lên một đòn khiêng. Họ cũng phải trải một tấm khăn xanh trên bàn thờ bằng vàng, và phủ lên bằng các tấm da cá heo, rồi xỏ đòn khiêng vào. Tất cả các vật dụng trong việc phục vụ tại Nơi Thánh phải gói lại trong một tấm vải xanh và phủ lên bằng các tấm da cá heo. Họ phải hốt tro tại bàn thờ bằng đồng, trải lên bàn thờ một tấm vải mầu tím, và đặt tất cả các khí dụng tế lễ lên trên: các lư hương, xiên, xẻng, bát dùng vào việc rảy nước, tất cả các phụ tùng bàn thờ, rồi phủ lên các tấm da cá heo và xỏ đòn khiêng vào. Sau khi A-rôn và các con trai người đậy xong Nơi Thánh và tất cả các khí dụng thánh, và khi trại quân sẵn sàng dời đi, dòng họ Kê-hát phải đến khuân vác, nhưng họ không được chạm đến các vật thánh kẻo bị thiệt mạng. Dòng họ Kê-hát phải khuân vác các vật dụng trong Trại Hội Kiến. Thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, con trai A-rôn, có nhiệm vụ lo về dầu thắp đèn, hương liệu, lễ vật chay hằng dâng và dầu xức; cũng phải coi sóc cả Đền Tạm và các vật dụng bên trong, kể cả các đồ bạc và vật dụng thánh.” CHÚA lại bảo Môi-se và A-rôn: “Đừng để gia tộc Kê-hát phải bị tiêu diệt. Đây là điều phải làm để giữ cho họ khỏi chết khi vào Nơi Thánh: A-rôn và các con ông sẽ vào nơi đó với họ, chỉ cho mỗi người vật gì họ phải khiêng. Tuyệt đối không ai được vào nơi đó để nhìn các vật thánh, dù chỉ trong giây lát; ai bất tuân đều phải chết.” CHÚA bảo Môi-se: “Cũng hãy kiểm tra các con cháu Ghẹt-sôn, tùy theo gia tộc và họ hàng họ. Từ ba mươi tuổi cho đến năm mươi tuổi, gồm những người trong lứa tuổi phục vụ, để họ đảm nhiệm công tác tại Trại Hội Kiến. Đây là công việc của họ: họ sẽ khiêng các bức màn của Đền Tạm, Trại Hội Kiến, nóc lều, tấm da phủ nóc lều, tấm màn che cửa lều, các màn quanh hành lang, màn che cửa hành lang, hành lang bao quanh Trại, và bàn thờ, dây thừng và các dụng cụ khác. Những người thuộc gia tộc Ghẹt-sôn có nhiệm vụ di chuyển các vật ấy. Hết thảy công việc của con cháu Ghẹt-sôn, món chi họ phải khiêng đi, và việc chi họ phải làm đều sẽ theo lệnh A-rôn và các con trai người chỉ biểu; người phải giao cho họ coi sóc mọi món chi phải khiêng đi. Trong hội mạc, ấy là công việc của các họ hàng con cháu Ghẹt-sôn. Họ sẽ giữ chức phận mình dưới quyền cai trị của Y-tha-ma, con trai thầy tế lễ A-rôn. Ngươi phải kiểm tra con cháu Mê-ra-ri, tùy theo họ hàng và gia tộc của họ, từ ba mươi tuổi cho đến năm mươi, tức là hết thảy những người trong lứa tuổi phục vụ, để họ đảm nhiệm công tác tại Trại Hội Kiến. Họ sẽ khiêng khung Trại, các thanh ngang, trụ và đế trụ, trụ hành lang, đế trụ, cọc lều, dây và các đồ phụ tùng. Khi phân công người nào khiêng vật gì phải lập danh sách rõ ràng. Trên đây là nhiệm vụ của dòng họ Mê-ra-ri tại trại Hội Kiến dưới sự hướng dẫn của Y-tha-ma, con trai thầy tế lễ A-rôn.” Vậy, Môi-se, A-rôn và các nhà lãnh đạo nhân dân bắt đầu kiểm tra gia tộc Kê-hát, gồm những người trong lứa tuổi phục vụ, từ ba mươi đến năm mươi tuổi, để đảm nhiệm công tác tại trại Hội Kiến. có được hai ngàn bảy trăm năm mươi người. Đó là tổng số người Kê-hát phục vụ tại trại Hội Kiến do Môi-se và A-rôn kiểm tra theo lời Chúa truyền cho Môi-se. Còn con cháu Ghẹt-sôn đã được kiểm tra, tuỳ theo họ hàng và gia tộc của họ, từ ba mươi đến năm mươi tuổi, tức là hết thảy những người trong lứa tuổi phục vụ đảm nhiệm công tác tại trại Hội Kiến, cộng được hai ngàn sáu trăm ba mươi. Đó là những người về gia tộc Ghẹt-sôn đã được kiểm tra, tức là những người hầu việc trong Trại mà Môi-se và A-rôn tu bộ y theo mạng của CHÚA. Còn những người thuộc về gia tộc Mê-ra-ri đã được kiểm tra, tùy theo gia tộc và họ hàng của họ, từ ba mươi cho đến năm mươi tuổi, tức là mọi người có khả năng phục vụ trong Trại, cộng được ba ngàn hai trăm. Đó là những người về các gia tộc Mê-ra-ri đã được kiểm tra. Môi-se và A-rôn kiểm tra dân, y theo lệnh của CHÚA đã cậy Môi-se truyền dạy. Hết thảy những người Lê-vi mà Môi-se, A-rôn và các quan trưởng Y-sơ-ra-ên kiểm tra, tùy theo họ hàng và gia tộc của họ, từ ba mươi cho đến năm mươi tuổi, tức là mọi người đến phục vụ và khuân vác đồ trong Trại, cộng được tám ngàn năm trăm tám mươi người. Người ta kiểm tra người Lê-vi theo lệnh CHÚA đã cậy Môi-se truyền dạy, cắt phần cho mỗi người việc mình phải làm, và vật chi mình phải khiêng đi; người ta kiểm tra dân theo lời CHÚA đã phán dạy Môi-se vậy. CHÚA cũng bảo Môi-se: “Con dạy người Y-sơ-ra-ên phải trục xuất các người phung, người có chất lỏng xuất ra từ thân thể và người bị ô uế vì đụng vào xác người chết ra khỏi trại quân. Dù họ là đàn ông hay đàn bà cũng phải trục xuất để họ không làm ô uế trại quân, vì Ta ở giữa trại dân Ta.” Người Y-sơ-ra-ên vâng lời Chúa. CHÚA lại bảo Môi-se dạy bảo người Y-sơ-ra-ên: “Khi một người, dù đàn ông hay đàn bà phạm một tội gì với một người khác, và do đó phạm tội bất trung với CHÚA, người ấy phải nhận tội mình, phải xưng tội ra, bồi thường thiệt hại do mình gây ra, cộng thêm một phần năm số ấy cho nạn nhân. Trường hợp nạn nhân không còn ai để nhận bồi thường, số bồi thường phải nộp cho CHÚA và số ấy thuộc về thầy tế lễ, cộng thêm một con chiên để làm tế lễ chuộc tội. Phàm lễ vật chi biệt riêng ra thánh mà dân Y-sơ-ra-ên dâng cho thầy tế lễ, đều sẽ thuộc về người. Những vật biệt riêng ra thánh mà mỗi người dâng sẽ thuộc về người; vật chi mỗi người ban cho thầy tế lễ, chắc sẽ thuộc về người vậy.” CHÚA lại bảo Môi-se: “Hãy phán dạy dân Y-sơ-ra-ên rằng: Nếu một người đàn bà ngoại tình nhưng nàng giấu kín, không bị bắt quả tang, cũng không có nhân chứng, và nếu người chồng đâm nghi, nổi ghen khi vợ mình đã thất tiết hoặc nổi ghen trong khi vợ mình không thất tiết, người ấy nên đưa vợ mình đến gặp thầy tế lễ, cũng đem theo một lễ vật gồm một phần mười ê-pha bột lúa mạch không pha dầu, không rắc nhũ hương lên trên, vì đây là lễ vật ghen tương. Thầy tế lễ sẽ đem người vợ đến trước CHÚA, đổ nước thánh vào một cái bình bằng đất, bốc bụi dưới sàn Đền Tạm bỏ vào. Thầy tế lễ cũng xả tóc nàng, đặt lễ vật ghen tương vào tay nàng, tay thầy tế lễ cầm bình nước đắng nguyền rủa. Thầy tế lễ bảo nàng thề rồi nói: ‘Nếu không có ai nằm với bà ngoài chồng bà, thì nước đắng nguyền rủa này sẽ không làm hại bà được. Nhưng nếu bà đã ngoại tình, cầu CHÚA khiến cho nàng trở nên một mầm rủa sả và trù ẻo giữa vòng dân sự ngươi, làm cho ngươi ốm lòi hông và phình bụng lên; nước đắng rủa sả này khá chui vào ruột gan làm cho bụng ngươi phình lên và ốm lòi hông.’ Nàng sẽ nói: ‘Xin cứ đúng như thế!’ Thầy tế lễ viết những lời nguyền rủa này vào sách, rồi rửa sách trong nước đắng. Khi nàng uống nước đắng nguyền rủa, nó sẽ gây nhiều cay đắng trong bụng. Thầy tế lễ sẽ lấy lễ vật ghen tương khỏi tay nàng, đem dâng đưa qua đưa lại trước CHÚA, rồi đem lễ vật đến trước bàn thờ; bốc một nắm bột tượng trưng cho toàn thể lễ vật, đem đốt trên bàn thờ, rồi bảo nàng uống nước. Nếu nàng ngoại tình; nước sẽ trở nên đắng trong bụng, bụng phình lên, đùi sụm xuống, nhân dân sẽ nhắc đến nàng mỗi khi trù ẻo, thề thốt. Nhưng nếu trong sạch nàng sẽ không bị hại mà vẫn có thể sinh nở. Đó là luật lệ về sự ghen tương khi một người đàn bà, ở dưới quyền chồng mình, lỗi đạo và bị ô uế, hoặc khi nào tánh ghen phát sanh nơi người chồng mà ghen vợ mình: người phải đem vợ đến trước mặt CHÚA và thầy tế lễ sẽ làm cho nàng hết thảy điều chi luật lệ nầy đã truyền dạy. Người chồng sẽ không có lỗi mặc dù hậu quả tai hại xảy ra cho vợ mình trong trường hợp vợ ngoại tình thật.” CHÚA phán bảo Môi-se: “Con hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên: Nếu một người nam hay nữ muốn hứa nguyện biệt mình riêng cho Chúa, làm người Na-xi-rê, thì phải kiêng cử rượu và thức uống làm cho say, cũng không được uống giấm làm bằng rượu hoặc bằng một chất lên men. Cả đến nước ép nho cũng không được uống và không được phép ăn nho tươi hay khô. Suốt thời gian biệt mình riêng cho Chúa làm người Na-xi-rê, người ấy không được ăn uống bất cứ món nào từ cây nho, kể cả hạt nho và vỏ trái nho. Suốt thời gian thề nguyện biệt mình làm người Na-xi-rê, người không được cạo đầu. Trọn những ngày người biệt mình riêng cho CHÚA, làm người Na-xi-rê, tóc người cũng được biệt riêng ra thánh và người phải để cho tóc mình mọc dài, không được cắt tỉa. Suốt thời gian biệt mình riêng cho Chúa, không được đến gần xác chết. Đừng vì cha hay mẹ, vì anh em hoặc chị em qua đời mà bị ô uế vì dấu hiệu biệt riêng cho Chúa vẫn ở trên đầu mình. Suốt thời gian biệt riêng đó, người ấy được thánh hóa cho CHÚA. Nếu ai chết thình lình bên người Na-xi-rê làm cho đầu đã biệt ra thánh của người ấy trở nên ô uế, thì phải cạo đầu mình vào ngày được sạch, tức là ngày thứ bảy. Qua ngày thứ tám, người ấy phải đem hai chim gáy hoặc hai bồ câu con đến cho thầy tế lễ tại cửa Trại Hội Kiến. Thầy tế lễ sẽ dâng một con làm tế lễ chuộc tội và con kia làm tế lễ thiêu để chuộc tội người đã mắc vì xác chết. Ngày ấy, người sẽ biệt đầu mình ra thánh. Người ấy sẽ biệt mình ra thánh cho CHÚA suốt những ngày còn lại trong thời gian làm người Na-xi-rê, cũng phải đem một con chiên con đực một tuổi làm tế lễ chuộc sự mắc lỗi. Những ngày làm người Na-xi-rê đã qua không được kể nữa vì đã bị ô uế. Đây là luật lệ về người Na-xi-rê khi mãn hạn biệt riêng mình cho Chúa: Người ấy phải được đem đến cửa Trại Hội Kiến. Người ấy sẽ dâng các tế lễ lên CHÚA: một con chiên con đực một tuổi không tì vết làm tế lễ thiêu, một con chiên cái một tuổi không tì vết làm tế lễ chuộc tội và một con chiên đực không tì vết làm tế lễ cầu an; một giỏ bánh không men bằng bột lọc, các bánh nhỏ rưới dầu, các bánh tráng không men thoa dầu, luôn với lễ vật chay và lễ quán. Thầy tế lễ sẽ đem các lễ vật ấy đến trước mặt CHÚA và dâng tế lễ chuộc tội và tế lễ thiêu; dâng luôn con chiên đực làm tế lễ cầu an, cùng dâng tế lễ chay và lễ quán của người ấy, trừ ra giỏ bánh không men. Tại cửa Trại Hội Kiến, người Na-xi-rê phải cạo tóc trên đầu mình đã biệt riêng và lấy tóc bỏ vào ngọn lửa đang cháy dưới tế lễ cầu an. Sau khi cạo đầu, người Na-xi-rê sẽ được thầy tế lễ đặt trong lòng hai bàn tay cái vai đã luộc chín của con chiên đực, một cái bánh nhỏ không men lấy trong giỏ và một cái bánh tráng không men, rồi dâng đưa qua đưa lại trước mặt CHÚA: đó là những vật thánh thuộc về thầy tế lễ cũng như cái ngực đã được đưa qua đưa lại và cái đùi đã được dâng lên. Sau đó người Na-xi-rê được uống rượu. Đó là luật lệ về người Na-xi-rê. Ngoài những lễ vật cần thiết kèm theo lời hứa nguyện làm người Na-xi-rê; nếu người có hứa nguyện dâng lên CHÚA những lễ vật nào tùy theo khả năng mình, người phải giữ đúng theo lời mình hứa nguyện.” CHÚA phán dạy Môi-se: “Con hãy bảo A-rôn và các con trai người: Đây là cách chúc phước cho dân Y-sơ-ra- ên: Cầu xin CHÚA ban phước cho ngươiVà bảo vệ ngươi! Cầu xin CHÚA làm cho mặt Ngài chiếu sáng ngươiVà làm ơn cho ngươi! Cầu xin CHÚA đoái xem ngươiVà ban bình an cho ngươi! Như thế, họ sẽ đặt danh Ta trên dân Y-sơ-ra-ên, thì Ta sẽ ban phước cho dân đó.” Dựng xong Đền Tạm, Môi-se xức dầu và biệt riêng ra thánh cả Đền Tạm lẫn tất cả đồ đạc trong ấy. Ông cũng xức dầu và biệt ra thánh bàn thờ và tất cả vật dụng của bàn thờ. Khi ấy các nhà lãnh đạo của Y-sơ-ra-ên, các gia trưởng làm trưởng chi tộc đã đặc trách việc kiểm tra dân số, đều dâng lễ vật. Họ đem lễ vật mình đến trước mặt CHÚA chở trong sáu cỗ xe do mười hai bò đực kéo, mỗi trưởng chi tộc một con bò và hai trưởng chi tộc một cỗ xe. Họ dâng các lễ vật đó trước Đền Tạm. CHÚA phán bảo Môi-se: “Con hãy thu các lễ vật của những người này để dùng vào công việc của Trại Hội Kiến. Con hãy giao các lễ vật ấy cho người Lê-vi tùy công tác của mỗi người.” Vậy, Môi-se thu nhận các cỗ xe và bò đực rồi giao lại cho người Lê-vi: hai cỗ xe và bốn con bò cho dòng họ Ghẹt-sôn tùy công tác họ, bốn cỗ xe và tám con bò cho dòng họ Mê-ra-ri tùy theo công tác họ. Tất cả đều đặt dưới quyền chỉ huy của Y-tha-ma con trai thầy tế lễ A-rôn. Nhưng Môi-se không giao xe và bò cho dòng họ Kê-hát vì các vật dụng thánh họ chịu trách nhiệm phải được khuân vác trên vai. Khi bàn thờ được xức dầu, các nhà lãnh đạo đem lễ vật dâng lên trước bàn thờ để khánh thành. Vì CHÚA đã phán dạy Môi-se: “Các nhà lãnh đạo phải mang đến lễ vật để khánh thành bàn thờ, mỗi ngày một người.” Ngày thứ nhất, Na-ha-sôn con của A-mi-na-đáp, chi tộc Giu-đa, dâng lễ vật. Lễ vật người gồm có một chiếc đĩa bạc nặng 1.50kg và một cái bát nặng 0.80kg, theo tiêu chuẩn cân đo nơi thánh: cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay; một cái chén bằng vàng nặng 110gm đựng đầy hương liệu: một con bò đực tơ, một con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu: một con dê đực làm tế lễ chuộc tội: hai con bò đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Na-ha-sôn, con của A-mi-na-đáp. Ngày thứ nhì, Na-tha-na-ên con của Xu-a, chi tộc Y-sa-ca, dâng lễ vật. Lễ vật người gồm có một chiếc đĩa bạc nặng 1.50kg và một cái bát nặng 0.80kg theo tiêu chuẩn cân đo nơi thánh: cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay, một cái chén bằng vàng nặng 110gm đựng đầy hương liệu; một con bò đực tơ, một con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu; một con dê đực làm tế lễ chuộc tội; hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Na-tha-na-ên, con của Xu-a. Ngày thứ ba, Ê-li-áp con của Hê-long, chi tộc Sa-bu-luân, dâng lễ vật. Lễ vật người gồm có một chiếc đĩa bạc nặng 1.50kg và một bát nặng 0.80kg, theo tiêu chuẩn cân đo nơi thánh; cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay, một cái chén bằng vàng nặng 110gm đựng đầy hương liệu; một con bò đực tơ, một con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu, một con dê đực làm tế lễ chuộc tội; hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Ê-li-áp, con của Hê-long. Vào ngày thứ tư, Ê-li-sua con của Sê-đêu, chi tộc Ru-bên, dâng lễ vật. Lễ vật người gồm có một chiếc đĩa bạc nặng 1.50kg và một bát nặng 0.80kg, theo tiêu chuẩn cân đo nơi thánh; cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay, một cái chén bằng vàng nặng 110gm đựng đầy hương liệu; một con bò đực tơ, một con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu, một con dê đực làm tế lễ chuộc tội; hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi để làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Ê-li-sua, con của Sê-đêu. Ngày thứ năm, Sê-lu-miên con của Xu-ri-ha-đai, chi tộc Si-mê-ôn, dâng lễ vật. Lễ vật người gồm có một đĩa bạc nặng 1.50kg và một bát nặng 0.80kg, theo tiêu chuẩn cân đo nơi thánh; cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay, một cái chén bằng vàng nặng 110gm đựng đầy hương liệu; một con bò đực tơ, một con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu, một con dê đực làm tế lễ chuộc tội; hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Sê-lu-miên, con của Xu-ri-ha-đai. Ngày thứ sáu, Ê-li-a-sáp con của Đê-u-ên, chi tộc Gát, dâng lễ vật. Lễ vật người gồm có một đĩa bạc nặng 1.50kg và một bát nặng 0.80kg, theo tiêu chuẩn cân đo nơi thánh; cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay, một cái chén bằng vàng nặng 110gm đựng đầy hương liệu; một con bò đực tơ, một con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu, một con dê đực làm tế lễ chuộc tội; hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Ê-li-a-sáp, con của Đê-u-ên. Ngày thứ bảy, Ê-li-sa-ma con của A-mi-hút, chi tộc Ép-ra-im dâng lễ vật. Lễ vật người gồm có một đĩa bạc nặng 1.50kg và một bát nặng 0.80kg, theo tiêu chuẩn cân đo nơi thánh; cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay, một cái chén bằng vàng nặng 110gm đựng đầy hương liệu; một con bò đực tơ, một con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu, một con dê đực làm tế lễ chuộc tội; hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Ê-li-sa-ma, con của A-mi-hút. Ngày thứ tám, Ga-ma-liên con của Phê-đát-su, chi tộc Ma-na-se, dâng lễ vật. Lễ vật người gồm có một đĩa bạc nặng 1.50kg và một bát nặng 0.80kg, theo tiêu chuẩn cân đo nơi thánh; cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay, một cái chén bằng vàng nặng 110gm đựng đầy hương liệu; một con bò đực tơ, một con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu, một con dê đực làm tế lễ chuộc tội; hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Ga-ma-liên, con của Phê-đát-su. Ngày thứ chín, A-bi-đan con của Ghi-đeo-ni, chi tộc Bên-gia-min, dâng lễ vật. Lễ vật người gồm có một đĩa bạc nặng 1.50kg và một bát nặng 0.80kg, theo tiêu chuẩn cân đo nơi thánh; cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay, một cái chén bằng vàng nặng 110gm đựng đầy hương liệu; một con bò đực tơ, môt con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu, một con dê đực làm tế lễ chuộc tội; hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lể vật của A-bi-đan, con của Ghi-đeo-ni. Ngày thứ mười, A-hi-ê-xe con của Am-mi-sa-đai, chi tộc Đan, dâng lễ vật. Lễ vật người gồm có một đĩa bạc nặng 1.50kg và một bát nặng 0.80kg, theo tiêu chuẩn cân đo nơi thánh; cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay, một cái chén bằng vàng nặng 110gm đựng đầy hương liệu; một con bò đực tơ, môt con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu, một con dê đực làm tế lễ chuộc tội; hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lể vật của A-hi-ê-xe, con của Am-mi-sa-đai. Ngày thứ mười một, Pha-ghi-ên con của Óc-ran, chi tộc A-se, dâng lễ vật. Lễ vật người gồm có một đĩa bạc nặng 1.50kg và một bát nặng 0.80kg, theo tiêu chuẩn cân đo nơi thánh; cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay, một cái chén bằng vàng nặng 110gm đựng đầy hương liệu; một con bò đực tơ, môt con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu, một con dê đực làm tế lễ chuộc tội; hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Pha-ghi-ên, con của Óc-ran. Ngày thứ mười hai, A-hi-ra con của Ê-nan, chi tộc Nép-ta-li, dâng lễ vật. Lễ vật người gồm có một đĩa bạc nặng 1.50kg và một bát nặng 0.80kg, theo tiêu chuẩn cân đo nơi thánh; cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay, một cái chén bằng vàng nặng 110gm đựng đầy hương liệu; một con bò đực tơ, môt con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu, một con dê đực làm tế lễ chuộc tội; hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của A-hi-ra, con của Ê-nan. Đó là các lễ vật của các trưởng chi tộc dân Y-sơ-ra-ên dâng hiến trong lễ khánh thành bàn thờ, khi bàn thờ được xức dầu: mười hai đĩa bạc, mười hai chậu bạc, mười hai chén vàng; mỗi đĩa bạc nặng 1.50kg và mỗi bát nặng 0.80kg. Tổng cộng đĩa và bát được 28kg bạc, theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh; mười hai chén vàng đựng đầy hương liệu, mỗi cái cân nặng 110gm, theo tiêu chuẩn cân đo nơi thánh; tổng cộng được 1.40kg vàng. Số bò đực dâng làm tế lễ thiêu được mười hai con, với mười hai con chiên đực, mười hai con chiên con đực một tuổi, cùng các lễ vật chay cặp theo. Ngoài ra, mười hai con dê đực được dâng làm tế lễ chuộc tội. Tổng số sinh tế dâng làm tế lễ cầu an được hai mươi bốn con bò đực, sáu mươi con cừu đực, sáu mươi con dê đực và sáu mươi con chiên con đực một tuổi. Đó là các lễ vật dâng lên để khánh thành bàn thờ sau khi bàn thờ được xức dầu. Khi vào Trại Hội Kiến để thưa chuyện với CHÚA, Môi-se được nghe tiếng phán với mình phát ra giữa hai chê-ru-bim trên Nắp Chuộc Tội đặt trên Rương Giao Ước. Và như thế, CHÚA trò chuyện với Môi-se. CHÚA phán dạy Môi-se: “Con hãy bảo A-rôn: Khi nào anh sắp đặt các cây đèn, phải để bảy cây đèn chiếu soi phía trước chân đèn. A-rôn vâng theo, đặt bảy cây đèn lên phía trước chân đèn y như CHÚA đã phán dạy Môi-se. Chân đèn đã được chế tạo bằng vàng dát mỏng, cả đến chân và các hoa cũng đều đánh dát. Như thế, người ta làm chân đèn đúng theo kiểu CHÚA đã chỉ cho Môi-se xem. CHÚA phán bảo Môi-se: Con hãy phân rẽ người Lê-vi với toàn dân Y-sơ-ra-ên và thanh tẩy họ. Đây là cách thanh tẩy họ: Con hãy rảy nước tẩy trên họ rồi cho họ cạo khắp người, giặt áo xống và dọn mình thanh sạch. Họ phải đem theo một con bò đực với lễ vật chay bằng bột lọc nhồi dầu. Còn con cũng phải bắt một con bò đực tơ để dâng tế lễ chuộc tội. Con hãy bảo người Lê-vi đến gần trước Trại Hội Kiến và tụ họp toàn dân Y-sơ-ra-ên. Con phải bảo người Lê-vi đến gần trước mặt CHÚA rồi cho dân Y-sơ-ra-ên đặt tay trên người Lê-vi. A-rôn phải dâng người Lê-vi lên trước mặt CHÚA như một tế lễ đưa qua đưa lại từ dân Y-sơ-ra-ên, ngõ hầu người Lê-vi sẵn sàng phục vụ CHÚA. Người Lê-vi sẽ đặt tay trên đầu hai con bò đực. Con hãy dâng con bò này làm tế lễ chuộc tội và con kia làm tế lễ thiêu cho CHÚA để chuộc tội cho người Lê-vi. Con hãy bảo người Lê-vi đứng trước mặt A-rôn và các con trai người, rồi dâng họ như một tế lễ đưa qua đưa lại cho CHÚA. Như thế, con sẽ biệt riêng người Lê-vi ra khỏi Y-sơ-ra-ên, thì người Lê-vi sẽ thuộc về Ta. Sau khi con thanh tẩy họ và dâng họ lên như tế lễ đưa qua đưa lại, người Lê-vi sẽ đến làm công việc tại Trại Hội Kiến. Người Lê-vi phải dâng mình trọn vẹn cho Ta từ giữa dân Y-sơ-ra-ên. Ta đã chọn họ để họ thuộc về Ta thay thế cho các con đầu lòng cả người lẫn gia súc trong dân Y-sơ-ra-ên. Tất cả các trưởng nam trong Y-sơ-ra-ên và các con đầu lòng trong bầy gia súc đều thuộc về Ta. Ta đã biệt riêng chúng cho Ta khi Ta đánh hạ tất cả các con đầu lòng tại Ai-cập. Và Ta đã chọn người Lê-vi thay thế tất cả con đầu lòng Y-sơ-ra-ên. Trong toàn dân Y-sơ-ra-ên, Ta đã ban người Lê-vi như một tặng phẩm cho A-rôn và các con trai người để làm công việc tại Trại Hội Kiến thay cho dân Y-sơ-ra-ên, cùng chuộc tội cho toàn dân ngõ hầu dân Y-sơ-ra-ên không bị tai họa gì khi họ đến gần Nơi Thánh.” Môi-se, A-rôn và toàn dân Y-sơ-ra-ên làm cho người Lê-vi đúng theo mọi điều CHÚA đã phán dặn Môi-se. Người Lê-vi dọn mình thanh sạch và giặt áo xống mình, rồi A-rôn dâng họ như tế lễ đưa qua đưa lại trước mặt CHÚA và làm tế lễ chuộc tội để thanh tẩy họ. Sau đó người Lê-vi đến làm công việc trong Trại Hội Kiến trước mặt A-rôn và các con trai người, theo sự phân công. Người ta làm cho người Lê-vi mọi điều CHÚA đã phán dặn Môi-se. CHÚA phán bảo Môi-se: “Đây là luật lệ áp dụng cho người Lê-vi: Mỗi người nam từ hai mươi lăm tuổi trở lên phải đến dự phần phục vụ tại Trại Hội Kiến. Đến tuổi năm mươi họ phải về hưu, không phải làm việc nữa. Đến tuổi đó, họ có thể phụ giúp anh em mình trong các dịch vụ tại Trại Hội Kiến, nhưng chính họ không được làm việc. Con phải áp dụng luật lệ này khi phân công cho người Lê-vi.” CHÚA phán bảo Môi-se trong sa mạc Si-nai vào tháng giêng năm thứ nhì sau khi rời khỏi Ai-cập: “Con phải cho dân Y-sơ-ra-ên cử hành lễ Vượt Qua vào thời gian ấn định. Con hãy giữ lể ấy đúng thời gian ấn định, vào lúc chạng vạng tối ngày mười bốn tháng này đúng theo mọi qui luật và sắc lệnh.” Vậy Môi-se bảo dân Y-sơ-ra-ên cử hành lễ Vượt Qua: họ giữ lễ ấy trong sa mạc lúc chạng vạng ngày mười bốn tháng giêng đúng theo mọi điều Chúa đã truyền lệnh cho Môi-se nhưng hôm ấy, có mấy người bị ô uế vì đến gần xác chết nên không giữ lễ Vượt Qua được. Vậy họ đến cùng Môi-se và A-rôn ngay hôm ấy và thưa với Môi-se: “Chúng tôi bị ô uế vì xác chết của loài người. Vì sao giữa dân Y-sơ-ra-ên chúng tôi phải mất phần dâng tế lễ cho CHÚA theo thời gian ấn định?” Môi-se đáp: “Anh em hãy đợi tôi đến tìm biết điều CHÚA truyền dạy về anh em.” CHÚA phán dạy Môi-se: “Con hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên: Khi một người trong vòng các ngươi hoặc trong dòng dõi các ngươi bị ô uế vì xác chết hoặc bận đi xa, thì cũng buộc phải giữ lễ cho CHÚA. Những người ấy phải giữ lễ này ngày mười bốn tháng hai lúc chạng vạng, ăn bánh không men với rau đắng. Đừng để vật gì còn lại đến sáng mai, cũng không nên bẻ gãy các xương. Phải giữ đúng mọi luật lệ về lễ Vượt Qua. Nhưng những ai tinh sạch và không đi xa mà chẳng giữ lễ Vượt Qua thì sẽ bị khai trừ ra khỏi nhân dân, vì chẳng dâng tế lễ cho CHÚA trong kỳ ấn định; người ấy sẽ mang tội mình. Khi một người nước ngoài kiều ngụ giữa các ngươi muốn cử hành lễ Vượt Qua, thì phải giữ đúng các qui luật và sắc lệnh. Các ngươi phải áp dụng qui luật cho người nước ngoài cũng như cho người bản xứ.” Trong ngày Đền Tạm, Trại Chứng Cớ được dựng lên, có đám mây bao phủ nó. Từ tối đến sáng, đám mây bên trên Đền Tạm giống như đám lửa. Lúc nào cũng vậy, ban ngày đám mây bao phủ Đền Tạm, còn ban đêm giống như đám lửa. Một khi trụ mây cất lên khỏi Đền Tạm, dân Y-sơ-ra-ên ra đi; một khi trụ mây dừng lại, dân Y-sơ-ra-ên cắm trại. Theo lệnh của CHÚA, dân Y-sơ-ra-ên cắm trại; cũng theo lệnh của Ngài, họ ra đi. Bao lâu trụ mây ở trên Đền Tạm thì dân Y-sơ-ra-ên cứ ở trong trại mình. Khi trụ mây cứ ở trên Đền Tạm một thời gian dài, dân Y-sơ-ra-ên cũng vâng lệnh CHÚA và không ra đi. Đôi khi trụ mây dừng trên Đền Tạm chỉ một vài ngày; theo lệnh của CHÚA, nhân dân cắm trại. Và sau đó, theo lệnh của Ngài, họ lại ra đi. Đôi khi trụ mây chỉ dừng lại từ tối đến sáng; khi trụ mây cất lên buổi sáng, họ ra đi. Bất luận ban ngày hay ban đêm, mỗi khi trụ mây cất lên, nhân dân ra đi. Khi trụ mây dừng trên Đền Tạm hai ngày hoặc một tháng hay một năm, dân Y-sơ-ra-ên cứ ở lại trong trại mà không ra đi nhưng khi trụ mây cất lên họ ra đi. Theo lệnh của CHÚA, họ cắm trại: cũng theo lệnh Ngài, họ ra đi. Họ tuân lệnh CHÚA, đúng theo mệnh lệnh Chúa truyền qua Môi-se. CHÚA phán bảo Môi-se: “Con hãy làm hai cái loa bằng bạc đánh dát, để dùng triệu tập nhân dân nhóm họp và để truyền lệnh nhổ trại ra đi. Khi thổi cả hai loa, toàn dân sẽ tập họp trước mặt con tại cửa Trại Hội Kiến. Nếu có một loa thổi lên thì các nhà lãnh đạo tức các trưởng chi tộc Y-sơ-ra-ên sẽ họp trước mặt con. Khi có tiếng loa thổi vang thì các trại quân phía đông phải ra đi. Khi nghe thổi tiếng vang lần thứ nhì thì các trại quân phía nam phải ra đi; khi nào muốn các trại quân ra đi thì phải thổi loa vang. Khi triệu tập nhân dân cũng dùng loa thổi nhưng đừng thổi tiếng vang. Các con trai A-rôn, tức các thầy tế lễ, sẽ thổi các loa ấy. Đó là một lệ định đời đời cho các người từ đời nầy qua đời kia. Khi các ngươi xuất quân ra trận từ quê hương đất nước chống trả địch quân đang áp bức mình thì phải thổi loa vang. Khi ấy, CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi sẽ nhớ lại ngươi và giải cứu ngươi khỏi quân thù nghịch. Khi con gặp lúc hân hoan như các lễ định kỳ, lễ trăng mới thì phải thổi loa khi dâng tế lễ thiêu và tế lễ cầu an. Loa sẽ được dùng làm kỷ niệm trước mặt Đức Chúa Trời. Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi.” Ngày hai mươi mốt tháng hai năm thứ nhì, trụ mây cất lên khỏi Đền Tạm Chứng Cớ. Dân Y-sơ-ra-ên nhổ trại, khởi đầu cuộc hành trình từ sa mạc Si-nai và trụ mây dừng lại trong sa mạc Pha-ran. Đây là lần đầu họ ra đi theo lệnh CHÚA truyền cho Môi-se. Ngọn cờ của trại quân Giu-đa đi trước, kéo đi từng đơn vị. Na-ha-sôn, con A-mi-na-đáp, chỉ huy quân đội Giu-đa. Na-tha-na-ên, con Xu-a, chỉ huy các đơn vị quân đội Y-sa-ca. Ê-li-áp, con Hê-long, chỉ huy các đơn vị quân đội Sa-bu-luân. Lúc ấy Đền Tạm được dỡ xuống, dòng họ Ghẹt-sôn và dòng họ Mê-ra-ri khuân vác Đền Tạm ra đi. Kế đến là các đơn vị quân đội của Ru-bên ra đi dưới ngọn cờ mình. Ê-lít-su, con Sê-đêu, chỉ huy quân đội Ru-bên. Sê-lu-miên, con Xu-ri-ha-đai, chỉ huy các đơn vị quân đội Si-mê-ôn. Ê-li-a-sáp, con Đê-u-ên, chỉ huy các đơn vị quân đội Gát. Lúc ấy người Kê-hát ra đi, khuân vác các vật thánh. Đền Tạm phải được dựng lên xong xuôi trước khi họ đến nơi. Kế đó, các đơn vị quân đội Ép-ra-im ra đi dưới ngọn cờ mình. Ê-li-ma-sa, con A-mi-hút, chỉ huy quân đội Ép-ra-im. Ga-ma-liên, con Phê-đát-su, chỉ huy các đơn vị quân đội Ma-na-se. A-bi-đan, con Ghi-đeo-ni, chỉ huy các đơn vị quân đội Bên-gia-min. Sau hết, đi hậu tập là các đơn vị quân đội Đan: họ ra đi dưới ngọn cờ mình. A-hi-ê-xe, con Am-mi-sa-đai, chỉ huy quân đội Đan. Pha-ghi-ên, con Óc-ran, chỉ huy các đơn vị quân đội A-se. A-hi-ra, con Ê-nan, chỉ huy các đơn vị quân đội Nép-ta-li. Đó là thứ tự hành quân của các đội quân Y-sơ-ra-ên. Môi-se bảo Hô-bát, con Rê-u-ên người Ma-đi-an, tức anh vợ mình: “Chúng tôi đang đi đến xứ mà CHÚA đã phán hứa: Ta sẽ ban xứ ấy cho các ngươi. Anh hãy đi với chúng tôi thì chúng tôi sẽ biệt đãi anh vì CHÚA đã hứa những điều tốt lành cho dân Y-sơ-ra-ên.” Người ấy đáp: “Không, tôi không đi đâu. Tôi sẽ về quê hương đất nước tôi với dân tộc tôi.” Nhưng Môi-se yêu cầu: “Xin anh đừng lìa bỏ chúng tôi. Anh biết nơi nào chúng tôi phải cắm trại giữa sa mạc nên anh là con mắt của chúng tôi. Chúng tôi sẽ chia với anh những điều tốt lành CHÚA ban cho chúng tôi.” Vậy, họ từ núi của CHÚA ra đi suốt ba ngày. Rương Giao Ước của CHÚA đi trước họ trong ba ngày đó để tìm cho họ một nơi an nghỉ. Khi họ dời trại ra đi, trụ mây của CHÚA ở trên họ ban ngày. Mỗi khi Rương Giao Ước ra đi, Môi-se nói:“Lạy CHÚA, xin hãy chổi dậy!Nguyện quân thù Chúa bị đánh tan;Nguyện bọn cừu địch chạy trốn trước mặt Ngài.” Mỗi khi Rương Giao Ước dừng lại, Môi-se lại cầu nguyện:“Lạy CHÚA, xin Ngài hãy trở lại,Cùng muôn ngàn dân Y-sơ-ra-ên!” Bấy giờ, dân sự phàn nàn về những cảnh gian khổ khó khăn. CHÚA nghe liền nỗi thạnh nộ; CHÚA cho ngọn lửa cháy lên giữa vòng dân sự thiêu đốt nơi đầu cùng trại quân. Dân sự kêu cứu Môi-se; Môi-se cầu nguyện cùng CHÚA thì lửa ngưng cháy. Địa điểm này được gọi là Tha-bê-ra vì ngọn lửa của CHÚA đã thiêu đốt giữa dân sự. Lúc ấy, bọn tạp dân giữa vòng dân sự nổi lòng tham muốn khiến dân Y-sơ-ra-ên lại khóc nữa và nói: “Ước gì chúng ta được ăn thịt! Chúng ta nhớ những con cá ăn miễn phí tại Ai-cập, những trái dưa chuột, dưa gang, củ kiệu, hành và tỏi: nhưng bây giờ sức mạnh của chúng ta bị khô héo, vì chẳng có chi hết, chỉ thấy ma-na mà thôi!” Ma-na có hình thể như hạt ngò, mầu sắc như nhựa thơm của một loài cây. Dân sự đi tản ra lượm lấy đem về xay trong cối xay hoặc giã bằng cối giã, nấu trong nồi và làm bánh có vị giống như bánh pha dầu. Khi sương mù bao phủ trại quân ban đêm thì ma-na cũng rơi xuống. Môi-se nghe tiếng dân sự khóc than trong gia đình của họ, mỗi người tại cửa trại mình. Cơn thịnh nộ của CHÚA nổi phừng lên, còn Môi-se thì khổ sở. Môi-se thưa với CHÚA: “Tại sao Chúa bạc đãi đầy tớ Chúa như thế? Tại sao con không được ơn dưới mắt Chúa, đến nỗi Chúa đặt gánh nặng của cả dân tộc này trên con? Con có thụ thai dân tộc này đâu? Con đâu có nuôi dưỡng họ mà Chúa lại bảo con: con hãy cưu mang dân tộc này trong lòng như người vú ẵm bồng đứa trẻ đang bú, cho đến khi vào xứ Chúa đã thề hứa ban cho tổ phụ họ. Con tìm đâu ra thịt cho cả dân tộc này? Vì họ khóc trước mặt con mà đòi hỏi: xin cho chúng tôi ăn thịt. Một mình con không đủ khả năng gánh cả dân tộc này, vì gánh nặng quá sức con chịu. Nếu Chúa đãi con như thế thà cho con chết ngay bây giờ đi, nếu con được ơn dưới mắt Chúa, chứ đừng để con thấy sự tàn hại.” CHÚA phán bảo Môi-se: “Con hãy tập họp cho Ta bảy mươi trưởng lão Y-sơ-ra-ên mà con biết là những người lãnh đạo và quan chức trong dân sự. Hãy dẫn họ đến Trại Hội Kiến, cho họ đứng tại đó với con. Ta sẽ ngự xuống, trò chuyện với con tại đó. Ta sẽ lấy Thần Ta ở trong con và đặt Thần Ta trong họ, để họ chia gánh nặng về dân tộc này với con và con không phải gánh một mình.” “Con hãy truyền bảo nhân dân: Ngày mai, các ngươi phải dọn mình thánh sạch thì các người sẽ được ăn thịt. Vì tai CHÚA có nghe các ngươi khóc than rằng: Ai sẽ cho chúng ta ăn thịt? Vì chúng ta đã sống sung túc tại Ai-cập. Vậy nên CHÚA sẽ ban cho các ngươi thịt để ăn. Các ngươi sẽ được ăn không phải chỉ một ngày, hai ngày, năm ngày, mười ngày hay hai mươi ngày đâu, nhưng được ăn cả một tháng, cho đến khi nào thịt tràn ra lỗ mũi và các ngươi chán ngán vì các ngươi đã lìa bỏ CHÚA đang ngự giữa các ngươi và khóc than trước mặt Ngài rằng: Tại sao chúng ta lại rời bỏ Ai-cập?” Nhưng Môi-se thưa: “Đoàn dân bao quanh con đây có ít nhất là sáu trăm ngàn người đàn ông, mà Chúa lại bảo: Ta sẽ cho chúng ăn thịt suốt một tháng! Dù giết cả đàn bò và cừu thì cũng không đủ cho họ ăn? Dù bắt hết cá dưới biển thì cũng không đủ.” CHÚA đáp lời Môi-se: “Quyền năng Ta có bị giới hạn không? Con sẽ thấy lời Ta có được ứng nghiệm hay không.” Vậy Môi-se đi ra bảo nhân dân những lời CHÚA đã phán. Ông tập họp bảy mươi trưởng lão của nhân dân và đặt họ xung quanh trại. CHÚA ngự xuống trong đám mây và phán dạy Môi-se. Ngài lấy một phần Thần Ngài đang ngự trong ông và đặt trong bảy mươi trưởng lão. Khi Thần Chúa ngự trên họ, các trưởng lão liền nói tiên tri, nhưng không cứ nói mãi. Có hai người, một người tên Ên-đát, người kia tên Mê-đát, có tên trong danh sách bảy mươi trưởng lão nhưng ở lại trong trại quân, không ra đến trại Hội Kiến. Tuy vậy Thần Chúa ngự trên họ và họ nói tiên tri trong trại quân. Một thanh niên chạy đi báo cáo cho Môi-se: “Ên-đát và Mê-đát đang nói tiên tri trong trại quân.” Giô-suê con trai Nun, phụ tá của Môi-se, và là một trong các người Môi-se đã chọn, yêu cầu: “Thưa Chủ tướng Môi-se, xin ngăn cấm họ.” Nhưng Môi-se đáp: “Liệu con ganh tị thế cho ta sao? Ước gì tất cả dân Chúa đều là tiên tri! Và ước gì CHÚA đặt Thần Ngài trong họ!” Môi-se và trưởng lão Y-sơ-ra-ên quay về trại quân. CHÚA cho một ngọn gió thổi từ biển cả, mang chim cút đến, rải ra tràn khắp chung quanh trại quân, trên một khoảng cách độ chừng một ngày đi bộ, và một lớp khoảng một thước. Dân sự đứng dậy lượm chim cút suốt ngày và đêm hôm đó cùng trọn ngày hôm sau, mỗi người đều lượm thịt, người ít nhất cũng lượm được cả ngàn lít. Người ta căng chim cút ra phơi khắp chung quanh trại quân. Nhưng khi ăn, thịt chim mới vào đến răng, chưa kịp nhai thì CHÚA nổi thịnh nộ hình phạt dân sự bằng một tai ách rất nặng. Địa điểm này được gọi là Kíp-rốt Ha-tha-va, vì là nơi chôn xác của những người tham ăn. Từ Kíp-rốt Ha-tha-na dân Y-sơ-ra-ên đi qua Hát-sê-rốt và dừng chân tại đây. Mi-ri-am và A-rôn nói hành Môi-se vì người vợ quê ở xứ Cút mà Môi-se đã cưới, vì Môi-se đã cưới bà này làm vợ. Hai người nói: “Không lẽ CHÚA chỉ phán dạy qua một mình Môi-se mà thôi sao? Ngài không dùng chúng ta mà phán dạy sao?” CHÚA nghe lời đó. Môi-se là một người rất khiêm tốn, khiêm tốn nhất trần gian. Lập tức CHÚA bảo Môi-se, A-rôn và Mi-ri-am: “Cả ba hãy ra Trại Hội Kiến.” Ba người đều đi. CHÚA ngự xuống trong trụ mây và đứng tại cửa Trại Hội Kiến, rồi gọi A-rôn và Mi-ri-am đến. Hai người đều bước tới. Chúa phán: “Hãy lắng nghe lời Ta:Khi một nhà tiên tri xuất hiện giữa các ngươi,Ta bầy tỏ chính mình Ta cho người ấy trong khải tượng.Ta phán dạy người trong giấc mộng. Nhưng trường hợp Môi-se đầy tớ Ta không giống như vậy, người thật trung tín trong cả nhà Ta. Ta trò chuyện với người đối mặtCách rõ ràng, không dùng lời bí ẩn,Và người thấy hình dạng CHÚA.Vậy, sao các ngươi không sợ nói hành đầy tớ Ta là Môi-se?” Cơn thịnh nộ của CHÚA nổi phừng với A-rôn và Mi-ri-am và Ngài bỏ họ ngự đi. Khi trụ mây cất lên khỏi trại thì Mi-ri-am bị phung trắng như tuyết. A-rôn quay lại nhìn Mi-ri-am, thấy bà đã mắc bệnh phung. A-rôn nói với Môi-se: “Chủ tôi ơi, xin đừng chấp lỗi chúng tôi đã phạm cách điên dại, xin đừng để chị trong tình trạng như đứa con sảo thai, thịt bị ăn hết một nửa khi ra khỏi lòng mẹ.” Môi-se kêu cầu Chúa: “Lạy Đức Chúa Trời, xin Ngài chữa lành cho chị!” CHÚA đáp lời Môi-se: “Nếu bị cha mình nhổ trên mặt thì nó không bị hổ thẹn bảy ngày sao? Hãy cầm giữ nàng ngoài trại quân bảy ngày, sau đó nàng sẽ lại được đem vào.” Vậy, Mi-ri-am bị cầm giữ bên ngoài trại quân bảy ngày. Nhân dân không ra đi cho đến ngày nàng được đem về trại quân. Sau đó, nhân dân rời Hát-sê-rốt ra đi và cắm trại tại sa mạc Pha-ran. CHÚA bảo Môi-se: “Con hãy sai một số người đi trinh sát đất nước Ca-na-an mà Ta đang ban cho dân Y-sơ-ra-ên. Mỗi chi tộc phải cử đi một người lãnh đạo.” Vậy, từ sa mạc Pha-ran, Môi-se cử họ ra đi, theo lệnh CHÚA. Tất cả đều là những người lãnh đạo của dân Y-sơ-ra-ên. Đây là danh sách của họ:Chi tộc Ru-bên: Sam-mua, con trai Xa-cu. Chi tộc Si-mê-ôn: Sa-phát, con trai Hô-ri. Chi tộc Giu-đa: Ca-lép, con trai Giê-phu-nê. Chi tộc Y-sa-ca: Di-ganh, con trai Giô-sép. Chi tộc Ép-ra-im: Hô-sê, con trai Nun. Chi tộc Bên-gia-min: Phanh-ti, con trai Ra-phu. Chi tộc Sa-bu-luân: Gát-đi-ên, con trai Sô-đi. Chi tộc Ma-na-se: Ga-đi, con trai Su-si. Chi tộc Đan: A-mi-ên, con trai Ghê-ma-li. Chi tộc A-se: Sê-thu, con trai Mi-ca-ên. Chi tộc Nép-ta-li: Nách-bi, con trai Vấp-si. Chi tộc Gát: Gu-ên, con trai Ma-ki. Đó là tên những người Môi-se sai đi trinh sát xứ ấy Môi-se đổi tên Hô-sê, con trai Nun thành Giô-suê. Khi Môi-se sai họ đi trinh sát xứ Ca-na-an, ông bảo: “Các ngươi hãy đi suốt xứ Nê-ghép đến tận vùng đồi núi, xem thử đất đai như thế nào, nhân dân xứ ấy mạnh hay yếu, ít hay nhiều, đất đai họ sinh sống ra làm sao? Tốt hay xấu? Các thành họ cư trú thuộc loại nào? Không có tường thành bao bọc hay có tường lũy kiên cố? Đất như thế nào? Phì nhiêu hay cằn cỗi? Có cây lớn trên đất hay không? Các ngươi hãy cố gắng mang về một ít trái cây của đất đó.” Lúc ấy đang độ nho chín đầu mùa. Vậy, họ đi lên trinh sát đất đai từ sa mạc Xin cho đến tận Rê-hốp, về hướng Lê-bô Ha-mát. Họ đi lên qua xứ Nê-ghép và đến Hếp-rôn, là nơi sinh sống của A-hi-man. Sê-sai và Thanh-mai, dòng dõi của A-nác. Thành Hếp-rôn được xây cất bảy năm trước thành Xô-an bên Ai-cập. Đến trũng Ếch-côn, họ cắt một nhánh cây nho có một cành nho, phải hai người lấy sào khiêng mới nổi; ngoài ra còn một số thạch lựu và trái vả. Địa điểm này được gọi là trũng Ếch-côn, vì dân Y-sơ-ra-ên đã cắt chùm nho ở đó. Sau khi trinh sát xứ ấy bốn mươi ngày, họ quay về. Họ quay về với Môi-se, A-rôn và toàn thể nhân dân Y-sơ-ra-ên trong sa mạc Pha-ran. Các thám tử báo cáo cho họ và toàn thể nhân dân Y-sơ-ra-ên và cho xem hoa quả trong xứ. Họ báo cáo với Môi-se: “Chúng tôi đã vào đất ấy như ông sai bảo chúng tôi; thật là đất tràn đầy sữa và mật. Đây là hoa quả xứ ấy. Tuy nhiên, cư dân xứ này thật mạnh mẽ; các thành họ rất lớn và có lũy bao bọc. Chúng tôi thấy dòng dõi của A-nác tại đó nữa. Người A-ma-léc ở trong xứ Nê-ghép, người Hê-tít, Giê-bu-sít và A-mô-rít ở trên vùng đồi núi; còn người Ca-na-an sống gần biển và dọc sông Giô-đanh.” Lúc ấy, Ca-lép khuyến khích nhân dân trước mặt Môi-se mà bảo: “Chúng ta phải đi lên chiếm hữu đất đai này, chắc chắn chúng ta có thể thắng họ.” Nhưng những người kia là các bạn thám tử của Ca-lép lại nói: “Chúng ta không thể nào tiến công dân xứ đó vì họ mạnh hơn chúng ta.” Họ tuyên truyền trong vòng dân Y-sơ-ra-ên, dùng lời báo cáo sai lầm về xứ họ đã trinh sát. Họ nói: “Đất đai chúng tôi trinh sát đang ăn nuốt dân cư trong đó. Tất cả những người chúng tôi thấy đều thuộc hạng khổng lồ. Chúng tôi cũng thấy những người Nê-phi-lim, dòng dõi của A-nác từ Nê-phi-lim mà ra. Chúng tôi thấy mình bé nhỏ như cào cào, và dưới mắt họ chúng tôi cũng thế.” Đêm ấy, tất cả nhân dân đều lớn tiếng khóc than. Tất cả dân Y-sơ-ra-ên lằm bằm chống nghịch Môi-se và A-rôn. Toàn dân nói với hai ông: “Ước gì chúng tôi đã chết tại Ai-cập, hoặc qua đời trong sa mạc cho rồi! Tại sao CHÚA đem chúng tôi ra khỏi đất ấy để bắt chúng tôi phải ngã chết dưới lưỡi gươm? Vợ con chúng tôi sẽ trở thành chiến lợi phẩm. Chúng tôi quay về Ai-cập chẳng hơn sao?” Rồi họ bảo nhau: “Chúng ta phải chọn một vị lãnh tụ và quay về Ai-cập!” Môi-se và A-rôn sấp mặt xuống toàn dân Y-sơ-ra-ên đang họp tại đó. Giô-suê con trai Nun và Ca-lép con trai Giê-phu-nê là hai người trong các thám tử xé áo mình và nói cùng toàn thể Y-sơ-ra-ên: “Đất đai chúng tôi đi trinh sát thật quá tốt. Nếu CHÚA đẹp lòng chúng ta, Ngài sẽ hướng dẫn chúng ta vào xứ ấy, là nơi đất đai đầy tràn sữa và mật, Ngài sẽ ban xứ ấy cho chúng ta. Chỉ xin anh chị em đừng nổi loạn chống nghịch CHÚA. Đừng sợ dân xứ ấy vì chúng ta sẽ nuốt chửng họ đi. Sự bảo hộ họ đã bị rút đi rồi, nhưng CHÚA đang ở với chúng ta. Đừng sợ họ!” Nhưng toàn thể nhân dân bàn nhau đòi ném đá hai người. Ngay lúc ấy, vinh quang của CHÚA xuất hiện tại Trại Hội Kiến cho cả dân Y-sơ-ra-ên. CHÚA phán với Môi-se: “Dân này khinh dể Ta cho đến bao giờ? Chúng không chịu tin Ta cho đến bao giờ, mặc dù Ta đã làm bao nhiêu dấu lạ giữa chúng? Ta sẽ đánh giết chúng bằng một trận dịch và tuyệt diệt chúng, nhưng Ta sẽ làm cho con thành một nước lớn hơn và mạnh hơn chúng.” Môi-se thưa với CHÚA: “Như thế dân Ai-cập sẽ nghe điều đó! Chúa đã dùng quyền năng để đưa dân tộc này ra khỏi Ai-cập. Họ sẽ thuật lại cho cư dân xứ này biết điều đó. Lạy Chúa, họ đã nghe rằng Chúa đang ở với dân tộc này và rằng, lạy Chúa, Chúa đã được người ta thấy tận mặt, rằng đám mây của Chúa đã ngự trên họ, và rằng Chúa đã đi trước họ ban ngày trong một trụ mây và ban đêm trong một trụ lửa. Nếu Chúa tuyệt diệt dân này một loạt thì các nước đã nghe báo cáo về Chúa sẽ nói: CHÚA không thể nào đem dân Ngài vào đất đã thề hứa ban cho họ, nên Ngài giết họ đi trong sa mạc. Bây giờ, xin Chúa trình bày sức mạnh của mình như Chúa đã công bố: CHÚA chậm giận, dư dật tình yêu thương, tha thứ tội lỗi và sự phản nghịch. Nhưng Ngài không để kẻ có tội thoát khỏi hình phạt; Ngài phạt con cháu về tội lỗi của cha mẹ cho đến đời thứ ba và thứ tư. Xin Chúa tha tội cho dân này; vì tình thương không hề thay đổi của Ngài; cũng như Ngài đã bao lần tha thứ cho họ từ khi còn ở Ai-cập cho đến ngày nay.” CHÚA đáp: “Theo lời con xin, Ta tha cho họ. Nhưng thật như Ta hằng sống, vinh quang Ta sẽ tràn ngập đất. Trong tất cả những người thấy vinh quang Ta, sẽ không một ai được thấy đất đai Ta đã hứa ban cho tổ tiên họ; họ đã thấy các phép lạ Ta làm tại Ai-cập cũng như trong sa mạc, nhưng đã mười lần họ vẫn thử Ta và không vâng lời Ta. Không một ai trong tất cả những người khinh dể Ta sẽ được thấy đất ấy. Nhưng tôi tớ Ta là Ca-lép, có một tinh thần khác biệt, đã hết lòng theo Ta; nên Ta sẽ đưa Ca-lép vào đất người đã trinh sát, và con cháu người sẽ hưởng chủ quyền đất ấy.” Lúc ấy người A-ma-léc và người Ca-na-an đang sống trong thung lũng. CHÚA phán: “Ngày mai, các người sẽ quay lại, đi vào sa mạc theo hướng Biển Đỏ.” CHÚA bảo Môi-se và A-rôn: “Những kẻ tội lỗi này còn phàn nàn oán trách Ta cho đến bao giờ? Ta đã nghe hết những lời của người Y-sơ-ra-ên phàn nàn rồi. Con bảo họ rằng: ‘CHÚA phán: Thật như Ta hằng sống, Ta sẽ làm cho các ngươi y như những lời Ta nghe các ngươi kêu ca. Thân xác các ngươi sẽ ngã xuống trong sa mạc này; tất cả các ngươi là những người có tên trong cuộc kiểm tra dân số từ hai mươi tuổi trở lên đều sẽ chết hết vì các ngươi oán trách Ta. Không một ai trong các ngươi sẽ được vào đất hứa, trừ Ca-lép con Giê-phu-nê và Giô-suê con Nun. Đối với con cái của các ngươi, các ngươi nói rằng chúng nó sẽ làm mồi cho địch, nhưng Ta sẽ đưa con cái các ngươi vào đất các ngươi chê bỏ. Còn về chính các ngươi thì thây các ngươi sẽ nằm rạp trong sa mạc này. Vì các ngươi bất trung, nên con cái các ngươi phải lang thang trong sa mạc suốt bốn mươi năm, cho đến ngày người sau cùng trong các ngươi chết đi trong sa mạc. Theo số ngày các ngươi đi trinh sát xứ, là bốn mươi ngày, và mỗi ngày tính thành một năm, các ngươi phải mang tội ác mình trong bốn mươi năm, rồi các người sẽ ý thức được hậu quả của việc chống nghịch Ta. Ta là CHÚA, Ta đã phán và Ta sẽ thi hành điều ấy cho toàn thể cộng đồng gian ác này. Chúng đã toa rập nhau chống lại Ta, chúng sẽ chết hết trong sa mạc này không sót một người.’” Riêng các thám tử mà Môi-se đã sai đi trinh sát xứ, khi trở về có xui cho nhân dân lằm bằm cùng Môi-se, những người xuyên tạc, nói xấu xứ đó đều bị tai vạ hành chết ngay trước mặt CHÚA. Trong những người đi trinh sát xứ chỉ có Giô-suê, con trai của Nun, và Ca-lép, con trai của Giê-phu-nê còn sống được. Môi-se thuật lại mọi lời của Chúa cho dân Y-sơ-ra-ên, nên họ vô cùng sầu thảm. Sáng hôm sau, họ dậy sớm, leo lên núi và nói: “Chúng tôi đã phạm tội. Nhưng bây giờ chúng tôi sẵn sàng đi lên xứ mà CHÚA đã chỉ định.” Nhưng Môi-se nói: “Đã đến nước này mà anh em còn cãi mạng Chúa? Làm vậy anh em chỉ có thất bại. Anh em đừng đi lên vì CHÚA không ở cùng anh em. Anh em sẽ chết dưới lưỡi gươm của quân A-ma-léc và Ca-na-an vì anh em đã chối bỏ Chúa, nên Ngài cũng từ bỏ anh em.” Nhưng họ ngoan cố cứ tiến lên núi, mặc dù Rương Giao Ước cũng như Môi-se đều ở lại trong trại. Quân A-ma-léc và Ca-na-an ở trên núi đổ xuống đánh giết họ và đánh đuổi họ chạy dài cho đến Họt-ma. CHÚA phán dạy Môi-se: “Con phải bảo dân Y-sơ-ra-ên: Sau khi các ngươi vào đất Ta đang ban cho ngươi định cư, và khi các ngươi dâng cho CHÚA các tế lễ bằng lửa lấy từ bầy bò và bầy cừu mình để có mùi thơm đẹp lòng CHÚA, hoặc tế lễ thiêu, hoặc sinh tế về những lời thề nguyện đặc biệt hay tự hiến, hoặc lễ vật dâng lên nhân kỳ lễ thì người đem dâng tế lễ phải dâng cho CHÚA một tế lễ chay một phần mười ê-pha bột mì mịn trộn với một phần tư hin dầu. Cứ mỗi con chiên dâng làm tế lễ thiêu, hoặc cứ mỗi sinh tế, con hãy chuẩn bị một phần tư hin rượu làm lễ quán. Khi dâng một con chiên đực hãy chuẩn bị tế lễ chay bằng hai phần mười ê-pha bột mịn trộn với một phần ba hin dầu, và một phần ba hin rượu làm lễ quán. Các ngươi hãy dâng tế lễ đó như một thứ hương thơm đẹp lòng CHÚA. Khi dâng một con bò đực tơ làm tế lễ thiêu hay làm sinh tế vì một lời hứa nguyện đặc biệt, hay vì một tế lễ cầu an cho CHÚA, hãy đem theo con bò đực, một tế lễ chay bằng ba phần mười ê-pha bột mịn trộn với nửa hin dầu. Cũng hãy đem đến nửa hin rượu làm lễ quán. Đó là một tế lễ dâng bằng lửa có mùi thơm đẹp lòng CHÚA. Mỗi con bò đực hay cừu đực, mỗi con chiên con hay dê con đều phải chuẩn bị dâng lễ theo cách đó. Hãy chuẩn bị cách ấy cho từng con một, dâng bao nhiêu sinh tế đều phải dâng theo bấy nhiêu tế lễ chay. Mỗi người sinh trưởng trong đất nước đều phải làm theo cách ấy khi đem dâng tế lễ bằng lửa có mùi thơm đẹp lòng CHÚA. Nếu một người ngoại kiều sống giữa các ngươi, dù chỉ tạm trú trong một thời gian ngắn hoặc định cư lâu dài qua nhiều thế hệ, muốn dâng tế lễ bằng lửa có mùi thơm đẹp lòng CHÚA thì phải làm y như vậy. Chỉ có một luật áp dụng cho cộng đồng các ngươi cũng như cho ngoại kiều sống giữa vòng các ngươi. Đó là một lệ định đời đời trải qua các thế hệ. Đối với CHÚA, các ngươi và người ngoại kiều đều như nhau. Các luật lệ và sắc lệnh áp dụng cho các ngươi cũng áp dụng cho ngoại kiều sống giữa các ngươi y như vậy.” CHÚA phán dạy Môi-se: “Con hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên: Khi các ngươi vào xứ mà Ta đang dẫn các ngươi đến, khi được ăn thực phẩm trong xứ đó, hãy dâng một phần thực phẩm làm lễ vật cho CHÚA. Hãy dâng một chiếc bánh bằng bột đầu mùa làm một tế lễ từ sân đạp lúa. Suốt các thế hệ tương lai cũng thế, các ngươi phải dâng tế lễ này cho CHÚA lấy từ trong bột đầu mùa.” “Nếu ngươi vô tình không giữ một điều răn nào CHÚA đã ban hành cho Môi-se, tức là điều răn của CHÚA dùng ông mà ban cho các ngươi từ ngày CHÚA ban hành cho đến những thế hệ tương lai, nếu vô tình phạm tội mà cộng đồng không biết, thì cả cộng đồng phải dâng một con chiên đực làm tế lễ thiêu có mùi thơm đẹp lòng CHÚA luôn với lễ chay và lễ quán như đã ấn định, và một con dê đực làm tế lễ chuộc tội. Thầy tế lễ sẽ chuộc tội cho toàn dân Y-sơ-ra-ên thì họ sẽ được tha vì đó là tội vô tình vì không cố ý phạm tội và họ đã đem đến cho CHÚA một tế tễ dâng lên bằng lửa và một tế lễ chuộc tội. Toàn dân Y-sơ-ra-ên và các người ngoại kiều sống giữa họ sẽ được tha tội vì toàn dân đều can dự vào việc phạm tội vô tình. Nhưng nếu chỉ một người phạm tội vô tình, người ấy phải mang đến một con dê cái một tuổi làm tế lễ chuộc tội. Thầy tế lễ phải làm tế lễ chuộc tội trước mặt CHÚA cho kẻ đi sai lạc mà phạm tội vô tình. Khi đã làm tế lễ chuộc tội cho mình, người ấy sẽ được tha thứ. Luật này áp dụng cho mọi người phạm tội vô tình dù là người Y-sơ-ra-ên sinh trong xứ hay người ngoại kiều. Nhưng bất luận người nào cố ý phạm tội, dù sinh trong xứ hay người ngoại kiều đều đã phạm thượng với CHÚA nên kẻ ấy phải bị truất ra khỏi nhân dân. Vì đã khinh dể lời của CHÚA và phạm điều răn Ngài, nên kẻ ấy chắc chắn phải bị truất diệt; nó phải chịu trách nhiệm về tội mình.” Trong thời gian dân Y-sơ-ra-ên ở trong sa mạc, họ bắt được một người đi lượm củi ngày Sa-bát. Những người chứng kiến người ấy đang lượm củi mang nó đến cho Môi-se, A-rôn và cả hội chúng Y-sơ-ra-ên. Họ giam giữ anh vì chưa rõ phải xử trí thế nào. CHÚA phán dạy Môi-se: “Người này phải chết. Cả hội chúng phải ném đá người ngoài trại quân.” Vậy, hội chúng đem anh ra ngoài trại quân và ném đá xử tử anh như lời CHÚA đã truyền cho Môi-se. CHÚA phán dạy Môi-se: “Con hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên: Suốt các thế hệ tương lai, phải làm các tua nơi góc các chiếc áo, và kết một sợi dây xanh trên mỗi tua áo. Các ngươi phải nhìn các tua áo ấy để nhớ lại tất cả các điều răn của CHÚA hầu cho các ngươi tuân hành và không làm băng hoại mình bằng cách đi theo các dục vọng của lòng và mắt mình. Các tua áo sẽ giúp các ngươi nhớ lại và tuân hành mọi điều răn của Ta. Như vậy các ngươi sẽ biệt mình riêng ra thánh cho Ta, là Đức Chúa Trời các ngươi. Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi. Đấng đã đem các ngươi ra khỏi Ai-cập để làm Đức Chúa Trời các ngươi. Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của các ngươi.” Cô-rê, con trai Đít-sê-hu, cháu của Kê-hát, chắt của Lê-vi và mấy người Ru-bên là Đa-than và A-bi-ram, con trai Ê-li-áp, với Ôn, con trai Phê-lết xấc xược nổi lên chống nghịch Môi-se. Cùng theo họ có hai trăm năm mươi người Y-sơ-ra-ên đều là cấp lãnh đạo cộng đồng danh tiếng, đã từng được bổ nhiệm vào nghị viên hội đồng. Họ kết đảng chống nghịch Môi-se và A-rôn, và tố cáo: “Các ông thật là quá quắt, toàn thể cộng đồng đều là thánh, và CHÚA đang ở với mỗi người trong cộng đồng. Vậy, tại sao hai ông đặt mình lên cao hơn hội chúng của CHÚA?” Nghe lời ấy, Môi-se quỳ mọp xuống đất. Ông nói với Cô-rê và tất cả phe đảng của người này: “Sáng mai, CHÚA sẽ tỏ cho biết ai thuộc về Ngài và ai là thánh, Ngài sẽ cho người ấy đến gần Ngài. Người nào Ngài chọn sẽ được Ngài đem đến gần bên Ngài. Ngươi, Cô-rê, và tất cả những người theo ngươi đều phải làm điều này: Hãy cầm lấy lư hương, và ngày mai, trước mặt CHÚA, hãy để lửa và trầm hương vào. Người nào CHÚA chọn chính là người thánh. Những người Lê-vi theo ngươi thật là quá quắt!” Môi-se cũng bảo Cô-rê: “Này các người Lê-vi của anh, bây giờ hãy nghe đây! Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã biệt riêng các ngươi khỏi cộng đồng Y-sơ-ra-ên và đem các ngươi đến gần Ngài để làm công việc tại Đền Tạm của CHÚA, và để các ngươi đứng trước mặt cộng đồng và phục vụ họ, việc ấy chưa đủ sao? Ngài đã đem ngươi và tất cả anh em người Lê-vi đến gần Ngài, thế mà bây giờ các ngươi lại muốn chiếm đoạt chức tế lễ nữa. Ngươi và tất cả những người theo ngươi đã cấu kết với nhau để chống nghịch CHÚA. A-rôn là ai mà các ngươi lằm bằm chống nghịch người?” Sau đó, Môi-se mời Đa-than và A-bi-ram đến, hai người là con trai của Ê-li-áp. Nhưng họ đáp: “Chúng ta không đến đâu! Ông đã đem chúng ta ra khỏi một xứ đượm sữa và mật để giết chúng ta trong sa mạc, như thế chưa đủ sao? mà bây giờ ông còn muốn tể trị trên chúng ta sao? Hơn nữa, ông đâu có đem chúng tôi vào một xứ đượm sữa và mật, đâu có cho chúng tôi thừa hưởng ruộng đất và vườn nho? Liệu ông muốn móc mắt những người đó sao? Không, chúng tôi không đến đâu!” Môi-se giận lắm nên thưa với CHÚA: “Xin Chúa đừng nhậm tế lễ của họ! Tôi chẳng từng lấy của họ một con lừa, cũng chẳng bao giờ làm thương tổn một ai trong vòng họ.” Môi-se bảo Cô-rê: “Ngày mai, ngươi và tất cả những người theo ngươi cùng với A-rôn phải trình diện trước mặt CHÚA. Mỗi người phải lấy lư hương mình và đặt trầm hương vào rồi dâng lên trước mặt CHÚA, tất cả là hai trăm năm mươi lư hương. Ngươi và A-rôn cũng phải cầm lư hương mình.” Vậy, mỗi người đều cầm lư hương, đặt lửa và trầm hương vào, rồi đứng với Môi-se và A-rôn tại cửa Trại Hội Kiến. Khi Cô-rê tập hợp tất cả những người theo mình chống nghịch Môi-se và A-rôn tại cửa Trại Hội Kiến, vinh quang của CHÚA hiện ra với toàn thể hội chúng. CHÚA phán dạy Môi-se và A-rôn: “Hai con hãy tách rời khỏi hội chúng này để Ta tiêu diệt chúng ngay lập tức.” Nhưng Môi-se và A-rôn quỳ mọp xuống và kêu xin: “Ôi, lạy Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời của tâm linh mọi người, Chúa nổi giận với cả hội chúng vì một người phạm tội hay sao?” CHÚA phán dạy Môi-se: “Con hãy bảo hội chúng: Hãy tách rời trại của Cô-rê, Đa-than và A-bi-ram!” Môi-se vùng dậy chạy về phía Đa-than và A-bi-ram, theo sau có các trưởng lão của Y-sơ-ra-ên. Ông cảnh cáo hội chúng: “Hãy dang xa các trại của những người gian ác này, đừng đụng đến bất luận vật gì thuộc về họ, kẻo các ngươi cũng bị quét sạch vì tất cả tội lỗi của họ chăng?” Vậy, dân chúng dang xa ra khỏi trại của Cô-rê, Đa-than và A-bi-ram. Trước đó, Cô-rê, Đa-than và A-bi-ram đứng tại cửa trại mình cùng với vợ con, kể cả các con nhỏ. Môi-se nói: “Nhờ việc này, các ngươi sẽ biết CHÚA đã sai ta thực hiện các công tác đó chứ không phải do ý riêng ta. Nếu những kẻ đó chết cách thường tình và chỉ gặp những điều xảy ra cho con người, thì CHÚA không có sai ta. Nhưng nếu CHÚA làm một việc hoàn toàn mới lạ, nếu đất hả miệng nuốt họ đi với tất cả những gì thuộc về họ, và họ còn sống mà xuống đáy mộ, thì các ngươi sẽ biết những kẻ này đã khinh dể CHÚA.” Ông vừa nói xong những lời đó, đất dưới chân họ liền nứt ra, và đất hả miệng nuốt trửng họ với gia đình họ cùng với tất cả những người theo Cô-rê và trọn tài sản họ. Họ còn sống mà xuống âm phủ với tất cả những gì thuộc về họ. Đất khép miệng lại trên họ và họ chết mất, vì bị tuyệt diệt giữa cộng đồng mình. Nghe tiếng họ kêu thét lên, tất cả dân Y-sơ-ra-ên xung quanh họ đều chạy trốn và la hoảng: “Đất cũng sắp nuốt trửng chúng ta!” Một ngọn lửa từ CHÚA loè ra đốt chết hai trăm năm mươi người đang dâng hương. CHÚA phán dạy Môi-se: “Con hãy bảo Ê-lê-a-sa con trai A-rôn, thầy tế lễ, thu lượm các lư hương ra khỏi chỗ lửa cháy, và vãi than của các lư hương nơi xa vì các lư hương đó đã nên thánh, tức là các lư hương của những người đã phạm tội mà bị thiệt mạng. Hãy dùng búa dát mỏng các lư hương ấy, làm thành những tấm đồng để bọc bàn thờ, vì các lư hương ấy đã được dâng lên trước mặt CHÚA và đã được thánh hóa. Hãy để các tấm ấy làm một dấu hiệu cho Y-sơ-ra-ên!” Vậy, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa thu lượm các lư hương bằng đồng của những kẻ bị chết cháy rồi dùng búa dát mỏng để bọc bàn thờ. Đó là một kỷ niệm cho dân Y-sơ-ra-ên để nhắc nhở những người ngoài dòng dõi A-rôn đừng đến gần để xông hương trước mặt CHÚA, kẻo bị chung số phận với Cô-rê và những kẻ theo ông. Hôm sau, toàn thể cộng đồng đều lầm bầm chống nghịch Môi-se và A-rôn: “Hai ông đã giết hại dân Chúa!” Khi hội chúng đang họp nhau chống nghịch Môi-se và A-rôn, họ ngoảnh lại nhìn Trại Hội Kiến, thình lình mây che phủ trại và vinh quang của CHÚA xuất hiện. Môi-se và A-rôn liền đi đến trước Trại Hội Kiến. CHÚA bảo Môi-se: “Hãy ra khỏi giữa hội chúng này thì Ta sẽ tiêu diệt chúng nó ngay lập tức!” Môi-se và A-rôn liền sấp mặt xuống đất. Môi-se bảo A-rôn: “Xin anh cầm lư hương mình, đặt trầm hương vào với lửa lấy từ bàn thờ rồi đi gấp đến giữa hội chúng để làm tế lễ chuộc tội cho họ. Vì CHÚA đã nổi thạnh nộ và trận dịch đã bắt đầu!” Vậy, A-rôn làm theo điều Môi-se căn dặn và chạy vào giữa hội chúng. Trận dịch đã bắt đầu hành hại nhân dân, nhưng A-rôn dâng hương và chuộc tội cho họ. Ông cứ đứng giữa người sống và người chết, trận dịch ngừng lại. Nhưng mười bốn ngàn bảy trăm người đã chết vì trận dịch đó, ngoài những kẻ đã chết vì Cô-rê. Lúc ấy, A-rôn quay lại với Môi-se tại cửa Trại Hội Kiến vì trận dịch đã chấm dứt. CHÚA dạy Môi-se: “Hãy bảo mỗi trưởng chi tộc Y-sơ-ra-ên đem đến một cây gậy; nghĩa là mười hai cây gậy của các chi tộc trưởng của mỗi chi tộc. Con phải đề tên mỗi người trên cây gậy của mình, và đề tên A-rôn trên cây gậy của Lê-vi; vì phải có một cây gậy cho mỗi trưởng chi tộc. Con đem các gậy này đặt trong Trại Hội Kiến, trước Rương Giao Ước, là nơi Ta sẽ gặp con. Gậy của người được Ta chọn sẽ trổ hoa, như vậy nhân dân sẽ không còn lý do gì để phàn nàn con nữa.” Môi-se nói lại với người Y-sơ-ra-ên, và các trưởng chi tộc vâng theo huấn thị, đem gậy đến. Môi-se đem cất mười hai cây gậy trong Trại Hội Kiến trước mặt Chúa. Gậy của A-rôn ở giữa các gậy khác. Ngày hôm sau, khi Môi-se trở vào Trại Hội Kiến, ông thấy cây gậy của A-rôn tượng trưng cho chi tộc Lê-vi, đã đâm chồi, trổ hoa, và kết quả, có trái hạnh nhân đã chín. Môi-se đem các cây gậy từ trong Trại Hội Kiến ra cho mọi người xem, họ sững sờ đứng nhìn, và cuối cùng các trưởng chi tộc lấy gậy mình về. Nhưng Chúa lại bảo Môi-se: “Đem gậy của A-rôn đặt tại trước Rương Giao Ước, dùng nhắc nhở, cảnh cáo nhân dân về vụ nổi loạn này, để họ khỏi chết vì tai vạ và không bao giờ dám phàn nàn Ta nữa.” Môi-se vâng lời Chúa. Người Y-sơ-ra-ên hoảng sợ nói với Môi-se: “Nầy chúng tôi bị diệt, chúng tôi bị chết, chúng tôi chết mất hết thảy! Phàm ai đến gần Trại Hội Kiến đều chết, thì chúng tôi chết hết sao?” CHÚA bảo A-rôn: “Con, các con trai cùng cả gia đình con phải chịu trách nhiệm về những tội xúc phạm nơi thánh. Cũng vậy, con và các con trai con phải trách nhiệm về những tội liên hệ đến chức vụ thầy tế lễ. Tất cả những người trong chi tộc Lê-vi, họ hàng của con, là người giúp việc cho con. Tuy nhiên, chỉ có con và các con trai con được thi hành chức vụ trong Nơi Thánh. Các người Lê-vi khác phải chu toàn trách nhiệm của họ đối với con và toàn thể công việc tại trại, tuy nhiên họ không được đến gần các vật dụng trong Nơi Thánh và bàn thờ, để họ lẫn con khỏi phải chết. Họ sẽ kết hiệp với con và đảm trách công việc tại Trại Hội Kiến, tất cả công việc tại trại, nhưng không một ai khác được phép đến gần các con trong khi các con phụ trách công việc tại Nơi Thánh và trước bàn thờ kẻo cơn thịnh nộ Ta nổi lên chống lại dân Y-sơ-ra-ên. Người Lê-vi đã được Ta chọn trong dân Y-sơ-ra-ên, họ đã được dâng cho Chúa, này Ta giao họ cho con để giúp con trong công việc Trại Hội Kiến. Ta cũng ủy cho con chức vụ thầy tế lễ, chỉ có con và các con trai con thi hành chức vụ này trước bàn thờ và bên trong bức màn. Ngoài ra, người nào đụng đến các công việc này đều phải chết.” Chúa nói tiếp với A-rôn: “Ngoài ra, Ta còn cho các ngươi tất cả các lễ vật của người Y-sơ-ra-ên dâng theo lối nâng tay đưa lên trước Chúa. Các lễ vật thánh đều thuộc về con và các con trai con. Lệ này áp dụng vĩnh viễn. Trừ phần được đem đốt dâng lên, phần còn lại của các lễ vật ngũ cốc, lễ vật chuộc tội và lễ vật chuộc lỗi đều thuộc về con và các con trai con. Đó là những vật rất thánh, chỉ được ăn tại một nơi thánh và chỉ nam giới mới được ăn. Còn các lễ vật được dâng lên theo lối đưa qua đưa lại cũng thuộc về con, nhưng mọi người trong gia đình, nam lẫn nữ đều được phép ăn, nếu họ tinh sạch. Ta ban cho con phần tốt nhất của dầu, rượu mới và thóc, tất cả các lễ vật đầu mùa người ta đem dâng lên Chúa. Ta cũng ban cho con tất cả các lễ vật đầu mùa của các thổ sản khác người ta dâng lên CHÚA. Mọi người tinh sạch trong gia đình con đều được phép ăn. Vậy, tất cả mọi vật người Y-sơ-ra-ên dâng hiến cho Ta đều thuộc về con, kể cả các con trưởng nam và thú vật đầu lòng của họ. Tuy nhiên, con trưởng nam và con đầu lòng của thú vật không sạch phải được chuộc lại. Khi chúng được một tháng, giá chuộc tương đương với một lượng rưỡi bạc theo tiêu chuẩn cân đo nơi thánh. Nhưng con đầu lòng của các loài bò, cừu và dê thì không được chuộc vì chúng được biệt riêng ra thánh. Phải lấy huyết chúng rảy lên bàn thờ, lấy mỡ đem đốt, đó là một lễ vật dùng lửa dâng lên có mùi thơm đẹp lòng CHÚA. Thịt của các sinh tế này thuộc về con, đặc biệt là cái ngực được nâng tay dâng lên và cái đùi bên phải. Tóm lại, Ta cho con mọi lễ vật của người Y-sơ-ra-ên dâng theo lối nâng tay đưa lên trước Chúa, mọi người trong gia đình con nam lẫn nữ đều được phép ăn. Đây là luật lệ vĩnh viễn, là một giao ước bất di bất dịch giữa Chúa với con và con cháu con.” Chúa tiếp: “Tuy nhiên con sẽ không được thừa hưởng đất đai, con không có phần gì cả trong dân Y-sơ-ra-ên. Chính Ta là phần của con, là sản nghiệp của con giữa họ. Tất cả những phần mười mà dân Y-sơ-ra-ên dâng lên Ta, Ta ban cho người Lê-vi vì công khó họ phục dịch trong Trại Hội Kiến. Từ nay về sau, người Y-sơ-ra-ên sẽ không ai vào Trại Hội Kiến để khỏi mắc tội và khỏi chết. Người Lê-vi sẽ chịu trách nhiệm về công việc Trại Hội Kiến, và nếu có lỗi lầm, họ sẽ mang tội. Đây là một luật có tính cách vĩnh viễn áp dụng qua các thế hệ: người Lê-vi sẽ không thừa hưởng tài sản trong Y-sơ-ra-ên, vì Ta đã cho họ một phần mười lợi tức của người Y-sơ-ra-ên, là phần nhân dân đem dâng lên Chúa, chính vì thế mà Ta phán về người Lê-vi rằng họ không được thừa hưởng gì cả trong dân Y-sơ-ra-ên.” CHÚA cũng nói với Môi-se: “Con bảo người Lê-vi khi nhận được một phần mười lợi tức của người Y-sơ-ra-ên mà CHÚA ban cho anh em hưởng, phải lấy một phần mười trong số phần mười đó dâng cho Chúa. Lễ vật này sẽ được coi như lễ vật đầu mùa chọn lọc, như ngũ cốc dâng từ sân đạp lúa, như rượu nho dâng từ bồn ép nho của họ vậy. Vậy trong tất cả những phần mười anh em nhận được từ dân Y-sơ-ra-ên, anh em phải dành riêng một lễ vật dâng lên Chúa, và anh em hãy giao lễ vật ấy cho thầy tế lễ A-rôn. Trong tất cả những món quà anh em nhận được, anh em hãy dành riêng phần tốt nhất dâng lên CHÚA; đó là phần biệt riêng ra thánh cho CHÚA.” Con hãy nói tiếp với người Lê-vi: “Một khi anh em đã dâng phần tốt nhất rồi, phần còn lại sẽ được kể như thổ sản từ sân đạp lúa và bồn ép nho. Phần còn lại này anh em và gia đình được phép ăn bất kỳ nơi nào vì đó là thù lao cho công khó anh em phục dịch tại trại Hội Kiến. Nếu anh em dâng phần tốt nhất lên CHÚA, anh em sẽ không mắc tội khi ăn phần còn lại. Khi anh em dâng lên CHÚA phần tốt nhất trước khi ăn, anh em sẽ không mắc tội xúc phạm lễ vật thánh của dân Y-sơ-ra-ên dâng lên và khỏi phải chết.” CHÚA dạy Môi-se và A-rôn: “Đây là một điều khoản trong luật CHÚA ban hành: Người Y-sơ-ra-ên phải chọn một con bò cái tơ mầu đỏ, không vết tích, chưa mang ách. Hãy đem con bò đó cho thầy tế lễ Ê-lê-a-sa. Người sẽ dẫn nó ra ngoài trại, và chọc tiết trước mặt người. Thầy tế lễ Ê-lê-a-sa sẽ lấy ngón tay nhúng vào huyết bò, rảy bảy lần hướng về phía Trại Hội Kiến. Thầy tế lễ sẽ trông coi việc thiêu con bò: cả da, thịt, huyết và phân. Thầy tế lễ sẽ lấy cây bách hương, cành bài hương thảo và chỉ đỏ ném vào con bò đang cháy. Sau đó, thầy tế lễ phải giặt áo, tắm rồi mới vào trại và bị ô uế cho đến tối hôm ấy. Người đốt con bò cũng phải giặt quần áo, tắm và bị ô uế cho đến tối hôm ấy. Một người tinh sạch sẽ hốt tro con bò chứa vào một nơi tinh sạch bên ngoài trại. Người Y-sơ-ra-ên sẽ giữ tro này dùng làm nước tẩy uế; con bò đó là tế lễ chuộc tội. Người hốt tro phải giặt áo và bị ô uế cho đến tối hôm ấy. Luật này có tính cách vĩnh viễn, áp dụng cho người Y-sơ-ra-ên cũng như cho ngoại kiều. Ai đụng vào xác người chết phải bị ô uế bảy ngày. Người ấy phải dùng nước tẩy uế tẩy sạch mình vào ngày thứ ba và ngày thứ bảy thì sẽ được sạch. Nếu không tẩy mình như thế, sẽ không được sạch. Người nào đụng vào xác người chết mà không tẩy mình cho sạch, xúc phạm đến Trại Hội Kiến của Chúa, phải bị trục xuất ra khỏi Y-sơ-ra-ên. Người ấy vẫn bị ô uế vì nước tẩy uế chưa được rảy trên mình. Khi có người chết trong trại, phải áp dụng luật này: Người nào vào trại và người nào ở trong trại ấy đều bị ô uế bảy ngày. Nếu trong trại ấy có bình không đậy nắp, sẽ bị ô uế. Bên ngoài đồng trống, nếu ai đụng vào một người chết vì đâm chém, hoặc đụng vào một người chết tự nhiên, xương người chết hay mồ mả, người ấy sẽ bị ô uế bảy ngày. Muốn tẩy sạch những người này, phải lấy một ít tro của con bò thiêu làm sinh tế chuộc tội bỏ vào một cái bình, rồi lấy nước đổ vào. Một người tinh sạch sẽ lấy cành bài hương thảo nhúng vào bình, rảy nước trên trại, trên tất cả đồ dùng trong trại, trên cả những người ở trong trại đó, và trên những người đã đụng vào xương người chết hay mồ mả, đụng vào người chết vì đâm chém hay chết tự nhiên. Người tinh sạch phải rảy nước trên người ô uế ngày thứ ba và ngày thứ bảy, và vào ngày thứ bảy, việc tẩy uế hoàn tất. Người bị ô uế phải giặt áo, tắm rửa thì tối hôm ấy sẽ được sạch. Nhưng nếu người ô uế không lo tẩy mình, phải bị trục xuất khỏi cộng đồng vì đã xúc phạm đến nơi thánh của CHÚA. Vì nước tẩy uế không rảy trên người ấy, người ấy không được sạch. Đây là một luật áp dụng vĩnh viễn.Người rảy nước tẩy uế phải giặt quần áo mình, và người nào đụng vào nước tẩy uế sẽ bị ô uế cho đến tối hôm ấy. Bất kỳ vật gì bị người ô uế đụng vào, đều thành ô uế; và ai đụng vào vật ấy cũng bị ô uế cho đến tối hôm ấy.” Vào tháng thứ nhất, toàn thể nhân dân Y-sơ-ra-ên đi vào sa mạc Xin. Họ ở lại Ca-đê, Mi-ri-am qua đời và được an táng tại đó. Vì không có nước uống, nhân dân họp nhau lại chống đối Môi-se và A-rôn. Họ trách Môi-se: “Ước gì chúng tôi cùng ngã chết với anh em chúng tôi trước mặt CHÚA! Tại sao ông đem dân của CHÚA vào sa mạc này cho cả người lẫn súc vật đều chết khát? Sao ông bắt chúng tôi bỏ Ai-cập vào nơi khốn nạn này, là nơi không ai gieo giống, trồng cây vả, cây nho, cây lựu gì được cả, là nơi không có nước uống?” Môi-se và A-rôn lìa họ, đi đến cửa Trại Hội Kiến, quỳ xuống. Vinh quang của CHÚA hiện ra. CHÚA phán bảo Môi-se: “Cầm lấy cây gậy, rồi con và A-rôn, anh con đi triệu tập nhân dân. Trước mặt họ, con sẽ bảo vầng đá kia, nó sẽ phun nước ra. Con sẽ cho họ và bầy gia súc của họ uống nước chảy ra từ vầng đá.” Vậy Môi-se cầm lấy cây gậy trước mặt CHÚA theo lời Ngài dạy. Môi-se và A-rôn triệu tập nhân dân lại trước vầng đá, rồi Môi-se nói: “Những kẻ phản loạn kia, nghe đây! Chúng ta phải lấy nước từ trong vầng đá này ra cho các ngươi uống sao?” Nói xong, ông giơ gậy lên đập vào vầng đá hai lần. Nước bắn vọt ra. Người và thú vật đều uống. Nhưng CHÚA phán bảo Môi-se và A-rôn: “Vì các ngươi không tin Ta, không tôn thánh Ta trước mặt dân Y-sơ-ra-ên, nên các ngươi sẽ không dẫn dân vào đất Ta đã hứa cho họ.” Nơi đó là nước Mê-ri-ba, nơi người Y-sơ-ra-ên chống đối CHÚA, và cũng là nơi Ngài tỏ đức thánh khiết của Ngài ra giữa họ. Từ Ca-đê, Môi-se sai sứ đến nói với vua nước Ê-đôm như sau:“Đây là lời của Y-sơ-ra-ên, em vua. Vua đã biết những nỗi gian khổ của chúng tôi. Tổ tiên chúng tôi đã xuống Ai-cập và ở lại đó lâu ngày; người Ai-cập ngược đãi chúng tôi, nhưng khi chúng tôi kêu la cùng CHÚA, Ngài nghe, sai thiên sứ đem chúng tôi ra khỏi Ai-cập.Bây giờ, chúng tôi đang ở Ca-đê, một thành ở đầu bờ cõi nước Ê-đôm. Xin cho phép chúng tôi đi qua đất vua. Chúng tôi sẽ không đi ngang qua đồng ruộng, vườn nho, cũng không múc nước giếng mà uống. Chúng tôi sẽ cứ đường cái mà đi, không rẽ sang phải hay trái, cho đến khi ra khỏi biên giới.” Nhưng Ê-đôm đáp:“Các ngươi không được đi qua đất nước ta. Nếu không nghe, chúng ta sẽ cầm gươm kéo ra tấn công.” Người Y-sơ-ra-ên nói:“Chúng tôi chỉ xin đi trên đường cái. Nếu chúng tôi và súc vật có uống nước, chúng tôi sẽ xin trả tiền. Chỉ xin cho chúng tôi đi qua, chúng tôi không xin gì hơn nữa” Họ lại đáp:“Không. Các ngươi không được đi qua.” Rồi Ê-đôm kéo một đạo quân hùng hậu ra ngăn chặn. Vì Ê-đôm từ chối không cho Y-sơ-ra-ên đi qua đất mình, nên Y-sơ-ra-ên tránh đi nơi khác. Toàn dân Y-sơ-ra-ên từ Ca-đê kéo đến núi Hô-rơ. Tại núi Hô-rơ, cạnh biên giới Ê-đôm, CHÚA phán với Môi-se và A-rôn: “A-rôn sẽ về với tổ tiên mình, không được vào đất Ta đã cho Y-sơ-ra-ên, vì hai con đã nghịch mạng Ta tại Mê-ri-ba. Đem A-rôn và con A-rôn là Ê-lê-a-sa lên núi Hô-rơ. Tại đó con sẽ lấy áo lễ của A-rôn mặc cho Ê-lê-a-sa, con A-rôn. A-rôn qua đời tại đó.” Môi-se tuân lệnh Chúa. Ba người lên núi Hô-rơ trước sự chứng kiến của nhân dân. Trên đỉnh núi, Môi-se lấy bộ áo lễ của A-rôn, mặc cho Ê-lê-a-sa, con A-rôn. A-rôn qua đời trên đỉnh núi này. Sau đó, Môi-se và Ê-lê-a-sa xuống núi. Khi biết A-rôn đã mất, toàn thể nhân dân Y-sơ-ra-ên khóc ông suốt ba mươi ngày. Khi Vua A-rát, người Ca-na-an ở phía nam nghe tin người Y-sơ-ra-ên đang tiến đến theo đường đi A-tha-rim, liền kéo ra tấn công, bắt sống được mấy người. Lúc ấy, người Y-sơ-ra-ên thề nguyện với CHÚA: “Nếu Chúa cho chúng tôi chiến thắng dân này, chúng tôi sẽ tận diệt các thành ấy của họ.” CHÚA nhậm lời cầu nguyện của người Y-sơ-ra-ên, cho họ chiến thắng Ca-na-an. Họ tận diệt quân thù, tàn phá các thành, và đặt tên nơi này là Họt-ma. Từ núi Hô-rơ, họ đi vòng về hướng Biển Đỏ để tránh đất Ê-đôm, và vì thế, nhân dân mất lòng kiên nhẫn. Họ xúc phạm đến Đức Chúa Trời, nói nghịch Môi-se, rằng: “Sao ông đem chúng tôi ra khỏi Ai-cập để chết trong sa mạc này? Ở đây chẳng có bánh, chẳng có nước. Và chúng tôi đã chán ngấy loại bánh đạm bạc này!” CHÚA sai rắn lửa đến, cắn nhiều người chết. Người ta đến nói với Môi-se: “Chúng tôi có tội vì đã nói xúc phạm đến CHÚA và ông. Xin ông cầu CHÚA để Ngài đuổi rắn đi.” Môi-se cầu thay cho nhân dân. CHÚA phán bảo Môi-se: “Làm một con rắn lửa, đem treo trên một cây trụ. Người bị rắn cắn khi nhìn đến nó thì được sống.” Vậy Môi-se làm một con rắn bằng đồng, đem treo trên một cây trụ. Ai bị rắn cắn, nhìn lên con rắn đồng đều được thoát chết. Người Y-sơ-ra-ên lại ra đi, và dừng chân cắm trại tại Ô-bốt. Đi từ Ô-bốt, họ cắm trại tại Y-giê A-ba-rim trong sa mạc, về phía đông Mô-áp. Từ đó ra đi, họ cắm trại tại thung lũng Xê-rết. Tiếp tục ra đi, họ cắm trại trong sa mạc, bên kia sông Ạt-nôn; sa mạc này lan rộng đến lãnh thổ người A-mô-rít. Sông Ạt-nôn là biên giới xứ Mô-áp, nằm giữa Mô-áp và lãnh thổ người A-mô-rít. Vì thế trong sách chiến trận của CHÚA có ghi:“Na-hép ở Su-phơ và các thung lũng,Sông Ạt-nôn và triền thung lũng Chạy dài đến thành A-rơ,Lượn quanh biên giới Mô-áp.” Từ đó, họ tiếp tục đi đến Bê-e, và nơi đây CHÚA phán bảo Môi-se: “Tập họp nhân dân lại, Ta sẽ cho họ nước uống.” Và người Y-sơ-ra-ên ca lên như sau:“Trào nước lên, hỡi giếngCho ta lên tiếng, hát ca Giếng vua khơi, các nhà quý tộc đàoĐào bằng gậy,Khơi bằng cây phủ việt.” Rồi họ từ sa mạc đi đến Ma-tha-na. Từ Ma-tha-na họ đến Na-ha-li-ên; từ Na-ha-li-ên đến Ba-mốt; từ Ba-mốt đến thung lũng ở trong địa phận Mô-áp, tới đỉnh núi Phích-ga, và từ đấy nhìn thấy khắp sa mạc. Y-sơ-ra-ên sai sứ đến nói với Si-hôn, vua A-mô-rít như sau: “Xin cho chúng tôi đi qua đất vua. Chúng tôi sẽ không đi vào đồng ruộng, vườn nho, cũng không múc nước giếng để uống. Chúng tôi sẽ theo đường cái quan cho đến khi ra khỏi lãnh thổ nhà vua.” Nhưng Si-hôn không cho Y-sơ-ra-ên đi qua đất mình. Vua đem toàn thể quân đội kéo ra sa mạc, và tấn công Y-sơ-ra-ên tại Gia-hát. Người Y-sơ-ra-ên chém chết Si-hôn, chiếm lấy đất từ Ạt-nôn đến Gia-bốc, cho đến biên giới A-mô-rít, vì biên cương A-mô-rít bền vững. Y-sơ-ra-ên chiếm hết các thành của người A-mô-rít, kể cả thành Hết-bôn và các làng mạc chung quanh. Hết-bôn là kinh đô của Si-hôn vua A-mô-rít. Ngày trước, Si-hôn đã chiến thắng vua Mô-áp, chiếm đất của vua này tới Ạt-nôn. Cho nên, có thi sĩ đã viết:“Hãy cùng nhau đến Hết-bônXây dựng lại thành của Si-hôn! Từ Hết-bôn lửa đã phát raNgọn lửa cháy từ thành của Si-hônThiêu hủy A-rơ của Mô-ápLà thành ngự trị Ạt-nôn từ trên cao. Hỡi dân Mô-áp, khốn khổ cho ngươiHỡi dân Kê-mốt, họa diệt vong đã tớiCon trai ngươi phải trốn tránh lưu lạcCon gái ngươi phải đọa đày tù rạcChính vì Si-hôn, vua dân A-mô-rít. Nhưng nay ta lật đổ nóTiêu hủy Hết-bôn đến tận Đi-bôn,Ta tàn phá nó cho đến Nô-pháchCho đến tận Mê-đê-ba.” Vậy, người Y-sơ-ra-ên chiếm ngụ đất của người A-mô-rít. Môi-se sai người đi trinh sát Gia-ê-xe, và đánh chiếm hết các vùng phụ cận, đuổi người A-mô-rít đi. Sau đó, người Y-sơ-ra-ên quay lại, đi lên hướng Ba-san. Óc, vua Ba-san kéo toàn quân ra chận họ tại Ết-rê-i. CHÚA phán với Môi-se: “Đừng sợ người, vì Ta giao người vào tay con, luôn cả quân dân và đất đai của người nữa. Hãy xử người như con đã xử Si-hôn vua A-mô-rít ở Hết-bôn vậy.” Vậy, người Y-sơ-ra-ên giết Óc, con cái và quân dân của người, không để một ai sống sót, rồi chiếm đóng đất đai của người. Sau đó, người Y-sơ-ra-ên đi đến đồng bằng Mô-áp, và cắm trại bên kia sông Giô-đanh, đối diện Giê-ri-cô. Ba-lác, con trai Xếp-bô, thấy hết mọi điều Y-sơ-ra-ên làm cho người A-mô-rít. Mô-áp càng kinh hoàng vì thấy người Y-sơ-ra-ên đông đảo quá. Người Mô-áp bàn với các trưởng lão Ma-đi-an: “Đoàn dân này sẽ ăn nuốt chúng ta như bò ăn cỏ ngoài đồng vậy.” Vậy, Ba-lác con Xếp-bô, vua Mô-áp, gửi các sứ giả đi triệu Ba-la-am con trai Bê-ô, ông này đang sống ở quê mình là Phê-thô-rơ, bên bờ sông, nói rằng:“Một dân tộc đến từ Ai-cập đông rợp đất, đang đóng bên chúng tôi. Bây giờ xin ông đến nguyền rủa họ, vì họ mạnh hơn chúng tôi; và như thế, có lẽ chúng tôi sẽ đuổi họ ra khỏi đất này được. Vì tôi biết rằng ai được ông chúc phước sẽ được phước, ai bị ông nguyền rủa sẽ bị họa.” Các trưởng lão Mô-áp và Ma-đi-an ra đi, mang theo lễ vật bói toán. Gặp Ba-la-am, họ trình bầy mọi điều Ba-lác dặn. Ba-la-am bảo họ: “Xin các ông nghỉ lại đêm nay. Tôi sẽ trả lời các ông tùy theo điều CHÚA sẽ phán dạy tôi.” Vậy các trưởng lão Mô-áp ở lại. CHÚA đến, hỏi Ba-la-am: “Họ là ai?” Ba-la-am thưa: “Ba-lác con trai Xếp-bô, vua Mô-áp sai những người này đến nói rằng: ‘Một dân tộc đến từ Ai-cập đông rợp đất. Hãy đến nguyền rủa họ cho tôi, và có lẽ chúng tôi sẽ đánh đuổi họ đi được’” Nhưng Đức Chúa Trời bảo Ba-la-am: “Đừng đi với họ. Ngươi không được nguyền rủa dân ấy vì họ được chúc phước.” Sáng hôm sau, Ba-la-am thức dậy nói với các sứ giả của Ba-lác: “Xin các ông về xứ mình đi, vì CHÚA không cho tôi đi với các ông.” Các sứ giả Mô-áp trở về, thưa với Ba-lác: “Ba-la-am từ khước, không chịu đi với chúng tôi.” Ba-lác gửi một số sứ giả khác đông hơn, và gồm những người được trọng vọng hơn những người trước. Họ đến nói với Ba-la-am:“Ba-lác con Xếp-bô nói: ‘Xin ông đừng từ chối đến gặp tôi. Tôi hứa sẽ trọng đãi ông tột bực, tôi sẽ làm bất cứ điều gì ông muốn, xin ông đến nguyền rủa dân này cho tôi.’” Nhưng Ba-la-am đáp lời họ: “Dù Ba-lác có cho tôi cung điện chứa đầy vàng bạc, tôi cũng không thể trái lệnh của CHÚA, Đức Chúa Trời tôi để làm một việc, dù lớn hay nhỏ. Bây giờ, tôi cũng xin các ông nghỉ lại đây đêm nay, để tôi xem có điều gì CHÚA phán dạy thêm nữa không.” Đêm hôm ấy, Đức Chúa Trời đến và phán với Ba-la-am: “Nếu những người ấy đến mời, thì cứ dậy đi với họ, nhưng ngươi chỉ được làm điều gì Ta bảo.” Ba-la-am dậy sớm, thắng yên lừa, ra đi với các sứ giả Mô-áp. Nhưng việc ông đi làm cho Đức Chúa Trời giận. Thiên sứ của CHÚA đứng trên đường ngăn cản ông. Ba-la-am cưỡi lừa, có hai người đầy tớ đi theo. Khi con lừa thấy thiên sứ CHÚA đứng trên đường, tay cầm kiếm tuốt trần, nó đi tẻ xuống ruộng. Ba-la-am đánh nó, bắt nó trở lại trên đường. Thiên sứ CHÚA đến đứng tại một khúc đường giữa hai vườn nho, hai bên đường đều có tường. Lừa thấy thiên sứ CHÚA liền đứng nép mình vào tường, làm kẹt chân Ba-la-am, nên ông lại đánh nó. Thiên sứ CHÚA đi tới đứng tại một nơi rất hẹp, không có chỗ để trở mình phía nào cả. Thấy thiên sứ CHÚA, lừa nằm mọp xuống, Ba-la-am nổi giận lấy gậy đánh nó. CHÚA mở miệng con lừa, nó nói với Ba-la-am: “Tôi có làm gì mà ông đánh tôi đến ba lần?” Ba-la-am đáp: “Vì mày sỉ nhục ta. Nếu có kiếm trong tay, ta đã giết mày rồi.” Lừa lại hỏi Ba-la-am: “Tôi có phải là lừa ông vẫn cưỡi từ trước tới nay không? Tôi có thường hành động thế này không?”Ông đáp: “Không.” Bấy giờ, CHÚA mở mắt Ba-la-am, ông thấy thiên sứ CHÚA đứng trên đường, tay cầm kiếm tuốt trần. Ông vội cúi đầu, úp mặt xuống đất. Thiên sứ CHÚA hỏi: “Tại sao ngươi lại đánh con lừa ba lần? Ta đến đây ngăn cản ngươi vì ngươi đi theo con đường tà. Con lừa thấy ta, nên nó tránh ta ba lần. Nếu nó không tránh, ta đã giết ngươi và để cho nó sống.” Ba-la-am nói với thiên sứ CHÚA: “Tôi đã phạm tội. Tôi đã không biết thiên sứ đứng trên đường để ngăn cản tôi. Nếu thiên sứ không vừa ý, bây giờ tôi xin quay về.” Thiên sứ của CHÚA bảo Ba-la-am: “Cứ đi với họ, nhưng ngươi chỉ được nói lời nào ta bảo ngươi nói.” Vậy Ba-la-am tiếp tục đi với các sứ giả của Ba-lác. Nghe tin Ba-la-am đến, Ba-lác ra tận một thành bên sông Ạt-nôn, ngoài biên giới để tiếp đón. Ba-lác hỏi Ba-la-am: “Tôi đã khẩn khoản mời sao ông không đến? Tôi không đủ khả năng cho ông được vẻ vang sao?” Ba-la-am đáp: “Bây giớ tôi đã đến đây. Nhưng tôi không có quyền nói gì hết. Tôi chỉ nói những lời Đức Chúa Trời đặt trong miệng tôi.” Và Ba-la-am đi với Ba-lác đến Ki-ri-át Hút-sốt. Ba-lác giết bò, cừu để cúng tế, và sai đem lễ vật cho Ba-la-am và các trưởng lão cùng đi với ông. Sáng hôm sau, Ba-lác đem Ba-la-am lên Ba-mốt Ba-anh là nơi từ đấy Ba-la-am có thể thấy một phần người Y-sơ-ra-ên. Ba-la-am nói với Ba-lác: “Xin xây tại đây bảy cái bàn thờ, và chuẩn bị cho tôi bảy con bò đực và bảy con chiên đực.” Ba-lác làm theo lời Ba-la-am nói, và hai người dâng một con bò và một con chiên trên mỗi bàn thờ. Rồi Ba-la-am lại nói với Ba-lác: “Xin Vua đứng bên của lễ thiêu mình. Tôi đi đằng này, có lẽ Đức Chúa Trời sẽ đến cho tôi gặp. Ngài bảo tôi điều gì, tôi sẽ cho vua hay.” Ba-la-am đi lên một ngọn đồi. Đức Chúa Trời gặp Ba-la-am, và ông thưa: “Tôi có lập bảy cái bàn thờ, trên mỗi cái dâng một con bò và một con chiên.” CHÚA đặt lời trong miệng Ba-la-am, và bảo ông trở về nói với Ba-lác. Ba-la-am về, thấy Ba-lác đứng bên của lễ thiêu mình, cùng với các trưởng lão Mô-áp. Ba-la-am nói lời tiên tri như sau:“Ba-lác, vua Mô-áp vời tôi đến từ A-ram,Từ những dãy núi miền Đông.Bảo tôi đến nguyền rủa Gia-cốp,Lăng mạ Y-sơ-ra-ên. Tôi nguyền rủa sao đượcNgười Đức Chúa Trời không nguyền rủa?Tôi lăng mạ sao đượcNgười Đức Chúa Trời không lăng mạ? Từ chót núi tôi thấy họ,Từ đồi cao tôi nhìn họ.Tôi thấy họ, một dân sống riêng rẽ,Không coi mình như một nước thế gian. Ai lường được cát bụi của Gia-cốp?Ai đếm được phần tư dân số Y-sơ-ra-ên?Cho tôi chết cái chết của người công chính,Cho tôi qua đời như họ qua đời!” Ba-lác hỏi Ba-la-am: “Ông làm gì vậy? Tôi mời ông đến nguyền rủa quân thù, nhưng ông lại đi chúc phước cho họ.” Ông đáp: “Tôi phải nói những lời CHÚA đặt trong miệng tôi.” Sau đó, Ba-lác nói với Ba-la-am: “Ông đi với tôi đến một nơi khác, tại đấy ông sẽ thấy họ, nhưng cũng chỉ thấy được một phần dân ấy, và ông sẽ nguyền rủa họ cho tôi.” Rồi Ba-lác dẫn Ba-la-am đến cánh đồng Xô-phim, lên đỉnh núi Phích-ga, lập tại đó bảy cái bàn thờ, dâng trên mỗi bàn thờ một con bò và một con chiên. Ba-la-am nói với Ba-lác: “Xin vua đứng đấy, bên của lễ thiêu mình, còn tôi sẽ đi đến đằng kia gặp CHÚA.” CHÚA gặp Ba-la-am, đặt lời trong miệng ông, và bảo ông trở về nói với Ba-lác. Vậy Ba-la-am về, thấy Ba-lác đứng bên của lễ thiêu mình cùng với các trưởng lão Mô-áp, Ba-lác hỏi: “CHÚA phán dạy thế nào?” Ba-la-am nói lời tiên tri:“Hỡi Ba-lác, hãy đứng lên nghe đây,Hỡi con trai của Xếp-bô, hãy lắng tai! Đức Chúa Trời đâu phải loài người để nói dối,Ngài đâu phải con loài người để đổi ý.Có bao giờ Ngài nói mà không làm?Hay hứa mà không thực hiện? Đây, tôi nhận được lệnh chúc phước;Ngài đã chúc phước, tôi không thay đổi được. Trong Gia-cốp, không thấy bất hạnh,Trong Y-sơ-ra-ên không thấy khốn cùng.CHÚA, Đức Chúa Trời ở với họ,Tiếng thét của Vua ở giữa họ. Đức Chúa Trời đem họ ra khỏi Ai-cậpSức mạnh họ như của bò rừng. Không ai bùa ếm Gia-cốp được,Cũng không ai bói toán nghịch Y-sơ-ra-ên.Vì đây là lúc nói về những việc Đức Chúa Trời đã làm cho Gia-cốp, cho Y-sơ-ra-ên. Họ vươn mình như sư tử cái,Vùng dậy như sư tử đựcChỉ nghỉ ngơi khi đã nuốt xong mồi,Và uống xong máu kẻ bị giết.” Ba-lác nói với Ba-la-am: “Ông không nguyền rủa họ thì thôi cũng đừng chúc phước cho họ nữa.” Ba-la-am đáp: “Tôi đã bảo là tôi chỉ được nói những điều CHÚA dạy tôi.” Rồi, Ba-lác lại nói với Ba-la-am: “Để tôi đưa ông đến một nơi khác. Có lẽ lần này Đức Chúa Trời sẽ đồng ý cho ông nguyền rủa họ tại đó.” Và Ba-lác dẫn Ba-la-am lên đỉnh núi Phê-ô, từ đấy nhìn thấy sa mạc. Ba-la-am nói: “Xây bảy bàn thờ và chuẩn bị bảy con bò, bảy con chiên tại đây cho tôi.” Ba-lác làm theo lời Ba-la-am, và dâng một con bò, một con chiên trên mỗi bàn thờ. Bây giờ, Ba-la-am thấy rõ rằng CHÚA muốn chúc phước cho Y-sơ-ra-ên, nên ông không đi tìm điềm báo như những lần trước, nhưng quay nhìn về hướng sa mạc. Ông thấy các trại quân Y-sơ-ra-ên, mỗi chi tộc cắm trại riêng biệt. Được thần Đức Chúa Trời cảm thúc, ông nói tiên tri như sau:“Lời tiên tri của Ba-la-am con trai Bê-ô,Là người có đôi mắt mở ra. Người nghe được lời của Đức Chúa Trời,Thấy được khải tượng của CHÚA,Dù người ngã, mắt người vẫn mở. Lều của Gia-cốp,Trại của Y-sơ-ra-ên đẹp mắt thật, Như thung lũng chạy dài,Như vườn tược cạnh mé sông,Như cây trầm hương được tay Đức Chúa Trời vun trồng,Như cây bách hương mọc bên dòng nước. Họ sẽ có nước ngọt tràn trề dư dật,Con cháu họ không hề sống nơi khô cạn,Vua họ có uy quyền cao hơn A-gát,Vương quốc họ hùng mạnh thăng tiến. Đức Chúa Trời đem họ ra khỏi Ai-cập,Họ trở nên dũng mãnh như bò rừng.Họ nuốt tươi các nước cừu địch. Họ nghỉ ngơi như sư tử nằm ngủ,Ai dám đánh thức?Ai chúc phước họ sẽ hưởng hạnh phúc;Ai nguyền rủa họ sẽ bị tai ương!” Đến đây, Ba-lác không ngăn được cơn giận, hai tay đập vào nhau, lên tiếng quở trách Ba-la-am: “Ta gọi ông đến để nguyền rủa kẻ thù cho ta, ông lại đi chúc phước họ ba lần. Thôi ông về đi! Ta có hứa làm cho ông được vẻ vang nhưng Đức Chúa Trời đã không cho ông hưởng vinh dự.” Ba-la-am đáp: “Tôi đã bảo sứ giả của bệ hạ là dù đức vua có cho tôi cung điện đầy vàng bạc, tôi cũng không tự mình làm điều gì được cả, Chúa bảo tôi nói gì, tôi phải nói đúng như vậy. Bây giờ, trước khi tôi về, tôi xin nói trước những điều Y-sơ-ra-ên sẽ làm cho thần dân bệ hạ.” Và Ba-la-am tiếp:“Lời tiên tri của Ba-la-am, con trai Bê-ôLà người có đôi mắt mở ra. Người nghe được lời của Đức Chúa Trời,Nhận thức được cao kiến của Đấng Tối Cao,Thấy được khải tượng của CHÚA,Dù người ngã, mắt người vẫn mở. Điều tôi thấy chưa xảy ra ngay,Việc tôi nhìn chưa đến gần.Một ngôi sao xuất phát từ nhà Gia-cốp,Một cây trượng đến từ Y-sơ-ra-ên.Vị vua Y-sơ-ra-ên này sẽ đánh Mô-áp tan tành,Tận diệt dòng dõi loạn lạc. Y-sơ-ra-ên sẽ biểu dương lực lượng,Chiếm Ê-đôm và Sê-i-rơ. Đức Vua uy quyền xuất phát từ nhà Gia-cốp này,Sẽ tiêu diệt những người sống sót trong các thành thị.” Sau đó, Ba-la-am nhìn thấy A-ma-léc, ông nói lời tiên tri sau đây:“A-ma-léc đứng đầu các quốc gia,Nhưng cuối cùng sẽ bị diệt vong.” Khi nhìn thấy người Kên, ông nói:“Nơi ngươi ở thật an toàn,Như tổ lót trên tảng đá: Thế nhưng Kên sẽ bị tàn pháKhi A-sua bắt ngươi lưu đầy.” Ông kết thúc lời tiên tri mình như sau:“Ôi! Khi Đức Chúa Trời thực hiện những điều này, còn ai sống nổi? Tầu sẽ đến từ bờ biển Kít-timLàm cho A-sua và Hê-be khốn đốn,Rồi chính họ cũng bị tiêu hủy.” Ba-la-am đứng dậy, đi về nhà, Ba-lác cũng lên đường. Trong khi người Y-sơ-ra-ên ở lại Si-tim, một số người liên lạc bất chính với các phụ nữ Mô-áp. Các phụ nữ mời họ dự các buổi dâng sinh tế cho thần mình, họ ăn uống và quỳ lậy các thần ấy. Vậy Y-sơ-ra-ên tham dự vào việc cúng thần Ba-anh Phê-ô. Và CHÚA nổi giận. CHÚA phán bảo Môi-se: “Bắt các nhà lãnh đạo dân chúng, treo họ trước mặt CHÚA, dưới ánh nắng, để cơn giận Ta nguôi đi.” Môi-se ra lệnh cho các thẩm phán Y-sơ-ra-ên: “Các anh phải xử tử tất cả những người nào dưới quyền mình đã tham dự vào việc thờ Ba-anh Phê-ô.” Có một người Y-sơ-ra-ên đem một phụ nữ Ma-đi-an về nhà, ngay trước mặt Môi-se và cả cộng đồng Y-sơ-ra-ên, trong khi họ đang khóc lóc trước cửa Trại Hội Kiến. Thấy thế Phi-nê-a con trai Ê-lê-a-sa, cháu A-rôn, thầy tế lễ, liền rời cộng đồng đi lấy một cây giáo, chạy theo người kia vào trong trại, đâm xuyên qua cả hai người, xuyên người đàn ông Y-sơ-ra-ên và bụng người đàn bà. Tai họa liền chấm dứt. Số người chết trong tai họa này lên đến hai mươi bốn ngàn người. CHÚA phán bảo Môi-se: “Phi-nê-a con trai Ê-lê-a-sa, cháu A-rôn, thầy tế lễ, đã cứu Y-sơ-ra-ên thoát khỏi cơn giận Ta, người đã vì Ta nhiệt tâm đố kỵ tà thần, nên Ta không diệt Y-sơ-ra-ên bất trung. Vậy con cho người hay, Ta lập giao ước hòa bình với người, là giao ước với người và con cháu người, họ sẽ giữ chức tế lễ mãi mãi, vì người đã nhiệt tâm với Ta, Đức Chúa Trời người, và chuộc tội cho Y-sơ-ra-ên.” Tên của người Y-sơ-ra-ên bị giết chung với phụ nữ Ma-đi-an là Xim-ri, con trai Sa-lu, đứng đầu một họ trong chi tộc Si-mê-ôn, và tên của người phụ nữ Ma-đi-an bị giết là Cốt-bi, con Xu-rơ, trưởng một chi tộc trong Ma-đi-an. CHÚA phán bảo Môi-se: “Hãy coi người Ma-đi-an là kẻ thù và đánh giết họ, vì họ đã coi các ngươi là thù nghịch khi dùng mưu kế dụ dỗ các ngươi thờ Phê-ô. Cốt-bi là con gái một nhà lãnh đạo Ma-đi-an, người phụ nữ bị giết trong ngày tai họa, và tai họa này xảy ra vì việc cúng thờ Phê-ô.” Sau tai họa ấy, CHÚA phán bảo Môi-se và Ê-lê-a-sa, con trai thầy tế lễ A-rôn: “Kiểm tra dân số Y-sơ-ra-ên theo từng gia tộc, từ hai mươi tuổi trở lên, những người có thể ra trận được.” Vậy, tại đồng bằng Mô-áp, bên sông Giô-đanh, đối diện Giê-ri-cô, Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa truyền lại lệnh ấy cho dân: “Kiểm tra những người từ hai mươi tuổi trở lên, như CHÚA đã phán dặn Môi-se.”Đây là dân số Y-sơ-ra-ên, những người ra từ Ai-cập: Con cháu Ru-bên, con trưởng nam của Y-sơ-ra-ên,Từ Hê-nóc sinh ra chi tộc Hê-nóc,Từ Pha-lu sinh ra chi tộc Pha-lu, Từ Hết-rôn sinh ra chi tộc Hết-rôn,Từ Cạt-mi sinh ra chi tộc Cạt-mi. Đó là các chi tộc thuộc chi tộc Ru-bên, có 43.730 người. Con trai Pha-lu là Ê-li-áp. Các con trai Ê-li-áp là Nê-mu-ên, Đa-than và A-bi-ram. Chính Đa-than và A-bi-ram này là hai người lãnh đạo của dân, đã theo Cô-rê nổi loạn chống Môi-se, A-rôn và cả CHÚA nữa. Đất hả miệng nuốt họ cùng với Cô-rê, còn 250 người theo họ bị lửa thiêu chết. Việc này xảy ra để cảnh cáo Y-sơ-ra-ên. Tuy nhiên, con cháu Cô-rê không bị tuyệt diệt. Con cháu Si-mê-ôn, tính từng chi tộc:Từ Nê-mu-ên sinh ra chi tộc Nê-mu-ên,từ Gia-min sinh ra chi tộc Gia-min,từ Gia-kin sinh ra chi tộc Gia-kin, từ Xê-rách sinh ra chi tộc Xê-rách,từ Sau-lơ sinh ra chi tộc Sau-lơ. Đó là các chi tộc của chi tộc Si-mê-ôn, có 22.200 người. Con cháu Gát, tính từng chi tộc:Từ Xê-phôn sinh ra chi tộc Xê-phôn,từ Ha-ghi sinh ra chi tộc Ha-ghi,từ Su-ni sinh ra chi tộc Su-ni, từ Óc-ni sinh ra chi tộc Óc-ni,từ Ê-ri sinh ra rộc Ê-ri, từ A-rốt sinh ra chi tộc A-rốt,từ A-rê-li sinh ra chi tộc A-rê-li Đó là các chi tộc của chi tộc Gát, có 40.500 người. Có hai con trai của Giu-đa là Ê-rơ và Ô-nan đã qua đời tại Ca-na-an. Con cháu Giu-đa, tính từng chi tộc:Từ Sê-la sinh ra chi tộc Sê-la,từ Phê-rết sinh ra chi tộc Phê-rết,từ Xê-rách sinh ra chi tộc Xê-rách, từ Hết-rôn sinh ra chi tộc Hết-rôn,từ Ha-mun sinh ra chi tộc Ha-num.Hết-rôn và Ha-num là con Phê-rết. Đó là các chi tộc của chi tộc Giu-đa, có 76.500 người. Con cháu Y-sa-ca, tính từng chi tộc:Từ Thô-la sinh ra chi tộc Thô-la,từ Phu-va sinh ra chi tộc Phu-va, từ Gia-súp sinh ra chi tộc Gia-súp,từ Sim-rôn sinh ra chi tộc Sim-rôn. Đó là các chi tộc của chi tộc Y-sa-ca, có 64.300 người. Con cháu Sa-bu-luân, tính từng chi tộc:Từ Sê-rết sinh ra chi tộc Sê-rết,từ Ê-lôn sinh ra chi tộc Ê-lôn,từ Gia-lê-ên sinh ra chi tộc Gia-lê-ên. Đó là các chi tộc của chi tộc Sa-bu-luân, có 60.500 người. Con cháu Giô-sép tính từng chi tộc, có Ma-na-se và Ép-ra-im: Con cháu Ma-na-se:Từ Ma-ki sinh ra chi tộc Ma-ki,từ Ga-la-át (con Ma-ki) sinh ra chi tộc Ga-la-át, các người của Ga-la-át là:từ Giê-xe sinh ra chi tộc Giê-xe,từ Hê-léc sinh ra chi tộc Hê-léc, từ Ách-ri-ên sinh ra chi tộc Ách-ri-ên,từ Si-chem sinh ra chi tộc Si-chem, Từ Sê-mi-đa sinh ra chi tộc Sê-mi-đa,từ Hê-phê sinh ra chi tộc Hê-phê. (Xê-lô-phát, con trai Hê-phê, không có con trai. Tên các con gái Xê-lô-phát là Mách-la, Nô-a, Hốt-la, Minh-ca và Thiệt-sa). Đó là các chi tộc của chi tộc Ma-na-se, có 52.700 người. Con cháu Ép-ra-im:Từ Su-thê-lách sinh ra chi tộc Su-thê-lách,từ Bê-ka sinh ra chi tộc Bê-ka,từ Tha-chan sinh ra chi tộc Tha-chan. Con của Su-thê-lách là Ê-ran,từ Ê-ran sinh ra chi tộc Ê-ran. Đó là các chi tộc của chi tộc Ép-ra-im, có 32.500 người.Các chi tộc thuộc hai chi tộc trên đều là con cháu Giô-sép. Con cháu Bên-gia-min, tính từng chi tộc:Từ Bê-la sinh ra chi tộc Bê-la,từ Ách-bên sinh ra chi tộc Ách-bên,từ A-chi-ram sinh ra chi tộc A-chi-ram, từ Sê-phu-pham sinh ra chi tộc Sê-phu-pham,từ Hu-pham sinh ra chi tộc Hu-pham. Các ngươi của Bê-la là A-rết và Na-a-man,từ A-rết sinh ra chi tộc A-rết,từ Na-a-man sinh ra chi tộc Na-a-man. Đó là các chi của chi tộc Bên-gia-min, có 45.600 người. Con cháu Đan, tính từng chi tộc:Từ Su-cham sinh ra chi tộc Su-cham. Chi tộc Đan chỉ có một chi tộc, chi tộc Su-cham có 64.400 người. Con cháu A-se, tính từng chi tộc:từ Im-na sinh ra chi tộc Im-na,từ Ích-vi sinh ra chi tộc Ích-vi,từ Bê-ri-a sinh ra chi tộc Bê-ri-a. Các người của Bê-ri-a:Từ Hê-be sinh ra chi tộc Hê-be,từ Manh-ki-ên sinh ra chi tộc Manh-ki-ên. (A-se có một con gái tên là Sê-rách). Đó là các chi tộc của chi tộc A-se, có 53.400 người. Con cháu Nép-ta-li tính từng chi tộc:Từ Giát-sê-ên sinh ra chi tộc Giát-sê-ên,từ Gu-ni sinh ra chi tộc Gu-ni, từ Giê-se sinh ra chi tộc Giê-se,từ Si-lem sinh ra chi tộc Si-lem. Đó là các chi tộc của chi tộc Nép-ta-li, có 45.400 người. Vậy trong Y-sơ-ra-ên, tổng số người được kiểm tra là 601.730 người. CHÚA phán bảo Môi-se: “Đất sẽ được chia cho họ làm cơ nghiệp căn cứ trên dân số. Chi tộc đông dân sẽ được nhiều đất, chi tộc ít dân sẽ được ít đất. Mỗi chi tộc sẽ nhận được đất tùy theo dân số kiểm tra. Người ta sẽ dùng lối bốc thăm chia đất, mỗi phần mang tên một chi tộc. Cơ nghiệp của họ sẽ được bắt thăm giữa những chi tộc đông dân và những chi tộc ít dân.” Người Lê-vi cũng được kiểm tra, tính từng chi tộc:Từ Ghẹt-sôn sinh ra chi tộc Ghẹt-sôn,từ Kê-hát sinh ra chi tộc Kê-hát,từ Mê-ra-ri sinh ra chi tộc Mê-ra-ri. Các chi tộc khác thuộc chi tộc Lê-vi là:chi tộc Líp-ni,chi tộc Hếp-rôn,chi tộc Mách-li,chi tộc Mu-si,chi tộc Cô-rê.(Kê-hát sinh Am-ram. Lê-vi lúc còn ở Ai-cập sinh ra một người con gái tên là Giô-kê-bết. Am-ram cưới Giô-kê-bết sinh A-rôn, Môi-se và một người con gái tên là Mi-ri-am. A-rôn sinh Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma. Na-đáp và A-bi-hu chết khi dâng lửa lạ trước mặt CHÚA). Tổng số người nam thuộc chi tộc Lê-vi, từ một tháng trở lên, là 23.000 người. Họ không được kiểm tra. Đó là cuộc kiểm tra dân số Y-sơ-ra-ên do Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa thực hiện trong đồng bằng Mô-áp, bên kia sông Giô-đanh, đối diện Giê-ri-cô. Không một ai trong số những người này có tên trong kỳ kiểm tra lần trước do Môi-se và thầy tế lễ A-rôn thực hiện trong sa mạc Si-nai. Vì CHÚA có phán về những người trước rằng: “Họ phải chết trong sa mạc”, nên không còn một ai sống sót, trừ Ca-lép, con trai Giê-phu-nê, và Giô-suê, con trai Nun. Xê-lô-phát có năm người con gái: Mách-la, Hốt-la, Minh-ca và Thiệt-sa. (Xê-lô-phát là con Hê-phê, cháu Ga-la-át, chắt Ma-ki, chít Ma-na-se, thuộc chi tộc Ma-na-se. Ma-na-se là con Giô-sép). Các cô đến gặp Môi-se, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, các nhà lãnh tụ và toàn thể nhân dân hiện diện tại cửa Trại Hội Kiến, nói: “Cha chúng tôi qua đời trong sa mạc, không phải vì theo bè đảng Cô-rê phản nghịch CHÚA, nhưng chết vì tội lỗi mình, và không có con trai. Chỉ vì không có con trai nên cha tôi phải bị xóa tên khỏi gia tộc mình hay sao? Vậy, xin cho chúng tôi lãnh phần cơ nghiệp cùng với các chú các bác chúng tôi.” Môi-se trình vụ này lên cho CHÚA. CHÚA phán dạy ông: “Các con gái Xê-lô-phát nói đúng. Hãy chia cho họ một phần đất làm cơ nghiệp cùng với chú bác họ, là phần đáng lẽ chia cho cha họ. Con cũng nói với dân Y-sơ-ra-ên, nếu có ai chết không con trai, hãy chia phần cho con gái người ấy. Nếu người ấy không có con gái, giao phần cơ nghiệp cho anh em người ấy. Nếu không có anh em, giao cho chú bác. Nếu không có chú bác, giao phần cơ nghiệp cho người bà con gần nhất.” Đây là một luật áp dụng cho người Y-sơ-ra-ên, đúng như CHÚA phán dạy Môi-se. Sau đó, CHÚA phán với Môi-se: “Con lên núi A-ba-rim ngắm xem đất Ta cho Y-sơ-ra-ên. Xem xong, con cũng sẽ về cùng tổ tiên như A-rôn, anh con vậy. Vì trong sa mạc Xin, hai con đã không vâng lệnh Ta, không tôn thánh Ta trước mặt nhân dân khi họ chống cự về việc nước.” (Đây là “nước Mê-ri-ba” ở Ca-đê, trong sa mạc Xin.) Môi-se thưa với CHÚA: “Lạy CHÚA là Chúa của linh hồn mọi người, xin chỉ định một người lãnh đạo nhân dân, một người ở giữa họ để dẫn họ ra, đem họ vào, cho dân của CHÚA không như cừu chẳng có người chăn.” CHÚA đáp lời Môi-se: “Chọn Giô-suê, con trai Nun là người có thần trong mình. Con sẽ đặt tay trên người. Con sẽ dẫn người đến đứng trước thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và toàn thể nhân dân. Trước mặt họ, con sẽ ủy thác trách nhiệm cho người. Con trao quyền cho người và như thế, toàn thể cộng đồng Y-sơ-ra-ên sẽ vâng lệnh người. Người đến với thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ dùng bảng U-rim thỉnh cầu quyết định của CHÚA. Người và toàn thể cộng đồng Y-sơ-ra-ên phải tuân hành lệnh Chúa trong mọi việc, việc đi ra cũng như đi vào.” Môi-se làm đúng như lời CHÚA phán dặn, đem Giô-suê đến đứng trước mặt thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và toàn thể nhân dân. Ông đặt tay trên Giô-suê và ủy thác trách nhiệm cho người, như CHÚA đã dạy ông. CHÚA phán bảo Môi-se truyền cho dân Y-sơ-ra-ên lệnh này: “Phải cẩn thận dâng lên ta đúng kỳ hạn các lễ vật thức ăn dùng lửa dâng lên, có mùi thơm đẹp lòng Ta.” Con bảo họ: “Đây là lễ thiêu dùng lửa dâng lên CHÚA: Mỗi ngày dâng tế lễ toàn thiêu thường xuyên, gồm hai chiên đực một tuổi không tì vết. Dâng một con vào buổi sáng, một con vào buổi tối, cùng với lễ vật ngũ cốc gồm một kí bột mì mịn trộn với một lít dầu ô-liu giã bằng cối. Đây là tế lễ thiêu thường xuyên đã được ấn định tại núi Si-nai, là một tế lễ dùng lửa dâng lên, có mùi thơm đẹp lòng CHÚA. Cũng dâng chung với chiên một lễ quán, gồm một lít rượu; đổ rượu ra trên bàn thờ trước mặt CHÚA. Vào lúc chạng vạn tối cũng dâng một con chiên cùng với lễ vật ngũ cốc và lễ quán giống như lễ buổi sáng. Đây là tế lễ dùng lửa dâng lên, có mùi hương đẹp lòng CHÚA. Mỗi ngày Sa-bát, dâng tế lễ thiêu gồm hai con chiên đực một tuổi, không vết tích, cùng với lễ quán và lễ dâng ngũ cốc, gồm hai kí bột mì mịn trộn với dầu. Đây là tế lễ thiêu dâng ngày Sa-bát, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên và lễ quán. Mỗi đầu tháng, dâng tế lễ thiêu cho CHÚA gồm hai con bò tơ đực, một con chiên đực và bảy con chiên đực một tuổi, không vết tích. Lễ vật ngũ cốc gồm bột mì trộn với dầu: dâng ba kí chung với mỗi con bò, hai kí chung với mỗi con chiên đực và một kí chung với mỗi con chiên con. Đây là tế lễ toàn thiêu, dùng lửa dâng lên, có mùi hương đẹp lòng CHÚA. Với con chiên đực, dâng một lễ vật ngũ cốc gồm một kí bột mì mịn. Đây là tế lễ thiêu, dùng lửa dâng lên, có mùi hương đẹp lòng CHÚA. Chung với mỗi con bò, dâng một lễ quán gồm hai lít rượu. Với con chiên đực, dâng 1.20l rượu. Với mỗi con chiên con, một lít rượu. Đây là lễ thiêu dâng hằng tháng trong năm. Ngoài tế lễ thiêu dâng thường xuyên hằng ngày với lễ quán, dâng lên CHÚA một con dê đực để làm tế lễ chuộc tội. Giữ Lễ Vượt Qua của CHÚA ngày mười bốn tháng giêng. Từ ngày mười lăm, người ta sẽ dự lễ, ăn bánh không men trong bảy ngày. Vào ngày thứ nhất, các con phải tập họp lại thờ phượng CHÚA và không ai được làm việc hằng ngày của mình. Dâng cho CHÚA một tế lể thiêu, lễ vật gồm hai con bò tơ đực, một con chiên đực và bảy con chiên đực một tuổi, không vết tích. Chung với mỗi con bò, dâng một lễ vật ngũ cốc gồm ba kí bột mì mịn trộn với dầu. Với con chiên đực, hai kí. Với mỗi chiên con, một kí. Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội cho các ngươi. Đấy là các lễ vật phải dâng ngoài tế lễ thiêu thường xuyên vào buổi sáng. Trong bảy ngày, mỗi ngày đều phải dâng tế lễ thiêu như thế, dùng lửa dâng lên, có mùi hương đẹp lòng CHÚA. Các lễ vật đó được dâng ngoài các tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ quán. Vào ngày thứ bảy cũng phải tập họp lại thờ phượng CHÚA, không ai được làm công việc hằng ngày của mình. Vào ngày hoa quả đầu mùa, ngày thứ nhất trong lễ Các Tuần, khi dâng lên CHÚA ngũ cốc mới thu hoạch, các con phải tập họp lại thờ phượng CHÚA, không ai được làm công việc thường ngày của mình. Dâng hai con bò tơ đực, một con chiên đực và bảy con chiên một tuổi làm tế lễ thiêu dâng lên có mùi hương đẹp lòng CHÚA. Chung với mỗi con bò, dâng một lễ vật ngũ cốc gồm ba kí bột mì mịn trộn với dầu. Với con chiên đực, hai kí. Với mỗi chiên con, một kí. Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội cho các ngươi. Các lễ vật này cùng với các lễ quán phải dâng ngoài tế lễ thiêu thường xuyên, lễ dâng ngũ cốc và lễ quán. Phải dâng những sinh vật không vết tích. Vào ngày mồng một tháng bảy, các con phải tập họp lại thờ phượng CHÚA, không ai được làm công việc hằng ngày của mình. Ngày ấy sẽ là ngày thổi kèn. Tế lễ thiêu dâng lên, có mùi hương đẹp lòng CHÚA gồm một con bò tơ đực, một con cừu đực và bảy con chiên đực một tuổi, không vết tích. Chung với con bò, dâng lễ vật ngũ cốc gồm ba kí bột mì mịn trộn với dầu. Với con cừu đực, hai kí. Với mỗi con chiên con, một kí. Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội cho các ngươi. Các lễ vật này dâng ngoài tế lễ thiêu dâng hằng tháng cùng lễ vật ngũ cốc, tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ vật ngũ cốc và lễ quán như đã quy định. Đấy là những lễ vật dùng lửa dâng lên có mùi hương đẹp lòng CHÚA. Ngày mồng mười tháng bảy các con phải tập họp lại thờ phượng CHÚA. Mọi người phải kiêng ăn, và không được làm việc gì hết. Tế lễ thiêu dâng lên có mùi hương đẹp lòng CHÚA gồm một con bò tơ đực, một con cừu đực và bảy con chiên đực một tuổi, không vết tích. Chung với con bò, dâng một lễ vật ngũ cốc gồm ba kí bột mì mịn trộn với dầu. Với con chiên đực, hai kí. Với mỗi con chiên con, một kí. Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội. Lễ vật này được dâng thêm vào với tế lễ chuộc tội dâng trong ngày chuộc tội, tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ vật ngũ cốc và lễ quán. Ngày rằm tháng bảy các con phải tập họp lại thờ phượng CHÚA. Không ai được làm công việc hằng ngày của mình. Nhân dân sẽ giữ lễ bảy ngày cho CHÚA. Tế lễ thiêu dâng lên có mùi hương đẹp lòng CHÚA gồm mười ba con bò tơ đực, hai con chiên đực và mười bốn con chiên đực một tuổi, không vết tích. Chung với mỗi con bò, dâng một lễ ngũ cốc gồm ba kí bột mì mịn trộn với dầu. Với mỗi con chiên đực, hai kí. Với mỗi chiên con, một kí. Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ ngũ cốc và lễ quán. Vào ngày thứ hai, dâng mười hai con bò tơ đực, hai con chiên đực và mười bốn con cừu đực một tuổi, không vết tích. Chung với bò, cừu đực và chiên con, cũng dâng ngũ cốc và rượu theo số lượng đã ấn định. Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ ngũ cốc và lễ quán. Vào ngày thứ ba, dâng mười một con bò tơ đực, hai con cừu đực và mười bốn con chiên đực một tuổi, không vết tích. Chung với bò, cừu đực và chiên con, cũng dâng ngũ cốc và rượu theo số lượng đã ấn định. Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ ngũ cốc và lễ quán. Vào ngày thứ tư, dâng mười con bò tơ đực, hai con cừu đực và mười bốn con chiên đực một tuổi, không vết tích. Chung với bò, cừu đực và chiên con, cũng dâng ngũ cốc và rượu theo số lượng đã ấn định. Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ ngũ cốc và lễ quán. Vào ngày thứ năm, dâng chín con bò tơ đực, hai con cừu đực và mười bốn con chiên đực một tuổi, không vết tích. Chung với bò, cừu đực và chiên con, cũng dâng ngũ cốc theo số lượng đã ấn định. Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ ngũ cốc và lễ quán. Vào ngày thứ sáu, dâng tám con bò tơ đực, hai con cừu đực và mười bốn con chiên đực một tuổi, không vết tích. Chung với bò, cừu đực và chiên con, cũng dâng ngũ cốc theo số lượng đã ấn định. Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ dâng ngũ cốc và lễ quán. Vào ngày thứ bảy, dâng bảy con bò tơ đực, hai con chiên đực và mười bốn con cừu đực một tuổi, không vết tích. Chung với bò, cừu đực và chiên con, cũng dâng ngũ cốc theo số lượng đã ấn định. Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ dâng ngũ cốc và lễ quán. Vào ngày thứ tám, sẽ có một cuộc hội họp thánh, không ai được làm việc nặng nhọc. Lễ thiêu dâng hương vị lên CHÚA gồm một con bò đực, một con cừu đực và bảy con cừu đực một tuổi, không vết tích. Chung với bò, cừu đực và chiên con, cũng dâng ngũ cốc theo số lượng đã ấn định. Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ ngũ cốc và lễ quán. Đấy là các lễ vật dâng cho CHÚA trong các ngày lễ ấn định, gồm tế lễ thiêu, lễ dâng ngũ cốc, lễ quán và tế lễ cầu an mà các con dâng để giữ trọn lời hứa nguyện hoặc dâng cách tình nguyện.” Môi-se truyền lại cho người Y-sơ-ra-ên mọi điều CHÚA phán bảo. Môi-se nói với các nhà lãnh đạo các chi tộc Y-sơ-ra-ên: “Đây là những điều CHÚA có phán dạy: ‘Nếu một người hứa nguyện với CHÚA điều gì hoặc thề sẽ giữ một lời nguyền, người ấy không được trái lời, phải làm theo lời mình đã nói. Khi một thiếu nữ còn sống trong nhà cha mình có lời hứa nguyện với CHÚA hoặc thề nguyện điều gì, và khi người cha nghe được lời thề của con mình nhưng không nói gì cả; tất cả lời thề đó vẫn có hiệu lực. Nhưng nếu người cha cấm con gái mình ngay trong ngày người ấy biết được; không một lời thề nào của nàng còn có hiệu lực cả. CHÚA sẽ tha thứ cho nàng vì bị cha mình cấm đoán. Nếu thiếu nữ lấy chồng sau khi đã có lời hứa nguyện hoặc đã buột miệng thề một điều gì, và khi người chồng nghe được lời thề nhưng không nói gì cả; lời thề vẫn có hiệu lực. Nhưng nếu người chồng cấm vợ mình ngay trong ngày người ấy biết được; người chồng đã hủy bỏ hiệu lực lời hứa nguyện, lời thề của vợ mình vì buột miệng nói ra. CHÚA sẽ tha thứ cho nàng. Lời thề của một bà góa hoặc một bà ly dị có hiệu lực. Nếu trong khi đang sống trong nhà chồng, một người đàn bà hứa nguyện hoặc thề sẽ giữ một lời nguyền, và khi người chồng nghe được lời thề nhưng không nói năng cấm đoán gì cả; tất cả lời thề vẫn còn có hiệu lực. Nhưng nếu người chồng hủy bỏ lời thề ngay trong ngày mình biết được, không một lời thề nào của nàng còn có hiệu lực cả. CHÚA sẽ tha thứ cho nàng vì chồng nàng hủy bỏ. Vậy, người chồng có quyền xác nhận hay hủy bỏ lời hứa nguyện hoặc lời thề nguyền của vợ mình. Nhưng nếu người chồng không nói gì trong một ngày tròn, tức là đã xác nhận lời thề của vợ mình. Người chồng xác nhận bằng sự yên lặng, dù đã biết được lời thề ấy. Nếu người chồng biết được, nhưng đợi một thời gian mới hủy bỏ lời thề, người chồng phải gánh chịu trách nhiệm về lỗi vợ mình mắc phải.’” Đấy là những quy tắc CHÚA truyền cho Môi-se về mối liên hệ giữa vợ chồng, cha con khi người con gái còn sống trong nhà cha mình. CHÚA phán bảo Môi-se: “Hãy báo thù người Ma-đi-an cho Y-sơ-ra-ên. Rồi con sẽ được về cùng tổ tiên.” Vậy, Môi-se bảo dân: “Vũ trang một số nhân dân để đi đánh dân Ma-đi-an, thi hành lệnh báo thù của CHÚA. Mỗi chi tộc sẽ gửi một ngàn quân ra trận.” Như vậy, trong Y-sơ-ra-ên, mỗi chi tộc chọn một ngàn người, mười hai ngàn người được vũ trang để ra trận. Môi-se ra lệnh xuất quân, một ngàn quân mỗi chi tộc, cùng với Phi-nê-a, con thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, đem theo các dụng cụ thánh và cầm kèn đồng thổi báo hiệu. Họ tấn công Ma-đi-an theo lệnh CHÚA truyền cho Môi-se, giết tất cả những người đàn ông, kể cả năm vua Ma-đi-an là Ê-vi, Rê-kem, Xu-rơ, Hu-rơ và Rê-ba. Ba-la-am, con trai Bê-ô cũng bị chém chết. Người Y-sơ-ra-ên bắt đàn bà, trẻ con Ma-đi-an, thu chiến lợi phẩm gồm bò, cừu và của cải. Họ đốt hết các thành, trang trại của người Ma-đi-an. Họ lấy các chiến lợi phẩm, người và súc vật, đem tất cả người đã bắt được và của cải đã thu được về cho Môi-se, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và nhân dân Y-sơ-ra-ên đang cắm trại tại đồng bằng Mô-áp, bên sông Giô-đanh, đối diện Giê-ri-cô. Môi-se, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và tất cả các nhà lãnh đạo cộng đồng nhân dân đi ra bên ngoài trại đón họ. Môi-se giận các sĩ quan chỉ huy quân đội lắm, những người chỉ huy hàng ngàn và hàng trăm quân, vừa từ chiến trường về. Ông hỏi họ: “Tại sao các ông tha chết cho những người đàn bà này? Họ chính là những người theo mưu của Ba-la-am, dụ dỗ người Y-sơ-ra-ên từ bỏ CHÚA, cúng thờ Phê-ô, và vì thế dân Chúa bị tai họa. Bây giờ, phải giết hết những đứa con trai và những người đàn bà đã nằm với đàn ông. Nhưng tha chết cho các trinh nữ, và có thể giữ họ cho mình. Còn những ai đã giết người hoặc đụng vào xác chết, phải ở lại bên ngoài trại bảy ngày. Vào ngày thứ ba và ngày thứ bảy, phải tẩy uế mình và người mình bắt được. Cũng phải tẩy sạch áo xống, đồ dùng bằng da, bằng lông dê và bằng gỗ.” Thầy tế lễ Ê-lê-a-sa nói với các chiến sĩ: “Đây là quy tắc CHÚA đã truyền cho Môi-se: Vàng, bạc, đồng, sắt, thiếc, chì và bất cứ vật gì không cháy, phải đưa vào lửa đốt; và cũng phải dùng nước tẩy uế cho sạch các vật ấy nữa. Còn vật gì không chịu được lửa thì chỉ cần tẩy cho sạch bằng nước tẩy uế. Vào ngày thứ bảy, sau khi giặt áo xống, anh em sẽ được sạch và được vào trại.” CHÚA phán bảo với Môi-se: “Con sẽ cùng thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và các chi tộc trưởng kiểm kê các chiến lợi phẩm, cả người lẫn súc vật. Rồi đem chia các chiến lợi phẩm ra làm hai phần, một phần thuộc về các chiến sĩ đã ra trận, phần kia thuộc về nhân dân. Trong phần của các chiến sĩ, phải lấy một phần năm trăm đem dâng cho Chúa, dù là người, bò, lừa hay cừu. Đem phần thu được để dâng cho CHÚA, giao cho thầy tế lễ Ê-lê-a-sa. Trong phần của nhân dân, lấy một phần năm mươi, dù là người, bò, lừa, cừu hay súc vật gì khác, giao cho người Lê-vi, là những người có trách nhiệm coi sóc Trại Hội Kiến của CHÚA.” Vậy, Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa làm theo mọi điều CHÚA phán dạy Môi-se. Số chiến lợi phẩm do các chiến sĩ thu được gồm có 675.000 con chiên, 72.000 con bò, 61.000 con lừa và 32.000 trinh nữ. Vậy, phân nửa thuộc các chiến sĩ gồm:337.500 Con chiên, Dâng cho CHÚA 675 con; 36.000 Con bò, dâng cho CHÚA 72 con; 30.500 Con lừa, dâng cho CHÚA 61 con; 16.000 Người, dâng cho CHÚA 32 người. Môi-se giao cho thầy tế lễ Ê-lê-a-sa phần dâng cho Chúa, như CHÚA đã dặn ông. Phân nửa thuộc phần dân Y-sơ-ra-ên được Môi-se chia cho (phân nửa kia thuộc các chiến sĩ, phân nửa nầy thuộc về nhân dân), gồm 337.500 con chiên, 36.000 con bò, 30.500 con lừa và 16.000 người. Môi-se lấy một phần năm mươi trong số chiến lợi phẩm thuộc nhân dân, cả người lẫn súc vật, giao cho người Lê-vi là những người có trách nhiệm coi sóc Trại Hội Kiến của CHÚA, như CHÚA đã dặn ông. Các sĩ quan chỉ huy hàng ngàn và hàng trăm quân sĩ đến gặp Môi-se, nói: “Chúng tôi, là các đầy tớ của ông, có kiểm điểm quân số, và thấy không thiếu một ai cả. Chúng tôi cũng có mang đến các nữ trang bằng vàng đã thu được: băng đeo tay, xuyến, nhẫn, hoa tai và dây chuyền. Chúng tôi xin dâng cho CHÚA để làm lễ chuộc tội.” Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa nhận số vàng. Tổng số vàng do các sĩ quan chỉ huy hàng ngàn và hàng trăm dâng cho CHÚA là 200kg. Các chiến sĩ đều có thu chiến lợi phẩm riêng cho mình. Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa nhận số vàng từ tay các sĩ quan chỉ huy hàng ngàn và hàng trăm, rồi đem để vào Trại Hội Kiến, để CHÚA luôn nhớ đến Y-sơ-ra-ên. Người của hai chi tộc Ru-bên và Gát có rất nhiều súc vật. Khi thấy đất Gia-ê-xe và Ga-la-át là nơi thích hợp cho việc chăn nuôi, họ đến gặp Môi-se, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và các nhà lãnh đạo nhân dân, nói: “A-ta-rốt, Đi-bôn, Gia-ê-xe, Nim-ra, Hết-bôn, Ê-lê-a-sê, Sê-ham, Nê-ô và Bê-ôn, các miền CHÚA đã chinh phục trước mặt dân Y-sơ-ra-ên, rất thuận lợi cho việc chăn nuôi, và chúng tôi lại có nhiều gia súc. Nếu chúng tôi được quý ông thương tình, xin cho chúng tôi đất này làm sản nghiệp, không cần phải đi qua sông Giô-đanh.” Môi-se hỏi người Gát và Ru-bên: “Anh em muốn ngồi đây trong khi anh chị em khác đi chiến đấu sao? Sao anh em làm cho anh chị em Y-sơ-ra-ên nản lòng, không muốn đi vào đất CHÚA đã cho họ? Tại Ca-đê Ba-nê-a, cha ông của anh em cũng đã làm y như vậy khi tôi sai họ đi do thám xứ Ca-na-an. Sau khi đến thung lũng Ếch-côn nhìn thấy xứ, họ làm cho người Y-sơ-ra-ên nhụt chí, không muốn đi vào xứ mà CHÚA đã cho họ. Ngày ấy, CHÚA nổi giận, thề rằng: ‘Trong những người ra đi từ Ai-cập, không một ai từ hai mươi tuổi trở lên được thấy xứ mà Ta đã thề hứa cho Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp, vì họ đã không hết lòng theo Ta; ngoại trừ Ca-lép con trai Giê-phu-nê, người Kê-nít, và Giô-suê con trai Nun, vì họ hết lòng theo Ta.’ CHÚA giận Y-sơ-ra-ên nên Ngài bắt họ phải đi lang thang trong sa mạc suốt bốn mươi năm, cho đến khi thế hệ làm điều tà ác trước mắt Chúa chết hết. Và bây giờ, anh em là dòng giống của những người tội lỗi lại nổi lên, thay cho cha ông mình, làm cho CHÚA thêm giận Y-sơ-ra-ên. Nếu anh em từ bỏ Chúa, Ngài sẽ để cho toàn dân ở lại trong sa mạc, và chính anh em là nguyên do làm cho dân tộc bị tiêu diệt.” Nhưng họ đến gần Môi-se, nói: “Chúng tôi chỉ xin dựng chuồng cho bầy súc vật và xây thành cho con cái chúng tôi ở đây. Còn chúng tôi sẽ mang vũ khí đi trước toàn dân, cho đến khi mọi người đã vào đất mình. Trong khi đó gia đình chúng tôi được sống an toàn trong thành lũy kiên cố, không bị dân địa phương làm hại. Chúng tôi sẽ không về nhà cho đến khi nào mọi người Y-sơ-ra-ên khác đều nhận được cơ nghiệp mình. Vì chúng tôi đã nhận phần cơ nghiệp bên bờ phía đông sông Giô-đanh, nên sẽ không có phần gì với những người khác bên kia sông cả.” Bấy giờ, Môi-se bảo họ: “Nếu anh em làm đúng như thế, nếu anh em mang vũ khí ra trận trước mặt CHÚA, nếu mọi người cầm vũ khí đi qua sông Giô-đanh trước mặt CHÚA, cho đến khi Ngài đuổi hết quân thù đi, thì khi CHÚA đã chinh phục xong lãnh thổ, anh em mới được về, và mới được miễn trách nhiệm với Chúa và với Y-sơ-ra-ên. Và trước mặt CHÚA, đất này lúc đó sẽ thuộc về quyền sở hữu của anh em. Nhưng nếu anh em không làm đúng như thế, anh em sẽ mắc tội với CHÚA, và nhớ rằng tội này sẽ kết buộc anh em. Bây giờ, hãy xây thành cho con cái mình ở, dựng chuồng cho bầy súc vật, nhưng anh em phải nhớ làm điều mình đã hứa.” Người Gát và Ru-bên đáp lời Môi-se: “Các tôi tớ ông xin làm đúng như lời Chúa tôi dặn bảo. Vợ con và súc vật của chúng tôi sẽ ở lại đây, trong những thành của đất Ga-la-át. Còn các tôi tớ ông, tất cả những người được vũ trang để chiến đấu, sẽ qua sông để ra trận trước mặt CHÚA, như chúa tôi đã nói.” Sau đó, Môi-se chỉ thị cho thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê con của Nun và các trưởng chi tộc Y-sơ-ra-ên về việc này. Ông nói: “Nếu tất cả những người được vũ trang để chiến đấu của chi tộc Gát và Ru-bên cùng qua sông Giô-đanh với các ông trước mặt CHÚA, thì khi lãnh thổ đã bình định xong, các ông sẽ cho họ đất Ga-la-át làm cơ nghiệp. Nhưng nếu họ không đi qua cùng với các ông để chiến đấu, họ chỉ được phần cơ nghiệp chung với các ông trong xứ Ca-na-an.” Người Gát và Ru-bên nói: “Điều CHÚA truyền dạy, các tôi tớ ông xin tuân hành! Chúng tôi sẽ mang vũ khí qua sông, vào đất Ca-na-an trước mặt CHÚA, nhưng đất chúng tôi nhận làm cơ nghiệp sẽ ở bên này sông Giô-đanh.” Vậy, Môi-se cấp cho chi tộc Gát, chi tộc Ru-bên và phân nửa chi tộc Ma-na-se (con Giô-sép) đất của Si-hôn vua A-mô-rít và của Óc vua Ba-san, toàn lãnh thổ với các thành thị và thôn ấp chung quanh. Người Gát xây cất Đi-hôn, A-ta-rốt, A-rô-e, Ạt-rốt Sô-phan, Gia-ê-xe, Giô-bê-ha, Bết Nim-ra và Bết Ha-ran là những thành có hào lũy kiên cố. Họ cũng dựng chuồng cho bầy gia súc. Người Ru-bên cất tại Hết-bôn, Ê-lê-a-lê, Ki-ri-a-tha-im, Nê-bô, Ba-anh Mê-ôn (những tên này bị đổi), và Síp-ma. Họ đặt tên mới cho các thành vừa tái thiết. Con cháu Ma-ki (con Ma-na-se) đi đánh chiếm Ga-la-át, đuổi người A-mô-rít đi. Vậy Môi-se cấp cho con cháu Ma-ki (con Ma-na-se) đất Ga-la-át, và họ sinh sống tại đó. Giai-rơ (con Ma-na-se) đi chiếm một số thôn ấp, đặt tên là thôn Giai-rơ. Nô-bách chiếm Kê-nát và các thôn ấp chung quanh, rồi đặt tên là Nô-bách (theo tên mình). Lộ trình và các địa điểm hạ trại từ Ai-cập đến Giô-đanh. Đây là các địa điểm dân Y-sơ-ra-ên hạ trại sau khi rời Ai-cập tiến lên theo hàng ngũ dưới quyền chỉ huy của Môi-se và A-rôn. Môi-se vâng lịnh CHÚA ghi chép cuộc hành trình của nhân dân theo thứ tự các địa điểm hạ trại. Đây là các chặn đường: dân Y-sơ-ra-ên từ Ram-se lên đường ngày mười lăm tháng giêng, một ngày sau Lễ Vượt Qua, họ anh dũng kéo ra trước mắt toàn dân Ai-cập. Dân ấy đang chôn cất các con trai đầu lòng mà CHÚA đã đánh hạ, vì Chúa đã đoán phạt các thần của họ. Sau khi bỏ Ram-se, dân Y-sơ-ra-ên hạ trại tại Su-cốt; rời Su-cốt và hạ trại tại Ê-tam; nơi giáp ranh sa mạc; rời Ê-tam quay lại Phi-Ha-hi-rốt, phía đông Ba-an Sê-phôn, và hạ trại tại Mích-đôn. Họ rời Phi-Ha-hi-rốt, đi qua giữa biển mà vào sa mạc; đi được ba ngày trong sa mạc Ê-tam, họ hạ trại tại Ma-ra. Rời Ma-ra họ đến Ê-lim; là nơi có mười hai dòng suối và bảy mươi cây chà là và hạ trại tại đó. Rời Ê-lim, họ hạ trại bên bờ Hồng-hải; rời bờ Hồng Hải họ đóng trại trong sa mạc Sin. Rời sa mạc Sin họ đóng trại tại Đáp-ca. Rời Đáp-ca họ hạ trại tại A-lúc. Rời A-lúc họ hạ trại tại Rê-phi-đim, là nơi không có nước ngọt cho người ta uống. Rời Rê-phi-đim họ hạ trại trong sa mạc Si-nai. Rời sa mạc Si-nai họ hạ trại tại Kíp-rốt-Ha-tha-va. Rời Kíp-rốt-Ha-tha-va họ hạ trại tại Hát-sê-rốt. Rời Hát-sê-rốt họ hạ trại tại Rít-ma. Rời Rít-ma họ hạ trại tại Ri-môn-Phê-rết. Rời Ri-môn-Phê-rết họ hạ trại tại Líp-ma. Rời Líp-ma họ hạ trại tại Ri-sa. Rời Ri-sa họ hạ trại tại Kê-hê-la-tha. Rời Kê-hê-la-tha họ hạ trại tại núi Sê-phe. Rời núi Sê-phe họ hạ trại tại Ha-ra-đa. Rời Ha-ra-đa họ hạ trại tại Mác-hê-lốt. Rời Mác-hê-lốt họ hạ trại tại Ta-hát. Rời Ta-hát họ hạ trại tại Ta-rách. Rời Ta-rách họ hạ trại tại Mít-ga. Rời Mít-ga họ hạ trại tại Hách-mô-na. Rời Hách-mô-na họ hạ trại tại Mô-sê-rốt. Rời Mô-sê-rốt họ hạ trại tại Bê-nê-Gia-can. Rời Bê-nê-Gia-can họ hạ trại tại Hô-ghi-gát. Rời Hô-ghi-gát họ hạ trại tại Dốt-ba-tha. Rời Dốt-ba-tha họ hạ trại tại Áp-rô-na. Rời Áp-rô-na họ hạ trại tại Ê-xi-ôn-Ghê-be. Rời Ê-xi-ôn-Ghê-be họ hạ trại trong sa mạc Xin, nghĩa là tại Ca-đê. Rời Ca-đê họ hạ trại tại núi Hô-rơ, ở chót đầu xứ Ê-đôm. Theo lệnh CHÚA, thầy tế lễ A-rôn leo lên núi Hô-rơ rồi qua đời ngày mồng một tháng năm năm thứ bốn mươi sau khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập. A-rôn hưởng thọ được một trăm hai mươi ba tuổi khi qua đời trên núi Hô-rơ. Vua A-hát người Ca-na-an qua sông tại miền nam Ca-na-an đã nghe tin dân Y-sơ-ra-ên sắp đến nơi. Rời núi Hô-rơ họ hạ trại tại Xa-mô-na. Rời Xa-mô-na họ hạ trại tại Phu-nôn. Rời Phu-nôn họ hạ trại tại Ô-bốt. Rời Ô-bốt họ hạ trại tại Y-giê-A-ba-rim, trên bờ cõi Mô-áp. Rời Y-giê-A-ba-rim, họ hạ trại tại Đi-bôn-Gát. Rời Đi-bôn-Gát, họ hạ trại tại Anh-môn Đíp-lát-tha-im. Rời Anh-môn Đíp-lát-tha-im, họ hạ trại trên núi A-ba-rim, gần Nê-bô. Rời núi A-ba-rim, họ hạ trại trong đồng ruộng Mô-áp bên sông Giô-đanh đối ngang Giê-ri-cô. Tại đồng bằng Mô-áp, họ hạ trại dọc sông Giô-đanh từ Bết-giê-si-mốt cho đến A-bên Si-tim. Trong đồng bằng Mô-áp bên sông Giô-đanh, đối ngang Giê-ri-cô, CHÚA bảo Môi-se: “Con hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên, khi các ngươi qua sông Giô-đanh để vào xứ Ca-na-an, hãy đuổi tất cả dân cư trong xứ đi. Hãy tiêu diệt các tượng chạm và tượng đúc và phá đổ tất cả các nơi cao của họ. Hãy chiếm hữu đất đai và định cư tại đó vì Ta đã ban cho các ngươi chiếm hữu xứ ấy. Hãy bắt thăm chia đất theo chi tộc họ, cho nhóm đông được hưởng miếng đất lớn, nhóm nhỏ được hưởng miếng đất nhỏ, và được làm chủ miếng đất ấy. Hãy phân phối đất đai theo tông chi tộc. Nhưng nếu các ngươi không đuổi dân cư trong xứ, những kẻ các ngươi cho ở lại sẽ như gai đâm trong mắt, chông xóc vào hông. Họ sẽ gây rối cho các ngươi trong xứ các ngươi ở. Lúc ấy, Ta sẽ làm cho các ngươi điều Ta đã làm cho họ.” CHÚA bảo Môi-se nói với dân Y-sơ-ra-ên: “Khi các ngươi vào Ca-na-an là đất Ta cho làm sản nghiệp, giới hạn đất ấy sẽ được ấn định như sau: Về phía nam, đất gồm có sa mạc Xin, chạy dọc theo ranh nước Ê-đôm. Khởi đầu từ mũi Biển Chết về phía đông, Biên giới phía nam của dốc núi Ạc-ráp-bim, tiếp tục chạy dài đến sa mạc Xin, sâu xuống đến phía nam của Ca-đê Ba-nê-a rồi từ đấy chạy đến Hát-sa-át-đa, ngang qua Át-môn. Từ Át-môn, biên giới sẽ quay qua suối Ai-cập và dừng lại ở biển Địa Trung Hải. Biên giới phía tây là bờ Địa Trung Hải. Biên giới phía bắc chạy từ Địa Trung Hải cho đến núi Hô-rơ. Từ đấy vạch một đường đến lối vào Ha-mát, qua sông Xê-đát, Xíp-rôn và chấm dứt ở Hát-sa-ê-nan. Biên giới phía đông sẽ bắt đầu từ Hát-sa-ê-nan chạy đến Sê-pham, từ đó xuống Ríp-lát về phía đông của A-in, rồi tiếp tục xuống nữa cho đến khi giáp phía đông của biển Ki-nê-rết. Từ biển Ki-nê-rết, biên giới chạy dọc theo sông Giô-đanh và chấm dứt ở Biển Chết.” Môi-se nói: “Đó là đất của chín chi tộc mới. Họ sẽ bắt thăm chia đất theo lệnh của CHÚA, vì chi tộc Ru-bên, Gát và phân nửa chi tộc Ma-na-se đã nhận phần đất của mình bên bờ phía đông sông Giô-đanh.” CHÚA lại bảo Môi-se: “Sau đây là những người có trách nhiệm chia đất: Thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê, con trai của Nun, và mỗi chi tộc một nhà lãnh đạo. Đây là danh sách các nhà lãnh đạo các chi tộc:Ca-lép, con trai Giê-phu-nêđại diện Giu-đa. Sê-mu-ên, con A-mi-hút,đại diện cho chi tộc Si-mê-ôn; Ê-li-đát, con Kít-long,đại diện Bên-gia-min; Bu-ki, con Giốc-đi,đại diện Đan; Ha-ni-ên, con Ê-phát,đại diện Ma-na-se. Kê-mu-ên, con Síp-tan,đại diện Ép-ra-im. Ê-li-sa-phan, con Phác-nát,đại diện Sa-bu-luân, Pha-ti-ên, con A-xan,đại diện Y-sa-ca; A-hi-hút, con Sê-lô-mi,đại diện A-se Phê-đa-ên, con A-mi-hút,đại diện chi tộc Nép-ta-li. Đó là những người Ta chỉ định đứng ra chia đất Ca-na-an cho người Y-sơ-ra-ên.” Tại đồng bằng Mô-áp bên bờ sông Giô-đanh đối ngang Giê-ri-cô, CHÚA phán dạy Môi-se: “Con hãy ra lệnh cho dân Y-sơ-ra-ên tặng người Lê-vi các thành cho họ ở, lấy từ trong sản nghiệp dân Y-sơ-ra-ên sẽ được sở hữu. Hãy cho họ các đồng cỏ để chăn nuôi xung quanh các thành ấy. Như thế họ sẽ có các thành để cư trú và các đồng cỏ để chăn nuôi bầy bò bầy cừu và tất cả các gia súc khác. Các bãi cỏ chăn nuôi xung quanh các thành mà các ngươi tặng người Lê-vi chiều rộng phải được năm trăm mét tính từ các bức tường của thành. Ngoài thành, hãy đo một ngàn mét về phía đông, một ngàn mét về phía nam một ngàn mét về phía tây, một ngàn mét về phía bắc, lấy thành làm trung tâm. Họ sẽ được vùng đất ấy để chăn nuôi. Trong số các thành các ngươi tặng người Lê-vi phải dành sáu thành làm thành ẩn náu ngõ hầu kẻ sát nhân có thể trốn vào. Ngoài ra các ngươi hãy tặng họ bốn mươi hai thành khác. Như vậy các ngươi sẽ tặng người Lê-vi bốn mươi tám thành tất cả luôn cả đất xung quanh thành làm bãi cỏ chăn nuôi. Các thành các ngươi tặng người Lê-vi lấy trong lãnh thổ dân Y-sơ-ra-ên phải tỷ lệ với cơ nghiệp của mổi chi tộc: chi tộc nào có nhiều thành hãy lấy nhiều, chi tộc nào có ít thành hãy lấy ít.” CHÚA phán dạy Môi-se: “Con hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên: Khi các ngươi vượt sông Giô-đanh vào xứ Ca-na-an, hãy chọn một số thành làm thành ẩn náu để kẻ nào ngộ sát có thể trú ẩn. Các thành ấy sẽ làm nơi trú ẩn để tránh người báo thù ngõ hầu kẻ nào bị tố cáo giết người khỏi phải chết trước khi ra tòa của dân chúng. Sáu thành này mà các ngươi cho người Lê-vi sẽ làm các thành ẩn náu cho các ngươi: ba thành bên tả ngạn sông Giô-đanh và ba thành trong xứ Ca-na-an sẽ làm thành ẩn náu. Sáu thành ấy sẽ là nơi ẩn náu cho dân Y-sơ-ra-ên, cho các ngoại kiều và cho các dân nào khác sống giữa dân Y-sơ-ra-ên ngõ hầu kẻ nào ngộ sát có thể trốn đến đó. Nếu một người dùng một vật bằng sắt đả thương trí mạng kẻ khác, nó phạm tội sát nhân; kẻ sát nhân sẽ bị xử tử. Hoặc nếu kẻ nào cầm trong tay một cục đá có thể giết người và nó đả thương trí mạng người khác, thì nó phạm tội sát nhân; kẻ sát nhân sẽ bị xử tử. Hoặc nếu kẻ nào cầm trong tay một dụng cụ bằng gỗ có thể giết người, nếu nó đả thương người khác thì nó phạm tội sát nhân sẽ bị xử tử. Người báo thù huyết sẽ xử tử kẻ sát nhân; khi nào gặp kẻ sát nhân người phải giết nó đi. Nếu kẻ có gian ý định tâm xô lấn người khác hoặc dụng ý liệng vật gì trúng người đó khiến người đó chết đi hoặc vì sự thù địch mà đánh người bằng tay vì đó người này chết đi thì kẻ đánh người sẽ bị xử tử vì nó đã giết người. Người thù huyết sẽ xử tử kẻ sát nhân khi gặp nó. Nhưng nếu không do thù hằn một người thình lình xô lấn người khác hoặc vô tình ném vật gì trúng người ấy, hoặc vì không thấy người kia mà thả xuống một tảng đá trúng nhằm người, nếu người ấy chết dù người ấy không phải là kẻ cừu thù và đương sự không dụng ý làm hại người, hội đồng nhân dân phải xét xử giữa đương sự và người báo thù huyết căn cứ theo các qui luật này. Hội đồng nhân dân phải bảo vệ kẻ bị người báo thù huyết tố cáo phạm tội giết người và cho người ấy trở về thành ẩn náu mà người ấy đã đến trốn. Người ấy phải ở đó cho đến khi thầy tế lễ tối cao đã được xức dầu thánh qua đời. Nhưng nếu kẻ sát nhân ra khỏi giới hạn ở ngoài thành ẩn náu, là nơi người đã đến trốn và nếu người báo thù huyết bắt gặp, giết nó ở ngoài giới hạn ở ngoài thành ẩn náu thì người báo thù huyết không mắc tội sát nhân; kẻ sát nhân phải ở trong thành ẩn náu cho đến khi thầy tế lễ tối cao qua đời. Sau khi thầy tế lễ tối cao qua đời kẻ sát nhân ấy được trở về với sản nghiệp mình. Bất luận các ngươi sống nơi nào đều phải áp dụng lề luật này cho mình và cho các thế hệ tương lai. Nếu ai giết người, phải cứ theo lời khai của các nhân chứng mà xử tử kẻ sát nhân, nhưng một nhân chứng không đủ để kết án xử tử. Các ngươi không được nhận tiền chuộc mạng của một tên sát nhân đã đủ bằng chứng mắt tội và đáng chết vì nó buộc phải bị xử tử. Các ngươi đừng nhận tiền chuộc mạng của người đã trốn đến một thành ẩn náu và cho phép nó trở về sống trong sản nghiệp mình trước khi thầy tế lễ tối cao qua đời. Đừng làm ô uế đất đai mà các ngươi đang sinh sống; máu đào đổ ra làm ô uế đất đai và không thể nào chuộc tội cho đất đai đã thấm máu đào đã đổ ra. Phải dùng máu của kẻ đổ máu người mới chuộc tội cho đất đai được. Đừng làm ô uế đất đai mà các ngươi sinh sống và cũng là nơi Ta ngự vì Ta là CHÚA ngự giữa dân Y-sơ-ra-ên.” Các gia trưởng Ga-la-át là con trai Ma-ki, cháu Ma-na-se trong dòng hậu tự Giô-sép, đến thưa chuyện với Môi-se và các nhà lãnh đạo và các trưởng chi tộc trong dân Y-sơ-ra- ên. Họ nói: “Khi CHÚA truyền lệnh cho ngài chia đất đai cho dân Y-sơ-ra-ên làm sản nghiệp, Ngài đã ra lệnh cho chúa tôi ban sản nghiệp của anh Sê-lô-phát chúng tôi cho các con gái anh. Nếu các cô ấy kết hôn với những người Y-sơ-ra-ên trong các chi tộc khác thì sản nghiệp của chúng sẽ bị cất đi khỏi sản nghiệp của tổ phụ chúng tôi mà đem qua sản nghiệp của chi tộc nào chúng gia nhập. Như thế phần đất đó đã bắt thăm cho chi tộc chúng tôi sẽ bị lấy đi. Đến năm hân hỉ cho dân Y-sơ-ra-ên, sản nghiệp của chúng sẽ bị đem qua cho chi tộc mà chúng gia nhập. Như thế sản nghiệp của chúng sẽ bị truất khỏi cơ nghiệp của tổ tiên chúng tôi.” CHÚA truyền lệnh cho Môi-se ban bố chỉ thị này cho dân Y-sơ-ra-ên: “Chi tộc của con Giô-sép nói có lý. Đây là điều CHÚA phán dạy về các con gái của Sê-lô-phát, chúng muốn kết hôn với ai tuỳ ý nhưng chỉ hãy kết hôn trong các chi chi tộc trong chi tộc của tổ phụ mình. Không một sản nghiệp nào trong dân Y-sơ-ra-ên được chuyển từ chi tộc này qua chi tộc khác vì mỗi công dân Y-sơ-ra-ên sẽ giữ đất đai của chi tộc mình thừa hưởng từ tổ tiên. Mỗi người con gái được thừa hưởng đất đai trong bất cứ chi tộc nào của Y-sơ-ra-ên cũng phải kết hôn với người thuộc trong chi tộc của cha mình ngõ hầu mỗi công dân Y-sơ-ra-ên được sở hữu sản nghiệp của tổ phụ mình. Không một sản nghiệp nào được chuyển từ chi tộc này qua chi tộc khác, vì mỗi chi tộc Y-sơ-ra-ên phải giữ đất đai mình đã thừa hưởng.” Vậy các con gái của Sê-lô-phát làm theo điều CHÚA phán dạy Môi-se. Các con gái của Sê-lô-phát: Mách-đa, Thiệt-sa, Hốt-la, Minh-ca và Nô-a đều kết hôn với anh em chú bác của mình. Các cô ấy kết hôn trong vòng các chi chi tộc của dòng dõi Ma-na-se con trai Giô-sép, nên sản nghiệp họ vẫn còn lại trong chi tộc và chi chi tộc của cha mình. Đó là các mệnh lệnh và qui luật mà CHÚA dùng Môi-se ban hành cho dân Y-sơ-ra-ên trong các đồng bằng Mô-áp bên bờ sông Giô-đanh đối ngang Giê-ri-cô. Sau đây là lời của Môi-se nói với toàn dân Y-sơ-ra-ên, tại sa mạc về phía đông sông Giô-đanh, tức là trong vùng A-ra-ba, gần thành Su-phơ, ở khoảng giữa thành Pha-ran, một bên là Tô-phên, bên kia là các thành La-ban, Hát-sê-rốt và Đi-xa-háp. Phải mất mười một ngày để đi từ núi Hô-rếp đến Ca-đê Ba-nê-a theo đường núi Sê-i-rơ. Vào ngày mồng một, tháng mười một, năm bốn mươi Môi-se truyền lại cho dân Y-sơ-ra-ên tất cả mọi điều CHÚA đã truyền dạy liên hệ đến họ. Việc này xảy ra sau khi ông đánh bại Si-hôn, vua dân A-mô-rít, đóng đô ở Hết-bôn và tại Ết-rê-i, ông đánh bại Óc, vua xứ Ba-san, đóng đô ở Ách-ta-rốt. Khi đang ở trong lãnh thổ Mô-áp, về phía đông sông Giô-đanh, Môi-se dẫn giải kinh luật của Đức Chúa Trời; ông nói: CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta có phán dạy chúng ta tại Hô-rếp: “Các ngươi ở tại núi này đã khá lâu. Hãy nhổ trại và tiến vào đồi núi của dân A-mô-rít; đến nơi những dân tộc lân bang ở trong vùng A-ra-ba, tiến vào các vùng cao nguyên, vùng đất thấp về phía tây, vào vùng Nê-ghép và dọc bờ biển, vào lãnh thổ của người Ca-na-an cho đến Li-ban, và tiến đến tận sông cái, là sông Ơ-phơ-rát. Ta đã ban cho các ngươi tất cả các vùng đó. Cứ tiến vào chiếm lấy tất cả đất đai CHÚA đã thề hứa ban cho tổ tiên các ngươi là Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp và cho dòng dõi của họ.” Lúc ấy tôi có nói với anh chị em rằng: “Trách nhiệm hướng dẫn anh chị em là một trách nhiệm quá nặng nề, một mình tôi không thể gánh nổi. CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã gia tăng dân số anh chị em, nên ngày nay anh chị em đông như sao trên trời. Nguyện xin CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ tiên anh chị em tăng gia dân số anh chị em gấp ngàn lần và giáng phước hạnh cho anh chị em như Ngài đã hứa. Nhưng một mình tôi làm thế nào giải quyết tất cả các vấn đề khó khăn và các cuộc tranh chấp của anh chị em? Vậy, anh chị em hãy lựa chọn những người khôn ngoan, hiểu biết và nhiều kinh nghiệm trong mỗi chi tộc để tôi bổ nhiệm họ làm những người lãnh đạo anh chị em.” Anh chị em trả lời: “Ông đề nghị điều đó phải lắm.” Vì vậy tôi đem những người khôn ngoan, đáng kính trọng trong các chi tộc và bổ nhiệm họ vào các cấp lãnh đạo, có người chỉ huy một ngàn, người chỉ huy một trăm, người chỉ huy năm mươi và có người chỉ huy mười người. Lúc đó tôi căn dặn những người giữ chức vụ thẩm phán: Phải để ý nghe các vụ tranh chấp của anh em mình và phân xử cách công minh, dù là vụ tranh chấp giữa người Y-sơ-ra-ên với nhau, hay vụ tranh chấp giữa người Y-sơ-ra-ên với ngoại kiều. Đừng thiên vị trong khi xét xử, phải để ý nghe người thấp hèn cũng như người cao sang. Đừng sợ ai cả vì việc xét xử là của Đức Chúa Trời. Khi gặp vụ nào khó xử, cứ mang đến cho tôi và tôi sẽ nghe. Lúc đó tôi căn dặn anh chị em tất cả những điều anh chị em phải làm. Sau đó, vâng theo mạng lệnh CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta truyền dạy, chúng ta rời Hô-rếp ra đi hướng về đồi núi của dân A-mô-rít, băng qua sa mạc mênh mông khủng khiếp như anh chị em đã thấy và chúng ta đến Ca-đê Ba-nê-a. Tôi nói với anh chị em: “Chúng ta đã đến xứ đồi núi của dân A-mô-rít là xứ CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta ban cho chúng ta. Kìa, CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã ban xứ phía trước cho anh chị em. Hãy tiến lên, chiếm xứ CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ tiên anh chị em đã hứa. Đừng sợ hãi cũng đừng nản chí.” Lúc đó anh chị em đến nói với tôi: “Chúng ta nên sai trinh sát đi do thám xứ để báo cáo cho chúng ta biết về các đường phải đi và về tình hình các thành chúng ta sẽ tiến đến.” Lời đề nghị ấy có vẻ hợp lý nên tôi chọn mười hai người làm trinh sát, mỗi chi tộc một người. Họ ra đi, vào vùng đồi núi và đến thăm dò thung lũng Ếch-côn, hái một số hoa quả trong xứ, mang về cho chúng ta và báo cáo: “Xứ CHÚA, Đức Chúa Trời ban cho chúng ta là một xứ tốt đẹp.” Nhưng anh chị em phản nghịch, chống đối mạng lệnh của CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em và không chịu tiến lên. Anh chị em càu nhàu trong lều mình và nói: “CHÚA ghét chúng ta nên đem chúng ta ra khỏi Ai-cập để giao cho dân A-mô-rít tiêu diệt. Chúng ta đi đâu bây giờ? Các anh em làm chúng ta sợ hãi vì nói rằng: ‘Dân ấy mạnh mẽ cao lớn hơn chúng ta; thành của họ rộng lớn với tường thành cao tận trời. Chúng tôi cũng có thấy người A-na-kim ở đó nữa.’” Tôi có nói với anh chị em: “Anh chị em đừng khiếp đảm cũng đừng sợ hãi họ. CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sẽ đi trước và chiến đấu cho anh chị em như Ngài đã chiến thắng dân Ai-cập ngay trước mắt anh chị em; còn trong sa mạc, CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã bồng bế anh chị em như một người cha bồng bế con trai mình, qua suốt mọi chặng đường cho đến nơi này.” Dù vậy, anh chị em không tin tưởng CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, là Đấng đi trước anh chị em trên mọi nẻo đường, ban đêm trong trụ lửa còn ban ngày trong trụ mây, để tìm cho anh chị em nơi đóng trại và chỉ dẫn cho anh chị em con đường phải đi. Khi nghe các lời anh chị em nói CHÚA nổi giận và thề rằng: “Không một người nào thuộc thế hệ tội ác này được vào trong xứ tốt đẹp Ta hứa ban cho tổ tiên họ, ngoại trừ Ca-lép, con trai Giê-phu-nê. Người sẽ thấy xứ đó và Ta sẽ ban cho người và con cháu người đất bàn chân người sẽ đạp lên, vì người đã hết lòng theo CHÚA.” Vì anh chị em, CHÚA cũng giận tôi và phán: “Con cũng không được vào xứ đó đâu. Nhưng phụ tá của con là Giô-suê, con trai của Nun, sẽ vào đó. Con hãy khuyến khích Giô-suê vì người này sẽ lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên vào chiếm xứ đó làm cơ nghiệp. Còn những trẻ con các ngươi cho rằng sẽ làm mồi ngon cho quân thù, con cái các ngươi là những em bé chưa biết phân biệt thiện ác, chính chúng nó sẽ vào đất hứa. Ta sẽ ban đất cho chúng nó và chúng nó sẽ chiếm hữu đất đó. Nhưng các ngươi phải quay lại và đi vào sa mạc, theo con đường dẫn về hướng Biển Đỏ.” Lúc đó anh chị em thưa: “Chúng tôi có tội với CHÚA. Chúng tôi sẽ đi lên và chiến đấu, theo mạng lệnh CHÚA, Đức Chúa Trời chúng tôi đã truyền dạy.” Như vậy mỗi người tự trang bị vũ khí, tưởng chừng việc tiến vào xứ đồi núi là dễ dàng lắm. Nhưng CHÚA phán bảo tôi: “Con nói với họ: ‘Đừng tiến lên chiến đấu vì Ta không đi với họ đâu. Họ sẽ bị quân thù đánh bại.’” Tôi thuật lại lời đó cho anh chị em nhưng anh chị em không chịu nghe. Anh chị em chống nghịch mạng lệnh của CHÚA và tiến vào xứ đồi núi với lòng kiêu căng. Dân A-mô-rít ở trên các đồi núi đổ ra, đuổi anh chị em chạy như đàn ong vỡ tổ và đánh bại anh chị em từ Sê-i-rơ cho đến con đường đi Họt-ma. Anh chị em chạy về khóc lóc trước mặt CHÚA, nhưng Ngài bịt tai không để ý đến tiếng kêu khóc của anh chị em. Rồi anh chị em ở lại Ka-đe lâu ngày, qua một thời gian khá dài. Sau đó chúng ta quay lại, đi vào sa mạc theo con đường dẫn về hướng Biển Đỏ, như CHÚA đã phán dạy tôi. Chúng ta đi vòng quanh vùng đồi núi Sê-i-rơ trong một thời gian rất lâu. CHÚA bảo tôi: “Dân chúng đi vòng quanh xứ đồi núi này đủ rồi, bây giờ hãy di chuyển về hướng bắc. Con truyền cho họ mạng lệnh này: ‘Các ngươi sẽ đi qua lãnh thổ của anh em mình là dân Mô-áp, con cháu Ê-sau, đang sinh sống trong xứ Sê-i-rơ. Họ sẽ sợ các ngươi, nhưng các ngươi phải hết sức cẩn thận, đừng khiêu chiến với họ, vì Ta không ban cho các ngươi phần đất nào trong lãnh thổ của họ, dù một chút đất vừa lọt bàn chân cũng không cho. Ta đã ban cho Ê-sau vùng đồi núi Sê-i-rơ làm sản nghiệp. Các ngươi phải lấy bạc để mua thức ăn và nước uống.’” CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã ban phước cho mọi công việc tay anh chị em làm. Suốt cuộc hành trình trong sa mạc mênh mông, Ngài vẫn chăm nom săn sóc anh chị em. CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã ở với anh chị em trong bốn mươi năm qua và anh chị em không thiếu thốn gì cả. Vậy chúng ta đi cách xa các anh em chúng ta là con cháu Ê-sau đang ở trong xứ Sê-i-rơ. Chúng ta rời đường A-ra-ba, là con đường từ Ê-lát và Ê-xi-ôn Ghê-be đi lên Biển Chết, mà đi theo con đường vào sa mạc Mô-áp. CHÚA phán dạy tôi: “Đừng quấy rối người Mô-áp cũng đừng gây hấn với họ, vì Ta không cho các ngươi một phần nào trong lãnh thổ của họ. Ta đã ban A-rơ cho dòng dõi Lót làm cơ nghiệp.” (Trước kia người Ê-mim ở trong vùng đó. Họ là một dân mạnh và đông, cao lớn như người A-na-kim. Họ cũng được gọi là dân Rê-pha-im như người A-na-kim, nhưng người Mô-áp gọi họ là dân Ê-mim. Người Hô-rít trước kia ở trong vùng Sê-i-rơ, nhưng con cháu Ê-sau đánh đuổi và tiêu diệt họ, rồi định cư ở đó, cũng như dân Y-sơ-ra-ên chiếm cứ và định cư trong xứ CHÚA ban cho họ làm cơ nghiệp.) CHÚA phán dạy: “Các ngươi đứng dậy, đi băng qua khe Xê-rết.” Vậy chúng ta đi băng qua đó. Thời gian từ lúc chúng ta rời Ka-đe Ba-nê-a cho đến lúc chúng ta đi băng qua khe Xê-rết là ba mươi tám năm. Đến lúc đó cả một thế hệ vào lứa tuổi chiến sĩ đã chết hết, đúng theo lời CHÚA đã thề với họ. Tay CHÚA đã đưa ra chống nghịch họ cho đến khi Ngài đã tiêu trừ họ khỏi doanh trại. Khi tất cả các chiến sĩ trong dân đã chết, CHÚA phán dạy ta: “Hôm nay các ngươi phải đi ngang qua bờ cõi của Mô-áp ở A-rơ. Khi đến gần đất của người Am-môn, các ngươi đừng quấy rối cũng đừng gây hấn với họ, vì Ta không ban cho các ngươi lãnh thổ của người Am-môn đâu. Ta đã ban lãnh thổ ấy cho con cháu Lót làm cơ nghiệp.” (Lãnh thổ này cũng được coi là đất của người Rê-pha-im, vì trước kia dân này sống ở đấy, nhưng người Am-môn gọi họ là dân Xam-xu-mim. Họ là một dân mạnh mẽ, đông đúc và cao lớn như người A-na-kim. CHÚA tiêu diệt họ trước mặt người Am-môn. Người Am-môn đánh đuổi họ và định cư trong xứ của họ. CHÚA cũng làm như thế cho dòng dõi của Ê-sau ở Sê-i-rơ, khi Ngài tiêu diệt dân Hô-rít trước mặt họ. Họ đánh đuổi dân này và định cư ở đó cho đến ngày nay. Còn dân A-vim, trước kia ở trong các làng mạc xa đến tận Ga-xa, đã bị dân Cáp-tô-rim từ Cáp-tô đến tiêu diệt và chiếm hữu đất đai.) “Bây giờ các ngươi lên đường băng qua sông cạn Ạt-nôn. Kìa, Ta đã trao vào tay các ngươi Si-hôn người A-mô-rít, vua Hết-bôn và xứ của người. Các ngươi tiến đánh và chiếm lấy đất đai. Hôm nay Ta bắt đầu làm cho các dân dưới trời kinh khiếp sợ hãi các ngươi. Họ sẽ nghe báo cáo về các ngươi và sẽ run rẩy, khốn khổ.” Từ sa mạc Kê-đê-mốt, tôi sai các sứ giả đến gặp Si-hôn vua Hết-bôn đề nghị hòa bình với vua: “Xin vua để chúng tôi đi băng ngang qua lãnh thổ của vua. Chúng tôi sẽ đi trên đường cái và không quay qua bên phải hay bên trái. Xin vua bán cho chúng tôi thức ăn nước uống và chúng tôi sẽ trả đúng giá bằng bạc. Chỉ xin vua cho chúng tôi đi bộ băng qua xứ vua, như các con cháu Ê-sau ở Sê-i-rơ và như dân Mô-áp ở A-rơ đã cho phép chúng tôi cho đến khi chúng tôi đi ngang qua sông Giô-đanh để vào xứ CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng tôi hứa ban cho chúng tôi.” Nhưng Si-hôn vua Hết-bôn từ chối không cho chúng ta đi qua, vì CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta đã làm cho vua có tinh thần ương ngạnh và tấm lòng cứng cỏi để trao vua này vào tay anh chị em. Đó là điều Chúa đã làm. CHÚA bảo tôi: “Hãy xem, Ta khởi sự trao cho các ngươi Si-hôn và đất đai của người. Bây giờ các ngươi bắt đầu chiếm hữu đất đó đi.” Khi Si-hôn và đạo quân của vua kéo ra giao chiến với chúng ta ở Gia-hát, CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta đã trao vua cho chúng ta và chúng ta đã đánh giết vua, cùng với các con trai và toàn thể đạo quân của vua. Chúng ta chiếm hết mọi thành của họ và tiêu diệt cả đàn ông, đàn bà và trẻ con, không để một người nào sống sót. Nhưng chúng ta thâu đoạt và mang đi các bầy súc vật và chiến lợi phẩm từ các thành đó. Từ thành A-rô-e trên mé khe Ạt-nôn và từ thành trong trũng đến tận Ga-la-át, không có thành nào kiên cố quá cho chúng ta, vì CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta đã ban tất cả các thành đó cho chúng ta. Nhưng vâng theo lệnh của CHÚA, anh chị em không xâm phạm đến đất của người Am-môn, đất dọc theo mé sông Gia-bốc hay các thành trên đồi núi. Sau đó, chúng ta quay qua theo con đường đi lên về hướng Ba-san và Óc, vua Ba-san kéo toàn lực ra nghênh chiến với chúng ta tại Ếch-rê-i. CHÚA phán dạy tôi: “Đừng sợ vua ấy vì Ta đã trao vua cùng với toàn thể đạo quân và lãnh thổ của vua cho các ngươi. Các ngươi phải đối xử với vua ấy theo cách đã đối xử với Si-hôn vua dân A-mô-rít ở Hết-bôn.” Như vậy CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta đã trao vào tay chúng ta Óc, vua Ba-san và toàn quân của vua. Chúng ta đánh giết tất cả, không để một ai sống sót. Lúc đó chúng ta chiếm hết các thành. Trong số sáu mươi thành trong vùng Ạt-gốp, lãnh thổ của Óc, vua Ba-san, chúng ta không chừa một thành nào cả. Các thành này đều có công sự phòng thủ với tường lũy cao và hai cửa có cài then. Ngoài ra cũng có nhiều làng mạc không có tường lũy bao bọc. Chúng ta hủy diệt hoàn toàn các nơi đó như đã hủy diệt trong lãnh thổ của Si-hôn vua Hết-bôn, triệt hạ thành, đánh giết đàn ông, đàn bà, con trẻ. Nhưng chúng ta thâu đoạt và mang đi các bầy súc vật và chiến lợi phẩm. Như vậy, chúng ta chiếm hết đất đai của hai vua dân A-mô-rít, nằm về phía đông sông Giô-đanh, từ sông cạn Ạt-nôn cho đến tận núi Hẹt-môn. (Người Si-đôn gọi núi Hẹt-môn là Si-ri-ôn còn người A-mô-rít gọi là Sê-ni-rơ). Chúng ta chiếm tất cả các thành miền cao nguyên, toàn xứ Ga-la-át và toàn xứ Ba-san cho đến tận Sanh-ca và Ết-rê-i là hai thành thuộc lãnh thổ của Óc trong xứ Ba-san. (Óc vua Ba-san là người Rê-pha-im sống sót sau cùng. Giường của vua này bằng sắt, dài 4m rộng 1.80m, nay vẫn còn tại Ráp-ba, một thành của dân Am-môn.) Với đất đai đã chiếm được, tôi chia cho hai chi tộc Ru-bên và Gát phần đất từ thành A-rô-e bên bờ sông cạn Ạt-nôn, trải lên phía bắc đến phân nửa xứ Ga-la-át là vùng đồi núi, cùng với các thành ở đó. Phân nửa xứ Ga-la-át còn lại và toàn xứ Ba-san, là lãnh thổ của Óc, được chia cho phân nửa chi tộc Ma-na-se. (Toàn vùng Ạt-gốp xứ Ba-san trước kia được gọi là lãnh thổ của người Rê-pha-im. Giai-rơ, một người thuộc dòng dõi Ma-na-se chiếm toàn vùng Ạt-gốp cho đến tận biên giới đất của dân Gơ-sua và dân Ma-a-ca; vì vậy cho đến ngày nay xứ Ba-san được gọi là Ha-vốt Giai-rơ theo tên của Giai-rơ). Tôi cũng chia miền bắc đất Ga-la-át cho Ma-ki. Hai chi tộc Ru-bên và Gát được tôi chia cho lãnh thổ kéo dài từ miền nam Ga-la-át cho đến sông cạn Ạt-nôn (chính giữa lòng sông là ranh giới). Ranh giới phía bắc là sông Gia-bốt, sông này là biên giới lãnh thổ của người Am-môn. Biên giới phía tây là thung lũng sông Giô-đanh trong đất A-ra-ba, từ Ki-nê-rết cho đến Biển A-ra-ba tức là Biển Mặn, bên dưới triền núi Phích-ga về phía đông. Lúc đó tôi căn dặn: “CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã ban cho đồng bào đất này để làm cơ nghiệp. Nhưng tất cả những thanh niên mạnh khỏe và có vũ trang phải qua sông, đi trước các anh em mình là người Y-sơ-ra-ên. Tuy nhiên, vợ con và súc vật của anh chị em (tôi biết anh chị em có nhiều súc vật) có thể ở lại trong các thành tôi đã chia cho anh chị em, cho đến khi CHÚA ban cho anh em của anh chị em được nghỉ ngơi, như Ngài đã ban cho anh chị em; tức là khi các anh em đó đã chiếm được phần đất CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em ban cho họ ở bên kia sông Giô-đanh. Chỉ khi đó anh em mới trở về với cơ nghiệp tôi đã phân chia cho anh chị em.” Lúc đó tôi bảo Giô-suê: “Anh đã thấy tận mắt tất cả những điều CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta đã làm cho hai vua kia. CHÚA cũng sẽ làm y như thế cho các vương quốc ở bên kia sông là nơi anh sẽ đến. Đừng sợ họ, vì chính CHÚA, Đức Chúa Trời của anh sẽ chiến đấu cho anh em.” Lúc bấy giờ tôi cũng có cầu khẩn với CHÚA: “Kính lạy CHÚA, Chúa đã bắt đầu cho tôi tớ Chúa thấy đặc tính vô cùng vĩ đại và cánh tay quyền năng của Chúa. Có thần nào ở trên trời hoặc dưới đất có thể làm được những hành động và công việc quyền năng như Chúa làm không? Xin Chúa cho con qua sông để được thấy xứ tốt tươi, đồi núi xinh đẹp với rặng núi Li-ban bên kia sông Giô-đanh.” Nhưng vì anh chị em mà CHÚA giận tôi và không nhậm lời tôi. Ngài phán: “Đủ rồi, đừng đem việc này nói với Ta nữa. Con sẽ lên đỉnh núi Phích-ga, nhìn về hướng tây, hướng bắc, hướng nam và hướng đông. Con được lấy mắt nhìn đất hứa nhưng con sẽ không được đi qua sông Giô-đanh. Con truyền chức vụ cho Giô-suê và dùng lời khích lệ để làm cho người mạnh mẽ, vì Giô-suê sẽ dẫn dân qua sông và đưa họ vào chiếm hữu xứ con sẽ được ngắm nhìn.” Vì vậy chúng ta ở lại trong thung lũng gần Bết Phê-ô. Hỡi Y-sơ-ra-ên! Hãy nghe các quy luật và sắc lệnh tôi sẽ chỉ dạy để anh chị em được sống và tiến vào chiếm hữu đất đai CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ tiên sắp ban cho anh chị em. Đừng thêm gì vào, cũng đừng bớt chi cả, nhưng phải vâng giữ các mạng lệnh của CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, là mạng lệnh tôi sắp truyền lại. Anh chị em đã thấy tận mắt những gì CHÚA đã làm trong vụ Ba-anh Phê-ô. CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã tiêu diệt tất cả những người trong vòng anh chị em theo Ba-anh Phê-ô, nhưng ai trung kiên với CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, đều còn sống đến ngày nay. Tôi chỉ dạy anh chị em các quy luật và sắc lệnh CHÚA, Đức Chúa Trời của tôi đã truyền cho tôi, để anh chị em có thể vâng giữ khi đã ở trong xứ anh chị em sẽ vào chiếm hữu. Phải thận trọng vâng giữ các quy luật và sắc lệnh này để nhờ đó các dân tộc khác thấy được sự khôn ngoan hiểu biết của anh chị em, và khi ai nghe các quy luật này cũng nói: “Đây thật là một dân khôn ngoan hiểu biết.” Có một nước nào, dù lớn đến đâu, có các thần ở gần họ như CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta, luôn ở gần bất kỳ khi nào chúng ta cầu khẩn, hay không? Có nước nào, dù lớn đến đâu, có được những quy luật và sắc lệnh công minh như kinh luật tôi đang trình bầy cho anh chị em, hay không? Chỉ cần anh chị em thận trọng giữ mình để đừng quên những điều chính mắt anh chị em đã thấy, và đừng bao giờ để những điều đó lìa khỏi lòng anh chị em. Anh chị em cũng phải truyền dạy các điều ấy lại cho con cái, cháu chắt. Phải nhớ lại ngày anh chị em đứng trước mặt CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em tại Hô-rếp, khi Ngài phán dạy tôi: “Con triệu tập dân chúng đến trước mặt Ta cho họ nghe lời Ta để tập kính sợ Ta suốt những ngày họ sống trên đất và để họ dạy lại cho con cái.” Anh chị em đến gần và đứng ở chân núi trong khi trên núi lửa cháy dữ dội, ngọn cao tận trời với mây đen kịt và bóng tối dày đặc. Từ giữa đám lửa, CHÚA phán dạy anh chị em. Anh chị em nghe tiếng nói nhưng không thấy hình dáng nào cả, chỉ nghe được tiếng thôi. Chúa công bố với anh chị em giao ước của Ngài, tức là Mười Điều Răn, là những điều Chúa truyền cho anh chị em phải vâng giữ, rồi Ngài viết các điều ấy trên hai bảng đá. Lúc đó CHÚA truyền bảo tôi dạy các quy luật và sắc lệnh Chúa cho đồng bào để anh chị em vâng giữ khi ở trong xứ anh chị em sẽ chiếm hữu sau khi qua sông Giô-đanh. Khi CHÚA từ trong đám lửa phán dạy anh chị em tại núi Hô-rếp, anh chị em không trông thấy một hình dáng nào cả, vì thế anh chị em phải hết sức giữ mình, đừng sa đọa mà chạm khắc cho mình một pho tượng bất cứ với hình dáng nào, như hình đàn ông, đàn bà, hình súc vật trên mặt đất, hình chim bay trên trời, hình các loài bò trên đất hay hình cá sống dưới nước. Khi nhìn lên trời và thấy mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, tức là đội binh các tinh tú trên trời, anh chị em đừng để mình bị dụ dỗ mà sấp mình thờ lạy các vật đó, vì đó chỉ là những vật CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã phân phối cho mọi dân dưới trời. Riêng phần anh chị em, CHÚA đã nắm lấy và đem anh chị em ra khỏi lò luyện sắt, là xứ Ai-cập, để làm một dân thuộc riêng về Chúa như ngày nay. Nhưng CHÚA giận tôi vì cớ anh chị em và Ngài đã long trọng thề rằng tôi sẽ không được qua sông Giô-đanh để vào xứ tốt lành CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta sắp ban cho anh chị em làm cơ nghiệp. Thật vậy, tôi sẽ qua đời trong xứ này, và sẽ không qua sông Giô-đanh, nhưng anh chị em sắp qua sông để chiếm hữu lấy một xứ tốt đẹp kia. Phải thận trọng, đừng quên giao ước CHÚA, Đức Chúa Trời đã lập với anh chị em; đừng làm một hình tượng nào với bất cứ hình dáng nào mà CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã cấm ngặt. Vì CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em là lửa thiêu đốt và là Đức Chúa Trời kỵ tà. Khi anh chị em đã có con cháu và đã sống nhiều năm trong xứ, nếu anh chị em trở thành sa đọa, chạm khắc tượng thờ dù dưới hình thức nào mà làm điều ác trước mắt CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em và khiêu khích chọc giận Ngài, thì hôm nay tôi kêu gọi trời đất chứng giám cho tôi rằng tôi đã cảnh cáo anh chị em. Nếu anh chị em phạm tội chọc giận Chúa, anh chị em sẽ bị tiêu diệt cách nhanh chóng khỏi xứ anh chị em sẽ chiếm hữu sau khi qua sông Giô-đanh. Anh chị em sẽ không sinh sống lâu dài ở đó đâu nhưng chắc chắn sẽ bị tiêu diệt. CHÚA sẽ phân tán anh chị em giữa các dân tộc khác và chỉ có một số ít còn sống sót tại những nơi CHÚA đuổi anh chị em đến. Ở đó anh chị em sẽ thờ lạy những thần bằng gỗ, bằng đá do người ta làm ra, là thần không thấy, không nghe, không ăn, không ngửi được. Nhưng nếu anh chị em tìm kiếm CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, anh chị em sẽ gặp được Ngài khi tìm kiếm Ngài hết lòng và với tất cả linh hồn, nếu anh chị em trở lại với CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em và sẽ vâng lời Ngài sau khi anh chị em lâm vào cảnh khốn cùng vì tất cả những điều này xảy đến cho anh chị em. CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em là Đức Chúa Trời đầy lòng thương xót; Ngài không từ bỏ hay tận diệt anh chị em, cũng không quên giao ước Ngài đã dùng lời thề lập với tổ tiên anh chị em. Anh chị em thử hỏi quá khứ xa xưa, từ ngày Đức Chúa Trời dựng nên loài người trên đất, thử hỏi từ góc trời này cho đến góc trời kia, xem đã bao giờ có công việc vĩ đại như thế này xảy ra, hay có ai được nghe câu chuyện tương tự như thế này không? Có dân tộc nào được nghe tiếng Đức Chúa Trời phán từ đám lửa như anh chị em đã nghe mà còn sống không? Có bao giờ có thần nào dùng thử nghiệm, dùng dấu kỳ phép lạ, dùng chiến tranh và quyền năng mạnh mẽ, hay dùng những hành động vĩ đại kinh hồn để đem dân tộc này ra khỏi một nước khác, như CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã thực hiện trong xứ Ai-cập ngay trước mắt anh chị em không? Anh chị em được Chúa cho thấy những việc đó để anh chị em biết rằng CHÚA là Đức Chúa Trời, ngoài Ngài ra không có chúa nào khác. Chúa cho anh chị em nghe tiếng Ngài từ trên trời để khép anh chị em vào kỷ luật. Dưới đất Ngài cũng cho anh chị em thấy trụ lửa lớn và tiếng Ngài từ giữa lửa vang ra. Vì Đức Chúa Trời yêu thương tổ tiên anh chị em và lựa chọn dòng dõi họ nên chính Ngài và quyền năng vô hạn của Ngài đã đem anh chị em ra khỏi xứ Ai-cập và đánh đuổi những dân tộc lớn mạnh hơn anh chị em rồi đem anh chị em vào đất của những dân tộc đó và ban đất ấy cho anh chị em làm cơ nghiệp, như anh chị em thấy ngày nay. Vậy ngày nay anh chị em phải ý thức và ghi khắc vào lòng rằng CHÚA là Đức Chúa Trời của cả trời đất, ngoài Ngài không có thần nào khác. Anh chị em phải vâng giữ mạng lệnh và luật lệ của Ngài do tôi truyền lại ngày nay để anh chị em và con cháu hưởng phước hạnh và sống lâu trên đất mà CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta ban cho anh chị em vĩnh viễn. Bấy giờ Môi-se để riêng ba thành nằm về phía đông sông Giô-đanh, làm nơi dành cho ai lỡ tay giết người có thể chạy đến trú ẩn nếu không có ác ý trước. Người ấy có thể đến một trong ba thành này để cứu mạng sống mình. Ba thành đó là Bết-se trong sa mạc vùng cao nguyên, dành cho người Ru-bên; Ra-mốt trong Ga-la-át, dành cho người Gát và Gô-lan thuộc Ba-san, dành cho người Ma-na-se. Sau đây là bộ luật của Đức Chúa Trời do Môi-se ban hành cho người Y-sơ-ra-ên. Các điều khoản, quy luật và sắc lệnh được Môi-se công bố sau khi họ ra khỏi xứ Ai-cập, lúc họ đang ở trong thung lũng nằm gần Ba-anh Phê-ô, phía đông sông Giô-đanh. Xứ này vốn thuộc Si-hôn vua dân A-mô-rít ở Hết-bôn, là vua đã bị Môi-se và dân Y-sơ-ra-ên đánh bại sau khi họ ra khỏi xứ Ai-cập. Dân Y-sơ-ra-ên đã chiếm xứ này và xứ của Óc, vua Ba-san. Đó là hai vua người A-mô-rít ở phía đông sông Giô-đanh. Vùng này kéo dài từ A-rô-e trên bờ sông cạn Ạt-nôn cho đến núi Si-ri-ôn, tức là núi Hẹt-môn, và bao gồm toàn thung lũng sông Giô-đanh về phía đông đến tận biển A-ra-ba dưới triền núi Phích-ga. Môi-se triệu tập toàn dân Y-sơ-ra-ên và nói với họ: Toàn dân Y-sơ-ra-ên nghe đây các quy luật và sắc lệnh tôi công bố hôm nay, để anh chị em học tập và thực hành. CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta đã lập giao ước với chúng ta tại Hô-rếp. Ngài không lập giao ước này với tổ tiên chúng ta, nhưng với tất cả chúng ta là những người hôm nay đang sống tại đây. CHÚA đã đối diện phán dạy chúng ta từ trong đám lửa ở trên núi. (Lúc đó tôi đứng giữa CHÚA và anh chị em để truyền lại lời của CHÚA cho anh chị em, vì anh chị em sợ đám lửa không dám lên núi.) Chúa truyền dạy rằng: “Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi, Đấng đã đem các ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi đất nô lệ. Ngoài Ta ra, các ngươi không được thờ các thần khác. Các ngươi không được chạm khắc cho mình một tượng nào theo hình dạng của bất cứ thứ gì ở trên trời cao, ở trên mặt đất hay ở dưới nước. Các ngươi không được sấp mình thờ phượng các tượng ấy, vì Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi, Đức Chúa Trời kỵ tà. Ta hình phạt con cháu cho đến thế hệ thứ ba hoặc thứ tư vì tội khước từ Ta của tổ tiên họ, nhưng bầy tỏ tình thương đến ngàn đời cho ai yêu mến Ta và vâng giữ các điều răn Ta. Các ngươi không được dùng tên CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi cách thiếu tôn kính, vì CHÚA không coi người dùng tên Ngài cách thiếu tôn kính là người vô tội. Phải nhớ ngày Sa-bát và giữ làm ngày thánh theo mạng lệnh CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi đã truyền dạy các ngươi. Các ngươi phải làm tất cả công việc của mình trong sáu ngày, nhưng ngày thứ bảy là ngày Sa-bát dành cho CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi. Trong ngày đó các ngươi, con trai con gái, tôi trai tớ gái, bò lừa hay bất kỳ loài vật nào, cả đến khách ở trong thành các ngươi đều không được làm việc gì cả, để cho tôi trai tớ gái các ngươi và chính các ngươi được nghỉ ngơi. Hãy nhớ các ngươi vốn là nô lệ trong xứ Ai-cập và CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi đã đem các ngươi ra khỏi xứ đó bằng quyền năng lớn lao. Vì vậy CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi đã truyền lệnh cho các ngươi phải giữ ngày Sa-bát. Phải hiếu kính cha mẹ, như điều CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi đã truyền dạy, để các ngươi sống lâu và hưởng phước hạnh trong xứ CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi sắp ban cho. Không được giết người. Không được tà dâm. Không được trộm cắp. Không được làm chứng dối nghịch người khác. Không được tham muốn vợ người khác. Các ngươi đừng để lòng tham muốn nhà cửa, đất đai, tôi trai tớ gái, bò lừa hay bất kỳ vật gì thuộc về người khác.” Đó là các điều răn CHÚA đã lớn tiếng truyền dạy toàn thể cộng đồng Y-sơ-ra-ên, ở trên núi từ trong đám lửa, mây đen kịt và bóng tối dày đặc. Ngài không thêm điều gì khác. Sau đó Ngài ghi các điều răn này trên hai bảng đá và trao cho tôi. Khi anh chị em nghe tiếng nói từ trong bóng tối dày đặc phát ra và thấy núi cháy phừng phừng, các cấp lãnh đạo và các trưởng lão thuộc các chi tộc đến với tôi và nói: “CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta đã bày tỏ vinh quang và uy nghi Ngài và chúng tôi có nghe tiếng phán của Ngài từ trong đám lửa. Hôm nay chúng tôi ý thức được rằng người ta có thể còn sống mặc dù được Đức Chúa Trời phán với mình. Nhưng tại sao chúng tôi lại phải chịu nguy cơ mất mạng? Đám lửa hừng này sẽ thiêu hủy chúng tôi, và nếu chúng tôi cứ tiếp tục nghe tiếng của CHÚA, Đức Chúa Trời chúng tôi nữa, chúng tôi sẽ chết. Có ai là người phàm được nghe tiếng của Đức Chúa Trời hằng sống phán từ trong đám lửa, như chúng tôi nghe mà còn sống không? Xin ông đến gần để nghe tất cả những điều CHÚA, Đức Chúa Trời chúng tôi dạy rồi truyền lại cho chúng tôi, chúng tôi sẽ nghe và vâng theo.” CHÚA nghe những lời anh chị em nói và Ngài phán dạy tôi: “Ta đã nghe điều dân này nói với con. Những gì họ nói với con đều đúng cả. Ôi, nếu lòng họ cứ kính sợ Ta và luôn vâng giữa mọi điều răn Ta, họ và con cháu họ sẽ được phước mãi mãi! Con cho họ về trại mình đi. Còn con cứ ở đây với Ta để Ta ban cho con tất cả các mạng lệnh, quy luật và sắc lệnh; con sẽ dạy lại họ để họ làm theo khi đã ở trong xứ Ta sắp ban cho họ.” Vậy, anh chị em phải thận trọng thi hành những điều CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta đã truyền dạy; đừng làm lệch qua phải hay qua trái, nhưng phải theo đúng đường lối CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã truyền để được sống, được thịnh vượng và trường thọ trong xứ anh chị em sắp chiếm hữu. Đây là các điều răn, quy luật và sắc lệnh CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta đã truyền tôi dạy cho anh chị em vâng giữ khi sinh sống trong xứ anh chị em sẽ chiếm hữu sau khi qua sông Giô-đanh, để anh chị em và con cháu anh chị em biết kính sợ CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em suốt thời gian sống trên đất và nhờ giữ các mạng lệnh, điều răn đó, anh chị em sẽ được sống lâu. Anh chị em Y-sơ-ra-ên! Anh chị em hãy nghe và cẩn thận làm theo để anh chị em được phước hạnh và trở nên đông đúc trong xứ tràn trề sữa và mật ong, như CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ tiên đã hứa với anh chị em. Toàn dân Y-sơ-ra-ên hãy nghe đây! CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta là CHÚA có một không hai. Phải hết lòng, hết linh hồn, hết sức yêu kính CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em. Anh chị em phải ghi lòng tạc dạ các điều răn tôi truyền lại cho anh chị em hôm nay. Phải ân cần dạy dỗ con cái những điều này, dạy chúng khi ngồi ở nhà cũng như khi đang đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy. Phải buộc lời này vào tay như một biểu hiệu và đeo trên trán để nhớ. Phải viết lời này trên khung cửa nhà và trên cổng thành. Khi CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã đem anh chị em vào xứ mà Ngài đã thề hứa ban cho tổ tiên chúng ta là Áp-ra-ham, Y-sác, Gia-cốp và cho anh chị em chiếm hữu những thành to lớn giàu có không do anh chị em kiến thiết, nhà cửa đầy dẫy những vật tốt đẹp không do anh chị em mua sắm; giếng nước không do anh chị em đào, vườn nho và vườn ô-liu không do anh chị em trồng, và khi được ăn uống thỏa thích, anh chị em phải cẩn thận đừng quên CHÚA, là Đấng đã đem anh chị em ra khỏi Ai-cập là đất nô lệ. Phải kính sợ CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, chỉ phục vụ một mình Ngài và lấy danh Ngài mà thề nguyện. Đừng theo các thần khác, là thần của các dân tộc lân bang; vì CHÚA, Đức Chúa Trời, Đấng hiện diện giữa anh chị em, là Đức Chúa Trời kỵ tà, nếu anh chị em thờ các thần khác, cơn thịnh nộ của Ngài sẽ nổi dậy nghịch với đồng bào và Ngài sẽ tiêu diệt anh chị em khỏi mặt đất. Vậy đừng thử thách CHÚA, Đức Chúa Trời anh chị em như anh chị em đã làm tại Ma-sa. Phải nhất quyết tuân hành các điều răn của CHÚA, Đức Chúa Trời anh chị em cùng với các điều khoản và mạng lệnh tôi đã truyền lại. Phải làm những việc gì CHÚA cho là đúng và tốt, như vậy anh chị em mới được may mắn và có thể vào chiếm lấy xứ tốt đẹp CHÚA đã thề hứa ban cho các tổ tiên, và mọi quân thù cũng sẽ bị quét sạch như CHÚA đã hứa. Sau này, khi con cái anh chị em hỏi: “Các điều khoản, quy luật và sắc lệnh CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta đã truyền có ý nghĩa gì?” Anh chị em sẽ trả lời: “Ngày xưa chúng ta là nô lệ của Pha-ra-ôn trong xứ Ai-cập, nhưng CHÚA đã dùng tay quyền năng đem chúng ta ra khỏi Ai-cập. Chúng ta đã thấy CHÚA làm nhiều dấu kỳ phép lạ rất lớn và rất khủng khiếp để hình phạt Ai-cập, Pha-ra-ôn và cả hoàng gia. Nhưng Ngài đem chúng ta ra khỏi xứ đó và dẫn chúng ta vào xứ Ngài đã thề hứa với các tổ tiên và ban cho chúng ta xứ này. CHÚA có truyền dạy chúng ta phải tuân hành tất cả các mạng lệnh này và kính sợ CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta, để chúng ta được thịnh vượng và sống còn như ngày hôm nay. Nếu chúng ta thận trọng vâng theo tất cả điều răn này của CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta, chúng ta được kể là công chính.” Khi CHÚA, Đức Chúa Trời anh chị em đem anh chị em vào để chiếm hữu đất hứa và đánh đuổi trước mắt anh chị em các dân Hê-tít, Ghi-rê-ga-sít, A-mô-rít, Ca-na-an, Phê-rê-sít, Hê-vít và Giê-bu-sít là bảy dân tộc lớn mạnh hơn anh chị em. Khi CHÚA, Đức Chúa Trời trao họ cho anh chị em và anh chị em đã chiến thắng, phải hoàn toàn tiêu diệt họ cách không thương xót và đừng ký kết giao ước với họ. Đừng kết thông gia với họ, đừng gả con gái cho con trai họ cũng đừng cưới con gái họ cho con trai anh chị em, vì họ sẽ dụ dỗ con trai anh chị em từ bỏ CHÚA để đi theo và phục vụ các thần của họ, mà làm cho cơn thịnh nộ của CHÚA phừng cháy và tiêu diệt anh chị em cách nhanh chóng. Đây là cách anh chị em phải đối xử với họ: phá đổ các bàn thờ, đập nát các tượng đá, chặt gẫy các trụ A-sê-ra và thiêu các hình tượng của họ trong lửa, vì anh chị em là một dân tộc thánh thuộc riêng về CHÚA, Đức Chúa Trời anh chị em. Anh chị em đã được Ngài lựa chọn trong tất cả các dân tộc trên đất để làm dân Chúa và cơ nghiệp quý báu của Ngài. CHÚA thương xót và lựa chọn anh chị em không phải vì anh chị em đông hơn các dân khác, thực ra anh chị em là dân tộc ít người nhất. Nhưng vì CHÚA thương yêu anh chị em và vì giữ lời thề với các tổ tiên mà Ngài dùng tay quyền năng cứu chuộc và đem anh chị em ra khỏi đất nô lệ, khỏi quyền lực của Pha-ra-ôn, vua Ai-cập. Như vậy, anh chị em phải ý thức rằng CHÚA, Đức Chúa Trời anh chị em là Đức Chúa Trời độc nhất: Ngài là Đức Chúa Trời thành tín, giữ giao ước và tình yêu thương của Ngài đến cả ngàn thế hệ cho người nào kính yêu Chúa và vâng theo mạng lệnh Ngài. Nhưng ai từ bỏ Ngài sẽ bị Ngài báo ứng ngay lập tức bằng cách tiêu diệt người ấy, vì Ngài không trì hoãn nhưng báo ứng ngay lập tức người nào từ khước Ngài. Vì vậy anh chị em phải cẩn thận làm theo các điều răn, quy luật và sắc lệnh tôi truyền lại hôm nay. Nếu anh chị em để ý và cẩn thận làm theo các luật lệ này, CHÚA, Đức Chúa Trời anh chị em sẽ giữ giao ước và tình yêu thương với anh chị em, như Ngài đã thề với các tổ tiên. Chúa sẽ yêu thương, ban phước và tăng gia nhân số anh chị em. Chúa sẽ ban phước cho con cháu anh chị em, cho thổ sản ngoài đồng kể cả ngũ cốc, rượu nho và dầu, cho các con mới sinh của bầy bò và bầy chiên tại trong xứ Ngài thề hứa với các tổ tiên là sẽ ban cho anh chị em. Anh chị em sẽ được phước hơn mọi dân tộc khác, sẽ không một người nào, dù nam hay nữ, bị son sẻ và không một súc vật nào không có khả năng sinh sản. CHÚA sẽ giữ cho anh chị em khỏi mắc bệnh tật. Ngài không giáng trên đồng bào các chứng bệnh hiểm nghèo anh chị em đã thấy trong xứ Ai-cập, nhưng sẽ giáng các chứng bệnh ấy cho những người nào thù ghét anh chị em. Anh chị em phải tiêu diệt hoàn toàn các dân tộc CHÚA trao vào tay anh chị em. Đừng thương xót họ cũng đừng phục vụ các thần của họ, vì nếu làm như vậy anh chị em sẽ bị mắc bẫy. Anh chị em có thể tự nhủ thầm: “Những dân tộc này mạnh hơn chúng ta, làm sao chúng ta đánh đuổi họ được?” Anh chị em đừng sợ họ nhưng phải nhớ rõ những gì CHÚA, Đức Chúa Trời anh chị em đã làm cho Pha-ra-ôn và cho cả xứ Ai-cập. Chính mắt anh chị em đã thấy những cuộc thử thách lớn lao, những dấu kỳ phép lạ và cánh tay quyền năng của CHÚA đã đưa ra để đem anh chị em ra khỏi Ai-cập. CHÚA, Đức Chúa Trời anh chị em cũng sẽ làm như vậy cho những dân tộc anh chị em đang sợ. Ngoài ra, CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sẽ sai ong vò vẽ đến trên họ đến nỗi những người sống sót đang tìm chỗ trốn cũng sẽ bị tiêu diệt hết. Đừng sợ hãi họ, vì CHÚA, Đức Chúa Trời đang ở giữa anh chị em là Đức Chúa Trời vĩ đại và đáng kính sợ. CHÚA, Đức Chúa Trời anh chị em sẽ lần lần đánh đuổi các dân tộc ấy trước mắt anh chị em. Ngài không cho phép anh chị em diệt tất cả các dân tộc ấy cùng một lúc, vì nếu làm vậy các thú rừng sẽ sinh sôi nẩy nở xung quanh anh chị em. Nhưng CHÚA, Đức Chúa Trời anh chị em chắc chắn sẽ giao phó họ cho anh chị em, làm cho họ hoang mang, hoảng sợ cho đến khi bị tiêu diệt hết. Ngài sẽ trao vua các nước ấy vào tay anh chị em và anh chị em sẽ xóa sạch tên họ khỏi dưới trời. Không một ai có thể chống cự anh chị em và anh chị em sẽ tiêu diệt họ hết. Anh chị em phải thiêu hủy các thần tượng của họ. Đừng tham lam và chiếm giữ cho mình bạc vàng dùng bọc trên các tượng này kẻo anh chị em mắc bẫy vì CHÚA, Đức Chúa Trời anh chị em ghê tởm những thứ đó. Đừng đem các thứ đáng ghê tởm vào nhà anh chị em để lãnh họa diệt vong. Phải ghê tởm và ghét các thứ này là thứ để dành cho lửa thiêu hủy. Anh chị em phải cẩn thận làm theo tất cả điều răn tôi truyền lại hôm nay để anh chị em được sống còn, được gia tăng nhân số và có thể vào chiếm hữu đất mà CHÚA đã thề hứa cho các tổ tiên. Phải nhớ rằng trong bốn mươi năm CHÚA, Đức Chúa Trời anh chị em đã dẫn anh chị em băng qua sa mạc; cho anh chị em gặp bao nhiêu gian nan để thử lòng anh chị em, xem anh chị em có vâng giữ các điều răn của Ngài không. Ngài để cho anh chị em khổ sở vì đói rồi nuôi anh chị em bằng ma-na là thứ anh chị em và tổ tiên chưa hề biết, để dạy cho anh chị em biết rằng người ta sống không phải chỉ nhờ bánh mà thôi, nhưng nhờ mọi lời từ miệng CHÚA phán ra. Trong bốn mươi năm áo quần anh chị em không sờn rách, chân không sưng phù. Anh chị em phải ý thức rằng CHÚA, Đức Chúa Trời anh chị em áp dụng kỷ luật với anh chị em như một người cha áp dụng kỷ luật với con trai mình. Phải vâng theo các mạng lệnh của CHÚA, Đức Chúa Trời anh chị em, đi theo đường lối Ngài và yêu kính Ngài. Vì CHÚA, Đức Chúa Trời anh chị em sắp đem anh chị em vào một xứ tốt đẹp, xứ nhiều thác nước và suối nước tuôn chảy trên đồi núi và trong các thung lũng, xứ đầy dẫy lúa mì, lúa mạch, nho, vả, thạch lựu, dầu ô-liu và mật ong; xứ có thức ăn dư dật và anh chị em sẽ không thiếu một thứ gì; xứ với đá đầy sắt và anh chị em sẽ đào mỏ đồng trên các đồi. Khi đã ăn uống no nê thỏa thích, anh chị em phải ca ngợi CHÚA vì Ngài đã ban xứ tốt đẹp cho anh chị em. Phải cẩn thận, đừng quên CHÚA, Đức Chúa Trời anh chị em và phải vâng giữ các điều răn, sắc lệnh và quy luật Ngài bảo tôi truyền lại cho anh chị em hôm nay. Đừng để khi đã ăn uống thỏa thích, đã xây cất nhà cửa tốt đẹp, đã có nơi ăn chốn ở vững vàng, khi các bầy gia súc sinh sản thêm nhiều, bạc vàng và tài sản gia tăng, phải cẩn thận, đừng lên mặt kiêu căng và quên CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, là Đấng đã đem anh chị em ra khỏi Ai-cập là đất nô lệ. Chúa đã dẫn dắt anh chị em băng qua sa mạc mênh mông kinh khiếp, khô khan không nước uống, đầy rắn độc và bò cạp, nhưng Chúa khiến nước từ vầng đá tuôn ra cho anh chị em. Chúa ban cho anh chị em ma-na làm lương thực, là thức ăn tổ tiên anh chị em chưa hề biết; Chúa cho anh chị em chịu gian nan để thử thách anh chị em và đến cuối cùng ban phước hạnh cho anh chị em. Đừng tự nhủ rằng: “Nhờ quyền năng và sức mạnh ta, ta đã tạo nên cơ nghiệp này.” Nhưng phải tưởng nhớ CHÚA, Đức Chúa Trời anh chị em vì chính Ngài đã ban cho anh chị em khả năng để tạo dựng sự nghiệp với mục đích thực hiện giao ước Ngài đã thề hứa với các tổ tiên. Hễ khi nào anh chị em quên CHÚA, Đức Chúa Trời anh chị em để theo các thần khác, sấp mình thờ lạy các thần ấy, thì hôm nay tôi quả quyết rằng anh chị em chắc chắn sẽ bị tiêu diệt. CHÚA tiêu diệt các dân tộc kia trước mặt anh chị em thế nào, Ngài cũng sẽ tiêu diệt anh chị em thế ấy nếu anh chị em không vâng lời CHÚA, Đức Chúa Trời anh chị em. Anh chị em Y-sơ-ra-ên nghe đây! Anh chị em sắp qua sông Giô-đanh để vào đánh đuổi những dân tộc lớn mạnh hơn anh chị em, với những thành có tường lũy cao tận trời. Họ là những giống dân cao lớn mạnh khỏe, con cháu A-na-kim. Anh chị em đã biết về họ vì có nghe nói rằng: “Ai có thể đương đầu với dân A-na-kim?” Nhưng anh chị em biết chắc rằng CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta là Đấng đi trước anh chị em như một đám lửa thiêu hủy. Chính Chúa sẽ hủy diệt họ; Ngài sẽ làm cho họ khuất phục trước mặt anh chị em để anh chị em đánh đuổi và tiêu diệt họ cách nhanh chóng, như CHÚA đã hứa với anh chị em. Sau khi CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta đã đánh đuổi họ trước mặt anh chị em, anh chị em đừng tự nhủ rằng: “Nhờ đức công chính của ta nên CHÚA đã đem ta đến đây để chiếm hữu đất này.” Không, chính vì tội ác của các dân tộc này mà CHÚA sẽ đánh đuổi họ trước mắt anh chị em. Không phải nhờ đức công chính hay lòng trung thực mà anh chị em sẽ được chiếm hữu đất hứa đâu, nhưng vì tội ác các dân tộc này nên CHÚA, Đức Chúa Trời anh chị em sẽ đánh đuổi họ để thực hiện điều Ngài đã thề với tổ tiên anh chị em là Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp. Như vậy, phải ý thức rằng không phải nhờ anh chị em công chính mà CHÚA, Đức Chúa Trời anh chị em sẽ ban xứ tốt đẹp này cho anh chị em đâu, vì anh chị em là một dân tộc cứng cổ. Phải nhớ điều này và đừng bao giờ quên rằng anh chị em đã chọc giận CHÚA, Đức Chúa Trời anh chị em trong sa mạc. Từ ngày rời Ai-cập cho đến ngày nay, anh chị em luôn luôn phản nghịch chống CHÚA. Tại Hô-rếp, anh chị em đã khiêu khích cơn thịnh nộ của CHÚA làm Ngài muốn sẵn sàng tiêu diệt anh chị em. Lúc đó tôi lên núi nhận hai bảng đá, là bảng ghi chép giao ước CHÚA đã lập với anh chị em. Tôi ở trên núi bốn mươi ngày và bốn mươi đêm, không ăn bánh cũng không uống nước. CHÚA ban cho tôi hai bảng đá trên đó ngón tay Đức Chúa Trời có ghi chép tất cả các điều răn CHÚA đã công bố với anh chị em từ giữa đám lửa ở trên núi, trong ngày toàn dân hội họp. Cuối thời gian bốn mươi ngày bốn mươi đêm, CHÚA trao cho tôi hai bảng đá, là hai bảng giao ước, và phán dạy tôi: “Con phải xuống núi lập tức vì dân con đem ra khỏi xứ Ai-cập đã sa đọa. Chẳng mấy chốc họ đã từ bỏ những điều Ta truyền dạy và đã đúc cho mình một hình tượng.” CHÚA cũng bảo tôi: “Ta đã thấy rõ dân này là một dân cứng cổ. Con để Ta tiêu diệt họ, xóa sạch tên họ khỏi dưới trời, và Ta sẽ làm cho con trở nên một dân tộc mạnh mẽ và đông đúc hơn họ.” Tôi quay lại và xuống núi, khi lửa đang hực cháy, trong hai tay tôi có cầm hai bảng giao ước. Tôi nhìn thấy anh chị em đã phạm tội chống nghịch CHÚA, Đức Chúa Trời anh chị em: anh chị em đã đúc cho mình một pho tượng hình bò con. Chẳng mấy chốc đồng bào đã bỏ đường lối CHÚA đã truyền cho. Vì vậy tôi ném hai bảng đá vỡ tan từng mảnh trước mắt anh chị em. Sau đó tôi lại phủ phục trước CHÚA trong bốn mươi ngày, bốn mươi đêm, như lần trước, không ăn bánh cũng không uống nước vì tất cả các tội lỗi lớn lao anh chị em đã phạm; anh chị em đã làm điều ác dưới mắt CHÚA và khiêu khích cơn giận của Ngài. Tôi sợ cơn giận và thịnh nộ của CHÚA vì Ngài đã giận đến độ định tiêu diệt anh chị em. Nhưng một lần nữa CHÚA nhậm lời tôi. Chúa cũng giận A-rôn đến độ muốn giết ông ấy, nhưng lúc đó tôi cũng cầu nguyện cho A-rôn. Tôi đem vật tội lỗi của anh chị em là tượng bò con và thiêu nó trong lửa rồi nghiền nó ra bột mịn như bụi và đổ bụi đó vào dòng suối từ núi chảy xuống. Anh chị em cũng khiêu khích cơn giận của CHÚA tại Tha-bê-ra; Ma-sa và Kíp-rốt Ha-tha-va. Còn khi CHÚA bảo anh chị em rời Ca-đê Ba-nê-a và phán dạy: “Các ngươi đi lên, chiếm hữu xứ Ta đã ban cho các ngươi,” anh chị em đã chống nghịch mạng lệnh của CHÚA, Đức Chúa Trời anh chị em vì không tin tưởng cũng không vâng lời Ngài. Từ khi biết anh chị em đến nay, lúc nào tôi cũng thấy anh chị em phản nghịch CHÚA. Tôi đã phủ phục bốn mươi ngày bốn mươi đêm trước CHÚA vì Ngài có nói sẽ tiêu diệt anh chị em. Lúc đó tôi cầu nguyện: “Lạy CHÚA Toàn Năng, xin Chúa đừng tiêu diệt dân Chúa, là cơ nghiệp Chúa, đã được Chúa cứu chuộc khi Chúa dùng quyền năng uy nghi vĩ đại đem họ ra khỏi xứ Ai-cập. Xin Chúa nhớ lại các tôi tớ Chúa là Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp. Xin Chúa bỏ qua sự cứng đầu cứng cổ, gian ác và tội lỗi của dân này, nếu không, dân xứ Ai-cập, là xứ Chúa đã đem chúng con ra, sẽ nói rằng: ‘Vì CHÚA không thể đem họ vào đất Ngài đã hứa với họ và vì Ngài ghét họ, nên đem họ vào sa mạc để giết hết.’ Dân này là dân Chúa, là cơ nghiệp Chúa đã được Chúa dùng quyền năng vĩ đại đem họ ra khỏi Ai-cập.” Lúc đó CHÚA phán dạy tôi: “Con đục hai bảng đá giống hai bảng trước và đem lên núi gặp Ta. Con cũng đóng một cái rương bằng gỗ. Ta sẽ viết trên hai bảng đá những lời đã có trên hai bảng trước con đã đập vỡ. Rồi con mang hai bảng đá về để trong rương.” Vậy tôi đóng một cái rương bằng gỗ xiêm, đục hai bảng đá giống hai bảng trước và lên núi với hai bảng đá trong tay. CHÚA viết trên hai bảng đá đó những gì Ngài đã viết trên hai bảng trước, tức là Mười Điều Răn Ngài đã công bố cho anh chị em từ giữa đám lửa trên núi, vào ngày toàn dân hội họp. Rồi CHÚA trao hai bảng đá đó cho tôi. Tôi xuống núi, đem hai bảng đá để trong rương tôi đã đóng theo lệnh của CHÚA, nay vẫn còn đây. (Dân Y-sơ-ra-ên ra đi từ giếng của người Gia-can đến Mô-sê-ra. Tại đó A-rôn qua đời và được chôn cất. Con A-rôn là Ê-lê-a-sa thay thế người làm thầy tế lễ. Từ đó dân Y-sơ-ra-ên đi đến Gút-gô-đa, rồi đến Dốt-ba-tha là xứ có nhiều suối nước. Lúc đó CHÚA để riêng chi tộc Lê-vi để khiêng Rương Giao Ước của CHÚA, để chầu chực trước mặt Chúa và phục vụ Ngài trong tư cách thầy tế lễ và để nhân danh Ngài chúc phước cho dân. Họ vẫn còn đảm trách những chức vụ đó ngày nay. Đó là lý do tại sao người Lê-vi không chia một phần cơ nghiệp với các anh em mình, vì CHÚA là cơ nghiệp của họ, như CHÚA, Đức Chúa Trời anh chị em đã phán dạy họ.) Tôi ở trên núi bốn mươi ngày bốn mươi đêm như lần thứ nhất, và lần này CHÚA cũng nhậm lời tôi, Ngài từ bỏ ý định tiêu diệt anh chị em. CHÚA bảo tôi: “Con đứng dậy, tiếp tục hướng dẫn dân này đi vào chiếm hữu xứ Ta ban cho họ như Ta đã thề hứa với các tổ tiên họ.” Và giờ đây, hỡi anh chị em Y-sơ-ra-ên! Điều CHÚA, Đức Chúa Trời anh chị em đòi hỏi là: kính sợ CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, đi theo đường lối Ngài, kính yêu và phục vụ CHÚA, Đức Chúa Trời anh chị em với tất cả tấm lòng và tất cả linh hồn, vâng giữ các điều răn và mạng lệnh tôi truyền lại cho anh chị em hôm nay để anh chị em được phước hạnh. Tất cả các tầng trời, kể cả các tầng trời cao hơn hết, cùng với trái đất và mọi vật trên đất đều thuộc về CHÚA, Đức Chúa Trời anh chị em. Thế mà Ngài đem lòng thương tổ tiên anh chị em, yêu mến họ và trong số các dân tộc Ngài đã lựa chọn anh chị em là con cháu họ, như ngày hôm nay. Vì vậy anh chị em phải hết lòng vâng phục CHÚA và đừng cứng đầu cứng cổ nữa. Vì CHÚA, Đức Chúa Trời anh chị em là Thần của các thần, Chúa của các Chúa, là Đức Chúa Trời vĩ đại, quyền năng, đáng kính sợ. Ngài không thiên vị và không nhận hối lộ. Ngài bênh vực kẻ mồ côi, người góa bụa, yêu mến ngoại kiều, cho họ bánh ăn áo mặc. Anh chị em phải thương yêu ngoại kiều vì chính anh chị em vốn là ngoại kiều trong xứ Ai-cập. Anh chị em phải kính sợ CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em và phục vụ Ngài, yêu Ngài tha thiết, bám chặt vào Ngài và lấy danh Ngài để thề nguyện. Ngài là Đấng anh chị em tôn vinh ca tụng, Ngài là Đức Chúa Trời của anh chị em, Đấng đã làm những việc vĩ đại phi thường chính mắt anh chị em đã chứng kiến. Khi xuống Ai-cập, tổ tiên anh chị em chỉ có tất cả bảy mươi người, nhưng bây giờ CHÚA, Đức Chúa Trời anh chị em đã làm cho anh chị em đông như sao trên trời. Vậy anh chị em phải luôn luôn kính yêu CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em và giữ trọn những điều Ngài truyền dạy, cùng với các mạng lệnh, luật lệ và điều răn của Ngài. Hôm nay anh chị em phải nhớ rằng tôi không nói với con cái anh chị em là những người chưa được thấy và chưa kinh nghiệm kỷ luật của CHÚA, Đức Chúa Trời anh chị em, chưa biết sự uy nghi Ngài, quyền năng vô hạn của Ngài; cũng không thấy các phép lạ và các công việc Ngài đã làm trong xứ Ai-cập, để hình phạt từ Pha-ra-ôn vua Ai-cập cho đến toàn thể dân chúng; điều Ngài đã làm cho đạo quân Ai-cập, cho ngựa và xe bằng cách dùng nước Biển Đỏ nhận chìm và tiêu diệt họ trong khi họ rượt đuổi anh chị em. Con cái anh chị em cũng không thấy những điều Chúa làm cho anh chị em trong sa mạc mãi cho đến lúc anh chị em đến được chỗ này; kể cả việc Chúa làm cho Đa-than và A-bi-ram, các con trai của Ê-li-áp người Ru-bên, khi đất hả miệng ra nuốt họ cùng với mọi người trong gia đình họ, lều trại và tất cả những gì thuộc về họ, khi họ đang ở giữa toàn dân Y-sơ-ra-ên. Nhưng chính anh chị em đã thấy tận mắt các công việc phi thường đó mà CHÚA đã làm. Vì vậy anh chị em phải vâng giữ các điều răn tôi truyền lại cho anh chị em hôm nay, để anh chị em có đủ sức mạnh đi vào chiếm lấy xứ anh chị em sẽ tiếp nhận khi qua sông Giô-đanh, và để cho anh chị em được sống lâu trên đất mà CHÚA thề hứa ban cho các tổ tiên và dòng dõi họ, là đất đầy tràn sữa và mật ong. Xứ anh chị em sẽ vào chiếm hữu không giống xứ Ai-cập, nơi anh chị em từ đó ra đi, vì ở Ai-cập sau khi gieo giống anh chị em phải dùng chân làm công tác thủy lợi như chăm sóc vườn tược. Nhưng xứ anh chị em sẽ chiếm hữu sau khi qua sông Giô-đanh là xứ có núi đồi và thung lũng được mưa trời nhuần tưới, là xứ được chính CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em chăm sóc. CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta liên tục để mắt đến xứ ấy, từ đầu năm đến cuối. Nếu anh chị em trung tín vâng giữ các điều răn tôi truyền lại cho anh chị em hôm nay, tức là hết lòng hết linh hồn kính yêu CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em và phục vụ Ngài, Ngài sẽ cho mưa xuống trên xứ đúng mùa, cả mưa vào mùa thu lẫn mưa vào mùa xuân để anh chị em thu hoạch hoa màu, rượu mới và dầu. Ngài cũng cho cỏ xanh tốt ngoài đồng để nuôi gia súc, và anh chị em sẽ được ăn uống thỏa thích. Phải cẩn thận để anh chị em khỏi bị dụ dỗ mà xây bỏ Chúa và sấp mình thờ lạy các thần khác. Khi đó, cơn giận của CHÚA sẽ cháy phừng, Ngài sẽ đóng trời lại để mưa không sa xuống, đất đai không sinh sản hoa mầu và anh chị em sẽ chết sớm trong xứ tốt đẹp CHÚA sẽ ban cho anh chị em. Anh chị em phải ghi khắc các lời tôi nói vào tấm lòng và tâm trí, buộc vào tay như biểu hiệu và đeo trước trán. Phải đem các lời này dạy cho con cái, nhắc nhở khi ngồi ở nhà cũng như khi đi dọc đường, khi nằm ngủ cũng như khi thức dậy. Phải viết các lời này trên khung cửa nhà và trên cổng thành, Như vậy, hễ khi nào còn bầu trời trên trái đất, anh chị em và dòng dõi con cháu sẽ còn ở mãi trong xứ CHÚA hứa ban cho tổ tiên anh chị em. Nếu anh chị em cẩn thận vâng giữ và thực hành các điều răn tôi truyền lại cho anh chị em, tức là kính yêu CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, đi theo mọi đường lối Ngài và giữ mối liên hệ chặt chẽ với Ngài, thì CHÚA sẽ đánh đuổi các dân tộc này trước mắt anh chị em và anh chị em sẽ chiếm hữu lãnh thổ của những dân tộc lớn mạnh hơn anh chị em. Bất kỳ nơi nào bàn chân anh chị em giẫm lên sẽ thuộc về anh chị em. Lãnh thổ của anh chị em sẽ kéo dài từ sa mạc cho đến Li-ban, từ sông Ơ-phơ-rát cho đến Biển Tây Không một ai có thể đương đầu với anh chị em, CHÚA, Đức Chúa Trời của đồng bào sẽ giáng kinh hoàng sợ hải lên trên toàn xứ, tại mỗi nơi nào anh chị em đi đến, như Ngài đã hứa với anh chị em. Xin anh chị em chú ý! Hôm nay tôi để anh chị em chọn lựa giữa phước lành và nguyền rủa: Anh chị em sẽ được phước lành, nếu anh chị em vâng giữ các điều răn của CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta mà tôi truyền lại cho anh chị em hôm nay; hoặc anh chị em sẽ bị nguyền rủa, nếu anh chị em không vâng giữ các điều răn của CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta, quay đầu khỏi các điều răn của CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em để đi theo các thần khác, là thần anh chị em chưa hề biết. Khi CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã đem anh chị em vào chiếm hữu đất hứa, anh chị em phải công bố phước lành trên núi Ga-ri-xim và lời nguyền rủa trên núi Ê-banh. Hai núi này nằm bên kia sông Giô-đanh, bên kia con đường đi về hướng mặt trời lặn, gần những cây sồi ở Mô-rê, kế cận với Ghinh-ganh trong lãnh thổ của những người Ca-na-an sống trong xứ A-ra-ba. Anh chị em sắp qua sông Giô-đanh để vào chiếm hữu xứ CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sẽ ban cho anh chị em. Khi đã chiếm lấy xứ và sinh sống ở đó, anh chị em phải quyết tâm vâng giữ các quy luật và sắc lệnh tôi truyền lại hôm nay. Đây là các mạng lệnh và luật lệ anh chị em phải cẩn thận làm theo suốt thời gian sinh sống trong xứ CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ tiên đã cho anh chị em chiếm hữu. Phải tiêu diệt hoàn toàn mọi địa điểm các dân tộc anh chị em sẽ đánh đuổi, nơi thờ lạy các thần của họ, hoặc trên núi cao, trên các ngọn đồi hay dưới các lùm cây rậm. Phải phá các bàn thờ, đập nát các tượng đá, thiêu đốt các trụ thờ A-sê-ra, triệt hạ các hình tượng của các thần đó và xóa sạch danh tính các thần khỏi địa điểm đó. Đừng theo cách thức các dân tộc đó để thờ phượng CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em. Nhưng anh chị em phải tìm về địa điểm CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sẽ chọn giữa các chi tộc Y-sơ-ra-ên để làm nơi Chúa ngự và đặt Danh Ngài. Đó là chỗ đồng bào phải về thờ phượng, và đem đến các tế lễ thiêu, các sinh tế, các lễ vật phần mười, cùng với lễ vật đặc biệt là những gì anh chị em thề nguyện hiến dâng, tế lễ tự nguyện, và con đầu lòng của bầy bò và bầy chiên dê. Tại đó, trước sự hiện diện của CHÚA, anh chị em sẽ cùng gia đình mình ăn uống và hoan hỉ về mọi việc tay mình làm, vì CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã ban phước lành cho anh chị em. Đừng làm như anh chị em hiện đang làm ở đây, ai thấy gì phải là làm. Bây giờ anh chị em chưa đạt đến nơi an nghỉ và chưa được hưởng cơ nghiệp CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sẽ ban cho. Nhưng anh chị em sẽ qua sông Giô-đanh, sẽ định cư trong xứ CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sắp ban cho anh chị em làm cơ nghiệp, và Ngài sẽ cho anh chị em được an nghỉ và được bảo vệ an ninh, không còn bị quân thù bao quanh nữa. Khi đó, anh chị em sẽ đem các tế lễ thiêu, các sinh tế, các lễ vật phần mười để dâng hiến, các lễ vật đặc biệt, cùng mọi lễ vật tốt nhất anh chị em thề nguyện dâng lên CHÚA, đến địa điểm CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sẽ chọn làm nơi đặt danh Ngài. Tại đó, anh chị em cùng với con trai con gái, tôi trai tớ gái và người Lê-vi ở cùng thành với anh chị em, là những người không nhận phần hay cơ nghiệp riêng, sẽ hoan hỉ trước mặt CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em. Phải cẩn thận đừng dâng các lễ vật và tế lễ thiêu tại nơi nào anh chị em thích, nhưng chỉ dâng tại địa điểm CHÚA sẽ chọn trên lãnh thổ của một chi tộc, và tại địa điểm này anh chị em sẽ làm theo mọi điều tôi truyền dạy. Tuy nhiên, anh chị em có thể giết thú vật tại bất kỳ nơi nào anh chị em thích và ăn thịt như ăn thịt hươu nai và tùy theo phước lành CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em ban cho. Cả người tinh sạch lẫn người không tinh sạch đều có thể ăn thịt này. Anh chị em không được ăn huyết, nhưng phải đổ huyết ra trên đất như nước vậy. Anh chị em không được phép ăn trong thành mình phần mười của hoa mầu, rượu nho mới và dầu, hay con đầu lòng của bầy bò và chiên dê; hay lễ vật thề nguyện, tự nguyện và lễ vật đặc biệt. Nhưng anh chị em, con trai con gái, tôi trai tớ gái anh chị em và người Lê-vi ở cùng thành với anh chị em phải ăn các lễ vật này trong sự hiện diện của CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em tại địa điểm Ngài sẽ chọn, và anh chị em sẽ hoan hỉ trước mặt CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em về mọi việc tay mình làm. Phải cẩn thận, không được bỏ quên người Lê-vi suốt thời gian anh chị em sinh sống trong xứ. Khi CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã mở rộng bờ cõi cho anh chị em như Ngài đã hứa; nếu anh chị em nói: “Tôi sẽ ăn thịt,” vì anh chị em thèm ăn thịt thì anh chị em được ăn tùy thích. Nếu địa điểm CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em lựa chọn để đặt danh Ngài ở quá xa chỗ anh chị em ở, anh chị em có thể giết bò hay chiên trong các bầy vật CHÚA ban cho anh chị em, như tôi đã truyền dạy, và khi đang ở trong thành mình anh chị em có thể ăn bao nhiêu tùy thích, như ăn hươu nai vậy. Cả người không tinh sạch lẫn người tinh sạch đều có phép ăn. Nhưng nhất quyết không được ăn huyết, vì huyết là sự sống nên không được ăn sự sống cùng với thịt. Anh chị em không được ăn huyết, nhưng phải đổ huyết ra trên đất như nước vậy. Đừng ăn huyết để cho anh chị em và con cái được hạnh phúc, vì đã làm một điều chính đáng đẹp lòng CHÚA. Anh chị em phải đem các thú vật anh chị em đã biệt riêng cho Chúa hoặc hứa nguyện dâng lên Chúa, đến địa điểm CHÚA sẽ chọn. Tại đó, anh chị em dâng tế lễ thiêu gồm cả thịt và huyết trên bàn thờ của CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta. Khi dâng những tế lễ khác, anh chị em đổ huyết con sinh tế ra trên bàn thờ của CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta, còn thịt anh chị em được phép ăn. Phải cẩn thận vâng giữ các luật lệ tôi truyền lại cho anh chị em đây, vì khi làm điều tốt đẹp ngay thẳng như vậy đẹp lòng CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta, anh chị em và con cháu sẽ luôn luôn được phước hạnh. CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sẽ triệt hạ các quốc gia anh chị em sắp tiến đánh và chiếm hữu. Nhưng khi đã đánh đuổi các dân tộc này và đã định cư trên lãnh thổ của họ, anh chị em phải thận trọng để sau khi họ bị tiêu diệt, anh chị em sẽ không bị mắc bẫy. Đừng tìm biết về các thần của họ mà nói rằng: “Các dân tộc này phục vụ thần của họ cách nào, chúng ta sẽ bắt chước như vậy.” Anh chị em cũng không được thờ phượng CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em theo cách các dân tộc này thờ thần của họ, vì họ có những hành động ghê tởm CHÚA ghét, thậm chí đem con trai con gái thiêu sống để tế thần. Anh chị em phải lưu ý làm đúng theo mọi điều tôi truyền dạy, không được thêm bớt gì cả. Nếu một tiên tri, hay một người dùng giấc mộng để tiên đoán, xuất hiện giữa anh chị em và báo trước một điềm lạ hay phép lạ; và nếu việc người này báo trước thực sự xảy ra, rồi người này kêu gọi: “Chúng ta hãy theo các thần khác,” (là các thần anh chị em chưa hề biết) “và chúng ta hãy thờ lạy các thần đó.” Anh chị em không được nghe lời của tiên tri hay người nằm mộng đó, vì CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em muốn thử anh chị em xem anh chị em có kính yêu Ngài với tất cả tấm lòng và tất cả linh hồn hay không. CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em là Đấng anh chị em phải theo, Chúa là Đấng anh chị em phải tôn thờ. Anh chị em phải giữ các điều răn của Chúa, vâng lời Ngài, phục vụ Ngài và giữ mối liên hệ chặt chẽ với Ngài. Tiên tri hay người nằm mộng ấy đã xúi giục anh chị em phản nghịch CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, là Đấng đã đem anh chị em ra khỏi Ai-cập, đã cứu chuộc anh chị em ra khỏi đất nô lệ; người ấy cũng tìm cách làm cho anh chị em lìa bỏ con đường CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em truyền dạy cho anh chị em phải đi theo. Phải xử tử tiên tri hay người nằm mộng ấy để diệt trừ tội ác giữa vòng anh chị em. Nếu anh em ruột, con trai, con gái hay vợ yêu quý của anh chị em, hay người bạn thân nhất đến bí mật dụ dỗ anh chị em, nói rằng: “Chúng ta hãy đi thờ lạy các thần khác” (là thần anh chị em và tổ tiên anh chị em chưa hề biết, thần của các dân tộc sống quanh anh chị em, dù ở gần hay ở xa, từ đầu xứ cho đến cuối xứ) thì anh chị em đừng nhượng bộ hay nghe lời người ấy, cũng không được thương xót, bảo vệ hay che chở. Nhưng anh chị em phải nhất quyết đem người ấy ra xử tử. Anh chị em phải ra tay trước tiên rồi toàn dân sẽ tiếp tay xử tử người ấy. Phải lấy đá ném cho chết vì người ấy đã tìm cách làm cho anh chị em lìa bỏ CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, là Đấng đã đem anh chị em ra khỏi xứ Ai-cập, ra khỏi đất nô lệ. Như vậy toàn dân Y-sơ-ra-ên sẽ nghe tin và sợ hãi, không ai trong vòng anh chị em dám phạm tội ác ấy nữa. Nếu anh chị em nghe nói một trong các thành CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta đã ban cho anh chị em, có những người ác nổi dậy, hướng dẫn dân thành ấy vào con đường lầm lạc bằng lời kêu gọi: “Chúng ta hãy đi thờ lạy các thần khác,” (là thần anh chị em chưa hề biết), thì anh chị em phải hỏi han, thăm dò và điều tra cho kỹ càng. Nếu tin đồn đó là thật và có bằng chứng là việc tà ác ấy đã phạm giữa vòng anh chị em, anh chị em phải nhất quyết lấy gươm giết hết mọi người trong thành ấy. Phải tận diệt hết thảy, cả người ta lẫn súc vật. Phải thu góp tất cả tài sản trong thành đem chất giữa quảng trường rồi dùng lửa thiêu hủy thành đó cùng với tài sản của nó, như một tế lễ toàn thiêu dâng lên CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em. Thành đó sẽ vĩnh viễn là một đống đổ nát, không bao giờ được kiến thiết lại. Không một người nào đưa tay lấy món gì đáng tận diệt, để CHÚA nguôi cơn giận Ngài và bầy tỏ lòng thương xót anh chị em, gia tăng dân số anh chị em như Ngài đã thề hứa với các tổ tiên, vì anh chị em vâng lời CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, giữ mọi điều răn Ngài do tôi truyền lại hôm nay, và làm điều phải đẹp lòng Chúa. Anh chị em là con cái của CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em. Đừng vì người chết mà cắt da thịt mình hay cạo tóc trước đỉnh đầu, vì anh chị em là một dân tộc biệt riêng ra thánh cho CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em. CHÚA đã lựa chọn anh chị em trong tất cả các dân tộc trên mặt đất để làm cơ nghiệp quý giá của Ngài. Đừng ăn bất kỳ thứ gì đáng ghê tởm. Sau đây là các loài vật anh chị em được phép ăn: bò, chiên, dê, nai, hoàng dương, hươu, dê rừng, bò rừng, sơn dương và cừu núi. Anh chị em được phép ăn các loài thú vật có móng chẻ hai và nhai lại. Tuy nhiên trong các loài thú nhai lại, hay chỉ có móng chẻ hai, anh chị em không được phép ăn lạc đà, thỏ rừng, chồn núi, vì các loài vật này nhai lại nhưng không có móng chẻ hai, nên chúng thuộc loại không tinh sạch. Con heo cũng là loài vật không tinh sạch, vì nó chỉ có móng chẻ hai mà không nhai lại. Anh chị em không được phép ăn thịt heo, cũng không được đụng đến xác nó. Trong các loài tạo vật sống dưới nước, anh chị em chỉ được ăn loài nào có vi và có vẩy. Những loài không vi không vẩy đều không tinh sạch và không được ăn. Anh chị em được phép ăn các loài chim tinh sạch. Nhưng sau đây là các loài chim không được phép ăn: chim đại bàng, kên kên, ó biển, chim diều đỏ, diều đen, các loại chim ưng, các loại quạ, đà điểu, ó đêm, hải âu, các loại ó, các loại cú mèo, gà nước, chàng bè, diều hâu, còng cọc, các loài cò, diệc, chim rẻ quạt và con dơi. Các loài côn trùng có cánh bay từng đàn đều là loài không tinh sạch và không được ăn. Các loài có cánh và tinh sạch đều có thể ăn. Đừng ăn con vật nào chết cách tự nhiên. Anh chị em có thể đem con vật này cho người ngoại kiều sống trong các thành của anh chị em và họ có thể ăn, hoặc anh chị em có thể bán cho người ngoại quốc. Nhưng anh chị em là một dân tộc biệt riêng ra thánh cho CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em.Đừng nấu thịt dê con với sữa của mẹ nó. Phải nhất quyết để riêng một phần mười của toàn hoa mầu do đất ruộng sản xuất hằng năm. Anh chị em sẽ ăn phần mười hoa mầu đó, cùng với rượu nho mới, dầu và con đầu lòng của bầy bò, bầy chiên dê mình trước sự hiện diện của CHÚA tại địa điểm Ngài sẽ chọn để đặt Danh Ngài. Làm như vậy, anh chị em sẽ học tập tôn kính CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em luôn luôn. Khi anh chị em đã được CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em ban phước nhưng địa điểm Chúa chọn để đặt Danh Ngài lại quá xa đến nỗi anh chị em không thể mang một lễ vật phần mười của mình đến đó được, anh chị em có thể đổi lễ vật đó thành bạc và mang bạc đó theo mình đến địa điểm CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sẽ chọn. Anh chị em sẽ dùng bạc ấy mua những lễ vật như: bò, chiên dê, rượu nho hay một loại rượu nào khác hay bất kỳ thứ gì anh chị em thích. Anh chị em sẽ cùng với gia đình sẽ ăn uống hoan hỉ trước sự hiện diện của CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em. Đừng bỏ quên người Lê-vi sinh sống cùng thành với anh chị em, vì họ không được phần cơ nghiệp riêng cho họ giữa anh chị em. Cuối mỗi ba năm, anh chị em đem một phần mười hoa mầu năm đó đến một chỗ tồn trữ trong thành anh chị em ở, để cho người Lê-vi (là người không nhận phần hay cơ nghiệp riêng), các ngoại kiều, các người mồ côi và góa bụa sống cùng thành với anh chị em đến đó ăn uống thỏa thích. Như vậy CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta sẽ ban phước cho anh chị em và cho mọi việc tay anh chị em làm. Cuối mỗi bảy năm, anh chị em phải tha hết nợ nần. Đây là cách anh chị em áp dụng: tất cả chủ nợ phải hủy bỏ các món nợ đã cho anh chị em trong cộng đồng vay mượn. Chủ nợ không được đòi anh chị em Y-sơ-ra-ên hay anh em mình trả nợ, vì CHÚA đã công bố phải tha nợ. Anh chị em có thể đòi nợ người ngoại quốc, nhưng phải hủy bỏ các món nợ của anh em mình. Tuy nhiên, không nên có người nghèo giữa vòng anh chị em, vì khi sống trong xứ CHÚA sẽ ban cho anh chị em làm cơ nghiệp, anh chị em sẽ được Chúa ban phước dư dật, nếu anh chị em hoàn toàn vâng phục CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em và cẩn thận làm theo các mạng lệnh tôi truyền cho anh chị em hôm nay. Vì CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sẽ ban phước lành cho anh chị em như Ngài đã hứa. Anh chị em sẽ cho nhiều nước khác vay, chứ không phải vay của nước nào cả; anh chị em sẽ cai trị nhiều nước, chứ không bị ai cai trị. Nhưng nếu trong các thành trong xứ CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sẽ ban cho anh chị em có người anh em nghèo nàn, anh chị em đừng cứng lòng hay keo kiệt đối với người anh em đó, nhưng phải rộng rãi cho người ấy mượn bất kỳ thứ gì người ấy có cần. Phải cẩn thận đừng nuôi dưỡng tư tưởng độc ác này: “Năm thứ bảy là năm tha nợ sắp tới rồi”, để anh chị em khỏi có ác tâm đến nỗi không cho người anh em thiếu thốn đó mượn gì cả. Người ấy có thể đến khiếu nại với CHÚA và anh chị em phải chịu tội. Anh chị em phải cho người ấy mượn cách rộng rãi, chứ đừng làm cách miễn cưỡng; như vậy CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em mới ban phước cho anh chị em trong mọi việc anh chị em làm. Trong xứ lúc nào cũng sẽ có người nghèo thiếu. Vì vậy, tôi mới truyền cho anh chị em phải rộng rãi với các anh em nghèo nàn, thiếu thốn trong xứ mình. Nếu một anh chị em người Do Thái dù đàn ông hay đàn bà, đem bán mình cho đồng bào và phục vụ anh chị em trong sáu năm, đến năm thứ bảy người ấy phải được trả tự do. Khi trả tự do cho người ấy, anh chị em đừng để cho đi ra với hai bàn tay trắng, nhưng anh chị em phải cho người ấy bò chiên từ bầy gia súc mình, hoa mầu từ sân đạp lúa, rượu từ hầm ép nho, tùy theo những phước hạnh CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em ban cho anh chị em. Phải nhớ rằng anh chị em vốn là nô lệ trong xứ Ai-cập và đã được CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em cứu chuộc. Vì vậy hôm nay tôi truyền cho anh chị em mạng lệnh này. Nhưng nếu người nô lệ nói với anh chị em: “Tôi không muốn rời chủ” vì người ấy thương yêu gia đình chủ, và được thoải mái khi sống trong nhà chủ, thì anh chị em lấy cái dùi, xỏ tai người ấy, và người ấy sẽ phục vụ chủ trọn đời. Anh chị em cũng làm như vậy cho một nữ nô lệ. Đừng coi việc phóng thích nô lệ là một việc khó khăn, vì công việc người ấy làm cho anh chị em trong sáu năm qua bằng hai công việc của một người làm mướn, và anh chị em còn được CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em ban phước cho mọi việc tay anh chị em làm. Con đầu lòng của bầy gia súc phải được biệt riêng ra thánh cho CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em. Đừng bắt bò đực sinh đầu lòng làm việc cũng đừng hớt lông chiên đực đầu lòng. Mỗi năm anh chị em cùng với gia đình sẽ ăn thịt các con vật này trước sự hiện diện của CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em tại địa điểm Ngài sẽ chọn. Nếu con vật sinh đầu lòng có khuyết tật, như què hay mù hay có tật nguyền gì quan trọng khác, anh chị em đừng dâng hiến nó làm tế lễ cho CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, nhưng phải ăn thịt nó trong thành mình. Cả người không tinh sạch lẫn người tinh sạch đều được ăn thịt này, như trường hợp ăn thịt hươu hay thịt nai vậy. Anh chị em không được phép ăn huyết, nhưng phải đổ huyết ra trên đất như đổ nước. Anh chị em phải giữ Lễ Vượt Qua của CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em vào tháng A-bíp vì trong tháng A-bíp Chúa đã đem anh chị em ra khỏi xứ Ai-cập lúc ban đêm. Phải bắt con vật trong bầy bò hay bầy chiên để dâng lên CHÚA, làm tế lễ Vượt Qua, tại địa điểm CHÚA sẽ chọn để đặt Danh Ngài. Đừng ăn tế lễ đó với bánh có men, nhưng trong bảy ngày anh chị em phải ăn bánh không men, là bánh khổ nạn để trọn cuộc sống anh chị em có thể nhớ lại lúc mình rời bỏ Ai-cập, vì anh chị em đã rời xứ đó cách vội vàng. Trong bảy ngày đó khắp cả nước không ai được phép giữ men, và thịt sinh tế dâng hiến vào buổi tối ngày thứ nhất không được còn thừa đến sáng hôm sau. Anh chị em không được phép dâng tế lễ Vượt Qua tại bất cứ nơi nào trong xứ CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sẽ ban cho, nhưng phải dâng tại địa điểm Ngài sẽ chọn để đặt Danh Ngài. Tại chỗ đó, anh chị em sẽ dâng tế lễ Vượt Qua vào buổi chiều, lúc mặt trời lặn, vào thì giờ kỷ niệm cuộc xuất hành ra khỏi Ai-cập. Phải nấu thịt sinh tế và ăn tại địa điểm CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sẽ chọn và đến sáng hôm sau anh chị em sẽ về trại mình. Trong sáu ngày kế tiếp, anh chị em sẽ ăn bánh không men đến ngày thứ bảy sẽ tụ họp lại thờ phượng CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, không ai được làm việc gì cả. Từ ngày đầu mùa gặt, anh chị em tính bảy tuần lễ, rồi tổ chức Lễ Các Tuần để tôn thờ CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, bằng cách dâng tế lễ tự nguyện tương xứng với các phước lành CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã ban cho. Anh chị em cùng với con trai con gái, tôi trai tớ gái, các người Lê-vi và ngoại kiều, trẻ mồ côi, người góa bụa sinh sống cùng thành với anh chị em sẽ ăn mừng trước mặt CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, tại địa điểm Ngài sẽ chọn để đặt Danh Ngài. Phải nhớ anh chị em đã làm nô lệ trong xứ Ai-cập; vậy, anh chị em phải cẩn thận làm theo các mạng lệnh này. Lễ Lều Tạm sẽ được tổ chức bảy ngày sau khi anh chị em đã thu hoạch sản phẩm của sân đập lúa và bàn ép rượu. Anh chị em cùng với con trai con gái, tôi trai tớ gái, người Lê-vi, ngoại kiều, người mồ côi và góa bụa cùng sống trong thành của anh chị em phải vui mừng giữ Lễ. Trong bảy ngày, anh chị em phải tôn thờ CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em và giữ lễ này tại địa điểm CHÚA sẽ chọn. Vì CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta sẽ ban phước cho anh chị em trong công tác gặt hái cũng như trên mọi việc tay anh chị em làm nên niềm vui mừng của anh chị em sẽ đầy trọn. Mỗi năm ba lần, tất cả đàn ông phải đến thờ phượng CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em tại địa điểm Ngài sẽ chọn, đó là vào dịp Lễ Bánh Không Men, Lễ Các Tuần và Lễ Lều Tạm. Đừng ai đến thờ phượng CHÚA với hai bàn tay trắng, nhưng mỗi người phải dâng một lễ vật tùy theo khả năng, tương xứng với các phước lành CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta ban cho. Phải bổ nhiệm các thẩm phán và các nhà chức trách cho các chi tộc, tại mỗi thành CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sẽ ban cho, để điều hành công lý. Không được lệch lạc công lý hay thiên vị. Không được ăn hối lộ, vì của hối lộ làm mù mắt người khôn và xuyên tạc lời của người ngay. Phải tôn trọng công lý, chỉ công lý mà thôi, để anh chị em được sống và hưởng lấy xứ CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em ban cho. Không được dựng trụ thờ thần A-sê-ra bên cạnh bàn thờ anh chị em thiết lập để thờ phượng CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, cũng đừng dựng một trụ thờ bằng đá, vì CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em ghét tất cả các thứ đó. Không được dâng lên CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em một con bò hay con chiên có tì vết hay khuyết tật, vì đó là một việc Chúa ghê tởm. Nếu ở giữa anh chị em, trong các thành CHÚA ban cho anh chị em, có người đàn ông hay đàn bà nào làm điều ác theo mắt CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, tức là vi phạm giao ước Ngài, làm việc trái ngược với mạng lệnh tôi truyền mà thờ lạy các thần khác, phủ phục trước các thần đó, hay thờ phượng mặt trời, mặt trăng hay các tinh tú trên trời, và anh chị em có nghe về tội ác này thì anh chị em phải điều tra cho thấu đáo. Nếu điều đó có thật và có đủ bằng chứng xác nhận hành động đáng ghê tởm này đã xảy ra trong Y-sơ-ra-ên, anh chị em phải đem người đàn ông hay đàn bà đã phạm tội ác đó ra ngoài cổng thành rồi lấy đá ném cho chết. Phải có lời làm chứng của hai ba nhân chứng mới có thể xử tử người có tội. Không được xử tử ai cả nếu chỉ có lời của một nhân chứng. Các nhân chứng phải là những người đầu tiên đưa tay ra xử tử tội nhân, rồi sau đó toàn dân mới tiếp tay. Anh chị em phải diệt trừ tội ác giữa dân mình. Khi gặp vụ án khó xử, như vụ giết người, vụ tranh tụng về pháp lý hay vụ bạo hành, anh chị em phải đem nội vụ đến địa điểm CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sẽ chọn. Phải trình vụ đó cho các thầy tế lễ dòng Lê-vi, và cho vị thẩm phán đương nhiệm, và các vị này sẽ cho biết phán quyết. Anh chị em phải làm theo phán quyết các vị này đưa ra tại địa điểm CHÚA sẽ chọn. Phải cẩn thận làm theo mọi lời dạy bảo của các vị này. Phải hành động đúng theo luật pháp họ dạy và theo các phán quyết họ đưa ra, đừng làm lệch qua bên phải hay bên trái. Ai không tuân lệnh của vị thẩm phán hay của thầy tế lễ đang phục vụ CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, người đó phải bị xử tử. Anh chị em phải diệt trừ tội ác khỏi dân Y-sơ-ra-ên như vậy. Tất cả những người nghe tin này sẽ kinh sợ và không ai còn dám có thái độ khinh mạn nữa. Khi anh chị em đã vào xứ CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em ban cho, đã chiếm hữu lấy xứ, đã định cư xong và nói rằng: “Chúng ta hãy lập lên một vua cai trị chúng ta như các dân tộc lân bang”, anh chị em được phép lập lên một vua, nhưng phải là người được CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta lựa chọn, và phải thuộc trong vòng anh em mình. Đừng lập một vua người ngoại quốc là người không phải là người anh em Y-sơ-ra-ên lên cai trị anh chị em. Ngoài ra, vua không được lo cho có nhiều ngựa để vì đó đem dân chúng trở về Ai-cập để mua thêm ngựa và làm ngược lời CHÚA phán dạy: “Các ngươi đừng trở lại con đường đó nữa.” Vua cũng không được cưới nhiều vợ để khỏi bị dẫn đi sai lạc, và cũng không được tích trữ nhiều bạc vàng. Vừa lên ngai, vua phải căn cứ trên bản chính của kinh luật này do các thầy tế lễ người Lê-vi giữ để sao chép lại cho mình một bản. Vua phải giữ bản sao này bên mình và phải nghiền ngẫm suốt những ngày vua sống trên trần gian để học tập kính sợ CHÚA, Đức Chúa Trời của vua và cẩn thận làm theo hết thảy các lời của kinh luật và điều răn này, để lòng vua không tự cao, khinh rẻ anh chị em mình và không lìa xa điều răn Chúa, hoặc qua bên phải hay qua bên trái. Như vậy vua và con cháu vua sẽ trị vì lâu dài trên vương quốc Y-sơ-ra-ên. Các thầy tế lễ là người Lê-vi, và toàn thể chi tộc Lê-vi, sẽ không được nhận phần hay cơ nghiệp với dân Y-sơ-ra-ên, nhưng sẽ sống bằng các lễ vật dùng lửa dâng lên CHÚA, là phần của Ngài. Họ sẽ không có cơ nghiệp giữa vòng anh em họ, vì CHÚA là cơ nghiệp của họ, như Ngài đã hứa với họ. Khi có người dâng một con bò hay một con chiên, phần của các thầy tế lễ gồm có: cái vai, hai má và bao tử. Anh chị em cũng đem đến cho họ các lễ vật đầu mùa, gồm có: ngũ cốc, rượu nho mới, dầu và lông chiên khi mới cắt lần đầu trong năm, vì CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã lựa chọn họ và dòng dõi họ từ trong các chi tộc Y-sơ-ra-ên để họ luôn chầu chực trước mặt CHÚA và phục vụ CHÚA trong tư cách thầy tế lễ mà chúc phước cho dân. Nếu một người Lê-vi muốn rời bỏ thành mình đang sống trong Y-sơ-ra-ên và đi đến nơi CHÚA chọn, người ấy được quyền đi bất cứ khi nào mình muốn. Người ấy có quyền phục vụ nhân danh CHÚA, Đức Chúa Trời của mình như tất cả các người Lê-vi khác đang phục vụ trước mặt CHÚA tại đó. Người ấy được chia phần đồng đều với anh em mình, dù người đã có tiền bán tài sản của gia đình. Khi đã vào trong xứ CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em ban cho, anh chị em đừng bắt chước những việc làm ghê tởm của các dân tộc ở đó. Nhất thiết không ai được đem con trai con gái mình thiêu sống để tế thần, không ai được làm nghề thầy bói, thầy pháp, giải điềm, áp dụng ma thuật, không được bùa ngải, đồng bóng, thông linh, hay chiêu hồn người chết. Tất cả những người làm các việc này đều đáng ghê tởm trước mặt CHÚA. Chính vì các hành động ghê tởm này mà CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sẽ đánh đuổi các dân tộc kia ra khỏi xứ khi anh chị em tiến đến. Anh chị em phải hết lòng trung tín trước mặt CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em. Các dân tộc bị anh chị em đánh đuổi và chiếm hữu đất đai theo tà thuật bói toán, nhưng CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em không cho phép anh chị em làm như vậy. CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sẽ đưa đến một người trong vòng anh chị em để làm tiên tri giống như tôi. Anh chị em phải nghe lời tiên tri đó. Vì đây chính là điều anh chị em đã cầu xin CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em tại Hô-rếp trong ngày đại hội: “Xin đừng cho chúng tôi nghe tiếng của CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng tôi, cũng đừng cho thấy lửa cháy dữ dội nữa, kẻo chúng tôi phải chết hết.” Lúc đó, CHÚA bảo tôi: “Họ nói phải. Ta sẽ đưa lên một người trong vòng anh em chúng để làm tiên tri giống như con; Ta sẽ đặt lời Ta trong miệng tiên tri đó, và người sẽ nói lại cho họ mọi điều Ta truyền dạy. Nếu ai không nghe lời Ta do tiên tri đó nhân danh Ta nói ra, người ấy sẽ bị chính Ta bắt tội. Nếu có tiên tri nào tự phụ nhân danh Ta nói điều gì mà kỳ thực Ta không truyền dạy, hay có tiên tri nào nói tiên tri nhân danh các thần khác, đều phải bị xử tử.” Anh chị em có thể nghĩ thầm: “Làm cách nào chúng tôi có thể phân biệt sứ điệp nào không phải là lời CHÚA phán dạy?” Nếu một tiên tri nhân danh CHÚA công bố một điều gì mà điều đó không xảy ra hay không ứng nghiệm, đó không phải là sứ điệp do CHÚA phán dạy. Tiên tri đó đã nói vì tự phụ. Anh chị em đừng sợ người ấy. Sau khi CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã tiêu diệt các dân tộc hiện đang sống trong xứ Ngài sẽ ban cho anh chị em, sau khi anh chị em đã đánh đuổi họ và định cư trong các thành và nhà cửa của họ, anh chị em phải dành riêng ba thành có vị trí thuận tiện trong xứ CHÚA sẽ cho anh chị em chiếm hữu. Anh chị em phải chia lãnh thổ CHÚA sẽ cho anh chị em làm cơ nghiệp thành ba phần và phải mở đường dẫn đến ba thành trú ẩn, để cho kẻ sát nhân có thể chạy đến đó. Đây là luật lệ áp dụng cho kẻ sát nhân chạy đến đó để bảo tồn mạng sống mình: phải là trường hợp giết người vì vô ý và không có ác ý mưu đồ trước. Ví dụ trường hợp một người vào rừng đốn củi với người láng giềng. Khi vung rìu đốn cây lưỡi rìu sút cán, văng nhằm người láng giềng gây ra án mạng. Người ấy có thể chạy đến một trong ba thành trú ẩn để bảo tồn mạng sống mình. Nếu khoảng cách quá xa người báo thù huyết có thể đuổi kịp người ấy và trong cơn giận dữ giết người ấy chết, mặc dù người ấy không đáng chết, vì đã lỡ gây ra án mạng, không có ác ý mưu đồ trước. Đó là lý do tôi truyền cho anh chị em phải để riêng ra ba thành trú ẩn. Khi CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em mở mang bờ cõi như Ngài đã thề với các tổ tiên và cho anh chị em toàn thể lãnh thổ Ngài đã hứa với họ, vì anh chị em cẩn thận làm theo tất cả điều răn tôi truyền cho anh chị em hôm nay, tức là kính yêu CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em và luôn luôn đi theo các đường lối của Ngài, thì lúc đó anh chị em sẽ để riêng thêm ba thành nữa. Anh chị em phải làm như vậy để máu vô tội sẽ không đổ ra trong xứ CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sắp ban cho anh chị em làm cơ nghiệp và để anh chị em không mắc tội làm đổ huyết đó. Nhưng nếu có người ghen ghét láng giềng rồi rình rập, tấn công và giết người rồi chạy vào thành trú ẩn, các trưởng lão của thành nguyên quán sẽ cho người đến thành trú ẩn, bắt tên sát nhân giải về và giao cho người báo thù huyết để giết đi. Đừng tỏ lòng thương xót tên sát nhân, nhưng phải quét sạch khỏi Y-sơ-ra-ên tội làm đổ huyết vô tội. Như vậy anh chị em mới được phước. Đừng dời tảng đá làm ranh giới, do các người đời trước dựng lên để phân chia đất đai trong xứ CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sắp ban cho anh chị em chiếm hữu. Một người làm chứng không đủ để kết án người bị tố cáo về một tội ác hay một hành động phi pháp. Phải có hai hay ba nhân chứng mới kết tội bị cáo được. Nếu có một người làm chứng gian đứng ra cáo tội một người khác, cả hai bên nguyên cáo và bị cáo phải lên nơi thờ phượng CHÚA, và đứng trước các thầy tế lễ và thẩm phán đương nhiệm. Các thẩm phán sẽ điều tra kỹ lưỡng và nếu thấy nhân chứng là người gian dối, làm chứng gian để buộc tội anh em mình, thì nhân chứng gian sẽ nhận lấy hình phạt người ấy đã định gán cho người anh em mình. Anh chị em phải loại trừ tội ác ra khỏi dân mình như vậy. Khi nghe tin này, những người khác sẽ sợ hãi và sẽ không còn ai dám làm điều ác ấy nữa giữa vòng anh chị em. Đừng thương hại: mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân. Khi anh chị em giao chiến với quân thù và thấy họ có nhiều ngựa, nhiều xe và có đạo quân đông hơn mình thì đừng sợ, vì CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em là Đấng đã đem anh chị em ra khỏi Ai-cập sẽ ở với anh chị em. Khi sắp tham chiến, thầy tế lễ sẽ tiến lên phía trước để kêu gọi binh sĩ. Ông ấy sẽ nói: “Anh em binh sĩ Y-sơ-ra-ên nghe đây! Hôm nay chúng ta sẽ ra trận chiến đấu với quân thù. Anh em đừng nhát gan cũng đừng sợ hãi. Khi đối diện với quân thù, anh em đừng hoang mang khiếp sợ, vì CHÚA, Đức Chúa Trời của anh em sẽ đi với anh em, tiến đánh quân thù thay anh em và cho anh em chiến thắng.” Các sĩ quan sẽ nói với binh sĩ: “Có ai vừa mới cất nhà nhưng chưa khánh thành? Người ấy được trở về, vì có thể người ấy tử trận và người khác sẽ khánh thành nhà ấy. Có ai trồng một vườn nho nhưng chưa kịp hưởng hoa lợi? Người ấy được trở về, vì có thể người ấy tử trận, và người khác hưởng hoa lợi vườn nho đó. Có ai hứa hôn với một phụ nữ nhưng chưa kịp cưới? Người ấy được trở về, vì có thể người ấy tử trận và người khác cưới vợ hứa của mình.” Họ nói tiếp với binh sĩ: “Ai nhát gan sợ hãi cũng về đi, để các bạn đồng ngũ khỏi bị sợ lây.” Sau khi các sĩ quan nói với quân sĩ xong, các cấp chỉ huy sẽ được bổ nhiệm để lãnh đạo toàn quân. Khi kéo quân tấn công một thành nào, anh chị em phải nghị hòa với thành ấy. Nếu họ không chấp thuận và mở cửa thành, tất cả dân chúng trong thành sẽ làm nô lệ phục dịch anh em. Nhưng nếu họ bác bỏ điều kiện nghị hòa của anh chị em và khai chiến với anh chị em, lúc đó anh chị em sẽ vây thành. Khi CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em trao thành vào tay anh chị em, phải dùng gươm giết hết đàn ông trong thành. Nhưng anh em có thể chiếm hữu đàn bà, trẻ con, gia súc và mọi thứ khác làm chiến lợi phẩm, và anh em có thể xử dụng chiến lợi phẩm được CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em ban cho. Anh em xử như vậy với tất cả các thành ở rất xa anh em, không phải những thành của các dân tộc này ở đây. Tuy nhiên, phải tiêu diệt hết mọi sinh vật có hơi thở sống trong các thành thuộc lãnh thổ các dân tộc CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em ban cho làm cơ nghiệp. Phải tận diệt các dân Hê-tít, A-mô-rít, Ca-na-an, Phê-rê-sít, Hê-vít và Giê-bu-sít, đúng theo mạng lệnh CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã truyền. Nếu không, họ sẽ hướng dẫn anh chị em làm những điều ghê tởm họ làm khi họ thờ lạy thần tượng của họ và anh chị em sẽ phạm tội với CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta. Khi bao vây một thành nào lâu ngày và tìm cách chiếm nó, anh chị em đừng dùng rìu triệt hạ cây cối, vì anh chị em có thể ăn trái các cây đó. Đừng đốn cây cối, vì các cây này mọc ngoài đồng đâu phải là người để anh chị em bao vây? Tuy nhiên, anh chị em có thể đốn cây nào mình biết rõ là cây không sinh trái để dùng làm công sự vây hãm thành cho đến khi nào chiếm được thành. Nếu thấy xác một người bị giết nằm ngoài đồng, trong phạm vi lãnh thổ CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em ban cho anh chị em làm cơ nghiệp, và không biết ai là thủ phạm, các trưởng lão và thẩm phán phải đo khoảng cách từ chỗ xác chết cho đến các thành chung quanh đó. Các trưởng lão của thành gần người bị giết nhất bắt một con bò cái tơ chưa hề làm việc và chưa mang ách, dẫn bò xuống một thung lũng không ai cày cấy trồng trọt, nơi có dòng nước chảy. Tại chỗ đó họ đập bể ót con bò. Lúc đó các thầy tế lễ con cháu Lê-vi đến, vì họ được CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em chọn để phục vụ, để nhân danh CHÚA chúc các phước lành và để phán quyết khi có các vụ tranh tụng hay đả thương. Tất cả các trưởng lão của thành gần xác chết nhất sẽ rửa tay họ trên con bò cái tơ đã bị đập bể ót trong thung lũng, và nói: “Tay chúng con không làm đổ huyết người này và mắt chúng con cũng không chứng kiến án mạng. Lạy CHÚA, xin Chúa thương xót tha tội cho Y-sơ-ra-ên là dân Chúa đã cứu chuộc và đừng buộc tội dân Chúa vì huyết của người vô tội này.” Như vậy tội đổ huyết này sẽ được chuộc. Anh chị em đã làm điều ngay thẳng đẹp lòng CHÚA như vậy sẽ không bị buộc tội làm đổ huyết người vô tội. Khi anh chị em có chiến tranh với quân thù và CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em trao họ vào tay anh chị em, cho anh chị em bắt được tù binh, nếu trong số đó có một thiếu nữ xinh đẹp hấp dẫn và có ai trong anh em muốn cưới làm vợ, người ấy có thể đem thiếu nữ về nhà. Thiếu nữ ấy phải cạo đầu, cắt móng tay, và lột bỏ y phục đã mặc khi bị bắt làm tù binh. Thiếu nữ ấy phải ở trong nhà người ấy và đã khóc cha mẹ mình trọn một tháng, sau đó người ấy sẽ đến với thiếu nữ, cưới làm vợ và thiếu nữ sẽ trở thành vợ người ấy. Nếu sau này không thích vợ mình nữa, người ấy phải để cho vợ ra đi tự do và không được bán hay đối đãi với nàng như một nô lệ, vì đã làm nhục nàng. Nếu một người có hai vợ nhưng yêu vợ này, không yêu vợ kia và nếu cả hai vợ đều có con trai, nhưng con trưởng nam là con của vợ không được yêu, khi chia gia tài cho con cái, người ấy không được đem quyền trưởng nam trao cho con của người vợ được yêu trong khi con trai đầu lòng là con của vợ không được yêu. Người ấy phải công nhận quyền trưởng nam của người con trai do người vợ không được yêu sinh ra và phải chia cho nó một phần gấp đôi phần cho các con trai khác. Con trai đầu lòng là kết quả đầu tiên của sức mạnh người cha, nên quyền trưởng nam phải thuộc về nó. Nếu ai có đứa con cứng đầu ngỗ nghịch, không vâng lời cha mẹ và mặc dù bị trừng phạt cũng không chịu nghe theo, cha mẹ nó sẽ nắm lấy nó và dẫn nó đến với các trưởng lão họp tại cổng thành. Cha mẹ sẽ trình với các trưởng lão: “Con chúng tôi cứng đầu ngỗ nghịch, không chịu vâng lời và chỉ biết trác táng say sưa.” Khi đó dân thành sẽ lấy đá ném cho nó chết. Anh chị em phải quét sạch tội ác khỏi dân mình. Toàn dân Y-sơ-ra-ên sẽ nghe tin này và sẽ sợ hãi. Khi một người phạm tội tử hình bị đem xử tử và bị treo trên cây, anh chị em không được để xác người ấy treo trên cây qua đêm. Phải đem chôn cùng ngày hôm đó, vì xác chết treo trên cây làm ô uế xứ CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta đã ban cho anh chị em làm sản nghiệp. Nếu anh chị em thấy bò hay chiên dê của anh em đi lạc thì đừng làm ngơ nhưng phải dẫn nó về cho anh em mình. Nếu người chủ không ở gần anh chị em, hay nếu anh chị em không biết người ấy là ai, phải dẫn con vật về nhà và giữ cho đến khi chủ nó đến tìm. Khi đó anh chị em sẽ giao con vật lại cho chủ nó. Anh chị em cũng làm cách này khi gặp lừa, áo xống hay bất cứ vật gì của láng giềng mình bị lạc mất, và không được làm ngơ. Nếu anh chị em thấy lừa hay bò của láng giềng mình ngã quỵ dọc đường thì đừng làm ngơ nhưng phải giúp người láng giềng đỡ nó dậy. Đàn bà không được mặc áo quần của đàn ông, đàn ông không được mặc áo quần của đàn bà, vì CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em ghê tởm ai làm điều đó. Nếu bắt gặp một tổ chim bên đường, hoặc trên cây hay dưới đất, và thấy chim mẹ đang ấp con hoặc ấp trứng, đừng bắt cả mẹ lẫn con. Anh chị em có thể bắt chim con nhưng phải để cho chim mẹ bay đi, để anh chị em được phước và sống lâu. Khi xây cất nhà mới, phải dựng lan can quanh mái nhà để giữ cho không có người từ mái nhà té xuống đất mà anh chị em phải mắc tội đổ huyết vì nhà mới. Đừng trồng hai thứ hạt giống trong vườn nho của anh chị em; nếu anh chị em làm như vậy, phải dâng tất cả hoa lợi trong vườn, kể cả nho và thu hoạch từ hạt giống kia. Đừng cầy với bò và lừa thắng chung một ách. Đừng mặc quần áo bằng lông chiên dệt chung với sợi lanh. Phải kết tua nơi bốn chéo áo choàng anh chị em mặc. Nếu một người cưới vợ, ngủ với nàng rồi sau đâm ra ghét bỏ, vu oan và nói xấu nàng: “Tôi cưới người này nhưng khi đến gần nàng, tôi không thấy nàng còn đồng trinh.” Khi đó cha mẹ người vợ sẽ đem bằng chứng trinh tiết của con gái mình trình cho các trưởng lão của thành tại cổng thành. Người cha sẽ nói với các trưởng lão: “Tôi gả con gái tôi cho người này làm vợ, nhưng khi đã chán ghét con gái tôi, người này vu oan cho nó và nói: ‘Tôi không thấy con gái ông còn trinh tiết,’ nhưng đây là bằng chứng nó còn đồng trinh.” Rồi cha mẹ người vợ sẽ trải áo xống nàng ra trước các trưởng lão trong thành. Các trưởng lão sẽ bắt người chồng đánh đòn, và buộc người ấy phải đóng một kí bạc và giao số tiền này cho cha người vợ, vì người chồng đã vu oan một trinh nữ Y-sơ-ra-ên. Nàng sẽ tiếp tục làm vợ người ấy; suốt đời người chồng không được ly dị nàng. Tuy nhiên, nếu lời cáo tội của người chồng là đúng vì không tìm thấy bằng chứng trinh tiết của người vợ, người ta sẽ dẫn người vợ đến trước cửa nhà cha nàng và dân thành sẽ lấy đá ném cho nàng chết, vì nàng đã làm một điều ô nhục trong Y-sơ-ra-ên, ngủ với đàn ông trước khi lấy chồng, khi còn ở nhà cha nàng. Như vậy anh chị em phải quét sạch tội ác khỏi giữa dân mình. Nếu bắt được một người đàn ông gian dâm với vợ người khác, cả người đàn ông lẫn người đàn bà đều phải bị xử tử. Anh chị em phải quét sạch tội ác khỏi Y-sơ-ra-ên. Nếu một người đàn ông gặp một trinh nữ trong thành đã đính hôn và ngủ với nàng, anh chị em phải dẫn cả hai ra cổng thành và lấy đá ném cho chết. Người con gái có tội vì đã không kêu cứu khi ở trong thành; còn người đàn ông vì đã xúc phạm vợ của người khác. Anh chị em phải quét sạch tội ác khỏi giữa dân mình. Nhưng nếu người đàn ông bắt gặp người con gái đã đính hôn ở ngoài đồng và cưỡng hiếp nàng, chỉ một mình người đàn ông bị xử tử. Đừng làm gì cho người con gái, vì nàng không phạm tội đáng chết. Trường hợp này cũng giống trường hợp một người tấn công và hạ sát láng giềng, vì người đàn ông bắt gặp người con gái đã đính hôn đó ở ngoài đồng, dù nàng có kêu la cũng không ai đến cứu nàng. Nếu một người đàn ông bắt gặp một trinh nữ chưa đính hôn, cưỡng hiếp nàng và bị khám phá ra, người đàn ông phải trả cho cha mẹ thiếu nữ sáu trăm gam bạc rồi phải cưới nàng làm vợ vì đã làm sỉ nhục nàng. Suốt đời người chồng không được phép ly dị vợ. Không một người đàn ông nào được cưới vợ kế của cha, vì như vậy là làm nhục cha mình. Người ngoại thận bị giập hay bị cắt sẽ không được phép gia nhập cộng đồng dân CHÚA. Con hoang cũng như dòng dõi của người này, sẽ không được phép gia nhập cộng đồng dân CHÚA, dù đến thế hệ thứ mười cũng vậy. Người Am-môn cũng như người Mô-áp cũng như dòng dõi họ sẽ không được phép gia nhập cộng đồng dân CHÚA, dù đến thế hệ thứ mười cũng vậy, vì khi anh chị em ra khỏi xứ Ai-cập họ đã không đem bánh nước tiếp đón anh chị em mà còn mướn Ba-la-am, con trai Bê-ô ở Phê-thô-rơ thuộc xứ A-ram Na-ha-ra-im đến nguyền rủa anh chị em. Nhưng CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em không nghe Ba-la-am nên đã biến lời nguyền rủa thành lời chúc phước, vì CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em yêu mến anh chị em. Đừng bao giờ ký kết giao ước hữu nghị với hai dân tộc này. Đừng khinh ghét người Ê-đôm vì họ là anh em của chúng ta. Đừng khinh ghét người Ai-cập vì anh chị em đã kiều ngụ trong nước họ. Dòng dõi họ từ thế hệ thứ ba được phép gia nhập cộng đồng dân CHÚA. Khi anh chị em thiết lập doanh trại trong lúc chiến tranh với quân thù, phải tránh mọi điều ô uế. Người bị mộng tinh phải ra ở bên ngoài doanh trại, không được trở vào. Đến chiều người ấy phải tắm rửa và lúc mặt trời lặn sẽ được phép trở vào trại. Phải dành một khu vực bên ngoài doanh trại để đi vệ sinh. Mỗi người phải có một vật dùng đào đất, để khi đi ngoài xong thì đào đất lấp lại. Vì CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đi lại trong doanh trại để bảo vệ và giải cứu anh chị em khỏi quân thù nên doanh trại của anh chị em phải thánh, để Ngài không thấy gì ô uế đến nỗi phải rời bỏ anh chị em. Nếu có một người nô lệ chạy đến ẩn trú với anh chị em thì đừng giao trả người ấy lại cho chủ, nhưng phải để cho người ấy ở nơi nào người ấy muốn, trong thành nào người ấy chọn và không được áp bức người. Không một người Y-sơ-ra-ên nào, dù đàn ông hay đàn bà, được phép hành nghề mãi dâm trong các đền miếu. Anh chị em không được đem tiền công của người hành nghề mãi dâm, dù đàn ông hay đàn bà, vào đền của CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em để trả một lời hứa nguyện, vì CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em ghê tởm các thứ này. Không được cho anh em mình vay lấy lãi, dù cho vay tiền bạc, thực phẩm hay bất cứ thứ gì khác. Anh chị em có thể cho người ngoại quốc vay lấy lãi, nhưng không được lấy lãi anh em người Y-sơ-ra-ên, vì như vậy CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sẽ chúc phước trên công việc tay anh chị em làm tại trong xứ anh chị em sắp vào chiếm hữu. Nếu anh chị em hứa nguyện với CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em một điều gì thì đừng chậm trễ nhưng phải làm xong lời hứa nguyện mình, vì chắc chắn CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sẽ đòi hỏi anh chị em thực hiện điều đã hứa nguyện, nếu không giữ lời hứa nguyện, anh chị em sẽ phải mang tội. Nhưng nếu anh chị em tự kiềm hãm và không hứa nguyện thì không phải mang tội. Bất kỳ điều gì anh chị em nói ra thì phải nhất quyết làm cho xong, vì chính miệng anh chị em đã tự hứa nguyện với CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em. Khi vào vườn nho của láng giềng, anh chị em có thể ăn bao nhiêu tùy thích, nhưng không được hái bỏ vào giỏ mình. Khi vào đồng lúa của láng giềng, anh chị em có thể dùng tay bứt chứ không được phép dùng lưỡi liềm cắt lúa. Nếu một người đàn ông cưới vợ rồi không thỏa lòng vì thấy vợ có điều gì không vừa ý mình, người ấy có thể viết một tờ ly dị đưa cho vợ và bảo vợ ra khỏi nhà mình. Nếu sau khi ra khỏi nhà chồng, người đàn bà này có chồng khác, và nếu người chồng thứ hai không ưa vợ và viết cho vợ một tờ ly dị và bảo vợ ra khỏi nhà, hay nếu người chồng thứ hai này qua đời, người chồng thứ nhất, là người ly dị vợ sẽ không được cưới nàng lại vì nàng đã bị ô uế. Đó là một điều ghê tởm trước mắt CHÚA. Anh chị em không được đem tội lỗi đến trên xứ CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sẽ ban cho anh chị em làm cơ nghiệp. Một người vừa mới cưới vợ được khỏi đi tác chiến và khỏi làm các công tác khác trong một năm. Người ấy được ở nhà hưởng hạnh phúc với vợ mình. Đừng nhận cối xay, hoặc cả hai thớt cối hay chỉ cái thớt trên, làm của thế chân vì như thế là nhận cầm phương tiện sinh sống của người khác. Nếu có ai bắt cóc anh em mình là người Y-sơ-ra-ên để làm nô lệ hay để đem đi bán, người bắt cóc phải bị xử tử. Anh chị em phải quét sạch tội ác khỏi giữa dân mình. Trong các trường hợp mắc chứng phung, phải cẩn thận làm đúng theo chỉ thị của các thầy tế lễ người Lê-vi. Anh chị em phải cẩn thận thi hành mạng lệnh tôi đã truyền. Phải nhớ lại việc CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã làm cho Mi-ri-am trên con đường chúng ta đi, khi vừa ra khỏi xứ Ai-cập. Khi anh chị em cho người láng giềng mượn bất kỳ vật gì, không được vào nhà người ấy nhận vật thế chân. Phải đứng bên ngoài đợi người ấy mang vật thế chân ra. Nếu người ấy nghèo, anh chị em đừng giữ vật thế chân này khi đi ngủ. Nếu đã nhận áo xống làm thế chân, anh chị em phải trả lại trước khi mặt trời lặn để người ấy có áo xống mặc khi đi ngủ. Như vậy người ấy sẽ cám ơn anh chị em và hành động này của anh chị em sẽ kể là một hành động công chính trước mắt CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em. Đừng lợi dụng người làm mướn nghèo khổ thiếu thốn, dù người ấy là anh em người Y-sơ-ra-ên hay là ngoại kiều sống chung trong thành với anh chị em. Phải trả tiền công cho người ấy mỗi ngày trước khi mặt trời lặn, vì người ấy nghèo thiếu và trông mong nhận được tiền công mình. Nếu không thấy tiền công, người ấy sẽ kêu với CHÚA và anh chị em phải mang tội. Cha không bị xử tử vì tội của con cái, con cái cũng không bị xử tử vì tội của cha; ai phạm tội người ấy phải chết. Không được đối xử bất công với ngoại kiều hay người mồ côi, cũng đừng nhận áo xống của người góa bụa làm của cầm. Phải nhớ rằng anh chị em đã làm nô lệ trong xứ Ai-cập và CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã cứu chuộc anh chị em ra khỏi đó. Đó là lý do tôi truyền mạng lệnh này cho anh chị em. Khi gặt hái hoa mầu ngoài đồng, nếu có bỏ quên một bó lúa cũng đừng trở lại lấy. Phải để bó lúa đó lại cho ngoại kiều, kẻ mồ côi và người góa bụa, để CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em ban phước cho mọi công việc tay anh chị em làm. Khi đập rụng trái ô-liu, đừng đập lần thứ hai, nhưng phải để những trái sót lại cho ngoại kiều, kẻ mồ côi và người góa bụa. Khi hái trái nho trong vườn nho mình, anh chị em đừng mót các trái còn trên cây nho, nhưng phải để những trái sót đó cho ngoại kiều, kẻ mồ côi và người góa bụa. Phải nhớ rằng anh chị em đã làm nô lệ trong xứ Ai-cập. Đó là lý do tôi truyền mạng lệnh này cho anh chị em. Khi có vụ tranh tụng và hai bên đem nội vụ ra tòa. Các thẩm phán sẽ quyết định, tuyên bố người vô tội trắng án và xử phạt người có tội. Nếu người có tội đáng bị đánh đòn, thẩm phán bảo người ấy nằm xuống và sai đánh đòn trước mặt mình. Số đòn phải tương xứng với tội đã phạm, nhưng đừng đánh quá bốn mươi đòn. Nếu đánh quá số đó, anh chị em sẽ làm cho người anh em mình ra hèn hạ. Đừng khớp miệng con bò đang đạp lúa. Nếu có các anh em trai sống chung với nhau và một người chết đi không có con trai, vợ góa của người này sẽ không lấy chồng ngoài gia đình. Anh hay em của người đã chết sẽ cưới vợ góa của người ấy để làm tròn bổn phận của anh em chồng đối với góa phụ. Con trai thứ nhất do người đàn bà này sinh ra sẽ mang tên người đã chết để tên đó không bị xóa khỏi Y-sơ-ra-ên. Tuy nhiên, nếu người anh em không chịu cưới vợ góa của anh hay em mình, người đàn bà này sẽ đến với các trưởng lão tại cổng thành và trình rằng: “Người anh em của chồng tôi từ chối không chịu lưu danh người chết trong cộng đồng Y-sơ-ra-ên vì không chịu làm tròn bổn phận của anh em chồng đối với tôi.” Khi đó các trưởng lão trong thành sẽ gọi người ấy đến để nói chuyện. Nếu người ấy cứ nhất quyết nói: “Tôi không muốn cưới người chị (em) dâu tôi”, người đàn bà sẽ đến trước người ấy, lột dép người ấy trước sự hiện diện của các trưởng lão, nhổ vào mặt người ấy và nói: “Đây là điều phải làm cho ai không chịu xây dựng gia đình của anh em mình.” Từ đấy trong dân Y-sơ-ra-ên người ta sẽ gọi gia đình người ấy là gia đình của người bị lột dép. Khi hai người đàn ông đang đánh nhau và vợ của một người xông đến tiếp cứu chồng lỡ vớ tay nắm nhầm chỗ kín của người kia, thì phải chặt tay của người đàn bà này, đừng thương xót. Đừng có hai thứ trái cân trong bao mình, một nặng, một nhẹ. Đừng có hai đơn vị đo lường, một già, một non. Nhưng phải có trái cân và đơn vị đo lường chính xác ngay thật để anh chị em có thể sống lâu trong xứ CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sắp ban cho. Vì CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em ghê tởm những người làm các điều bất nghĩa này. Phải ghi nhớ việc dân A-ma-léc đã làm cho anh chị em dọc đường, khi anh chị em vừa ra khỏi Ai-cập. Họ chẳng biết kính sợ Đức Chúa Trời, nên lúc anh chị em đang mệt mỏi đuối sức, họ kéo ra chận đánh bất ngờ và giết hết những người lê bước đi sau cùng. Vậy, khi CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã cho anh chị em nghỉ ngơi và đã giải cứu anh chị em khỏi mọi quân thù xung quanh xứ Ngài sắp cho anh chị em chiếm hữu làm cơ nghiệp, anh chị em phải quét sạch dân A-ma-léc khỏi dưới trời. Anh chị em không được quên! Khi đã vào xứ CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em ban cho làm sản nghiệp, đã chiếm hữu đất đai và đã định cư xong, anh chị em phải đem một phần của tất cả hoa mầu đầu mùa do đất đai sinh sản trong xứ CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em ban cho, bỏ vào một cái giỏ, mang đến địa điểm CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sẽ chọn để đặt Danh Ngài, đến gặp thầy tế lễ đương nhiệm và thưa: “Hôm nay tôi xin thưa với CHÚA, Đức Chúa Trời của ông là tôi đã vào trong xứ CHÚA ban cho chúng ta như Ngài đã thề với các tổ tiên.” Thầy tế lễ sẽ nhận giỏ hoa quả từ tay anh chị em, đem đặt trước bàn thờ của CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em. Sau đó anh chị em sẽ thưa với CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em: “Tổ tiên tôi là người A-ram lang thang. Khi xuống Ai-cập kiều ngụ chỉ có một số ít người, nhưng nay đã trở thành một dân lớn, mạnh mẽ, đông đúc. Nhưng người Ai-cập ngược đãi chúng tôi, bắt chúng tôi lao công cực nhọc đau khổ. Lúc đó, chúng tôi kêu với CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ tiên chúng ta. CHÚA nghe tiếng chúng tôi kêu van và thấy cảnh khổ đau, cực nhọc và áp bức chúng tôi đang chịu. Chúa dùng quyền năng lớn lao vô hạn, CHÚA đã làm những việc khủng khiếp, nhiều dấu kỳ phép lạ để đem chúng tôi ra khỏi xứ Ai-cập. Ngài đưa chúng tôi đến đây, ban cho chúng tôi xứ này là đất tràn đầy sữa và mật ong. Lạy CHÚA, bây giờ tôi đem đến dâng Chúa hoa mầu đầu mùa do đất Chúa ban cho tôi sinh sản.” cầu nguyện xong, anh chị em để giỏ hoa quả trước bàn thờ CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em và sấp mình xuống thờ lạy Ngài. Sau đó, anh chị em và gia đình sẽ tổ chức tiệc mừng và mời người Lê-vi, ngoại kiều sống trong thành tham dự để tỏ lòng biết ơn CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta về mọi phước lành Ngài ban cho anh chị em. Cứ mỗi năm thứ ba, gọi là năm dâng hiến phần mười, anh chị em để riêng một phần mười hoa mầu thu hoạch cho các người Lê-vi, các ngoại kiều, kẻ mồ côi và người góa bụa sống cùng thành với anh chị em để họ có thể ăn uống thỏa thích. Sau đó anh chị em sẽ trình với CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em: “Tôi đã đem ra khỏi nhà phần thánh và đưa phần ấy cho người Lê-vi, ngoại kiều, kẻ mồi côi và người góa bụa, đúng theo lệnh Chúa đã truyền. Tôi không vi phạm cũng không quên mạng lệnh nào của Chúa. Tôi không ăn phần thánh lúc có tang chế, cũng không đụng đến đang khi bị ô uế, và cũng không cúng phần ấy cho người chết. Tôi đã vâng lời CHÚA, Đức Chúa Trời của tôi và thi hành mọi điều Ngài truyền dạy. Xin Chúa từ trời, từ nơi ngự thánh của Chúa nhìn xuống chúc phước cho dân Y-sơ-ra-ên của Chúa và cho xứ Chúa đã ban cho chúng tôi như Chúa đã thề hứa với các tổ tiên, là xứ tràn trề sữa và mật ong.” CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em ngày nay truyền cho anh chị em phải làm theo các quy luật và sắc lệnh này; anh chị em phải cẩn thận vâng giữ với tất cả tấm lòng và tất cả linh hồn mình. Hôm nay anh chị em đã xác nhận CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, anh chị em sẽ đi theo đường lối Ngài, giữ các điều răn, quy luật và sắc lệnh Ngài và anh chị em hứa sẽ vâng theo lời Ngài. Ngày hôm nay, CHÚA cũng xác nhận anh chị em là dân của Ngài, là sản nghiệp quý giá của Ngài như Ngài đã hứa, và anh chị em phải giữ mọi mạng lệnh Ngài. Ngài cũng tuyên bố Ngài sẽ làm cho anh chị em được ca tụng, danh tiếng và vinh dự hơn mọi dân tộc khác Ngài đã dựng nên, và anh chị em sẽ là một dân tộc thánh cho Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời của anh chị em như Ngài đã hứa. Môi-se và các trưởng lão Y-sơ-ra-ên bảo dân chúng: “Anh chị em phải giữ tất cả điều răn tôi truyền hôm nay. Khi đã qua sông Giô-đanh và vào trong xứ CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sắp ban cho, anh chị em phải dựng các tảng đá lớn, lấy hồ trát lên, rồi viết trên đó các lời của luật pháp này, khi anh chị em đã qua sông và vào trong xứ CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sắp ban cho, là một xứ tràn trề sữa và mật ong, như CHÚA, Đức Chúa Trời của các tổ tiên đã hứa với anh chị em. Sau khi đã qua sông Giô-đanh, anh chị em dựng các tảng đá đó trên núi Ê-banh và lấy hồ trát lên, như tôi truyền dạy anh chị em hôm nay. Cũng thiết lập ở đó một bàn thờ bằng đá cho CHÚA, Đức Chúa Trời của đồng bào. Đừng dùng dụng cụ bằng sắt để đẽo đá. Anh chị em phải dựng một bàn thờ cho CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em bằng đá nguyên khối và dâng tế lễ thiêu trên bàn thờ ấy cho CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em. Anh chị em cũng sẽ dâng trên bàn thờ ấy tế lễ cầu an, rồi ăn mừng tại đó trước mặt CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em. Anh chị em phải viết thật rõ ràng các lời của luật pháp này trên các tảng đá anh chị em sẽ dựng lên.” Sau đó, Môi-se và các thầy tế lễ người Lê-vi nói với toàn dân Y-sơ-ra-ên: “Đồng bào Y-sơ-ra-ên yên lặng nghe đây! Bây giờ anh chị em đã trở thành dân của CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em. Vậy anh chị em phải vâng lời CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em và làm theo các điều răn và quy luật tôi truyền hôm nay.” Hôm ấy, Môi-se truyền mạng lệnh này cho dân chúng: “Sau khi anh chị em đã qua sông Giô-đanh, các chi tộc sau đây sẽ đứng trên núi Ga-ri-xim để chúc phước cho toàn dân: Si-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, Y-sa-ca, Giô-sép và Bên-gia-min. Còn các chi tộc sau đây sẽ đứng trên núi Ê-banh để công bố các lời nguyền rủa: Ru-bên, Gát, A-se, Sa-bu-luân, Đan và Nép-ta-li.” Người Lê-vi sẽ lớn tiếng tuyên bố với toàn dân Y-sơ-ra-ên như sau: “Người nào chạm hay đúc hình tượng rồi dựng lên thờ trong nơi kín phải bị nguyền rủa. CHÚA ghê tởm các hình tượng đó do tay người thợ thủ công làm ra.”Toàn dân sẽ đáp: “A-men” “Người nào khinh bỉ cha mẹ mình phải bị nguyền rủa”.Toàn dân sẽ đáp: “A-men” “Người nào dời đá làm ranh giới đất đai của láng giềng phải bị nguyền rủa”.Toàn dân sẽ đáp: “A-men” “Người nào làm cho người mù đi lạc đường phải bị rủa sả”.Toàn dân sẽ đáp: “A-men” “Người nào không áp dụng công lý cho ngoại kiều, kẻ mồ côi, người góa bụa phải bị rủa sả”.Toàn dân sẽ đáp: “A-men” “Người nào ngủ với vợ kế của cha mình phải bị nguyền rủa, vì như vậy là làm nhục cha mình”.Toàn dân sẽ đáp: “A-men” “Người nào ngủ với thú vật phải bị nguyền rủa”.Toàn dân sẽ đáp: “A-men” “Người nào ngủ với chị em mình, dù cùng cha khác mẹ hay cùng mẹ khác cha, phải bị nguyền rủa”.Toàn dân sẽ đáp: “A-men” “Người nào ngủ với bà gia mình phải bị rủa sả”.Toàn dân sẽ đáp: “A-men” “Người nào phạm tội giết người dù không ai thấy, phải bị nguyền rủa”.Toàn dân sẽ đáp: “A-men” “Người nào nhận hối lộ để giết người vô tội phải bị nguyền rủa”.Toàn dân sẽ đáp: “A-men” “Người nào không giữ các lời của kinh luật này để làm theo phải bị nguyền rủa”.Toàn dân sẽ đáp: “A-men” Nếu anh chị em trung tín vâng phục CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em và cẩn thận làm theo các mạng lệnh tôi truyền cho anh chị em hôm nay, CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sẽ làm cho anh chị em vượt trên các dân tộc khác trên mặt đất. Nếu anh chị em vâng phục CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, các phước lành này sẽ giáng xuống trên anh chị em và có hiệu quả ngay: Chúa sẽ ban phước cho anh chị em ở khắp mọi nơi, trong thành thị cũng như ngoài đồng ruộng. Chúa sẽ ban phước cho anh chị em con cháu đông đúc, hoa màu dư dật, súc vật, bò, chiên, dê đầy đàn. Chúa sẽ ban phước cho anh chị em hoa quả đầy giỏ và bột đầy thùng. Chúa sẽ ban phước cho anh chị em trong mọi hoàn cảnh, khi vào cũng như khi ra. Khi kẻ thù nổi dậy chống nghịch anh chị em Chúa sẽ đánh bại chúng. Chúng từ một hướng đến tấn công anh chị em, nhưng sẽ chạy trốn theo bảy hướng. CHÚA sẽ giáng phước lành trên vựa lẫm và trên mọi công việc tay anh chị em làm. CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sẽ giáng phước trên anh chị em trong xứ Ngài sắp ban cho. CHÚA sẽ làm cho anh chị em thành một dân tộc thánh của Ngài như Ngài đã thề hứa, nếu anh chị em giữ các mạng lệnh của CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em và đi theo các đường lối Ngài. Khi đó mọi dân tộc trên thế gian sẽ thấy rằng anh chị em được xưng bằng danh của CHÚA và sẽ sợ anh chị em. CHÚA sẽ cho anh chị em thịnh vượng trù phú trong xứ Ngài đã thề với các tổ tiên để ban cho anh chị em. Chúa sẽ cho anh chị em con cháu đông đúc, súc vật đầy đàn, hoa mầu dư dật. CHÚA sẽ mở kho tàng của Ngài trên trời cho mưa sa xuống đúng mùa trên ruộng đất và để giáng phước lành trên mọi công việc tay anh chị em làm. Anh chị em sẽ cho nhiều dân tộc vay nhưng sẽ không vay mượn của ai cả. CHÚA sẽ cho anh chị em làm đầu chứ không làm đuôi. Nếu anh chị em chú ý và cẩn thận làm theo các mạng lệnh của CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em truyền cho anh chị em hôm nay, anh chị em sẽ luôn ở hàng đầu, trên cao chứ không ở hàng cuối, dưới thấp. Đừng bao giờ lìa khỏi các mạng lệnh tôi phải truyền cho anh chị em hôm nay, hoặc qua bên phải hay qua bên trái, cũng đừng theo và phục vụ các thần khác. Tuy nhiên, nếu anh chị em không vâng lời CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em và không cẩn thận làm theo các điều răn và quy luật của Ngài, các lời nguyền rủa sau đây sẽ giáng trên anh chị em và có hiệu quả ngay: Anh chị em sẽ bị nguyền rủa trong thành thị cũng như ngoài đồng ruộng. Giỏ và thùng nhồi bột của anh chị em sẽ trống không vì bị nguyền rủa. Anh chị em sẽ bị nguyền rủa và hiếm con, đồng ruộng sẽ không sản xuất hoa mầu, bầy bò và chiên dê không sinh sản. Anh chị em sẽ bị nguyền rủa trong mọi hoàn cảnh, khi vào cũng như khi ra. CHÚA sẽ khiến anh chị em gặp cảnh tai ương, rối trí và phẫn uất trong mọi công việc anh chị em làm, cho đến khi anh chị em bị suy bại và chẳng mấy chốc bị hủy diệt nếu anh chị em phạm tội ác chối bỏ CHÚA. CHÚA sẽ làm cho bệnh dịch đeo theo anh chị em cho đến khi anh chị em bị diệt khỏi đất anh chị em sắp chiếm hữu. CHÚA sẽ hành hại anh chị em với chứng lao phổi, bệnh sốt và phù thũng, với nắng cháy, hạn hán, cây cỏ bị tàn rụi, mốc meo. Các tai nạn này sẽ đeo đuổi anh chị em cho đến khi anh chị em bị tiêu diệt. Bầu trời trên đầu sẽ như đồng và đất dưới chân như sắt. CHÚA sẽ khiến mưa trong xứ thành ra bụi cát và bão cát sẽ từ trời rơi xuống cho đến khi anh chị em bị tiêu diệt. CHÚA sẽ làm cho anh chị em bị quân thù đánh bại. Anh chị em sẽ theo một đường đến tấn công họ nhưng sẽ trốn chạy theo bảy ngã. Mọi dân tộc trên đất sẽ kinh hãi khi nhìn thấy anh chị em. Xác chết của anh chị em sẽ làm thức ăn cho chim trời và thú đồng; không còn ai đến để đuổi chúng đi. CHÚA sẽ hành hại anh chị em với chứng ung nhọt người Ai-cập thường bị, với bệnh bướu, lở lói, ngứa ngáy không thể nào chữa lành. CHÚA sẽ làm cho anh chị em điên cuồng, mù lòa, tâm trí lộn xộn. Ngay giữa trưa, anh chị em sẽ quờ quạng như người mù trong đêm tối. Anh chị em làm gì cũng thất bại; ngày này qua ngày nọ anh chị em bị áp bức cướp giật không ai cứu giúp. Một anh em hứa hôn với một thiếu nữ nhưng người khác sẽ cưới và ở với nàng. Anh chị em sẽ cất nhà nhưng không được ở. Anh chị em sẽ trồng vườn nho nhưng không được ăn trái. Bò của anh chị em sẽ bị giết trước mặt mình, nhưng anh chị em không được ăn thịt. Lừa của anh chị em bị cướp giật khỏi tay anh chị em nhưng không bao giờ được trả lại. Chiên dê sẽ bị giao nạp cho quân thù, nhưng không có ai giúp anh chị em bắt đem về. Con trai con gái của anh chị em sẽ bị giải nạp cho một dân tộc khác và anh chị em sẽ mòn mắt trông chờ từ ngày này qua ngày khác, nhưng anh chị em bất lực không làm chi được. Một dân tộc anh chị em chưa hề biết sẽ ăn hoa mầu do đồng ruộng và sức lao động của anh chị em sản xuất, còn anh chị em bị áp bức giầy đạp liên tục. Những điều trông thấy sẽ làm cho anh chị em phát điên. CHÚA sẽ làm cho chứng ung nhọt đau đớn bất trị mọc lên ở đầu gối và trên hai chân anh chị em, rồi lan ra từ gót chân đến đỉnh đầu. CHÚA sẽ đuổi anh chị em và vua anh chị em tôn lên cai trị mình đến một nước cả anh chị em lẫn tổ tiên đều chưa hề biết. Tại đó, anh chị em sẽ thờ các thần khác, là thần bằng gỗ bằng đá. Nơi nào CHÚA đuổi anh chị em đến, tất cả các dân tại đó sẽ kinh hãi khi nhìn thấy cảnh khốn khó của anh chị em. Anh chị em sẽ trở thành đề tài cho họ đàm tiếu chê bai. Anh chị em sẽ gieo nhiều hạt giống nhưng gặt hái chẳng được bao nhiêu vì châu chấu sẽ cắn nuốt hoa mầu. Anh chị em sẽ trồng tỉa chăm sóc vườn nho, nhưng không được hái trái và uống rượu nho vì sâu bọ sẽ ăn hết. Anh chị em sẽ có cây ô-liu mọc khắp nơi trong xứ nhưng không có dầu để xức vì trái ô-liu khô héo rụng hết. Anh chị em sẽ sinh con trai con gái nhưng không giữ chúng được vì chúng bị bắt đi lưu đầy cả. Từng đàn châu chấu sẽ cắn phá cây cối và mùa màng ngoài đồng. Các ngoại kiều sống giữa anh chị em sẽ càng ngày càng thịnh vượng còn anh chị em càng ngày càng nghèo khó. Họ sẽ cho anh chị em vay, còn anh chị em không cho ai vay, họ sẽ làm đầu còn anh chị em làm đuôi. Tất cả các lời nguyền rủa này sẽ giáng trên anh chị em. Chúng sẽ đuổi theo và bắt kịp anh chị em cho đến khi anh chị em đã bị tiêu diệt, vì anh chị em không vâng lời CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em; anh chị em cũng không giữ các điều răn và mạng lệnh Ngài truyền cho. Các lời nguyền rủa này sẽ trở thành dấu hiệu và điềm gở cho anh chị em và con cháu anh chị em mãi mãi. Vì anh chị em không phục vụ CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em cách vui vẻ thỏa lòng trong khi Ngài cho anh chị em thịnh vượng, nên anh chị em sẽ phục vụ quân thù do CHÚA sẽ sai đến đánh anh chị em. Anh chị em sẽ bị đói khát, trần truồng và thiếu thốn đủ điều. Ngài sẽ lấy ách sắt tròng vào cổ anh chị em cho đến khi anh chị em bị diệt hết. CHÚA sẽ khiến một dân tộc từ phương xa, từ tận cùng trái đất, ào đến tấn công anh chị em, như chim đại bàng sà xuống chớp mồi. Họ nói thứ tiếng anh chị em không hiểu, nét mặt họ dữ tợn, họ không nể nang người già cũng không thương hại người trẻ. Họ sẽ ăn hết các con nhỏ của bầy gia súc và hoa mầu do đồng ruộng của anh chị em sinh sản cho đến khi anh chị em bị kiệt quệ. Họ không chừa lại một thứ gì, kể cả ngũ cốc, rượu nho mới, dầu, bò con và chiên con của bầy gia súc, cho đến khi họ đã làm cho đồng bào hoàn toàn kiệt quệ. Họ sẽ bao vây các thành trong xứ, cho đến khi phá vỡ các tường thành kiên cố anh chị em vẫn tin tưởng. Họ sẽ vây hãm tất cả các thành trên toàn lãnh thổ CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sắp ban cho anh chị em. Vì tình trạng kiệt quệ do cuộc bao vây của quân thù gây ra, anh chị em sẽ ăn thịt bông trái của bụng mình, tức là thịt con trai con gái mà CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã ban cho. Trong tất cả các thành, người đàn ông hiền lành nhậy cảm nhất cũng trừng mắt lườm anh em ruột, vợ yêu dấu và những đứa con còn sống sót; người không chịu chia sẻ với họ thịt đứa con người ấy đang ăn. Ngoài thịt đứa con người ấy không còn chi cả, vì tình cảnh đói khổ quân thù gây ra khi vây hãm các thành của anh chị em. Người đàn bà dịu hiền nhậy cảm nhất, dịu hiền và nhậy cảm đến nỗi không đụng gót chân xuống đất, cũng trừng mắt nhìn người chồng yêu quí với con trai con gái mình, vì bà ấy đang giấu họ đứa bé mới sinh và cái nhau để ăn một mình, do tình cảnh quẫn bách không còn chi khác để ăn trong khi quân thù vây hãm các thành của anh chị em. Nếu anh chị em không cẩn thận làm theo các lời của kinh luật đã được ghi chép trong sách này và không tôn kính danh vinh hiển đáng kính sợ, là danh CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, thì CHÚA sẽ giáng trên anh chị em và con cháu anh chị em các tai vạ kinh khiếp, các tai nạn lớn lao lâu ngày và các chứng bệnh hiểm nghèo dai dẳng. Ngài sẽ đem đến cho anh chị em mọi thứ bệnh tật của xứ Ai-cập mà anh chị em sợ hãi và các bệnh tật này sẽ đeo theo anh chị em. CHÚA cũng đem đến cho anh chị em mọi thứ bệnh hoạn và tai nạn không được ghi chép trong Sách Kinh Luật này, cho đến khi anh chị em bị tiêu diệt. Dân số anh chị em vốn đông như sao trên trời sẽ còn lại một số nhỏ, vì anh chị em không vâng lời CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em. Như CHÚA đã vui lòng làm cho anh chị em thịnh vượng và gia tăng dân số thế nào, thì Ngài cũng vui lòng tàn phá tiêu diệt anh chị em thế ấy. Anh chị em sẽ bị nhổ lên khỏi đất anh chị em sắp vào chiếm hữu. CHÚA sẽ phân tán anh chị em khắp các nước, từ đầu này trái đất cho đến đầu kia. Tại những nơi ấy anh chị em sẽ thờ phượng các thần khác, là thần bằng đá bằng gỗ mà cả anh chị em lẫn các tổ tiên đều không biết. Trong các nước đó, anh chị em sẽ không được an nghỉ, không tìm được một chỗ cho gót chân mình nghỉ ngơi. Tại đó, CHÚA sẽ làm cho anh chị em băn khoăn lo lắng, mắt mòn mỏi và tâm trí buồn thảm. Anh chị em sẽ ở trong tình trạng bấp bênh liên tục, đêm ngày lo sợ phập phồng, mạng sống không bảo đảm. Buổi sáng, anh chị em sẽ nói: “Ước gì trời tối”, ban đêm lại nói: “Ước gì trời sáng” vì lòng đầy kinh khiếp và vì những cảnh mắt anh chị em chứng kiến. CHÚA sẽ đem anh chị em trở về Ai-cập bằng tàu bè, dù Ngài đã hứa anh chị em sẽ chẳng trở về đó nữa, anh chị em sẽ bán mình cho kẻ thù làm nô lệ, cả nam lẫn nữ, nhưng chẳng ai mua. Sau đây là các điều khoản của giao ước CHÚA truyền dạy Môi-se lập với dân Y-sơ-ra-ên trong xứ Mô-áp, ngoài giao ước Chúa đã lập với họ tại Hô-rếp. Môi-se triệu tập toàn dân Y-sơ-ra-ên và nói với họ:Anh chị em đã thấy tận mắt tất cả những việc CHÚA đã làm trong xứ Ai-cập cho vua, cho toàn thể quần thần và toàn xứ đó. Anh chị em cũng đã thấy tận mắt những tai vạ khủng khiếp, những dấu kỳ phép lạ vĩ đại đó. Nhưng cho đến nay CHÚA chưa cho anh chị em trí để hiểu biết, mắt để thấy hay tai để nghe. Suốt bốn mươi năm tôi dẫn anh chị em đi qua sa mạc, áo xống anh chị em không sờn rách, giầy dép không hư mòn. Anh chị em không ăn bánh cũng không uống rượu nho hay thức uống có men nào khác. Chúa cung cấp cho anh chị em cách đặc biệt để anh chị em biết Ngài là CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em. Khi anh chị em đi đến chỗ này, Si-hôn vua Hết-bôn và Óc vua Ba-san đem quân ra đánh chúng ta nhưng chúng ta đã đánh bại họ, chiếm lấy xứ của họ và chia cho chi tộc Ru-bên, chi tộc Gát và phân nửa chi tộc Ma-na-se làm cơ nghiệp. Anh chị em phải cẩn thận làm theo các điều khoản của giao ước này để anh chị em được thành công trong mọi việc mình làm. Ngày nay, toàn thể anh chị em đang đứng trước sự hiện diện của CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, gồm có các chi tộc trưởng, các trưởng lão, các viên chức, tất cả nam công dân Y-sơ-ra-ên, cùng với vợ con anh chị em, ngay cả các ngoại kiều sống chung trong doanh trại, từ người đốn củi đến người xách nước. Anh chị em đứng đây để bước vào một giao ước với CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, là giao ước CHÚA sẽ lập với anh chị em hôm nay và anh chị em thề hứa làm trọn những quy định trong giao ước, để hôm nay Ngài xác nhận anh chị em là dân Chúa và Ngài là Đức Chúa Trời của anh chị em như Ngài đã hứa với anh chị em và đã thề với các tổ tiên anh chị em là Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp. CHÚA kêu gọi anh chị em hứa làm tròn những điều quy định trong giao ước này mà Ngài lập, chẳng những với anh chị em thôi đâu, nghĩa là chẳng những với tất cả chúng ta hiện đang đứng đây hôm nay trước mặt CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta mà còn với tất cả những con cháu chúng ta hiện chưa có mặt tại đây hôm nay nữa. Chính anh chị em đã biết rõ chúng ta sống trong xứ Ai-cập như thế nào và con đường chúng ta đi ngang qua các nước cho đến chỗ này. Anh chị em thấy các dân tộc đó thờ hình tượng đáng ghê tởm bằng gỗ, đá, bạc và vàng. Phải nhất quyết không một người nào, dù đàn ông hay đàn bà, không một chi tộc hay gia tộc nào có mặt hôm nay sẽ trở lòng lìa bỏ CHÚA, Đức Chúa Trời của đồng bào để đi thờ phượng thần của các dân tộc đó; phải nhất quyết đừng để rễ cay đắng độc hại đó đâm ra trong vòng anh chị em. Khi nghe các điều quy định trong giao ước này, đừng ai tự chúc phước cho mình, thầm nghĩ rằng: “Ta cứ tiếp tục đi theo đường lối riêng, ta sẽ bình an, không hề gì.” Thái độ đó chỉ mang tai họa đến trên đất được nhuần tưới cũng như trên đất khô. CHÚA sẽ không bao giờ tha thứ cho người ấy, nhưng cơn thịnh nộ và kỵ tà của Ngài sẽ cháy bùng lên nghịch với người ấy. Tất cả các lời nguyền rủa chép trong sách này sẽ giáng trên người và CHÚA sẽ xóa tên người ấy khỏi dưới trời. CHÚA sẽ tách rời người ấy khỏi các chi tộc Y-sơ-ra-ên để hứng lấy tai họa, theo các lời nguyền rủa của giao ước được ghi chép trong Sách Kinh Luật này. Dòng dõi anh chị em trong các thế hệ hậu lai và người ngoại quốc từ các xứ xa đến sẽ thấy các tai ương và các bệnh tật CHÚA đã dùng để hành hại xứ này. Họ sẽ thấy toàn xứ điêu tàn, chỉ có muối và lưu hoàng, đất đai không trồng trọt, không nứt mầm, không một thứ cây cỏ nào mọc, giống như Sô-đôm và Gô-mô-rơ, như Át-ma và Sê-bô-im là những thành CHÚA đã tiêu diệt trong cơn thịnh nộ kinh khiếp của Ngài, mọi dân tộc sẽ đặt câu hỏi: “Tại sao CHÚA làm cho xứ ra thế này? Tại sao có cơn thịnh nộ kinh khiếp như vậy?” Câu trả lời sẽ là: “Vì dân này đã phản bội giao ước CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ tiên họ đã thiết lập với họ khi Ngài đem họ ra khỏi xứ Ai-cập. Họ đi thờ phượng các thần khác, quỳ lạy các thần ấy, là thần họ chưa hề biết và Chúa cũng không cho phép họ thờ. Vì vậy, cơn giận của CHÚA cháy bùng lên nghịch đất này và Ngài giáng trên xứ tất cả sự nguyền rủa ghi chép trong sách này. Trong cơn giận dữ dội và cơn thịnh nộ kinh khiếp, CHÚA đã nhổ họ khỏi đất này và ném họ qua đất khác, như tình cảnh hiện nay.” Những điều huyền nhiệm chỉ có CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta biết. Nhưng những điều đã được khải thị, là những lời trong kinh luật này, thuộc về chúng ta và con cháu chúng ta đời đời, để chúng ta vâng giữ và làm theo. Khi tất cả các phước lành và tai họa tôi trình bầy đây đã xảy đến cho anh chị em và khi đang sống tại nơi CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã đày anh chị em tan lạc đến, anh chị em sẽ nhớ lại những điều tôi truyền; nếu lúc đó anh chị em cùng con cháu trở lại với CHÚA, Đức Chúa Trời của mình, hết lòng hết linh hồn vâng phục Ngài, làm theo mọi điều tôi truyền cho anh chị em hôm nay; thì CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sẽ giải cứu anh chị em khỏi cảnh lưu đày và đem anh chị em trở về. Chúa sẽ thương xót anh chị em và tập họp anh chị em lại từ những nơi Ngài đã phân tán anh chị em. Dù anh chị em đã bị đuổi đến xứ xa xăm tận cùng chân trời, CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em cũng sẽ tập họp anh chị em lại và đem anh chị em trở về. Chúa sẽ đem anh chị em về quê cha đất tổ, cho anh chị em chiếm hữu lại quê hương và cho anh chị em thịnh vượng đông đúc hơn trước. CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta sẽ ban cho anh chị em và con cháu anh chị em tấm lòng mềm mại, vâng phục để anh chị em hết lòng, hết linh hồn yêu kính Chúa để được sống. CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sẽ giáng các sự nguyền rủa này trên những người thù nghịch, ghen ghét và bức hại anh chị em. Anh chị em sẽ lại vâng phục CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em và làm theo các mạng lệnh Ngài mà tôi truyền lại cho anh chị em hôm nay. Khi đó CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sẽ làm cho anh chị em cực kỳ thịnh vượng trong mọi công việc tay mình làm. Anh chị em sẽ được con cháu đông đúc, bầy gia súc đầy đàn, hoa mầu dư dật. CHÚA đã vui vẻ ban phước cho tổ tiên anh chị em, Ngài cũng sẽ vui vẻ ban phước cho anh chị em. Nếu anh chị em vâng phục CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, giữ các mạng lệnh và luật lệ của Ngài đã được ghi chép trong Sách Kinh Luật này và hết lòng hết linh hồn trở về với CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em. Những điều tôi truyền cho anh chị em hôm nay không phải là điều quá khó khăn cho anh chị em, cũng không phải là điều anh chị em không với tới được. Cũng không phải là điều trên trời để anh chị em phải hỏi: “Ai sẽ lên trời đem điều ấy xuống công bố cho chúng tôi để chúng tôi vâng theo?” Nó cũng không ở bên kia biển để anh chị em phải hỏi: “Ai sẽ vượt biển đem về công bố cho chúng tôi để chúng tôi vâng theo?” Không, lời CHÚA rất gần anh chị em, ở trong miệng và trong lòng anh chị em, anh chị em chỉ cần vâng theo thôi. Hôm nay, tôi mời anh chị em lựa chọn giữa phước lành và tai họa, giữa sự sống và sự chết. Nếu anh chị em vâng giữ các điều răn, mạng lệnh và luật lệ của CHÚA mà tôi truyền cho anh chị em hôm nay, nếu anh chị em yêu kính CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta, đi theo các đường lối Ngài, vâng lời Ngài, anh chị em sẽ được sống và dân số anh chị em sẽ gia tăng. CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta sẽ ban phước cho anh chị em trong xứ anh chị em sắp vào chiếm hữu. Nhưng nếu anh chị em thay lòng đổi dạ, không chịu vâng lời và để bị lôi kéo đi cúi đầu thờ lậy các thần khác, thì hôm nay tôi tuyên bố với anh chị em rằng anh chị em chắc chắn phải bị tiêu diệt, không được sống lâu trong xứ anh chị em sắp chiếm hữu khi qua sông Giô-đanh. Hôm nay tôi kêu gọi trời đất làm chứng cho tôi rằng tôi đã mời anh chị em chọn lựa giữa sự sống hoặc sự chết, giữa phước lành hoặc rủa sả. Hãy chọn sự sống, để anh chị em và con cháu anh chị em được sống. Hãy yêu kính CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta, vâng lời Ngài, trung tín theo Ngài vì chỉ có Ngài mới có quyền ban sự sống. Rồi CHÚA sẽ cho anh chị em sống lâu trong xứ Ngài thề hứa ban cho tổ tiên của anh chị em là Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp. Sau đó Môi-se đi ra và nói các lời này với toàn dân Y-sơ-ra-ên: “Bây giờ tôi đã được một trăm hai mươi tuổi và không còn đủ sức lãnh đạo đồng bào nữa. CHÚA có phán dạy tôi: ‘Con sẽ không qua sông Giô-đanh.’ Chính CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sẽ qua sông trước anh chị em. Ngài sẽ tiêu diệt các dân tộc này trước mặt anh chị em và anh chị em sẽ chiếm hữu lãnh thổ của họ. Giô-suê sẽ hướng dẫn anh chị em qua sông theo lời CHÚA phán dạy. CHÚA sẽ làm cho các dân đó như Ngài đã làm cho Si-hôn và Óc, hai vua người A-mô-rít, khi Ngài tiêu diệt hai vua và xứ của họ. CHÚA sẽ giao nạp các dân tộc đó cho anh chị em và anh chị em phải đối đãi với họ theo lệnh tôi đã truyền. Phải mạnh mẽ can đảm lên. Đừng sợ hải kinh khiếp trước mặt các dân đó vì CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em cùng đi với anh chị em; Ngài không bao giờ xa lìa hay rời bỏ anh chị em đâu.” Nói xong, Môi-se cho mời Giô-suê đến và nói với ông trước mặt toàn dân Y-sơ-ra-ên: “Ông phải mạnh mẽ và can đảm, vì ông phải đi với toàn dân vào xứ CHÚA đã thề hứa ban cho họ và ông phải chia đất đó cho dân làm cơ nghiệp. Chính CHÚA sẽ đi trước ông và Ngài luôn ở với ông; Ngài không bao giờ xa lìa hay rời bỏ ông đâu. Ông đừng sợ hãi, đừng nản lòng.” Môi-se ghi xuống kinh luật của Đức Chúa Trời và trao lại cho các thầy tế lễ, các người Lê-vi là người khiêng Rương Giao Ước của CHÚA và cho tất cả các trưởng lão Y-sơ-ra-ên. Ông truyền cho họ: “Cuối mỗi bảy năm, tức là năm tha nợ, nhân dịp Lễ Lều Tạm, khi toàn dân Y-sơ-ra-ên đến thờ phượng CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta tại địa điểm của Ngài sẽ chọn, các ông phải đọc lớn tiếng cho họ nghe kinh luật này. Phải triệu tập toàn dân, kể cả đàn ông, đàn bà, trẻ con và ngoại kiều sống trong các thành của anh chị em, để họ có thể nghe và học tập kính sợ CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em và cẩn thận làm theo mọi lời của kinh luật này. Con cháu anh chị em là những người chưa biết kinh luật này, phải nghe và phải học tập kính sợ CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em suốt thời gian sống trong xứ đồng bào sẽ chiếm hữu sau khi qua sông Giô-đanh.” CHÚA phán dạy Môi-se: “Ngày qua đời của con đã gần. Con gọi Giô-suê rồi cả hai đến trình diện với Ta tại Trại Hội Kiến, tại đó Ta sẽ giao trách nhiệm cho Giô-suê.” Vậy Môi-se và Giô-suê đến trình diện tại Trại Hội Kiến. CHÚA hiện ra tại Trại Hội Kiến, trong trụ mây và mây dừng trên cửa Trại. CHÚA phán với Môi-se: “Con sắp được an nghỉ với các tổ tiên, bấy giờ dân này sẽ thờ cúng các thần khác trong xứ mà họ sắp vào. Họ sẽ lìa bỏ Ta và vi phạm giao ước Ta đã lập với họ. Lúc đó, Ta sẽ nổi giận và lìa bỏ họ; Ta sẽ che giấu mặt Ta khỏi họ và họ sẽ trở thành mồi cho các dân tộc khác. Họ sẽ gặp nhiều tai họa khốn khổ, bấy giờ họ sẽ hỏi: ‘Phải chăng chúng ta gặp các tai nạn này vì Đức Chúa Trời không còn ở với chúng ta nữa?’ Nhưng lúc đó Ta chắc chắn sẽ giấu mặt Ta, vì tất cả những tội ác họ phạm khi đi theo các thần khác. Vậy bây giờ con ghi xuống bài ca này và dạy toàn dân Y-sơ-ra-ên hát, họ phải học thuộc bài ca này, để bài ca này làm chứng cho Ta nghịch với họ. Sau khi Ta đã đem họ vào trong xứ tràn trề sữa và mật ong, là xứ Ta đã thề hứa ban cho các tổ tiên họ và khi họ đã no béo, họ sẽ quay đi phục vụ các thần khác, khinh dể Ta và vi phạm giao ước Ta. Khi họ gặp nhiều tai họa khốn khổ, bài ca này sẽ làm chứng buộc tội họ, vì con cháu họ sẽ không quên bài ca này đâu. Ta biết điều họ định làm ngay trước khi Ta đem họ vào xứ Ta thề hứa ban cho họ.” Vậy, hôm đó Môi-se ghi chép bài ca này và đem dạy cho dân Y-sơ-ra-ên. CHÚA truyền mạng lệnh này cho Giô-suê, con trai Nun: “Con phải mạnh mẽ can đảm, vì con sẽ đem dân Y-sơ-ra-ên vào xứ Ta đã thề hứa ban cho họ. Chính mình Ta sẽ ở với con.” Khi đã chép xong mọi lời của kinh luật này từ đầu đến cuối vào một cuốn sách, Môi-se bảo những người Lê-vi khiêng Rương Giao Ước của CHÚA rằng: “Đem cuốn sách này để một bên Rương Giao Ước của CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em. Sách sẽ cứ ở đó để làm chứng nghịch với anh chị em, vì tôi biết anh chị em rất phản trắc và cứng cổ. Ngay khi tôi còn sống và còn ở với anh chị em mà anh chị em còn phản trắc với CHÚA như vậy, huống chi khi tôi qua đời rồi, anh chị em còn phản trắc đến chừng nào nữa! Hãy triệu tập tất cả các trưởng lão và viên chức các chi tộc, để tôi kêu gọi trời đất chứng giám và nói những lời này cho họ nghe. Tôi biết rằng sau khi tôi qua đời, anh chị em sẽ hết sức hư hỏng, lìa khỏi con đường tôi đã truyền dạy. Trong tương lai, anh chị em sẽ chọc giận CHÚA, làm điều ác, không đẹp lòng CHÚA và tai họa sẽ giáng trên anh chị em.” Sau đó, Môi-se đọc các lời của bài ca này, từ đầu đến cuối cho toàn dân Y-sơ-ra-ên nghe: Hỡi các tầng trời, hãy nghe đây, tôi sẽ nói:Hỡi đất, xin nghe lời của miệng tôi. Xin cho huấn thị tôi rơi xuống như mưa,Lời tôi buông nhẹ như sương sa,Như mưa lất phất trên cỏ non,Như mưa tầm tã trên đồng xanh. Tôi tung hô danh CHÚA,Hãy cùng tôi ca tụng Đức Chúa Trời, Ngài vĩ đại vô cùng. Chúa là Vầng Đá che chở, việc Ngài làm luôn toàn hảo,Đường lối Chúa chính là công lý.Ngài là Đức Chúa Trời thành tín không hề gian dối,Ngài đời đời chính trực công minh. Nhưng anh chị em hư hỏng,Nhuốc nhơ, gian dối và lừa đảo,Không xứng đáng là con Ngài nữa. Hỡi dân khờ dại và thiếu suy xét,Anh chị em đền ơn Chúa cách đó sao?CHÚA là Cha, là Đấng Tạo Hóa,Đấng sáng tạo, lập anh chị em thành một dân tộc. Hãy nhớ lại những ngày xa xưa,Suy nghĩ đến các thế hệ đã qua.Hỏi thân sinh, người sẽ trả lời,Hỏi các trưởng lão, họ sẽ giải thích. Khi Đấng Chí Cao phân chia lãnh thổ cho các dân,Khi Ngài phân tán dòng dõi A-đam,Ngài ấn định ranh giới cho mọi dân tộc,Căn cứ trên dân số Y-sơ-ra-ên. Nhưng phần của CHÚA là dân Ngài,Gia-cốp là sản nghiệp của Ngài. Chúa tìm thấy dân Ngài trong sa mạc,Giữa hoang dã với tiếng gào thét quạnh hiu.Chúa bao phủ, chăm sóc người,Che chở người chẳng khác gì con ngươi mắt Ngài. Như chim phụng hoàng khuấy động tổ mình,Bay lượn qua lại quanh con mình,Dang rộng cánh ra hứng đỡ,Rồi cõng chim con trên hai cánh. Một mình CHÚA hướng dẫn dân Ngài,Không có thần nào khác. Ngài cho anh chị em định cư trên vùng cao nguyên,Nuôi anh chị em với hoa lợi của ruộng nương.Cho ăn mật ong lấy từ vầng đá,Từ đá lửa Chúa làm chảy ra dầu. Đàn bò và chiên dê cho anh chị em sữa và sữa chua,Anh chị em ăn thịt béo của chiên con,Chiên đực, dê đực vùng Ba-san.Anh chị em ăn lúa mì thượng hạng.Uống rượu nho nguyên chất đỏ như máu. Vừa mập béo Giê-su-run đã tung chân đá,Khi anh chị em béo tốt, mập mạp, no tròn,Anh chị em lìa bỏ ngay CHÚA, là Đấng dựng nên mình,Khinh dể Ngài, là Vầng Đá Cứu Tinh. Họ đem thần lạ trêu chọc Đấng kỵ tà,Làm Chúa giận với hình tượng Ngài ghê tởm. Họ dâng tế lễ cho quỷ, không phải là Đức Chúa Trời,Thờ thần họ chưa hề hay biết,Thần xa lạ từ đâu vừa xuất hiện,Là những thần tổ phụ chẳng nể kiêng. Ngươi chối bỏ Vầng Đá là Cha ngươi,Quên bẵng đi Đức Chúa Trời, Đấng sinh thành. CHÚA thấy cả nên Ngài nổi giận,Từ bỏ cả con trai lẫn con gái. Chúa phán: “Ta giấu mặt Ta, không nhìn họ,”“Để xem rút cuộc chúng ra sao,Họ chỉ là dòng dõi gian tà,Là đứa con không có lòng trung tín. Chúng chọc Ta ghen tức với thần không giá trị,Làm Ta giận với tượng hình chẳng ra chi.Vậy Ta sẽ làm chúng ghen với một dân hèn kém,Chọc chúng giận bởi một nước dại khờ. Lửa giận Ta đã cháy phừng phừng,Lửa thiêu luôn cho đến tận âm ti.Lửa nuốt cả đất đai và thổ sản,Lửa thiêu núi, cháy tận đến nền. Tai vạ trên chúng, Ta chồng chất,Bắn vào chúng, Ta không chừa một mũi tên. Ta sai nạn đói làm chúng tiêu hao,Đem nóng cháy khiến chúng kiệt quệ,Sai bệnh dịch đến gây chết chóc.Sai thú rừng đến nhe răng cắn xé,Sai rắn độc bò đến gieo tử vong. Ngoài đường phố, gươm tàn sát con cái,Còn trong nhà là cảnh khiếp sợ triền miên.Thanh niên, thiếu nữ, người già, con trẻ,Cũng đều bị diệt vong. Ta phán: Ta sẽ phân tán họ,Xóa sạch kỷ niệm họ khỏi loài người. Nhưng e ngại kẻ thù kia chế nhạo,Và cừu địch cũng sẽ hiểu lầm,Cho rằng: ‘Nhờ tay ta nên ta đắc thắng,Chứ CHÚA đâu có nhúng tay vào.’” Anh chị em là một dân không hiểu biết,Thiếu sáng suốt. Nếu khôn ngoan, anh chị em đã hiểu điều nàyVà ý thức chung cuộc ra sao. Làm sao một người đuổi cả ngàn,Hai người rượt mười ngàn người trốn chạy,Nếu CHÚA là vầng đá không bán anh chị em,Không nạp anh chị em cho kẻ thù? Chính quân thù cũng phải thú nhận:Hòn đá che chở chúng nó đâu sánh nổi Vầng Đá chúng ta. Quân thù là cây nho mọc ở Sô-đôm,Trong cánh đồng Gô-mô-rơ.Trái nho họ chứa đầy chất độc,Chùm nho họ toàn những đắng cay. Rượu nho họ là nọc rắn,Nọc độc chết người của rắn hổ mang. CHÚA phán: “Này Ta ghi nhớ mọi sự,Và giữ trong kho báu của Ta? Vì báo ứng là phần của Ta, Ta sẽ báo đáp,Đúng thời điểm chân chúng nó ngả nghiêng,Ngày tai họa của chúng đã gần,Cảnh diệt vong vụt đến rất nhanh.” CHÚA sẽ xét xử dân Ngài,Xót thương các tôi tớ Ngài,Khi Chúa thấy sức họ kiệt quệ,Nô lệ, tự chủ chẳng còn lại một ai. Chúa sẽ hỏi: “Nào thần chúng nó ở đâu?Vầng đá chúng nó trú ẩn, Các thần ăn mỡ lễ vật chúng nó dâng lên,Và uống rượu lễ quán, bây giờ đâu cả?Sao không đứng lên giúp đỡ,Sao không che chở bảo toàn? Hãy nhìn xem, chính Ta là Đức Chúa Trời,Ngoài Ta ra, không có thần nào khác.Ta khiến chết, Ta bảo tồn mạng sống,Ta đánh bị thương và Ta cũng chữa lành,Nào có ai giải thoát khỏi tay Ta. Ta đưa tay chỉ trời và công bố:‘Thật như Ta hằng sống đời đời,’ Khi đã mài lưỡi gươm sáng loà,Tay nắm gươm Ta ngồi toà xét xử,Báo ứng thù nghịch,Báo trả những ai vẫn thù ghét Ta. Mũi tên Ta say máu,Lưỡi gươm Ta ăn thịt,Máu của thương binh lẫn tù nhân,Chặt đầu tóc dài của quân địch.” Muôn nước ơi! Hãy vui lên cùng dân Chúa,Chúa sẽ báo trả huyết của tôi tớ Ngài,Chúa sẽ báo ứng quân thù,Tha tội cho dân Chúa và cho lãnh thổ Ngài. Môi-se và Giô-suê, con trai của Nun, đọc tất cả những lời của bài ca này cho toàn dân nghe. Sau khi đọc xong các lời này cho cả cộng đồng Y-sơ-ra-ên, Môi-se căn dặn họ: “Anh chị em phải nhớ nằm lòng những lời tôi long trọng công bố với anh chị em hôm nay, để anh chị em có thể dạy bảo con cái cẩn thận làm theo mọi lời của kinh luật này. Đây không phải là những lời nói suông, nhưng là sự sống còn của anh chị em. Nhờ lời này anh chị em có thể sống lâu trong xứ anh chị em sắp chiếm hữu sau khi qua sông Giô-đanh.” Cùng ngày hôm ấy, CHÚA bảo Môi-se: “Con lên núi Nê-bô, thuộc rặng núi A-ba-rim trong xứ Mô-áp, đối diện Giê-ri-cô, để quan sát xứ Ca-na-an, là xứ Ta sắp ban cho dân Y-sơ-ra-ên làm cơ nghiệp. Con sẽ qua đời trên núi con sắp leo lên và được đem về với dân con, như A-rôn anh con đã qua đời trên núi Hô-rơ và được tiếp về với dân người. Lý do là vì anh con và con đã thất tín với Ta trước mặt dân Y-sơ-ra-ên tại suối nước Mê-ri-ba vùng Ca-đê, trong sa mạc Xin, và vì hai con không tôn thánh Ta giữa dân Y-sơ-ra-ên. Vì vậy, con chỉ được nhìn xem từ đằng xa nhưng không được vào xứ Ta sắp ban cho dân Y-sơ-ra-ên.” Sau đây là lời chúc phước lành của Môi-se, người của Đức Chúa Trời, đã công bố về Y-sơ-ra-ên trước khi qua đời. Ông nói:“CHÚA từ Si-nai đến,Từ Sê-i-rơ Chúa là ánh bình minh soi rạng trên dân Ngài,Từ núi Pha-ran, Chúa chói sáng rực rỡ,Chúa đến với muôn vàn vị thánh,Lửa luật pháp phát ra từ tay phải Ngài. Chúa yêu thương dân mình,Các thánh đều được Chúa bảo vệ trong tay Ngài,Dưới chân Chúa, họ cúi đầu phủ phục,Để tiếp nhận chỉ thị của Ngài, Là kinh luật Môi-se đã truyền lại,Là cơ nghiệp của cộng đồng Gia-cốp. Chúa là Vua của Giê-su-run,Khi các cấp lãnh đạo của dân hội họp,Với các chi tộc Y-sơ-ra-ên. Nguyện cho Ru-bên được sống, không bao giờ tuyệt giống,Dù Ru-bên chỉ có ít người.” Môi-se nói về Giu-đa như sau:“CHÚA ôi, xin nghe tiếng cầu cứu của Giu-đa,Đem người về với dân mình.Với tay mình người tự bảo vệ,Chúa ôi, xin giúp người chống lại quân thù.” Môi-se nói về Lê-vi như sau:“CHÚA bày tỏ ý muốn Ngài qua Thu-mim và U-rim,Giao cho người trung thành cất giữ,Chúa thử thách người ở Ma-sa,Và thử lòng người tại suối Mê-ri-ba. Lê-vi yêu kính CHÚA:Hơn cả cha mẹ,Anh chị em và con cái,Nhưng chỉ chú tâm vâng lời Chúa,Và gìn giữ giao ước Ngài. Người dạy mạng lệnh Chúa cho Gia-cốp,Và kinh luật Chúa cho Y-sơ-ra-ên,Người đốt hương trước mặt Chúa,Dâng tế lễ thiêu trên bàn thờ Ngài. Lạy CHÚA, xin ban sức mới cho người,Ban phước trên mọi công việc người làm.Xin đánh bể hông kẻ nổi dậy nghịch người,Triệt hạ kẻ thù người để chúng không ngóc đầu lên được.” Môi-se nói về Bên-gia-min như sau:“Nguyện người CHÚA yêu dấu,Được nghỉ an toàn trong NgàiChúa che chở người suốt ngày,Phải, người Chúa yêu được ở giữa hai vai Ngài.” Môi-se nói về Giô-sép như sau:“Nguyện CHÚA ban phước cho xứ người,Với sương móc quý từ trời sa xuống,Với mạch nước phun lên từ nơi sâu thẳm, Với sản phẩm hảo hạng của mặt trời,Và những gì tốt nhất mặt trăng đem lại, Rừng cây thơm ngát của núi ngàn xưa,Cùng hoa quả của các đồi vĩnh cửu; Nguyện Đấng hiện ra trong bụi gai,Ban ân huệ cho đất đai trù phú, hoa lợi dồi dào.Nguyện mọi phước lành tuôn tràn trên đầu Giô-sép,Trên trán của người đứng đầu các anh em. Người oai nghi lẫm liệt như bò đực đầu lòng,Sừng người chính là sừng của bò rừng,Người dùng sừng báng các dân tộc,Cả những dân ở tận cùng trái đất.Đó là hàng vạn quân của Ép-ra-im,Hàng ngàn người của Ma-na-se.” Môi-se nói về Sa-bu-luân như sau:“Sa-bu-luân, hãy vui mừng khi tàu bè rời bến,Y-sa-ca hãy hớn hở trong lều trại mình. Anh chị em sẽ mời các dân lên núi,Và tại đó dâng tế lễ theo nghi thức Chúa dạy;Vì anh chị em hưởng tài nguyên phong phú của biểnVà các kho tàng chôn vùi dưới cát.” Môi-se nói về Gát như sau:“Ca tụng Đấng mở rộng bờ cõi Gát,Gát sống như con sư tử cái,Xé nát mồi cả tay lẫn đầu. Người chọn cho mình phần đất tốt nhất,Là phần dành cho nhà lãnh đạo.Khi các cấp lãnh đạo nhân dân hội họp,Người sẽ thực thi ý muốn công chính của Đức Chúa Trời,Và phán quyết của Ngài cho dân Y-sơ-ra-ên.” Môi-se nói về Đan như sau:“Đan là sư tử tơ,Từ Ba-san nhảy vọt tới.” Môi-se nói về Nép-ta-li như sau:“Nép-ta-li ngập tràn ân huệ của CHÚA,Và đầy dẫy phước hạnh của Ngài;Người chiếm hữu cả miền tây lẫn miền nam.” Môi-se nói về A-se như sau:“Nguyện A-se được phước hơn các chi tộc khác,Xin cho người được anh em mến chuộng,Được dầm chân trong dầu, Các cổng thành được gài then đồng then sắt,Và sức mạnh người so bằng tuổi thọ. Nào có ai như Đức Chúa Trời của Giê-ru-sun,Đấng cỡi các từng trời đến cứu giúp ngươi,Trên các áng mây, Ngài oai nghiêm tuyệt đỉnh. Đức Chúa Trời vĩnh cửu là nơi ngươi trú ẩn,Bên dưới ngươi có tay đời đời của Ngài nâng đỡ,Ngài đánh đuổi quân thù trước mặt ngươi,Rồi bảo ngươi rằng: ‘Hãy diệt chúng đi’, Nhờ vậy Y-sơ-ra-ên sẽ sống an toàn,Gia-cốp ở riêng biệt trong một xứ,Đầy tràn hoa mầu và rượu nho mới,Xứ đượm nhuần sương móc từ trời. Y-sơ-ra-ên ơi, ngươi là dân được phước,Ai giống như ngươi,Một dân được Chúa cứu?Chúa là thuẫn che chở, là Đấng cứu giúp ngươi,Là thanh gươm cho ngươi đắc thắng vẻ vang.Quân thù sẽ phủ phục trước mặt ngươi,Còn ngươi sẽ chà đạp trên lưng chúng nó.” Từ đồng bằng Mô-áp, Môi-se lên đỉnh Phích-ga của núi Nê-bô, đối diện Giê-ri-cô. Tại đó, CHÚA chỉ cho ông xem toàn xứ, từ Ga-la-át cho đến Đan, toàn xứ Nép-ta-li, lãnh thổ của Ép-ra-im và Ma-na-se, toàn lãnh thổ của Giu-đa cho đến tận biển Tây, vùng Nê-ghép và toàn thể vùng đồng bằng từ thung lũng Giê-ri-cô là thành Chà-là, cho đến tận Xoa. CHÚA phán với ông: “Đây là xứ Ta đã thề hứa với Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp khi Ta bảo họ: ‘Ta sẽ ban xứ này cho con cháu ngươi.’ Ta cho con xem thấy tận mắt, nhưng con sẽ không được vào đó.” Vậy, Môi-se tôi tớ CHÚA qua đời trong đất Mô-áp, như CHÚA đã phán. Ngài chôn ông tại thung lũng đối diện Bết Phê-ô, trong xứ Mô-áp, nhưng mãi đến nay không ai biết mộ của ông đâu cả. Môi-se qua đời lúc ông được một trăm hai mươi tuổi, nhưng mắt ông không làn, sức ông không giảm. Dân Y-sơ-ra-ên thương khóc ông trong đồng bằng Mô-áp suốt ba mươi ngày, là thời kỳ thương khóc và chịu tang Môi-se. Giô-suê con trai của Nun được đầy dẫy thần trí khôn ngoan, vì Môi-se có đặt tay trên ông. Như vậy toàn dân Y-sơ-ra-ên vâng phục Giô-suê và làm theo điều CHÚA đã truyền dạy Môi-se. Về sau, trong dân Y-sơ-ra-ên không có tiên tri nào như Môi-se, là người được CHÚA biết mặt đối mặt, Ngoài Môi-se ra không có tiên tri nào được CHÚA sai thực hiện những dấu kỳ, phép lạ như vậy trong xứ Ai-cập, trước mặt vua, tất cả quần thần và toàn dân Ai-cập. Không một ai bầy tỏ quyền năng phi thường hay làm những việc vĩ đại đáng kinh sợ như công việc Môi-se đã làm trước mắt toàn dân Y-sơ-ra-ên. Sau khi Môi-se, đầy tớ CHÚA qua đời. CHÚA phán dạy Giô-suê, con trai của Nun, phụ tá của Môi-se: “Môi-se, đầy tớ Ta, đã chết, bây giờ con và tất cả nhân dân hãy sẵn sàng đi qua sông Giô-đanh, vào xứ mà Ta sắp ban cho dân Y-sơ-ra-ên. Bất luận nơi nào bàn chân con đạp đến thì Ta ban cho các con, như Ta đã hứa với Môi-se. Lãnh thổ các con sẽ trải rộng từ sa mạc và núi Li-ban cho đến Sông Lớn, tức là sông Ơ-phơ-rát, cả nước của người Hê-tít đến tận Biển Lớn phía tây. Suốt đời con, chẳng có ai có thể đứng lên chống lại con. Như Ta đã ở cùng Môi-se, Ta sẽ ở cùng con, Ta sẽ không bao giờ lìa con hay bỏ con đâu. Con hãy mạnh dạn và can đảm lên vì con sẽ lãnh đạo dân này vào hưởng đất mà Ta đã thề ban cho tổ phụ họ. Con hãy mạnh dạn và cực kỳ can đảm! Hãy cẩn thận vâng giữ tất cả kinh luật mà Môi-se, đầy tớ Ta, đã truyền cho con. Đừng xây qua bên hữu hoặc bên tả, ngõ hầu con được thành công bất cứ nơi nào con đến. Quyển sách kinh luật này chớ xa miệng con, hãy suy gẫm ngày và đêm hầu cho cẩn thận làm theo mọi điều đã chép trong sách; vì như vậy đường lối con mới được thịnh vượng và thành công. Ta há không có truyền lệnh cho con sao? Hãy mạnh dạn và can đảm lên. Đừng sợ hãi, đừng nản lòng, vì CHÚA, Đức Chúa Trời con sẽ ở với con trong mọi nơi con đi.” Vậy, Giô-suê ra lệnh cho các người lãnh đạo của dân: “Các ngươi hãy đi khắp toàn quân và bảo nhân dân: ‘Hãy sắm sửa lương thực. Vì ba ngày nữa các ngươi sẽ từ đây vượt qua sông Giô-đanh để vào chiếm hữu xứ mà CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi ban cho các ngươi.’” Giô-suê cũng bảo người Ru-bên, người Gát và phân nửa chi tộc Ma-na-se rằng: “Hãy nhớ lại điều Môi-se, đầy tớ CHÚA, đã dặn các ngươi khi người nói rằng: ‘CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi cho các ngươi được an nghỉ và đã ban xứ này cho các ngươi. Vợ, con nhỏ và bầy gia súc các ngươi có thể ở lại trong xứ mà Môi-se đã ban cho các ngươi ở phía đông sông Giô-đanh, nhưng tất cả các nam chiến sĩ trang bị khí giới đầy đủ, phải vượt qua sông trước anh em các ngươi. Các ngươi phải giúp đỡ anh em các ngươi đến khi nào CHÚA cho họ an nghỉ như Ngài đã cho các ngươi, và đến khi nào họ cũng đã nhận được đất đai mà CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi ban cho họ. Sau đó, các ngươi sẽ trở về xứ mình, là xứ mà Môi-se, đầy tớ của CHÚA, đã ban cho các ngươi ở phía bên này sông Giô-đanh, về hướng mặt trời mọc, rồi các ngươi sẽ chiếm hữu xứ ấy.’” Những người ấy thưa với Giô-suê: “Chúng tôi sẽ làm mọi điều ông dặn biểu và đi khắp nơi nào ông sai chúng tôi đi. Chúng tôi sẽ vâng theo ông trong mọi việc y như đã vâng theo Môi-se. Chỉ mong CHÚA, Đức Chúa Trời ông ở cùng ông như Ngài đã ở cùng Môi-se. Bất cứ ai phản bác lời ông và bất tuân lệnh của ông trong bất cứ việc gì, thì sẽ bị xử tử. Chỉ xin ông hãy mạnh dạn và can đảm.” Giô-suê, con trai Nun bí mật sai hai thám tử ra đi từ Si-tim, ông bảo họ: “Hãy đi trinh sát đất đai, nhất là thành Giê-ri-cô.” Vậy, hai thám tử đi đến nhà của một gái mãi dâm tên là Ra-háp và trọ tại đó. Người ta tâu với vua Giê-ri-cô rằng: “Kìa, đêm nay có người Y-sơ-ra-ên đến trinh sát đất nước chúng ta.” Vua Giê-ri-cô sai người ra lệnh cho Ra-háp: “Hãy đem hai người đã vào nhà ngươi ra ngoài, vì họ đến để trinh sát đất nước chúng ta.” (nhưng Ra-háp đã đem giấu hai người này). Chị đáp: “Vâng, các anh ấy đã đến nhà tôi, nhưng tôi không biết họ từ đâu đến. Lúc gần tối, cổng thành gần đóng thì hai người đi ra, tôi không biết đi đâu cả; xin cứ đuổi theo gấp thì các ông sẽ theo kịp được.” (Nhưng Ra-háp đem họ lên mái nhà và giấu dưới những cọng lanh mà chị đã rải ở trên mái.) Vậy, những người tầm nã đuổi theo các thám tử trên đường đi tới chỗ cạn của sông Giô-đanh. Vừa khi họ ra đi, cổng thành đóng lại. Trước khi hai thám tử nằm ngủ, Ra-háp leo lên mái nhà mà thưa rằng: “Tôi biết CHÚA đã ban đất nước này cho các ông; chúng tôi vô cùng kinh hoàng; tất cả dân chúng trong nước này đều khiếp sợ các ông. Chúng tôi được tin khi các ông ra khỏi Ai-cập, CHÚA đã khiến nước Biển Đỏ bầy ra khô trước mặt các ông, và điều các ông đối xử với Si-hôn và Óc, là hai vua của dân A-mô-rít ở bên kia sông Giô-đanh, mà các ông đã tuyệt diệt. Chúng tôi có hay điều đó, lòng bèn tan ra như nước, chẳng ai trong chúng tôi còn can đảm chống lại các ông nữa, vì CHÚA, Đức Chúa Trời các ông là Đức Chúa Trời ở trên trời cao kia và ở dưới đất thấp này. Vậy, bây giờ vì tôi đối xử nhân hậu với hai ông, xin hai ông cũng phải đối xử nhân hậu lại cho nhà cha tôi. Hãy chỉ CHÚA mà thề cùng tôi và cho một dấu hiệu quả quyết là các ông sẽ để cha mẹ, anh em, chị em tôi và tất cả bà con của họ đều được sống, cũng cứu chúng tôi khỏi chết.” Hai thám tử đáp: “Mạng sống chúng ta đánh đổi các mạng sống của chị. Nếu chị không tiết lộ việc của chúng tôi thì chúng tôi sẽ đãi chị nhân hậu và thành tín khi CHÚA ban đất nước này cho chúng tôi.” Vậy, Ra-háp dùng một sợi dây dòng hai thám tử xuống nơi cửa sổ vì nhà chị ở ngay trên vách thành. Ra-háp nói: “Hãy leo lên núi, kẻo những người đuổi theo bắt gặp các ông; hãy trú ẩn ở đó ba ngày cho đến chừng nào những người tầm nã trở về, sau rồi các ông sẽ lên đường.” Hai người bảo Ra-háp: “Đây là cách chúng ta thực thi lời thề mà nàng đã bắt chúng ta thề; Khi nào chúng tôi vào xứ, chị phải cột sợi dây đỏ này nơi cửa sổ mà chị đã dòng chúng tôi xuống, rồi tập họp cha mẹ, anh em và tất cả bà con của chị ở trong nhà mình. Bất luận ai trong số người đó đi ra khỏi cửa nhà chị, thì huyết người ấy sẽ đổ lại trên đầu mình, còn chúng tôi vô tội; nhưng nếu ai đưa tay đánh giết người nào đang ở cùng chị trong nhà, thì huyết người ấy sẽ đổ lại trên đầu chúng tôi. Còn nếu chị tiết lộ việc của chúng tôi, chắc chắn chúng tôi sẽ khỏi mắc lời thề mà chị đã bắt chúng tôi thề.” Ra-háp đáp: “Xin cứ theo lời hai ông đã nói.” Rồi Ra-háp cho hai thám tử ra đi, hai ông liền đi. Ra-háp cột sợi dây nơi cửa sổ mình. Vậy, hai thám tử đi lên núi, ở đó ba ngày cho đến khi những người tầm nã mình quay về. Những người đó kiếm họ suốt đường nhưng không gặp. Hai thám tử liền đi xuống núi trở về; khi họ qua sông Giô-đanh rồi, đến gần Giô-suê, con trai Nun, mà thuật lại cho ông mọi điều đã xảy ra. Hai ông thưa với Giô-suê: “Quả thật CHÚA đã phó cả xứ này vào tay chúng ta, lòng của các dân tộc ấy đều tan ra như nước vì khiếp sợ chúng ta.” Sáng hôm sau, Giô-suê và toàn dân Y-sơ-ra-ên dậy sớm rời Si-tim đến bờ sông Giô-đanh và cắm trại tại đó trước khi vượt qua sông. Sau ba ngày, các viên chức đi suốt trại quân ra lệnh cho nhân dân: “Khi nào các ngươi thấy Rương Giao Ước của CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi dời chỗ, tức là khi các thầy tế lễ người Lê-vi khiêng rương ấy ra đi, thì các ngươi hãy rời chỗ mình đang ở và đi theo Rương ấy. Nhưng phải giữ một khoảng cách với Rương độ 900m, chứ không được đến gần ngõ hầu các ngươi biết đường phải đi, vì các ngươi chưa đi qua đường này bao giờ.” Giô-suê bảo dân chúng: “Hãy tự thánh hóa mình, vì ngày mai CHÚA sẽ làm những việc diệu kỳ giữa các ngươi.” Ông cũng bảo các thầy tế lễ: “Hãy khiêng Rương Giao Ước và đi trước nhân dân.” Họ khiêng Rương Giao Ước lên và ra đi trước toàn dân. CHÚA phán dạy Giô-suê: “Hôm nay Ta sẽ bắt đầu tôn trọng con trước mặt toàn dân Y-sơ-ra-ên, để họ biết Ta ở với con như Ta đã ở với Môi-se. Con hãy ra lệnh cho các thầy tế lễ khiêng Rương Giao Ước: ‘Khi các ngươi đến bờ sông Giô-đanh, hãy đứng dưới sông.’” Giô-suê bảo dân Y-sơ-ra-ên: “Hãy lại gần đây để nghe lời của CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi.” Giô-suê tiếp: “Nhờ việc này, các ngươi sẽ ý thức rằng Đức Chúa Trời hằng sống đang ngự giữa các ngươi, chắc chắn Ngài sẽ đuổi khỏi trước mặt các ngươi các dân Ca-na-an, Hê-tít, Hê-vít, Phê-rê-sít, Ghi-rê-ga-sít, A-mô-rít và Giê-bu-sít. Kìa Rương Giao Ước của CHÚA của cả địa cầu sẽ đi qua trước các ngươi vào sông Giô-đanh. Bây giờ, hãy chọn mười hai người trong các chi tộc Y-sơ-ra-ên, mỗi chi tộc một người. Khi nào các thầy tế lễ khiêng Rương Giao Ước của CHÚA là Chúa Tể trời đất vừa đặt chân xuống nước sông Giô-đanh, nước sông sẽ chia làm hai, dòng nước từ nguồn chảy về sẽ ngưng đọng và tụ lại thành một khối.” Khi nhân dân nhổ trại để qua sông Giô-đanh, các thầy tế lễ khiêng Rương Giao Ước đi trước toàn dân. Lúc ấy, nước sông Giô-đanh dâng ngập các bờ suốt mùa gặt. Khi các thầy tế lễ khiêng Rương Giao Ước vừa đến bờ sông, chân họ vừa chạm đến mé nước, nước sông từ nguồn đổ xuống liền ngừng chảy. Nước dồn lại thành một khối trên một khoảng rất dài ngang thành A-đam, gần Xát-than, trong khi nước hạ lưu cứ chảy xuống Biển A-ra-ba (tức biển Muối). Như thế, nhân dân kéo qua sông, trực chỉ Giê-ri-cô. Các thầy tế lễ khiêng Rương Giao Ước của CHÚA đứng vững vàng trên đất khô giữa lòng sông Giô-đanh, trong khi dân Y-sơ-ra-ên đi qua sông như trên đất khô, cho đến khi toàn dân đều qua hết. Khi toàn dân đã qua sông Giô-đanh, CHÚA phán dạy Giô-suê: “Con hãy chọn mười hai người dân, mỗi chi tộc một người, bảo họ lấy mười hai tảng đá giữa sông Giô-đanh ngay tại chỗ các thầy tế lễ đang đứng và khiêng theo các con rồi đặt tại nơi các con nghỉ đêm nay.” Vậy, Giô-suê tập họp mười hai người ông đã chỉ định trong vòng dân Y-sơ-ra-ên, mỗi chi tộc một người và bảo họ: “Các ngươi hãy đi trước Rương Giao Ước của CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi mà xuống tận giữa sông Giô-đanh. Mỗi người trong các ngươi hãy khiêng một tảng đá trên vai, đúng theo số các chi tộc Y-sơ-ra-ên để dùng làm dấu chứng giữa các ngươi. Về sau, khi con cháu các ngươi hỏi: ‘Các tảng đá này có nghĩa gì?’ thì hãy thuật cho chúng về dòng nước sông Giô-đanh bị phân rẽ ra trước Rương Giao Ước của CHÚA; khi Rương qua sông Giô-đanh, nước sông chia đôi và các tảng đá này dùng làm đài kỷ niệm đời đời cho con dân Y-sơ-ra-ên.” Vậy, dân Y-sơ-ra-ên làm theo những điều Giô-suê truyền bảo. Họ lấy mười hai tảng đá giữa sông Giô-đanh, theo số các chi tộc Y-sơ-ra-ên như CHÚA đã phán dạy Giô-suê. Họ khiêng đá theo đến nơi hạ trại thì đặt xuống đó. Giô-suê lấy mười hai tảng đá từ giữa lòng sông Giô-đanh đem dựng lên tại nơi các thầy tế lễ khiêng Rương Giao Ước đã đứng. Các tảng đá vẫn còn đó cho đến ngày nay. Các thầy tế lễ khiêng Rương Giao Ước cứ dừng chân giữa lòng sông Giô-đanh cho đến khi mọi điều CHÚA phán dạy Giô-suê được dân Y-sơ-ra-ên hoàn tất, đúng như Môi-se đã dặn bảo Giô-suê. Nhân dân vội vã kéo qua sông. Vừa khi tất cả đều qua sông hết, Rương Giao Ước của CHÚA và các thầy tế lễ mới đi qua bờ bên kia trước mặt dân chúng. Con cháu Ru-bên, con cháu Gát và nửa chi tộc Ma-na-se được vũ trang đều tiến lên dẫn đầu dân Y-sơ-ra-ên, đúng theo lời Môi-se đã dặn bảo. Có độ 40.000 chiến sĩ vũ trang kéo qua sông trước mặt CHÚA, tiến vào các đồng bằng Giê-ri-cô để đánh giặc. Hôm ấy, CHÚA tôn trọng Giô-suê trước mặt toàn dân Y-sơ-ra-ên nên họ tôn kính ông suốt đời như họ đã tôn kính Môi-se. Khi ấy, CHÚA phán dạy Giô-suê: “Con hãy bảo các thầy tế lễ khiêng Rương Chứng Cớ ra khỏi lòng sông Giô-đanh.” Vậy, Giô-suê truyền bảo các thầy tế lễ: “Hãy ra khỏi lòng sông Giô-đanh!” Các thầy tế lễ từ lòng sông lên bờ, khiêng Rương Giao Ước của CHÚA. Ngay lúc họ đặt chân lên đất khô trên bờ, lập tức dòng nước sông Giô-đanh trở lại như cũ và tiếp tục chảy tràn bờ như trước. Ngày mồng mười tháng một, nhân dân từ lòng sông Giô-đanh tiến lên, hạ trại tại Ghinh-ganh trên ranh giới phía đông thành Giê-ri-cô. Giô-suê dựng mười hai tảng đá lên tại Ginh-ganh, tức là các tảng đá người ta đã lấy dưới đáy sông Giô-đanh. Ông bảo dân Y-sơ-ra-ên: “Về sau, khi hậu tự các ngươi hỏi cha ông chúng: ‘Các tảng đá nầy có nghĩa gì?’ Hãy đáp: ‘Dân Y-sơ-ra-ên đã vượt qua sông Giô-đanh như đi trên đất khô. Vì CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi đã làm cho dòng sông Giô-đanh cạn khô trước mặt các ngươi cho đến khi các ngươi đã đi qua hết. CHÚA, Đức Chúa Trời các người đã làm cho sông Giô-đanh y như Ngài đã làm cho Biển Đỏ, khiến nó cạn khô trước mặt chúng ta cho đến khi chúng ta vượt qua sông.’ Ngài thực hiện điều này để tất cả các dân tộc trên địa cầu biết rõ bàn tay quyền năng của CHÚA và để các ngươi luôn kính sợ CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi!” Khi tất cả các vua A-mô-rít ở tây bộ sông Giô-đanh và tất cả các vua Ca-na-an dọc miền duyên hải nghe tin CHÚA đã làm cạn sông Giô-đanh trước mặt dân Y-sơ-ra-ên cho đến khi họ vượt qua sông, lòng các vua ấy bèn tan ra như nước và không còn chút can đảm nào đối đầu với dân Y-sơ-ra-ên nữa. Bấy giờ, CHÚA phán dạy Giô-suê: “Con hãy làm các dao bằng đá và cắt bì cho dân Y-sơ-ra-ên một lần nữa.” Vậy, Giô-suê làm dao đá và cắt bì cho dân Y-sơ-ra-ên tại đồi A-ra-lốt. Lý do phải cắt bì là vì tất cả những người ra khỏi Ai-cập, tức là những người nam trong tuổi quân dịch, đều đã chết trên đường đi trong sa mạc sau khi rời khỏi Ai-cập. Tất cả những người nam ra khỏi Ai-cập đều đã chịu cắt bì, nhưng tất cả những người sinh trong sa mạc suốt cuộc hành trình từ Ai-cập đều chưa chịu cắt bì. Dân Y-sơ-ra-ên đã đi quanh quẩn trong sa mạc bốn mươi năm cho đến khi tất cả những người nam trong tuổi nghĩa vụ khi họ rời Ai-cập đều qua đời; vì họ không vâng theo lời CHÚA. Vì CHÚA đã thề với họ rằng họ không được thấy lãnh thổ mà Ngài đã hứa với tổ phụ họ sẽ ban cho nhân dân là một vùng đượm sữa và mật. Vậy, Ngài dấy các con trai họ lên thay thế họ; đây là những người được Giô-suê cắt bì. Lúc ấy họ vẫn chưa chịu cắt bì vì suốt cuộc hành trình không có cuộc lễ cắt bì nào cả. Sau khi toàn thể nam đinh đều được cắt bì, họ ở yên tại chỗ trong trại mình cho đến khi được lành. Rồi CHÚA phán dạy Giô-suê: “Ngày nay, Ta lăn xa khỏi các ngươi sự sỉ nhục của Ai-cập.” Vậy, người ta đặt tên địa điểm này là Ghinh-ganh cho đến ngày nay. Dân Y-sơ-ra-ên đang cắm trại tại Ghinh-ganh trong đồng bằng Giê-ri-cô thì dự lễ Vượt Qua vào buổi chiều tối ngày mười bốn tháng ấy. Chính ngày sau lễ Vượt Qua, nhân dân bắt đầu ăn thổ sản trong xứ: bánh không men và lúa rang. Một ngày sau khi họ ăn thực phẩm của xứ ấy, thì ma-na không sa xuống nữa; từ đó, dân Y-sơ-ra-ên không còn được hưởng chút ma-na nào nữa, nhưng trong năm ấy họ ăn thổ sản của xứ Ca-na-an. Khi Giô-suê đang ở gần Giê-ri-cô, ông ngước mắt lên, nhìn thấy một người đứng ngay trước mặt mình tay cầm gươm trần. Giô-suê đi lên phía người đó mà hỏi: “Ông là người bên ta hay là người bên địch?” Người ấy đáp: “Không. Ta là Thống Tướng Quân Đội của CHÚA nên Ta đến đây.” Giô-suê quỳ mọp xuống đất lạy và hỏi: “Chúa ra lệnh cho đầy tớ Chúa làm gì?” Thống Tướng Quân Đội CHÚA đáp: “Hãy lột dép khỏi chân ngươi vì nơi ngươi đang đứng là thánh.” Giô-suê liền tuân lệnh. Bấy giờ thành Giê-ri-cô đã đóng kín cổng vì dân Y-sơ-ra-ên kéo đến; không ai vào ra nữa. CHÚA phán dạy Giô-suê: “Này Ta đã giao phó Giê-ri-cô, vua và các chiến sĩ của họ vào tay con. Con hãy đi một lần vòng chung quanh thành với tất cả các chiến sĩ; phải đi như thế trong sáu ngày liên tiếp. Bảy thầy tế lễ sẽ cầm bảy cái tù và sừng dê đực đi trước Rương Giao Ước. Qua ngày thứ bảy các con hãy đi vòng quanh thành bảy lần với các thầy tế lễ đang thổi tù và. Khi nghe tiếng tù và thổi dài, hãy bảo tất cả đoàn quân lớn tiếng thét lên, lúc ấy vách thành sẽ sụp đổ, rồi quân sẽ leo lên, mỗi người tiến lên ngay phía trước mình.” Vậy Giô-suê, con trai Nun triệu tập các thầy tế lễ mà bảo: “Hãy khiêng Rương Giao Ước của CHÚA lên, và hãy cho bảy thầy tế lễ cầm tù và đi trước Rương của CHÚA.” Ông cũng ra lệnh cho nhân dân: “Tiến lên! Đi vòng quanh thành với các chiến sĩ vũ trang đi trước rương của CHÚA!” Sau khi Giô-suê ngõ lời cùng nhân dân, bảy thầy tế lễ cầm bảy cái tù và tiến tới trước mặt CHÚA vừa đi vừa thổi tù và. Rương Giao Ước của CHÚA đi theo họ. Các chiến sĩ vũ trang kéo đi trước các thầy tế lễ thổi tù và, còn quân hậu tập đi sau Rương Giao Ước. Suốt thời gian chuyển quân, tù và tiếp tục thổi. Nhưng Giô-suê đã ra lệnh cho nhân dân: “Đồng bào đừng la hét, đừng trò chuyện; cũng đừng nói một lời nào cho đến khi ta ra lệnh hét lên. Lúc đó đồng bào sẽ la hét!” Vậy Giô-suê cho khiêng Rương Giao Ước của CHÚA đi vòng quanh thành một lần, rồi về nghỉ đêm trong trại. Sáng sau Giô-suê dậy sớm và các thầy tế lễ khiêng Rương Giao Ước của CHÚA lên. Bảy thấy tế lễ cầm bảy cây tù và tiến lên trước; đi trước Rương Giao Ước của CHÚA vừa đi vừa thổi tù và. Các chiến sĩ vũ trang đi lên trước, còn các chiến sĩ hậu tập theo sau Rương của CHÚA trong khi tù và tiếp tục được thổi. Vậy, ngày thứ nhì họ đi vòng quanh thành một lần rồi quay về trại. Họ cứ làm như thế trong sáu ngày. Ngày thứ bảy họ dậy lúc rạng đông và đi vòng quanh thành bảy lần như trước (chỉ riêng ngày ấy họ đi vòng quanh thành bảy lần). Đến vòng thứ bảy, khi các thầy tế lễ thổi một tiếng dài, Giô-suê ra lệnh cho nhân dân: “Thét lên! Vì CHÚA đã ban cho đồng bào thành này! Thành và tất cả những gì trong ấy đều phó dâng để diệt đi cho CHÚA; chỉ cô gái mãi dâm Ra-háp và tất cả những người cùng hiện diện trong nhà với cô được tha mà thôi, vì cô đã giấu các thám tử chúng ta sai đến. Nhưng hãy tránh xa các vật phó dâng để diệt đi hầu cho đồng bào khỏi bị tiêu diệt vì lấy vật nào trong số ấy; nếu không tuân hành đồng bào sẽ làm cho trại quân Y-sơ-ra-ên đáng bị tiêu diệt và chuốc lấy tai họa. Tất cả bạc, vàng, và vật dụng bằng đồng và sắt đều biệt ra thánh cho CHÚA và phải nhập vào kho của Ngài.” Khi tù và thổi tiếng dài, nhân dân cùng thét lên. Vừa khi nghe tiếng tù và và nhân dân la hét, vách thành sụp đổ; mỗi người xung phong ngay trước mặt mình. Họ chiếm được thành; và dùng gươm diệt mọi sinh vật trong thành, nam phụ lão ấu và các gia súc: bò, cừu và lừa. Giô-suê bảo hai người đã đi trinh sát xứ: “Các anh hãy vào trong nhà cô gái mãi dâm ấy, đưa cô và tất cả những người thuộc về cô ra ngoài đúng như lời các anh đã thề với cô.” Vậy hai thanh niên đã đi trinh sát xứ bước vào đưa Ra-háp, cha mẹ và anh em cô, cùng mọi người thuộc về cô ra khỏi nhà. Họ đem tất cả gia đình cô ra khỏi và để họ tại một nơi bên ngoài trại quân Y-sơ-ra-ên. Rồi họ phóng hỏa thành, thiêu đốt mọi vật trong ấy và đem bạc vàng và các vật dụng bằng đồng, bằng sắt vào trong kho CHÚA, nhưng Giô-suê tha mạng cho Ra-háp với gia đình cô cùng tất cả mọi người trong nhà cô, vì cô đã che giấu những người Giô-suê sai đến trinh sát Giê-ri-cô. Cô tiếp tục ở giữa dân Y-sơ-ra-ên cho đến ngày nay. Lúc ấy Giô-suê thề rằng: “Kẻ nào khởi công xây lại thành Giê-ri-cô này sẽ bị rủa sả trước mặt CHÚA:‘Khi đặt nền thành,Con trưởng nam phải chết;Khi dựng các cổng thành,Con út phải thiệt mạng.’” CHÚA ở cùng Giô-suê và ông nổi danh khắp trong xứ. Nhưng dân Y-sơ-ra-ên đã bất trung thất tín về các vật hiến dâng. A-can, con trai của Cát-mi, cháu của Xáp-đi, chắt của Xê-rách, thuộc chi tộc Giu-đa đã lấy vài vật hiến dâng nên cơn phẫn nộ của CHÚA nổi phừng lên cùng dân Y-sơ-ra-ên. Từ Giê-ri-cô Giô-suê sai người đến thành A-hi gần Bết-a-ven, về phía đông Bê-tên mà bảo: “Hãy đi lên trinh sát vùng này.” Vậy hai người ấy đi trinh sát thành A-hi. Họ quay về với Giô-suê mà báo cáo: “Không cần đem toàn thể nhân dân lên đi đánh A-hi. Xin ông chỉ cho vài ba ngàn người lên chiếm thành ấy, đừng làm cho toàn dân phải nhọc công vì dân thành ấy rất ít.” Vậy độ ba ngàn người tiến lên, nhưng họ bị người A-hi rượt đuổi và giết mất độ ba mươi sáu người. Người A-hi đuổi quân Y-sơ-ra-ên từ cổng thành đến tận Sê-ba-rim (các mỏ đá) và đánh giết họ lúc chạy xuống dốc. Được tin này lòng nhân dân tan ra như nước. Giô-suê xé áo mình và sấp mặt xuống đất trước rương của CHÚA cho đến chiều tối. Các trưởng lão Y-sơ-ra-ên cũng làm như thế và rắc bụi đất lên đầu mình. Giô-suê thưa: “Ôi lạy Chúa tôi, là CHÚA! Tại sao Chúa đem dân tộc này qua sông Giô-đanh để giao nạp chúng con vào tay dân A-mô-rít để tiêu diệt chúng con? Ước gì chúng con thỏa lòng ở lại bên kia sông Giô-đanh! Ôi lạy Chúa! con sẽ nói làm sao khi Y-sơ-ra-ên bị quân thù rượt đuổi? Dân Ca-na-an và các dân tộc khác trong xứ này sẽ nghe tin và họ sẽ bao vây chúng con cùng quét sạch danh tính chúng con trên mặt đất. Rồi lúc ấy Chúa sẽ làm gì cho chính danh lớn của Chúa?” CHÚA phán bảo Giô-suê: “Con hãy đứng dậy! Con sấp mặt xuống đất làm gì? Y-sơ-ra-ên đã phạm tội, bội nghịch giao ước Ta mà Ta đã truyền phải giữ. Chúng đã lấy mấy vật hiến dâng, ăn cắp, nói dối, và để những vật ấy chung với của cải mình. Vì thế dân Y-sơ-ra-ên không thể chống nổi quân thù, phải xây lưng chạy trốn vì tự làm cho mình đáng bị tiêu diệt. Nếu con không tiêu diệt bất luận vật nào đáng bị tiêu diệt giữa các con thì Ta sẽ không còn ở với các con nữa. Con hãy đi, biệt nhân dân ra thánh và bảo họ: ‘Đồng bào hãy biệt mình ra thánh để chuẩn bị cho ngày mai vì đây là lời CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán dạy: Hỡi Y-sơ-ra-ên, ở giữa ngươi có vật đáng tiêu diệt! Ngươi không chống nổi quân thù cho đến khi nào ngươi loại vật ấy ra. Sáng mai, hãy trình diện từng chi tộc. Chi tộc nào CHÚA chỉ ra sẽ tiến lên từng họ hàng; họ hàng nào CHÚA chỉ ra sẽ tiến lên từng gia đình; gia đình nào CHÚA chỉ ra sẽ tiến lên từng người. Kẻ nào bị bắt quả tang có vật hiến dâng sẽ bị tiêu diệt trong lửa với tất cả những vật thuộc về nó vì nó đã phạm giao ước của CHÚA và đã làm điều hổ nhục trong Y-sơ-ra-ên!’” Sáng hôm sau trời còn sớm, Giô-suê bảo Y-sơ-ra-ên đến gần từng chi tộc một, chi tộc Giu-đa bị chỉ ra. Các họ hàng Giu-đa tiến lên; họ hàng Sê-rách bị chỉ ra. Ông bảo họ hàng Sê-rách tiến lên từng gia đình; gia đình Xáp-đi bị chỉ ra. Giô-suê bảo gia đình Xáp-đi tiến lên từng người; A-can, con Cát-mi, cháu Xáp-đi, chắt Sê-rách trong chi tộc Giu-đa bị chỉ ra. Giô-suê bèn bảo A-can: “Con ơi, hãy tôn vinh CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên và ca ngợi Ngài. Con hãy khai cho ta điều con đã làm, đừng giấu diếm.” A-can đáp: “Thật, tôi đã phạm tội chống nghịch CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Đây là điều tôi đã làm: khi thấy trong chiến lợi phẩm một chiếc áo dài Si-nê-a đẹp đẽ, 2.30kg bạc và một nén vàng nặng 0.60kg, tôi tham muốn các vật ấy và lấy đi, đem giấu dưới đất trong trại tôi, còn bạc thì ở dưới.” Vậy, Giô-suê sai người chạy đến trại thấy các vật ấy giấu trong trại, còn bạc thì ở dưới. Họ lấy các vật đó trong trại, đem về cho Giô-suê và toàn dân Y-sơ-ra-ên rồi bầy ra trước mặt CHÚA. Giô-suê và toàn dân Y-sơ-ra-ên bắt A-can, con cháu Sê-rách, cùng lấy bạc, áo dài, nén vàng, đem luôn các con trai con gái, bầy gia súc, lừa, cừu, trại và tất cả vật sở hữu của ông và dẫn đến thung lũng A-cô. Giô-suê nói: “Tại sao ngươi mang họa đến cho chúng ta? CHÚA sẽ mang họa đến cho ngươi ngày nay.”Rồi toàn dân Y-sơ-ra-ên ném đá A-can. Sau khi ném đá gia đình A-can, họ hỏa thiêu các người ấy. Họ chất trên các thây ấy một đống đá lớn, đến ngày nay vẫn còn. CHÚA liền nguôi cơn giận phừng phừng. Từ đó đến nay, người ta gọi chỗ này là thung lũng A-cô. Lúc ấy, CHÚA phán bảo Giô-suê: “Con đừng sợ cũng đừng nản lòng. Con hãy đem toàn thể quân đội theo con, kéo lên tấn công A-hi. Vì Ta đã giao nạp vào tay con vua của A-hi, nhân dân, thành và lãnh thổ nó. Con hãy đối xử với A-hi như đối xử với Giê-ri-cô và vua nó, chỉ khác một điều là lần này dân sự được đem đi các chiến lợi phẩm và gia súc về cho mình. Con hãy mai phục đằng sau thành.” Vậy, Giô-suê và toàn thể quân đội ra đi tấn công A-hi. Ông chọn 30.000 chiến sĩ tinh nhuệ nhất và sai họ xuất quân ban đêm cùng truyền lệnh này: “Này! Các ngươi phải mai phục đằng sau thành. Đừng đi quá xa thành. Tất cả phải trong thế ứng chiến. Ta và tất cả quân đội ta sẽ tiến đánh mặt tiền thành. Khi địch ra khỏi thành đánh lại chúng ta như chúng đã làm hôm trước, chúng ta sẽ bỏ chạy. Địch sẽ đuổi theo chúng ta cho đến khi nào chúng ta đã dụ chúng ra khỏi thành, vì chúng sẽ nói: ‘Chúng đang chạy trốn chúng ta như lần trước.’ Vậy, khi chúng ta chạy trốn trước mặt chúng, các ngươi phải vùng dậy ra khỏi nơi mai phục và chiếm thành. CHÚA, Đức Chúa Trời của các ngươi sẽ giao thành ấy vào tay các ngươi. Chiếm thành xong, các ngươi hãy phóng hỏa đốt thành ấy. Hãy tuân hành mệnh lệnh của CHÚA. Đây là lệnh ta truyền cho các ngươi.” Giô-suê sai cánh quân ấy ra đi. Họ đến nơi mai phục và nằm đợi giữa Bê-tên và A-hi, phía tây thành A-hi. Tối hôm ấy, Giô-suê ở với nhân dân. Sáng hôm sau, Giô-suê dậy sớm điểm quân rồi cùng với các nhà lãnh đạo Y-sơ-ra-ên đi trước quân đội tiến lên A-hi. Toàn quân theo Giô-suê đều tiến lên gần thành, và đến ngay trước mặt thành. Rồi hạ trại phía bắc A-hi; có cái trũng chạy giữa họ và A-hi. Giô-suê đã cho 5.000 quân mai phục giữa Bê-tên và A-hi về phía tây của thành này. Toàn thể quân đội đều bố trí sẵn sàng, tất cả binh sĩ trong trại phía bắc thành phố cũng như cánh quân mai phục phía tây. Đêm ấy, Giô-suê tiến vào trũng. Thấy vậy, vua của A-hi và tất cả dân trong thành vội vã kéo ra khi trời vừa sáng để giáp trận với quân Y-sơ-ra-ên tại một địa điểm có thể nhìn xuống A-ra-ba, nhưng vua A-hi không ngờ có quân mai phục phía sau thành. Giô-suê và quân Y-sơ-ra-ên để cho địch đẩy lui và chạy trốn về hướng sa mạc. Tất cả những người nam trong thành A-hi đều được huy động rượt đuổi quân thù. Họ đuổi theo Giô-suê và bị dụ ra xa thành. Không còn một người nam nào ở lại trong thành A-hi hay Bê-tên. Tất cả đều đuổi theo quân Y-sơ-ra-ên, bỏ ngỏ thành. Lúc ấy, CHÚA phán bảo Giô-suê: “Con hãy đưa ngọn giáo con cầm trong tay hướng về A-hi vì Ta sẽ giao thành vào tay con.” Vừa đưa tay lên, phục binh nhanh chân đứng dậy chạy vào chiếm đóng và lập tức phóng hỏa thành. Quân A-hi quay lại nhìn thấy khói từ thành bốc lên trời, nhưng họ không cách nào trốn thoát, chạy về hướng nào cũng không được vì quân Y-sơ-ra-ên đang chạy trốn về phía sa mạc đã quay lại phản công quân địch rượt đuổi mình. Vì khi Giô-suê và toàn quân Y-sơ-ra-ên thấy phục binh đã chiếm được thành và thấy luồng khói bốc lên thì họ quay lại tấn công quân A-hi. Cánh quân mai phục cũng kéo ra ngoài thành đánh quân A-hi nên quân A-hi bị vây chính giữa, còn quân Y-sơ-ra-ên tiến đánh cả hai mặt. Quân Y-sơ-ra-ên tàn sát địch không còn một người nào sống hay đào thoát. Nhưng quân Y-sơ-ra-ên bắt sống vua A-hi đem về cho Giô-suê. Khi quân Y-sơ-ra-ên đã giết xong tất cả dân thành A-hi, người ngoài đồng, người trong sa mạc mà họ đã săn đuổi. Khi tất cả đã ngã chết dưới lưỡi gươm đến người cuối cùng, quân Y-sơ-ra-ên quay lại A-hi và dùng gươm giết những kẻ còn ở trong thành. Số người ngã chết hôm ấy là 12.000 người, cả nam lẫn nữ, tức là toàn dân A-hi. Vì Giô-suê không thu lại cây giáo tay ông đã đưa ra cho đến khi tuyệt diệt toàn dân A-hi. Nhưng dân Y-sơ-ra-ên bắt các bầy gia súc đem về và cướp đoạt tài sản trong thành y như CHÚA đã chỉ định cho Giô-suê. Vậy, Giô-suê phóng hỏa làm cho nó thành một đống đổ nát điêu tàn vĩnh viễn cho đến ngày nay. Ông treo vua của A-hi trên cây cho đến chiều tối. Khi mặt trời lặn, Giô-suê sai đem xác vua xuống khỏi cây và liệng xuống tại lối vào cổng thành. Người ta chất trên xác ấy một đống đá lớn, vẫn còn cho đến ngày nay. Giô-suê xây một bàn thờ cho CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, trên núi Ê-banh theo lệnh của Môi-se, đầy tớ của CHÚA, đã truyền lại cho Y-sơ-ra-ên. Ông xây bàn thờ ấy đúng theo điều sách luật Môi-se đã quy định, xây bằng đá nguyên khối, không dùng khí cụ bằng sắt. Người ta dâng cho CHÚA các tế lễ thiêu và các tế lễ cầu an. Tại đó, trước mặt dân Y-sơ-ra-ên, Giô-suê chép trên đá kinh luật của Môi-se như người đã ghi. Toàn dân Y-sơ-ra-ên, công dân cũng như ngoại kiều, đều cùng các trưởng lão, quan chức và thẩm phán đứng hai bên Rương Giao Ước của CHÚA đối diện với những người khiêng Rương tức là các thầy tế lễ người Lê-vi. Phân nửa nhân dân đứng đối ngang núi Ga-ri-xim, và phân nửa đối ngang núi Ê-banh như Môi-se, tôi tớ CHÚA đã long trọng truyền bảo khi ông ra chỉ thị chúc phước cho dân Y-sơ-ra-ên. Sau đó, Giô-suê đọc tất cả những lời trong kinh luật, chúc phước cũng như rủa sả, đúng như đã ghi trong Sách Kinh Luật. Không một lời nào Môi-se đã truyền dạy mà Giô-suê không đọc trước mặt toàn thể nhân dân Y-sơ-ra-ên, kể cả phụ nữ, trẻ con, cũng như các ngoại kiều đang sống giữa họ. Lúc ấy, tất cả các vua ở tây bộ sông Giô-đanh đều nghe các việc này, các vua vùng rừng núi, vùng đồi thấp dưới chân núi miền tây và vùng ven Biển Lớn đến tận Li-ban (tức là vua dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Ca-na-an, dân Phê-rê-sít, dân Hê-vít và dân Giê-bu-sít) đều họp nhau để giao chiến với Giô-suê và dân Y-sơ-ra-ên. Nhưng khi dân Ga-ba-ôn nghe tin những điều Giô-suê đã làm cho Giê-ri-cô và A-hi, bèn dùng mưu kế: họ cử một phái đoàn cưỡi lừa chở đầy những bao cũ mòn và bầu rượu cũ nứt, vá lại. Nhân viên phái đoàn mang dép mòn chắp vá và mặc quần áo cũ kỹ; tất cả bánh mang theo đều khô cứng và nổi mốc. Họ đến gặp Giô-suê tại trại quân Ghinh-ganh và thưa với ông và người Y-sơ-ra-ên: “Chúng tôi từ một xứ xa xôi, bây giờ xin quý ngài lập hòa ước với chúng tôi.” Dân Y-sơ-ra-ên đáp với người Hê-vít: “Biết đâu các ông ở gần chúng tôi đây. Làm thế nào lập hòa ước với các ông được.” Họ nói với Giô-suê: “Chúng tôi là đầy tớ của ông.” Nhưng Giô-suê chất vấn: “Các ông là ai? Từ đâu đến đây?” Họ đáp: “Đầy tớ các ông từ một xứ rất xa đến đây vì nghe danh tiếng của CHÚA, Đức Chúa Trời các ông. Chúng tôi cũng đã nghe báo cáo về Ngài: tất cả những việc Ngài đã làm tại Ai-cập, và tất cả những điều Ngài làm cho hai vua dân A-mô-rít ở đông bộ sông Giô-đanh, tức là Si-hôn, vua Hết-bôn, và Óc, vua Ba-san, trị vì tại Ách-ta-rốt. Các trưởng lão và tất cả dân chúng trong nước chúng tôi bảo chúng tôi: Hãy lấy lương thực dùng dọc đường rồi đi gặp họ và nói: Chúng tôi là đầy tớ quý vị; bây giờ xin quý vị lập hòa ước với chúng tôi. Bánh mì của chúng tôi còn nóng hổi ngày chúng tôi rời nhà và mang theo, mà ngày nay đã khô và mốc meo. Những bầu rượu này còn mới khi chúng tôi đổ rượu vào, mà nay đã nứt bể; áo quần và giầy dép chúng tôi đã cũ mòn vì đi đường rất xa.” Dân Y-sơ-ra-ên thử lương thực của họ nhưng không cầu vấn CHÚA. Giô-suê bèn lập hòa ước với họ, bảo đảm để cho họ sống và các nhà lãnh đạo hội chúng thề nguyện để thông qua hòa ước ấy. Ba ngày sau khi lập ước với người Ga-ba-ôn, dân Y-sơ-ra-ên mới nghe rằng họ là người lân cận và ở gần mình. Dân Y-sơ-ra-ên lên đường và đến ngày thứ ba đã đến các thành: Ga-ba-ôn, Kê-phi-ra, Bê-ê-rốt, và Ki-ri-át Giê-a-rim. Nhưng dân Y-sơ-ra-ên không tấn công họ, vì các nhà lãnh đạo của hội chúng đã thề nguyện với dân này trước mặt CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.Cả hội chúng lằm bằm nghịch cùng các nhà lãnh đạo; nhưng tất cả các nhà lãnh đạo đáp: “Chúng tôi đã nhân danh CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, mà thề nguyện cùng dân đó, nên bây giờ chúng ta không thể nào động đến họ nữa. Đây là cách chúng ta đối xử với họ: phải để cho họ sống, đừng vì lời thề nguyện mà chuốc lấy cơn phẫn nộ của CHÚA trên chúng ta.” Các nhà lãnh đạo Y-sơ-ra-ên tiếp: “Hãy để cho họ sống nhưng phải làm dân công đốn củi xách nước cho cả cộng đồng.” Vậy, họ giữ lời hứa của các nhà lãnh đạo. Lúc ấy Giô-suê triệu tập dân Ga-ba-ôn và bảo: “Tại sao các ngươi lừa gạt chúng ta rằng: chúng tôi ở rất xa các ông mà thật ra các ngươi ở gần chúng ta? Bây giờ các ngươi bị rủa sả: các ngươi không bao giờ thôi làm nô lệ, mãi mãi đốn củi và xách nước cho nhà của Đức Chúa Trời ta.” Họ thưa cùng Giô-suê: “Đầy tớ của ông được nghe rõ rằng: CHÚA, Đức Chúa Trời của các ông, đã phán dặn Môi-se, đầy tớ Ngài, ban cho quý vị toàn xứ này và tiêu diệt tất cả dân cư trong xứ trước mặt mình. Vì sợ quý vị giết hại mạng sống nên chúng tôi mới làm như thế. Bây giờ, chúng tôi ở trong tay quý vị; quý vị cứ đối xử với chúng tôi theo điều quý vị thấy là tốt và phải lẽ.” Vậy, Giô-suê giải cứu họ khỏi bị dân Y-sơ-ra-ên giết. Từ ngày đó, ông cắt đặt dân Ga-ba-ôn làm người đốn củi và xách nước cho hội chúng và cho bàn thờ CHÚA tại nơi nào Ngài sẽ chọn. Đó là việc họ làm cho đến ngày nay. Lúc ấy, A-đô-ni Xê-đéc, vua Giê-ru-sa-lem, được tin Giô-suê đã chiếm A-hi và tiêu diệt thành ấy, đối xử với thành A-hi và vua nó như ông đã đối xử với thành Giê-ri-cô và vua nó, cũng được tin dân Ga-ba-ôn đã lập hòa ước với dân Y-sơ-ra-ên và sống chung với họ. Vua và toàn dân lo sợ vì Ga-ba-ôn là một thành quan trọng, kể như một thành của Vua lớn hơn A-hi, và tất cả người nam của Ga-ba-ôn đều là chiến sĩ thiện nghệ. Vậy A-đô-ni Xê-đéc, vua Giê-ru-sa-lem kêu gọi Hô-ham, vua Hếp-rôn, Phi-ram, vua Giạt-mút, Gia-phia, vua La-ki và Đê-bia, vua Éc-lôn rằng: “Các vua hãy lên giúp ta tấn công Ga-ba-ôn vì họ đã cầu hòa với Giô-suê và dân Y-sơ-ra-ên.” Vậy, năm vua người A-mô-rít, tức là các vua Giê-ru-sa-lem, Hếp-rôn, Giạt-mút, La-ki, và Éc-lôn, liên minh quân sự với nhau, đem toàn lực kéo lên dàn quân và tấn công Ga-ba-ôn. Người Ga-ba-ôn bèn sai người báo tin cho Giô-suê tại trại quân Ghinh-ganh: “Xin ông đừng bỏ mặc đầy tớ ông! Xin hãy nhanh chóng lên đây giải cứu chúng tôi! Xin cứu giúp chúng tôi vì tất cả các vua dân A-mô-rít trong vùng đồi núi đã liên minh tiến đánh chúng tôi.” Vậy, Giô-suê đem toàn thể quân đội gồm tất cả các chiến sĩ tinh nhuệ nhất, từ Ghinh-ganh kéo lên. CHÚA phán bảo Giô-suê: “Con đừng sợ chúng nó; Ta đã giao nạp chúng nó vào tay con. Không ai trong chúng nó chống lại con được đâu.” Sau khi xuất phát từ Ghinh-ganh, Giô-suê đi suốt đêm bất ngờ tấn công quân địch. CHÚA khiến hàng ngũ quân địch rối loạn trước mặt quân đội Y-sơ-ra-ên. Họ đại thắng quân thù ở Ga-ba-ôn. Quân Y-sơ-ra-ên rượt đuổi quân thù suốt dọc đường đi lên Bết Hô-rôn và đánh tan địch cho đến tận A-xê-ka và Ma-kê-đa. Khi quân địch chạy trốn trước mặt quân Y-sơ-ra-ên trên con đường xuống dốc từ Bết Hô-rôn đến A-xê-ka, CHÚA khiến mưa đá lớn từ trời sa xuống và quân địch chết vì mưa đá còn nhiều hơn số người bị quân Y-sơ-ra-ên dùng gươm giết chết. Trong ngày CHÚA giao nạp dân A-mô-rít trong tay Y-sơ-ra-ên, Giô-suê thưa với CHÚA trước mặt dân Y-sơ-ra-ên:“Mặt trời hỡi, hãy đứng yên trên Ga-ba-ônMặt trăng hỡi, hãy dừng chân trên trũng A-gia-lôn.” Vậy, mặt trời đứng yênVà mặt trăng dừng lạiCho đến khi quốc dân đã báo thù quân địch, đó là điều sách Gia-sa đã ghi. Mặt trời đứng yên giữa bầu trời, không vội lặn gần trọn một ngày. Trước nay chưa bao giờ có một ngày như thế và mãi về sau cũng chẳng bao giờ có nữa, là ngày CHÚA nhậm lời của một con người. Thật CHÚA đã chiến đấu cho Y-sơ-ra-ên. Rồi Giô-suê cùng toàn quân quay về trại quân tại Ghinh-ganh. Lúc ấy, năm vua đã trốn thoát và ẩn náu trong một hang đá tại Ma-kê-đa. Khi Giô-suê được báo cáo rằng người ta đã tìm thấy năm vua trốn trong hang đá Ma-kê-đa, ông ra lệnh: “Hãy lăn đá lớn lấp miệng hang đá và cắt đặt người canh gác. Nhưng cứ tiến quân, đừng dừng bước! Hãy đuổi theo quân địch, tấn công chúng từ phía sau. Đừng để chúng chạy trước về các thành của chúng, vì CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi đã giao nạp chúng nó vào tay các ngươi.” Vậy, Giô-suê và dân Y-sơ-ra-ên đánh giết quân địch rất nhiều đến nỗi gần như tuyệt diệt họ. Số ít người còn sống sót trốn về các thành kiên cố của họ. Toàn quân Y-sơ-ra-ên an toàn quay về với Giô-suê tại trại quân Ma-kê-đa. Không một ai dám mở miệng nói nghịch lại dân Y-sơ-ra-ên nữa. Giô-suê ra lệnh: “Hãy mở miệng hang đá, đem năm vua ấy cho ta.” Vậy, họ điệu năm vua ra khỏi hang đá, tức là các vua Giê-ru-sa-lem, Hếp-rôn, Giạt-mút, La-ki và Éc-lôn. Thấy các vua bị điệu đến trước mặt mình, Giô-suê triệu tập tất cả nam đinh Y-sơ-ra-ên và ra lệnh cho các cấp chỉ huy quân đội đã theo mình: “Hãy đến đạp chân lên cổ các vua này!” Vậy, họ tiến lên đạp chân trên cổ các vua. Giô-suê bảo họ: “Đừng sợ, đừng nản lòng! Hãy mạnh dạn và can đảm lên! Đây chính là điều CHÚA sẽ làm cho tất cả các quân địch mà các ngươi sắp chiến đấu.” Giô-suê bèn đánh giết các vua ấy rồi treo xác họ trên năm thân cây; họ bị treo trên cây cho đến chiều tối. Đến hoàng hôn, Giô-suê ra lệnh cho người ta đem xác các vua trên cây xuống và ném vào trong hang đá họ đã ẩn náu. Nơi miệng hang, người ta chất các tảng đá lớn, vẫn còn cho đến ngày nay. Hôm ấy, Giô-suê chiếm đóng Ma-kê-đa, dùng gươm giết vua và tận diệt mọi người trong thành, không để một ai sống sót. Ông cũng đối xử với vua Ma-kê-đa như đã đối xử với vua Giê-ri-cô. Rồi toàn dân Y-sơ-ra-ên theo ông từ Ma-kê-đa qua Líp-na để tấn công thành này. CHÚA cũng giao thành và vua ấy vào tay dân Y-sơ-ra-ên. Giô-suê dùng gươm tiêu diệt mọi người trong thành, không để một ai sống sót. Ông đối xử với vua Líp-na như đã đối xử với vua Giê-ri-cô. Giô-suê và toàn dân Y-sơ-ra-ên theo ông tiến quân từ Líp-na qua La-ki, và bố trí để tấn công thành. CHÚA giao nạp La-ki vào tay Y-sơ-ra-ên. Ngày thứ nhì Giô-suê chiếm đóng thành và dùng gươm tiêu diệt mọi người trong thành này như đã làm cho Líp-na. Trong khi đó, Hô-ram, vua Ghê-xe, đem quân đến cứu La-ki, nhưng Giô-suê đánh bại vua và quân đội của vua cho đến khi không còn một người nào sống sót. Rồi Giô-suê và toàn dân Y-sơ-ra-ên theo ông từ La-ki tiến qua Éc-lôn và bố trí để tấn công thành này. Họ chiếm được thành này ngay hôm ấy và dùng gươm tiêu diệt mọi người trong thành như họ đã làm cho La-ki. Giô-suê và toàn dân theo ông từ Éc-lôn qua Hếp-rôn để tấn công thành này. Họ chiếm thành và dùng gươm tiêu diệt mọi người trong thành và các làng phụ cận luôn với vua của chúng, không để một ai sống sót. Họ tận diệt mọi người trong thành này như họ đã làm tại Éc-lôn. Giô-suê và toàn dân Y-sơ-ra-ên theo ông đều quay lại tấn công Đê-bia. Họ chiếm thành và dùng gươm tiêu diệt dân cư trong thành và các làng phụ cận cùng với vua của chúng. Họ tận diệt mọi người trong đó không để một ai sống sót. Họ đối xử với Đê-bia và vua nó như đã đối xử với Hếp-rôn, Líp-na và vua nó. Vậy, Giô-suê bắt phục cả vùng lãnh thổ từ miền đồi núi, miền nam, miền chân đồi phía tây và các triền núi luôn với các vua của các xứ này; không để một ai sống sót, tất cả các sinh vật trong đó đều bị ông tận diệt đúng theo lệnh CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã ban hành. Giô-suê bình trị các vùng từ Ca-đê Ba-nê-a đến Ga-xa và từ cả vùng Gô-sen cho đến Ga-ba-ôn. Tất cả các vua và đất nước họ đều bị Giô-suê đánh bại trong một chiến dịch vì CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã chiến đấu cho Y-sơ-ra-ên. Rồi Giô-suê cùng toàn dân Y-sơ-ra-ên quay lại trại quân ở Ghinh-ganh. Khi nghe tin này, Gia-bin, vua Hát-so, sai người đến tâu với Giô-báp, vua Ma-đôn, các vua của Sim-rôn và Ạc-sáp, với các vua ở phương bắc trên núi, trong đồng bằng miền nam Ki-nê-rết, trong miền chân núi phía tây và tại vùng cao nguyên Đô-rơ về phía tây; dân Ca-na-an về phía đông và phía tây, dân A-mô-rít, dân Hê-tít, dân Phê-rê-sít và dân Giê-bu-sít trong miền đồi núi; cùng dân Hê-vít dưới chân núi Hẹt-môn, trong vùng Mích-ba. Các vua này xuất quân toàn lực, đem theo nhiều xe và ngựa với một đạo quân đông như cát biển. Tất cả các vua ấy hẹn nhau đem quân đóng trại chung gần hồ Mê-rôm để tuyên chiến với dân Y-sơ-ra-ên. Nhưng CHÚA phán bảo Giô-suê: “Con đừng sợ chúng nó, vì ngày mai độ vào giờ này, Ta sẽ nạp thây của tất cả chúng nó cho Y-sơ-ra-ên. Con phải cắt nhượng ngựa và đốt xe chúng nó.” Vậy, Giô-suê và toàn thể quân đội ông bất ngờ tấn công quân địch gần hồ nước Mê-rôm, và đột kích chúng nó. CHÚA giao nạp chúng nó vào tay Y-sơ-ra-ên. Họ đánh bại và rượt đuổi chúng suốt cả đường cho đến tận vùng Si-đôn nới rộng, Mít-rê-phốt Ma-im và tận trũng Mích-ba ở phía đông, không để một ai sống sót. Giô-suê đối xử với chúng nó như CHÚA đã phán dặn: ông cắt nhượng ngựa và đốt xe của họ. Lúc ấy, Giô-suê quay lại chiếm đóng Hát-so và dùng gươm giết vua của Hát-so (Hát-so vốn cầm đầu các vương quốc ấy). Dân Y-sơ-ra-ên dùng gươm giết sạch mọi người trong thành; tiêu diệt hoàn toàn các loài sinh vật có hơi thở. Giô-suê đốt rụi thành Hát-so. Giô-suê chiếm tất cả các thành thủ đô các vương quốc này, bắt các vua và dùng gươm giết sạch. Ông tiêu diệt chúng hoàn toàn như Môi-se, tôi tớ của CHÚA, đã truyền bảo. Tuy nhiên, dân Y-sơ-ra-ên không đốt thành nào xây trên các ngọn đồi ngoại trừ Hát-so mà Giô-suê đã đốt. Dân Y-sơ-ra-ên mang đi tất cả các chiến lợi phẩm và gia súc trong các thành đó, nhưng lại dùng gươm giết sạch dân cư không chừa lại một sinh vật nào. Mệnh lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se, tôi tớ Ngài, thì Môi-se truyền lại cho Giô-suê, và Giô-suê thực thi tất cả mệnh lệnh CHÚA đã phán dạy Môi-se, không bỏ sót điều gì. Vậy, Giô-suê chiếm toàn thể đất nước này: miền đồi núi, tất cả miền nam bộ, toàn thể vùng Gô-sen, các khu chân núi miền tây, miền A-ra-ba và các rặng núi của Y-sơ-ra-ên với miền chân núi, từ núi Ha-lát nổi cao lên về hướng Sê-i-rơ, cho đến Ba-anh Gát trong thung lũng Li-ban dưới chân núi Hẹt-môn, ông bắt tất cả các vua của họ và đánh giết đi. Giô-suê chiến tranh với các vua ấy suốt một thời gian dài. Ngoại trừ người Hê-vi sống tại Ga-ba-ôn, không có một nước nào lập hòa ước với dân Y-sơ-ra-ên cả. Dân Y-sơ-ra-ên phải đánh trận mới bắt được họ. Vì chính CHÚA làm cho lòng dạ các vua ấy ngoan cố mà tuyên chiến với dân Y-sơ-ra-ên, ngõ hầu có thể tiêu diệt họ hoàn toàn và quét sạch chúng nó không thương xót, như CHÚA đã truyền dạy Môi-se. Lúc ấy, Giô-suê đi tiêu diệt dân A-na-kim trên miền đồi núi: từ Hếp-rôn, Đê-bia và A-náp, từ cả miền đồi núi Giu-đa cho đến cả miền đồi núi Y-sơ-ra-ên. Giô-suê hoàn toàn tiêu diệt họ và thành của họ. Trong khắp lãnh thổ Y-sơ-ra-ên không còn một người A-na-kim nào, ngoại trừ Ga-xa, Gát và Ách-đốt là nơi có người khổng lồ sống sót. Vậy, Giô-suê chiếm toàn bộ đất nước này đúng như CHÚA đã chỉ thị cho Môi-se. Ông cấp đất đai cho dân Y-sơ-ra-ên làm cơ nghiệp tùy theo họ hàng, tông chi tộc.Lúc ấy, đất nước mới được hưởng thái bình và nghỉ ngơi. Đây là danh sách các vua trong xứ mà dân Y-sơ-ra-ên đã chiến thắng và chiếm đóng đất đai của họ phía đông sông Giô-đanh, từ suối Ạt-nôn đến núi Hẹt-môn với cả đồng bằng về phía đông A-ra-rat. Si-hôn, vua dân A-mô-rít ở Hết-bôn, vốn cai trị từ A-rô-e bên bờ suối Ạt-nôn và từ giữa dòng suối cho đến suối Gia-bốc, là biên giới Am-môn; là một nửa Ga-la-át, với cả miền đồng bằng cho đến biển Ki-nê-rết phía đông đến tận biển đồng bằng tức là Biển Mặn phía đông hướng Bết Giê-si-mốt; cùng cả miền nam dưới chân núi Phích-ga. Óc, vua Ba-san là người cuối cùng của dân Rê-pha-im ở tại Ách-ta-rốt và Ếch-rê-i. Lãnh thổ vua này gồm núi Hẹt-môn, miền Sanh-ca, và cả xứ Ba-san đến tận biên giới dân Ghê-su-rít và dân Ma-ca-thít, cùng đến nửa xứ Ga-la-át là biên giới của Hết-bôn, do vua Si-hôn cai trị. Môi-se, đầy tớ của CHÚA, và dân Y-sơ-ra-ên đã chiến thắng họ; rồi Môi-se, đầy tớ của CHÚA, chia cấp lãnh thổ họ cho người Ru-bên, người Gát, và phân nửa chi tộc Ma-na-se làm cơ nghiệp. Đây là danh sách các vua trong xứ mà Giô-suê và dân Y-sơ-ra-ên đã chiến thắng phía tây sông Giô-đanh, từ Ba-anh Gát trong thung lũng Li-ban đến tận núi Ha-lát lên cao về hướng Sê-i-rơ (Giô-suê cấp lãnh thổ họ làm sản nghiệp cho các chi tộc Y-sơ-ra-ên theo từng họ hàng, miền đồi núi, miền chân núi phía tây, miền A-ra-ba, các triền núi, miền đồng hoang và miền nam bộ, tức là lãnh thổ của dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Ca-na-an, dân Phê-rê-sít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít): Vua Giê-ri-côVua A-hi (gần Bê-tên) Vua Giê-ru-sa-lemVua Hếp-rôn Vua Giạt-mútVua La-ki Vua Éc-lônVua Ghê-xe Vua Đê-biaVua Ghê-đe Vua Họt-maVua A-rát Vua Líp-naVua A-đu-lam Vua Ma-kê-đaVua Bê-tên Vua Tháp-bu-áchVua Hê-phê Vua A-phécVua Sa-rôn Vua Ma-đônVua Hát-so Vua Sim-rôn Mê-rônVua Ạc-sáp Vua Tha-a-nácVua Mê-ghi-đô Vua Kê-đeVua Giốc-kê-am ở núi Cạt-mên Vua Đô-rơ ở cao nguyên Đô-rơVua Gô-im ở Ghinh-ganh Và Vua Thiệt-sa Tổng Cộng tất cả là ba mươi mốt vua. Khi Giô-suê tuổi cao tác lớn, CHÚA phán bảo ông: “Con đã già, lãnh thổ cần phải chiếm đóng còn rất rộng. Đây là lãnh thổ còn lại: tất cả các vùng đất của người Phi-li-tin và người Ghê-su-rít; từ sông Si-cô phía đông Ai-cập cho đến lãnh thổ Éc-rôn phía bắc, tất cả được kể là xứ của người Ca-na-an (lãnh thổ của năm lãnh chúa Phi-li-tin tại Ga-xa, Ách-đốt, Ách-ca-lôn, Gát, và Éc-rôn), và lãnh chúa dân A-vít; về phía nam, tất cả lãnh thổ của người Ca-na-an từ A-ra của dân Si-đôn đến A-phéc là vùng đất của dân A-mô-rít, địa phận của Ghi-bê-lít, và cả miền Li-ban về phía đông, từ Ba-anh Gát dưới chân núi Hẹt-môn cho đến Lê-bô Ha-mát. Còn tất cả dân cư vùng núi từ Li-ban đến Mít-rê-phốt Ma-im tức là tất cả dân Si-đôn. Chính Ta sẽ đánh đuổi chúng nó trước mặt Y-sơ-ra-ên. Con hãy cấp đất này cho dân Y-sơ-ra-ên làm cơ nghiệp như Ta đã chỉ thị cho con, và phân chia đất ấy làm cơ nghiệp cho chín chi tộc và phân nửa chi tộc Ma-na-se.” Phân nửa chi tộc Ma-na-se kia cùng người Ru-bên và người Gát đã nhận cơ nghiệp mà Môi-se, đầy tớ CHÚA, đã cấp cho họ phía đông sông Giô-đanh. Lãnh thổ họ trải dài tận A-rô-e (giáp ranh thung lũng Ạt-nôn) và thành ở giữa thung lũng ấy, gồm luôn cả cao nguyên từ Mê-đê-ba đến Đi-bôn. Và tất cả các thành của Si-hôn, vua A-mô-rít, từng cai trị tại Hết-bôn đến tận biên giới dân Am-môn. Vùng đất ấy bao gồm xứ Ga-la-át, lãnh thổ Ghê-su-rơ và Ma-a-ca, toàn bộ núi Hẹt-môn và cả xứ Ba-san đến tận Sa-lê-ca, tức là cả vương quốc của Óc, vua Ba-san, người Rê-pha-im cuối cùng, đã cai trị tại Ách-ta-rốt và Ết-rê-i. Môi-se đã chiến thắng họ và chiếm đất nước họ. Nhưng dân Y-sơ-ra-ên không đuổi được dân Ghê-ru-sơ và Ma-a-ca nên họ tiếp tục sống với người Y-sơ-ra-ên cho đến ngày nay. Nhưng Môi-se không cấp cơ nghiệp nào cho chi tộc Lê-vi vì các lễ vật dùng lửa dâng lên cho CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là cơ nghiệp của họ như Ngài đã hứa với họ. Đây là phần Môi-se đã cấp cho chi tộc Ru-bên, từng họ hàng: Lãnh thổ từ A-rô-e giáp ranh thung lũng Ạt-nôn và từ thành giữa thung lũng ấy, đến cả cao nguyên vượt qua Mê-đê-ba đến Hết-bôn và tất cả các thành trên cao nguyên gồm cả Đi-bôn, Ba-mốt Ba-anh, Bết Ba-anh Mê-ôn, Gia-hát, Kê-đê-mốt, Mê-phát, Ki-ri-a-tha-im, Síp-ma, Xê-rết Sa-ha trên ngọn đồi trong thung lũng, Bết Phê-ô, các triền núi Phích-ga, Bết Giê-si-mốt, tất cả các thành trên cao nguyên và toàn bộ vương quốc của Si-hôn, vua A-mô-rít, từng cai trị tại Hết-bôn. Môi-se đã chiến thắng vua này và các vương hầu Ma-đi-an đang sống trong xứ và liên minh với vua Si-hôn là Ê-vi, Rê-kem, Xu-rơ, Hu-rơ, và Rê-ba. Ngoài những kẻ bị giết trên chiến trường, người Y-sơ-ra-ên còn dùng gươm xử tử Ba-la-am, con trai Bê-ô, là người thuật sĩ bói khoa. Ranh giới của người Ru-bên là bờ sông Giô-đanh. Các thành này và các làng phụ cận đều là cơ nghiệp của người Ru-bên theo từng họ hàng. Đây là phần Môi-se cấp cho chi tộc Gát, theo từng họ hàng: Lãnh thổ Gia-ê-xe, tất cả các thành trong xứ Ga-la-át, và phân nửa xứ Am-môn, đến tận A-rô-e, gần Ráp-ba; từ Hết-bôn đến Ra-mát Mích-ba và Bê-tô-nim, và từ Ma-ha-na-im đến lãnh thổ Đê-bia; trong thung lũng: Bết Ha-ram, Bết Nim-ra, Su-cốt, và Xa-phôn với phần còn lại trong vương quốc của Si-hôn, vua Hết-bôn (phía đông sông Giô-đanh, lãnh thổ chạy dài đến cuối biển Ki-nê-rết). Các thành và các làng này là cơ nghiệp của người Gát, theo từng họ hàng. Đây là phần Môi-se cấp cho phân nửa chi tộc Ma-na-se theo từng họ hàng (tức là phân nửa chi tộc gồm dòng dõi của Ma-na-se): Lãnh thổ chạy từ Ma-ha-na-im, toàn bộ xứ Ba-san, các vương quốc của Óc, vua Ba-san, và các khu định cư của Giai-rơ tại Ba-san, sáu mươi thành, phân nửa xứ Ga-la-át, Ách-ta-rốt và Ết-rê-i (tức là các đô thành của Óc trong xứ Ba-san). Đó là phần cấp cho dòng dõi của Ma-ki, con trai Ma-na-se, tức là phân nửa các con trai của Ma-ki, theo từng họ hàng. Đó là cơ nghiệp Môi-se đã ban phát khi còn ở trong đồng bằng Mô-áp đối ngang sông Giô-đanh ở phía đông Giê-ri-cô. Nhưng Môi-se không cấp cơ nghiệp nào cho chi tộc Lê-vi; CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên là cơ nghiệp của họ như Ngài đã phán hứa. Đây là địa phận mà dân Y-sơ-ra-ên nhận làm cơ nghiệp trong đất Ca-na-an, theo sự phân chia của thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê, con trai Nun, và các trưởng chi tộc Y-sơ-ra-ên. Họ bắt thăm chia đất cho chín chi tộc rưỡi như CHÚA đã dùng Môi-se truyền bảo. Môi-se đã cấp cơ nghiệp cho hai chi tộc rưỡi tại phía đông sông Giô-đanh nhưng không cấp cơ nghiệp nào cho người Lê-vi cả, vì dòng dõi của Giô-sép đã trở thành hai chi tộc là Ma-na-se và Ép-ra-im. Người Lê-vi không nhận được phần đất nào nhưng chỉ được các thành để cư trú và các đồng cỏ cho bầy bò bầy chiên của họ. Vậy, dân Y-sơ-ra-ên chia đất đúng như CHÚA đã truyền bảo Môi-se. Lúc ấy, người Giu-đa đến gần Giô-suê tại Ghinh-ganh, và Ca-lép, con trai Giê-phu-nê, người Kê-nít nói: “Ông biết điều CHÚA đã phán về tôi và về ông qua Môi-se, người của Đức Chúa Trời, tại Ca-đê Ba-nê-a. Khi Môi-se, đầy tớ của CHÚA, ở Ca-đê Ba-nê-a sai tôi đi thám sát đất nước này, tôi được bốn mươi tuổi. Tôi trở về báo cáo cách trung thực đúng theo lòng tôi, nhưng các anh em tôi là những người cùng đi với tôi đã làm cho lòng dân rã rời chán nản. Tuy nhiên, tôi đã hết lòng theo CHÚA, là Đức Chúa Trời tôi. Hôm ấy, Môi-se đã thề với tôi: ‘Vùng đất nào bàn chân ngươi đạp đến sẽ là cơ nghiệp của ngươi và con cháu ngươi đời đời, vì ngươi đã hết lòng theo CHÚA là Đức Chúa Trời ta.’ Đúng như lời CHÚA đã phán hứa, Ngài đã gìn giữ tôi còn sống suốt bốn mươi lăm năm từ lúc Ngài phán dạy Môi-se điều ấy suốt thời gian Y-sơ-ra-ên lưu lạc trong sa mạc; CHÚA đã bảo tồn mạng sống tôi cho đến bây giờ, và ngày nay tôi được tám mươi lăm tuổi. Ngày nay tôi vẫn còn mạnh khỏe như ngày Môi-se sai tôi ra đi; tôi vẫn còn tràn đầy sinh lực xung phong ra trận như ngày trước. Bây giờ xin ông cấp cho tôi xứ đầy đồi núi này mà CHÚA đã hứa ban cho tôi hôm ấy. Chính ông đã nghe báo cáo rằng dân khổng lồ A-na-kim vẫn còn ở đó, và các thành của họ đều rộng lớn và kiên cố, nhưng nhờ CHÚA giúp đỡ, tôi sẽ đánh đuổi chúng ra như Ngài đã phán.” Giô-suê bèn chúc phước cho Ca-lép, con trai Giê-phu-rê, và cấp cho ông miền Hếp-rôn làm cơ nghiệp. Vậy, Hếp-rôn thuộc quyền sở hữu của Ca-lép, con trai Giê-phu-nê, người Kê-nít, từ đó đến nay, vì người đã hết lòng theo CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. (Hếp-rôn vốn được gọi là Ki-ri-át A-ra-ba, theo tên của A-ra-ba, là người khổng lồ nổi danh nhất trong vòng người A-na-kim).Từ đó, đất nước được thái bình, không còn chiến tranh. Phần đất chia cho chi tộc Giu-đa theo từng họ hàng, trải dài đến lãnh thổ Ê-đôm và tận sa mạc Xin ở miền cực nam. Địa giới miền nam bắt đầu từ vịnh ở phía nam, cuối Biển Mặn, vượt qua phía nam đèo Bò-cạp, thẳng đến Xin, vòng lên phía nam Ca-đê Ba-nê-a, đi ngang Hết-rôn lên đến A-đa, vòng quanh Cát-ca, chạy dọc Át-môn, đổ vào suối Ai-cập rồi chấm dứt ở bờ biển. Đây là địa giới phía nam. Địa giới phía đông là Biển Mặn cho đến vàm sông Giô-đanh.Địa giới phía bắc khởi từ vịnh Biển Mặn ở vàm sông Giô-đanh, lên Bết Hốt-la, đi về phía bắc Bết A-ra-ba đến tảng đá Bô-han (tên con trai của Ru-bên). Đến đây, địa giới lên Đê-bia, từ thung lũng A-cô quay về hướng bắc đến Ghinh-ganh, đối ngang đèo A-đu-mim phía nam dòng suối; chạy dọc theo mé nước Ên-sê-mết, giáp Ên-rô-ghên; từ đó chạy lên thung lũng Bên Hi-nôm, dọc theo triền núi trên thành Giê-bu (tức là Giê-ru-sa-lem); leo lên đỉnh đồi phía tây thung lũng Hi-nôm tại điểm cuối phía bắc của thung lũng Rê-pha-im. Từ đỉnh đồi, địa giới hướng về suối nước Nép-thô-ách, giáp các thành trên núi Ếp-rôn rồi xuống hướng Ba-la (tức là Ki-ri-át Giê-a-rim); từ Ba-la vòng qua hướng tây đến núi Sê-i-rơ, chạy dọc triền phía bắc ngọn núi Giê-a-rim (tức là Kê-sa-lôn), xuống thẳng tới Bết Sê-mết và vượt qua Thim-na. Địa giới chạy về triền núi phía bắc của Éc-rôn, quay về phía Siếc-rôn, đi dọc theo núi Ba-la đến tận Giáp-nê-ên rồi giáp biển. Địa giới phía tây là bờ Biển Lớn.Đó là địa giới bao quanh đất của người Giu-đa, theo từng họ hàng. Theo lệnh CHÚA, Giô-suê cấp cho Ca-lép, con trai Giê-phu-nê, một phần đất giữa người Giu-đa: Ki-ri-át A-ra-ba tức là Hếp-rôn (A-ra-ba là tổ phụ của A-nác). Ca-lép đánh đuổi ra khỏi Hếp-rôn ba người khổng lồ A-na-kim là Sê-nai, A-hi-man và Thanh-mai đều là con của A-nác. Từ đó, ông lên đánh dân thành Đê-bia (trước kia gọi là Ki-ri-át Sê-phe). Ca-lép nói: “Ta sẽ gả Ạc-sa, con gái ta, cho người nào tấn công và chiếm được Ki-ri-át Sê-phe.” Ốt-ni-ên, con trai Kê-na (Kê-na là em Ca-lép), chiếm được thành nên Ca-lép gả Ạc-sa, con gái mình, cho Ốt-ni-ên làm vợ. Khi về nhà Ốt-ni-ên, nàng thúc giục chồng xin cha mình cho một đám ruộng. Khi nàng xuống lừa, Ca-lép hỏi: “Con muốn cha giúp con điều chi?” Nàng thưa: “Xin cha cho con một ân huệ. Vì cha đã cho con đất ở miền nam nên xin cha cũng cho con luôn các suối nước.” Vậy, Ca-lép cho nàng các dòng suối trên và dưới. Đây là cơ nghiệp của chi tộc Giu-đa theo từng họ hàng: Các thành cực nam đất Giu-đa giáp ranh Ê-đôm tại nam bộ là:Cáp-sê-ên, Ê-đê, Gia-gua, Ki-na, Đi-mô-na, A-đê-a-đa, Kê-đe, Hát-so, Gít-nan, Xíp, Tê-lem, Bê-a-lốt, Hát-so Ha-đa-tha, Kê-ri-giốt Hết-rôn (tức là Hát-so), A-mam, Sê-ma, Mô-la-đa, Hát-sa-ga-đa, Hết-môn, Bết Pha-lê, Hát-sa Su-anh, Bê-e Sê-ba, Bi-sốt-gia, Ba-la, Y-đim, Ê-xem, Ê-thô-lát, Kê-sinh, Họt-ma, Xiếc-lác, Mát-ma-na, San-sa-na, Lê-ba-ốt, Si-lim, A-in, và Rim-môn: cộng lại là hai mươi chín thành với các làng phụ cận. Tại miền chân núi phía tây:Ết-tha-ôn, Xô-rê-a, Át-na, Xa-nô-ách, Ên Ga-nim, Tháp-bu-ách, Ê-nam, Giạt-mút, A-đu-lam, Sô-cô, A-xê-ka, Sa-a-ra-im, A-đi-tha-im, Ghê-đê-ra và Ghê-đê-rô-tha-im: cộng lại là mười bốn thành với các làng phụ cận. Xê-nan, Ha-đa-sa, Mích-đanh Gát, Đi-lan, Mít-bê, Giốc-thê-ên, La-ki, Bốt-cát, Éc-lôn, Cáp-bôn, Lách-ma, Kít-lít, Ghê-đê-rốt, Bết Đa-gôn, Na-a-ma và Ma-kê-đa: cộng lại là mười sáu thành với các làng phụ cận. Líp-na, Ê-the, A-san, Díp-tách, Át-na, Nết-síp, Kê-i-la, Ạc-xíp, và Ma-rê-sa: cộng lại là chín thành với các làng phụ cận. Éc-rôn với các khu định cư và các làng quanh thành; phía tây Éc-rôn, tất cả lãnh thổ quanh vùng Ách-đốt với các làng phụ cận; Ách-đốt với các khu định cư và các làng quanh thành; Ga-xa với các khu định cư và các làng của nó, đến tận dòng suối Ai-cập và bờ Biển Lớn. Trong vùng đồi núi:Sa-mia, Giạt-thia, Sô-cô, Đa-na, Ki-ri-át Sa-na (tức là Đê-bia), A-náp, Ết-thê-mô, A-nim, Gô-sen, Hô-lôn, Ghi-lô: cộng lại là mười một thành với các làng phụ cận. A-ráp, Ru-ma, Ê-sê-an, Gia-num, Bết Tháp-bu-ách, A-phê-ca, Hum-ta, Ki-ri-át A-ra-ba (tức là Hếp-rôn), và Si-lô: cộng lại là chín thành với các làng phụ cận. Ma-ôn, Cạt-mên, Xíp, Gia-ta, Gít-rê-ên, Giốc-đê-am, Xa-nô-ách, Ca-in, Ghi-bê-a và Thim-na: cộng lại là mười thành với các làng phụ cận. Hanh-hun, Bết Xu-rơ, Ghê-đô, Ma-a-rát, Bết A-nốt và Ên-thê-côn: cộng lại là sáu thành với các làng phụ cận. Ki-ri-át Ba-anh, tức là Ki-ri-át, Giê-a-rim và Ráp-ba: cộng lại là hai thành với các làng phụ cận. Trong sa mạc:Bết A-ra-ba, Mi-đin, Sê-ca-ca, Níp-san, Yết Ha-mê-lách và Ên-ghê-đi: cộng lại là sáu thành với các làng phụ cận. Người Giu-đa không trục xuất được dân Giê-bu-sít đang ở tại Giê-ru-sa-lem nên người Giê-bu-sít sống chung với người Giu-đa cho đến ngày nay. Phần đất dành cho Giô-sép bắt đầu trên bờ sông Giô-đanh tại Giê-ri-cô, phía đông các dòng suối Giê-ri-cô. Ranh giới từ đó chạy lên qua sa mạc đến miền đồi núi Bê-tên: từ Bê-tên (tức Lu-xơ) vượt qua lãnh thổ của người A-kít tại A-ta-rốt; xuống phía tây đến lãnh thổ của người Giáp-lê-tít và tận vùng Bết Hô-rôn hạ đến Ghê-xe và chấm dứt tại bờ biển. Vậy, Ma-na-se và Ép-ra-im, con cháu Giô-sép, lãnh cơ nghiệp của họ. Đây là lãnh thổ của Ép-ra-im, theo từng họ hàng:Ranh giới cơ nghiệp họ khởi từ A-ta-rốt A-đa ở phía đông đến Bết Hô-rôn thượng, và ra đến biển. Từ Mít-mê-tha ở phía bắc ranh giới vòng qua hướng đông đến Tha-a-nác Si-lô đi ngang thành ấy mà đến Gia-nô-ách ở phía đông; rồi từ Gia-nô-ách xuống A-ta-rốt và Na-a-ra, giáp Giê-ri-cô và ra sông Giô-đanh. Từ Tháp-bu-ách, ranh giới đi về hướng tây đến rạch Ca-na rồi chấm dứt tại bờ biển. Đó là cơ nghiệp của chi tộc Ép-ra-im, theo từng họ hàng. Con cháu Ép-ra-im cũng có các thành và làng riêng giữa cơ nghiệp của con cháu Ma-na-se. Nhưng họ không trục xuất được dân Ca-na-an ở Ghê-xe, nên dân Ca-na-an sống giữa người Ép-ra-im cho đến ngày nay, nhưng buộc phải làm lao công cưỡng bách. Đây là phần chia cho chi tộc của Ma-na-se, trưởng nam của Giô-sép, tức là phần của Ma-ki, trưởng nam của Ma-na-se. Ma-ki là tổ phụ của người Ga-la-át vì họ là chiến sĩ dũng cảm nên được nhận đất Ga-la-át và Ba-san. Người ta cũng chia đất cho các con khác của Ma-na-se, theo từng họ hàng: họ hàng A-bi-ê-se, Hê-léc, Át-ri-ên, Si-chem, Hê-phê và Sê-mi-đa. Đó là tên các con trai của Ma-na-se, cháu Giô-sép, tùy theo họ hàng. Xê-lô-phát con Hê-phê, cháu Ga-la-át, chắt Ma-ki và chít Ma-na-se, chỉ sinh con gái không có con trai, các cô ấy tên là Mách-la, Nô-a, Hốt-la, Minh-ca và Thiệt-sa. Các cô này đến gặp thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê, con trai của Nun và các nhà lãnh đạo mà thưa: “CHÚA đã truyền lệnh cho Môi-se phải cho chúng tôi cơ nghiệp ở giữa anh em chúng tôi” nên Giô-suê chia cơ nghiệp cho họ giữa vòng anh em họ như CHÚA truyền. Ma-na-se được mười phần đất chưa kể Ga-la-át và Ba-san ở phía đông sông Giô-đanh. Vì các con gái trong chi tộc Ma-na-se được cơ nghiệp ở giữa các con trai người, nên xứ Ga-la-át thuộc quyền sở hữu của các hậu tự khác của Ma-na-se. Lãnh thổ của Ma-na-se bắt đầu từ lãnh thổ của chi tộc A-se đến Mít-mê-tha phía đông Si-chem. Từ đó ranh giới chạy về phía nam bao gồm dân ở bên Tháp-bu-ách. Đất Tháp-bu-ách thuộc về Ma-na-se, nhưng thành Tháp-bu-ách trên ranh giới lại thuộc về người Ép-ra-im. Từ đó ranh giới chạy về phía nam khe Ca-na. Có những thành gần các thành phố Ma-na-se nhưng lại thuộc về thành Ép-ra-im ranh giới của Ma-na-se nằm phía bắc khe và chấm dứt ở bờ biển. Lãnh thổ phía nam khe thuộc về Ép-ra-im còn phía bắc thuộc về Ma-na-se chạy dài đến tận biển và giáp ranh với A-se phía bắc và Y-sa-ca phía đông. Giữa đất Y-sa-ca và A-se, Ma-na-se cũng được Bết Sê-an, Gíp-lê-am, dân chúng Đô-rơ, Ên Đô-rơ, Tha-na-át và Mê-ghi-đô cùng với các khu định cư quanh các thành ấy (Na-phốt, là khu thứ ba trong bảng liệt kê). Tuy nhiên, người Ma-na-se không chiếm đóng các thành ấy vì dân Ca-na-an quyết định tiếp tục sống trong vùng này. Nhưng dân Y-sơ-ra-ên ngày càng mạnh nên bắt dân Ca-na-an phải lao công phục vụ, song chẳng đuổi họ được hết. Dòng dõi của Giô-sép thưa với Giô-suê: “Tại sao ông chỉ chia cho chúng tôi một phần và một khoảnh đất làm sản nghiệp? Dân số chúng tôi đông vì CHÚA đã ban phước dồi dào cho chúng tôi.” Giô-suê đáp: “Nếu dân các ngươi đông như thế và nếu vùng đồi núi của Ép-ra-im quá nhỏ hẹp cho các ngươi, hãy đi lên vùng rừng rậm trên cao và khai hoang đất cho mình trong xứ của người Phê-rê-sít và người Rê-pha-im.” Nhưng dòng dõi Giô-sép đáp: “Vùng đồi núi không đủ chỗ cho chúng tôi còn vùng đồng bằng thì tất cả dân Ca-na-an đều có chiến xa bằng sắt, kể cả dân Bết Sê-an và các khu định cư của họ cũng như dân trong trũng Gít-rê-ên.” Giô-suê bảo nhà Giô-sép tức là Ép-ra-im và Ma-na-se: “Các ngươi có dân đông và rất cường thịnh nên không phải chỉ lãnh một phần đất mà thôi, nhưng cả vùng đồi núi cũng thuộc về các ngươi; dù là rừng rậm các ngươi cũng sẽ khai phá ra và bờ cõi các vùng ấy đều thuộc về các ngươi; các ngươi cũng sẽ trục xuất được dân Ca-na-an dù chúng cường thịnh và có chiến xa.” Toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên họp tại Si-lô và dựng Trại Hội Kiến lên. Khắp đất nước đều đặt dưới quyền kiểm soát của họ, nhưng vẫn còn bảy chi tộc Y-sơ-ra-ên chưa nhận được cơ nghiệp mình. Vậy, Giô-suê bảo dân Y-sơ-ra-ên: “Các ngươi còn đợi cho đến bao giờ mới bắt đầu chiếm lãnh thổ mà CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ các ngươi đã ban cho các ngươi. Mỗi chi tộc hãy chỉ định ba người, ta sẽ sai họ ra đi khảo sát địa hình rồi viết bản báo cáo về cơ nghiệp của chi tộc mình. Lúc ấy họ sẽ quay về với ta. Các ngươi phải chia đất ra làm bảy phần. Giu-đa phải ở lại trong lãnh thổ phía nam và nhà Giô-sép thì ở lãnh thổ phương bắc. Sau khi các ngươi viết bảng tường trình về bảy phần đất, hãy đem đến đây cho ta, ta sẽ bắt thăm cho các ngươi tại trước mặt CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi. Tuy nhiên, người Lê-vi không được lãnh phần đất nào giữa các ngươi vì chức vụ tế lễ cho CHÚA là cơ nghiệp của họ. Các chi tộc Gát, Ru-bên và nửa chi tộc Ma-na-se đã lãnh được lãnh thổ phía đông sông Giô-đanh mà Môi-se, tôi tớ CHÚA đã cho họ làm sản nghiệp.” Khi họ bắt đầu ra đi vẽ bản đồ xứ này, Giô-suê còn cho chỉ thị: “Các ngươi hãy đi khảo sát đất nước và viết bài mô tả rồi quay về với ta. Ta sẽ bắt thăm cho các ngươi tại Si-lô trước mặt CHÚA.” Vậy, họ lên đường và đi suốt cả đất nước, viết trong cuộn da bài mô tả từng thành phố cả bảy phần đất rồi quay về với Giô-suê trong trại quân tại Si-lô. Giô-suê bắt thăm cho họ tại Si-lô trước mặt CHÚA, và cũng tại đây, ông chia lãnh thổ cho dân Y-sơ-ra-ên tùy theo chi tộc họ. Phần đất bắt thăm trúng nhằm chi tộc Bên-gia-min, theo từng họ hàng. Lãnh thổ họ nằm giữa chi tộc Giu-đa và chi tộc Giô-sép. Ranh giới họ về phía bắc, khởi đi từ sông Giô-đanh, chạy lên phía bắc sườn núi Giê-ri-cô, hướng về phía tây lên đến vùng đồi núi rồi chạy về sa mạc Bết A-ven. Từ đó, ranh giới vượt qua phía nam sườn núi Lu-xơ (tức là Bê-tên), rồi đi xuống A-ta-rốt A-đa trên đồi phía nam của Bết Hô-rôn hạ. Từ ngọn đồi đối ngang Bết Hô-rôn về phía nam, ranh giới chạy xuống miền nam dọc theo phía tây cho đến khi giáp thành Ki-ri-át Ba-anh (tức là Ki-ri-át Giê-a-rim), một thành của dân Giu-đa. Đó là ranh giới phía tây. Ranh giới phía nam bắt đầu từ ngoại thành Ki-ri-át Giê-a-rim về phía tây chạy về suối nước Nép-thô-ách. Ranh giới đi xuống phía chân đồi đối ngang trũng Bên Hi-nôm ở phía bắc trũng Rê-pha-im, tiếp tục xuống trũng Hi-nôm dọc theo sườn núi phía nam của thành dân Giê-bu-sít cho đến Ên Rô-ghên. Ranh giới vòng lên phía bắc đến Ên-sê-mết, tiếp tục chạy về Ghê-li-lốt đối ngang đèo A-đu-mim cho đến tận tảng đá Bô-han (tên con của Ru-bên). Ranh giới tiếp tục chạy lên sườn núi phía bắc của Bết A-ra-ba rồi xuống đến A-ra-ba. Rồi ranh giới quay sang sườn núi phía bắc của Bết Hốt-la, đến giáp vịnh phía bắc của Biển Mặn tại cửa sông Giô-đanh về phía nam. Đó là ranh giới về phía nam. Sông Giô-đanh làm ranh giới về phía đông.Đó là ranh giới tứ phía của cơ nghiệp của họ hàng Bên-gia-min. Chi tộc Bên-gia-min được các thành sau đây theo từng họ hàng:Giê-ri-cô, Bết Hốt-la, Ê-méc-kê-sít, Bết A-ra-ba, Xê-ma-ra-im, Bê-tên, A-vim, Pha-ra, Óp-ra, Kê-pha A-mô-nai, Óp-ni và Ghê-ba: cộng lại là mười hai thành và các làng phụ cận; Ga-ba-ôn, Ra-ma, Bê-ê-rốt, Mít-bê, Kê-phi-ra, Một-sa, Rê-kem, Diệt Bê-ên, Tha-rê-a-la, Xê-la, Ê-lép, Giê-bu, tức Giê-ru-sa-lem, Ghi-bê-át, Ki-ri-át: cộng lại là mười bốn thành với các làng phụ cận.Đó là phần cơ nghiệp của dòng dõi Bên-gia-min. Phần đất thứ hai bắt thăm trúng nhằm chi tộc Si-mê-ôn, theo từng họ hàng. Cơ nghiệp họ nằm giữa cơ nghiệp của người Giu-đa. Lãnh thổ họ gồm cóBê-e-sê-ba, Sê-ba, Mô-la-đa, Hát-sa Su-anh, Ba-la, Ê-xem, Ên-thô-lát, Bê-thu, Họt-ma, Xiếc-lác, Bết Ma-ca-bốt, Hát-sa Su-sa, Bết Lê-ba-ốt và Sê-a-ru-chen: cộng lại được mười ba thành với các làng phụ cận; A-in, Rim-môn, Ê-the và A-san: cộng lại được bốn thành và các làng phụ cận; luôn tất cả các làng xung quanh các thành ấy cho đến Ba-lát-bê-e (tức là Ra-ma ở miền nam).Đó là cơ nghiệp của chi tộc Si-mê-ôn, theo từng họ hàng. Cơ nghiệp của dân Si-mê-ôn là một phần đất của Giu-đa lấy chia cho họ vì lãnh thổ của Giu-đa quá lớn. Vậy, người Si-mê-ôn nhận cơ nghiệp mình trong lãnh thổ Giu-đa. Phần đất thứ ba bắt trúng nhằm chi tộc Sa-bu-luân, theo từng họ hàng.Ranh giới cơ nghiệp họ chạy đến tận Sa-ríp, qua phía tây chạy đến Ma-rê-a-la, giáp Đáp-bê-sết và kéo dài đến khe gần Giốc-nê-am. Từ Sa-ríp quay về phía đông hướng mặt trời mọc, ranh giới chạy đến lãnh thổ Kít-lốt Tha-bô và đi về phía Đáp-rát, lên đến Gia-phia. Từ đó ranh giới chạy về phía đông cho đến Gát Hê-phê và Ết-cát-sin, kéo dài từ Rim-môn và quay sang Nê-a. Từ đó, ranh giới chạy quanh lên phía bắc cho đến Ha-na-thôn và chấm dứt ở trũng Díp-tha-ên; gồm có các thành Cát-tát, Na-ha-la, Sim-rôn, Di-đê-a-la và Bết-lê-hem: cộng lại là mười thành và các làng phụ cận. Các thành và các làng mạc đó là cơ nghiệp của Sa-bu-luân, theo từng họ hàng. Phần đất thứ tư bắt thăm trúng nhằm chi tộc Y-sa-ca, theo từng họ hàng. Lãnh thổ họ gồm có:Gít-rê-ên, Kê-su-lốt, Su-nem, Ha-pha-ra-im, Si-ôn, A-na-cha-rát, Ra-bít, Ki-si-ôn, Ê-bết, Rê-mết, Ên Ga-nim, Ên Ha-đa và Bết Phát-sết. Ranh giới đi ngang Tha-bô, Sa-chát-si-ma và Bết-sê-mết rồi giáp sông Giô-đanh: cộng lại được mười sáu thành với các làng phụ cận. Các thành với các làng mạc đó là cơ nghiệp của chi tộc Y-sa-ca, theo từng họ hàng. Phần đất thứ năm bắt thăm trúng nhằm chi tộc A-se, theo từng họ hàng. Lãnh thổ họ gồm có:Hên-cát, Ha-li, Bê-tên, Ạc-sáp, A-lam-mê-léc, A-mê-át và Mi-sê-anh. Phía tây, ranh giới đụng Cạt-mên và Shi-he Líp-na, quay sang phía đông về hướng Bết Đa-gôn đụng đất Sa-bu-luân và trũng Díp-tha-ên rồi quay về phía bắc cho đến Bết Ê-méc và Nê-ên, chạy ngang Ca-bun về phía tả, đi về Ếp-rôn, Rê-hốp, Ham-môn và Ca-na đến tận ngoại thành Si-đôn. Từ đó, ranh giới quay về hướng Ra-ma, đến thành kiên cố Ty-rơ quay sang Hô-sa, ra đến tận biển vùng Ạc-xíp, U-ma, A-phéc và A-mốt, cộng được hai mươi hai thành và các làng mạc phụ cận. Các thành và các làng mạc đó là cơ nghiệp của A-se, theo từng họ hàng. Phần đất thứ sáu bắt thăm trúng nhằm chi tộc Nép-ta-li, theo từng họ hàng. Ranh giới chạy từ Hê-lép và cây cổ thụ ở Sa-na-nim đi về A-đa-mi Nê-kép và Giáp-nê-ên đến Lạc-cung rồi giáp sông Giô-đanh. Ranh giới chạy về phía tây qua Át-nốt Tha-bô đến Hục-cốc; phía nam giáp đất Sa-bu-luân, phía tây giáp đất A-se và phía đông giáp sông Giô-đanh. Các thành kiên cố là: Xi-đim, Xe-rơ, Ha-mát, Ra-cát, Ki-nê-rết, A-đa-ma, Ra-ma, Hát-so, Kê-đe, Ên Rê-i, Ên Hát-so, Gi-rê-ôn, Mít-đa Ên, Hô-rem, Bết A-nát và Bết Sê-mết: cộng lại là mười chín thành và các làng phụ cận. Các thành và các làng đó là cơ nghiệp chi tộc Nép-ta-li, theo từng họ hàng. Phần đất thứ bảy bắt thăm trúng nhằm chi tộc Đan, theo từng họ hàng. Lãnh thổ cơ nghiệp họ gồm có:Xô-rê-a, Ết-tha-ôn, Yết Sê-mết, Sa-ba-bin, A-gia-lôn, Gít-la, Ê-lôn, Thim-na-tha, Éc-rôn, Ên-thê-kê, Ghi-bê-thôn, Ba-lát, Giê-hút, Bê-nê Bê-rác, Gát Rim-môn, Mê Giạt-côn và Ra-côn với vùng đất đối ngang Gia-phô. Nhưng người Đan gặp trở ngại không thể chiếm được lãnh thổ chia cho mình, nên họ lên tấn công Lê-sem, hạ thành ấy và dùng gươm giết dân cư rồi chiếm đóng thành này. Họ định cư tại Lê-sem rồi lấy tên Đan đặt cho thành này theo tên tổ phụ mình. Các thành và các làng mạc đó là cơ nghiệp của chi tộc Đan, theo từng họ hàng. Sau khi chia đất thành từng miền cho các chi tộc xong, người Y-sơ-ra-ên tặng Giô-suê, con trai Nun, một cơ nghiệp ở giữa họ theo lệnh của CHÚA. Họ tặng người thành mà người yêu cầu: Thim-nát Sê-rách trong vùng đồi núi Ép-ra-im. Giô-suê xây thành và định cự tại đó. Đó là các lãnh thổ mà thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê, con trai Nun và các nhà lãnh đạo của các họ hàng tông chi tộc Y-sơ-ra-ên đã bắt thăm chia đất tại Si-lô trước mặt CHÚA, nơi lối vào Trại Hội Kiến. Như vậy, họ hoàn tất việc chia đất. CHÚA phán bảo Giô-suê: “Con hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên chỉ định các thành ẩn náu như Ta đã dùng Môi-se ra chỉ thị, hầu cho hễ ai lỡ tay và không định ý mà giết người có thể trốn đến các thành này và được che chở khỏi bị người báo thù huyết làm hại. Khi kẻ ấy trốn đến các thành này, nó phải đứng tại lối vào cổng thành và trình bầy trường hợp mình trước mặt các trưởng lão của thành này. Các trưởng lão ấy phải tiếp nhận nó vào trong thành và cho nó một chỗ ở với họ. Nếu kẻ báo thù huyết đuổi theo nó, các trưởng lão không được giao nạp kẻ bị cáo, vì nó đã vô tình giết người lân cận không thù oán trước. Nó phải ở trong thành đó cho đến khi ra tòa trước hội đồng nhân dân và tiếp tục ở lại cho đến khi thầy thượng tế đương chức qua đời. Lúc ấy, nó mới được phép trở về thành mình.” Vậy, họ để riêng thành Kê-đe trong xứ Ga-li-lê thuộc vùng đồi núi Nép-ta-li, Si-chem thuộc vùng đồi núi Ép-ra-im, Ki-ri-át, A-ra-ba (tức là Hếp-rôn) thuộc vùng đồi núi Giu-đa. Còn phía đông sông Giô-đanh tại Giê-ri-cô, họ chỉ định Bê-se trong đồng hoang trên cao nguyên thuộc chi tộc Ru-bên, Ra-mốt trong xứ Ga-la-át thuộc chi tộc Gát và Gô-lan trong xứ Ba-san thuộc chi tộc Ma-na-se. Bất cứ người Y-sơ-ra-ên nào hay người ngoại kiều sống giữa họ một khi lỡ tay giết người đều có thể trốn đến các thành đã chỉ định đó, cho khỏi bị kẻ báo thù huyết giết chết trước khi ra tòa, để chịu hội đồng nhân dân xét xử. Các trưởng chi tộc Lê-vi đến gần thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê, con trai Nun, và các trưởng chi tộc khác của Y-sơ-ra-ên tại Si-lô trong xứ Ca-na-an mà thưa: “CHÚA đã dùng Môi-se truyền lệnh cho quý vị cấp cho chúng tôi các thành để cư trú và các đồng cỏ để nuôi gia súc.” Vậy, dân Y-sơ-ra-ên cấp cho người Lê-vi các thành và đồng cỏ sau đây lấy từ trong sản nghiệp của toàn dân, theo lệnh của CHÚA: Thăm thứ nhất trúng nhằm họ Kê-hát theo từng họ hàng. Người Lê-vi, dòng dõi của thầy tế lễ A-rôn được cấp mười ba thành lấy trong lãnh thổ của các chi tộc Giu-đa, Si-mê-ôn và Bên-gia-min. Phần còn lại của dòng dõi Kê-hát được cấp mười thành trong đất của họ hàng các chi tộc Ép-ra-im, Đan và nửa chi tộc Ma-na-se. Dòng dõi Ghẹt-sôn được cấp mười ba thành lấy trong đất của họ hàng các chi tộc Y-sa-ca, A-se, Nép-ta-li, và nửa chi tộc Ma-na-se ở Ba-san. Dòng dõi Mê-ra-ri, theo từng họ hàng, được mười hai thành lấy trong đất của các chi tộc Ru-bên, Gát và Sa-bu-luân. Dân Y-sơ-ra-ên cấp cho người Lê-vi các thành và đồng cỏ đó như CHÚA đã dùng Môi-se truyền lệnh. Người ta cấp các thành sau đây lấy từ các chi tộc Giu-đa và Si-mê-ôn (các thành này được chỉ định cho dòng dõi A-rôn, con cháu Kê-hát, trong các họ hàng Lê-vi vì thành thứ nhất trúng nhằm họ). Người ta cấp cho họ Ki-ri-át A-ra-ba (tức là Hếp-rôn), với các đồng cỏ xung quanh trong miền đồi núi Giu-đa (A-ra-ba là tên tổ phụ của A-nác) nhưng các cánh đồng và các làng quanh thành này được cấp cho Ca-lép, con trai Giê-phu-nê, làm sản nghiệp. Vậy, người ta cấp cho dòng dõi của thầy tế lễ A-rôn thành Hếp-rôn (một thành ẩn náu cho kẻ sát nhân), Líp-na; Giạt-thia, Ê-thê-mô-a, Hô-lôn, Đê-bia, A-in, Giu-ta và Bết-sê-mết với các đồng cỏ xung quanh các thành, cộng lại là chín thành lấy trong đất hai chi tộc này. Người ta cấp cho họ các thành Ga-ba-ôn, Ghê-ba, A-na-lốt và Anh-môn với các đồng cỏ xung quanh, từ trong đất Bên-gia-min, cộng lại là bốn thành. Tất cả các thành cấp cho các thầy tế lễ, con cháu A-rôn, cộng lại là mười ba thành với các đồng cỏ xung quanh. Phần còn lại của các họ hàng Kê-hát, người Lê-vi được cấp các thành sau đây lấy từ lãnh thổ của chi tộc Ép-ra-im: Trong miền đồi núi Ép-ra-im, họ được cấp các thành Si-chem (một thành ẩn náu cho kẻ sát nhân), Ghê-xe, Kíp-sa-im, Bết Hô-rôn và các đồng cỏ quanh thành, cộng lại là bốn thành. Họ cũng được cấp các thành Ên-thê-kê, Ghi-bê-thôn, A-gia-lôn và Gát Rim-môn với các đồng cỏ xung quanh lấy trong lãnh thổ chi tộc Đan, cộng lại là bốn thành. Họ được cấp các thành Tha-a-nác và Gát Rim-môn với các đồng cỏ xung quanh lấy từ lãnh thổ của nửa chi tộc Ma-na-se, cộng lại là hai thành. Tất cả mười thành đó và các đồng cỏ xung quanh được cấp cho phần còn lại của các họ hàng Kê-hát. Các họ hàng Ghẹt-sôn, người Lê-vi được cấp:Gô-lan trong xứ Ba-san (một thành ẩn náu cho kẻ sát nhân) và Bết-ê-ra với các đồng cỏ xung quanh, lấy từ lãnh thổ của nửa chi tộc Ma-na-se, cộng lại là hai thành; Các thành Ki-si-ôn, Đáp-rát, Giạt-mút và Ên-gha-nim với các đồng cỏ xung quanh thành, lấy từ lãnh thổ của chi tộc Y-sa-ca, cộng lại là bốn thành; Mi-sê-anh, Áp-đôn, Hên-cát và Rê-hốp với các đồng cỏ xung quanh lấy từ lãnh thổ của chi tộc A-se, cộng lại là bốn thành; Kê-đe ở Ga-li-lê (một thành ẩn náu cho kẻ sát nhân), Ha-mốt Đô-rơ và Cạt-than với các đồng cỏ xung quanh, lấy từ lãnh thổ của chi tộc Nép-ta-li, cộng lại là ba thành. Tất cả các thành của các họ hàng Ghẹt-sôn cộng lại được mười ba thành với các đồng cỏ xung quanh. Các họ hàng Mê-ra-ri (tức là những người Lê-vi còn sót lại) được cấp:Giốc-nê-am, Cát-tát, Đim-na và Na-ha-la với các đồng cỏ xung quanh, lấy từ lãnh thổ Sa-bu-luân, cộng lại là bốn thành; Bết-se, Giát-sa, Kê-đê-mốt và Mê-phát với các đồng cỏ xung quanh, lấy từ lãnh thổ Ru-bên, cộng lại là bốn thành. Ra-mốt ở Ga-la-át (một thành ẩn náu cho kẻ sát nhân), Ma-ha-na-im, Hết-bôn và Gia-ê-xe với các đồng cỏ xung quanh, lấy từ lãnh thổ của chi tộc Gát, cộng lại là bốn thành. Tất cả các thành cấp cho các họ hàng Mê-ra-ri (tức là phần còn lại của người Lê-vi) cộng lại là mười hai thành. Các thành của người Lê-vi trong lãnh thổ Y-sơ-ra-ên tổng cộng được bốn mươi tám thành với các đồng cỏ xung quanh. Mỗi thành đều có các đồng cỏ xung quanh; thành nào cũng vậy. Như thế, CHÚA ban cho Y-sơ-ra-ên tất cả các lãnh thổ mà Ngài đã thề hứa với tổ phụ họ. Họ chiếm hữu đất đai và định cư tại đó. CHÚA ban cho họ được an nghỉ đủ mọi phía như Ngài đã thề với tổ phụ họ. Không một kẻ thù nghịch nào chống nổi họ; CHÚA giao nạp tất cả kẻ thù nghịch vào tay họ. Trong tất cả các lời hứa tốt lành mà CHÚA đã phán cho nhà Y-sơ-ra-ên, chẳng có một lời nào không thành tựu; tất cả đều ứng nghiệm. Bấy giờ, Giô-suê triệu tập người Ru-bên, Gát và phân nửa chi tộc Ma-na-se, mà bảo: “Các ngươi đã làm tất cả những điều Môi-se, tôi tớ của CHÚA, truyền dặn. Các ngươi cũng đã vâng lệnh ta trong mọi việc. Trải qua một thời gian dài, cho đến ngày nay, các ngươi không bỏ anh em mình, nhưng thực thi mọi công tác CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi đã giao thác. Bây giờ, CHÚA, Đức Chúa Trời của các ngươi đã cho anh em các ngươi an nghỉ như lời Ngài đã hứa, nên các ngươi hãy trở về nhà các ngươi trong lãnh thổ mà Môi-se, đầy tớ CHÚA, đã cấp phát cho các ngươi bên kia sông Giô-đanh. Nhưng các ngươi hãy hết sức cẩn thận vâng giữ điều răn và kinh luật mà Môi-se, tôi tớ CHÚA, đã truyền cho các ngươi: tức là yêu thương CHÚA, Đức Chúa Trời của các ngươi, đi theo tất cả các đường lối Ngài, vâng giữ các điều răn Ngài, gắn bó với Ngài cùng hết lòng và hết linh hồn phụng sự Ngài.” Giô-suê chúc phước và cho họ ra về; họ lên đường về nhà mình. (Môi-se đã cấp đất Ba-san cho một nửa chi tộc Ma-na-se, còn nửa chi tộc kia được Giô-suê cấp đất phía tây sông Giô-đanh cùng với anh em họ). Khi cho họ ra về, Giô-suê chúc phước cho họ như sau: “Các ngươi hãy trở về nhà mình với của cải dồi dào: các bầy gia súc đông đảo, bạc, vàng, đồng, sắt, và số lượng y phục rất nhiều. Hãy chia xẻ cho anh em mình các chiến lợi phẩm đó mà các ngươi đã thu được từ quân thù”. Vậy, người Ru-bên, người Gát và phân nửa chi tộc Ma-na-se rời dân Y-sơ-ra-ên tại Si-lô trong xứ Ca-na-an, quay về xứ Ga-la-át là lãnh thổ mình mà họ đã chiếm được theo lệnh CHÚA truyền bảo Môi-se. Khi họ đến Ghê-li-ốt, gần sông Giô-đanh trong xứ Ca-na-an, người Ru-bên, người Gát và phân nửa chi tộc Ma-na-se xây một bàn thờ lớn bên bờ sông Giô-đanh. Khi dân Y-sơ-ra-ên nghe tin họ đã xây bàn thờ tại ranh giới xứ Ca-na-an, ở Ghê-li-ốt gần sông Giô-đanh, về phía lãnh thổ Y-sơ-ra-ên, toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên đều tập họp tại Si-lô để tấn công các chi tộc này. Vậy, dân Y-sơ-ra-ên sai Phi-nê-a, con trai thầy tế lễ Ê-lê-a-sa qua xứ Ga-la-át gặp các chi tộc Ru-bên, Gát và nửa chi tộc Ma-na-se. Cùng đi với người có mười trưởng chi tộc, mỗi chi tộc một người, mỗi người đều đứng đầu một chi tộc trong họ hàng Y-sơ-ra-ên. Khi phái đoàn đến xứ Ga-la-át, gặp các chi tộc Ru-bên, Gát và nửa chi tộc Ma-na-se, bèn bảo họ: “Toàn thể hội chúng của CHÚA hỏi: ‘Sao các ngươi bất trung với Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên như thế? Sao các ngươi xây bỏ CHÚA mà xây một bàn thờ cho mình để phản loạn với Ngài? Tội ác của Phê-ô gây một trận dịch cho dân Chúa, mãi đến nay chúng ta vẫn chưa thanh tẩy được; điều đó chưa đủ hay sao? Mà nay các ngươi dám trở mặt với CHÚA?Nếu ngày nay các ngươi phản loạn với CHÚA, ngày mai Ngài sẽ phẫn nộ với toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên. Nếu lãnh thổ thuộc quyền sở hữu các ngươi bị ô uế, thì hãy qua lãnh thổ của CHÚA là nơi dựng Đền Tạm của CHÚA để chia đất với chúng ta mà ở. Nhưng đừng phản loạn với CHÚA và với chúng ta bằng cách xây một bàn thờ riêng cho mình khác với bàn thờ của CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta. Khi A-can, con trai Xê-rách, phạm tội bất trung về các vật phải dâng cho Chúa, thì cơn phẫn nộ há chẳng giáng xuống trên cả hội chúng Y-sơ-ra-ên sao? Người ấy đâu có phải là người duy nhất bị chết vì tội lỗi mình.’” Người Ru-bên, Gát và nửa chi tộc Ma-na-se đáp lại với các trưởng chi tộc của Y-sơ-ra-ên: “Đức Chúa Trời Toàn Năng, CHÚA, Đức Chúa Trời Toàn Năng, CHÚA biết rõ! Và Y-sơ-ra-ên sẽ biết rõ! Nếu đây là một cuộc phản loạn hay bất tuân lời CHÚA, thì xin Ngài đừng tha mạng sống cho chúng tôi. Nếu chúng tôi xây đền thờ riêng để xây lưng lại với CHÚA và dâng các tế lễ thiêu, tế lễ chay, hay dâng các tế lễ cầu an thì xin chính CHÚA phán xét chúng tôi. Chúng tôi làm như thế vì sợ rằng một ngày kia dòng dõi của anh em sẽ nói với dòng dõi của chúng tôi: ‘Các ngươi có phần gì với CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên? CHÚA đã lập sông Giô-đanh làm biên giới giữa chúng ta và các ngươi, hỡi người Ru-bên và Gát! Các ngươi chẳng có phần gì trong CHÚA cả.’ Như thế, dòng dõi của anh em sẽ làm cho dòng dõi của chúng tôi thôi kính sợ CHÚA. Vì thế, chúng tôi nói: ‘Chúng ta hãy sẵn sàng xây một bàn thờ, không phải để dâng tế lễ thiêu hay các lễ vật khác.’ Trái lại, bàn thờ này sẽ làm chứng giữa chúng tôi và anh em, và suốt cả các thế hệ sau nữa, rằng chúng tôi sẽ thờ phượng CHÚA tại đền thánh Ngài với các tế lễ thiêu, sinh tế và tế lễ cầu an. Trong tương lai, dòng dõi của anh em sẽ không thể nào nói với dòng dõi chúng tôi: ‘Các ngươi chẳng có phần nào trong CHÚA cả.’ Và chúng tôi nói: ‘Nếu khi nào họ nói chúng ta và dòng dõi chúng ta như thế thì chúng ta sẽ đáp: xin anh em hãy nhìn bản sao đúng như bàn thờ của CHÚA mà tổ phụ chúng ta đã xây, không phải để dâng tế lễ thiêu hay sinh tế, nhưng để làm chứng giữa chúng ta và anh em.’ Chúng tôi chẳng bao giờ phản loạn với CHÚA và trở mặt với Ngài ngày nay bằng cách xây một bàn thờ khác hơn bàn thờ của CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng tôi đặt trước Đền Tạm để dâng tế lễ thiêu, tế lễ chay và các sinh tế.” Khi thầy tế lễ Phi-nê-a và các nhà lãnh đạo của hội chúng, tức là các trưởng chi tộc của dân Y-sơ-ra-ên, nghe lời trình bầy của người Ru-bên, Gát và Ma-na-se, họ đều hài lòng. Vậy, Phi-nê-a, con trai thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, bảo người Ru-bên, Gát và Ma-na-se: “Ngày nay, chúng ta biết rõ rằng CHÚA đang ở với chúng ta, vì trong việc này, các ngươi không hành động bất trung với CHÚA. Bây giờ, các ngươi đã cứu dân Y-sơ-ra-ên khỏi tay CHÚA.” Bấy giờ, Phi-nê-a, con trai thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, và các nhà lãnh đạo quay về xứ Ca-na-an sau cuộc hội kiến với người Ru-bên và Gát ở Ga-la-át rồi báo cáo mọi việc cho dân Y-sơ-ra-ên. Toàn dân vui mừng nghe báo cáo và ca ngợi Đức Chúa Trời. Họ không còn nói đến việc chiến tranh và tàn phá lãnh thổ của người Ru-bên và Gát nữa. Người Ru-bên và người Gát đặt tên cho bàn thờ ấy là: “Một chứng tích giữa chúng ta” rằng CHÚA là Đức Chúa Trời. Sau một thời gian dài, khi CHÚA đã cho dân Y-sơ-ra-ên được nghỉ ngơi khỏi bị các kẻ thù xung quanh quấy rối và Giô-suê tuổi cao tác lớn, ông triệu tập toàn thể các trưởng lão, các nhà lãnh đạo, các thẩm phán và các quan chức của Y-sơ-ra-ên mà bảo họ: “Tôi đã già, tuổi đã cao. Các ngươi đã thấy mọi điều CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi làm cho tất cả các dân tộc này vì cớ các ngươi; chính CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi đã chiến đấu cho các ngươi. Hãy nhớ lại cách tôi bắt thăm chia sản nghiệp cho các chi tộc tất cả lãnh thổ của các dân tộc còn lại, các dân tộc tôi đã chiến thắng, giữa sông Giô-đanh và Biển Lớn ở phương tây. Chính CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi, sẽ đuổi sạch dân ấy trước mặt các ngươi. Ngài sẽ trục xuất họ trước mặt các ngươi, và các ngươi sẽ chiếm hữu lãnh thổ của họ, như CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi đã hứa cho các ngươi. Vậy, hãy hết sức mạnh dạn và cẩn thận vâng giữ tất cả những điều đã chép trong Sách Kinh Luật Môi-se, không xây qua bên hữu hay bên tả. Đừng cấu kết với các dân tộc này đang còn ở giữa các ngươi; đừng xưng tên các thần của họ hoặc nhân danh các thần ấy mà thề nguyện. Các ngươi không được phụng sự hay thờ lạy trước các thần ấy. Nhưng các ngươi phải gắn bó với CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi như các ngươi đã làm cho đến ngày nay. Vì CHÚA đã đuổi khỏi trước mặt các ngươi những dân tộc lớn và mạnh. Cho đến ngày nay, không ai chống cự nổi các ngươi. Một người trong các ngươi đuổi được cả ngàn quân thù, vì CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi là Đấng chiến đấu cho các ngươi như Ngài đã hứa. Vậy, hãy hết sức cẩn thận yêu mến CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi. Nhưng nếu các ngươi trở mặt xây lưng và liên minh với các dân tộc này còn sót lại ở giữa các ngươi; nếu các ngươi cưới gả và liên kết với chúng nó thì chắc chắn CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi sẽ không đuổi các dân tộc ấy trước mặt các ngươi nữa. Trái lại, họ sẽ thành cạm bẫy cho các ngươi, làm roi đánh nơi hông, làm gai chông chích trong mắt cho đến khi các ngươi bị tiêu diệt khỏi lãnh thổ tốt đẹp này mà CHÚA, Đức Chúa Trời đã ban cho các ngươi. Bây giờ, tôi sắp đi con đường cả thế gian phải đi. Vậy, hãy hết lòng, hết linh hồn nhận thức rằng tất cả các lời hứa tốt lành mà CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi đã phán cho các ngươi chẳng một lời nào sai hết; tất cả đều ứng nghiệm, không sót một điều nào. Nhưng hễ các lời hứa tốt lành của CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi được ứng nghiệm thể nào, thì CHÚA cũng sẽ đem đến cho các ngươi những tai họa Ngài đe dọa thể ấy, cho đến khi nào Ngài tiêu diệt các ngươi khỏi lãnh thổ tốt lành Ngài đã ban cho các ngươi. Nếu các ngươi bội giao ước của CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi đã truyền dặn, mà bỏ đi phụng sự và quỳ lạy các thần khác, thì cơn phẫn nộ của CHÚA sẽ nổi giận nghịch với các ngươi, các ngươi sẽ bị tiêu diệt nhanh chóng khỏi lãnh thổ tốt đẹp mà Ngài đã ban cho các ngươi.” Giô-suê tập họp tất cả các chi tộc Y-sơ-ra-ên tại Si-chem. Ông cũng triệu tập các trưởng lão, các nhà lãnh đạo, các thẩm phán và các quan chức của Y-sơ-ra-ên; họ đều trình diện trước mặt Đức Chúa Trời. Giô-suê nói với toàn dân: “CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã phán: ‘Thời xưa tổ tiên các ngươi là Tha-rê, thân phụ của Áp-ra-ham và Na-cô, ở phía bên kia Sông Lớn và thờ lạy các thần khác. Nhưng Ta đã đem Áp-ra-ham, tổ phụ các ngươi, ra khỏi lãnh thổ bên kia Sông Lớn và dẫn ngươi đi khắp xứ Ca-na-an, ban cho người nhiều hậu tự. Ta ban Y-sác cho người, ban Gia-cốp và Ê-sau cho Y-sác. Ta cấp miền rừng núi Sê-i-rơ cho Ê-sau, nhưng Gia-cốp và các con trai người đều xuống Ai-cập. Rồi Ta sai Môi-se và A-rôn, dùng nhiều việc kỳ dấu lạ để hành hạ người Ai-cập và đem các ngươi ra khỏi xứ đó. Khi Ta đem tổ phụ các ngươi ra khỏi Ai-cập đến bờ biển, người Ai-cập đuổi theo với quân xa và kỵ binh đến tận Biển Đỏ. Nhưng tổ phụ các ngươi cầu cứu CHÚA, Ngài dùng bóng tối phân rẽ các ngươi với người Ai-cập; Ngài cho nước biển phủ lên người Ai-cập, chính các người thấy tận mắt những việc Ta làm cho người Ai-cập. Rồi các ngươi sống trong sa mạc một thời gian dài. Ta đem các ngươi đến lãnh thổ người A-mô-rít phía đông sông Giô-đanh. Họ chống đánh các ngươi, nhưng Ta giao nạp họ vào tay các ngươi. Ta tiêu diệt họ trước mặt các ngươi và các ngươi chiếm hữu lãnh thổ của họ. Khi Ba-lác con trai Xếp-bô, vua Mô-áp, chuẩn bị chống đánh Y-sơ-ra-ên, vua vời Ba-la-am, con trai Bê-ô, đến rủa sả các ngươi. Nhưng Ta không chịu nghe Ba-la-am; vì vậy, người phải chúc phước các ngươi liên hồi và Ta giải cứu các ngươi khỏi tay người. Rồi các ngươi vượt qua sông Giô-đanh mà đến Giê-ri-cô; dân thành Giê-ri-cô chống đánh các ngươi cũng như dân A-mô-rít, Phê-rê-sít, Ca-na-an, Hê-tít, Ghi-rê-ga-sít, Hê-vít và Giê-bu-sít, nhưng Ta giao nạp họ vào tay các ngươi. Ta sai ong vò vẽ đi trước các ngươi và đuổi chúng nó trước mặt các ngươi, như đuổi hai vua A-mô-rít. Các ngươi không dùng gươm cung mình để đuổi họ. Như thế, Ta ban cho các ngươi lãnh thổ mà các ngươi không phải khó nhọc cầy bừa, các thành mà các ngươi không xây cất; các ngươi định cư ở đó. Các vườn nho và vườn ô-liu mà các ngươi không trồng đều dùng làm lương thực cho các ngươi. Vậy, bây giờ hãy kính sợ CHÚA và hết lòng trung tín phụng sự Ngài. Hãy ném bỏ các thần mà tổ tiên các ngươi đã thờ phượng bên kia Sông Lớn và tại Ai-cập mà phụng sự CHÚA. Nhưng nếu các ngươi không thích phụng sự CHÚA thì ngày nay hãy chọn ai mà các ngươi muốn phụng sự, hoặc các thần mà tổ tiên đã phụng sự bên kia Sông Lớn, hoặc các thần của dân A-mô-rít trong lãnh thổ các ngươi đang ở, nhưng ta và nhà ta sẽ phụng sự CHÚA.’” Nhưng nhân dân đều đáp: “Chúng tôi quyết chẳng bao giờ bỏ CHÚA mà phụng sự các thần khác đâu! Chính CHÚA, Đức Chúa Trời chúng tôi đã đem chúng tôi và tổ phụ chúng tôi ra khỏi Ai-cập là nhà nô lệ, thực hiện những dấu lạ vĩ đại đó ngay trước mắt chúng tôi và phù hộ chúng tôi suốt cuộc trường chinh, khỏi bị các dân tộc hai bên đường làm hại. Ngài tống đuổi trước mặt chúng tôi tất cả các dân tộc, kể cả người A-mô-rít đang ở trong xứ. Chúng tôi cũng sẽ phụng sự CHÚA vì Ngài là Đức Chúa Trời của chúng tôi.” Giô-suê bảo nhân dân: “Các ngươi không đủ sức phụng sự CHÚA đâu vì Ngài là Đức Chúa Trời thánh, Đức Chúa Trời kỵ tà. Ngài không dung túng sự phản loạn và tội lỗi của các ngươi. Nếu các ngươi bỏ CHÚA mà phụng sự các thần ngoại thì Ngài sẽ xoay lại giáng họa cho các ngươi, kết liễu số phận các ngươi, sau khi đã đối xử tốt với các ngươi cho đến bây giờ.” Nhưng nhân dân vẫn thưa với Giô-suê: “Không đâu, chúng tôi sẽ phụng sự CHÚA.” Lúc ấy, Giô-suê nói: “Các ngươi tự làm nhân chứng cho mình rằng các ngươi đã lựa chọn việc phụng sự CHÚA.” Nhân dân đáp: “Vâng, chúng tôi xin làm nhân chứng.” Giô-suê tiếp: “Vậy bây giờ hãy loại bỏ các thần ngoại còn giữa các ngươi, đem lòng đầu phục CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên!” Nhân dân đáp lời Giô-suê: “Chúng tôi sẽ phụng sự CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng tôi và vâng lời Ngài.” Hôm ấy, Giô-suê lập một giao ước cho nhân dân và thiết định các sắc lệnh và quy luật tại Si-chem. Giô-suê ghi chép các lời ấy vào Sách Kinh Luật của Đức Chúa Trời. Rồi ông lấy một tảng đá lớn, dựng lên tại đó dưới cây sồi gần nơi thánh của CHÚA. Giô-suê bảo toàn thể nhân dân: “Kìa, tảng đá này sẽ làm chứng cho chúng ta vì nó đã nghe tất cả những lời CHÚA phán dạy chúng ta. Nó sẽ làm chứng nghịch với các ngươi nếu các ngươi bất trung với Đức Chúa Trời mình.” Giô-suê cho nhân dân ra về; mỗi người về trong cơ nghiệp mình. Sau các việc đó, Giô-suê, con trai Nun, đầy tớ CHÚA qua đời, thọ được một trăm mười tuổi. Người ta an táng người trong lãnh thổ cơ nghiệp người tại Thim-nát Sê-rách, trên miền rừng núi Ép-ra-im, phía bắc núi Ga-ách. Dân Y-sơ-ra-ên phụng sự CHÚA suốt đời Giô-suê và các trưởng lão còn sống sót sau Giô-suê, tức là những người đã kinh nghiệm mọi việc CHÚA đã làm cho dân Y-sơ-ra-ên. Hài cốt của Giô-sép mà dân Y-sơ-ra-ên đã đem ra khỏi Ai-cập được an táng tại Si-chem, trong miếng đất Gia-cốp đã mua của con cái Hê-mô, cha Si-chem, giá một trăm nén bạc; dòng dõi Giô-sép được đất này làm cơ nghiệp. Ê-lê-a-sa, con trai A-rôn, cũng qua đời và được an táng tại Ghi-bê-a, là nơi Phi-nê-a, con trai người được cấp trên miền đồi núi Ép-ra-im. Sau khi Giô-suê qua đời, dân Y-sơ-ra-ên cầu hỏi CHÚA rằng: “Ai trong chúng con sẽ đi đánh dân Ca-na-an trước?” CHÚA phán: “Chi tộc Giu-đa sẽ lên đánh trước. Ta sẽ phó xứ vào tay họ.” Người Giu-đa bèn nói với người Si-mê-ôn, là anh em của họ rằng: “Xin hãy lên đánh dân Ca-na-an giúp chúng tôi, trong phần đất đã chia cho chúng tôi; rồi sau đó chúng tôi sẽ đi với anh em đến phần đất đã chia cho anh em.” Người Si-mê-ôn liền đi lên với họ. Vậy người Giu-đa đi lên, và CHÚA phó dân Ca-na-an và dân Phê-rê-sít vào tay họ. Họ đánh hạ mười ngàn người tại Bê-xéc. Tại Bê-xéc họ đánh bại vua A-đô-ni Bê-xéc, dân Ca-na-an và dân Phê-rê-sít. A-đô-ni Bê-xéc chạy trốn, nhưng họ đuổi theo và bắt được vua. Họ chặt đứt các ngón cái của tay và chân vua. A-đô-ni Bê-xéc bèn nói: “Có bảy mươi vua bị chặt đứt các ngón cái của tay và chân, phải lượm thức ăn vụn dưới bàn ta. Những gì ta đã làm cho người khác, bây giờ Đức Chúa Trời báo trả lại trên ta.” Họ dẫn vua đến Giê-ru-sa-lem và vua qua đời tại đó. Người Giu-đa tiến đánh Giê-ru-sa-lem và chiếm lấy. Họ dùng gươm hủy diệt và phóng hỏa thành. Sau đó người Giu-đa tiến xuống tấn công dân Ca-na-an cư ngụ ở miền quê trên các cao nguyên, ở miền Nam, và ở vùng đồng bằng. Người Giu-đa cũng tiến đánh dân Ca-na-an ở miền Hếp-rôn và đánh hạ các thành Sê-sai, A-hi-man, và Tan-mai. Từ đó họ tiến đánh dân thành Đê-bia Bấy giờ Ca-lép tuyên bố: “Ai tấn công Ki-ri-át Sê-phe và chiếm được nó, thì ta sẽ gả con gái ta là Ạc-sa làm vợ người ấy.” Ốt-ni-ên, con trai của Kê-na, em trai của Ca-lép, đánh hạ được thành ấy; Ca-lép bèn gả Ạc-sa, con gái ông, làm vợ Ốt-ni-ên. Khi Ạc-sa về nhà chồng, nàng giục chồng hãy xin cha nàng một cánh đồng. Khi nàng xuống lừa, Ca-lép hỏi: “Con muốn gì đây?” Nàng thưa: “Con muốn xin cha cho con một món quà. Bây giờ cha đã gả con về miền nam khô cằn thì xin cha cũng hãy cho con các suối nước nữa.” Ca-lép bèn ban cho nàng các suối nước ở miền thượng lưu và các suối nước ở miền hạ lưu. Các con cháu của Kê-nít, nhạc phụ của Môi-se, từ thành Cây chà là cùng đi lên với người Giu-đa, họ đến định cư giữa những người sống trong vùng đồng hoang của Giu-đa, là vùng nằm về phía nam, gần A-rát. Người Giu-đa với người Si-mê-ôn, là anh em của họ, đi lên đánh bại dân Ca-na-an ngụ tại Xê-phát và hủy diệt nơi ấy. Vì thế họ gọi nơi ấy là Họt-ma. Người Giu-đa chiếm lấy Ga-xa và vùng phụ cận, Ách-ca-lôn và vùng phụ cận, Éc-rôn và vùng phụ cận. CHÚA ở cùng người Giu-đa và họ chiếm lấy các vùng cao nguyên; nhưng họ không thể đuổi dân Ca-na-an ở vùng đồng bằng đi được, vì chúng có thiết xa. Theo như lịnh của Môi-se đã truyền, người ta ban Hếp-rôn cho Ca-lép. Ca-lép bèn đuổi ba con trai của A-nác ra khỏi vùng ấy. Nhưng người Bên-gia-min không đuổi dân Giê-bu-sít ngụ tại Giê-ru-sa-lem đi, cho nên dân Giê-bu-sít vẫn sống tại Giê-ru-sa-lem giữa người Bên-gia-min cho đến ngày nay. Nhà Giô-sép cũng lên tiến đánh Bê-tên, và CHÚA ở với họ. Nhà Giô-sép sai các thám tử đến do thám Bê-tên Các thám tử thấy một người trong thành đi ra, họ bắt lại hỏi: “Hãy chỉ cho chúng tôi lối vào trong thành, thì chúng tôi sẽ đối xử tử tế với anh.” Vậy người ấy chỉ cho họ lối vào trong thành. Họ bèn dùng gươm đánh diệt thành nhưng để cho người ấy và gia đình người ấy ra đi. Vậy người ấy đến trong xứ của dân Hê-tít và xây dựng một thành, rồi đặt tên là Lu-xơ. Ấy là tên của thành đó cho đến ngày nay. Người Ma-na-se không đuổi đi dân ở Bết Sê-an và các làng xã xung quanh nó, dân ở Tha-a-nác và các làng xã xung quanh nó, dân ở Đô-rơ và các làng xã xung quanh nó, dân ở Ghíp-lê-am và các làng xã xung quanh nó, dân ở Mê-ghi-đô và các làng xã xung quanh nó; vì dân Ca-na-an đã quyết chí tiếp tục cư ngụ trong xứ. Khi người Y-sơ-ra-ên cường thịnh thì họ bắt dân Ca-na-an phục dịch họ, nhưng họ không đuổi chúng đi. Người Ép-ra-im cũng không đuổi dân Ca-na-an sống ở Ghê-xe đi; nhưng dân Ca-na-an sống giữa họ ở Ghê-xe. Người Sa-bu-luân cũng không đuổi dân ở Kít-rôn, hoặc dân ở Na-ha-lô đi, nhưng dân Ca-na-an vẫn sống giữa họ, và bị bắt phải phục dịch họ. Người A-se cũng không đuổi dân ở A-cô, dân ở Si-đôn, dân ở Ách-láp, dân ở Ạc-xíp, dân ở Hên-ba, dân ở A-phéc, hay dân ở Rê-hốp đi; nhưng người A-se lập nghiệp giữa dân Ca-na-an, là cư dân trong xứ; vì họ không đuổi chúng đi. Người Nép-ta-li cũng không đuổi dân ở Bết Sê-mết, hay dân ở Bết A-nát đi, nhưng họ lập nghiệp giữa dân Ca-na-an, là cư dân trong xứ; nhưng dân Bết Sê-mết và dân Bết A-nát bị bắt phải phục dịch họ. Dân A-mô-rít dồn người Đan lên núi, không cho họ xuống đồng bằng. Dân A-mô-rít quyết chí tiếp tục cư ngụ tại Hê-re, A-gia-lôn, và Sa-an-bim; nhưng tay của nhà Giô-sép đè nặng trên chúng, và chúng bị bắt phải phục dịch họ. Địa phận của dân A-mô-rít kéo dài từ đèo Bò-cạp đến Sê-la trở lên. Bấy giờ, thiên sứ của CHÚA đi từ Ghinh-ganh đến Bô-kim, phán rằng: “Ta đã đem các ngươi lên khỏi xứ Ai-cập, và Ta đã đem các ngươi vào xứ Ta đã hứa với tổ phụ các ngươi. Ta có phán: ‘Ta sẽ không bao giờ hủy bỏ giao ước Ta đã lập với các ngươi. Phần các ngươi, thì các ngươi không được lập giao ước với các cư dân trong xứ nầy; mà phải phá đổ các bàn thờ của chúng đi.’ Nhưng các ngươi không vâng theo mệnh lệnh Ta. Sao các ngươi lại làm như vậy? Nên bây giờ Ta phán, Ta sẽ không đuổi chúng đi khỏi mặt các ngươi nữa; nhưng chúng sẽ trở thành như gai góc bên cạnh các ngươi, và các thần tượng của chúng sẽ là cạm bẫy cho các ngươi.” Khi thiên sứ phán những lời nầy cho cả dân Y-sơ-ra-ên xong thì dân chúng cất tiếng lên khóc. Vì thế họ đặt tên chỗ đó là Bô-kim, rồi họ dâng tế lễ cho CHÚA tại đó. Sau khi Giô-suê cho dân chúng ra về, mọi người Y-sơ-ra-ên đều vào nhận sản nghiệp của mình và chiếm lấy xứ. Dân Y-sơ-ra-ên phụng thờ CHÚA trọn đời của Giô-suê, và trọn đời của các trưởng lão sống lâu hơn Giô-suê, ấy là những người đã chứng kiến tận mắt những việc lớn lao mà CHÚA đã làm cho Y-sơ-ra-ên. Giô-suê con của Nun, đầy tớ của CHÚA, qua đời lúc một trăm mười tuổi. Người ta chôn ông trong địa phận thuộc sản nghiệp của ông ở Thim-nát Hê-re, thuộc vùng cao nguyên Ép-ra-im, về phía bắc của núi Ga-ách. Sau đó, cả thế hệ ấy đều quy về cùng tổ phụ họ, một thế hệ khác lớn lên kế tiếp họ; thế hệ mới nầy chẳng biết CHÚA và cũng không biết những việc Ngài đã làm cho Y-sơ-ra-ên. Khi ấy dân Y-sơ-ra-ên làm điều ác trước mặt CHÚA và thờ phượng các thần Ba-anh. Họ bỏ CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ họ, là Đấng đã đem họ ra khỏi xứ Ai-cập, mà theo các thần khác, tức là các thần của những dân tộc sống xung quanh họ; họ quỳ lạy trước các thần ấy và chọc giận CHÚA. Họ bỏ CHÚA mà thờ phượng Ba-anh và Át-tạc-tê. Vậy nên cơn giận của CHÚA bừng lên nghịch cùng Y-sơ-ra-ên. Ngài phó họ cho quân cướp để chúng cướp bóc họ; Ngài bán họ vào tay quân thù ở xung quanh, để họ không thể chống cự nổi những kẻ thù của họ. Mỗi khi họ xuất quân ra trận, tay CHÚA nghịch lại họ, khiến họ gặp chuyện rủi ro, y như CHÚA đã cảnh cáo và thề với họ trước kia. Họ sống trong cảnh thật vô cùng bi đát. Bấy giờ CHÚA dấy lên những vị thẩm phán, để giải cứu họ ra khỏi quyền lực của những kẻ cướp bóc họ. Dầu vậy, họ cũng không chịu nghe theo các vị thẩm phán; vì họ mê đắm các thần khác và quỳ lạy trước mặt các thần ấy. Họ vội xây bỏ con đường mà tổ phụ họ, là những người đã vâng theo mạng lịnh CHÚA, đã đi. Họ không noi theo gương của tổ phụ họ. Mỗi khi CHÚA dấy lên một vị thẩm phán để lãnh đạo họ, CHÚA ở cùng vị thẩm phán đó. Trọn đời của vị thẩm phán ấy Ngài giải thoát họ khỏi tay các kẻ thù; bởi vì CHÚA có động lòng thương xót họ khi nghe họ than khóc do bị quân thù bách hại và đàn áp. Nhưng mỗi khi một vị thẩm phán qua đời, họ liền quay trở về đường cũ. Họ càng trở nên tệ hơn những bậc tiền bối của họ. Họ tin theo các thần khác, thờ phượng các thần ấy, và quỳ lạy trước mặt chúng. Họ chẳng chịu từ bỏ sự thờ phượng sai lạc của họ và cũng chẳng chịu lìa bỏ những đường lối ương ngạnh của họ. Vậy nên cơn giận của CHÚA bừng lên nghịch lại Y-sơ-ra-ên, và Ngài phán: “Bởi vì dân nầy đã cố tình phạm giao ước mà Ta đã lập với tổ phụ chúng, và chúng không chịu vâng theo lời Ta, Ta sẽ không đuổi đi khỏi chúng những dân tộc còn sót lại khi Giô-suê qua đời nữa. Để thử xem dân Y-sơ-ra-ên có bước đi trong đường lối CHÚA như tổ phụ của chúng đã làm chăng.” Vậy CHÚA chừa lại các dân tộc đó, không đuổi chúng đi ngay, và cũng không phó chúng vào tay Giô-suê. Đây là các dân tộc mà CHÚA còn chừa lại để dùng họ thử luyện những người Y-sơ-ra-ên chưa từng có kinh nghiệm chiến trường ở Ca-na-an (Ngài chỉ muốn dùng chúng để dạy những thế hệ mới của Y-sơ-ra-ên về chiến trận, ấy là những kẻ chưa hề thấy những trận chiến ngày trước). Năm lãnh chúa của dân Phi-li-tin, các dân Ca-na-an, dân Si-đôn, và dân Hê-vít cư ngụ trên núi Li-ban, từ Ba-anh Hẹt-môn cho đến Đèo Ha-mát. Các dân tộc nầy được dùng để thử lòng dân Y-sơ-ra-ên, xem họ có vâng theo các điều răn mà CHÚA đã dùng Môi-se truyền dạy cho các tổ phụ họ chăng. Vì thế người Y-sơ-ra-ên sống giữa dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân A-rô-rít, dân Phê-rê-sít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít. Họ cưới con gái chúng làm vợ, gả con gái họ cho con trai chúng, và họ thờ lạy các thần của chúng. Dân Y-sơ-ra-ên làm điều ác trước mặt CHÚA, họ quên CHÚA, Đức Chúa Trời của họ, mà thờ phượng Ba-anh và A-sê-ra. Vì vậy cơn giận của CHÚA bừng lên nghịch lại Y-sơ-ra-ên. Ngài phó họ vào tay Cút-san Ri-sa-tha-im, vua của A-ram Na-ha-ra-im. Dân Y-sơ-ra-ên phục vụ Cút-san Ri-sa-tha-im tám năm. Nhưng khi dân Y-sơ-ra-ên khóc than cùng CHÚA, CHÚA bèn dấy lên một người giải phóng, ấy là Ốt-ni-ên, con trai của Kê-na, em trai của Ca-lép. Thần của CHÚA ngự trên ông và ông xử đoán trong Y-sơ-ra-ên. Ông dấy binh khởi nghĩa, và CHÚA phó Cút-san Ri-sa-tha-im, vua của A-ram vào tay ông, tay ông thắng hơn Cút-san Ri-sa-tha-im. Nhờ thế xứ được hòa bình bốn mươi năm. Sau đó, Ốt-ni-ên con trai của Kê-na qua đời. Dân Y-sơ-ra-ên lại làm điều ác trước mặt CHÚA, nên CHÚA khiến cho Éc-lôn, vua Mô-áp, mạnh hơn Y-sơ-ra-ên; bởi vì điều ác họ đã làm trước mặt CHÚA. Éc-lôn kết đồng minh với dân Am-môn và dân A-ma-léc rồi xuất quân đánh bại dân Y-sơ-ra-ên. Chúng chiếm lấy thành Cây chà là. Thế là dân Y-sơ-ra-ên phải phục vụ Éc-lôn, vua Mô-áp, mười tám năm. Nhưng khi dân Y-sơ-ra-ên khóc van cùng CHÚA, CHÚA dấy lên một người giải phóng, người ấy là Ê-hút, con trai của Ghê-ra, thuộc chi tộc Bên-gia-min; Ê-hút là một người thuận tay trái. Dân Y-sơ-ra-ên phái ông đem cống vật đến Éc-lôn, vua Mô-áp. Ê-hút tự làm lấy một đoản gươm hai lưỡi, dài khoảng năm tấc. Ông buộc nó trong đùi phải, khuất dưới áo quần; rồi ông mang cống vật đến nộp cho Éc-lôn, vua Mô-áp. Vả, Éc-lôn là một người rất mập. Khi Ê-hút trình dâng các cống vật xong rồi, ông cho những người mang cống vật đi về trước. Còn ông, khi đến hầm đục đá gần Ghinh-ganh, ông quay trở lại và nói: “Tâu vua, tôi có một việc bí mật muốn tâu riêng với vua.”Vua truyền: “Im lặng!”Tất cả những kẻ hầu cận của vua đều lui ra. Đang khi vua ngồi một mình nơi lầu mát, Ê-hút đến gần vua và tâu rằng: “Tôi có một sứ điệp từ Đức Chúa Trời cho vua.” Vừa khi vua đứng dậy khỏi ngai, Ê-hút dùng tay trái rút đoản gươm dấu nơi đùi phải và đâm mạnh vào bụng Éc-lôn. Cán gươm lút theo với lưỡi, mỡ phủ lại quanh lưỡi gươm, và ruột lòi ra. Ông để nguyên đoản gươm trong bụng, mà không rút ra, vì nó thấu đến sau lưng. Ê-hút đóng tất cả cửa của lầu mát lại, khóa chặt hết các cửa, rồi lẻn đi. Sau khi Ê-hút đã đi rồi, các tôi tớ của vua trở lại, thấy các cửa lầu mát đều khóa chặt, họ nghĩ: “Chắc vua đang nghỉ ngơi trong lầu mát.” Vì thế họ đứng đợi bên ngoài, cho đến khi bối rối. Khi thấy chờ mãi mà vua vẫn chưa mở cửa, họ bèn lấy chìa khóa và mở cửa ra. Kìa vua của họ đã nằm chết dưới sàn. Đang khi họ bối rối trì trệ thì Ê-hút đã chạy thoát được, vượt qua các hầm đá, mà chạy về Sê-i-ra. Khi đến nơi, ông thổi kèn triệu tập dân chúng vùng cao nguyên Ép-ra-im. Người Y-sơ-ra-ên nhóm lại theo ông xuống núi, chính ông dẫn đầu họ. Ông nói: “Hãy theo tôi. Vì CHÚA đã phó kẻ thù các người là dân Mô-áp vào tay các người.” Vậy họ theo ông xuống chiếm những khúc cạn, nơi người Mô-áp thường lội qua sông Giô-đanh; họ cấm không cho một ai qua sông. Trong trận ấy họ đánh giết mười ngàn người Mô-áp, tất cả đều là những người lực lưỡng và dũng mãnh; không một ai thoát khỏi. Vậy dân Mô-áp chịu khuất phục dưới tay dân Y-sơ-ra-ên, và xứ được hòa bình tám mươi năm. Sau Ê-hút có Sam-ga, con trai của A-nát. Sam-ga dùng một cây đót bò đánh chết sáu trăm người Phi-li-tin. Vậy Sam-ga cũng là người giải phóng dân Y-sơ-ra-ên. Sau khi Ê-hút qua đời, dân Y-sơ-ra-ên lại làm điều ác trước mặt CHÚA. Nên CHÚA phó họ vào tay Gia-bin, vua của Ca-na-an, khi ấy đang trị vì tại Hát-so. Tổng tư lệnh quân đội của Gia-bin là Si-sê-ra; Si-sê-ra đặt bộ chỉ huy tại Ha-rô-sết Ha-gô-im. Vì Gia-bin có chín trăm thiết xa và đàn áp dân Y-sơ-ra-ên rất tàn bạo trong hai mươi năm, nên dân Y-sơ-ra-ên kêu van cùng CHÚA xin cứu giúp. Lúc ấy nữ tiên tri Đê-bô-ra, vợ của Láp-bi-đốt, làm thẩm phán trong Y-sơ-ra-ên. Bà ngồi làm việc dưới cây chà là Đê-bô-ra, ở giữa Ra-ma và Bê-tên, trên cao nguyên Ép-ra-im; dân Y-sơ-ra-ên đến với bà để bà xét xử. Bà sai người đến mời Ba-rác, con trai của A-bi-nô-am, ở Kê-đe, thuộc địa phận của chi tộc Nép-ta-li, đến và nói với ông rằng: “CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên truyền cho ngươi, ‘Hãy đi, đem theo mười ngàn người từ chi tộc Nép-ta-li và chi tộc Sa-bu-luân mà chiếm lấy núi Tha-bô. Ta sẽ khiến Si-sê-ra, tổng tư lệnh quân đội của Gia-bin, với các thiết xa và quân đội của hắn, đến gặp ngươi ở Khe Ki-sôn. Ta sẽ phó hắn vào tay ngươi’”. Ba-rác đáp: “Nếu bà đi với tôi thì tôi sẽ đi, nhưng nếu bà không đi với tôi thì tôi sẽ không đi.” Bà nói: “Chắc chắn tôi sẽ đi với ông; nhưng công chiến thắng trong trận nầy sẽ không về tay ông; vì CHÚA sẽ phó Si-sê-ra vào tay một phụ nữ.” Vậy Đê-bô-ra đứng dậy đi với Ba-rác đến Kê-đe. Ba-rác triệu tập người Sa-bu-luân và người Nép-ta-li tại Kê-đe. Có mười ngàn người theo ông, và cũng có Đê-bô-ra đi với ông. Bấy giờ, Hê-be người Kê-nít, đã tách rời khỏi dân Kê-nít, tức là dòng dõi của Hô-báp, anh em vợ của Môi-se, mà ra ở riêng. Ông dựng lều trại của ông ở tận Cây Sồi Sa-na-im, gần Kê-đe. Khi Si-sê-ra đã hay rằng Ba-rác, con trai của A-bi-nô-am, đã đến núi Tha-bô, Si-sê-ra liền truyền lịnh đem tất cả chiến xa, gồm chín trăm thiết xa, và tất cả quân đội dưới quyền mình, từ Ha-rô-sết Ha-gô-im kéo đến Khe Ki-sôn. Bấy giờ Đê-bô-ra nói với Ba-rác: “Hãy đứng lên! Vì đây là ngày CHÚA phó Si-sê-ra vào tay ông. Há chẳng phải chính CHÚA đi trước ông sao?” Vậy Ba-rác từ trên núi Tha-bô đi xuống, với mười ngàn người đi theo ông. Khi Ba-rác tấn công, CHÚA khiến Si-sê-ra, tất cả các chiến xa hắn, và tất cả quân đội đi theo hắn đều ngã chết dưới gươm. Si-sê-ra phải bỏ chiến xa chạy bộ tẩu thoát. Ba-rác đuổi theo các chiến xa và bộ binh đến tận Ha-rô-sết Ha-gô-im. Tất cả các quân sĩ của Si-sê-ra đều bị ngã chết dưới gươm, không một ai sống sót. Nhưng chỉ còn một mình Si-sê-ra là chạy bộ thoát được. Hắn chạy đến lều của Gia-ên, vợ của Hê-be, người Kê-nít; bởi vì giữa vua Gia-bin ở Hát-so và gia tộc của Hê-be, người Kê-nít, có mối giao hảo thân thiện với nhau. Gia-ên đi ra đón Si-sê-ra và nói với hắn: “Thưa ngài, xin mời ngài vào tệ xá. Đừng sợ gì cả.” Vậy hắn vào lều của bà, và bà lấy mền đắp hắn lại. Hắn nói với bà: “Tôi khát quá. Cho tôi xin miếng nước.” Bà mở bầu da đựng sữa ra, cho hắn uống, rồi lấy mền đắp hắn lại. Hắn bảo bà: “Bà hãy đứng nơi cửa lều. Nếu có ai đi qua và hỏi: ‘Có ai ở đây không?’ thì hãy trả lời rằng, ‘Không.’” Nói xong Si-sê-ra lăn ra ngủ say vì quá mệt mỏi. Bấy giờ Gia-ên, vợ của Hê-be, lấy một cây cọc trại, tay cầm cái búa, nhè nhẹ đến bên hắn. Bà đóng cây cọc trại vào màng tang hắn, thấu xuống đất, và hắn chết liền tại chỗ. Vừa khi Ba-rác truy tầm Si-sê-ra đi ngang qua đó, Gia-ên đi ra đón ông và nói: “Hãy đến đây. Tôi sẽ chỉ cho ông người mà ông đang tìm kiếm.” Vậy Ba-rác đi theo bà, và kìa, ông thấy Si-sê-ra nằm chết với cây cọc trại đâm thủng màng tang. Trong ngày đó Đức Chúa Trời bắt Gia-bin, vua dân Ca-na-an, phải khuất phục trước dân Y-sơ-ra-ên. Tay của dân Y-sơ-ra-ên càng ngày càng mạnh đối với Gia-bin, vua dân Ca-na-an, cho đến khi họ tiêu diệt vua ấy đi. Trong ngày ấy, Đê-bô-ra và Ba-rác, con trai của A-bi-nô-am hát rằng: “Khi các quan trưởng lãnh đạo trong Y-sơ-ra-ên,Và khi dân chúng tự nguyện vâng phục,Ca tụng CHÚA! Hỡi các vua, xin hãy nghe; hỡi các lãnh tụ, xin lắng nghe.Tôi sẽ hát cho CHÚA,Tôi sẽ hát một bài ca cho CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Lạy CHÚA, khi Ngài từ Sê-i-rơ đi ra,Khi Ngài đi qua vùng Ê-đôm,Thì đất rúng động,Trời đổ cơn mưa,Mây tuôn nước xuống. Các núi rúng động trước mặt CHÚA,Núi Si-nai run rẩy trước mặt CHÚA,Là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Trong ngày của Sam-ga, con trai A-nát,Trong ngày của Gia-ên, các đại lộ bị bỏ hoang,Khách bộ hành phải đi tránh vào các con đường nhỏ. Cuộc sống ở nông thôn đã ngưng lại,Nó đã ngưng lại cho đến khi tôi,Là Đê-bô-ra, chổi dậy,Tôi chổi dậy như một người mẹ trong Y-sơ-ra-ên. Khi dân chúng chọn cho họ các thần mới,Thì quân giặc đã vào tận trong các cổng thành.Và trong số bốn mươi ngàn người Y-sơ-ra-ên,Chẳng ai có được một cái khiên hay một cây giáo. Lòng tôi ngưỡng mộ các vị tư lệnh của Y-sơ-ra-ên,Họ thật hết lòng giúp dân giúp nước.Ca tụng CHÚA! Hỡi những ai cỡi trên lừa trắng,Hỡi những ai ngồi trên yên phủ bằng thảm nhung,Hỡi những khách bộ hành trên đường,Xin hãy thuật chuyện ấy ra. Xin thuật ra cho những nhạc sĩ đang trổi nhạc bên bến nước,Để họ diễn đi diễn lại ca khúc chiến thắng của CHÚA,Là ca khúc chiến thắng của con dân Y-sơ-ra-ên.Hỡi con dân của CHÚA,Hãy cùng nhau kéo ra cổng thànhTấn công quân giặc. Thức dậy! Thức dậy! Hỡi Đê-bô-ra!Thức dậy! Thức dậy! Hãy hát một bài ca!Vùng dậy! Hỡi Ba-rác!Hãy dẫn những phu tù của ngươi đi;Hỡi con trai của A-bi-nô-am! Hãy tiến xuống,Hỡi con cháu còn sót lại của những nhà quý tộc;Dân của CHÚA tiến xuốngChống lại những kẻ cường bạo. Quân dân từ chi tộc Ép-ra-im kéo nhau ra thung lũng,Phía sau ngươi lại có Bên-gia-min, là anh em ngươi;Những vị tư lệnh từ Ma-ki kéo đến,Và những người cầm gậy cầm quân từ Sa-bu-luân tiến ra. Những vị chỉ huy của Y-sa-ca cùng đi với Đê-bô-ra;Phải, Y-sa-ca đồng tâm hiệp lực với Ba-rác,Họ cùng nhau xông vào thung lũng.Còn trong các gia tộc của Ru-bên,Người ta cứ đắn đo suy nghĩ trong lòng. Vì sao các người còn nán trễ trong các ràn chiên,Mà nghe tiếng gọi các đàn chiên?Ở trong các gia tộc của Ru-bên,Người ta cứ đắn đo suy nghĩ trong lòng. Ga-la-át vẫn còn ở mãi bên kia sông Giô-đanh;Còn Đan, sao ngươi cứ lẩn quẩn trên các chiếc thuyền?A-se vẫn ngồi bất động bên bờ biển,Đành lòng an cư bên các bãi thuyền! Sa-bu-luân là những hào kiệt coi thường cái chết;Nép-ta-li cũng vậy, sẵn sàng hy sinh mạng sống ở chốn sa trường. Các vua kéo đến, họ liền tiến đánh;Họ đánh các vua Ca-na-an,Ở Ta-a-nác, bên giòng nước Mê-ghi-đô;Họ chẳng màng đến chiến lợi phẩm bạc tiền. Trên trời, các vì sao chiến đấu;Theo tuyến đường mình mà đánh hạ Si-sê-ra. Giòng nước ở Ki-sôn đã cuốn trôi chúng mất;Giòng nước lũ của Ki-sôn đã lôi cuốn chúng đi.Hỡi linh hồn ta, hãy dũng mãnh tiến lên! Tiếng vó ngựa vang lên dồn dập,Tiếng ngựa phi vang dội khắp nơi. Thiên sứ của CHÚA phán:‘Hãy rủa sả Mê-rô,Hãy rủa sả dân cư của nó cách thậm tệ.’Vì chúng chẳng chịu đến giúp đỡ CHÚA,Chúng không đến giúp đỡ CHÚAĐánh lại những kẻ cường bạo. Người phụ nữ được phước nhất là Gia-ên,Vợ của Hê-be, người Kê-nít,Ấy là người phụ nữ được phước nhất trong các bà nội trợ sống trong lều trại. Hắn hỏi nước, nàng đem cho sữa,Dùng chén sang đem sữa béo tiến dâng. Tay trái nàng cầm chiếc cọc,Tay phải nàng cầm cái búa của các lao công;Nàng đóng vào đầu Si-sê-ra một nhát,Đập bể đầu và đâm thủng màng tang. Hắn gục xuống, ngã quỵ,Nằm bất động nơi chân nàng;Hắn gục xuống nơi chân nàng, ngã quỵ;Hắn gục xuống nơi nào, hắn ngã chết ngay nơi đó. Mẹ của Si-sê-ra ngóng trông qua cửa sổ,Bà nhìn qua màng thưa che cửa, hỏi rằng:‘Tại sao xe chiến mã của con ta chưa về?Tại sao tiếng vó ngựa của chiến xa con ta chưa vang dội?’ Những nữ nhân hầu hạ khôn khéo lựa lời giải đáp,Chính bà cũng tự trả lời và thầm nghĩ: ‘Há chẳng phải chúng đã kiếm được và đang chia nhau chiến lợi phẩm đấy sao?Một hay hai phụ nữ cho mỗi chàng chiến sĩ;Những chiến lợi phẩm bằng vải nhuộm thì dành cho Si-sê-ra,Ô những tấm vải thêu và nhuộm đẹp,Há chẳng phải hai tấm vải thêu và nhuộm đẹpSẽ là chiến lợi phẩm làm khăn choàng cổ cho ta hay sao?’ Lạy CHÚA, nguyện tất cả những kẻ thù của Ngài đều bị diệt vong như vậy!Nguyện những kẻ yêu mến Ngài sẽ giống nhưMặt trời mọc lên rạng rỡ.”Rồi xứ được hòa bình trong bốn mươi năm. Dân Y-sơ-ra-ên làm điều ác trước mặt CHÚA, và Ngài phó họ vào tay dân Ma-đi-an bảy năm. Tay của dân Ma-đi-an thắng hơn dân Y-sơ-ra-ên. Vì cớ dân Ma-đi-an nên người Y-sơ-ra-ên phải sống trốn tránh trong các rừng núi, hang hóc, hoặc trong các thành trì kiên cố. Mỗi khi người Y-sơ-ra-ên ra gieo giống, thì dân Ma-đi-an, dân A-ma-léc, và các dân phương đông kéo đến tấn công. Chúng dựng trại đóng quân đối nghịch họ. Chúng phá hủy tất cả các nông phẩm cho đến tận vùng Ga-xa, không chừa lại một thứ gì trong Y-sơ-ra-ên, kể cả chiên, bò, và lừa. Bởi vì chúng và những đàn súc vật của chúng kéo đến và dựng trại đông như cào cào. Người ta và lạc đà nhiều vô số, không thể đếm hết được. Chúng chiếm lấy xứ và phá hủy tất cả. Vậy, vì cớ dân Ma-đi-an mà người Y-sơ-ra-ên trở nên đói khổ rất thê thảm. Dân Y-sơ-ra-ên bèn khóc van cùng CHÚA xin cứu giúp. Khi dân Y-sơ-ra-ên kêu cầu cùng CHÚA vì cớ dân Ma-đi-an, CHÚA bèn sai một vị tiên tri đến với dân Y-sơ-ra-ên phán bảo: “CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: ‘Ta đã đem các ngươi lên khỏi xứ Ai-cập, và đem các ngươi ra khỏi nhà nô lệ. Ta đã giải thoát các ngươi khỏi tay của người Ai-cập, và khỏi tay của những kẻ áp bức các ngươi. Ta đã đuổi chúng đi khỏi trước mặt các ngươi và ban cho các ngươi xứ của chúng, Ta đã phán: Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của các ngươi, các ngươi chớ thờ phượng các thần của dân A-mô-rít trong xứ các ngươi cư ngụ.’ Nhưng các ngươi nào có nghe theo tiếng Ta.” Bấy giờ thiên sứ của CHÚA đến ngồi dưới cây sồi của Óp-ra, trong đất của Giô-ách, thuộc gia tộc A-bi-ê-xê-rít. Ghi-đê-ôn, con trai Giô-ách, đang đập lúa nơi bàn ép rượu, để tránh khỏi dân Ma-đi-an. Thiên sứ của CHÚA hiện ra với ông và phán: “Nguyện CHÚA ở cùng ngươi, hỡi người chiến sĩ anh dũng.” Ghi-đê-ôn đáp: “Thưa Ngài, nếu CHÚA ở cùng chúng tôi, thì tại sao chúng tôi phải ra nông nỗi nầy? Nào những việc lạ lùng mà các tổ phụ chúng tôi thường kể lại cho chúng tôi nghe ở đâu? Họ bảo rằng: ‘CHÚA há chẳng đem các ngươi lên khỏi xứ Ai-cập hay sao?’ Nhưng bây giờ CHÚA đã bỏ chúng tôi, và phó chúng tôi vào tay dân Ma-đi-an.” CHÚA quay lại cùng ông và phán: “Hãy đi, dùng sức ngươi sẵn có mà giải thoát Y-sơ-ra-ên ra khỏi tay dân Ma-đi-an. Ta há chẳng đang sai ngươi đó sao?” Ông đáp: “Nhưng thưa Ngài, làm sao tôi có thể giải thoát dân Y-sơ-ra-ên được? Gia tộc tôi là gia tộc nhỏ nhất trong chi tộc Ma-na-se, còn trong gia đình tôi thì tôi là kẻ nhỏ nhất.” CHÚA phán với ông: “Nhưng Ta sẽ ở với ngươi, và ngươi sẽ đánh bại dân Ma-đi-an như đánh một người vậy.” Ghi-đê-ôn nói: “Nếu tôi được ơn trước mặt Ngài, thì xin Ngài hãy cho tôi một dấu lạ, để chứng tỏ rằng chính Ngài đã phán với tôi. Xin Ngài đừng rời khỏi đây cho đến khi tôi trở lại, mang theo tế lễ, kính dâng lên Ngài.” Ngài phán: “Ta sẽ ở đây cho đến khi ngươi trở lại.” Vậy Ghi-đê-ôn trở về nhà, bắt một con dê con, lấy mười ký bột làm bánh không men. Ông lấy thịt để vào một cái giỏ, và để cháo trong nồi, rồi đem tất cả các món ấy đến dưới cây sồi mà dâng cho Ngài. Thiên sứ của CHÚA phán: “Hãy lấy thịt và bánh không men để trên tảng đá nầy, rồi đổ cháo lên.” Ghi-đê-ôn làm y như vậy. Thiên sứ của CHÚA giơ tay ra, dùng đầu gậy cầm nơi tay đụng vào thịt và bánh không men; lửa từ tảng đá phựt lên thiêu đốt thịt và bánh không men, đồng thời thiên sứ của CHÚA cũng biến mất. Ghi-đê-ôn liền nhận biết rằng ấy là thiên sứ của CHÚA, ông nói: “Ôi lạy CHÚA, là CHÚA Toàn Năng! Thôi, con chắc sẽ chết, vì con đã gặp thiên sứ của CHÚA mặt đối mặt.” Nhưng CHÚA phán: “Hãy an tâm. Đừng sợ. Ngươi sẽ không chết đâu.” Ghi-đê-ôn liền xây một bàn thờ cho CHÚA tại đó và đặt tên là: CHÚA, Đấng Ban Bình An. Bàn thờ ấy vẫn còn ở Óp-ra, trong đất của A-bi-ê-xê-rít, cho đến ngày nay. Đêm đó CHÚA phán với ông: “Hãy bắt con bò đực của cha ngươi, và một con bò đực thứ nhì bảy tuổi, rồi cho kéo đổ bàn thờ Ba-anh của cha ngươi xuống. Cũng hãy chặt bỏ cây trụ A-sê-ra ở bên cạnh nó xuống. Sau đó hãy xây một bàn thờ cho CHÚA, Đức Chúa Trời của ngươi trên vầng đá nầy, theo như cách đã ấn định; rồi bắt con bò đực thứ nhì làm tế lễ thiêu, và lấy gỗ của cây trụ A-sê-ra làm củi đốt.” Vậy, Ghi-đê-ôn chọn mười đầy tớ để giúp ông làm y như lời CHÚA dặn. Vì ông sợ những người khác trong gia đình và dân thành trông thấy, nên thay vì làm ban ngày, ông đã thực hiện việc đó trong ban đêm. Sáng hôm sau, khi dân thành thức dậy, họ thấy bàn thờ của Ba-anh đã đổ xuống, trụ tượng của A-sê-ra đã bị đốn mất, con bò thứ nhì đã được dâng trên bàn thờ vừa mới được xây. Họ bèn hỏi nhau: “Kẻ nào đã làm việc nầy?” Sau khi dò la và tra xét, họ được báo: “Ấy là Ghi-đê-ôn, con của Giô-áp, đã làm điều đó.” Dân thành liền nói với Giô-áp: “Hãy đem con ông ra đây, để nó phải chết. Vì nó đã dám phá dỡ bàn thờ của Ba-anh, và đốn bỏ trụ tượng của A-sê-ra ở bên cạnh.” Nhưng Giô-áp trả lời những người đương đầu với ông: “Có phải các người muốn đấu tranh cho Ba-anh chăng? Các người muốn binh vực cho nó phải không? Ai muốn đấu tranh cho nó thì sẽ bị xử tử sáng nay. Vì nếu nó là thần thì hãy để nó tự đấu tranh cho nó đi. Bởi vì bàn thờ của nó đã bị phá đổ kia mà.” Vì thế, ngày hôm đó người ta gọi Ghi-đê-ôn là Giê-ru-ba-anh; vì nói rằng: “Thôi để cho Ba-anh đấu tranh với ông ấy đi.” Vì ông ấy đã phá đổ bàn thờ của nó kia mà. Bấy giờ tất cả dân Ma-đi-an, dân A-ma-léc, và các dân tộc ở phương đông hiệp lại với nhau. Chúng vượt qua sông Giô-đanh và hạ trại ở thung lũng Ghít-rê-ên. Thần của CHÚA cảm động Ghi-đê-ôn; ông thổi kèn triệu tập, và gia tộc A-bi-ê-xê-rít đều nhóm lại theo ông. Ông sai sứ giả đến khắp địa phận Ma-na-se, và họ cùng nhau hiệp lại theo ông. Ông cũng sai sứ giả đến A-se, Sa-bu-luân, và Nép-ta-li. Họ thảy đều đi lên và hiệp với ông. Bấy giờ Ghi-đê-ôn thưa với Đức Chúa Trời rằng: “Để biết chắc là Ngài muốn dùng tay con giải thoát dân Y-sơ-ra-ên, như lời Ngài đã phán, thì con xin để một tấm lông chiên trong sân đập lúa; nếu sương chỉ đọng trên tấm lông chiên mà thôi, còn đất xung quanh đều khô ráo, thì con biết rằng Ngài sẽ dùng tay con để giải thoát dân Y-sơ-ra-ên như lời Ngài đã phán.” Việc bèn xảy ra như vậy. Sáng hôm sau, ông dậy sớm, ra lấy tấm lông chiên mà vắt, sương từ trong tấm lông chiên chảy ra, hứng đầy một chén. Ghi-đê-ôn lại thưa với Đức Chúa Trời: “Xin Ngài đừng nổi giận cùng con. Xin cho con thưa thêm một lần nữa. Xin cho con thử lại với tấm lông chiên một lần nữa. Lần nầy, xin cho chỉ tấm lông chiên là khô, còn đất xung quanh sẽ phủ đầy sương.” Đêm đó, Đức Chúa Trời làm y như vậy. Chỉ có tấm lông chiên là khô ráo, còn đất xung quanh đều đọng sương ướt đẫm. Sáng hôm sau, Giê-ru-ba-anh cùng tất cả quân binh dậy sớm và đến hạ trại bên suối Ha-rốt; còn trại của dân Ma-đi-an thì nằm trong thung lũng, về phía bắc của họ, dưới chân đồi Mô-rê. CHÚA phán với Ghi-đê-ôn rằng: “Đạo binh theo ngươi đông quá. Nếu Ta phó dân Ma-đi-an vào tay họ, thì dân Y-sơ-ra-ên sẽ tự phụ mà nói rằng: ‘Chính tay ta đã tự giải thoát lấy ta.’ Vậy bây giờ ngươi hãy truyền lịnh trong đạo binh rằng: ‘Ai cảm thấy run sợ và kinh hãi, thì hãy rời khỏi núi Ga-la-át mà trở về nhà đi.’” Thế là có hai mươi hai ngàn người ra về, chỉ còn mười ngàn người ở lại. CHÚA lại phán với Ghi-đê-ôn: “Đạo binh hãy còn đông quá. Hãy bảo họ xuống uống nước, rồi tại đó Ta sẽ lựa ra cho ngươi. Khi Ta phán: ‘Kẻ nầy được đi với ngươi,’ thì kẻ ấy sẽ đi với ngươi; và khi Ta phán: ‘Kẻ nầy không được đi với ngươi,’ thì kẻ ấy sẽ không được đi với ngươi.” Vậy, ông truyền cho đạo binh xuống uống nước; và CHÚA phán với Ghi-đê-ôn rằng: “Tất cả những kẻ dùng lưỡi liếm nước như chó uống nước, thì ngươi hãy để họ ra một bên. Còn những ai cúi xuống uống nước, nhưng lấy tay bụm mà đưa lên miệng, thì ngươi hãy để họ ra một bên.” Chỉ có ba trăm người là bụm nước và đưa lên miệng uống, còn tất cả đều hụp xuống mà uống nước. CHÚA lại phán với Ghi-đê-ôn: “Ta sẽ dùng ba trăm người bụm tay uống nước đó mà giải cứu các ngươi, và Ta sẽ phó dân Ma-đi-an vào tay ngươi. Hãy cho tất cả những người khác trở về nhà.” Vậy Ghi-đê-ôn cho tất cả những người Y-sơ-ra-ên ấy về nhà, mà chỉ giữ lại có ba trăm người. Rồi họ nhận lương thực và cầm những chiếc kèn trong tay. Vả, trại quân của dân Ma-đi-an nằm trong thung lũng, ở phía dưới. Đêm đó, CHÚA phán với Ghi-đê-ôn: “Hãy đứng dậy, xuống tấn công trại quân Ma-đi-an, vì Ta sẽ phó nó vào tay ngươi. Nhưng nếu ngươi sợ tấn công, thì hãy dẫn Phu-ra, đầy tớ ngươi, rồi cùng nó đi xuống đó. Ngươi hãy nghe điều chúng nói, rồi sau đó ngươi sẽ được phấn chí mà tấn công trại giặc.” Vậy Ghi-đê-ôn cùng Phu-ra, đầy tớ ông, lẻn tới gần trạm canh, ở đầu trại. Vả, dân Ma-đi-an, dân A-ma-léc, và các dân tộc phương Đông dựng trại trong thung lũng đông như cào cào; lạc đà của chúng đông vô số, chẳng khác gì cát nơi bờ biển. Khi Ghi-đê-ôn đến, ông nghe một tên lính nói với bạn đồng đội hắn rằng: “Tôi nằm mơ, thấy có một cái bánh lúa mạch tròn lăn vào trại quân Ma-đi-an. Bánh ấy đụng vào trại làm cho trại bật ngã, khiến nó lật ngược từ trên xuống dưới, và làm cho trại bị sụp đổ.” Người bạn hắn đáp: “Điềm đó chẳng khác gì gươm của Ghi-đê-ôn, con trai Giô-ách, người Y-sơ-ra-ên. Trời đã phó dân Ma-đi-an và tất cả đội quân nầy vào tay người ấy rồi.” Khi Ghi-đê-ôn nghe được điềm chiêm bao và nghe rõ lời giải nghĩa thì ông thờ lạy Đức Chúa Trời; rồi ông trở về trại quân Y-sơ-ra-ên và nói: “Hãy thức dậy! Vì CHÚA đã phó đội quân của dân Ma-đi-an vào tay anh em.” Sau khi ông chia ba trăm người thành ba đội, ông trao cho mỗi người một chiếc kèn, một bình không, và một cây đuốc trong bình; rồi ông bảo họ: “Anh em hãy để ý tôi. Hễ tôi làm sao thì anh em làm vậy. Khi tôi đến gần trại giặc, tôi làm thể nào thì anh em cứ làm theo thể ấy. Khi tôi và những người theo tôi thổi kèn, thì anh em cũng hãy thổi kèn quanh trại giặc và la lớn rằng: Vì CHÚA và vì Ghi-đê-ôn!” Vậy Ghi-đê-ôn và một trăm người đi với ông đến vòng đai trại giặc vào khoảng giữa khuya, ngay sau khi đổi gác. Họ thổi kèn, đập vỡ bình cầm sẵn trong tay. Vậy cả ba đội cùng thổi kèn, đập vỡ bình, tay trái giơ cao ngọn đuốc, tay phải cầm kèn và thổi, xong họ la lớn: “Hãy tuốt gươm vì CHÚA và vì Ghi-đê-ôn!” Ai nấy cứ đứng y tại vị trí mình, quanh trại giặc. Bấy giờ cả trại quân đều vỡ chạy; chúng la hét và chạy trốn. Khi họ thổi ba trăm chiếc kèn, CHÚA khiến quân giặc rút gươm chém giết lẫn nhau, và cả đội quân tàn sát lẫn nhau. Tàn quân chạy thoát được trốn đến tận Bết Si-ta, về hướng Xê-rê-đa, và tận biên giới A-bên Mê-hô-la, gần Ta-bát. Dân Y-sơ-ra-ên từ các chi tộc Nép-ta-li, A-se, và Ma-na-se được tin báo, bèn cùng nhau đuổi giết dân Ma-đi-an. Bấy giờ Ghi-đê-ôn sai các sứ giả đến khắp miền núi Ép-ra-im kêu gọi: “Xin hãy xuống đánh dân Ma-đi-an và chiếm các chỗ nước cạn của sông Giô-đanh cho đến Bết Ba-ra, và giữ dọc theo bờ sông.” Vậy tất cả các nam đinh của Ép-ra-im kéo nhau ra. Họ chiếm giữ những chỗ nước cạn của sông Giô-đanh cho đến Bết Ba-ra, và giữ dọc theo bờ sông. Họ bắt sống hai tướng của quân Ma-đi-an là Ô-rếp và Xê-ép. Họ giết Ô-rếp ở tảng đá Ô-rếp, và giết Xê-ép ở vựa ép rượu Xê-ép. Họ tiếp tục truy đuổi dân Ma-đi-an và mang thủ cấp của Ô-rếp và Xê-ép đến trình cho Ghi-đê-ôn lúc ấy đang ở bên kia sông Giô-đanh. Bấy giờ người Ép-ra-im đến bắt bẻ Ghi-đê-ôn rằng: “Tại sao ông đối xử với chúng tôi như vậy? Tại sao khi đi đánh dân Ma-đi-an mà ông không cho gọi chúng tôi?” Họ đả kích Ghi-đê-ôn nặng nề. Nhưng Ghi-đê-ôn đáp lời họ: “Những gì tôi làm có thể sánh được với anh em sao? Há chẳng phải nho mót của Ép-ra-im còn hơn cả một mùa nho của A-bi-ê-se sao? Đức Chúa Trời đã phó vào tay anh em hai tướng lãnh của dân Ma-đi-an là Ô-rếp và Xê-ép, thì những gì tôi đã làm có thể sánh được với anh em sao?” Khi nghe ông nói thế, cơn giận của họ bèn dịu xuống. Ghi-đê-ôn đến sông Giô-đanh và qua sông xong, ông và ba trăm người đi với ông đều mệt đuối nhưng họ vẫn cố sức truy đuổi. Ghi-đê-ôn đến nói với dân Su-cốt rằng: “Xin quý vị cho những người theo tôi ít bánh, vì họ kiệt sức quá rồi, và tôi đang truy kích Xê-bách và Xanh-mu-na, là các vua của dân Ma-đi-an.” Nhưng các quan chức của Su-cốt đáp: “Ông đã cầm chắc trong tay ông sinh mạng của Xê-bách và Xanh-mu-na chưa mà chúng tôi phải lấy bánh cho binh lính ông ăn?” Ghi-đê-ôn đáp: “Nếu vậy thì khi CHÚA đã phó Xê-bách và Xanh-mu-na vào tay tôi, tôi sẽ dùng gai trong sa mạc và gai thạch nam mà xẻ thịt các người ra.” Từ đó ông tiến lên Phê-nu-ên, và cũng hỏi dân Phê-nu-ên như vậy, nhưng họ cũng đáp lại với ông giống như dân Su-cốt đã đáp. Cho nên ông nói với dân Phê-nu-ên rằng: “Khi tôi trở về trong chiến thắng, tôi sẽ phá tan cái tháp nầy.” Bấy giờ Xê-bách và Xanh-mu-na đang ở tại Cát-ca với khoảng mười lăm ngàn binh lính. Đó là quân số còn lại của đại quân các dân phương đông; vì một trăm hai mươi ngàn người cầm gươm đã ngã chết. Ghi-đê-ôn đi lên theo ngã của dân du mục, về phía đông của Nô-bách và Giô-bê-ha, và tấn công vào đội quân trong khi họ không ngờ. Xê-bách và Xanh-mu-na liền chạy trốn; ông đuổi theo họ và bắt được hai vua của dân Ma-đi-an, là Xê-bách và Xanh-mu-na, nên tàn quân liền rối loạn. Ghi-đê-ôn con của Giô-ách từ chiến trường trở về, theo ngã đèo Hê-re. Ông bắt được một cậu thiếu niên, là dân ở Su-cốt, và tra hỏi cậu ấy. Cậu ấy liền kê khai cho Ghi-đê-ôn tên của tất cả quan chức và trưởng lão của thành Su-cốt, gồm bảy mươi bảy người. Sau đó Ghi-đê-ôn đến với dân Su-cốt và nói: “Đây là Xê-bách và Xanh-mu-na, là những người mà các ông đã mỉa mai tôi rằng ‘Ông đã cầm chắc trong tay ông sinh mạng của Xê-bách và Xanh-mu-na chưa mà chúng tôi phải lấy bánh cho binh lính mệt đuối của ông ăn?’” Vậy ông bắt các trưởng lão trong thành, rồi lấy gai trong sa mạc và gai thạch nam mà đánh phạt họ, tức là những người ở Su-cốt. Ông cũng phá huỷ tháp Phê-nu-ên và giết những người ở thành ấy. Kế đó Ghi-đê-ôn hỏi Xê-bách và Xanh-mu-na: “Những người các ngươi giết ở Tha-bô như thế nào?” Họ đáp: “Họ cũng giống như ngươi, người nào cũng vậy, trông như những vương tử.” Ông đáp: “Họ là anh em ta, các con trai của mẹ ta. Thật như CHÚA hằng sống, nếu các ngươi để cho họ còn sống thì ta sẽ không giết các ngươi đâu.” Rồi ông bảo Giê-the, con trưởng nam ông: “Con hãy lại giết họ đi.” Nhưng cậu thiếu niên không dám rút gươm ra, vì cậu ấy sợ, bởi cậu còn niên thiếu. Xê-bách và Xanh-mu-na bèn nói: “Chính ngươi hãy lại giết chúng ta, vì người sao thì sức vậy.” Vậy Ghi-đê-ôn tiến đến và giết Xê-bách và Xanh-mu-na; rồi ông lấy những vật hình lưỡi liềm đeo nơi cổ các lạc đà của họ. Bấy giờ dân Y-sơ-ra-ên nói với Ghi-đê-ôn rằng: “Hãy cai trị chúng tôi, ông, con trai ông, và cháu của ông nữa. Vì ông đã giải thoát chúng tôi khỏi tay dân Ma-đi-an.” Ghi-đê-ôn đáp lời họ: “Tôi sẽ không cai trị anh em, con trai tôi cũng sẽ không cai trị anh em. CHÚA sẽ cai trị anh em.” Rồi Ghi-đê-ôn nói tiếp: “Tôi có một lời yêu cầu anh em. Xin mỗi người hãy cho tôi một vòng đeo tai mà anh em đã lấy làm chiến lợi phẩm.” Họ đáp: “Chúng tôi rất sẵn sàng cho ông.” Vậy họ trải một áo choàng ra, rồi mỗi người ném vào một vòng đeo tai mà họ đã lấy làm chiến lợi phẩm. Số vàng của các vòng đeo tai mà Ghi-đê-ôn xin, cân được mười chín ký-lô rưỡi, không kể những lưỡi liềm, những trân châu, những bộ vương phục màu tím của các vua Ma-đi-an, và những kiềng trang sức trên cổ lạc đà của họ. Ghi-đê-ôn lấy những vàng đó đúc thành một ê-phót, rồi đặt nó trong thành của ông, tại Óp-ra. Toàn dân Y-sơ-ra-ên phạm tội bất trung với Chúa bằng cách thờ phượng nó, và nó đã trở thành một cái bẫy cho Ghi-đê-ôn và gia đình ông. Vậy dân Ma-đi-an bị khuất phục trước dân Y-sơ-ra-ên, và chúng chẳng ngất đầu lên được nữa. Trọn đời của Ghi-đê-ôn, xứ được bình yên trong bốn mươi năm. Giê-ru-ba-anh, con trai của Giô-ách trở về sống trong nhà ông. Ông có bảy mươi con trai; ấy là những con ruột của ông, vì ông có nhiều vợ. Một tỳ thiếp của ông, quê ở Si-chem, cũng sinh cho ông một con trai, mà ông đặt tên là A-bi-mê-léc. Rồi Ghi-đê-ôn, con trai của Giô-ách, qua đời trong tuổi già nua, và người ta chôn ông trong mộ của cha ông là Giô-ách tại Óp-ra, thuộc địa phận của gia tộc A-bi-ê-xê-rít. Vừa khi Ghi-đê-ôn qua đời, dân Y-sơ-ra-ên liền sa ngã và phạm tội bất trung vì đi theo các thần Ba-anh. Họ tôn Ba-anh Bê-rít làm thần của họ. Dân Y-sơ-ra-ên chẳng nhớ rằng CHÚA, Đức Chúa Trời của họ, là Đấng đã giải cứu họ khỏi tay quân thù tứ phía. Họ cũng chẳng bày tỏ lòng trung thành với gia đình của Giê-ru-ba-anh, tức Ghi-đê-ôn, để đền đáp những điều tốt đẹp mà ông đã làm cho Y-sơ-ra-ên. Bấy giờ A-bi-mê-léc, con của Giê-ru-ba-anh đến Si-chem gặp các cậu và những bà con bên ngoại của hắn và nói với họ rằng: “Hãy đi hỏi tất cả những thủ lãnh ở Si-chem xem: ‘Điều nào là tốt hơn cho quý vị, tất cả bảy mươi con trai của Giê-ru-ba-anh cai trị quý vị, hay chỉ cần một người cai trị quý vị thôi?’ Hãy nhớ rằng tôi là máu mủ ruột thịt của quý vị đó.” Vậy những bà con bên ngoại của hắn lặp lại những lời nầy để ủng hộ hắn trước mặt những thủ lãnh của Si-chem. Lòng họ bèn nghiêng theo A-bi-mê-léc, vì họ nói: “Ông ấy là anh em của chúng ta mà.” Họ bèn cho A-bi-mê-léc bảy mươi miếng bạc lấy từ quỹ trong đền thờ của Ba-anh Bê-rít. A-bi-mê-léc dùng số bạc đó mướn những kẻ du đảng hoang đàng đi theo hắn. Hắn trở về nhà cha hắn ở Óp-ra, và trên một tảng đá giết chết bảy mươi anh em của hắn, là các con trai của Giê-ru-ba-anh; ngoại trừ Giô-tham, là con trai út của Giê-ru-ba-anh, còn sống sót, vì người ấy ẩn trốn. Bấy giờ tất cả các thủ lãnh của Si-chem và Bết Mi-lô họp nhau lại tại trụ đá cạnh cây sồi ở Si-chem và lập A-bi-mê-léc làm vua. Khi Giô-tham nghe được tin ấy, ông bèn đi lên đỉnh đèo trên núi Ghê-ri-xim, cất tiếng lớn và nói rằng:“Hỡi những thủ lãnh của Si-chem, xin hãy nghe tôi,Hầu cho Đức Chúa Trời có thể nghe quý vị: Các cây cối đến với nhau để xức dầuCho một kẻ làm vua trên chúng.Chúng đến nói với cây ô-liu rằng:‘Hãy trị vì chúng tôi.’ Cây ô-liu đáp:‘Lẽ nào ta ngừng sản xuất dầu của ta,Là dầu các thần linh và các vua CHÚA tôn quý,Mà đi dao động trên các cây cối sao?’ Các cây bèn đến cây vả và nói:‘Xin hãy đến và trị vì chúng tôi.’ Nhưng cây vả đáp:‘Lẽ nào ta ngừng sản xuất sự ngọt ngào của ta,Và những trái ngọt ngon của ta,Mà đi dao động trên các cây cối sao?’ Các cây bèn đến cây nho và nói:‘Xin hãy đến và trị vì chúng tôi.’ Nhưng cây nho đáp:‘Lẽ nào ta ngừng sản xuất rượu nho của ta,Là rượu làm cho các thần linh và các phàm nhân phấn khởi,Mà đi dao động trên các cây cối sao?’ Các cây bèn đến cây gai và nói:‘Xin hãy đến và trị vì chúng tôi.’ Cây gai bèn nói với chúng:‘Nếu các ngươi thật lòng muốn xức dầu cho ta làm vua trên các ngươi,Thì hãy đến núp dưới bóng của ta;Nếu không, lửa từ gai ta sẽ phát raThiêu rụi những cây tùng hương của Li-ban.’ Vậy bây giờ, nếu quý vị bởi lòng thành và danh dự mà tôn A-bi-mê-léc lên làm vua, nếu quý vị đối xử tốt với Giê-ru-ba-anh và gia đình người, và báo đáp cho người xứng đáng với những việc người đã làm, vì cha tôi đã chiến đấu cho quý vị, xả thân cho quý vị, và giải cứu quý vị khỏi tay dân Ma-đi-an; nhưng bây giờ quý vị nổi lên nghịch lại gia đình của cha tôi, giết hại các con trai người, bảy mươi người chết trên một tảng đá, rồi tôn A-bi-mê-léc, con trai của tỳ thiếp người lên làm vua trên các thủ lãnh của Si-chem, bởi vì hắn là bà con của quý vị, vậy ngày nay, nếu quý vị bởi lòng thành và danh dự mà đối với Giê-ru-ba-anh và gia đình người, thì xin quý vị cứ vui vẻ với A-bi-mê-léc, và hãy để hắn vui vẻ với quý vị; nhưng nếu không phải, thì nguyện lửa từ A-bi-mê-léc thoát ra thiêu hủy các thủ lãnh của Si-chem và Bết Mi-lô; và nguyện lửa từ các thủ lãnh của Si-chem và Bết Mi-lô thiêu hủy A-bi-mê-léc.” Nói xong, Giô-tham chạy trốn đến xứ Bê-e. Ông trốn đến đó vì sợ anh của ông là A-bi-mê-léc. A-bi-mê-léc cai trị trên Y-sơ-ra-ên được ba năm. Bấy giờ CHÚA cho phép một tà linh đến giữa A-bi-mê-léc và các thủ lãnh của Si-chem; và các thủ lãnh của Si-chem sinh lòng phản bội A-bi-mê-léc. Điều nầy xảy ra để báo thù cho tội ác đối với bảy mươi con trai của Giê-ru-ba-anh, và máu của họ phải đổ lại trên A-bi-mê-léc, là anh em của họ, và là kẻ đã giết họ, đồng thời cũng đổ lại trên các thủ lãnh của Si-chem là những người đã tiếp tay cho A-bi-mê-léc để giết hại các anh em của hắn. Vậy, để bày tỏ sự chống đối của họ, các thủ lãnh của Si-chem tổ chức những cuộc phục kích ở các đỉnh đèo. Họ cướp giựt những khách bộ hành qua lại các nơi đó; và người ta báo cáo cho A-bi-mê-léc biết chuyện nầy. Lúc ấy, Ga-anh con trai Ê-bết, cùng với anh em hắn dọn vào Si-chem. Các thủ lãnh của Si-chem để lòng tin tưởng nơi hắn. Chúng ra đồng, hái nho, ép rượu, và tổ chức tiệc mừng. Rồi chúng vào đền thờ thần của chúng mà ăn, uống và chế giễu A-bi-mê-léc. Ga-anh con trai Ê-bết nói: “A-bi-mê-léc là ai, và chúng ta là ai trong thành Si-chem nầy mà phải phục vụ hắn? Há chẳng phải con trai của Giê-ru-ba-anh và Xê-bun là quan viên của hắn phải phục vụ những người của Ha-mô, tổ phụ của Si-chem hay sao? Tại sao chúng ta phải phục vụ hắn chứ? Nếu dân nầy mà ở dưới quyền tôi, thì tôi sẽ dẹp bỏ hắn ngay. Tôi sẽ bảo A-bi-mê-léc rằng, ‘Có giỏi thì dẫn hết đạo quân của ngươi ra đây.’” Khi Xê-bun, là quan viên cai trị thành, nghe những lời của Ga-anh con trai Ê-bên nói thế thì rất tức giận. Xê-bun mật sai các sứ giả đến gặp A-bi-mê-léc tại A-ru-ma và tâu rằng: “Đây nầy, Ga-anh con trai Ê-bết và anh em hắn đã kéo đến Si-chem; chúng đang xúi giục dân thành chống lại vua. Vậy bây giờ, ban đêm, xin vua và các đội quân của vua hãy đến và nằm phục kích ngoài đồng. Đợi khi hừng đông đến, vừa khi mặt trời mọc, xin hãy tấn công vào thành; rồi khi hắn và binh sĩ của hắn kéo ra đối địch, xin vua hãy xử chúng như thế nào tuỳ ý.” Vậy A-bi-mê-léc và tất cả quân lính của hắn chỗi dậy, chia thành bốn đội, đang đêm tiến đến Si-chem, và nằm phục kích ngoài đồng. Khi Ga-anh con trai Ê-bết đi ra và đứng ở cổng thành, A-bi-mê-léc và các quân lính hắn từ chỗ phục kích chỗi dậy. Ga-anh thấy vậy, nói với Xê-bun: “Xem kìa, có người từ trên các đỉnh núi đi xuống!” Xê-bun đáp: “Ấy chỉ là bóng mát của núi mà ông tưởng là người ta đó thôi.” Ga-anh lại nói: “Xem kìa, có người đang từ giữa đồi tràn xuống, và một đội nữa đang từ hướng Cây Thầy Bói đổ về.” Bấy giờ Xê-bun nói: “Những lời phách lối của ông đâu rồi? Ông là người đã nói rằng: ‘A-bi-mê-léc là ai mà chúng ta phải phục vụ hắn?’ Có phải đây là đội quân mà ông đã coi thường chăng? Vậy bây giờ xin ông hãy ra đối địch với họ đi.” Vậy Ga-anh đi trước các thủ lãnh của Si-chem và ra đối địch với A-bi-mê-léc. A-bi-mê-léc đánh đuổi hắn và hắn bỏ chạy trước mặt A-bi-mê-léc. Nhiều người đã tử thương và ngã xuống, đến tận cổng thành. Vậy A-bi-mê-léc ở tại A-ru-ma, còn Xê-bun đuổi Ga-anh và anh em hắn đi, và chúng không còn ở trong Si-chem nữa. Hôm sau, dân thành đi ra đồng. Khi nghe tin báo, A-bi-mê-léc liền dẫn quân lính, chia làm ba đội, nằm phục kích ngoài đồng. Khi hắn thấy dân chúng từ trong thành đã ra đồng, hắn và quân lính hắn chỗi dậy đánh giết họ. A-bi-mê-léc và đội quân đi với hắn tiến vào án ngữ cổng thành, trong khi hai đội kia tấn công những người còn ở ngoài đồng và giết họ. Suốt ngày hôm đó, A-bi-mê-léc tấn công thành; hắn chiếm được thành, giết chết dân cư trong thành, phá hủy thành, và rắc muối trên nó. Khi các thủ lãnh ở Tháp Si-chem nghe thế, họ liền rút vào chiến lũy của đền thờ thần Ên-Bê-rít. A-bi-mê-léc được báo tin rằng tất cả các thủ lãnh của Tháp Si-chem đang họp lại trong đó. A-bi-mê-léc liền lên núi Sanh-môn với đội quân hắn. Hắn lấy một cái rìu, chặt mấy nhánh cây, rồi vác lên vai. Xong hắn bảo các quân sĩ hắn rằng: “Các ngươi có thấy điều ta làm chăng. Lẹ lên. Hãy làm như ta làm.” Vậy mỗi binh sĩ đều chặt các nhánh cây, vác trên vai, đi theo A-bi-mê-léc xuống chất xung quanh chiến lũy và châm lửa đốt nó. Thế là tất cả những người trong Tháp Si-chem đều chết hết; ước chừng một ngàn người, cả nam lẫn nữ. Sau đó A-bi-mê-léc kéo đến Thê-be, vây lấy Thê-be, và đánh hạ thành ấy. Nhưng trong thành có một cái tháp rất kiên cố. Tất cả dân chúng trong thành, cả nam lẫn nữ, và các thủ lãnh của thành đều rút vào trong tháp đó, khóa chặt cửa lại, rồi lên trên sân thượng của tháp. A-bi-mê-léc bèn tiến gần và tấn công tháp. Nhưng khi hắn lại gần cổng tháp để châm lửa đốt nó, thì có một phụ nữ lấy nửa trên của cối đá ném trúng đầu của hắn và làm hắn bị vỡ sọ. Hắn liền gọi người lính vác binh khí cho hắn và bảo: “Hãy rút gươm ra và giết ta ngay, kẻo người ta sẽ bảo: ‘Hắn đã bị một người đàn bà giết chết.’” Vậy người lính trẻ đâm hắn một nhát và hắn chết. Khi dân Y-sơ-ra-ên thấy rằng A-bi-mê-léc đã chết, họ đều trở về nhà mình. Như thế, Đức Chúa Trời đã báo trả cho A-bi-mê-léc tội ác mà hắn đã phạm cùng cha hắn, vì hắn giết chết bảy mươi anh em của hắn. Đức Chúa Trời cũng khiến mọi sự gian ác của dân Si-chem đổ lại trên đầu họ. Những lời nguyền rủa của Giô-tham, con trai Giê-ru-ba-anh đã đến trên chúng. Sau A-bi-mê-léc có Thô-la con trai Phu-a, con cháu Đô-đô, thuộc chi tộc Y-sa-ca, dấy lên để giải cứu Y-sơ-ra-ên. Ông sống tại Sa-mia, trong cao nguyên Ép-ra-im. Ông xử đoán trong Y-sơ-ra-ên hai mươi ba năm rồi qua đời và được chôn ở Sa-mia. Sau ông có Giai-rơ ở Ga-la-át. Ông xử đoán trong Y-sơ-ra-ên hai mươi hai năm. Ông có ba mươi con trai, cỡi ba mươi con lừa, và quản trị ba mươi thôn trong vùng Ga-la-át, mà ngày nay người ta còn gọi là quận Giai-rơ. Khi Giai-rơ qua đời, người ta chôn ông tại Kha-môn. Sau việc ấy, dân Y-sơ-ra-ên làm điều ác trước mặt CHÚA. Họ phục vụ các thần Ba-anh, các thần Át-tạc-tê, các thần của dân A-ram, các thần của dân Si-đôn, các thần của dân Mô-áp, các thần của dân Am-môn, và các thần của dân Phi-li-tin. Họ lìa bỏ CHÚA và không phục vụ Ngài. Cơn thịnh nộ của CHÚA nổi lên cùng Y-sơ-ra-ên. Ngài phó họ vào tay dân Phi-li-tin và vào tay dân Am-môn. Bắt đầu từ năm đó chúng hà hiếp và chà đạp dân Y-sơ-ra-ên; rồi trong mười tám năm, chúng đàn áp dân Y-sơ-ra-ên ở phía đông sông Giô-đanh, trong vùng Ga-la-át, là xứ của dân A-mô-rít. Dân A-mô-rít cũng vượt qua sông Giô-đanh tiến đánh Giu-đa, Bên-gia-min, và nhà Ép-ra-im. Dân Y-sơ-ra-ên bị khốn đốn rất lớn. Bấy giờ dân Y-sơ-ra-ên kêu van cùng CHÚA rằng: “Chúng con đã phạm tội nghịch lại CHÚA, chúng con đã lìa bỏ Đức Chúa Trời mà đi phục vụ các thần Ba-anh.” CHÚA đáp cùng dân Y-sơ-ra-ên: “Khi dân Ai-cập, dân A-mô-rít, dân Am-môn, dân Phi-li-tin, dân Si-đôn, dân A-ma-léc và dân Ma-ôn đàn áp các ngươi và các ngươi kêu van cùng Ta xin giúp đỡ, Ta há không cứu các ngươi ra khỏi tay chúng sao? Nhưng các ngươi đã lìa bỏ Ta mà phục vụ các thần khác, vậy Ta sẽ không cứu giúp các ngươi nữa. Hãy đi kêu cầu các thần mà các ngươi đã chọn. Hãy để chúng cứu giúp các ngươi khi các ngươi bị hoạn nạn.” Nhưng dân Y-sơ-ra-ên thưa cùng CHÚA: “Chúng con đã phạm tội. CHÚA muốn đối xử với chúng con thế nào cũng được, nhưng bây giờ xin CHÚA hãy giải cứu chúng con trước đã.” Họ loại bỏ tất cả các thần ngoại bang ra khỏi họ và họ trở lại phục vụ CHÚA. Lòng Ngài không thể chịu nổi sự đau khổ của Y-sơ-ra-ên nữa. Khi dân Am-môn kéo quân ra hạ trại tại Ga-la-át, dân Y-sơ-ra-ên hiệp nhau lại và hạ trại tại Mích-ba. Những người lãnh đạo của dân Y-sơ-ra-ên ở Ga-la-át nói với nhau: “Ai tấn công dân Am-môn trước sẽ thành lãnh tụ của mọi người sống ở Ga-la-át.” Giép-thê, người Ga-la-át là một dũng sĩ. Mẹ ông là một gái điếm, cha ông là Ga-la-át. Vợ của Ga-la-át cũng sinh được các con trai. Khi các con trai nầy lớn lên, họ đuổi Giép-thê đi mà rằng: “Anh không được hưởng gia tài trong gia đình nầy, vì anh là con của người đàn bà khác.” Vậy Giép-thê lánh xa các em mình và định cư ở xứ Tóp. Có những kẻ lãng tử tụ hiệp theo ông. Sau đó, dân Am-môn kéo ra giao chiến với dân Y-sơ-ra-ên. Các trưởng lão ở Ga-la-át đến xứ Tóp đem Giép-thê về. Họ nói với ông: “Xin về lãnh đạo chúng tôi để chống lại dân Am-môn.” Nhưng Giép-thê đáp với họ: “Quý vị há chẳng ghét tôi và đuổi tôi khỏi nhà cha tôi sao? Tại sao bây giờ khi gặp hoạn nạn quý vị lại đến với tôi?” Các trưởng lão của Ga-la-át đáp: “Xin ông bỏ qua chuyện cũ, bây giờ chúng tôi xin trở lại với ông, ông hãy đi với chúng tôi để chống cự dân Am-môn, và xin ông hãy làm thủ lãnh của tất cả chúng tôi ở Ga-la-át.” Giép-thê đáp: “Quý vị mời tôi về đánh lại dân Am-môn và nếu CHÚA phó dân Am-môn vào tay tôi, liệu quý vị có thật sự để tôi làm thủ lãnh của quý vị không?” Các trưởng lão của Ga-la-át đáp: “Xin CHÚA làm chứng. Chúng tôi quả quyết sẽ làm như điều ông nói.” Vậy Giép-thê đi với các trưởng lão của Ga-la-át. Dân Ga-la-át lập ông làm thủ lãnh và thống soái của họ. Rồi trước mặt CHÚA, tại Mích-ba, ông lặp lại mọi lời ông đã giao kết. Đoạn Giép-thê sai sứ đến vua Am-môn và hỏi: “Chúng tôi với vua có thù nghịch chi mà vua xua quân hãm đánh đất nước chúng tôi?” Vua Am-môn trả lời các sứ giả của Giép-thê rằng: “Đó là vì khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập có chiếm lấy đất của ta, từ Ạt-nôn cho đến Gia-bốc và đến tận sông Giô-đanh. Vậy bây giờ hãy êm thắm trả lại cho ta.” Giép-thê sai các sứ giả trở lại vua Am-môn, và nói: “Giép-thê nói như vầy: Y-sơ-ra-ên không có lấy đất của Mô-áp hoặc đất của dân Am-môn. Nhưng khi họ ra khỏi Ai-cập, họ đi qua đồng vắng để đến Hồng Hải, rồi tiếp tục đến Ca-đê. Khi ấy Y-sơ-ra-ên có sai các sứ giả đến thưa với vua của Ê-đôm rằng: ‘Xin cho phép chúng tôi đi ngang qua xứ của vua.’ Nhưng vua Ê-đôm không chấp thuận. Họ bèn sai các sứ giả đến với vua Mô-áp, nhưng vua ấy cũng chối từ. Vậy dân Y-sơ-ra-ên phải ở lại Ca-đê. Sau đó, Y-sơ-ra-ên phải đi vào trong sa mạc, đi vòng bên ngoài lãnh thổ của Ê-đôm và Mô-áp, rồi đi dọc theo biên giới phía đông của nước Mô-áp, và hạ trại phía bên kia của Ạt-nôn. Họ không vào lãnh thổ của Mô-áp, vì Ạt-nôn là ranh giới của Mô-áp. Kế đó, Y-sơ-ra-ên sai các sứ giả đến Si-hôn, là vua A-mô-rít, đang trị vì tại Hết-bôn, và tâu rằng: ‘Xin cho phép chúng tôi đi ngang qua nước của vua để vào xứ của chúng tôi.’” Tuy nhiên, Si-hôn không tin tưởng dân Y-sơ-ra-ên, nên không cho họ đi ngang qua nước mình. Đã thế vua còn triệu tập tất cả quân đội mình đến hạ trại tại Gia-hát để đánh Y-sơ-ra-ên. Bấy giờ CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã phó Si-hôn và tất cả quân đội của vua ấy vào tay Y-sơ-ra-ên. Y-sơ-ra-ên đánh bại họ và chiếm toàn xứ của dân A-mô-rít đang sống. Họ tiếp thu cả xứ, từ Ạt-nôn cho đến Gia-bốc, từ trong sa mạc cho đến sông Giô-đanh. Vậy CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã đuổi dân A-mô-rít đi khỏi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên của Ngài rồi, thì bây giờ vua lấy quyền gì mà đòi những đất ấy lại? Vua há chẳng nhận lấy những gì mà Kê-mốt, là thần của vua, ban cho vua sao? Cũng vậy, những gì mà CHÚA, là Thần của chúng tôi ban cho chúng tôi thì chúng tôi giữ lấy. Vua há có giỏi hơn Ba-lác, con trai Xếp-bô, là vua của Mô-áp chăng? Vua ấy có bao giờ dám tranh chấp hay chống chọi với Y-sơ-ra-ên chăng? Trong ba trăm năm, Y-sơ-ra-ên chiếm lấy Hết-bôn và những vùng phụ cận nó, A-rô-e và những vùng phụ cận nó, và tất cả các thành dọc theo Ạt-nôn, tại sao trong khoảng thời gian đó vua không lấy lại đi? Tôi không có làm gì sai với vua đâu, nhưng vua có làm sai với tôi đó, vì vua gây chiến chống tôi. Cầu xin CHÚA, là Đấng Phán Xét, xét xử sự tranh tụng giữa dân Y-sơ-ra-ên và dân Am-môn. Tuy nhiên, vua của Am-môn không thèm để ý đến những lời của Giép-thê sai trình tâu với vua. Bấy giờ Thần của CHÚA cảm động Giép-thê. Ông băng qua Ga-la-át và Ma-na-se, rồi vượt qua Mích-ba ở Ga-la-át, và từ đó ông tiến đánh dân Am-môn. Giép-thê khấn nguyện với CHÚA rằng: “Nếu CHÚA phó dân Am-môn vào tay con, thì khi con chiến thắng dân Am-môn trở về, bất cứ người nào từ cửa nhà con đi ra đón con, người ấy sẽ thuộc về CHÚA, con sẽ dâng người ấy làm tế lễ thiêu cho CHÚA.” Rồi Giép-thê tiến đánh dân Am-môn, và CHÚA phó chúng vào tay ông. Ông đánh hạ hai mươi thành của chúng, từ A-rô-e cho đến vùng phụ cận của Mi-nít, kéo dài đến A-bên Kê-ra-mim. Ấy là một cuộc bại trận rất lớn. Như thế, dân Am-môn bị khuất phục trước mặt dân Y-sơ-ra-ên. Khi Giép-thê trở về nhà ông tại Mích-ba; kìa, con gái của ông cầm trống con đi ra nhảy múa đón mừng ông. Nàng lại là đứa con một. Ngoài nàng ra Giép-thê không có con trai hay con gái nào khác. Khi Giép-thê thấy nàng, thì ông xé áo ông và khóc: “Ôi, con của cha ơi, con làm cho cha đau khổ và khó xử biết bao; bởi vì cha có khấn nguyện với CHÚA, và cha không thể nuốt lời được.” Nàng đáp: “Thưa cha, nếu cha đã có lời khấn nguyện với CHÚA, xin cha hãy làm cho con y như những lời cha đã khấn hứa. Vì bây giờ CHÚA đã báo trả những kẻ thù nghịch của cha là dân Am-môn rồi.” Đoạn, nàng nói với ông: “Nhưng xin cha cho con xin điều nầy. Xin cha cho con hai tháng để con rong chơi trên núi rừng và để con cùng với bạn bè con khóc cho sự đồng trinh của con.” Ông đáp: “Con cứ đi.” Rồi ông để cho nàng đi hai tháng. Nàng và các bạn nàng lên núi và khóc cho sự đồng trinh của nàng. Sau hai tháng, nàng trở về với cha nàng, và ông đã làm cho nàng như lời ông đã khấn nguyện. Nàng chẳng hề biết một người nam nào.Kể từ đó, trong Y-sơ-ra-ên có tục lệ, hằng năm các thiếu nữ trong Y-sơ-ra-ên dành bốn ngày để đi than khóc con gái của Giép-thê, người Ga-la-át. Người Ép-ra-im hiệp nhau lại, và vượt qua Xa-phôn, rồi sai người đến nói với Giép-thê: “Tại sao ông đi đánh dân Am-môn mà không gọi chúng tôi đi với ông? Chúng tôi sẽ đến đốt nhà ông và thiêu sống ông luôn.” Giép-thê đáp lời họ: “Tôi và dân tôi có cuộc tranh chấp rất lớn với dân Am-môn, và dầu tôi đã kêu cứu với anh em, nhưng anh em chẳng đến tiếp cứu chúng tôi khỏi tay chúng. Khi tôi thấy anh em không đến giúp đỡ, thì tôi đã liều mạng vượt qua tấn công dân Am-môn, và CHÚA đã phó chúng vào tay tôi. Vậy thì tại sao ngày nay anh em lại đến đánh tôi?” Giép-thê liền triệu tập người Ga-la-át để đánh lại người Ép-ra-im. Người Ga-la-át đánh bại người Ép-ra-im, bởi vì người Ép-ra-im có nói: “Bọn Ga-la-át các ngươi chỉ là thứ trốn chui trốn nhủi giữa Ép-ra-im và Ma-na-se thôi.” Người Ga-la-át chiếm giữ những chỗ cạn lội qua sông Giô-đanh để trở về Ép-ra-im, rồi khi có người Ép-ra-im sống sót nào đến nói: “Hãy cho tôi qua sông,” thì người Ga-la-át hỏi: “Ngươi có phải là người Ép-ra-im không?” Nếu người ấy bảo: “Không,” thì họ liền bảo người ấy: “Hãy nói: ‘Si-bô-lết,’” mà người ấy nói: “Xi-bô-lết,” vì người ấy không thể phát âm chính xác được, thì họ liền bắt người ấy và giết ngay tại chỗ cạn lội qua sông Giô-đanh. Vào thời ấy, đã có bốn mươi hai ngàn người Ép-ra-im bị giết chết. Giép-thê làm thẩm phán trên Y-sơ-ra-ên được sáu năm. Rồi Giép-thê, người Ga-la-át qua đời, và được chôn trong một thành ở Ga-la-át. Sau ông, có Íp-san, người Bết-lê-hem xử đoán trong Y-sơ-ra-ên. Ông có ba mươi con trai và ba mươi con gái. Ông gả các con gái cho người ngoài dòng họ, và cưới ba mươi cô gái ngoài dòng họ làm vợ cho các con trai ông. Íp-san xử đoán trong Y-sơ-ra-ên được bảy năm Rồi Íp-san qua đời và được chôn tại Bết-lê-hem. Sau ông, có Ê-lơn, người Sa-bu-luân, xử đoán trong Y-sơ-ra-ên mười năm. Rồi Ê-lơn, người Sa-bu-luân, qua đời và được chôn ở A-gia-lôn, trong đất của chi tộc Sa-bu-luân. Sau ông, có Áp-đôn, con trai Hi-lên, người Phi-ra-thôn xử đoán trong Y-sơ-ra-ên. Ông có bốn mươi con trai và ba mươi cháu trai. Họ cỡi bảy mươi con lừa. Ông xử đoán trong Y-sơ-ra-ên được tám năm. Rồi Áp-đôn, con trai Hi-lên, qua đời và được chôn ở Phi-ra-thôn, trong đất của chi tộc Ép-ra-im, trong miền cao nguyên của dân A-ma-léc. Dân Y-sơ-ra-ên lại làm điều ác trước mặt CHÚA, vậy CHÚA phó họ vào tay dân Phi-li-tin trong bốn mươi năm. Có một người ở Xô-ra, tên là Ma-nô-a, thuộc chi tộc Đan; vợ ông son sẻ, không con. Thiên sứ của CHÚA hiện ra cùng nàng và bảo: “Nầy, ngươi vốn son sẻ, không con, nhưng ngươi sẽ có thai và sinh một con trai. Vậy từ nay ngươi chớ uống rượu hay bất cứ thức uống gì có men, ngươi cũng đừng ăn vật gì không thanh sạch, vì ngươi sẽ thụ thai và sinh một con trai. Dao cạo sẽ không qua đầu nó, vì đứa trẻ sẽ thành một người Na-xi-rê, biệt riêng ra cho Đức Chúa Trời từ lúc sinh ra, và nó sẽ giải cứu Y-sơ-ra-ên ra khỏi tay dân Phi-li-tin.” Nàng đi thuật lại cho chồng nàng và nói: “Một người của Đức Chúa Trời có đến gặp em. Diện mạo người ấy giống như thiên sứ của Đức Chúa Trời, rất đáng kinh sợ. Em không dám hỏi người ấy từ đâu đến, và người ấy cũng không nói cho em biết tên. Nhưng người ấy bảo em rằng: ‘Ngươi sẽ có thai và sinh một con trai. Vậy từ nay ngươi không được uống rượu hay uống bất cứ thức gì có men, và cũng không được ăn những vật không thanh sạch, vì đứa trẻ ấy sẽ thành người Na-xi-rê của Đức Chúa Trời từ lúc sinh ra cho đến khi qua đời.’” Ma-nô-a bèn cầu nguyện với CHÚA: “Lạy CHÚA, con cầu xin Ngài, xin CHÚA sai người của Đức Chúa Trời đến với chúng con một lần nữa, để dạy chúng con biết cách nuôi dưỡng đứa bé sắp sinh như thế nào.” Đức Chúa Trời nghe lời cầu nguyện của Ma-nô-a, và thiên sứ của CHÚA trở lại gặp người nữ khi nàng đang ở ngoài đồng; khi ấy Ma-nô-a chồng nàng không có ở đó. Nàng liền vội vàng chạy đi báo tin cho chồng rằng: “Người ấy đang ở đây! Người đã hiện ra với em hôm trước đó!” Ma-nô-a chỗi dậy và đi theo vợ. Khi gặp người ấy, Ma-nô-a hỏi: “Thưa có phải ngài là người đã nói chuyện với vợ tôi không?”Người đáp: “Chính ta.” Vậy Ma-nô-a hỏi người: “Khi lời của ngài được ứng nghiệm, thì đứa trẻ phải giữ những quy luật gì trong đời sống và trong việc làm?” Thiên sứ của CHÚA phán: “Vợ ngươi phải làm tất cả những gì ta đã bảo nàng. Nàng không được ăn bất cứ thức gì ra từ vườn nho, không được uống rượu, hay thức chi có men, cũng không được ăn vật chi không thanh sạch. Nàng phải làm tất cả những gì ta đã bảo nàng.” Ma-nô-a thưa với thiên sứ của CHÚA: “Xin mời ngài ở nán lại để chúng tôi được dâng cho ngài một con dê con.” Thiên sứ của CHÚA đáp: “Dầu ngươi có cầm ta lại, ta cũng không ăn bất cứ thức ăn nào của ngươi đâu. Nhưng nếu ngươi muốn dâng một tế lễ thiêu. Hãy dâng nó lên cho CHÚA.” Ma-nô-a không biết rằng đấng ông đang nói chuyện là thiên sứ của CHÚA. Đoạn Ma-nô-a hỏi thiên sứ của CHÚA: “Danh ngài là chi để chúng tôi biết mà tôn kính khi lời của ngài được ứng nghiệm?” Người đáp: “Tại sao ngươi hỏi danh ta? Danh ta quá sức hiểu biết của ngươi.” Rồi Ma-nô-a bắt một con dê tơ, cùng tế lễ chay, đem để trên một tảng đá, dâng lên cho CHÚA. Và CHÚA đã làm một việc rất lạ lùng trước sự chứng kiến của Ma-nô-a và vợ ông: Đang khi ngọn lửa từ bàn thờ bốc lên trời, thì thiên sứ của CHÚA cũng thăng thiên theo ngọn lửa. Thấy vậy, Ma-nô-a và vợ ông liền sấp mặt xuống đất. Khi thấy thiên sứ của CHÚA không tái hiện nữa, Ma-nô-a nhận biết rằng ấy thật là thiên sứ của CHÚA. Ma-nô-a nói với vợ: “Chắc vợ chồng chúng ta phải chết rồi. Vì chúng ta đã thấy Đức Chúa Trời.” Nhưng vợ ông nói: “Nếu CHÚA muốn giết chúng ta, thì Ngài đã không nhậm tế lễ thiêu và tế lễ chay từ tay chúng ta dâng, và Ngài cũng không bảo chúng ta tất cả những điều nầy như chúng ta đã được nghe bảo hôm nay.” Nàng sinh một con trai và đặt tên là Sam-sôn. Đứa trẻ lớn lên và CHÚA ban phước cho. Thần của CHÚA bắt đầu tác động trên Sam-sôn khi ông đang ở Ma-ha-ne thuộc Đan, khoảng giữa Xô-ra và Ê-ta-ôn. Sam-sôn đi xuống Thim-na và thấy một thiếu nữ Phi-li-tin ở đó. Khi trở về nhà, ông thưa với cha mẹ: “Con có thấy một thiếu nữ Phi-li-tin ở Thim-na, bây giờ xin cha mẹ cưới cô ấy làm vợ cho con.” Cha mẹ ông đáp: “Trong vòng bà con chúng ta hay trong vòng dân tộc chúng ta không có một người nữ nào con có thể lấy làm vợ hay sao, mà con phải đi cưới một người nữ trong dân Phi-li-tin không cắt bì làm vợ?” Nhưng Sam-sôn nói với cha: “Xin cha cưới cô ấy cho con. Vì cô ấy hạp mắt con.” Cha mẹ ông không biết rằng việc ấy đến từ CHÚA. Ngài tạo cơ hội để ông đối đầu với dân Phi-li-tin; vì lúc ấy người Phi-li-tin đang cai trị trên Y-sơ-ra-ên. Sam-sôn với cha mẹ ông đi xuống Thim-na. Khi họ vừa đến khu các vườn nho ở Thim-na, thì kìa, một con sư tử tơ gầm lên và chạy tới vồ Sam-sôn. Thần của CHÚA ngự xuống trên ông một cách mạnh mẽ nên ông dùng hai tay không xé con sư tử ra như thể xé một con dê con vậy. Nhưng ông không nói cho cha mẹ ông biết chuyện ông đã làm. Rồi ông đi xuống, nói chuyện với cô thiếu nữ, và cô ấy hạp mắt Sam-sôn. Cách ít lâu, Sam-sôn trở lại cưới cô gái. Ông đi rẽ qua xem thử xác con sư tử hôm trước đã ra sao. Và kìa, trong xác khô của nó có một tổ ong đầy mật. Ông giơ tay lấy vỉ mật vừa đi vừa ăn. Ông cũng đem mời cha mẹ ông ăn nữa, và họ cùng ăn, nhưng ông không nói cho họ biết mật ấy đã lấy ra từ xác sư tử. Bấy giờ cha của Sam-sôn xuống lo lễ cưới cô thiếu nữ đó cho Sam-sôn. Sam-sôn tổ chức một bữa tiệc để thết đãi theo như phong tục của các chàng rể thời ấy. Khi thấy ông, họ giới thiệu cho ông ba mươi thanh niên để làm bạn. Sam-sôn nói với họ: “Xin cho tôi đố anh em một câu đố, và nếu trong vòng bảy ngày của tiệc cưới, anh em trả lời được, thì tôi sẽ cho anh em ba mươi chiếc áo vải gai và ba mươi bộ y phục. Còn nếu anh em không thể giải được câu đố thì anh em phải cho tôi ba mươi chiếc áo vải gai và ba mươi bộ y phục.”Họ đáp: “Anh hãy ra câu đố đi. Chúng tôi nghe đây.” Ông nói:“Từ vật ăn lấy ra được món ăn,Từ kẻ mạnh lấy ra được món ngọt.”Ba ngày trôi qua mà họ vẫn chưa tìm ra được câu giải đáp. Đến ngày thứ tư, họ đến nói với vợ Sam-sôn: “Cô phải dụ chồng cô giải đáp câu đố cho chúng tôi, nếu không chúng tôi sẽ đốt nhà cô, thiêu sống cô và cả nhà cha cô trong đó. Bộ các người tính mời chúng tôi đến đây để bóc lột chúng tôi hả?” Thế là vợ Sam-sôn đến khóc lóc với ông: “Anh ghét em, chứ anh có thương em gì đâu. Anh ra một câu đố cho dân tộc em mà anh không cho em biết câu giải đáp.” Ông đáp: “Ngay cả cha mẹ anh mà anh còn không cho biết, thì tại sao anh phải nói cho em?” Từ hôm đó cho đến ngày thứ bảy của tiệc cưới, nàng cứ thút thít khóc lóc mãi. Cho nên đến ngày thứ bảy, ông chịu không nổi mà phải giải nghĩa câu đố cho nàng; bởi vì nàng cứ liên tục làm áp lực với ông mãi. Nàng liền nói lại cho dân tộc nàng biết câu giải đáp. Trước lúc mặt trời lặn của ngày thứ bảy các thanh niên trong thành đến nói với ông:“Có gì ngọt hơn mật ong?Có gì mạnh hơn sư tử?”Sam-sôn nói với họ:“Nếu anh em không cày bằng bò cái tơ của tôi,Thì làm sao anh em có thể giải được câu đố của tôi.” Thần của CHÚA ngự xuống trên ông mạnh mẽ. Ông đi xuống Ách-ca-lôn giết ba mươi người Phi-li-tin, lột lấy áo xống của họ và thưởng cho những người giải đáp được câu đố. Rồi ông nổi giận phừng phừng và bỏ về nhà của cha ông. Còn vợ của Sam-sôn thì bị bắt gả cho một thanh niên trong đám bạn đã đến dự tiệc cưới của ông. Sau đó, đến mùa gặt lúa, Sam-sôn dắt một con dê con làm quà xuống thăm vợ. Ông nói: “Xin cho con vào gặp vợ con trong phòng nàng.” Nhưng cha nàng không cho ông vào. Ông ấy bảo: “Tôi tưởng là cậu ghét nó lắm, nên tôi đã gả nó cho bạn cậu rồi. Em gái nó há chẳng xinh đẹp hơn nó sao? Cậu hãy lấy cô em thế đi.” Sam-sôn nói với họ: “Nếu lần nầy tôi có làm gì hại người Phi-li-tin thì tôi cũng vô tội thôi.” Vậy Sam-sôn đi ra, bắt ba trăm con chồn, cột đuôi chúng thành từng cặp; rồi buộc một bó đuốc vào mỗi cặp đuôi. Ông đốt đuốc và thả chúng chạy vào đồng ruộng của người Phi-li-tin. Vậy ông thiêu rụi cả lúa đã bó, lẫn lúa chưa gặt, các vườn nho, luôn với các rẫy ô-liu. Người Phi-li-tin liền hỏi: “Ai đã làm như thế?” Người ta trả lời: “Sam-sôn, rễ của một người ở Thim-na. Vì người ấy đem vợ hắn gả cho một người bạn của hắn.” Thế là người Phi-li-tin đi lên, bắt nàng và cha nàng và đem thiêu sống. Sam-sôn nói với họ: “Vì các ngươi đã làm thế, thì ta cũng sẽ không ngừng cho đến khi ta báo được thù xong.” Ông bèn xông vào họ và đánh giết nhiều người. Xong rồi ông đi xuống một hang đá ở Ê-tam mà trú ẩn. Dân Phi-li-tin kéo lên, hạ trại ở Giu-đa, và tràn đến Lê-chi. Người Giu-đa hỏi: “Tại sao các người lên đánh chúng tôi?”Họ đáp: “Chúng tôi lên đây để bắt Sam-sôn. Chúng tôi phải làm cho hắn như hắn đã làm cho chúng tôi.” Đoạn, ba ngàn người Giu-đa đi xuống hang đá ở Ê-tam và nói với Sam-sôn: “Anh không biết là người Phi-li-tin đang cai trị chúng ta sao? Tại sao anh lại gây liên lụy cho chúng tôi như thế nầy?”Ông trả lời: “Tôi chỉ làm cho chúng những gì chúng đã làm cho tôi thôi.” Họ nói với ông: “Chúng tôi đến để xin trói anh và nộp anh cho người Phi-li-tin đây.”Sam-sôn đáp: “Xin hãy thề với tôi là chính anh em sẽ không giết tôi.” Họ đáp: “Chúng tôi đồng ý. Chúng tôi chỉ muốn trói anh và nộp anh cho người Phi-li-tin thôi, chứ chúng tôi không muốn giết anh đâu.” Vậy họ lấy hai sợi dây thừng mới trói Sam-sôn lại và dẫn ông lên khỏi hang đá. Khi ông đến gần Lê-chi, dân Phi-li-tin đổ xô ra reo hò. Thần của CHÚA ngự xuống trên ông mạnh mẽ. Những sợi dây thừng trói tay ông trở nên như những sợi chỉ gai bị lửa đốt; chúng tàn rụi khỏi tay ông. Thấy một cái xương hàm lừa còn mới, ông lượm lên và dùng nó đánh giết một ngàn người Phi-li-tin. Đoạn ông nói:“Với một chiếc hàm lừa,Ta đã chất thây thành đống;Với một chiếc hàm lừa,Ta đã giết một ngàn người.” Nói xong, ông vứt chiếc hàm lừa đi; và người ta đã gọi nơi đó là “Đồi Hàm Lừa.” Rồi Sam-sôn cảm thấy khát nước quá đỗi. Ông kêu cầu với CHÚA rằng, “CHÚA đã cho tôi tớ CHÚA được chiến thắng lớn như thế nầy, lẽ nào giờ đây con phải chết khát và sa vào tay những kẻ không cắt bì sao?” Đức Chúa Trời bèn khiến một bộng đá ở Lê-chi nứt ra, nước từ đó tuôn ra. Sam-sôn đến uống, sức lực được phục hồi và tinh thần được phấn khởi trở lại. Bởi thế người ta đặt tên suối nước đó là “Suối Nước Cầu Xin” và con suối ấy vẫn còn tại Lê-chi cho đến ngày nay. Sam-sôn xử đoán trong Y-sơ-ra-ên hai mươi năm, trong thời dân Phi-li-tin cường thịnh. Một ngày nọ, Sam-sôn đến Ga-xa và thấy một gái điếm tại đó. Ông vào nhà nàng và ngủ đêm với nàng. Người trong thành Ga-xa báo cho nhau rằng: “Sam-sôn đã đến đây!” Thế là họ vây phục chỗ ông ở và nằm đợi thâu đêm ở cổng thành. Suốt đêm họ không động tĩnh, vì nói rằng: “Hãy đợi đến sáng, chúng ta sẽ giết nó.” Nhưng Sam-sôn nằm đó cho đến nửa đêm. Ông thức dậy, nắm hai cánh cổng thành, cùng với hai trụ cổng, mà giựt tung nó ra, luôn cả then cài; rồi ông vác chúng trên vai, đem lên đỉnh đồi, đối diện Hếp-rôn. Sau đó ít lâu, ông yêu mến một cô gái trong Thung Lũng Sô-réc, tên là Đa-li-la. Các thủ lãnh của Phi-li-tin đến gặp nàng và bảo: “Cô hãy cố dụ hắn nói cho cô bí mật của sức mạnh phi thường hắn có và cách nào để thắng hơn hắn, hầu chúng tôi có thể bắt trói hắn lại và chế ngự hắn. Rồi mỗi người chúng tôi sẽ thưởng cho cô một ngàn một trăm miếng bạc.” Vậy Đa-li-la nói với Sam-sôn: “Anh hãy nói cho em biết do đâu mà anh có sức mạnh phi thường như thế và làm cách nào để trói anh lại và chế ngự được anh đi.” Sam-sôn trả lời nàng: “Nếu có ai trói anh bằng bảy sợi dây cung tươi, chưa khô, thì anh sẽ yếu đi như bao nhiêu người khác.” Các lãnh tụ Phi-li-tin liền mang cho nàng bảy sợi dây cung tươi, chưa khô, rồi nàng dùng chúng trói ông lại. Sau khi cho người mai phục trong phòng, nàng gọi ông, “Sam-sôn ơi, người Phi-li-tin đang tấn công anh đó.” Nhưng ông bứt đứt các dây cung dễ dàng như người ta đưa những sợi chỉ vào ngọn lửa. Vậy người ta không biết bí mật của sức mạnh ông đến từ đâu. Đa-li-la bèn nói với ông: “Anh đánh lừa em. Anh dối gạt em. Bây giờ anh hãy nói cho em biết làm sao trói được anh đi.” Ông nói: “Nếu có ai trói anh thật chặt bằng những dây thừng còn mới, chưa dùng lần nào, thì anh sẽ yếu đi như bao nhiêu người khác.” Vậy Đa-li-la lấy những dây thừng mới và trói ông lại. Sau khi cho người mai phục sẵn trong phòng, nàng gọi: “Sam-sôn ơi, người Phi-li-tin đang tấn công anh đó.” Nhưng ông bứt đứt các dây thừng khỏi tay ông như bứt chỉ. Đa-li-la bèn nói với ông: “Cho đến giờ phút nầy anh vẫn còn gạt em, anh nói dối với em. Nói cho em biết làm sao trói anh lại được đi.”Ông đáp: “Nếu em dệt bảy lọn tóc của anh vào khung cửi, rồi lấy ghim gài chặt chúng vào, thì anh sẽ yếu đi như bao nhiêu người khác.” Vậy Đa-li-la đợi cho Sam-sôn ngủ rồi lấy bảy lọn tóc của Sam-sôn dệt vào khung cửi, và lấy ghim gài chặt lại. Xong nàng gọi: “Sam-sôn ơi, người Phi-li-tin đang tấn công anh đó.” Ông thức giấc, bứt đứt cả ghim cài và khung cửi. Bấy giờ Đa-li-la nói với ông: “Làm sao anh có thể nói được rằng: ‘Anh yêu em,’ trong khi anh không thật lòng với em. Đây là lần thứ ba anh đã gạt em và không nói cho em biết do đâu mà anh có sức mạnh phi thường như vậy.” Cứ như thế mà ngày nào nàng cũng trách móc giận hờn, khiến cho ông bực bội thiếu điều muốn chết. Ông bèn khai thật với nàng tất cả. Ông nói: “Dao cạo chưa hề đưa qua đầu anh bao giờ, bởi vì anh là người Na-xi-rê của Đức Chúa Trời từ khi còn trong lòng mẹ. Nếu tóc anh bị cạo đi, thì sức mạnh trong anh cũng sẽ biến mất, và anh sẽ yếu đi như bao nhiêu người khác.” Khi Đa-li-la thấy rằng ông đã khai thật với nàng mọi sự, nàng liền cho người đến báo với các lãnh tụ của dân Phi-li-tin rằng: “Hãy trở lại một lần nữa. Hắn đã khai thật với tôi tất cả rồi.” Vậy các lãnh tụ của dân Phi-li-tin trở lại, đem bạc theo trong tay. Nàng dỗ Sam-sôn ngủ trên đùi nàng, rồi nàng sai người cạo sạch bảy lọn tóc trên đầu ông, và như thế nàng chế ngự được ông; sức lực ông đã lìa khỏi ông. Xong nàng nói: “Sam-sôn ơi, người Phi-li-tin đang tấn công anh đó.” Ông thức dậy và thầm nghĩ: “Ta sẽ thoát khỏi như những lần trước và ta sẽ gỡ mình ra.” Nhưng ông không biết rằng CHÚA đã lìa khỏi ông. Dân Phi-li-tin bắt ông, móc hai mắt ông, và đem ông xuống Ga-xa. Chúng xiềng ông bằng những sợi xích đồng, và bắt ông xay cối trong ngục. Nhưng tóc của ông sau khi bị cạo đã bắt đầu mọc lại. Các lãnh tụ của dân Phi-li-tin họp lại để dâng một tế lễ trọng thể cho Đa-gôn, thần của họ, và để liên hoan, vì họ nói rằng: “Thần của chúng ta đã phó kẻ thù của chúng ta là Sam-sôn vào tay chúng ta.” Khi dân Phi-li-tin thấy Sam-sôn, họ ca tụng thần của họ rằng:“Thần của chúng ta đã phó kẻ thù của chúng taVào tay chúng ta;Ấy là kẻ đã phá hoại xứ sở chúng taVà đã giết hại nhiều người.” Rồi khi hứng chí, họ gào vang: “Hãy đem Sam-sôn ra đây, để hắn giúp vui cho chúng ta.” Vậy họ dẫn Sam-sôn ra khỏi ngục để ông làm trò cho họ. Họ để ông đứng giữa các trụ cột. Sam-sôn nói với người hầu trẻ đang dắt tay ông rằng: “Hãy dẫn ta lại hàng trụ cột chống đỡ ngôi đền để ta có thể dựa vào đó.” Khi ấy trong đền có rất đông người, cả nam lẫn nữ; tất cả lãnh tụ của dân Phi-li-tin đều ở đó, và trên sân thượng của đền có khoảng ba ngàn người, cả nam lẫn nữ, chờ xem Sam-sôn làm trò. Sam-sôn cầu nguyện với CHÚA rằng: “Lạy CHÚA, xin Ngài nhớ đến con. Đức Chúa Trời ôi, xin cho con có sức mạnh chỉ một lần nữa thôi, để con báo thù dân Phi-li-tin vì đôi mắt của con.” Rồi Sam-sôn với tay vịn vào hai cây trụ chính chống đỡ cả ngôi đền. Ông lấy thế bằng cách vịn một tay vào cây bên phải và một tay vào cây bên trái. Đoạn Sam-sôn nói: “Nguyện tôi bị chết chung với dân Phi-li-tin.” Rồi ông lấy hết sức đẩy hai cây trụ ra, và ngôi đền sụp đổ trên các lãnh tụ và dân chúng đang ở trong đó. Ấy vậy, lúc chết Sam-sôn giết nhiều người hơn khi còn sống. Kế đó, các em trai ông và toàn gia đình của cha ông xuống lấy xác của ông về. Họ đem thi thể ông về chôn trong mộ của Ma-nô-a, cha ông, khoảng giữa Xô-ra và Ê-ta-ôn. Sam-sôn xử đoán trong Y-sơ-ra-ên được hai mươi năm. Bấy giờ có một người trong vùng cao nguyên của Ép-ra-im tên là Mi-ca. Người ấy nói với mẹ ông rằng: “Một ngàn một trăm nén bạc của mẹ đã bị mất và mẹ nguyền rủa kẻ nào đã lấy bạc đó như thế nào con đều nghe cả. Số bạc ấy hiện đang ở trong tay con. Chính con đã lấy nó.” Người mẹ đáp: “Nguyện CHÚA ban phước cho con, con trai của mẹ.” Khi Mi-ca trả một ngàn một trăm nén bạc lại cho mẹ của ông, bà nói: “Mẹ quyết định biệt riêng số bạc nầy ra thánh cho CHÚA, trên danh nghĩa của con, để khắc một hình tượng và đúc một pho tượng. Coi như mẹ trao nó lại cho con.” Vậy Mi-ca trả bạc lại cho mẹ của ông. Bà bèn lấy hai trăm nén bạc giao cho người thợ bạc; người ấy đem chế thành một hình tượng và đúc ra một pho tượng, rồi người ta đem để chúng trong nhà của Mi-ca. Ông Mi-ca nầy cũng dựng một cái miếu thờ, làm một cái ê-phót và một số tượng thần, rồi lập một con trai của ông lên làm thầy tế lễ. Vả lúc ấy trong Y-sơ-ra-ên không có vua, ai nấy đều làm theo ý mình cho là phải. Có một thanh niên Lê-vi, quê ở Bết-lê-hem trong miền Giu-đa. Thanh niên nầy sinh trưởng và lớn lên ở Giu-đa. Nhưng chàng rời bỏ Bết-lê-hem trong miền Giu-đa để đi tìm một nơi lập nghiệp. Trên đường đi chàng ghé đến nhà của Mi-ca ở cao nguyên Ép-ra-im. Mi-ca hỏi chàng: “Anh từ đâu đến?” Người ấy đáp: “Tôi là người Lê-vi quê ở Bết-lê-hem trong miền Giu-đa, và tôi đang đi kiếm một nơi để lập nghiệp.” Mi-ca nói: “Nếu vậy mời anh ở lại đây với tôi, làm cha tôi và làm thầy tế lễ của tôi. Tôi sẽ trả cho anh mười nén bạc một năm, còn y phục và thực phẩm, tôi sẽ cung cấp cho anh đầy đủ.” Vậy người Lê-vi bằng lòng ở lại với Mi-ca, và Mi-ca xem chàng như một con trai của ông. Rồi Mi-ca lập chàng thanh niên Lê-vi ấy làm thầy tế lễ cho mình, và người ấy sống trong nhà của Mi-ca. Xong rồi Mi-ca nói: “Bây giờ ta biết CHÚA sẽ ban phước cho ta, vì người Lê-vi nầy đã thành thầy tế lễ của ta.” Trong lúc đó Y-sơ-ra-ên không có vua. Và trong lúc đó chi tộc Đan đang tìm kiếm một nơi để định cư, bởi vì đối với các chi tộc của Y-sơ-ra-ên thì họ chưa nhận được sản nghiệp. Vậy người Đan ở Xô-ra và Ê-ta-ôn sai năm dũng sĩ đi do thám và thăm dò xứ. Những người nầy đại diện cho các tộc họ trong cả chi tộc. Người Đan bảo họ: “Hãy đi thăm dò xứ.” Những người nầy đến vùng cao nguyên Ép-ra-im và vào nhà của Mi-ca, để nghỉ đêm tại đó. Đang khi họ ở gần nhà Mi-ca thì nghe giọng nói của chàng thanh niên Lê-vi. Họ bèn đến đó và hỏi chàng: “Ai dẫn anh đến đây? Anh làm gì ở đây? Tại sao anh ở đây?” Chàng nói cho họ biết Mi-ca đã đối với chàng như thế nọ thế kia, và nói tiếp: “Mi-ca đã mướn tôi làm thầy tế lễ cho ông ấy.” Họ liền hỏi anh: “Xin anh hãy cầu vấn Đức Chúa Trời xem chúng tôi đi chuyến nầy có thành công chăng?” Thầy tế lễ đáp: “Hãy đi bình an. Mắt CHÚA đoái xem chuyến đi nầy của quý ông.” Vậy năm người ấy lên đường đến La-ít; tại đó họ thấy dân tình sống an lành, như dân Si-đôn, bình lặng, không phòng bị gì cả; xứ ấy không thiếu món gì và rất trù phú. Hơn nữa, họ sống xa cách với dân Si-đôn và cũng không có liên hệ gì với ai. Khi họ trở về lại Xô-ra và Ê-ta-ôn, thì anh em của họ hỏi: “Các ngươi thăm dò thấy thế nào?” Họ đáp: “Chúng ta hãy đến tấn công họ. Chúng tôi đã thấy xứ ấy rồi, quả là một xứ thật tốt. Bộ anh em không tính làm gì sao? Đừng ngần ngại đến đó và chiếm lấy xứ. Khi anh em đến đó, anh em sẽ thấy một dân không phòng bị gì cả, và xứ thì rộng rãi, Đức Chúa Trời quả sẽ ban nó vào tay chúng ta. Thật là một xứ chẳng thiếu món gì trên đất.” Bấy giờ sáu trăm người Đan, trang bị đầy đủ vũ khí ra trận, từ Xô-ra và Ê-ta-ôn ra đi. Dọc đường họ đóng trại tại Ki-ri-át Giê-a-rim trong miền Giu-đa. Đó là lý do tại sao người ta gọi phía tây của Ki-ri-át Giê-a-rim là “Trại của Đan” cho đến ngày nay. Từ đó họ tiến đến cao nguyên Ép-ra-im, rồi đến nhà của Mi-ca. Năm người đã đi do thám xứ nói với các anh em của họ: “Anh em có biết rằng trong mấy căn nhà nầy có một cái ê-phót, một số tượng gia thần, một hình tượng và một pho tượng không? Bây giờ anh em biết làm gì rồi phải không?” Vậy họ đến đó và vào nhà của chàng thanh niên Lê-vi, tức là nhà của Mi-ca và chào chàng. Sáu trăm người Đan, trang bị đầy đủ vũ khí ra trận, đứng ở ngoài cổng. Năm người đã đi do thám xứ vào trong lấy tấm hình tượng, cái ê-phót, những tượng gia thần, và một pho tượng, trong khi thầy tế lễ và sáu trăm người trang bị đầy đủ vũ khí ra trận, đứng ở ngoài cổng. Khi những người ấy vào trong nhà Mi-ca lấy tấm hình tượng, cái ê-phót, những tượng gia thần, và một pho tượng, thì thầy tế lễ hỏi họ: “Các ông tính làm gì vậy?” Họ bảo chàng: “Hãy im lặng! Xin lấy tay bịt miệng lại. Hãy theo chúng tôi, làm cha và làm thầy tế lễ của chúng tôi. Làm thầy tế lễ cho một chi tộc và một tộc họ trong Y-sơ-ra-ên không tốt hơn là chỉ phục vụ cho một gia đình sao?” Thầy tế lễ liền hoan hỉ chấp nhận. Người ấy lấy cái ê-phót, các tượng gia thần, và tấm hình tượng, rồi đi theo đoàn người ấy. Người Đan sắp xếp cho các trẻ em, súc vật, và tài sản đi trước, rồi họ quay trở ra tiếp tục lên đường. Khi họ đã đi được một khoảng xa, những người trong nhà Mi-ca và xóm giềng của Mi-ca hiệp nhau lại và đuổi theo người Đan. Khi họ đến gần và kêu la đằng sau, người Đan liền quay lại và hỏi Mi-ca: “Ngươi có chuyện gì vậy? Ngươi nhóm hiệp những kẻ nầy đuổi theo là có ý gì?” Mi-ca đáp: “Các ngươi cướp lấy những tượng thần của ta làm nên và bắt luôn thầy tế lễ của ta nữa. Vậy mà bây giờ các người còn hỏi: ‘Ngươi có chuyện gì vậy’ sao?” Người Đan đáp với Mi-ca: “Ngươi đừng để chúng ta nghe tiếng của ngươi nữa, kẻo những kẻ nóng tính trong chúng ta tấn công ngươi, rồi ngươi và cả nhà ngươi sẽ mất mạng chăng.” Vậy người Đan tiếp tục lên đường; còn Mi-ca, khi thấy họ mạnh hơn ông, ông quay lại và trở về nhà. Rồi người Đan lấy những gì Mi-ca đã có, luôn cả thầy tế lễ của ông, và tiến đến La-ít, hãm đánh một dân sống an lành và không phòng bị. Họ dùng gươm đánh giết dân ấy và phóng hỏa đốt thành. Chẳng có ai đến tiếp cứu dân ấy, vì họ sống cách xa Si-đôn và vì họ cũng không giao thiệp với ai. Thành ấy nằm trong thung lũng gần Bết Rê-hóp. Người Đan xây lại thành và định cư ở đó. Họ đặt tên thành ấy là Đan, theo tên của con trai Y-sơ-ra-ên, tộc trưởng của họ, mặc dù thành ấy vốn được gọi là La-ít. Tại đây người Đan lập cho họ những hình tượng, rồi lập Giô-na-than, con trai của Ghẹt-sôn, cháu của Môi-se, và hậu tự ông làm thầy tế lễ cho chi tộc Đan cho đến khi xứ bị chiếm. Họ tiếp tục thờ lạy những thần tượng do Mi-ca làm ra, trọn thời gian đền tạm của Đức Chúa Trời ở tại Si-lô. Trong lúc ấy, dân Y-sơ-ra-ên không có vua. Có một người Lê-vi sống ở một miền hẻo lánh trên cao nguyên Ép-ra-im. Người ấy có một cô vợ bé quê ở Bết-lê-hem, miền Giu-đa. Nhưng nàng lỗi đạo với chồng, rồi bỏ chồng mà trở về nhà cha nàng ở Bết-lê-hem, miền Giu-đa. Sau khi nàng về đó được bốn tháng, chồng nàng chỗi dậy, đến đó lấy lời ngọt ngào thuyết phục nàng trở về. Chồng nàng dẫn theo một đầy tớ và hai con lừa. Người phụ nữ mời chồng nàng vào nhà của cha nàng; khi cha nàng thấy con rể, ông vui mừng tiếp đón ân cần. Nhạc phụ người ấy, tức là cha người phụ nữ, nài mời con rể ở lại, nên người con rể ở lại với ông ba ngày. Họ ăn uống với nhau và nghỉ đêm tại đó. Đến ngày thứ tư, họ chổi dậy sớm để từ giã ra đi, nhưng cha người phụ nữ nói với con rể rằng: “Hãy ăn miếng bánh cho vững bụng rồi các con hãy lên đường.” Vậy, họ ngồi lại và hai người ăn uống với nhau. Ăn xong, cha người phụ nữ nói: “Con hãy ở lại một đêm nữa đi cho lòng con được vui vẻ.” Người con rể đứng dậy toan từ giã ra về thì người cha vợ cứ nài nỉ mãi, nên ông ta đành ở lại đêm đó. Qua ngày thứ năm, ông thức dậy sớm để ra đi, nhưng cha người phụ nữ nói: “Con hãy ngồi xuống đây ăn uống cho vui vẻ đã, cứ thong thả đến chiều rồi đi cũng được.” Vậy họ ăn uống với nhau và lần lửa đến chiều. Khi ông, vợ bé ông và đầy tớ ông đứng lên để từ giã thì nhạc phụ ông nói: “Các con thấy đó, trời cũng đã về chiều rồi. Hay là các con ở lại thêm một đêm nữa đi. Thấy không, ngày đã gần tàn rồi. Thôi, hãy ở lại đây cho lòng các con được vui vẻ, rồi ngày mai hãy dậy sớm mà đi về.” Tuy nhiên, người con rể không chịu ở lại nữa, nên chổi dậy và lên đường. Người ấy với hai con lừa mang yên và người vợ bé đi ngang qua Giê-bu Khi họ đến gần Giê-bu thì ngày đã gần tàn; người đầy tớ bèn nói với chủ: “Thưa ông, chúng ta hãy rẽ vào thành của dân Giê-bu-sít nầy và qua đêm ở đó đi.” Nhưng người chủ nói: “Chúng ta sẽ không vào thành của dân ngoại, là những người không phải là con cái của Y-sơ-ra-ên đâu. Chúng ta sẽ ráng đến Ghi-bê-a.” Người chủ lại nói với người đầy tớ: “Cố gắng lên. Chúng ta hãy đến một trong các thành đằng trước, hoặc Ghi-bê-a hoặc Ra-ma, và qua đêm tại đó.” Rồi họ vượt qua nơi ấy và tiếp tục cuộc hành trình. Khi họ đến Ghi-bê-a, thuộc địa phận của chi tộc Bên-gia-min thì mặt trời đã lặn. Họ bèn vào thành Ghi-bê-a và định qua đêm ở đó. Vào thành rồi, họ đến ngồi ở một nơi công cộng của thành, nhưng không ai mời họ vào nhà để qua đêm. Bấy giờ, lúc trời đã chạng vạng, có một cụ già đi làm ở ngoài đồng về. Cụ là người quê quán ở cao nguyên Ép-ra-im, nhưng bây giờ cụ sống ở Ghi-bê-a, là thành của người Bên-gia-min. Khi cụ ngước mắt lên và thấy khách lữ hành ở nơi công cộng của thành, cụ liền đến hỏi: “Ông đang trên đường về đâu? Ông từ đâu đến đây?” Lữ khách đáp: “Chúng tôi từ Bết-lê-hem miền Giu-đa đi ngang qua đây để về một miền hẻo lánh trên cao nguyên Ép-ra-im. Tôi vốn là người ở đó. Tôi đã đi Bết-lê-hem miền Giu-đa. Nay chúng tôi vào nhà của CHÚA. Nhưng không ai muốn tiếp chúng tôi vào nhà. Mặc dù chúng tôi có rơm và cỏ cho lừa, bánh và rượu cho tôi là tôi tớ cụ, cho người tớ gái nầy của cụ, và cho người bạn trẻ đi với chúng tôi. Chúng tôi không thiếu món gì.” Cụ già nói: “Xin quý vị cứ an tâm. Những nhu cầu của quý vị hãy để lão lo. Chỉ mong là quý vị đừng qua đêm tại nơi công cộng nầy.” Vậy cụ mời họ vào nhà, và cho các lừa của khách ăn. Rồi họ rửa chân và ăn uống với nhau. Đang khi họ ăn uống vui vẻ với nhau, thình lình một đám người trong thành, là những kẻ trái thói tình dục, đến vây quanh nhà và đập cửa. Chúng nói với chủ nhà: “Hãy đem người đàn ông đã vào nhà ông ra đây, để chúng tôi ăn nằm với hắn.” Nhưng ông cụ, là chủ nhà, ra nói với chúng rằng: “Hỡi anh em! Xin đừng. Tôi năn nỉ anh em, đừng làm chuyện ác đức đó. Vì người ấy đang làm khách trong nhà tôi. Xin anh em đừng làm chuyện đồi bại ấy. Kìa, con gái của tôi vẫn còn trinh và cô vợ bé của người ấy đây. Để tôi dẫn họ ra cho anh em. Anh em muốn hãm hiếp họ hay làm gì với họ tuỳ ý, nhưng đối với người đó, xin anh em đừng làm chuyện đồi bại ấy.” Nhưng đám người đó không chịu nghe lời cụ. Vậy người khách đành phải trao cô vợ bé mình ra. Chúng hãm hiếp nàng và lăng nhục nàng thâu đêm; đến khi gần sáng chúng thả nàng ra. Khoảng rạng đông, nàng ráng sức trở về nơi chồng nàng tạm trú; về đến nơi, nàng ngã dài trước cửa và nằm đó cho đến khi trời sáng hẳn. Đến sáng, chồng nàng thức dậy, mở cửa, để chuẩn bị lên đường, thì thấy người vợ bé của mình đang nằm dài trước cửa, hai tay bíu vào ngạch cửa. Người chồng nói: “Em ráng đứng dậy, chúng ta hãy đi về.” Nhưng không có tiếng trả lời. Vậy ông bồng nàng lên, để trên lưng lừa, rồi từ giã và trở về nhà mình. Khi về đến nhà, ông lấy một con dao, cắt đứt tay chân và thi thể của vợ bé ông ra thành mười hai mảnh, rồi gởi chúng đi khắp cõi Y-sơ-ra-ên. Hết thảy những ai thấy vậy đều nói: “Từ lúc con cái Y-sơ-ra-ên lên khỏi Ai-cập cho đến nay, chưa hề có ai làm hay thấy một việc như thế bao giờ. Hãy nghĩ xem. Hãy bàn luận coi, và hãy nói ra cho biết là việc gì.” Bấy giờ toàn dân Y-sơ-ra-ên từ Đan cho đến Bê-e-sê-ba, và luôn cả miền Ga-la-át tụ họp lại như một người trước mặt CHÚA tại Mích-ba. Những lãnh tụ của dân, tức của mười hai chi tộc Y-sơ-ra-ên, đều hiện diện đông đủ trong đại hội của con dân Đức Chúa Trời. Có bốn trăm ngàn người mang gươm về tụ họp. Người Bên-gia-min cũng biết dân Y-sơ-ra-ên đã tụ họp tại Mích-ba. Đoạn dân Y-sơ-ra-ên nói: “Hãy nói cho chúng tôi biết việc ác nầy đã xảy ra làm sao.” Vậy người Lê-vi, là chồng của người phụ nữ bị giết, đáp: “Tôi và vợ bé của tôi có đến Ghi-bê-a thuộc chi tộc Bên-gia-min để qua đêm. Ban đêm, một đám đàn ông ở Ghi-bê-a tìm đến, bao quanh nhà, tính giết tôi. Họ đã hãm hiếp vợ bé tôi, và vì thế nàng đã chết. Tôi có cắt người vợ bé tôi ra từng mảnh và gởi mỗi mảnh cho mỗi miền của cơ nghiệp Y-sơ-ra-ên. Bởi vì họ có làm điều đê tiện và ô nhục nầy trong Y-sơ-ra-ên. Bây giờ, hỡi tất cả Y-sơ-ra-ên, anh em hãy nói đi, chúng ta phải giải quyết việc nầy ra sao.” Toàn dân đều đứng dậy như một người và nói: “Không ai trong chúng ta về nhà. Không một ai trong chúng ta được đi về nhà mình cả. Nhưng đây là việc chúng ta phải làm cho Ghi-bê-a. Chúng ta sẽ bắt thăm và cứ theo đó mà lên đánh thành ấy. Trong mỗi chi tộc của Y-sơ-ra-ên, chúng ta sẽ lấy mười người trong một trăm, trăm người trong một ngàn, ngàn người trong một vạn, để họ đi lo lương thực cho chúng ta. Khi họ trở lại, chúng ta sẽ xử Ghi-bê-a của Bên-gia-min tùy theo sự ô nhục mà thành ấy đã gây ra trong Y-sơ-ra-ên.” Vậy toàn dân Y-sơ-ra-ên hiệp nhau như một người để tiến đánh thành ấy. Các chi tộc của Y-sơ-ra-ên sai sứ giả đến khắp miền của chi tộc Bên-gia-min nói rằng: “Tội ác kinh khủng đã phạm giữa anh em là chi? Hãy nộp cho chúng tôi những tên tội phạm ở Ghi-bê-a để chúng tôi xử tử chúng, và tẩy trừ việc ác nầy khỏi Y-sơ-ra-ên.” Nhưng người Bên-gia-min không chịu nghe lời yêu cầu của anh em mình, là người Y-sơ-ra-ên. Họ ra khỏi thành họ và hiệp nhau tại Ghi-bê-a để đánh lại người Y-sơ-ra-ên. Khi ấy, người Bên-gia-min động viên được hai mươi sáu ngàn người, thảy đều là những tay kiếm tài ba, từ các thành của họ kéo về. Thêm vào đó, tại Ghi-bê-a, họ cũng chọn được bảy trăm tay kiếm nữa. Trong số những người Bên-gia-min nầy, có bảy trăm người thuận tay trái. Mỗi người đều có tài sử dụng trành ném đá. Họ có thể ném trúng một sợi tóc mà không trật. Dân Y-sơ-ra-ên, không kể người Bên-gia-min, cũng triệu tập được bốn trăm ngàn tay kiếm. Tất cả đều là những chiến sĩ. Người Y-sơ-ra-ên lên Bê-tên và cầu hỏi Đức Chúa Trời. Họ nói: “Ai trong chúng con sẽ lên đánh Bên-gia-min trước?”CHÚA đáp: “Giu-đa sẽ đi trước.” Sáng hôm sau, dân Y-sơ-ra-ên dậy sớm và hạ trại gần Ghi-bê-a. Dân Y-sơ-ra-ên ra đánh người Bên-gia-min. Họ dàn trận để giao chiến tại Ghi-bê-a. Người Bên-gia-min ra khỏi Ghi-bê-a và chém gục hai mươi hai ngàn người Y-sơ-ra-ên trong trận chiến ngày hôm ấy. Nhưng người Y-sơ-ra-ên khích lệ nhau và ra dàn trận nơi họ đã dàn trận ngày hôm trước. Người Y-sơ-ra-ên đi lên và khóc trước mặt CHÚA cho đến chiều tối. Họ cầu hỏi CHÚA rằng: “Chúng con có nên đi lên dàn trận giao chiến với người Bên-gia-min, là anh em của chúng con chăng?”CHÚA đáp: “Hãy lên đánh chúng.” Vậy, ngày thứ nhì, người Y-sơ-ra-ên kéo đến đánh người Bên-gia-min. Trong ngày thứ nhì đó, người Bên-gia-min từ trong Ghi-bê-a kéo ra nghinh chiến, và họ đã hạ sát thêm mười tám ngàn người Y-sơ-ra-ên; tất cả đều là những tay kiếm bản lĩnh. Bấy giờ tất cả người Y-sơ-ra-ên đi lên Bê-tên; họ ngồi đó và khóc trước mặt CHÚA. Họ kiêng ăn cho đến chiều tối ngày hôm đó. Họ dâng những tế lễ thiêu và tế lễ cầu an lên CHÚA. Rồi họ cầu hỏi CHÚA, trong lúc ấy, rương giao ước của Đức Chúa Trời để tại đó. Có Phi-nê-a, con của Ê-lê-a-sa, cháu của A-rôn đang phục vụ trước mặt CHÚA. Họ hỏi: “Chúng con có nên đi lên dàn trận giao chiến với người Bên-gia-min, là anh em của chúng con, hay là chúng con nên ngưng lại?”CHÚA phán: “Hãy đi. Ngày mai Ta sẽ phó chúng nó vào tay các ngươi.” Người Y-sơ-ra-ên bèn đặt binh phục chung quanh Ghi-bê-a. Ngày thứ ba, họ kéo lên dàn trận trước Ghi-bê-a để giao chiến với người Bên-gia-min như đã làm hai ngày trước. Người Bên-gia-min đi ra đánh họ và bị dụ ra xa thành. Chúng bắt đầu đánh giết người Y-sơ-ra-ên như đã làm trong hai ngày trước. Vậy chúng đánh giết được khoảng ba mươi người Y-sơ-ra-ên ngoài đồng và trên những con đường nối liền giữa Bê-tên và Ghi-bê-a. Người Bên-gia-min nói với nhau: “Chúng ta đánh bại chúng như lần trước.” Còn người Y-sơ-ra-ên thì nói: “Chúng ta hãy theo các đường cái mà rút lui và dụ chúng đi xa khỏi thành.” Bấy giờ toàn quân Y-sơ-ra-ên chỗi dậy khỏi chỗ mình và kéo đến dàn trận tại Ba-anh Tha-ma, còn đội quân phục kích cũng chỗi dậy và tấn công vào phía tây của Ghi-bê-a. Rồi mười ngàn quân tinh nhuệ của Y-sơ-ra-ên tấn công vào mặt chính của Ghi-bê-a. Trận chiến thật dữ dội, trong khi người Bên-gia-min không biết thảm họa đã gần kề. CHÚA đã đánh bại người Bên-gia-min trước mặt người Y-sơ-ra-ên. Trong ngày ấy, người Y-sơ-ra-ên đánh hạ hai mươi lăm ngàn một trăm người Bên-gia-min. Tất cả đều là những tay kiếm giỏi. Khi ấy người Bên-gia-min biết rằng chúng đã bại trận.Lúc bấy giờ người Y-sơ-ra-ên nhượng bộ trước sự tấn công của người Bên-gia-min, bởi vì họ tin tưởng vào đội quân phục kích họ đã đặt gần Ghi-bê-a. Đội quân phục kích đã đột ngột tấn công vào thành Ghi-bê-a. Họ tràn ra khắp thành và dùng gươm giết tất cả mọi người trong thành. Người Y-sơ-ra-ên có giao hẹn với đội quân phục kích rằng khi chiếm được thành họ phải đốt lên trong thành một luồng khói lớn để làm hiệu, thì bấy giờ người Y-sơ-ra-ên sẽ quay lại chiến đấu.Lúc người Bên-gia-min bắt đầu tiến đánh và giết hại khoảng ba mươi người Y-sơ-ra-ên, chúng nói: “Chúng ta đánh bại chúng như trận trước.” Nhưng khi cột khói bắt đầu bốc lên trong thành, người Bên-gia-min quay lại và thấy cả thành đều bốc khói lên trời. Bấy giờ người Y-sơ-ra-ên quay lại tấn công, còn người Bên-gia-min thì hoảng sợ, bởi vì chúng nhận biết rằng tai họa sắp giáng xuống trên chúng. Vậy chúng quay lưng chạy trốn trước mặt người Y-sơ-ra-ên vào hướng sa mạc, nhưng chúng chẳng thể tránh chiến đấu được; dân quân từ các thành bủa ra chém giết chúng. Người ta bao vây người Bên-gia-min, liên tục truy kích chúng, và triệt hạ chúng trong vùng gần Ghi-bê-a, về hướng đông. Mười tám ngàn người Bên-gia-min đã ngã chết; tất cả đều là những chiến sĩ dũng cảm. Khi chúng quay lưng chạy trốn vào sa mạc, về hướng vầng đá Rim-môn, thì dọc các đường chính đã có thêm năm ngàn người bị giết. Chúng cũng bị truy đuổi tận đến Ghi-đôm và có hai ngàn người nữa bị giết. Vậy tổng số người Bên-gia-min bị giết trong ngày ấy là hai mươi lăm ngàn; hết thảy đều là những tay kiếm can trường. Nhưng có sáu trăm người quay lưng chạy trốn vào sa mạc và đến ẩn núp tại vầng đá Rim-nôm được bốn tháng. Rồi người Y-sơ-ra-ên quay về thanh toán dân Bên-gia-min. Họ dùng gươm diệt tất cả dân chúng, súc vật, và bất cứ những gì còn lại trong các thành của người Bên-gia-min. Đến thành nào họ cũng đều phóng hỏa thiêu rụi thành ấy. Khi ấy, người Y-sơ-ra-ên có thề với nhau tại Mích-ba rằng: “Không ai trong chúng ta sẽ gả con gái mình làm vợ người Bên-gia-min.” Rồi dân chúng kéo đến Bê-tên và ngồi tại đó trước mặt Đức Chúa Trời cho đến chiều tối. Họ cất tiếng lớn khóc cách đắng cay rằng: “Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên; tại sao điều nầy lại xảy đến cho Y-sơ-ra-ên? Tại sao ngày nay chúng con bị thiếu mất đi một chi tộc?” Hôm sau, dân chúng dậy sớm, dựng một bàn thờ tại đó, rồi dâng tế lễ thiêu và tế lễ cầu an. Bấy giờ họ nói: “Có gia tộc nào trong tất cả các gia tộc của Y-sơ-ra-ên không đến dự đại hội trước mặt CHÚA không?” Vì họ có lập một lời thề long trọng về việc không đến trước mặt CHÚA tại Mích-ba rằng: “Ai không đến sẽ bị xử tử.” Người Y-sơ-ra-ên ân hận về việc người Bên-gia-min, anh em của họ, và nói: “Ngày nay, một chi tộc đã bị dứt khỏi Y-sơ-ra-ên. Chúng ta phải làm sao để kiếm vợ cho những người còn sót lại, vì chúng ta có thề trước mặt CHÚA rằng chúng ta sẽ không gả con gái chúng ta làm vợ cho chúng?” Rồi họ nói: “Có ai trong các chi tộc của Y-sơ-ra-ên không đến trước mặt CHÚA tại Mích-ba chăng?” Họ khám phá ra rằng chẳng có ai từ gia tộc Gia-bê ở Ga-la-át có mặt ở trại quân trong ngày đại hội. Vì khi điểm danh dân chúng không có người nào trong gia tộc của Gia-bê ở Ga-la-át có mặt tại đó. Vậy hội chúng liền phái mười hai ngàn quân đến đó với lịnh rằng: “Hãy đi, dùng gươm diệt tất cả dân Gia-bê ở Ga-la-át, kể cả phụ nữ và trẻ em. Đây là điều các ngươi phải làm: các ngươi phải diệt tất cả những người nam và những người nữ nào đã ăn nằm với một người nam.” Chúng tìm thấy trong dân Gia-bê ở Ga-la-át có bốn trăm trinh nữ, là những người chưa hề ăn nằm với một người nam nào, rồi chúng đưa các trinh nữ ấy về trại quân tại Si-lô, trong xứ Ca-na-an. Đoạn cả hội chúng phái người đến gặp người Bên-gia-min đang ẩn núp tại vầng đá Rim-môn để làm hòa với họ. Người Bên-gia-min bèn trở về. Họ ban cho những người Bên-gia-min nầy những thiếu nữ mà họ đã giữ mạng lại trong vòng những phụ nữ của Gia-bê ở Ga-la-át; nhưng số thiếu nữ đó không đủ cho chúng. Dân chúng ân hận về việc họ đã làm đối với chi tộc Bên-gia-min, bởi vì CHÚA đã cho có một chỗ bị khuyết trong các chi tộc Y-sơ-ra-ên. Vậy các trưởng lão của hội chúng nói: “Chúng ta phải làm gì cho những người còn lại mà không có vợ, vì không còn phụ nữ nào sót lại trong gia tộc Bên-gia-min nữa?” Vì họ nói: “Phải có người thừa hưởng phần sản nghiệp dành cho chi tộc Bên-gia-min còn sót lại, hầu cho một chi tộc không bị xóa khỏi Y-sơ-ra-ên. Trong khi đó chúng ta lại không thể gả con gái chúng ta cho chúng làm vợ.” Vì người Y-sơ-ra-ên đã có thề: “Đáng rủa sả thay cho kẻ gả con gái làm vợ người Bên-gia-min.” Vậy họ nói: “Hãy xem, hằng năm đều có kỳ lễ cho CHÚA tại Si-lô, trong khu vực về phía bắc của Bê-tên, bên phía đông con đường đi từ Bê-tên lên Si-chem, và phía nam Lê-bô-na.” Họ bảo người Bên-gia-min: “Hãy đi, nằm phục trong các vườn nho; và để ý, khi nào thấy các thiếu nữ ở Si-lô ra múa hát, thì các ngươi hãy ra khỏi các vườn nho và mỗi người bắt cóc lấy một thiếu nữ để làm vợ cho mình, rồi trở về trong đất Bên-gia-min. Nếu cha và anh của chúng có đến kiện cáo với chúng ta, thì chúng ta sẽ bảo họ: ‘Thôi hãy rộng lượng và thông cảm cho chúng tôi mà gả các cháu cho họ đi. Vì trong trận chiến vừa qua, chúng ta không kiếm đủ cho họ mỗi người được một người vợ. Hơn nữa anh em cũng đâu có mắc phải lời thề.’” Người Bên-gia-min bèn làm như vậy. Mỗi người ra bắt cóc cho mình một cô thiếu nữ làm vợ. Rồi họ trở về lãnh thổ của Bên-gia-min. Họ xây dựng lại thành trì và sống ở đó. Còn người Y-sơ-ra-ên thì rời khỏi nơi đó và trở về chi tộc và gia tộc của mình. Ai nấy đều rời khỏi nơi đó mà trở về lãnh thổ của mình. Trong lúc ấy, dân Y-sơ-ra-ên không có vua; ai nấy đều làm theo ý mình cho là phải. Trong thời các thẩm phán trị vì, có một cơn đói kém trong xứ; có một người ở Bết-lê-hem, xứ Giu-đa, đưa vợ và hai con trai mình qua nước Mô-áp sinh sống. Người chồng tên là Ê-li-mê-léc, vợ tên Na-ô-mi, hai con trai tên là Mạc-lôn và Ki-li-ôn. Họ vốn là người Ê-phơ-rát, ở Bết-lê-hem, xứ Giu-đa. Họ đến nước Mô-áp và định cư tại đó. Nhưng Ê-li-mê-léc, chồng của Na-ô-mi, qua đời, để bà và hai con lại. Hai người con nầy lấy phụ nữ Mô-áp làm vợ. Một cô tên là Ọt-ba và một cô tên là Ru-tơ. Họ sống tại đó khoảng mười năm. Kế đó, cả Mạc-lôn và Ki-li-ôn đều qua đời, để Na-ô-mi lại không chồng không con. Bấy giờ Na-ô-mi và hai con dâu mình chổi dậy, rời nước Mô-áp để hồi hương, vì lúc ở Mô-áp bà có nghe rằng Đức Chúa Trời đã đoái thăm dân Ngài và ban cho họ thực phẩm. Vậy bà cùng hai nàng dâu rời bỏ nơi mình đang sống, lên đường trở về xứ Giu-đa. Nhưng Na-ô-mi nói cùng hai con dâu mình rằng: “Các con hãy trở về nhà của mẹ các con đi. Cầu xin CHÚA đối xử tốt với các con, như các con đã đối xử tốt với những người đã qua đời và với mẹ. Nguyện xin CHÚA ban phước cho các con, người nào cũng được an vui trong nhà chồng mới của mình.” Rồi bà hôn họ và họ khóc nức nở. Họ nói với bà: “Không, chúng con sẽ đi với mẹ, cùng về quê hương của mẹ.” Nhưng Na-ô-mi đáp: “Hãy trở về đi, các con gái của mẹ, tại sao các con muốn đi với mẹ? Trong lòng mẹ đâu còn con trai nữa để có thể làm chồng các con? Hãy về đi, các con gái của mẹ. Hãy đi đi. Vì mẹ đã quá già để lấy chồng nữa. Ví dù mẹ nghĩ rằng mẹ vẫn còn hy vọng tái giá. Dù mẹ lấy chồng tối nay và có con trai; liệu các con có thể đợi cho đến khi chúng khôn lớn sao? Các con há có thể không lấy chồng khác sao? Không đâu, các con gái của mẹ ơi, nỗi sầu khổ của mẹ còn đắng cay hơn của các con nhiều. Bởi vì CHÚA đã đưa tay ra nghịch lại mẹ.” Bấy giờ họ lại khóc lớn tiếng nữa. Rồi Ọt-ba ôm hôn và từ giã mẹ chồng mình, nhưng Ru-tơ cứ bám lấy bà. Na-ô-mi bèn nói: “Con xem đó, chị dâu con đã trở về cùng dân tộc nó và cùng các thần của nó; con cũng hãy đi theo chị dâu con đi.” Nhưng Ru-tơ đáp: “Xin mẹ đừng ép con rời xa mẹ, hay bắt con phải trở về mà không theo mẹ. Vì mẹ đi đâu, con sẽ theo đó. Mẹ ở nơi nào, con cũng sẽ ở nơi đó. Dân tộc của mẹ là dân tộc của con, Đức Chúa Trời của mẹ là Đức Chúa Trời của con. Mẹ chết nơi nào, con cũng muốn chết và được chôn nơi đó. Ngoài sự chết, ví bằng có điều chi phân cách con với mẹ, nguyện xin CHÚA giáng họa trên con.” Khi Na-ô-mi thấy Ru-tơ đã quyết chí theo mình, bà không nói thêm với nàng một điều gì nữa. Vậy hai người lên đường đi về Bết-lê-hem. Khi họ vừa đến Bết-lê-hem, cả thành đều xôn xao về hai người. Các bà hỏi nhau: “Có phải đây là Na-ô-mi chăng?” Na-ô-mi đáp: “Xin đừng gọi tôi là Na-ô-mi nữa, nhưng hãy gọi tôi là Ma-ra, vì Đấng Toàn Năng đã đãi tôi cách đắng cay. Tôi ra đi đầy dẫy, nhưng CHÚA đã đem tôi về tay không. Tại sao còn gọi tôi là Na-ô-mi làm chi, trong khi CHÚA đã đãi tôi cách khắc nghiệt, và Đấng Toàn Năng đã giáng họa trên tôi?” Vậy, Na-ô-mi cùng với Ru-tơ, con dâu mình là người Mô-áp, từ nước Mô-áp trở về. Họ đến Bết-lê-hem nhằm đầu mùa gặt. Bấy giờ Na-ô-mi có một người bà con bên chồng, một người khá giầu có, thuộc giòng họ Ê-li-mê-léc, tên là Bô-ô. Ru-tơ, người Mô-áp, thưa cùng Na-ô-mi: “Xin mẹ cho con ra đồng mót lúa. Con sẽ đi sau người nào mà con được ơn trước mặt họ.”Na-ô-mi nói cùng nàng: “Con hãy đi, con gái ta.” Vậy Ru-tơ đi. Nàng theo sau những thợ gặt và mót lúa. Không ngờ nàng đến nhằm cánh đồng của Bô-ô, là người giòng họ Ê-li-mê-léc. Bấy giờ, Bô-ô từ Bết-lê-hem ra, nói với các thợ gặt: “Nguyện xin CHÚA ở cùng các người.”Họ đáp: “Nguyện xin CHÚA ban phước cho ông.” Rồi Bô-ô hỏi người đầy tớ trông coi các thợ gặt: “Người thiếu nữ kia là con ai vậy?” Người đầy tớ trông coi các thợ gặt trả lời: “Cô ấy là người Mô-áp, đã theo Na-ô-mi từ nước Mô-áp trở về. Cô ấy có xin rằng: ‘Làm ơn cho tôi theo sau các thợ gặt để mót các gié lúa.’ Cô ấy đến đây mót lúa từ sáng đến giờ, ngoại trừ chỉ nghỉ dưới chòi một chút.” Bấy giờ Bô-ô nói cùng Ru-tơ: “Hãy nghe đây, con gái ta, đừng đi đến ruộng khác mót lúa, hay rời khỏi đám ruộng nầy, nhưng hãy theo sát các cô thợ gặt của ta. Hãy để ý xem các thợ gặt của ta gặt ở đám ruộng nào, con hãy theo họ đến đám ruộng đó. Ta đã dặn các lực điền không được khuấy phá con. Nếu con có khát, hãy lại uống nước trong các vò do các lực điền ta mang đến kia.” Ru-tơ bèn sấp mặt xuống đất và nói rằng: “Bởi đâu mà con được ơn trước mặt ông như thế nầy, làm sao ông lại để ý đến con, trong khi con là một người ngoại quốc?” Bô-ô đáp: “Tất cả những gì con đã làm cho mẹ chồng con, từ lúc chồng con qua đời, người ta đều thuật lại cho ta nghe cả rồi. Thể nào con đã lìa cha mẹ con và xứ sở con mà đến sống cùng một dân tộc mà con chưa biết trước. Nguyện CHÚA ban thưởng cho con vì những việc con làm. Nguyện CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Đấng con đã chọn đến núp dưới bóng cánh Ngài, ban thưởng cho con thật đầy đủ.” Ru-tơ đáp: “Thưa ông, nguyện con tiếp tục được ơn trước mặt ông, vì ông đã yên ủi con và dùng những lời tử tế nói cùng kẻ tôi tớ ông, mặc dù con biết mình không bằng một tớ gái của ông.” Đến bữa ăn, Bô-ô nói cùng nàng: “Con hãy lại đây, mời con ăn bánh và chấm bánh vào nước giấm chua nầy.” Vậy nàng ngồi bên cạnh các thợ gặt, và Bô-ô cũng đem bắp rang mời nàng ăn. Nàng ăn no nê và để dành phần còn dư lại. Xong, nàng đứng dậy mót lúa tiếp.Bô-ô dặn các đầy tớ: “Hãy để cho nàng mót lúa, dẫu nàng có mót giữa những bó lúa, cũng đừng trách nàng. Các ngươi cũng hãy rút những gié lúa trong bó ra, bỏ rơi, để cho nàng mót, và đừng quở trách nàng điều gì.” Vậy nàng mót đến chiều tối. Rồi nàng đập lúa mình đã mót và gom được chừng 22l lúa mạch. Nàng mang số lúa mình đã mót được vào trong thành. Mẹ chồng nàng thấy số lúa nàng đã mót được. Bấy giờ nàng lấy thức ăn dư nàng đã đem về ra, mời mẹ chồng ăn. Mẹ chồng nàng hỏi: “Hôm nay con mót lúa ở đâu? Con đã làm việc ở ruộng của ai? Phước cho người đã lưu ý đến con.”Vậy nàng nói cho mẹ chồng nghe mình đã làm việc ở ruộng của ai. Nàng đáp: “Tên của người chủ ruộng mà con đã làm việc hôm nay là Bô-ô.” Na-ô-mi bèn nói cùng dâu mình: “Nguyện CHÚA là Đấng không ngừng ban phước cho người sống và người chết, ban phước cho người ấy.” Na-ô-mi lại nói tiếp: “Người ấy là bà con của chúng ta, cũng là người có quyền chuộc lại sản nghiệp cho chúng ta.” Ru-tơ, người Mô-áp, nói cùng bà: “Người ấy cũng bảo con: ‘Hãy theo thợ gặt của ta, cho đến khi xong mùa gặt.’” Na-ô-mi nói cùng nàng: “Hỡi con gái của mẹ, mẹ thấy tốt hơn là con cứ theo các cô thợ gặt của người ấy, vì con có thể gặp rắc rối nếu con đi mót lúa ở ruộng khác.” Vậy nàng cứ đi theo sát các cô thợ gặt của Bô-ô, mà mót lúa cho đến cuối mùa gặt lúa mạch và lúa mì. Và như thế nàng sống với mẹ chồng mình. Na-ô-mi, mẹ chồng nàng, nói với nàng: “Hỡi con gái của mẹ, mẹ cần phải lo cho con một chỗ an thân, để con sẽ được hạnh phúc. Nầy, con đã theo các tớ gái của Bô-ô, bà con của chúng ta để làm việc. Tối nay, người ấy sẽ đập lúa mạch ở sân đập lúa. Bây giờ con hãy tắm rửa, xức dầu thơm, mặc bộ đồ đẹp nhất, rồi xuống sân đập lúa; nhưng đừng để ai biết, đợi cho đến khi người ấy ăn uống xong. Khi người ấy nằm xuống, hãy để ý xem người nằm chỗ nào; bấy giờ con hãy đến, giở mền dưới chân người và nằm xuống, rồi người sẽ bảo con điều phải làm.” Nàng đáp cùng bà: “Mọi điều mẹ bảo, con sẽ làm theo.” Vậy nàng đến sân đập lúa và làm y theo điều mẹ chồng nàng đã dạy bảo. Khi Bô-ô đã ăn uống xong, lòng đầy sảng khoái, người đến nằm ngủ nơi chân đống lúa mạch. Nàng bèn sẽ lén đến giở mền dưới chân người và nằm xuống. Đến nửa đêm, Bô-ô giật mình, trở giấc, và thấy, kìa nằm dưới chân mình là một phụ nữ. Người hỏi: “Người là ai?”Nàng đáp: “Con là Ru-tơ, đứa tớ gái của ông, xin ông hãy giăng mền ra đắp trên tớ gái ông; vì ông là người có quyền chuộc lại sản nghiệp cho con.” Người đáp: “Hỡi con gái ta, nguyện CHÚA ban phước cho con. Việc trung thành con làm lần cuối này còn trọng hơn việc con đã làm trước kia. Con chẳng theo những thanh niên trẻ, bất kể nghèo hay giầu. Vậy bây giờ, hỡi con gái ta, đừng sợ, ta sẽ làm cho con mọi điều con yêu cầu, vì tất cả mọi người trong dân ta đều biết rằng con là một thiếu phụ hiền đức. Nhưng bây giờ, dầu ta đúng là người bà con gần, vẫn còn có một người bà con khác gần hơn ta. Con hãy cứ ở đây đêm nay; đến sáng mai, nếu người ấy muốn chuộc lại sản nghiệp con thì tốt; nhưng nếu người ấy không muốn chuộc sản nghiệp con lại, thì ta chỉ CHÚA Hằng Sống mà thề rằng: Ta sẽ chuộc sản nghiệp của con lại cho con. Hãy nằm xuống và ngủ cho đến sáng.” Vậy nàng nằm ngủ nơi chân người cho đến sáng, nhưng nàng dậy sớm trước khi mọi người có thể nhận ra nhau, vì Bô-ô có nói rằng: “Không nên để cho người ta biết là đã có một phụ nữ đến sân đạp lúa.” Bấy giờ Bô-ô nói: “Hãy giơ vạt áo con đang mặc ra và giữ chặt.” Vậy nàng giơ vạt áo ra, người bèn trút vào đó sáu đấu lúa mạch, và bảo nàng đem về; rồi người trở vào thành. Nàng về nhà gặp mẹ chồng mình, bà hỏi: “Sự việc ra sao con?” Nàng kể lại cho bà mọi điều Bô-ô đã làm cho nàng và tiếp rằng: “Người ấy có cho con sáu đấu lúa mạch nầy, vì nói rằng: ‘Đừng đi tay không về gặp mẹ chồng.’” Bà nói: “Hỡi con gái ta, hãy chờ xem, để mọi sự diễn tiến ra sao. Vì hôm nay, nếu chưa giải quyết xong việc nầy, người ấy sẽ không nghỉ đâu.” Bô-ô đi đến cửa thành và ngồi xuống, chẳng bao lâu thì người bà con có quyền chuộc tài sản mà Bô-ô đã nói, đi qua. Bô-ô bèn nói: “Mời anh đến đây và ngồi xuống.” Người ấy lại gần và ngồi xuống. Bô-ô mời mười vị trưởng lão trong thành lại và nói: “Kính mời quý vị ngồi đây.” Các trưởng lão bèn ngồi xuống. Bấy giờ Bô-ô nói với người có quyền chuộc sản nghiệp rằng: “Na-ô-mi đã từ nước Mô-áp trở về, muốn bán miếng đất thuộc về Ê-li-mê-léc, là bà con chúng ta. Nên tôi nghĩ tôi phải cho anh biết và xin anh rằng: trước mặt những người ngồi đây và trước mặt quý vị trưởng lão trong dân, xin anh hãy mua miếng đất ấy đi. Nếu anh muốn chuộc sản nghiệp đó, xin anh hãy chuộc nó đi. Còn không, xin anh hãy nói ra cho tôi biết. Vì trước anh, không ai có quyền đó; còn sau anh, quyền đó thuộc về tôi.”Người ấy đáp: “Tôi sẽ chuộc miếng đất ấy.” Bô-ô lại nói: “Ngày anh làm sở hữu chủ cánh đồng lúa của Na-ô-mi cũng là ngày anh phải tiếp nhận Ru-tơ, người Mô-áp, góa phụ của người đã chết, để nối danh người chết trên sản nghiệp người.” Nghe thế, người có quyền chuộc sản nghiệp nói: “Nếu vậy, tôi không thể chuộc sản nghiệp ấy được, vì nó có thể tổn hại đến sản nghiệp của tôi. Xin anh hãy nhận lấy quyền chuộc sản nghiệp ấy đi. Vì tôi không thể chuộc nó được.” Khi ấy, trong dân Y-sơ-ra-ên có tục lệ về việc chuộc mua hay đổi chác rằng: Để xác quyết sự giao dịch, người nầy phải cởi một chiếc giầy của mình mà trao cho người kia. Đây là cách mà người Y-sơ-ra-ên thỏa thuận với nhau trong việc khế ước ngày xưa. Vậy, người có quyền chuộc sản nghiệp nói cùng Bô-ô: “Xin anh hãy chuộc mua sản nghiệp đó đi.” Rồi người cởi chiếc giầy của mình ra. Bấy giờ Bô-ô nói cùng các vị trưởng lão và cả dân chúng rằng: “Hôm nay quý vị là những người làm chứng rằng tôi chuộc miếng đất nơi tay của Na-ô-mi, cùng tất cả những gì thuộc về Ê-li-mê-léc, và tất cả những gì thuộc về Ki-li-ôn và Mạc-lôn. Tôi cũng xin nhận Ru-tơ, người Mô-áp, vợ của Mạc-lôn, để làm vợ tôi, và để nối danh người chết trên sản nghiệp người, hầu cho danh của người chết sẽ không bị mất giữa vòng bà con mình và giữa dân cư của thành mình. Hôm nay xin quý vị làm chứng cho.” Bấy giờ cả dân chúng đang ở tại cổng thành và các trưởng lão đều nói rằng: “Chúng tôi xin làm chứng. Cầu xin CHÚA ban phước cho người nữ vào nhà ngươi sẽ như Ra-chên và Lê-a, là hai người cùng nhau xây dựng nhà Y-sơ-ra-ên. Nguyện ngươi được cường thịnh ở Ép-ra-ta và nổi danh ở Bết-lê-hem. Nguyện các con cái CHÚA cho ngươi do người nữ nầy sinh ra sẽ làm cho nhà ngươi giống như nhà của Pha-rết, mà Ta-ma đã sinh cho Giu-đa.” Vậy Bô-ô lấy Ru-tơ làm vợ. Khi họ sống với nhau, CHÚA cho nàng có thai, và nàng sinh được một con trai. Bấy giờ các bà nói với Na-ô-mi rằng: “Thật đáng chúc tụng CHÚA, là Đấng không để cho bà chẳng có người chuộc lại sản nghiệp của bà. Nguyện danh của người ấy được tôn trọng trong Y-sơ-ra-ên. Người ấy sẽ khôi phục lại cuộc đời bà và là người giúp đỡ bà dưỡng già. Vì con dâu bà thương yêu bà, con dâu ấy quý cho bà hơn bảy con trai. Con dâu bà đã sinh con cho người ấy.” Na-ô-mi bồng đứa trẻ đặt vào lòng mình và làm người vú nuôi nó. Các bà trong xóm đặt tên cho nó và nói rằng: “Một đứa con trai đã sinh ra cho Na-ô-mi.” Họ đặt tên nó là Ô-bết. Ô-bết là cha của Y-sai, Y-sai là cha của Đa-vít. Đây là dòng dõi của Pha-rết:Pha-rết sinh Hết-rôn, Hết-rôn sinh Ram,Ram sinh A-mi-na-đáp, A-mi-na-đáp sinh Na-ách-son,Na-ách-son sinh Sanh-môn, Sanh-môn sinh Bô-ô,Bô-ô sinh Ô-bết, Ô-bết sinh Y-sai,và Y-sai sinh Đa-vít. Tại Ra-ma-tha-im của dòng họ Xu-phơ thuộc vùng Ép-ra-im, có một người tên là Ên-ca-na. Ông này là con của ông Giê-rô-ham, cháu ông Ê-li-hu, chắt ông Tô-hu, và chít ông Xu-phơ, thuộc chi tộc Ép-ra-im. Ông Ên-ca-na có hai vợ; người vợ đầu tiên là An-ne, người vợ kế tên là Phê-ni-na. Bà Phê-ni-na có con, nhưng bà An-ne thì không. Hằng năm, ông thường từ thành mình lên đền thờ tại Si-lô thờ phượng CHÚA Toàn Năng và dâng sinh tế cho Ngài. Thầy tế lễ của CHÚA tại đó là Hóp-ni và Phi-nê-a, hai con trai của ông Hê-li. Một ngày kia ông Ên-ca-na dâng sinh tế. Theo lệ thường, sau khi dâng xong, ông chia thịt sinh tế ra cho vợ là bà Phê-ni-na, và cho hết thảy các con trai con gái bà, mỗi người một phần. Dù ông yêu quí bà An-ne nhiều hơn, ông cũng chia cho bà An-ne chỉ một phần thôi vì CHÚA không cho bà sanh con. Bà Phê-ni-na, đối thủ của bà, tìm đủ cách chọc tức bà, để hạ nhục bà, vì CHÚA đã làm cho bà son sẻ. Sự việc cứ tái diễn năm này sang năm khác. Mỗi khi bà An-ne lên đền thờ CHÚA, bà Phê-ni-na cứ chọc tức bà đến nỗi bà khóc và chẳng thiết ăn. Ông Ên-ca-na, chồng bà, hỏi bà: “An-ne, sao em lại khóc? Sao em không chịu ăn? Sao em buồn rầu như vậy? Đối với em, anh không quí hơn mười đứa con trai sao?” Sau khi ăn uống xong tại Si-lô, bà An-ne đứng dậy Thầy tế lễ Hê-li đang ngồi trên ghế, cạnh bên cửa đền thờ CHÚA. Bà An-ne sầu khổ lắm. Bà vừa khóc vừa cầu nguyện tha thiết với CHÚA. Bà hứa nguyện: “Lạy CHÚA Toàn Năng, xin Ngài đoái thương con đòi của Ngài! Xin Ngài nhìn thấy cảnh đau khổ của con và nhớ tới con. Xin Ngài đừng quên con đòi Ngài. Xin Ngài ban cho con đòi Ngài một đứa con trai, con nguyện dâng nó cho CHÚA trọn đời. Tóc nó sẽ không bao giờ bị cắt.” Bà tiếp tục cầu khẩn thật lâu trước mặt CHÚA, nên ông Hê-li theo dõi miệng bà. Ông chỉ thấy môi bà mấp máy, chớ chẳng nghe tiếng nào, vì bà An-ne cầu nguyện thầm trong lòng, nên ông tưởng bà say rượu. Ông Hê-li bảo bà: “Chị còn say cho đến chừng nào? Chị về dã rượu đi.” Bà An-ne thưa: “Thưa ông, tôi không say đâu. Tôi là một người đàn bà khốn khổ. Tôi không có uống rượu hoặc bia gì cả. Tôi chỉ dốc đổ lòng tôi ra trước mặt CHÚA. Xin ông đừng coi tôi là hạng đàn bà hư hỏng. Tôi cầu nguyện lâu chừng ấy là vì tôi sầu khổ và buồn bực quá đỗi.” Ông Hê-li đáp: “Chị an tâm về nhà. Cầu xin Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên ban cho chị điều chị cầu xin Ngài.” Bà An-ne thưa: “Xin ông luôn nhớ đến tôi là phận hèn mọn.” Bà trở về, dùng bữa. Nét mặt bà không còn ưu sầu nữa. Sáng hôm sau, ông Ên-ca-na và gia đình dậy sớm, sấp mình thờ phượng CHÚA, rồi trở về nhà mình tại Ra-ma.Ông Ên-ca-na ăn ở với bà An-ne, vợ mình. CHÚA nhớ đến bà. Bà An-ne thụ thai. Mãn kỳ thai nghén, bà sanh một con trai, đặt tên là Sa-mu-ên và giải thích: “Tôi đã cầu xin CHÚA ban cho tôi một đứa con.” Đến ngày ông Ên-ca-na và cả gia đình lên đền thờ dâng lên CHÚA sinh tế hằng năm cùng với lễ vật ông khấn nguyện. Nhưng lần này, bà An-ne không đi. Bà nói với chồng: “Đợi khi nào con dứt sữa, em sẽ dẫn con lên trình diện CHÚA, rồi con sẽ ở lại đó suốt đời.” Ông Ên-ca-na, chồng bà, đáp: “Em thấy điều gì phải thì làm. Em cứ ở nhà cho đến khi con thôi bú. Cầu xin CHÚA cho việc xảy ra y theo lời em hứa.” Vậy, bà vợ ở lại nhà cho con bú cho đến khi nó dứt sữa. Ngay sau khi con thôi bú, dù nó hãy còn nhỏ lắm, bà dẫn con lên đền thờ CHÚA tại Si-lô. Bà cùng với chồng đem theo một con bò đực ba tuổi một bao bột khoảng chừng hai mươi hai lít, và một bầu rượu. Họ làm thịt con bò dâng lên CHÚA rồi dẫn con đến gặp ông Hê-li. Bà nói: “Thưa ông, ông còn nhớ tôi không? Tôi chính là người đàn bà trước đây cầu khẩn CHÚA tại nơi này, cạnh bên ông. Tôi cầu xin Ngài cho tôi đứa con này. CHÚA đã ban cho tôi điều tôi cầu xin Ngài. Nay tôi xin dâng con tôi lại cho CHÚA. Nó thuộc về CHÚA trọn đời nó.”Rồi cả gia đình thờ phượng CHÚA. Bà An-ne cầu nguyện:“CHÚA cho lòng con ngập tràn vui mừng,CHÚA cho con đắc thắngCon cười kẻ thù con,Con vui mừng vì Ngài cứu giúp con. Không ai thánh như CHÚA,Thật vậy, không có ai ngoài Ngài.Không ai là vầng đá che chở chúng con như Đức Chúa Trời. Đừng lải nhải khoe khoang,Đừng nói lời ngạo mạn,Vì CHÚA là Đức Chúa Trời thông biết mọi điều,Ngài cân nhắc mọi hành động. Cây cung của dũng sĩ bị bẻ gãy,Nhưng người yếu đuối được thêm sức. Người vốn no đủ phải làm mướn kiếm ăn,Còn kẻ đói khát được no nê.Người hiếm hoi sanh năm bảy đứa,Kẻ đông con nay lại úa tàn. CHÚA cầm quyền sống chết,Ngài cho người xuống mồ mã, cũng có quyền đem lên. CHÚA khiến cho nghèo hèn hoặc giàu có,Ngài hạ xuống thấp, cũng nâng lên cao. Ngài đỡ kẻ nghèo lên khỏi bụi đất,Nâng kẻ khốn cùng lên khỏi đống phân tro,Đặt họ ngồi chung với kẻ quyền cao chức trọng,Ban ngai danh dự cho họ thừa kế.Vì các cột trụ của trái đất thuộc về CHÚA,Ngài đặt thế giới trên các trụ đó. Ngài gìn giữ bước chân của người trung tín với Ngài,Nhưng kẻ ác chết mất trong tối tăm.Vì không ai thắng được nhờ sức riêng mình. Lạy CHÚA, những kẻ chống đối Ngài sẽ bị tan xác,Từ trời, Ngài khiến sấm sét nổ vang đánh chúng tan nát.CHÚA xét xử cả thế gian,Ngài ban sức mạnh cho vua Ngài chọn,Ngài ban chiến thắng cho đấng được Ngài xức dầu.” Sau đó, ông Ên-ca-na trở về nhà mình tại Ra-ma; còn cậu bé ở lại phục vụ CHÚA dưới sự hướng dẫn của thầy tế lễ Hê-li. Các con trai ông Hê-li là những thanh niên hư hỏng, không biết kính sợ CHÚA, cũng không tôn trọng các luật lệ thầy tế lễ phải tuân theo đối với dân chúng. Nhưng mỗi khi có người dâng sinh tế, đầy tớ của thầy tế lễ đến lấy thịt đang sôi, tay cầm chỉa ba, đâm vào trong nồi, hoặc chảo, vạc hay niêu; bất cứ chỉa ba kéo lên được miếng thịt nào, miếng đó dành cho thầy tế lễ. Họ cư xử như vậy đối với mọi người Y-sơ-ra-ên đến dâng sinh tế cho CHÚA tại Si-lô. Hơn nữa, ngay trước khi người ta dâng mỡ, đốt cho khói xông lên ngào ngạt, đầy tớ thầy tế lễ đến nói với người dâng sinh tế: “Anh hãy đưa cho tôi thịt về quay cho thầy tế lễ, vì ông không nhận thịt luộc của anh đâu, chỉ nhận thịt sống thôi.” Nếu người kia đáp: “Chúng ta hãy đốt mỡ dâng lên trước, theo như qui định, rồi anh muốn lấy bao nhiêu tùy ý,” đầy tớ sẽ dọa: “Không được, anh phải đưa ngay bây giờ, bằng không, tôi đành phải dùng vũ lực để lấy thịt.” Như vậy, các con trai ông Hê-li phạm tội nặng lắm đối với CHÚA vì họ khinh dể lễ vật người ta dâng lên CHÚA. Trong khi ấy, cậu bé Sa-mu-ên tiếp tục phục vụ CHÚA. Cậu bé mặc chiếc khố bằng vải lanh. Mỗi năm, mẹ cậu may một chiếc áo dài nhỏ, đem lên cho cậu khi bà đi với chồng lên dâng tế lễ hằng năm. Thầy tế lễ Hê-li thường chúc phước cho vợ chồng ông Ên-ca-na: “Cầu xin CHÚA ban cho chị sanh thêm cho anh những đứa con khác thay cho đứa con chị đã cầu xin và dâng lại cho CHÚA.” Rồi họ trở về nhà. CHÚA ban phước cho bà An-ne; bà thụ thai và sanh thêm ba trai và hai gái nữa.Còn cậu bé Sa-mu-ên tiếp tục lớn lên và phục vụ CHÚA. Thầy tế lễ Hê-li bấy giờ già lắm rồi. Ông thường nghe nói về mọi điều các con ông làm đối với toàn dân Y-sơ-ra-ên. Ông cũng nghe nói chúng ăn nằm với các phụ nữ giúp việc tại cửa Trại Hội Kiến. Ông thường bảo chúng: “Sao các con làm những chuyện như vậy? Ba nghe mọi người đàm tiếu về những việc ác của các con. Đừng làm nữa các con! Tiếng đồn ba nghe con dân CHÚA rêu rao không tốt đâu. Nếu người này phạm tội với người kia, Đức Chúa Trời có thể làm trung gian hòa giải giữa hai bên, nhưng nếu một người phạm tội với CHÚA, ai dám cầu thay cho người đó?”Nhưng chúng vẫn không chịu nghe lời cha khuyên dạy, vì CHÚA đã quyết định chúng phải chết. Trong khi đó, cậu Sa-mu-ên ngày càng khôn lớn, làm vui lòng CHÚA và người. Có một người của Đức Chúa Trời đến báo cho ông Hê-li: “Đây là lời CHÚA phán: ‘Chính Ta đã tự tỏ mình ra cho tổ phụ ngươi khi họ phục dịch Pha-ra-ôn bên Ai-cập. Trong tất cả các chi tộc Y-sơ-ra-ên, Ta đã chọn dòng họ tổ phụ ngươi để giữ chức tế lễ cho Ta, để dâng sinh tế trên bàn thờ của Ta, để đốt hương, để đeo ê-phót cầu hỏi ý Ta. Ta cũng ban cho dòng họ tổ phụ ngươi tất cả các lễ vật dân Y-sơ-ra-ên dâng lên và đốt cháy trên bàn thờ. Vậy sao các ngươi chà đạp lên các sinh tế và lễ vật ngũ cốc Ta truyền dâng trong đền thờ Ta? Sao các ngươi nuôi mình cho mập, ăn phần ngon nhất trong mọi lễ vật dân Y-sơ-ra-ên Ta dâng lên cho Ta? Sao ngươi tôn trọng các con trai ngươi hơn Ta?’” Vì thế, CHÚA, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: “Ta có hứa cho dòng họ tổ phụ ngươi và cho dòng dõi ngươi phụng sự Ta suốt đời. Nhưng bây giơ, CHÚA phán, không được nữa! Vì ai tôn trọng Ta sẽ được Ta tôn trọng, còn ai khinh dể Ta sẽ bị Ta khinh dể. Này, trong những ngày sắp tới, Ta sẽ chặt gãy những người đang tuổi sung sức để cho không còn ai sống đến già trong dòng họ ngươi và dòng họ tổ phụ ngươi nữa. Ngươi sẽ nhìn thấy đối thủ phụng sự trong đền thờ Ta. Mọi sự sẽ tốt đẹp cho dân Y-sơ-ra-ên, nhưng trong dòng họ ngươi, sẽ không bao giờ có người nào sống đến già nữa. Ta sẽ chừa lại một người trong dòng dõi ngươi để phụng sự tại bàn thờ Ta. Nhưng người đó sẽ mòn mỏi vì sầu não khi mọi người khác trong dòng họ ngươi chết vì lưỡi gươm. Điều xảy đến cho hai con trai ngươi, Hóp-ni và Phi-nê-a, sẽ là điềm chứng tỏ cho ngươi biết mọi điều Ta phán sẽ ứng nghiệm. Hai con ngươi sẽ chết trong cùng một ngày. Ta sẽ dấy lên một người trung tín làm chức tế lễ cho Ta. Người ấy sẽ làm mọi sự đẹp lòng Ta và theo ý Ta. Ta sẽ gây dựng nhà người, ban cho người một dòng dõi trung tín để mãi mãi giữ chức tế lễ bên cạnh vua do Ta chọn và xức dầu. Người nào còn sống sót trong dòng họ ngươi sẽ đến quì lạy thầy tế lễ đó, van xin một đồng tiền hoặc một miếng bánh, và thưa: ‘Xin cho tôi được phụ giúp bất cứ việc gì bên cạnh các thầy tế lễ để kiếm miếng ăn.’” Trong khi ấy, cậu bé Sa-mu-ên tiếp tục phục vụ CHÚA dưới sự hướng dẫn của ông Hê-li. Thời bấy giờ, lời CHÚA phán trực tiếp với loài người rất hiếm; Ngài cũng chẳng ban khải tượng. Một đêm kia, ông Hê-li đang nằm ngủ trong chỗ ông thường nằm. Mắt ông bắt đầu mờ, không thấy rõ. Sa-mu-ên cũng nằm ngủ trong đền thờ CHÚA, nơi để rương giao ước của Đức Chúa Trời. Lúc ấy, đèn của Đức Chúa Trời chưa tắt. CHÚA gọi Sa-mu-ên. Cậu bé đáp: “Dạ, con đây!” Cậu chạy đến bên ông Hê-li: “Thưa ông, ông gọi con.”Ông Hê-li bảo: “Ta không có gọi con. Đi ngủ trở lại đi.”Cậu bé trở về ngủ. Chúa lại gọi nữa: “Sa-mu-ên!”Sa-mu-ên thức dậy đến bên ông Hê-li: “Thưa ông, ông gọi con.”Ông Hê-li bảo: “Ta không có gọi con đâu. Con đi ngủ đi.” Lúc ấy, Sa-mu-ên chưa nhận ra tiếng CHÚA vì CHÚA chưa phán trực tiếp với cậu. CHÚA lại gọi lần thứ ba: “Sa-mu-ên.”Cậu thức dậy đến bên ông Hê-li: “Thưa ông, ông gọi con.” Bây giờ ông Hê-li mới hiểu là CHÚA gọi cậu bé. Ông Hê-li bảo Sa-mu-ên: “Con hãy về ngủ đi. Nếu có tiếng gọi con nữa, hãy thưa: ‘Lạy CHÚA, xin phán dạy. Tôi tớ Ngài đang nghe.’” Sa-mu-ên trở về chỗ mình nằm ngủ. CHÚA đến đứng cạnh bên và gọi như các lần trước: “Sa-mu-ên! Sa-mu-ên!”Sa-mu-ên thưa: “Lạy Chúa, xin phán dạy. Tôi tớ Ngài đang nghe.” CHÚA bảo Sa-mu-ên: “Này, Ta sắp làm một việc giữa dân Y-sơ-ra-ên, đến nỗi ai nghe cũng phải ù cả hai tai. Ngày ấy, Ta sẽ thực hiện mọi điều Ta báo trước cho gia đình Hê-li, từ đầu đến cuối. Ta đã cảnh cáo Hê-li là Ta sẽ trừng phạt gia đình người đến muôn đời, vì người biết các con trai mình phạm tội khinh dể Đức Chúa Trời mà không ngăn cản chúng. Vì thế, Ta hứa quả quyết là tội của gia đình Hê-li sẽ không bao giờ chuộc được, dù bằng sinh tế hay lễ vật ngũ cốc.” Sa-mu-ên nằm ngủ cho đến sáng. Rồi cậu mở cửa đền thờ CHÚA. Sa-mu-ên sợ, không dám thuật lại khải tượng cho ông Hê-li. Nhưng ông Hê-li gọi Sa-mu-ên: “Sa-mu-ên lại đây con!” Cậu bé thưa: “Dạ, con đây.” Ông Hê-li hỏi: “Chúa phán dạy con điều gì? Con đừng giấu gì ông hết. Cầu xin Đức Chúa Trời trừng phạt con nặng nề nếu con giấu ông một chi tiết gì trong mọi điều Chúa phán bảo con.” Sa-mu-ên thuật lại cho ông nghe mọi điều, không giấu chi hết. Ông bảo: “Ngài chính là CHÚA. Xin Ngài làm điều gì thấy là tốt.” CHÚA ở cùng Sa-mu-ên đang khi cậu trưởng thành. Ngài thực hiện mọi điều cậu nói theo lệnh CHÚA. Toàn dân Y-sơ-ra-ên, từ Đan đến Bê-e-sê-ba, đều biết Sa-mu-ên là tiên tri trung thực của CHÚA. CHÚA tiếp tục hiện ra tại Si-lô: thật chính tại Si-lô, CHÚA tự tỏ mình ra cho Sa-mu-ên với lời của CHÚA. Và Sa-mu-ên truyền lời Ngài cho toàn dân Y-sơ-ra-ên.Một ngày kia, người Phi-li-tin tập họp lực lượng đánh dân Y-sơ-ra-ên. Khi dân Y-sơ-ra-ên ra trận chiến đấu với người Phi-li-tin, họ đóng quân tại Ê-bên Ê-xe còn người Phi-li-tin đóng tại A-phéc. Người Phi-li-tin dàn binh giao chiến với dân Y-sơ-ra-ên. Trận chiến càng thêm ác liệt. Dân Y-sơ-ra-ên thua trận, bị quân Phi-li-tin đánh giết khoảng bốn ngàn người ngoài trận địa. Khi đoàn quân sống sót trở về trại, các trưởng lão Y-sơ-ra-ên tự hỏi nhau: “Tại sao CHÚA để cho quân Phi-li-tin đánh bại chúng ta hôm nay? Chúng ta hãy mang rương giao ước của CHÚA từ Si-lô về đây. Ngài sẽ ở giữa chúng ta, và giải cứu chúng ta khỏi tay kẻ thù.” Vậy họ sai người đến Si-lô khiêng về rương giao ước của CHÚA Toàn Năng, Đấng ngự trên các chê-ru-bim. Hóp-ni và Phi-nê-a, hai người con của thầy tế lễ Hê-li, cũng về theo rương giao ước của Đức Chúa Trời. Khi rương giao ước của CHÚA về đến trại, toàn quân Y-sơ-ra-ên reo mừng vang dội đến nỗi đất rung chuyển. Người Phi-li-tin nghe tiếng reo hò liền hỏi nhau: “Tại sao có tiếng la hét inh ỏi đó trong trại quân Hy-bá?” Khi biết là rương giao ước của CHÚA vừa đến trại, người Phi-li-tin hoảng sợ vì họ nói: “Các vị thần vừa đến trại!” Rồi họ kêu lên: “Chúng ta nguy rồi! Trước đây, chưa hề có chuyện như thế này xảy ra bao giờ! Chúng ta nguy rồi! Ai có thể cứu chúng ta thoát khỏi tay các thần hùng mạnh này? Chính các thần này đã giáng đủ mọi tai họa xuống dân Ai-cập trong sa mạc. Nào, anh em Phi-li-tin, hãy can đảm lên! Hãy tỏ chí nam nhi, kẻo anh em phải làm nô lệ cho bọn Hy-bá như chúng đã làm nô lệ cho anh em! Hãy tỏ chí nam nhi, hãy chiến đấu!” Quân Phi-li-tin chiến đấu. Quân Y-sơ-ra-ên thua trận, ai nấy chạy trốn về lều mình. Đó là một thảm bại nặng nề: ba mươi ngàn bộ binh Y-sơ-ra-ên tử trận. Rương giao ước của Đức Chúa Trời bị đánh cướp; Hóp-ni và Phi-nê-a, hai người con của ông Hê-li cũng tử trận. Một người thuộc chi tộc Bên-gia-min chạy từ trận địa về đến Si-lô nội trong ngày ấy. Anh xé rách quần áo và rải bụi đất lên đầu để biểu lộ nỗi buồn. Khi anh đến nơi, ông Hê-li đang ngồi ngóng tin trên ghế cạnh bên đường, vì ông hồi hộp lo ngại cho rương giao ước của Đức Chúa Trời. Khi anh vào thành báo tin, cả thành đều gào lên thất thanh. Ông Hê-li nghe tiếng kêu gào hỏi: “Chuyện gì mà ồn ào vậy?” Anh vội vàng đến báo tin cho ông Hê-li. Ông Hê-li lúc bấy giờ đã chín mươi tám tuổi. Mắt ông đã mờ, không còn thấy được nữa. Anh thưa với ông Hê-li: “Con mới về từ chiến trường. Con vừa chạy thoát ngày hôm nay.” Ông Hê-li hỏi: “Có chuyện gì xảy ra vậy con?” Người đem tin đáp: “Y-sơ-ra-ên bị Phi-li-tin đánh bại, phải bỏ chạy. Quân ta thiệt hại nặng nề. Hai người con của ông, Hóp-ni và Phi-nê-a, cũng tử trận, và rương giao ước của Đức Chúa Trời bị cướp mất.” Khi anh nhắc đến rương giao ước của Đức Chúa Trời, ông Hê-li đang ngồi trên ghế bên cổng, té quật ngửa ra sau, đập bể gáy và chết, vì ông đã già lại nặng nề. Ông lãnh đạo xét xử dân Y-sơ-ra-ên trong bốn mươi năm. Con dâu của ông là vợ của Phi-nê-a đang có thai, gần đến ngày sanh. Nghe tin rương giao ước của Đức Chúa Trời bị cướp mất, cùng ông gia và chồng đều qua đời, cơn đau đẻ bỗng quặn lên, chị gập người xuống và rặn đẻ. Trong khi chị hấp hối, những người đàn bà đỡ đẻ cho chị nói: “Chị an tâm; chị sanh được con trai.” Nhưng chị không đáp lời nào, cũng không để tâm. Chị gọi tên đứa bé là Y-ca-bốt, có nghĩa là “vinh quang của Đức Chúa Trời đã rời hỏi Y-sơ-ra-ên,” ngụ ý muốn nói về rương giao ước của Đức Chúa Trời bị cướp mất, và về sự chết của ông gia và chồng chị. Chị nói: “Vinh quang của Đức Chúa Trời đã rời khỏi Y-sơ-ra-ên vì rương giao ước của Đức Chúa Trời bị cướp mất.” Sau khi người Phi-li-tin cướp được rương giao ước của Đức Chúa Trời, họ khiêng rương từ Ê-bên Ê-xe về Ách-đốt. Rồi họ khiêng rương vào trong miếu thờ thần của họ là Đa-gôn, đặt rương bên tượng thần Đa-gôn. Sáng sớm hôm sau, dân thành Ách-đốt thức dậy, thấy tượng Đa-gôn té nằm sấp mặt xuống đất trước rương giao ước của CHÚA. Họ đỡ tượng Đa-gôn lên, dựng vào chỗ cũ. Sáng sớm hôm sau, họ thức dậy, lại thấy tượng Đa-gôn té nằm sấp xuống đất trước rương giao ước của CHÚA, nhưng lần này chỉ còn mỗi cái thân, còn đầu và hai bàn tay bị chặt đứt, nằm trên ngưỡng cửa. Vì thế, cho đến ngày nay, các thầy cúng tế phục dịch thần Đa-gôn và tất cả những người vào miếu thờ Đa-gôn đều tránh bước lên ngưỡng cửa miếu tại Ách-đốt. Bàn tay CHÚA đè nặng trên dân thành Ách-đốt. Ngài gieo kinh hoàng, khiến cho họ và dân vùng phụ cận mắc bệnh dịch hạch. Khi dân thành Ách-đốt thấy việc xảy ra, họ nói với nhau: “Chúng ta không thể nào để rương giao ước của Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên ở lại đây với chúng ta được nữa, vì Ngài đang trừng phạt chúng ta và thần Đa-gôn của chúng ta.” Họ sai người mời tất cả các nhà lãnh đạo Phi-li-tin họp lại và hỏi: “Chúng tôi phải làm gì với rương giao ước của Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên?” Các nhà lãnh đạo đáp: “Anh chị em hãy chuyển rương giao ước của Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên sang thành Gát.” Vậy họ chuyển rương giao ước của Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên đi. Nhưng sau khi rương được chuyển về thành Gát, CHÚA trừng phạt dân trong thành, khiến họ sợ hãi bấn loạn. Mọi người trong thành, từ nhỏ đến lớn, đều nổi hạch. Họ liền chuyển rương giao ước của Đức Chúa Trời đến Éc-rôn. Rương của Đức Chúa Trời vừa đến nơi, dân thành Éc-rôn kêu than: “Họ chuyển rương giao ước của Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên đến đây để giết chúng ta và gia đình chúng ta!” Họ sai người mời tất cả các nhà lãnh đạo Phi-li-tin họp lại và nói: “Xin các ông chuyển rương giao ước của Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên về nước của họ đi, kẻo rương giết chúng tôi và gia đình chúng tôi.” Vì cả thành đều náo loạn kinh hoàng. Dân chúng tại đó cũng bị Đức Chúa Trời trừng phạt nặng nề. Người nào chưa chết cũng nổi hạch. Tiếng kêu than trong thành vang đến tận trời. Sau khi rương giao ước của CHÚA ở trong xứ người Phi-li-tin được bảy tháng, người Phi-li-tin mời các thầy cúng tế và các thầy bói của họ đến, hỏi: “Chúng tôi phải làm gì với rương giao ước của CHÚA? Xin cho chúng tôi biết chúng tôi phải làm gì gởi kèm theo khi chúng tôi trả rương về chỗ cũ?” Các thầy cúng tế và các thầy bói đáp: “Nếu anh chị em muốn gởi rương giao ước của Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên về trả cho họ, xin đừng gởi rương về không. Anh chị em nên nhớ gởi cho Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên một lễ vật chuộc tội. Bấy giờ anh chị em sẽ được chữa lành và sẽ biết tại sao Ngài đã không ngừng trừng phạt anh chị em.” Người Phi-li-tin hỏi: “Chúng tôi phải gửi lễ vật gì cho Ngài?” Các thầy cúng tế và các thầy bói đáp: “Anh chị em hãy gởi, tùy theo số các nhà lãnh đạo Phi-li-tin, năm hình mụt hạch bằng vàng và năm con chuột bằng vàng, vì toàn dân và các nhà lãnh đạo đều chịu cùng một tai họa. Anh chị em nên làm hình các mụt hạch và hình các con chuột phá hoại đất đai, và anh chi em phải dâng vinh quang lên Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên. Biết đâu Ngài sẽ nương tay, không trừng phạt anh chị em, các thần và đất đai của anh chị em nữa. Xin anh chị em đừng cứng lòng như dân Ai-cập và Pha-ra-ôn. Anh chị em nhớ Ngài hành hạ chúng thế nào, đến nỗi chúng phải để dân Y-sơ-ra-ên ra đi. Bây giờ, anh chị em hãy đóng một chiếc xe mới, bắt hai con bò mẹ đang cho bú, chưa hề mang ách, thắng vào xe, nhưng phải dẫn bò con về chuồng, không cho chúng lẽo đẽo theo mẹ. Rồi anh chị em khiên rương giao ước của CHÚA đặt lên xe. Bên cạnh rương, anh chị em đặt chiếc hộp đựng các lễ vật bằng vàng mà anh chị em dâng lên Ngài để xin tạ lỗi. Đoạn, anh chị em thả cho bò tự kéo xe đi. Anh chị em theo dõi sẽ thấy: nếu bò đi về biên giới, theo hướng Bết Se-mét, thì chính Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã giáng tai họa lớn lao này xuống chúng ta; còn nếu bò đi hướng khác, chúng ta sẽ biết là không phải Ngài trừng phạt chúng ta, nhưng tai họa ngẫu nhiên xảy ra.” Người Phi-li-tin làm theo lời chỉ dẫn. Họ bắt hai con bò mẹ đang cho bú thắng vào xe, và nhốt bò con trong chuồng. Họ đặt rương giao ước của CHÚA lên xe, cùng với chiếc hộp đựng mấy con chuột bằng vàng và hình các mụt hạch. Hai con bò đi thẳng một đường về hướng Bết Se-mét, đi trên đường cái duy nhất vừa đi vừa rống, không quay sang bên phải hoặc bên trái. Các nhà lãnh đạo Phi-li-tin đi theo sau xe cho đến biên giới Bết Se-mét. Dân thành Bết Se-mét đang gặt lúa mì trong thung lũng, bỗng họ ngước mắt lên, thấy hòm giao ước, liền vui mừng quá đỗi. Chiếc xe vào đến ruộng của ông Giô-suê, người Bết Se-mét, và dừng lại. Tại đó, có một tảng đá lớn. Dân chúng bửa xe làm củi và dâng hai con bò cái làm tế lễ toàn thiêu lên cho CHÚA, vì người Lê-vi đã khiêng rương giao ước của CHÚA cùng với chiếc hộp cạnh bên đựng các lễ vật bằng vàng xuống khỏi xe, đặt trên tảng đá lớn. Người Bết Se-mét dâng tế lễ toàn thiêu cùng với các sinh tế khác lên CHÚA trong ngày hôm đó. Năm nhà lãnh đạo Phi-li-tin nhìn thấy mọi việc, rồi trở về Éc-rôn nội ngày hôm đó. Sau đây là năm mụt hạch bằng vàng người Phi-li-tin dâng lên CHÚA làm lễ vật chuộc tội: một cho thành Ách-đốt, một cho thành Ga-xa, một cho thành Ách-ca-lôn, một cho thành Gát, và một cho thành Éc-rôn. Số các con chuột bằng vàng cũng theo tổng số các thành thuộc quyền năm nhà lãnh đạo Phi-li-tin, từ thành trì kiên cố đến các làng bỏ ngỏ ở miền quê. Tảng đá lớn, nơi người ta đặt rương giao ước của CHÚA, hiện nay vẫn còn trong ruộng của ông Giô-suê người Bết Se-mét. CHÚA phạt dân thành Bết Se-mét vì họ nhìn vào bên trong rương giao ước của CHÚA. Ngài diệt bảy mươi người trong số họ. Dân chúng than khóc vì CHÚA trừng phạt họ nặng nề. Dân thành Bết Se-mét bàn tán: “Ai có thể đứng chầu trước mặt CHÚA là Đức Chúa Trời thánh khiết này? Chúng ta sẽ đem rương giao ước của Ngài đi khỏi chúng ta đến với ai?” Họ sai sứ đến nói với dân thành Ki-ri-át Giê-a-rim: “Người Phi-li-tin đã trả rương giao ước của CHÚA về đây rồi. Xin anh chị em xuống khiêng rương về.” Dân thành Ki-ri-át Giê-a-rim đến khiêng rương giao ước của CHÚA lên nhà ông A-bi-na-đáp ở trên đồi; họ biệt riêng Ê-lê-a-sa, con trai ông, để trông nom hòm giao ước của CHÚA. Kể từ ngày rương giao ước được khiêng về đặt trong thành Ki-ri-át Giê-a-rim, một thời gian dài trôi qua: thấm thoát đã hai mươi năm. Toàn dân Y-sơ-ra-ên khóc lóc quay về với CHÚA. Ông Sa-mu-ên nói với toàn dân Y-sơ-ra-ên: “Nếu anh chị em thật lòng muốn quay về cùng CHÚA, anh chị em phải dẹp bỏ các thần tượng ngoại bang, và các tượng nữ thần Át-tạc-tê nữa. Anh chị em phải hướng lòng về CHÚA, phụng sự một mình Ngài mà thôi; bấy giờ Ngài sẽ giải cứu anh chị em khỏi tay người Phi-li-tin.” Vậy, dân Y-sơ-ra-ên dẹp bỏ các tượng thần Ba-anh và Át-tạc-tê, chỉ phụng sự một mình CHÚA thôi. Ông Sa-mu-ên bảo tiếp: “Anh chị em hãy tập họp toàn dân Y-sơ-ra-ên lại tại Mích-ba, để tôi cầu nguyện CHÚA cho anh chị em.” Dân chúng tụ họp lại tại Mích-ba. Họ múc nước, đổ ra trước mặt CHÚA. Trọn ngày ấy, họ kiêng ăn và xưng tội: “Chúng con có phạm tội với CHÚA.” Và tại đó, tại Mích-ba, ông Sa-mu-ên trở nên nhà lãnh đạo xét xử dân Y-sơ-ra-ên. Khi người Phi-li-tin nghe tin dân Y-sơ-ra-ên tụ họp tại Mích-ba, các nhà lãnh đạo của họ ra quân tiến đánh Y-sơ-ra-ên. Dân Y-sơ-ra-ên nghe tin ấy, hoảng sợ. Họ nói với ông Sa-mu-ên: “Xin ông vì chúng tôi không ngừng kêu cầu CHÚA, là Đức Chúa Trời chúng tôi, xin Ngài giải cứu chúng tôi khỏi tay người Phi-li-tin.” Ông Sa-mu-ên bắt một con chiên sữa làm tế lễ toàn thiêu dâng lên CHÚA.Ông kêu xin CHÚA giải cứu dân Y-sơ-ra-ên, và CHÚA nhậm lời ông. Trong khi ông Sa-mu-ên dâng tế lễ toàn thiêu, người Phi-li-tin kéo quân đến đánh Y-sơ-ra-ên, nhưng CHÚA cho trời gầm sấm nổ vang rền, khiến cho quân Phi-li-tin chạy tán loạn và bị quân Y-sơ-ra-ên đánh bại. Quân Y-sơ-ra-ên từ thành Mích-ba chạy ra, rượt theo quân Phi-li-tin và đánh giết họ cho đến một nơi phía dưới thành Bết-ca. Ông Sa-mu-ên dựng một tảng đá giữa Mích-ba và Sen Ông nói: “CHÚA đã cứu giúp chúng ta đến chốn này.” Và ông gọi tên tảng đá là Ê-bên Ê-xe. Người Phi-li-tin thất trận nhục nhã. Trọn đời ông Sa-mu-ên, CHÚA ngăn cản, không cho người Phi-li-tin xâm lấn lãnh thổ Y-sơ-ra-ên. Người Phi-li-tin trả lại các thành họ chiếm đóng, giữa Éc-rôn và Gát, cho dân Y-sơ-ra-ên. Như vậy, dân Y-sơ-ra-ên giải phóng địa phận các thành ấy khỏi sự cai trị của người Phi-li-tin. Cũng có hòa bình giữa dân Y-sơ-ra-ên và dân A-mô-rít. Ông Sa-mu-ên lãnh đạo xét xử dân Y-sơ-ra-ên cho đến khi ông qua đời. Mỗi năm, ông đi vòng qua các thành Bê-tên, Ghinh-ganh, Mích-ba, và xét xử dân Y-sơ-ra-ên trong các thành ấy. Rồi ông trở về nhà ở Ra-ma. Tại đó ông cũng xét xử dân Y-sơ-ra-ên. Ông dựng một bàn thờ cho CHÚA tại đó. Khi về già, ông Sa-mu-ên cho các con trai mình lãnh đạo và xét xử dân Y-sơ-ra-ên. Người con trưởng tên Giô-ên, và người con thứ tên A-bi-gia; cả hai điều hành việc xét xử tại Bê-e Sê-ba. Nhưng các con không noi gương cha mình; chúng tham tiền, ăn hối lộ và bóp méo công lý. Do đó, tất cả các trưởng lão dân Y-sơ-ra-ên tụ họp lại, cùng nhau đến nhà ông Sa-mu-ên tại Ra-ma. Họ thưa với ông: “Ông đã cao tuổi, mà các con ông lại không noi theo gương ông. Vậy xin ông lập cho chúng tôi một vua để cai trị chúng tôi, y như tất cả các dân tộc khác đều có vua cai trị.” Ông Sa-mu-ên rất buồn khi nghe họ xin một vua. Ông liền cầu nguyện với CHÚA. CHÚA đáp lời ông: “Con hãy nghe theo mọi lời chúng xin. Chúng không gạt bỏ con đâu, nhưng chúng gạt bỏ Ta, không cho Ta làm vua chúng nữa. Từ ngày Ta giải cứu chúng ra khỏi xứ Ai-cập cho đến nay, chúng luôn luôn từ bỏ Ta và thờ lạy các tà thần; bây giờ chúng đối xử với con y như chúng đối xử với Ta. Vậy bây giờ, con cứ nghe theo lời chúng, nhưng con phải nhớ cảnh cáo chúng, cho chúng biết rõ những quyền lợi mà bất kỳ vua nào cai trị chúng cũng đòi hỏi.” Ông Sa-mu-ên thuật lại mọi lời CHÚA phán dạy cho những người xin ông lập vua cho họ. Ông khuyến cáo họ: “Bất kỳ một vua nào cai trị anh chị em cũng sẽ đòi hỏi những quyền lợi như sau. Con trai anh chị em sẽ bị bắt lính, một số sẽ đánh xe chiến mã, một số cưỡi ngựa chiến, một số chạy bộ trước xe chiến mã của vua. Vua sẽ lập một số lên làm quan, chỉ huy một ngàn người, hoặc năm mươi người. Một số sẽ cày ruộng cho vua, gặt lúa cho vua. Một số sẽ rèn vũ khí chiến tranh, một số khác lo trang bị xe chiến mã. Vua sẽ bắt con gái anh chị em pha chế dầu thơm, hoặc nấu ăn, hoặc nướng bánh. Đồng ruộng, vườn nho, vườn ô-liu tốt nhất của anh chị em, vua sẽ lấy phân phát cho cận thần. Vua sẽ lấy một phần mười lúa thóc và huê lợi vườn nho của anh chị em mà phát cho các quan trong triều và cận thần của vua. Vua sẽ bắt tôi trai tớ gái, các thanh niên mạnh khỏe nhất và mấy con lừa của anh chị em làm việc cho vua. Vua cũng sẽ lấy một phần mười bầy chiên dê của anh chị em. Tóm lại, chính anh chị em sẽ làm tôi mọi cho vua. Đến lúc ấy, anh chị em sẽ than khóc với CHÚA về vua mà anh chị em đã chọn cho mình, nhưng Ngài sẽ không đáp lời anh chị em kêu cầu.” Nhưng dân chúng không chịu nghe theo lời khuyến cáo của ông Sa-mu-ên. Họ đáp: “Mặc kệ. Chúng tôi muốn có vua. Chúng tôi muốn giống như tất cả các dân tộc khác, có vua cai trị, cầm đầu chúng tôi khi ra trận, và đánh giặc cho chúng tôi.” Ông Sa-mu-ên nghe mọi điều chúng nói xong liền trình lên CHÚA. CHÚA bảo ông: “Con cứ nghe theo lời chúng, lập cho chúng một vua.” Ông Sa-mu-ên bảo dân Y-sơ-ra-ên: “Anh chị em ai nấy hãy trở về thành mình.” Thuở ấy, trong xứ Bên-gia-min, có ông Kích là người giàu có và quyền thế. Ông Kích là con của ông A-bi-ên, cháu ông Xê-rô, chắt ông Bê-cô-rát, chít ông A-phia, thuộc chi tộc Bên-gia-min. Con trai ông Kích là Sau-lơ, một thanh niên khôi ngô tuấn tú. Người Y-sơ-ra-ên không có ai đẹp trai bằng Sau-lơ. Anh cao hơn mọi người từ vai trở lên. Ông Kích có mấy con lừa cái đi lạc. Ông bảo con mình là Sau-lơ: “Con hãy đi tìm mấy con lừa cái cho ba. Con nhớ dẫn theo một người đầy tớ.” Họ đi khắp vùng đồi núi Ép-ra-im và địa phận Sa-li-sa, nhưng chưa tìm được; họ đi qua vùng Sa-lim, cũng không thấy gì; họ đi khắp xứ Bên-gia-min, cũng chẳng tìm được. Khi đến vùng Xu-phơ, Sau-lơ nói với người đầy tớ theo mình: “Thôi, chúng ta hãy trở về đi, kẻo ba tôi hết lo về mấy con lừa cái lại lo cho chúng ta.” Người đầy tớ đáp: “Trong thành kia có một người của Đức Chúa Trời. Ông được mọi người kính trọng, vì điều gì ông nói cũng xảy ra đúng như vậy. Chúng ta nên đến đó gặp ông ngay bây giờ. Biết đâu ông ấy sẽ chỉ dạy chúng ta nên tìm lừa nơi nào.” Sau-lơ hỏi: “Nếu đi, chúng ta có gì để biếu ông? Lương thực đem theo trong bao đã cạn rồi. Chúng ta không có quà gì để biếu người của Đức Chúa Trời. Chúng ta còn gì nữa đâu?” Người đầy tớ đáp lời Sau-lơ: “Tôi có sẵn trong tay một chỉ bạc đây, tôi sẽ đem biếu người của Đức Chúa Trời. Rồi ông sẽ chỉ chúng ta nên đi đường nào.” Thuở trước, người Y-sơ-ra-ên muốn tìm cầu ý Đức Chúa Trời thường nói: “Chúng ta hãy đi gặp ông tiên kiến,” vì thuở ấy họ gọi là tiên kiến, người mà ngày nay chúng ta gọi là tiên tri. Sau-lơ bảo người đầy tớ: “Được lắm. Chúng ta đi thôi.” Và họ đi đến thành, nơi người của Đức Chúa Trời ở. Đang khi lên dốc, họ gặp mấy cô gái từ thành đi xuống múc nước, và hỏi họ: “Ông tiên kiến có ở đây không?” Các cô đáp: “Có. Ông ấy vừa mới đến trước các anh. Các anh đi mau lên; ông ấy vừa đến nơi vì hôm nay là ngày dân trong thành dâng tế lễ trên đồi. Các anh sẽ gặp ông ngay khi bước vào thành, trước khi ông lên đồi dự tiệc. Không ai được phép ăn trước khi ông đến, vì ông phải tạ ơn trước, rồi sau đó khách mới ăn. Các anh nên đi ngay bây giờ, các anh sẽ gặp ông ngay.” Sau-lơ và người đầy tớ tiếp tục lên đường. Khi vào thành, họ gặp ông Sa-mu-ên đi ra về phía họ, để lên đồi dự lễ. Thật ra, một ngày trước khi Sau-lơ đến, CHÚA có tỏ cho ông Sa-mu-ên biết: “Ngày mai, vào giờ này, Ta sẽ sai một người từ xứ Bên-gia-min đến gặp con. Con sẽ xức dầu cho người ấy chỉ huy dân Y-sơ-ra-ên Ta. Người ấy sẽ giải phóng dân Ta ra khỏi tay quân Phi-li-tin, vì Ta đã thấy nỗi khốn khổ của dân Ta, và tiếng kêu than của họ đã thấu đến Ta.” Khi ông Sa-mu-ên vừa thấy Sau-lơ, CHÚA bảo ông: “Đây là người Ta báo trước cho con biết. Người sẽ cai trị dân Ta.” Sau-lơ đến gần ông tại cổng thành và thưa: “Xin ông cho con biết ông tiên kiến ở đâu?” Ông Sa-mu-ên đáp: “Chính ta đây, Con hãy đi trước ta đến đồi dự lễ. Hôm nay các con sẽ dùng bữa với ta. Sáng mai ta sẽ giải đáp mọi điều thắc mắc trong lòng con rồi cho con về. Còn về mấy con lừa cái mà con đã mất ba ngày nay, con đừng bận tâm nữa, vì chúng đã tìm được rồi. Dân Y-sơ-ra-ên ngưỡng vọng ai, nếu chẳng phải con và toàn thể nhà cha con?” Sau-lơ đáp: “Con thuộc về chi tộc Bên-gia-min, chi tộc nhỏ nhất trong Y-sơ-ra-ên, và tộc con là tộc ít người nhất trong chi tộc Bên-gia-min. Sao ông lại nói với con như vậy?” Ông Sa-mu-ên dẫn Sau-lơ và đầy tớ vào trong một phòng lớn, cho họ ngồi chỗ danh dự tại bàn có ba mươi quan khách. Ông Sa-mu-ên bảo người đầu bếp: “Con hãy dọn lên phần thịt ta giao cho và dặn con để riêng ra.” Người đầu bếp dọn lên cái đùi và phần trên đùi đặt trước mặt Sau-lơ. Ông Sa-mu-ên bảo Sau-lơ: “Phần dọn ra trước mặt con đây là phần ta dặn để dành riêng cho con trong dịp này. Con hãy ăn cùng với các quan khách ta mời.”Thế là Sau-lơ dùng bữa chung với ông Sa-mu-ên hôm ấy. Đoạn họ rời nơi thờ phượng trên đồi, trở về thành. Người ta trải giường cho Sau-lơ trên nóc nhà bằng. Và Sau-lơ nằm ngủ.Vừa lúc rạng đông, ông Sa-mu-ên gọi Sau-lơ trên mái nhà: “Hãy thức dậy, ta đưa con lên đường.” Sau-lơ thức dậy. Ông Sa-mu-ên đi với Sau-lơ ra đường cái. Đang khi đi xuống ven thành, ông Sa-mu-ên nói với Sau-lơ: “Con bảo đầy tớ con đi trước chúng ta đi.” Đầy tớ đi qua trước. Ông Sa-mu-ên bảo tiếp: “Bây giờ, con hãy dừng lại đây, để ta truyền cho con lời của Đức Chúa Trời.” Ông Sa-mu-ên cầm ve dầu đổ lên đầu Sau-lơ, rồi ông hôn anh và nói: “CHÚA đã xức dầu cho con để chỉ huy dân Ngài. Hôm nay, sau khi con từ giã ta ra đi, con sẽ gặp hai người đàn ông bên mộ Ra-chên tại Xên-xa, thuộc địa phận Bên-gia-min. Họ sẽ nói với con: ‘Mấy con lừa cái anh đi tìm đã kiếm được rồi. Bây giờ cha anh không còn lo lắng về mấy con lừa nữa, nhưng lại lo cho các anh.’ Ông cứ hỏi: ‘Làm sao tìm được con trai tôi?’ Từ đó, con tiếp tục đi, và khi đến cây sồi tại Tha-bô, con sẽ gặp ba người đàn ông trên đường đến Bê-tên thờ phượng Đức Chúa Trời, một người mang theo ba con dê con, người kia ba ổ bánh, và người nọ một bầu rượu. Họ sẽ chào con và tặng con hai ổ bánh. Con hãy nhận bánh của họ. Sau đó, con đi đến Ghi-bê-a Ê-lô-him nơi có người Phi-li-tin đóng quân. Khi vào thành, con sẽ gặp một đoàn tiên tri đang đi xuống từ nơi thờ phượng trên đồi. Họ vừa hăng say nhảy múa vừa nói tiên tri. Đi trước họ, người thì gảy đàn hạc, đàn lia, kẻ thì lúc lắc trống nhỏ, hoặc thổi sáo. Thần linh của CHÚA sẽ chiếm ngự con, con cũng sẽ hăng say nhảy múa và nói tiên tri cùng với họ; con sẽ trở thành một người khác. Khi các điềm này xảy ra, con sẽ biết có Đức Chúa Trời ở với con. Hãy làm theo mọi điều Ngài chỉ dẫn. Kế đến, con hãy đi trước ta xuống Ghinh-ganh. Ta cũng sẽ xuống đó với con để dâng tế lễ toàn thiêu và tế lễ ăn mừng. Con hãy ở đó bảy ngày chờ ta đến, ta sẽ chỉ dạy con điều con phải làm.” Vừa khi Sau-lơ từ giã ông Sa-mu-ên, quay lưng đi, Đức Chúa Trời ban cho anh một tấm lòng mới. Mọi điềm ông Sa-mu-ên báo trước đều xảy ra nội trong ngày đó. Sau-lơ và người đầy tớ vừa đến Ghi-bê-a thì gặp một đoàn tiên tri. Thần linh của Đức Chúa Trời chiếm ngự Sau-lơ, anh hăng say nhảy múa và nói tiên tri cùng với họ. Mọi người đã từng biết Sau-lơ trước kia, thấy anh nói tiên tri chung với các tiên tri liền hỏi nhau: “Điều gì đã xảy đến cho con trai ông Kích? Sau-lơ cũng trở thành tiên tri nữa sao?” Một người ở vùng đó hỏi thêm: “Còn mấy vị kia, cha họ là ai?” Từ đó có câu ngạn ngữ: “Sau-lơ cũng trở thành tiên tri nữa sao?” Sau khi nói tiên tri xong, Sau-lơ lên chỗ thờ phượng trên đồi. Chú của Sau-lơ hỏi Sau-lơ và người đầy tớ của anh ta: “Các con đi đâu?” Sau-lơ đáp: “Chúng con đi tìm mấy con lừa cái nhưng không tìm được, nên đến hỏi ông Sa-mu-ên.” Người liền hỏi tiếp: “Kể cho chú biết ông Sa-mu-ên nói gì với các con?” Sau-lơ đáp: “Ông nói lừa tìm được rồi.” Nhưng Sau-lơ không kể cho chú mình những gì ông Sa-mu-ên nói về việc vua chúa. Ông Sa-mu-ên triệu tập dân Y-sơ-ra-ên đến với CHÚA tại Mích-ba. Ông bảo họ: “CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: ‘Chính Ta đã đem các con, dân Y-sơ-ra-ên, ra khỏi Ai-cập. Ta đã giải cứu các con khỏi quyền lực của Ai-cập, và của mọi nước áp bức các con.’ Nhưng ngày nay, anh chị em gạt bỏ Đức Chúa Trời của anh chị em, dù chính Ngài đã giải cứu anh chị em khỏi mọi tai ương hoạn nạn, khi anh chị em nói với tôi: ‘xin cho chúng tôi một vua.’ Vậy bây giờ, anh chị em hãy trình diện CHÚA, đứng chầu theo từng chi tộc và tộc.” Ông Sa-mu-ên bảo tất cả các chi tộc Y-sơ-ra-ên đến gần; ông rút thăm, và CHÚA chỉ định chi tộc Bên-gia-min. Ông bảo các tộc trong chi tộc Bên-gia-min đến gần, và tộc Mát-ri được chỉ định. Kế đến, Sau-lơ, con ông Kích, được chỉ định. Họ tìm Sau-lơ nhưng không gặp. Họ lại cầu hỏi CHÚA: “Còn có người nào khác sẽ đến đây không?” CHÚA đáp: “Kìa, Sau-lơ trốn giữa đống đồ đạc.” Họ chạy đến, đem Sau-lơ về trình diện dân chúng. Anh đứng cao hơn mọi người từ vai trở lên. Ông Sa-mu-ên bảo toàn dân: “Anh chị em hãy nhìn xem! Đây là người CHÚA chọn. Trong toàn dân, không có ai khác bằng anh cả.” Toàn dân tung hô: “Vua vạn tuế!” Đoạn ông Sa-mu-ên giải thích cho dân chúng biết các quyền hạn và trách nhiệm của vua; ông ghi chép lại trong một quyển sách, đem đặt trong nơi thánh, trước mặt CHÚA. Sau cùng, ông bảo mọi người ai nấy về nhà mình. Sau-lơ cũng trở về nhà mình tại Ghi-bê-a. Những dũng sĩ được Đức Chúa Trời cảm động đi theo Sau-lơ. Nhưng bọn côn đồ chê bai: “Anh chàng này làm gì mà cứu giúp chúng ta được?” Bọn chúng khinh dể Sau-lơ, không đem quà cáp gì cho người cả. Tuy nhiên, Sau-lơ vẫn điềm tĩnh yên lặng. Na-hách, vua Am-môn, cầm quân lên bao vây thành Gia-bết, trong địa phận Ga-la-át. Mọi người trong thành Gia-bết nài xin vua Na-hách: “Xin vua ký vào hiệp ước với chúng tôi, chúng tôi sẽ phục dịch vua.” Nhưng Na-hách, vua Am-môn đáp: “Ta sẽ ký hiệp ước với các ngươi nếu các ngươi chịu cho ta móc con mắt phải của mỗi người trong các ngươi, và như vậy, toàn dân Y-sơ-ra-ên sẽ bị sỉ nhục.” Các trưởng lão thành Gia-bết cố nài nỉ: “Xin vua hoãn cho chúng tôi bảy ngày, để chúng tôi sai sứ giả đi khắp lãnh thổ Y-sơ-ra-ên; nếu không có ai cứu giúp chúng tôi, chúng tôi sẽ đầu hàng vua.” Khi các sứ giả đến thành Ghi-bê-a, nơi Sau-lơ sinh sống, và kể lại sự việc cho dân trong thành nghe, mọi người đều khóc òa lên. Ngay lúc ấy, Sau-lơ từ ngoài đồng về tới, theo sau đàn bò. Anh hỏi: “Có chuyện gì mà dân chúng khóc như vậy?” Họ thuật lại cho anh nghe sự tình của thành Gia-bê. Sau-lơ vừa nghe xong, Thần Linh của Đức Chúa Trời chiếm ngự anh, anh bừng bừng nổi giận. Anh bắt một cặp bò, xả ra từng miếng, rồi gởi các sứ giả đi khắp lãnh thổ Y-sơ-ra-ên, kèm theo sứ điệp: “Người nào không theo Sau-lơ và Sa-mu-ên ra trận, bò của người đó sẽ bị xả ra từng mảnh y như vậy.” CHÚA khiến dân chúng kinh sợ, họ đồng lòng hiệp ý như một người, kéo nhau ra trình diện. Sau-lơ tập họp chúng tại Bê-xéc: có ba trăm ngàn người thuộc các chi tộc phía bắc, và ba mươi ngàn người thuộc chi tộc Giu-đa. Họ bảo các sứ giả đến từ thành Gia-bết, tỉnh Ga-la-át: “Các anh nói với dân trong thành như vầy: ‘Ngày mai, khi mặt trời vừa nóng, anh chị em sẽ được giải cứu.’” Khi các sứ giả đem tin về cho dân thành Gia-bết, họ mừng rỡ, và nói với vua Na-hách: “Ngày mai chúng tôi ra đầu hàng, xin vua đối xử với chúng tôi thế nào tùy ý.” Đêm ấy, Sau-lơ chia quân ra thành ba cánh, đột nhập trại quân Am-môn lúc tờ mờ sáng, đánh giết cho đến khi trời nóng. Địch quân còn sống sót chạy tán loạn, mỗi người một ngả. Bấy giờ dân Y-sơ-ra-ên thưa với ông Sa-mu-ên: “Ai nói: ‘Sau-lơ mà làm vua chúng ta sao?’ Hãy đem những người đó ra, để chúng tôi xử tử họ.” Nhưng Sau-lơ đáp: “Không ai phải bị xử tử ngày hôm nay, vì hôm nay là ngày CHÚA cho dân Y-sơ-ra-ên chiến thắng.” Ông Sa-mu-ên bảo dân chúng: “Chúng ta hãy đến Ghinh-ganh lập lại lễ tấn phong Sau-lơ làm vua.” Mọi người đều đến Ghinh-ganh, và tại đó họ làm lễ tấn phong Sau-lơ làm vua trước mặt CHÚA, tại Ghinh-ganh. Tại đó, họ dâng tế lễ liên hoan trước mặt CHÚA, và tại đó, vua Sau-lơ và toàn dân Y-sơ-ra-ên nhộn nhịp ăn mừng. Ông Sa-mu-ên bảo toàn dân Y-sơ-ra-ên: “Tôi đã nghe và làm theo mọi điều anh chị em yêu cầu. Tôi đã lập một vua lên cai trị anh chị em. Kể từ nay, chính vua sẽ lãnh đạo anh chị em. Còn tôi đã già, tóc đã bạc; các con trai tôi hiện vẫn sống giữa anh chị em. Tôi đã lãnh đạo anh chị em từ khi tôi còn trẻ cho đến nay. Bây giờ tôi đứng dậy trước mặt anh chị em. Nếu tôi có làm điều gì sai quấy, xin anh chị em tố cáo tôi trước mặt CHÚA và trước mặt vua được Ngài xức dầu. Tôi có bắt bò của ai không? Bắt lừa của ai không? Tôi có bóc lột người nào không? Tôi có hà hiếp ai không? Tôi có nhận hối lộ của ai để tự bịt mắt mình, để mặc họ muốn làm gì tùy ý không? Nếu có, tôi xin đền bù lại cho anh chị em.” Dân chúng đáp: “Ông chẳng hề bóc lột hoặc hà hiếp chúng tôi. Ông cũng chẳng hề lấy của ai vật gì.” Ông bảo chúng: “Ngày hôm nay, CHÚA và vua được Ngài xức dầu làm chứng rằng anh chị em không tìm thấy nơi tôi một lỗi nào.” Họ đáp: “Xin CHÚA làm chứng cho chúng ta.” Ông Sa-mu-ên bảo dân chúng: “CHÚA là Đấng chọn ông Môi-se và ông A-rôn; chính Ngài là Đấng đem tổ phụ anh chị em ra khỏi xứ Ai-cập. Bây giờ xin anh chị em đứng chầu trước mặt CHÚA, để tôi xét xử anh chị em dựa vào mọi việc quyền năng CHÚA làm để giải cứu anh chị em và tổ phụ anh chị em. Sau khi ông Gia-cốp đến Ai-cập, tổ phụ anh chị em kêu cầu CHÚA, CHÚA sai ông Môi-se và ông A-rôn đem tổ phụ anh chị em ra khỏi Ai-cập và giúp họ định cư trong xứ này. Nhưng họ lại quên CHÚA là Đức Chúa Trời của họ, nên Ngài trao họ vào tay Xi-xê-ra, tổng chỉ huy quân đội thành Hát-xo, vào tay người Phi-li-tin, và vào tay vua Mô-áp, cho những kẻ thù này đánh bại họ. Họ van xin CHÚA: ‘Chúng con có tội, vì chúng con từ bỏ CHÚA và thờ phụng các thần tượng Ba-anh và Át-tạc-tê. Giờ đây, xin Ngài giải cứu chúng con khỏi tay quân thù để chúng con phụng thờ Ngài.’ CHÚA sai Giê-ru-ba-anh, Bê-đan, Giép-thê, và Sa-mu-ên. và Ngài giải cứu anh chị em khỏi tay quân thù chung quanh, cho anh chị em sống yên ổn. Nhưng khi thấy Na-hách, vua dân Am-môn, đem quân tới đánh, anh chị em bảo tôi: ‘Không được, chúng tôi phải có một vua cai trị chúng tôi,’ trong khi CHÚA, là Đức Chúa Trời, chính Ngài là vua của anh chị em. Và bây giờ, đây là vua mà anh chị em đã chọn và cầu xin. Này, CHÚA đã ban một vua cai trị anh chị em. Nếu anh chị em kính sợ CHÚA, phụng thờ Ngài, vâng giữ lời Ngài, không chống lại mạng lịnh Ngài, bấy giờ anh chị em và vua cai trị anh chị em mới thật sự đi theo CHÚA là Đức Chúa Trời của anh chị em. Còn nếu anh chị em không vâng giữ lời CHÚA, nhưng chống lại mạng lệnh CHÚA, Ngài sẽ chống lại anh chị em như Ngài đã chống lại tổ phụ của anh chị em trước kia. Vậy bây giờ, anh chị em hãy đứng yên nhìn xem việc lớn lao CHÚA sắp thực hiện trước mắt anh chị em. Hiện nay là mùa gặt lúa mì phải không? Tôi sẽ cầu xin CHÚA ban mưa và sấm sét để anh chị em biết mình đã phạm tội nặng với CHÚA khi anh chị em cầu xin cho được một vua cai trị mình.” Khi ông Sa-mu-ên cầu xin CHÚA, CHÚA ban mưa và sấm sét ngay hôm ấy, khiến toàn dân kính sợ CHÚA và ông Sa-mu-ên vô cùng. Mọi người đều thưa với ông Sa-mu-ên: “Xin ông cầu nguyện CHÚA là Đức Chúa Trời của ông cho chúng tôi là tôi tớ ông khỏi phải chết, vì ngoài tất cả những tội lỗi chúng tôi hiện đang phạm, chúng tôi lại phạm thêm tội ác cầu xin cho được một vua.” Ông Sa-mu-ên đáp: “Anh chị em đừng sợ. Anh chị em có phạm mọi tội ác ấy, nhưng bây giờ đừng bỏ CHÚA, hãy hết lòng phụng sụ CHÚA. Đừng bỏ CHÚA mà theo các thần tượng rỗng tuếch, không giúp ích gì, cũng không giải cứu được, vì chúng rỗng tuếch. CHÚA không bỏ dân Ngài đâu, vì danh cao trọng của Ngài, và vì CHÚA muốn cho anh chị em trở nên dân của Ngài. Phần tôi, tôi sẽ không ngừng cầu nguyện cho anh chị em để tôi khỏi phạm tội với CHÚA. Tôi sẽ tiếp tục chỉ dẫn anh chị em đường ngay lẽ phải. Phần anh chị em, anh chị em hãy kính sợ CHÚA, và hết lòng trung tín phụng sự Ngài. Anh chị em hãy nhớ lại những việc lớn lao Ngài làm cho anh chị em. Nhưng nếu anh chị em cứ tiếp tục phạm tội ác, chính anh chị em và vua của anh chị em sẽ bị diệt vong.” Ông Sau-lơ được ba mươi tuổi khi lên ngôi vua, và cai trị dân Y-sơ-ra-ên được hai năm. Vua Sau-lơ chọn ba ngàn quân trong dân Y-sơ-ra-ên. Hai ngàn quân ở với vua Sau-lơ tại Mích-ma và vùng đồi núi Bê-tên, còn một ngàn quân kia ở với Giô-na-than tại Ghi-bê-a, thuộc lãnh thổ của chi tộc Bên-gia-min. Số dân còn lại vua cho ai nấy trở về lều mình. Giô-na-than giết quan tổng trấn Phi-li-tin đóng tại Ghê-ba. Người Phi-li-tin nghe tin ấy. Vua Sau-lơ liền ra lệnh thổi tù và khắp xứ, kêu gọi: “Các người Hy-bá, hãy nghe đây!” Khi toàn dân Y-sơ-ra-ên nghe tin vua Sau-lơ giết tổng trấn Phi-li-tin và họ bị người Phi-li-tin căm thù, họ liền theo vua Sau-lơ và tập họp tại Ghinh-ganh. Người Phi-li-tin cũng tập trung lực lượng để đánh dân Y-sơ-ra-ên. Chúng có ba ngàn chiến xa gỗ, sáu ngàn kỵ binh, và bộ binh đông như cát biển. Chúng kéo lên đóng quân tại Mích-ma, phía đông Bết-a-ven. Khi dân Y-sơ-ra-ên thấy tình thế nguy kịch vì bị quân thù siết chặt, họ trốn trong hang động, bụi rậm, gành đá, mồ mả, và hầm hố. Một số người Hy-bá băng qua sông Giô-đanh, đến xứ Gát và Ga-la-át.Trong khi đó, vua Sau-lơ vẫn còn ở lại Ghinh-ganh, và mọi người theo vua đều run sợ. Vua Sau-lơ chờ đợi bảy ngày theo lời ông Sa-mu-ên dặn, nhưng ông vẫn chưa đến Ghinh-ganh. Binh sĩ khởi sự rã ngũ. Vua Sau-lơ truyền: “Hãy đem tế lễ toàn thiêu và tế lễ liên hoan đến cho ta.” Và vua dâng tế lễ toàn thiêu. Vua vừa dâng tế lễ toàn thiêu xong thì ông Sa-mu-ên đến nơi. Vua Sau-lơ ra đón tiếp ông. Ông Sa-mu-ên hỏi: “Vua làm gì vậy?” Vua Sau-lơ đáp: “Con thấy binh sĩ bỏ con đi tản mát, và ông cũng không đến theo như đã hẹn. Ngoài ra, quân Phi-li-tin đã tụ tập tại Mích-ma. Bấy giờ con nghĩ quân Phi-li-tin chắc sẽ kéo xuống Ghinh-ganh đánh chúng con mà chúng con chưa cầu xin ơn CHÚA, nên con buộc lòng phải dâng tế lễ toàn thiêu.” Ông Sa-mu-ên bảo vua Sau-lơ: “Vua cư xử thật dại dột vì vua không tuân giữ mạng lệnh mà CHÚA là Đức Chúa Trời vua đã truyền cho vua. Nếu vua vâng lời CHÚA, Ngài sẽ lập ngôi vua vững bền đời đời trên nước Y-sơ-ra-ên. Nhưng bây giờ, ngôi vua sẽ không bền. CHÚA đã tìm cho Ngài một người theo ý Ngài, và CHÚA sẽ lập người đó lên lãnh đạo dân Ngài, vì vua không tuân giữ mạng lệnh CHÚA.” Ông Sa-mu-ên đứng dậy, rời khỏi Ghinh-ganh, đi đường mình. Binh sĩ còn lại theo vua Sau-lơ đi từ Ghinh-ganh lên nhập với quân đội tại Ghi-bê-a, thuộc lãnh thổ Bên-gia-min.Vua Sau-lơ kiểm quân số còn lại với mình: khoảng sáu trăm người. Vua Sau-lơ với con trai là Giô-na-than, và đám quân còn lại đóng tại Ghê-ba thuộc xứ Bên-gia-min, trong khi quân Phi-li-tin đóng tại Mích-ma. Một đạo quân từ trại Phi-li-tin đi ra cướp phá, chia thành ba toán. Một toán đi về hướng Óp-ra, thuộc xứ Su-anh. Toán thứ nhì đi về hướng Bết-hô-rôn, và toán thứ ba đi về hướng biên giới, trên con đường nhìn xuống trũng Linh-cẩu, về phía sa mạc. Bấy giờ, trong cả xứ Y-sơ-ra-ên không tìm được một người thợ rèn, vì người Phi-li-tin tự bảo: “Phải cấm, không cho bọn Hy-bá rèn gươm hoặc giáo.” Toàn dân Y-sơ-ra-ên đều phải xuống mướn người Phi-li-tin mài lưỡi cày, cuốc, rìu, hoặc lưỡi hái. Tiền công mài lưỡi cày và lưỡi cuốc là tám gờ-ram bạc, mài chĩa ba, rìu, và gậy thúc bò là bốn gờ-ram bạc. Vì thế, trong ngày giao tranh, không một người lính nào của vua Sau-lơ hoặc Giô-na-than có được trong tay một cây gươm cây giáo gì cả. Chỉ vua Sau-lơ và con trai vua là Giô-na-than mới có. Một toán quân trong đồn Phi-li-tin kéo ra đèo Mích-ma. Một hôm, Giô-na-than bảo thanh niên vác binh khí cho mình: “Nào, chúng ta hãy đi sang đồn người Phi-li-tin đóng đối diện bên kia.” Nhưng anh không nói cho cha mình biết. Bấy giờ vua Sau-lơ đang đóng quân dưới cây lựu ở Mi-gơ-rôn, vùng ngoại ô thành Ghi-bê-a; quân số của vua khoảng sáu trăm người. Thầy tế lễ đương thời mang ê-phót để cầu hỏi ý CHÚA là A-bi-gia, con trai A-hi-túp (A-hi-túp là anh của Y-ca-bốt), cháu của Phi-nê-a, chắt của Hê-li (Hê-li là thầy tế lễ của CHÚA tại Si-lô). Binh sĩ không ai biết Giô-na-than đã rời trại. Giô-na-than muốn đi sang đồn người Phi-li-tin nên phải vượt qua đèo giữa hai đỉnh đá, đỉnh này gọi là Bốt-sết, đỉnh kia gọi là Sê-nê. Đỉnh phía bắc đối diện với Mích-ma, còn đỉnh phía nam đối diện với Ghê-ba. Giô-na-than bảo thanh niên vác binh khí: “Nào, chúng ta hãy đi sang đồn bọn ngoại đạo kia. Biết đâu CHÚA sẽ giúp chúng ta, vì không có gì ngăn cản CHÚA cho chúng ta chiến thắng, dù quân số chúng ta nhiều hay ít.” Thanh niên vác binh khí đáp: “Xin ông cứ làm mọi điều ông muốn. Tôi một lòng theo ông.” Giô-na-than nói tiếp: “Vậy, ta sẽ đi đến với bọn người đó, cho họ thấy ta. Nếu chúng bảo ta: ‘Đứng lại, chờ ta đến chỗ chúng bay!’ Chúng ta sẽ đứng lại, không đi lên phía chúng nữa. Nhưng nếu chúng bảo: ‘Lên đây!’ thì ta sẽ tiến lên, vì đó là dấu hiệu CHÚA sẽ nộp chúng vào tay ta.” Vậy hai người tiến về phía đồn người Phi-li-tin, cho họ thấy mình. Người Phi-li-tin nói với nhau: “Kìa, bọn Hy-bá chui ra khỏi hang nơi chúng trú ẩn!” Quân lính trong đồn gọi với ra Giô-na-than và người vác binh khí: “Lên đây, ta cho chúng bay biết chuyện!” Giô-na-than nói với người vác binh khí: “Hãy bám sát theo ta, vì CHÚA đã nộp chúng vào tay dân Y-sơ-ra-ên.” Giô-na-than dùng cả tay và chân leo lên, người vác binh khí bám sát theo sau. Giô-na-than đánh quân Phi-li-tin ngã gục, người vác binh khí theo sau kết liễu đời chúng. Trong cuộc tấn công đầu tiên này, Giô-na-than và người vác binh khí giết được khoảng hai mươi người trên diện tích bằng chừng nửa luống cày của một sào đất. Toàn quân trong trại cũng như ngoài đồng đều kinh hãi; quân trong đồn và ngay cả các toán quân cướp phá cũng kinh sợ. Đất rung chuyển khiến mọi người càng thêm sợ hãi. Lính canh của vua Sau-lơ tại Ghi-bê-a thuộc xứ Bên-gia-min nhìn thấy đám đông chạy hỗn loạn. Vua Sau-lơ bảo quân lính: “Hãy điểm quân, xem ai rời khỏi đây.” Họ điểm quân và thấy thiếu Giô-na-than và người vác binh khí của anh. Vua Sau-lơ bảo thầy tế lễ A-hi-gia: “Xin ông mang rương giao ước của Đức Chúa Trời lại đây.” Lúc bấy giờ rương giao ước của Đức Chúa Trời ở giữa dân Y-sơ-ra-ên. Trong khi vua Sau-lơ còn đang nói với thầy tế lễ, trại quân Phi-li-tin mỗi lúc càng thêm ồn ào náo loạn. Vua Sau-lơ bảo thầy tế lễ: “Xin ông rút tay lại.” Vua Sau-lơ tập hợp toàn quân xông vào trận mạc. Kìa, người Phi-li-tin trở gươm chém giết lẫn nhau, quan cảnh vô cùng hỗn loạn. Những người Hy-bá trước kia theo vua Sau-lơ và Giô-na-than. Tất cả những người Y-sơ-ra-ên đang ẩn núp trong vùng đồi núi Ép-ra-im, nghe tin người Phi-li-tin thua chạy cũng đuổi sát theo chúng trong cuộc chiến. Vậy, CHÚA giải cứu dân Y-sơ-ra-ên ngày hôm ấy.Chiến tranh lan rộng vượt khỏi thành Bết A-ven. Nhưng hôm ấy, binh sĩ Y-sơ-ra-ên mệt lả người vì vua Sau-lơ buộc họ giữ lời thề: “Người nào ăn chút gì trước khi chiều tối, trước khi ta trả thù xong quân thù của ta, đáng bị rủa sả!” Vì thế, toàn quân không ai dám nếm một chút gì. Mọi người đến một cánh rừng, có mật ong ngay trên mặt đất. Họ vào trong rừng, thấy mật ong chảy, nhưng không ai dám lấy tay chấm đưa vào miệng, vì sợ lời thề. Nhưng Giô-na-than không có nghe cha mình buộc binh sĩ giữ lời thề. Anh giơ cây gậy cầm trong tay ra, nhúng đầu gậy vào tàng ong, lấy tay chấm cho vào miệng. Tức thì mắt anh sáng lên. Một người trong đám binh sĩ liền nói: “Cha anh buộc các binh sĩ giữ lời thề: ‘Người nào ăn chút gì ngày hôm nay đáng bị rủa sả!’ Vì thế các binh sĩ đều kiệt sức.” Giô-na-than đáp: “Cha tôi đã gây rắc rối cho đất nước. Anh em xem mắt tôi sáng bừng lên chỉ vì tôi nếm chút mật ong này. Giả sử hôm nay các binh sĩ được tự do ăn chiến lợi phẩm họ thu được khi đánh thắng quân thù, thì quân Phi-li-tin chắc sẽ thất trận nặng nề hơn biết bao!” Ngày hôm ấy, các binh sĩ đánh bại người Phi-li-tin từ thành Mích-ma chạy dài đến thành A-gia-lôn thì họ đuối sức. Các binh sĩ xông vào lấy chiến lợi phẩm, bắt chiên dê, bò và bò con, giết ngay trên đất, rồi ăn thịt hãy còn máu. Có người báo cáo với vua Sau-lơ: “Các binh sĩ phạm tội với CHÚA, họ ăn thịt hãy còn máu.” Vua quát lên: “Các người đã bội ước! Hãy lăn ngay một hòn đá to lại đây cho ta.” Vua Sau-lơ ra lệnh tiếp: “Hãy rải người ra đi bảo các binh sĩ ai nấy phải đem bò, chiên, dê của mình lại đây, làm thịt tại đây, rồi ăn. Các ngươi không được ăn thịt hãy còn máu mà phạm tội với CHÚA.” Đêm ấy, các binh sĩ ai nấy đều đem bò mình đến và làm thịt tại đó. Thế là vua Sau-lơ dựng bàn thờ để thờ CHÚA; đây là lần đầu tiên vua dựng bàn thờ để thờ CHÚA. Sau đó, vua Sau-lơ đề nghị: “Ta hãy đuổi theo quân Phi-li-tin đêm nay, cướp phá chúng đến khi trời hừng sáng, và đừng để cho tên nào sống sót.” Quân sĩ đáp: “Vua thấy điều gì phải, xin vua cứ làm.” Nhưng thầy tế lễ góp ý: “Chúng ta nên cầu hỏi ý Đức Chúa Trời trước đã.” Vua Sau-lơ cầu hỏi Đức Chúa Trời: “Con có nên đuổi theo quân Phi-li-tin không? Ngài có nộp chúng vào tay dân Y-sơ-ra-ên không?” Nhưng Đức Chúa Trời không đáp lời ngày hôm ấy. Vua Sau-lơ ra lệnh: “Các vị chỉ huy quân đội, hãy đến đây tìm xem ai đã phạm tội gì ngày hôm nay. Xin CHÚA Hằng Sống chứng cho ta, ta hứa rằng kẻ nào phạm tội chắc chắn phải chết, dù cho kẻ ấy là Giô-na-than, con ta.” Toàn quân, không ai đáp lời vua. Vua ra lệnh cho toàn quân Y-sơ-ra-ên: “Các người đứng một bên, còn ta và Giô-na-than, con ta, đứng bên kia.” Các binh sĩ đáp: “Xin vua làm điều gì đẹp ý vua.” Vua Sau-lơ cầu nguyện: “Lạy CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, sao Ngài không đáp lời tôi tớ CHÚA ngày hôm nay? Lạy CHÚA, xin đáp lời con qua các viên đá thánh. Nếu đây là lỗi của con, hoặc của Giô-na-than, con trai con, xin Ngài cho U-rim; còn nếu đây là lỗi của các binh sĩ Y-sơ-ra-ên, xin Ngài cho Thu-mim.” Giô-na-than và vua Sau-lơ bị trúng thăm, còn binh sĩ thoát khỏi. Vua Sau-lơ truyền: “Hãy rút thăm giữa ta và Giô-na-than, con ta.” Giô-na-than bị trúng thăm. Vua Sau-lơ bảo Giô-na-than: “Hãy cho cha biết con đã làm gì.” Giô-na-than thưa: “Thú thật với cha, con có nếm một chút mật ong bằng đầu cây gậy con cầm trong tay. Con sẵn sàng chịu chết.” Vua Sau-lơ thề: “Nguyện Đức Chúa Trời phạt cha thế này hoặc nặng hơn nữa, nếu con không bị xử tử, Giô-na-than!” Nhưng binh sĩ thưa với vua Sau-lơ: “Lẽ nào ông Giô-na-than phải chết khi chính ông đã mang lại chiến thắng vẻ vang này cho dân Y-sơ-ra-ên? Không thể được! Xin CHÚA Hằng Sống chứng cho chúng tôi, chúng tôi sẽ không để một sợi tóc nào trên đầu ông rơi xuống đất, vì ông làm được việc ngày hôm nay là nhờ có Đức Chúa Trời giúp đỡ ông.”Thế là binh sĩ cứu Giô-na-than thoát khỏi án tử hình. Vua Sau-lơ ngưng, không đuổi theo quân Phi-li-tin nữa, và chúng rút về xứ mình. Sau khi lên ngôi cai trị dân Y-sơ-ra-ên, vua Sau-lơ giao chiến với mọi kẻ thù tứ phía: quân Mô-áp, Am-môn, Ê-đôm, các vua Xô-ba, và quân Phi-li-tin. Vua đánh trận nào vua cũng thắng. Vua chiến đấu anh dũng, dẹp tan quân A-ma-léc, và giải cứu dân Y-sơ-ra-ên khỏi tay quân cướp phá. Vua Sau-lơ có ba con trai: Giô-na-than, Gi-sê-vi, Manh-ki-sua và hai con gái, cô lớn là Mê-ráp, và cô nhỏ là Mi-canh. Vợ vua Sau-lơ là A-hi-nô-am, con gái ông A-hi-mát. Tổng tư lệnh quân đội là Áp-ne, con trai ông Nê-rơ; ông này là chú vua Sau-lơ. Ông Kích, cha vua Sau-lơ, và ông Nê-rơ, cha ông Áp-ne, đều là con ông A-bi-ên. Suốt triều vua Sau-lơ, vua giao tranh kịch liệt với quân Phi-li-tin. Vì thế, khi thấy ai hùng dũng can trường, vua Sau-lơ liền thu nạp vào quân đội của vua. Ông Sa-mu-ên nói với vua Sau-lơ: “Tôi chính là người CHÚA sai đi xức dầu cho vua cai trị dân Ngài, tức là dân Y-sơ-ra-ên. Vậy bây giờ, xin vua nghe lời CHÚA phán.” CHÚA Toàn Năng phán như vầy: “Ta nhớ lại cách dân A-ma-léc đối xử với dân Y-sơ-ra-ên, thể nào chúng đã chận đường dân Y-sơ-ra-ên khi họ ra khỏi Ai-cập. Vậy bây giờ, con hãy đi đánh dân A-ma-léc, hủy diệt hết mọi người, mọi vật thuộc về chúng, đừng thương tiếc. Con phải giết cả đàn ông, đàn bà, trẻ em, con nít còn bú, bò chiên, lạc đà, lừa.” Vua Sau-lơ triệu tập đạo quân tại Tê-la-im và điểm binh: có hai trăm ngàn bộ binh và mười ngàn người Giu-đa. Vua Sau-lơ kéo quân đến thành của dân A-ma-léc và mai phục trong lòng sông cạn khô. Vua Sau-lơ cũng sai người báo với dân Kê-nít: “Anh chị em hãy đi, hãy tránh xa dân A-ma-léc, để khỏi bị hủy diệt chung với bọn chúng, vì anh chị em đối xử tử tế với toàn dân Y-sơ-ra-ên khi họ ra khỏi Ai-cập.” Vậy, dân Kê-nít tách ra khỏi dân A-ma-léc. Vua Sau-lơ đánh bại quân A-ma-léc từ Ha-vi-la đến Su-rơ, phía đông Ai-cập. Vua Sau-lơ bắt sống A-ga, vua dân A-ma-léc, nhưng dùng gươm diệt sạch toàn dân. Vua Sau-lơ và binh sĩ tha chết cho A-ga; họ cũng tiếc và không chịu hủy diệt những con thú tốt nhất trong bầy chiên dê và bò, những con thú được nuôi cho mập, những chiên con, và tất cả những con gì tốt; nhưng họ diệt hết tất cả những con thú vô dụng và không có giá trị. CHÚA phán với ông Sa-mu-ên: “Ta hối tiếc đã lập Sau-lơ làm vua, vì người đã bỏ, không theo Ta, và không thi hành mạng lệnh Ta.” Ông Sa-mu-ên giận lắm, ông kêu cầu CHÚA suốt đêm. Sáng hôm sau, ông Sa-mu-ên thức dậy sớm đi gặp vua Sau-lơ. Có người báo tin cho ông Sa-mu-ên: “Vua Sau-lơ đã lên núi Cạt-mên, dựng đài kỷ niệm cho mình, rồi quay về, đi xuống Ghinh-ganh.” Khi ông Sa-mu-ên đến gặp vua Sau-lơ, vua chào ông: “Xin CHÚA ban phước cho ông. Con đã thi hành xong mạng lệnh của CHÚA.” Ông Sa-mu-ên hỏi: “Thế thì tiếng chiên dê be be kia bên tai tôi, và tiếng bò rống tôi nghe là gì vậy?” Vua Sau-lơ đáp: “Các binh sĩ tiếc những con thú tốt nhất trong bầy chiên, dê, và bò của dân A-ma-léc nên mang về để dâng tế lễ cho CHÚA là Đức Chúa Trời của ông. Chúng con hủy diệt tất cả những gì còn lại.” Ông Sa-mu-ên bảo vua Sau-lơ: “Đủ rồi! Để tôi thuật lại cho vua nghe điều gì CHÚA phán với tôi đêm qua.” Vua Sau-lơ thưa: “Xin ông dạy bảo.” Ông Sa-mu-ên nói: “Trong khi vua tự thấy mình thấp hèn, CHÚA lập vua đứng dầu các chi tộc trong Y-sơ-ra-ên, Ngài xức dầu cho vua cai trị dân Y-sơ-ra-ên. CHÚA sai vua lên đường và truyền dặn: ‘Con hãy đi hủy diệt bọn người tội ác kia là dân A-ma-léc. Con hãy giao chiến với chúng cho đến khi chúng bị tận diệt.’ Vậy, tại sao vua không vâng lời CHÚA mà lại cướp lấy chiến lợi phẩm, làm buồn lòng CHÚA?” Vua Sau-lơ thưa với ông Sa-mu-ên: “Nhưng con có vâng lời CHÚA, lên đường làm tròn sứ mạng CHÚA giao. Con đem A-ga, vua dân A-ma-léc, về đây, còn dân A-ma-léc, con đã diệt hết rồi. Còn về chiến lợi phẩm phải bị tận diệt, các binh sĩ đã chọn những con chiên, dê, và bò tốt nhất mang về để dâng tế lễ cho CHÚA là Đức Chúa Trời của ông tại Ginh-ganh.” Ông Sa-mu-ên nói:“Dâng tế lễ toàn thiêu và sinh tếCó làm CHÚA vui lòng bằng sự vâng lời CHÚA không?Vâng lời chắc chắn tốt hơn dâng sinh tế,Chú tâm nghe theo tốt hơn dâng mỡ chiên đực. Vì phản nghịch khác nào tội bói toán,Kiêu ngạo khác nào tội thờ hình tượng.Vì vua đã gạt bỏ lời CHÚA,Nên Ngài cũng gạt bỏ vua, không cho vua cai trị nữa.” Vua Sau-lơ thú nhận với ông Sa-mu-ên: “Con có tội. Con đã vi phạm mạng lệnh CHÚA và lời ông dạy, vì con sợ các binh sĩ nên nghe theo lời họ. Bây giờ xin ông tha tội cho con và trở về với con, để con sấp mình xuống thờ phượng CHÚA.” Ông Sa-mu-ên đáp lời vua Sau-lơ: “Tôi không thể trở về với vua vì vua đã gạt bỏ lời CHÚA, và CHÚA cũng gạt bỏ vua, không cho vua cai trị dân Y-sơ-ra-ên nữa.” Ông Sa-mu-ên quay lưng đi, nhưng vua Sau-lơ níu chặt chéo áo khoác của ông, khiến áo bị xé rách. Ông Sa-mu-ên bảo vua Sau-lơ: “Hôm nay CHÚA cũng xé vương quốc Y-sơ-ra-ên ra khỏi tay vua như vậy và ban nó cho một người khác xứng đáng hơn vua. Hơn nữa, CHÚA là vinh quang của Y-sơ-ra-ên, Ngài không hề nói dối, cũng chẳng đổi ý, vì Ngài không phải là người phàm để mà đổi ý.” Vua Sau-lơ van nài: “Con có tội. Nhưng bây giờ xin ông tôn trọng con trước mặt các trưởng lão và toàn dân Y-sơ-ra-ên. Xin ông trở về với con để con sấp mình xuống thờ phượng CHÚA là Đức Chúa Trời của ông.” Ông Sa-mu-ên quay trở về với vua Sau-lơ, và vua sấp mình xuống thờ phượng CHÚA. Ông Sa-mu-ên bảo: “Hãy đem A-ga, vua dân A-ma-léc, lại đây cho tôi.” Vua A-ga nhẹ nhàng bước tới, lòng thầm nghĩ: “Sự chết cay đắng đã qua rồi!” Ông Sa-mu-ên bảo: “Lưỡi gươm của ngươi đã làm cho các bà mẹ mất con thế nào thì chính mẹ ngươi cũng sẽ mất con thể ấy.” Nói xong, ông Sa-mu-ên chém A-ga gục xuống trước đền thờ CHÚA tại Ghinh-ganh. Sau đó, ông Sa-mu-ên trở về Ra-ma, trong khi vua Sau-lơ về nhà mình tại Ghi-bê-a. Ông Sa-mu-ên không hề gặp vua Sau-lơ nữa cho đến ngày ông qua đời. Ông đau buồn nhiều về vua Sau-lơ. CHÚA hối tiếc đã lập Sau-lơ làm vua cai trị dân Y-sơ-ra-ên. CHÚA bảo ông Sa-mu-ên: “Con tiếp tục đau buồn về Sau-lơ cho đến chừng nào? Ta đã gạt bỏ nó, không cho làm vua Y-sơ-ra-ên nữa. Con đổ đầy dầu một sừng rồi đi. Ta sai con đến gặp Y-sai ở Bết-lê-hem vì Ta đã chọn cho Ta một trong những con trai của người để làm vua.” Ông Sa-mu-ên thưa: “Con đi sao được? Nếu vua Sau-lơ nghe tin, chắc sẽ giết con.” CHÚA đáp: “Con dẫn theo một bò tơ và nói: ‘Tôi đến dâng sinh tế lên CHÚA.’ Rồi con mời Y-sai đến dự lễ. Ta sẽ dạy con điều phải làm, Ta sẽ chỉ cho con biết người con sẽ xức dầu làm vua để phục vụ Ta.” Ông Sa-mu-ên làm theo điều CHÚA truyền, đi đến Bết-lê-hem. Các trưởng lão trong thành ra đón ông. Họ run sợ hỏi: “Thưa ông đến đây với mục đích bình an?” Ông đáp: “Bình an. Tôi đến dâng sinh tế lên CHÚA. Anh em dọn mình thánh sạch rồi đến dự lễ với tôi.” Ông cũng mời ông Y-sai và các con trai ông dọn mình thánh sạch đến dự lễ nữa. Khi ông Y-sai và các con trai ông đến, ông Sa-mu-ên nhìn thấy Ê-li-áp, tự nghĩ: “Chắc đây là người CHÚA chọn.” Nhưng CHÚA bảo ông: “Con đừng chú ý diện mạo và dáng vóc cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Ta không xét đoán như loài người xét đoán, vì loài người chỉ nhìn thấy bề ngoài, nhưng CHÚA nhìn thấy tấm lòng bên trong.” Ông Y-sai gọi A-bi-na-đáp, bảo người đến trình diện ông Sa-mu-ên, nhưng ông nói: “CHÚA cũng không chọn người này.” Ông Y-sai bảo Sam-ma đến trình diện ông Sa-mu-ên, nhưng ông lặp lại: “CHÚA cũng không chọn người này.” Ông Y-sai cho bảy người con mình đến trình diện ông Sa-mu-ên như vậy, nhưng ông bảo: “CHÚA không chọn ai trong những người này.” Sau đó, ông Sa-mu-ên hỏi ông Y-sai: “Ông còn người con nào nữa không?” Ông đáp: “Còn đứa út đang chăn chiên.” Ông Sa-mu-ên bảo: “Ông cho người gọi cậu ấy về, vì chúng ta sẽ không bắt đầu buổi lễ cho đến khi cậu ấy về.” Ông Y-sai cho người gọi cậu út về. Cậu này trông khỏe mạnh hồng hào, đôi mắt sáng ngời, diện mạo khôi ngô. CHÚA bảo ông Sa-mu-ên: “Đây đúng là người Ta chọn. Con đứng lên xức dầu cho nó làm vua!” Ông Sa-mu-ên cầm sừng dầu, đổ lên đầu Đa-vít trước mặt các anh người. Ngay lúc đó, thần linh của CHÚA chiếm ngự Đa-vít, và ở với chàng luôn kể từ ngày hôm ấy.Sau đó, ông Sa-mu-ên trở về Ra-ma. Nhưng Thần Linh của CHÚA rời khỏi vua Sau-lơ, và một ác thần từ CHÚA đến quấy nhiễu vua. Triều thần đề nghị: “Có một ác thần từ Đức Chúa Trời đến quấy nhiễu bệ hạ. Xin bệ hạ truyền cho bề tôi đang đứng trước mặt bệ hạ đây tìm một người chơi đàn hạc giỏi. Khi nào ác thần từ Đức Chúa Trời đến quấy rầy bệ hạ, người ấy sẽ gảy đàn cho bệ hạ cảm thấy dễ chịu.” Vua Sau-lơ bảo triều thần: “Các ngươi hãy đi tìm một người chơi đàn giỏi, đem về đây cho ta.” Một quan triều thần tâu: “Tôi biết ông Y-sai ở Bết-lê-hem có một người con trai, Anh này chơi đàn giỏi, là một dũng sĩ chiến đấu can trường, nói năng lưu loát, lại đẹp trai, và có CHÚA ở cùng anh.” Vua Sau-lơ sai sứ giả đến nói với ông Y-sai: “Ngươi hãy gởi cho ta con ngươi là Đa-vít, đứa chăn chiên.” Ông Y-sai bắt một con lừa, chất bánh, một bầu rượu, và một con dê con lên lưng lừa, rồi sai Đa-vít con mình đem biếu vua Sau-lơ. Đa-vít vào yết kiến vua Sau-lơ và khởi sự phục vụ vua ngay. Vua thương chàng nhiều đến nỗi vua giao cho chàng mang binh khí của vua. Chẳng bao lâu sau đó, vua Sau-lơ sai người nói với ông Y-sai: “Ngươi hãy để Đa-vít ở lại đây phục vụ ta, vì cậu ấy rất vừa lòng ta.” Khi nào ác thần từ Đức Chúa Trời đến quấy nhiễu vua Sau-lơ, Đa-vít mang đàn hạc ra gảy. Vua được giải khuây, cảm thấy dễ chịu, và ác thần bỏ đi. Người Phi-li-tin tập trung quân đội để giao chiến. Họ tập họp tại Sô-cô, một thành của xứ Giu-đa, và đóng quân ở Ê-phét Đam-mim, giữa Sô-cô và A-xê-ka. Vua Sau-lơ và đạo quân Y-sơ-ra-ên cũng tập họp lại và đóng trại tại thung lũng Ê-la. Họ dàn quân sẵn sàng để nghênh chiến quân Phi-li-tin. Quân Phi-li-tin trải lực lượng ra trên đồi bên này trũng, và quân Y-sơ-ra-ên trên đồi bên kia trũng. Một đấu thủ từ hàng ngũ quân Phi-li-tin bước ra để thách thức quân Y-sơ-ra-ên vào trận đấu tay đôi. Đấu thủ này tên là Gô-li-át, người thành Gát, cao khoảng ba thước, đầu đội mũ chiến bằng đồng, mặc áo giáp vảy cá bằng đồng, nặng khoảng sáu mươi kí, chân quấn xà cạp bằng đồng, vai đeo một cây dao đồng. Gô-li-át cũng có một cây giáo, cán giáo to như trục khung cửi thợ dệt, mũi giáo bằng sắt nặng trên bảy kí. Một chiến sĩ mang thuẫn đi trước đỡ cho Gô-li-át. Gô-li-át dừng lại, gọi với vào hàng ngũ Y-sơ-ra-ên: “Tại sao các ngươi lại ra đây dàn trận? Ta là chiến sĩ oai hùng nhất trong quân đội Phi-li-tin. Còn các ngươi là tôi mọi của Sau-lơ. Hãy chọn một người xuống đây đấu với ta! Nếu người đó thắng được ta và giết ta, chúng ta sẽ làm tôi mọi các ngươi. Còn nếu ta thắng và giết được người đó, các ngươi sẽ làm tôi mọi chúng ta và phục dịch chúng ta.” Tên Phi-li-tin nói tiếp: “Chính ngày nay ta thách đạo quân Y-sơ-ra-ên. Các ngươi hãy chọn một người ra đấu với ta!” Khi vua Sau-lơ và toàn quân Y-sơ-ra-ên nghe tên Phi-li-tin nói những lời đó, họ khiếp vía kinh hồn. Đa-vít là con ông Y-sai, người Ép-ra-ta, ở thành Bết-lê-hem, thuộc xứ Giu-đa. Y-sai có tám con trai. Dưới triều vua Sau-lơ, ông là một trưởng lão có tiếng tăm. Ba người con lớn của ông Y-sai đều theo vua Sau-lơ ra trận. Ba người con của ông ngoài trận địa tên là: Ê-li-áp, con trưởng, A-bi-na-đáp, con thứ hai, và Sam-ma, con thứ ba. Đa-vít là con út. Trong khi ba anh lớn đi theo vua Sau-lơ, Đa-vít cũng hầu vua, nhưng chàng đi đi về về để chăn chiên cho cha mình ở Bết-lê-hem. Sáng và chiều, trong bốn mươi ngày liên tiếp, Gô-li-át người Phi-li-tin cứ tiến ra thách thức đội quân Y-sơ-ra-ên. Một ngày kia, ông Y-sai bảo Đa-vít, con mình: “Con mang cho các anh con bao hột rang này, và mười ổ bánh này. Con chạy mau mang đến trại cho các anh con. Con cũng mang theo mười miếng phó mát này cho viên chỉ huy ngàn quân. Con hỏi thăm sức khỏe các anh con và đem về cho cha một vật gì chứng tỏ các anh con bình an. Vua Sau-lơ và các anh con, cùng toàn quân Y-sơ-ra-ên đang tranh chiến với quân Phi-li-tin tại thung lũng Ê-la.” Sáng hôm sau, Đa-vít dậy sớm, giao bầy chiên lại cho một người chăn khác trông nom, mang theo thức ăn và ra đi như ông Y-sai căn dặn. Chàng đến hàng rào phòng thủ vừa lúc đạo quân kéo ra dàn binh với tiếng reo hò thúc trận. Quân Y-sơ-ra-ên và quân Phi-li-tin dàn trận đối nhau. Đa-vít giao thức ăn lại cho người giữ kho, rồi chạy ra trận tuyến hỏi thăm sức khỏe các anh mình. Chàng đang nói chuyện với các anh thì thấy tên đấu thủ Gô-li-át, người Phi-li-tin từ thành Gát, tiến ra khỏi hàng ngũ quân Phi-li-tin, và lên giọng thách thức như những lần trước. Đa-vít nghe hết. Toàn quân Y-sơ-ra-ên thấy Gô-li-át đều khiếp đảm bỏ chạy. Họ bảo nhau: “Các anh có thấy tên vừa tiến ra đó không? Tên đó tiến ra để sỉ nhục quân Y-sơ-ra-ên ta. Người nào giết được nó, vua sẽ ban thưởng nhiều của cải, gả công chúa cho người đó, và nhà cha người được tự do, khỏi phải làm sưu, nộp thuế.” Đa-vít hỏi mấy binh sĩ đứng cạnh bên: “Vua sẽ thưởng gì cho người nào giết được tên Phi-li-tin này và rửa nhục cho dân Y-sơ-ra-ên? Còn tên Phi-li-tin không cắt bì kia là ai mà dám sỉ nhục đạo quân của Đức Chúa Trời Hằng Sống?” Binh sĩ thuật lại cho Đa-vít biết phần thưởng dành cho người nào giết được tên đó. Ê-li-áp, anh cả của Đa-vít, nghe em hỏi chuyện các binh sĩ, nổi giận, quát: “Mày xuống đây làm gì? Mày bỏ mấy con chiên kia trong sa mạc cho ai chăn? Tao biết mày xấc láo, ương ngạnh mày xuống đây chỉ để xem đánh nhau!” Đa-vít đáp: “Em có làm gì đâu? Em chỉ hỏi chuyện thôi.” Chàng quay lưng đi khỏi anh mình, lặp lại câu hỏi với một người lính khác. Mỗi lần Đa-vít hỏi, các binh sĩ cứ đáp y như lần đầu. Có người nghe những lời Đa-vít nói, về trình lên vua Sau-lơ. Vua cho đòi chàng đến. Đa-vít thưa với vua Sau-lơ: “Tâu bệ hạ, xin đừng ai ngã lòng vì tên Phi-li-tin đó. Tôi tớ của bệ hạ sẽ đi ra chiến đấu với nó.” Vua Sau-lơ can: “Không được, con không thể nào đi ra chiến đấu với tên Phi-li-tin đó, vì con chỉ là một đứa trẻ trong khi nó đã từng là chiến binh từ khi còn trẻ.” Đa-vít thưa: “Tâu bệ hạ, tôi tớ ngài chăn chiên cho cha. Khi có sư tử hoặc gấu đến tha đi một chiên con trong bầy, con rượt theo, quật nó ngã xuống, và giật chiên ra khỏi mõm nó. Nếu nó chồm lên đánh con, con nắm râu nó, và đập nó chết. Tôi tớ vua đã đánh chết cả sư tử lẫn gấu. Tên Phi-li-tin không cắt bì này cũng sẽ bị đánh chết như một trong các con thú đó, vì nó dám sỉ nhục đạo quân của Đức Chúa Trời Hằng Sống.” Đa-vít thưa tiếp: “CHÚA đã cứu con thoát khỏi nanh vuốt sư tử và gấu, chính Ngài cũng sẽ cứu con thoát khỏi tên Phi-li-tin này.” Vua Sau-lơ bằng lòng: “Được rồi, con cứ ra chiến đấu với nó. Cầu xin CHÚA ở với con.” Vua Sau-lơ lấy binh phục của mình mặc cho Đa-vít, đội mũ chiến bằng đồng lên đầu, và mặc áo giáp cho chàng. Đa-vít đeo thanh gươm của vua vào hông, bên ngoài áo giáp, rồi tập đi thử vì chưa quen. Đa-vít tâu với vua Sau-lơ: “Con không thể bước đi với những thứ này, vì con không quen.” Rồi chàng cởi bộ binh phục ra. Đa-vít cầm gậy, đi xuống bờ khe chọn năm hòn cuội bỏ vào bị chăn chiên của mình, rồi cầm ná trong tay, tiến về phía tên Phi-li-tin. Tên Phi-li-tin cũng tiến về phía Đa-vít, mỗi lúc càng gần thêm. Người mang thuẫn đi trước nó. Tên Phi-li-tin nhìn thấy Đa-vít, liền khinh dể chàng, vì Đa-vít chỉ là một thiếu niên đẹp trai, da dẻ hồng hào. Tên Phi-li-tin quát tháo: “Ta có phải là chó đâu mà ngươi cầm gậy đến với ta?” Rồi tên Phi-li-tin đem tên các thần mình ra nguyền rủa Đa-vít. Tên Phi-li-tin thách thức Đa-vít: “Đến đây với ta, ta sẽ cho chim trời và thú rừng ăn thịt ngươi.” Đa-vít đáp: “Người cầm gươm, giáo, và lao đến với ta. Nhưng ta đến với ngươi trong danh CHÚA Toàn Năng, là Đức Chúa Trời của đạo quân Y-sơ-ra-ên mà ngươi sỉ nhục. Chính ngày nay CHÚA sẽ nộp ngươi vào tay ta, ta sẽ đánh hạ ngươi và chặt đầu ngươi. Chính ngày nay ta sẽ cho chim trời và thú rừng ăn thây của đạo quân Phi-li-tin. Bấy giờ cả thế giới sẽ biết rằng Y-sơ-ra-ên có Đức Chúa Trời, và toàn thể hội chúng này sẽ biết rằng CHÚA giải cứu dân Ngài, mà không cần gươm hoặc giáo, vì CHÚA có toàn quyền trên chiến trận, và Ngài sẽ nộp các ngươi vào tay chúng ta.” Khi tên Phi-li-tin tiếp tục tiến đến gần Đa-vít, chàng vội vàng chạy ra trận tuyến để đương đầu với tên Phi-li-tin. Đa-vít thọc tay vào bị, rút ra một hòn đá, cho vào ná, bắn trúng ngay trán tên Phi-li-tin. Hòn đá lọt sâu vào trong trán khiến tên Phi-li-tin ngã sấp mặt xuống đất. Thế là Đa-vít thắng tên Phi-li-tin với cái ná và hòn đá. Chàng hạ tên Phi-li-tin và giết nó chết mà không có gươm trong tay. Đa-vít chạy lại đứng trên xác tên Phi-li-tin. Chàng rút gươm nó ra khỏi bao, đâm nó chết, rồi chặt đầu nó.Quân Phi-li-tin thấy vị anh hùng của mình chết rồi, liền bỏ chạy. Quân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa reo hò xung trận và đuổi theo quân Phi-li-tin cho đến lối vào thành Gát và cổng thành Éc-rôn. Quân Phi-li-tin bị thương ngã chết dọc theo đường Sa-ra-gim cho đến thành Gát và Éc-rôn. Quân Y-sơ-ra-ên đuổi theo quân Phi-li-tin xong, quay về cướp phá trại chúng. Đa-vít lấy đầu tên Phi-li-tin đem về thành Giê-ru-sa-lem, nhưng giữ khí giới của nó trong lều mình. Khi vua Sau-lơ thấy Đa-vít ra chiến đấu với tên Phi-li-tin, vua hỏi tướng Áp-ne, tổng tư lệnh quân đội: “Áp-ne, thiếu niên đó là con nhà ai?” Tướng Áp-ne đáp: “Tâu bệ hạ, thật như bệ hạ còn sống, tôi không biết chi cả.” Vua truyền: “Nhà ngươi hãy hỏi thăm xem đứa trẻ đó là con nhà ai.” Vậy khi Đa-vít hạ xong tên Phi-li-tin, xách cái đầu của nó trong tay, trở về, tướng Áp-ne dẫn chàng vào trình diện vua Sau-lơ. Vua Sau-lơ hỏi: “Thiến niên kia, con là con nhà ai?” Đa-vít thưa: “Tâu bệ hạ, con đây là con của ông Y-sai, tôi tớ vua ở Bết-lê-hem.” Đa-vít vừa tâu xong với vua Sau-lơ, tâm hồn Giô-na-than liền gắn bó với tâm hồn Đa-vít, và Giô-na-than yêu mến Đa-vít như chính mình. Hôm ấy, vua Sau-lơ giữ Đa-vít lại, không cho chàng trở về nhà cha mình nữa. Giô-na-than và Đa-vít lập giao ước kết bạn với nhau vì Giô-na-than yêu mến Đa-vít như chính mình. Giô-na-than cởi áo khoác đang mặc cho Đa-vít, cũng cho luôn binh phục, gươm, cung và đai thắt lưng của mình nữa. Hễ khi nào vua Sau-lơ sai Đa-vít ra trận, Đa-vít đều thắng trận, cho nên vua Sau-lơ đặt chàng chỉ huy quân đội chinh chiến. Điều này vừa lòng toàn quân và cũng vừa lòng các triều thần của vua nữa. Sau khi Đa-vít hạ được tên Phi-li-tin, đoàn quân chiến thắng trở về. Phụ nữ từ khắp các thành trong Y-sơ-ra-ên kéo ra đón mừng vua Sau-lơ. Họ hát mừng, nhảy múa theo tiếng trống con và tiếng đàn tam. Phụ nữ vui đùa ca hát đối đáp:“Sau-lơ giết hàng ngàn,Đa-vít giết hàng vạn!” Lời hát này không vừa ý vua Sau-lơ, vua giận lắm, nhủ thầm: “Họ khen Đa-vít giết được hàng vạn, con ta chỉ có hàng ngàn thôi! Nó chỉ còn thiếu ngôi vua mà thôi!” Từ ngày ấy trở đi, vua Sau-lơ nhìn Đa-vít với con mắt nghi kỵ. Ngày hôm sau, Đức Chúa Trời để cho ác thần nhập vào vua Sau-lơ, vua nói lảm nhảm trong nhà như người khùng. Trong khi Đa-vít gảy đàn như thường ngày, vua Sau-lơ đang cầm cây giáo trong tay, bỗng vua phóng giáo đi, trong lòng tự nghĩ: “Ta sẽ ghim Đa-vít vào tường!” Nhưng Đa-vít né người, tránh khỏi mũi giáo hai lần. Vua Sau-lơ bắt đầu sợ Đa-vít, vì CHÚA ở với Đa-vít, và đã bỏ vua. Vua Sau-lơ tìm cách đẩy Đa-vít xa khỏi mình, đặt chàng chỉ huy ngàn quân. Đa-vít thường cầm quân ra vào nơi trận địa. Trận nào Đa-vít cũng thắng, vì CHÚA ở cùng chàng. Thấy Đa-vít chiến thắng oanh liệt, vua Sau-lơ càng thêm sợ hãi. Nhưng toàn dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa đều kính mến Đa-vít vì chàng chỉ huy họ trong chiến trận. Vua Sau-lơ tự nhủ: “Chính tay ta không nên hại nó, nhưng thà để quân Phi-li-tin hại nó thì hơn.” Do đó, vua Sau-lơ bảo Đa-vít: “Mê-ráp là con gái lớn của ta. Ta sẵn sàng gả nó cho con nếu con tự tỏ mình là chiến sĩ anh dũng và tham gia các trận chiến của CHÚA.” Đa-vít thưa: “Tâu bệ hạ, con là ai? Dòng họ con, gia tộc của cha con là gì trong Y-sơ-ra-ên mà con được làm phò mã vua?” Nhưng khi đến lúc vua Sau-lơ phải gả cô Mê-ráp, con gái mình, cho Đa-vít, thì vua lại gả cô cho Át-ri-ên, người thành Mê-hô-la. Trong khi đó, cô Mi-canh, thứ nữ vua Sau-lơ, đem lòng yêu Đa-vít. Người ta tâu cho vua Sau-lơ hay, tin này vừa lòng vua, vì vua nghĩ thầm: “Ta sẽ gả nó cho Đa-vít, nó sẽ trở thành cái bẫy khiến Đa-vít sa vào tay quân Phi-li-tin.” Vua Sau-lơ bảo Đa-vít lần thứ nhì: “Hôm nay con sẽ làm phò mã ta.” Vua Sau-lơ ra lệnh cho triều thần: “Các ngươi hãy nói kín với Đa-vít như thế này: ‘Anh được lòng nhà vua, và triều thần ai cũng quí mến anh. Anh nên làm phò mã nhà vua bây giờ đi.’” Triều thần vua Sau-lơ rỉ tai Đa-vít những lời ấy. Đa-vít đáp: “Các ông tưởng làm phò mã nhà vua là chuyện nhỏ sao, trong khi tôi chỉ là một người nghèo nàn, vô danh tiểu tốt?” Triều thần vua Sau-lơ về tâu lên vua lời đáp của Đa-vít. Vua Sau-lơ truyền: “Các ngươi hãy bảo Đa-vít: ‘Nhà vua không đòi sính lễ gì khác ngoài một trăm bao qui đầu của người Phi-li-tin để trả thù quân địch của nhà vua.’” Vua Sau-lơ tính thế nào Đa-vít cũng sẽ rơi vào tay quân Phi-li-tin. Khi triều thần thuật lại những lời ấy cho Đa-vít, chàng bằng lòng nộp sính lễ như trên để làm phò mã vua. Trước khi hết hạn, Đa-vít đi với thuộc hạ đánh giết hai trăm người Phi-li-tin. Đa-vít mang qui đầu của chúng về, đếm đủ số nộp cho vua để trở thành phò mã vua. Vua Sau-lơ đành phải gả cô Mi-canh, con gái mình, cho Đa-vít. Khi vua Sau-lơ nhận biết rõ ràng CHÚA ở với Đa-vít, và cô Mi-canh, con gái vua, yêu Đa-vít, vua càng thêm sợ Đa-vít, và suốt đời mình, vua trở thành kẻ thù của Đa-vít. Lúc bấy giờ các quan tướng Phi-li-tin thường đem quân ra đánh dân Y-sơ-ra-ên. Mỗi khi có chiến tranh, Đa-vít đều lập chiến công nhiều hơn hết thảy các triều thần của vua Sau-lơ nên tiếng tăm Đa-vít càng lừng lẫy. Vua Sau-lơ giục Giô-na-than, con vua, và toàn thể triều thần giết Đa-vít. Nhưng Giô-na-than, con vua Sau-lơ, rất mến phục Đa-vít. Giô-na-than báo cho Đa-vít: “Vua Sau-lơ, cha tôi, đang tìm cách giết anh. Vậy sáng mai anh hãy giữ chừng, ở nơi khuất kín và ẩn mình đi. Phần tôi, tôi sẽ đi ra đứng cạnh cha tôi trong cánh đồng nơi anh đang ẩn, và tôi sẽ nói với cha tôi về anh. Thấy thế nào, tôi sẽ báo cho anh.” Vậy Giô-na-than nói tốt về Đa-vít với vua Sau-lơ, cha mình, rồi anh khuyên cha: “Con xin vua cha đừng phạm tội hại tôi tớ cha là anh Đa-vít, vì anh không có phạm tội làm hại cha. Trái lại, trong mọi việc anh làm đều có lợi cho cha rất nhiều. Anh đã liều mạng giết tên Phi-li-tin, và CHÚA đã cho toàn dân Y-sơ-ra-ên chiến thắng vẻ vang. Cha đã nhìn thấy và vui mừng. Vậy sao cha nỡ phạm tội đổ máu vô tội mà giết anh Đa-vít vô cớ?” Vua Sau-lơ nghe lời Giô-na-than. Vua thề: “Có CHÚA Hằng Sống chứng cho ta, nó sẽ không bị giết.” Bấy giờ Giô-na-than gọi Đa-vít, thuật lại cho chàng nghe mọi việc, rồi dẫn chàng đến trình diện vua Sau-lơ. Đa-vít tiếp tục phục vụ vua như trước. Chiến tranh lại nổi lên. Đa-vít ra trận chiến đấu với quân Phi-li-tin. Chàng đánh chúng thua nặng, chúng phải bỏ chạy. Sau đó, CHÚA để cho ác thần nhập vào vua Sau-lơ. Vua đang ngồi trong nhà, tay cầm cây giáo, và Đa-vít đang gẩy đàn. Vua Sau-lơ định dùng cây giáo ghim Đa-vít vào tường, nhưng Đa-vít né người tránh khỏi, nên vua Sau-lơ cắm cây giáo vào tường. Đa-vít bỏ chạy và trốn thoát ngay đêm ấy. Nhưng vua Sau-lơ sai người đến nhà Đa-vít để canh giữ chàng và giết chàng sáng hôm sau. Mi-canh, vợ Đa-vít, khuyên chồng: “Nếu anh không trốn thoát đêm nay, ngày mai anh sẽ bị giết.” Mi-canh thòng Đa-vít xuống qua cửa sổ. Chàng chạy trốn và thoát được. Mi-canh lấy pho tượng thần đặt lên giường, để một chiếc gối lông dê nơi đầu, rồi phủ áo lên. Khi vua Sau-lơ sai người đến bắt Đa-vít, cô nói với họ: “Nhà tôi đang bệnh.” Nhưng vua Sau-lơ lại sai người đến thăm Đa-vít và dặn họ: “Cứ khiêng Đa-vít trên giường lên đây cho ta, để ta giết nó.” Những người này vào, thấy tượng thần trên giường với chiếc gối lông dê nơi đầu! Vua Sau-lơ trách Mi-canh: “Sao con gạt ta như vậy, để cho kẻ thù ta trốn thoát?” Mi-canh thưa với vua Sau-lơ: “Chính anh ấy bảo con: ‘Để cho anh đi, nếu không, anh sẽ giết em!’” Trong khi đó, Đa-vít trốn thoát và đến thành Ra-ma tìm ông Sa-mu-ên. Chàng thuật lại hết cho ông nghe cách vua Sau-lơ đối xử với chàng như thế nào. Rồi chàng đi với ông Sa-mu-ên đến ở tại Na-giốt. Có người báo cho vua Sau-lơ biết Đa-vít đang ở tại Na-giốt, thuộc thành Ra-ma. Vua Sau-lơ sai người đến bắt Đa-vít. Những người được vua sai đi thấy đoàn tiên tri đang hăng say nhảy múa và nói tiên tri, có ông Sa-mu-ên đứng đầu. Thần của Đức Chúa Trời chiếm ngự họ, và họ cũng hăng say nhảy múa và nói tiên tri. Vua Sau-lơ hay tin đó lại sai một toán người khác đến, họ cũng hăng say nhảy múa và nói tiên tri. Vua Sau-lơ lại sai một toán thứ ba đến, những người này cũng hăng say nhảy múa và nói tiên tri. Bấy giờ vua đích thân đến thành Ra-ma. Khi đến giếng nước lớn tại Sê-cư, vua hỏi: “Ông Sa-mu-ên và Đa-vít đang ở đâu?” Có người nói cho vua biết họ đang ở Na-giốt, thuộc thành Ra-ma. Vua liền đi đến Na-giốt thuộc thành Ra-ma. Vua đang đi, chính vua cũng bị thần của Đức Chúa Trời chiếm ngự, vua vừa đi vừa hăng say nhảy múa và nói tiên tri cho đến khi vua tới Na-giốt, thuộc thành Ra-ma. Chính vua cũng cởi quần áo ra, hăng say nhảy múa và nói tiên tri trước mặt ông Sa-mu-ên. Rồi vua ngã vật xuống, nằm trần truồng suốt ngày suốt đêm hôm ấy. Vì thế mới có câu: “Vua Sau-lơ cũng ở trong số các tiên tri sao?” Đa-vít trốn khỏi Na-giốt thuộc thành Ra-ma, đến gặp Giô-na-than, và hỏi: “Tôi có làm gì nên tội? Tôi có lỗi gì với vua cha anh mà vua tìm cách giết tôi?” Giô-na-than đáp: “Làm gì có chuyện đó! Cha tôi không giết anh đâu! Cha tôi làm việc gì, dù lớn hoặc nhỏ, cũng cho tôi hay. Không lẽ nào cha tôi lại giấu tôi việc này? Không có đâu!” Đa-vít quả quyết: “Vua biết rõ anh thương tôi nên vua tự nghĩ: ‘Không nên cho Giô-na-than hay, kẻo nó buồn.’ Thật như CHÚA Hằng Sống, và thật như anh đang sống đây, tôi xin thề chỉ có một bước ngăn cách tôi với sự chết thôi!” Bấy giờ Giô-na-than nói: “Tôi sẵn sàng làm bất cứ điều gì anh muốn.” Đa-vít đề nghị: “Mai là ngày lễ Trăng Mới, theo lệ thường tôi phải dự tiệc với vua. Nhưng xin anh cho tôi ra đi, tôi sẽ trốn ngoài đồng cho đến chiều. Nếu vua để ý thấy tôi vắng mặt, xin anh thưa lại giùm: ‘Đa-vít năn nỉ con cho phép nó về quê gấp, vì nơi đó, là thành Bết-lê-hem, cả gia tộc nó mừng lễ dâng sinh tế hằng năm.’ Nếu vua nói: ‘Tốt’ tức là tôi tớ anh được bình an vô sự; còn nếu vua nổi giận, thì anh biết chắc vua quyết tâm hại tôi. Xin anh thương tình giữ vẹn lời hứa với tôi tớ anh vì anh đã kết ước với tôi tớ anh trong danh CHÚA. Nếu tôi có phạm tội ác nào, xin chính anh giết tôi đi, chớ đừng đem tôi nộp cho vua.” Giô-na-than đáp: “Anh đừng nghĩ vớ vẩn! Nếu tôi biết rõ cha tôi quyết tâm hại anh, lẽ nào tôi không cho anh hay?” Đa-vít hỏi: “Ai sẽ cho tôi hay nếu vua trả lời cách bực dọc?” Giô-na-than đáp: “Chúng ta hãy đi ra ngoài đồng.”Cả hai cùng đi ra ngoài đồng. Giô-na-than nói tiếp: “Có CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, làm chứng cho tôi. Ngày mai, hoặc ngày kia, vào giờ này, tôi sẽ dò hỏi ý cha tôi. Nếu cha tôi có ý tốt đối với anh, tôi sẽ sai người cho anh hay. Cầu xin CHÚA phạt tôi nặng nề nếu cha tôi có ý hại anh, mà tôi không báo cho anh hay, để anh ra đi bình an. Cầu xin CHÚA ở với anh như Ngài đã ở với cha tôi. Lúc bấy giờ, nếu tôi còn sống, xin anh đối xử với tôi bằng tình yêu trung kiên của CHÚA, để tôi khỏi phải chết. Và xin anh tiếp tục bày tỏ tình yêu trung kiên đối với con cháu tôi đời đời, ngay khi CHÚA lần lượt tiêu diệt mọi kẻ thù của anh khỏi mặt đất.” Vậy, Giô-na-than lập giao ước với Đa-vít và gia đình chàng: “Cầu xin CHÚA trừng phạt kẻ thù của Đa-vít.” Giô-na-than lại bắt Đa-vít thề yêu thương anh nữa, vì chính anh, Giô-na-than, yêu thương Đa-vít như chính mình. Giô-na-than nói tiếp: “Mai là ngày lễ Trăng Mới, người ta sẽ thấy vắng anh vì chỗ anh trống. Đến ngày thứ ba (tính từ ngày hôm nay, tức là ngày mốt), anh xuống đến nơi anh ẩn mình ngày hôm trước, và đợi cạnh bên tảng đá Ê-xen. Phần tôi, tôi sẽ bắn ba mũi tên cạnh bên đó, như thể bắn vào bia. Rồi tôi sẽ sai đầy tớ đi nhặt tên. Nếu tôi bảo nó: ‘Kìa, mũi tên ở phía này, con lui lại lượm đi,’ có nghĩa là mọi sự bình an, anh có thể trở về. Có CHÚA Hằng Sống làm chứng, tôi bảo đảm là anh sẽ không gặp nguy hiểm. Còn nếu tôi bảo đầy tớ: ‘Kìa, mũi tên ở đằng kia, xa hơn,’ thì anh phải lánh đi, vì CHÚA sai anh đi. Còn về lời hứa nguyện chúng ta đã hứa với nhau, có CHÚA ở giữa chúng ta mãi mãi.” Vậy Đa-vít ẩn mình ngoài đồng.Đến ngày lễ Trăng Mới, vua ngồi vào bàn tiệc. Nhà vua ngồi chỗ mình, như thường lệ, cạnh bên tường. Giô-na-than ngồi đối diện cha, tướng Áp-ne ngồi cạnh vua, nhưng chổ của Đa-vít thì bỏ trống. Hôm ấy, vua Sau-lơ không nói gì cả, vì vua tự nghĩ: “Chắc có chuyện gì xảy ra cho Đa-vít, nó không sạch để đến dự lễ, vì nó chưa được thanh tẩy.” Qua ngày hôm sau, tức là ngày thứ nhì trong dịp lễ Trăng Mới, thấy chỗ của Đa-vít vẫn còn trống, vua Sau-lơ hỏi Giô-na-than, con mình: “Tại sao con trai Y-sai không đến dùng bữa, cả hôm qua lẫn hôm nay?” Giô-na-than thưa: “Đa-vít năn nỉ con cho phép anh ấy về Bết-lê-hem. Anh ấy nói: ‘Xin anh cho phép tôi ra đi. Chi tộc chúng tôi tổ chức lễ dâng sinh tế trong thành, và anh tôi bảo tôi phải về dự lễ. Vậy, nếu anh thương tôi, xin anh cho phép tôi về thăm gia đình.’ Vì thế anh ấy không đến dự tiệc với cha được.” Vua Sau-lơ giận dữ mắng Giô-na-than: “Thật là một đứa con hư đốn! Ta biết ngươi chọn con trai Y-sai làm bạn, chỉ để chuốc nhục vào thân và gây nhục cho mẹ ngươi đã sanh ngươi ra! Ngươi nên nhớ rằng ngày nào con trai Y-sai còn sống trên đất này, ngươi không chắc gì được lên ngôi. Bây giờ hãy sai người đi bắt nó đem về đây cho ta, vì nó phải chết!” Giô-na-than hỏi cha: “Tại sao anh ấy phải chết? Anh ấy đã làm gì?” Vua Sau-lơ giương cây giáo lên, định đâm Giô-na-than. Lúc ấy Giô-na-than mới biết rõ cha mình quyết định giết Đa-vít. Giô-na-than nổi giận, đứng dậy rời bàn tiệc. Hôm ấy, ngày thứ hai trong dịp lễ Trăng Mới, anh không ăn gì cả, vì anh lo buồn cho Đa-vít bị cha anh sỉ nhục. Sáng hôm sau, Giô-na-than đi với một đầy tớ nhỏ ra ngoài đồng, đến chỗ hẹn với Đa-vít. Anh bảo đầy tớ: “Ngươi chạy đi tìm những mũi tên ta bắn.” Trong khi đứa trẻ chạy, Giô-na-than bắn mũi tên vượt qua khỏi nó. Đứa trẻ chạy vừa gần đến chỗ mũi tên rơi xuống thì Giô-na-than gọi với theo: “Mũi tên ở đằng kia, xa hơn!” Giô-na-than gọi tiếp: “Mau lên, nhanh lên, đừng chần chờ!” Người đầy tớ của Giô-na-than nhặt mũi tên đem về cho chủ, không hề biết chuyện gì xảy ra, chỉ có Giô-na-than và Đa-vít biết mà thôi. Giô-na-than giao khí giới cho đầy tớ mang về thành. Khi đầy tớ đi rồi, Đa-vít đứng dậy từ phía sau tảng đá, quì sấp mình xuống đất ba lần trước mặt Giô-na-than. Hai người bạn ôm nhau hôn và khóc nức nở cho đến khi Đa-vít dằn được cơn xúc động. Giô-na-than từ giã Đa-vít: “Chúc anh đi bình an, vì cả hai chúng ta đã nhân danh CHÚA thề nguyện với nhau: ‘Xin CHÚA ở giữa anh và tôi, giữa dòng dõi anh và dòng dõi tôi, mãi mãi.’”Đa-vít đứng dậy ra đi, còn Giô-na-than trở về thành. Đa-vít đến thành Nóp tìm thầy tế lễ A-hi-mê-léc. Thầy tế lễ ra đón Đa-vít, run sợ hỏi: “Sao ông đi một mình, không có ai đi theo ông cả?” Đa-vít đáp: “Vua giao công tác cho tôi và dặn: ‘Đừng cho ai biết gì về công tác ta sai phái ngươi đi.’ Vì thế tôi hẹn với quân lính đến nơi kia rồi. Bây giờ ông có sẵn thức ăn gì không? Xin ông cho tôi năm ổ bánh hoặc có gì cũng được.” Thầy tế lễ đáp: “Tôi không có sẵn bánh thường, chỉ có bánh thánh thôi, miễn là lính của ông giữ mình, không gần gũi đàn bà.” Đa-vít nói: “Dĩ nhiên là chúng tôi không gần gũi đàn bà, như xưa nay, mỗi khi tôi ra trận. Dù đi công tác thông thường, ngay cả trang bị của quân lính, như binh phục và khí giới, đều được biệt riêng và thánh hóa, huống chi hôm nay khi quân lính sẽ được thánh hóa chung với trang bị của mình?” Bấy giờ thầy tế lễ cho Đa-vít bánh thánh, vì tại đó không có bánh nào khác ngoài bánh đã được bày ra trên bàn thánh để dâng lên CHÚA và được đem đi khỏi để thay bánh mới vào, trong ngày thay bánh. Hôm ấy, một đầy tớ của vua Sau-lơ cũng có mặt tại đó, vì anh đang bị giữ lại trong đền thờ. Anh tên là Đô-e, người Ê-đôm. Anh là người mạnh dạn nhất trong những người chăn chiên của vua Sau-lơ. Đa-vít hỏi thầy tế lễ: “Ông có cây giáo hoặc thanh gươm nào ở đây không? Công tác vua giao cấp bách quá, tôi không kịp mang theo thanh gươm hay khí giới gì khác cả.” Thầy tế lễ đáp: “Có thanh gươm của Gô-li-át, người Phi-li-tin bị ông giết tại thung lũng Ê-la. Kìa thanh gươm đó bọc trong chiếc áo, để phía sau ê-phót. Nếu ông cần thì cứ lấy mà dùng, vì ở đây không có khí giới nào khác.” Đa-vít nói: “Không có gươm nào tốt bằng! Ông đưa gươm cho tôi.” Ngày hôm ấy, Đa-vít tiếp tục trốn vua Sau-lơ, đi đến thành Gát gặp vua A-kích. Triều thần vua A-kích tâu với vua: “Có phải đây là Đa-vít, vua xứ ấy không? Có phải người ta hát về Đa-vít này trong khi nhảy múa:‘Sau-lơ giết hàng ngàn,Đa-vít giết hàng vạn!’ hay không?” Đa-vít lo ngại về những lời nói đó và đâm ra sợ vua A-kích lắm. Vậy, trước mặt họ, Đa-vít giả bộ dại khờ; chàng cư xử như người khùng khi họ tìm cách giữ cho chàng yên; chàng viết nguệch ngoạc trên các cánh cửa và để nước miếng chẩy xuống râu. Vua A-kích bảo các triều thần: “Các ngươi thấy tên này điên rồi. Sao lại dẫn về đây cho ta? Ta có thiếu người khùng đâu mà các ngươi lại dẫn nó về làm trò khùng điên quấy rầy ta? Lẽ nào cho tên này vào cung ta?” Đa-vít rời khỏi đó, trốn đến hang đá ở A-đu-lam. Các anh Đa-vít và cả dòng họ cha chàng hay tin đều xuống đó ở với chàng. Ngoài ra, tất cả những người cùng khốn, nợ nần, bất mãn, khoảng chừng bốn trăm người, đều tụ họp chung quanh Đa-vít, và chàng chỉ huy họ. Từ đó, Đa-vít đến Mít-bê thuộc xứ Mô-áp, và thưa với vua Mô-áp: “Xin vua cho phép cha mẹ tôi đến ở với vua cho đến khi nào tôi biết Đức Chúa Trời sẽ làm gì cho tôi.” Đa-vít dẫn cha mẹ đến triều kiến vua Mô-áp, và cha mẹ chàng sống trong triều vua suốt thời gian chàng ở trong hang đá. Một hôm, tiên tri Gát bảo Đa-vít: “Anh không nên ở trong hang đá này. Anh hãy trở về xứ Giu-đa ngay.” Đa-vít liền ra đi, đến khu rừng Hê-rết. Một hôm, vua Sau-lơ đang ngồi dưới gốc cây liễu, trên ngọn đồi cao tại Ghi-bê-a. Vua cầm giáo trong tay, và tất cả các triều thần chầu chực chung quanh vua. Vua nghe tin người ta đã tìm ra Đa-vít và những người theo chàng. Vua Sau-lơ hỏi các triều thần đang chầu chực chung quanh: “Các người Bên-gia-min, hãy nghe đây. Con trai Y-sai có hứa ban phát đồng ruộng và vườn nho cho tất cả các người không? Nó có hứa cho các người chỉ huy một ngàn quân hoặc một trăm quân không? Vậy sao các người lại âm mưu phản ta? Không ai tiết lộ cho ta biết là con trai ta đã lập giao ước với con trai Y-sai! Không một ai trong các ngươi quan tâm đến ta và cho ta biết khi con trai ta xúi đầy tớ ta nổi dậy phục kích hại ta như ngày nay!” Trong các triều thần chầu chực chung quanh vua Sau-lơ có Đô-e, người Ê-đôm. Đô-e lên tiếng: “Tôi thấy con trai Y-sai đến thành Nóp gặp ông A-hi-mê-léc, con ông A-hi-túp. Ông A-hi-mê-léc cầu hỏi ý CHÚA cho nó, cung cấp lương thực cho nó, rồi lại giao cho nó thanh gươm của Gô-li-át, người Phi-li-tin.” Bấy giờ vua sai đòi thầy tế lễ A-hi-mê-léc, con ông A-hi-túp, cùng với tất cả các thầy tế lễ thuộc dòng họ cha ông tại Nóp. Tất cả những người đó đều đến chầu vua. Vua Sau-lơ bảo: “Con của A-hi-túp, hãy nghe ta!” Ông thưa: “Tâu vua, có tôi đây.” Vua Sau-lơ hỏi: “Tại sao ngươi toa rập với con trai Y-sai phản ta? Ngươi tiếp tế lương thực cho nó, giao thanh gươm cho nó, rồi lại cầu hỏi ý Đức Chúa Trời cho nó, để nó nổi dậy chống lại ta và phục binh hại ta như ngày nay!” Ông A-hi-mê-léc tâu: “Trong tất cả triều thần của vua, có ai trung thành bằng Đa-vít? Đa-vít là phò mã của vua, chỉ huy toán cận vệ của vua, lại được triều đình kính nể. Có phải hôm nay là lần đầu tiên tôi cầu hỏi ý Đức Chúa Trời cho Đa-vít không? Không đâu! Xin vua đừng buộc tội tôi tớ vua, cũng đừng buộc tội ai trong toàn thể dòng họ cha tôi, vì tôi tớ vua không hề biết một điều gì, dù nhỏ hay lớn, về tất cả chuyện này.” Nhưng vua đáp: “A-hi-mê-léc, ngươi và toàn thể dòng họ cha ngươi phải chết.” Vua bảo các thị vệ đứng cạnh bên: “Hãy giết các thầy tế lễ của CHÚA, vì họ cùng toa rập với Đa-vít. Họ biết nó chạy trốn mà không hề cho ta hay!” Nhưng triều thần không chịu giơ tay lên đánh giết các thầy tế lễ của CHÚA. Vua bảo Đô-e: “Ngươi giết các thầy tế lễ đi!” Đô-e, người Ê-đôm, xông lại và tự nó giết các thầy tế lễ; ngày hôm đó, nó tàn sát tám mươi lăm người được quyền mang ê-phót. Nó cũng dùng lưỡi gươm giết dân thành Nóp, là thành của các thầy tế lễ. Từ đàn ông đến đàn bà, từ trẻ thơ đến em bé còn bú, và bò, lừa, chiên, tất cả đều bị lưỡi gươm sát hại. Nhưng A-bia-tha, một trong những người con ông A-hi-mê-léc, cháu ông A-hi-túp, trốn thoát và đến gặp Đa-vít. A-bia-tha thuật cho Đa-vít biết vua Sau-lơ giết các thầy tế lễ của CHÚA. Đa-vít bảo A-bia-tha: “Khi Đô-e, người Ê-đôm, có mặt tại đó ngày hôm ấy, tôi biết thế nào nó cũng tâu lại cho vua Sau-lơ hay. Tôi chịu trách nhiệm về sự chết của tất cả những người trong gia đình anh. Anh cứ ở đây với tôi, đừng sợ gì cả, vì người tìm hại mạng sống tôi cũng là người tìm hại mạng sống anh. Ở bên tôi, anh sẽ được an toàn.” Có người báo tin cho Đa-vít: “Kìa, người Phi-li-tin đang tấn công thành Kê-i-la và cướp phá các sân đạp lúa.” Đa-vít cầu hỏi ý CHÚA: “Con có nên đi đánh những người Phi-li-tin này không?” CHÚA bảo Đa-vít: “Con hãy đi đánh quân Phi-li-tin và giải cứu dân thành Kê-i-la.” Tuy nhiên, những người theo Đa-vít bàn ra: “Ở ngay đây, trong xứ Giu-đa, mà chúng ta còn sợ, huống chi đi Kê-i-la giao chiến với quân Phi-li-tin!” Đa-vít lại cầu hỏi ý CHÚA một lần nữa. CHÚA bảo: “Con hãy đi ngay xuống Kê-i-la, vì Ta sẽ giao quân Phi-li-tin vào tay con.” Đa-vít liền đi cùng những người theo mình xuống Kê-i-la giao chiến với quân Phi-li-tin, lùa súc vật của chúng đi, và đánh chúng một đòn ác liệt. Thế là Đa-vít giải cứu được dân thành Kê-i-la. Khi A-bia-tha, con ông A-hi-mê-léc, trốn đến với Đa-vít, ông có mang theo ê-phót trong tay, và cùng đi với chàng xuống Kê-i-la. Vua Sau-lơ nghe tin Đa-vít đến Kê-i-la, vua tự nhủ: “Đức Chúa Trời đã nộp nó vào tay ta, vì nó đã tự giam mình khi vào một thành có cửa đóng then cài.” Vua Sau-lơ triệu tập toàn lực lượng chiến binh đi xuống Kê-i-la bao vây Đa-vít và những người theo chàng. Khi Đa-vít biết được vua Sau-lơ mưu tính việc ác để hại mình, chàng bảo thầy tế lễ A-bia-tha: “Anh mang ê-phót lại đây!” Đa-vít cầu hỏi: “Lạy CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, con đây là tôi tớ Ngài có nghe tin vua Sau-lơ tìm cách đến hủy diệt thành Kê-i-la vì con. Dân thành Kê-i-la có nộp con vào tay vua không? Vua Sau-lơ có định xuống như tôi tớ Ngài nghe nói không? Lạy CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, xin cho tôi tớ Ngài biết.” CHÚA bảo: “Nó sẽ xuống.” Đa-vít cầu tiếp: “Dân thành Kê-i-la có nộp con và những người theo con vào tay vua Sau-lơ không?” CHÚA bảo: “Họ sẽ nộp.” Đa-vít và những người theo chàng, khoảng sáu trăm người, liền ra khỏi thành Kê-i-la, và đi rày đây mai đó. Khi vua Sau-lơ nghe tin Đa-vít trốn thoát khỏi Kê-i-la, vua đình lại, không kéo binh xuống đó nữa. Đa-vít ẩn náu trong đồng vắng, trong các nơi hiểm hóc trên đồi núi sa mạc Xíp. Vua Sau-lơ cứ lùng bắt chàng ngày này qua ngày kia, nhưng Đức Chúa Trời không để cho Đa-vít rơi vào tay vua. Đa-vít đang ở Hô-rết, trong đồng vắng Xíp khi chàng hay tin vua Sau-lơ ra quân để tìm cách giết hại chàng. Bấy giờ Giô-na-than, con vua Sau-lơ, đến Hô-rết thăm Đa-vít và khuyên chàng vững lòng tin cậy Đức Chúa Trời. Giô-na-than bảo Đa-vít: “Anh đừng sợ. Bàn tay của vua Sau-lơ, cha tôi, không thể nào đụng đến anh được. Chính anh sẽ làm vua dân Y-sơ-ra-ên, còn tôi sẽ đứng thứ nhì, sau anh một bậc. Ngay cả vua Sau-lơ, cha tôi, cũng biết điều ấy.” Sau khi hai người lập giao ước với nhau trước mặt CHÚA, Đa-vít tiếp tục ở lại Hô-rết, còn Giô-na-than trở về nhà. Một số người vùng Xíp lên Ghi-bê-a tâu với vua Sau-lơ: “Đa-vít đang lẩn trốn giữa chúng tôi, trong các hang hiểm hóc ở Hô-rết, trên đồi Ha-ki-la, phía nam Giê-si-môn. Vậy bây giờ, nếu vua muốn xuống vùng đất chúng tôi, xin vua cứ xuống. Chúng tôi xin chịu trách nhiệm nộp nó vào tay vua.” Vua Sau-lơ đáp: “Cầu xin CHÚA ban phước cho các ngươi vì các ngươi đã thương xót ta. Các ngươi hãy đi, dò hỏi cho chắc chắn, nhìn xem nơi nào nó đặt chân tới, ai đã thấy nó ở đó, vì ta nghe nói nó mưu mô xảo quyệt lắm. Các ngươi hãy tìm cho ra tất cả những nơi nào nó có thể ẩn núp, rồi trở về cho ta biết tin tức chắc chắn để ta đi với các ngươi. Nếu nó còn ở trong xứ, ta sẽ cho lùng khắp các chi tộc Giu-đa để tìm bắt nó cho kỳ được.” Họ liền trở về đồng vắng Xíp trước vua Sau-lơ. Đa-vít và những người theo chàng ở trong sa mạc Ma-ôn, trong đồng hoang phía nam Giê-si-môn. Vua Sau-lơ cầm quân đi lùng bắt Đa-vít. Đa-vít hay tin, đi xuống vùng núi non hiểm trở trong sa mạc Ma-ôn. Vua Sau-lơ nghe tin, đuổi theo Đa-vít trong sa mạc Ma-ôn. Vua Sau-lơ đi phía bên này núi, còn Đa-vít và những người theo chàng đi phía bên kia núi. Đa-vít vội vã muốn thoát khỏi vua Sau-lơ, nhưng vua Sau-lơ và quân lính đang siết chặt vòng vây quanh Đa-vít và những người theo chàng để bắt họ, khi một sứ giả đến tâu với vua Sau-lơ: “Xin vua về gấp, vì quân Phi-li-tin cướp phá đất nước.” Vua Sau-lơ ngừng đuổi theo Đa-vít, và quay về giao chiến với quân Phi-li-tin. Vì thế người ta gọi chỗ này là Tảng Đá Phân Chia. Đa-vít rời khỏi đó, đến ẩn náu trong các hóc đá hiểm trở vùng En-ghê-đi. Sau khi vua Sau-lơ đánh đuổi quân Phi-li-tin xong, trở về, có người tâu với vua: “Đa-vít ở trong sa mạc En-ghê-đi.” Vua Sau-lơ chọn ba ngàn quân tinh nhuệ trong toàn thể dân Y-sơ-ra-ên, dẫn họ đi lùng bắt Đa-vít và những người theo chàng, ở phía đông các mỏm đá Sơn Dương. Đi ngang qua các chuồng chiên bên đường, vua Sau-lơ thấy một hang đá nên vào đó đi việc cần. Đa-vít và những người theo chàng đang ngồi núp trong nơi sâu thẳm của chính hang đó. Những người theo Đa-vít thì thầm với chàng: “Đây là ngày CHÚA phán trước với ông: ‘Ta sẽ giao kẻ thù của con vào tay con, và con được quyền xử với nó tùy ý con.’” Đa-vít đến gần, cắt lén vạt áo choàng của vua Sau-lơ. Nhưng ngay sau đó, Đa-vít tự trách mình vì đã cắt vạt áo choàng của vua Sau-lơ. Đa-vít nói với những người theo chàng: “Cầu xin CHÚA phạt tôi nếu tôi làm điều này, nghĩa là nếu tôi ra tay hại chủ tôi là người được CHÚA xức dầu, vì vua chính là người được CHÚA xức dầu.” Đa-vít dùng những lời lẽ ấy thuyết phục những người theo chàng, không cho họ xông vào vua Sau-lơ. Vua Sau-lơ ra khỏi hang và tiếp tục lên đường. Sau đó, Đa-vít cũng đứng dậy ra khỏi hang đá, gọi với theo vua Sau-lơ: “Tâu vua, chúa con!” Vua Sau-lơ nhìn ngoái lại đằng sau, thấy Đa-vít cúi sấp mặt xuống đất. Đa-vít thưa với vua Sau-lơ: “Tại sao cha nghe lời người ta đồn rằng con muốn hại cha? Ngày nay, chính mắt cha thấy CHÚA đã giao mạng cha vào tay con trong hang đá. Người ta xúi con giết cha, nhưng con không nỡ, và con tự nhủ: ‘Ta không nên ra tay hại chủ ta vì người được CHÚA xức dầu.’ Thưa cha, xin cha nhìn xem, đây là vạt áo choàng của cha trong tay con. Cha thấy con chỉ cắt vạt áo choàng của cha nhưng con không giết cha. Cha cũng đủ hiểu rằng con không có ý hại cha hoặc phản cha. Con không hề có lỗi với cha, nhưng cha lại săn đuổi con để giết con. Cầu xin CHÚA phân xử giữa con và cha. Xin CHÚA báo thù cho con, vì chính tay con sẽ không đụng đến cha. Như tục ngữ người xưa có nói: ‘Điều ác ra từ kẻ ác,’ tay con sẽ không đụng đến cha. Vua Y-sơ-ra-ên đem quân ra đánh đuổi ai? Cha săn đuổi ai? Một con chó chết! Một con bọ chét! Cầu xin CHÚA làm trọng tài phân xử giữa con và cha! Cầu xin Ngài đoái xem, biện hộ cho con, và giải cứu con khỏi tay cha!” Khi Đa-vít vừa dứt lời, vua Sau-lơ hỏi: “Có phải đó là tiếng của Đa-vít, con trai ta không?” Rồi vua Sau-lơ òa lên khóc. Vua lại nói với Đa-vít: “Con cư xử phải hơn cha, vì con đối đãi tốt với cha trong khi cha đối xử tệ với con. Chính con đã tỏ cho cha biết ngày nay con đối đãi tốt với cha như thế nào. CHÚA đã nộp cha vào tay con, nhưng con không giết cha. Cá ai bắt gặp kẻ thù mình mà lại thả cho đi bình an không? Cầu xin CHÚA ban thưởng con dồi dào vì con đối xử tốt với cha ngày nay. Bây giờ cha biết chắc chắn con sẽ làm vua cai trị dân Y-sơ-ra-ên, và ngôi vua sẽ vững bền trong tay con. Vậy con hãy nhân danh CHÚA thề với cha, con sẽ không tuyệt diệt con cháu cha sau khi cha qua đời, và con cũng không xóa bỏ tên tuổi cha khỏi dòng họ tổ phụ cha.” Sau khi Đa-vít thề, vua Sau-lơ trở về nhà, còn Đa-vít và những người theo chàng rút về nơi trú ẩn. Ông Sa-mu-ên qua đời. Toàn dân Y-sơ-ra-ên họp lại than khóc và chôn cất ông tại quê hương Ra-ma.Sau đó, Đa-vít dời xuống sa mạc Pha-ran. Có một người kia sống tại thành Ma-ôn nhưng có tài sản đất đai ở vùng Cạt-mên. Ông rất giàu, có ba ngàn con chiên và một ngàn con dê. Hiện ông đang ở Cạt-mên coi sóc việc cắt lông chiên. Ông tên Na-banh, còn vợ ông là A-bi-ga-in. Bà vợ thông minh và xinh đẹp, trong khi ông chồng cứng cỏi và gian ác. Ông thuộc về chi tộc Ca-lép. Đa-vít ở trong sa mạc, nghe tin ông Na-banh đang coi sóc việc cắt lông chiên, nên sai mười thanh niên đi và dặn họ: “Các anh hãy đi lên Cạt-mên, đến gặp ông Na-banh, và chuyển lời tôi chào thăm ông. Các anh hãy nói như vầy: ‘Chúc ông sống lâu! Chúc ông và quí quyến bình an! Chúc ông làm ăn phát đạt! Anh Đa-vít được tin thợ đang cắt lông chiên là của ông. Suốt thời gian những người chăn chiên của ông ở với chúng tôi ở Cạt-mên, chúng tôi không hề quấy nhiễu họ và họ không mất mát gì cả. Ông cứ hỏi đầy tớ ông, họ sẽ nói cho ông biết. Vì chúng tôi đến với ông trong ngày lễ, xin ông thương tình chúng tôi và ban cho chúng tôi là đầy tớ ông, và cho anh Đa-vít, là con ông, bất cứ món gì ông có sẵn.’” Các thanh niên của Đa-vít đi gặp ông Na-banh và chuyển lời chào thăm của Đa-vít theo như mọi lời Đa-vít dặn họ. Nói xong, họ chờ đợi. Ông Na-banh đáp: “Đa-vít là ai? Con của Y-sai là ai? Dạo này có quá nhiều đầy tớ bỏ chủ trốn đi. Không lẽ ta lấy bánh, nước và thịt mấy con thú ta làm sẵn cho thợ cắt lông chiên đem cho những người ta không biết từ đâu đến?” Các thanh niên của Đa-vít quay lại đường cũ trở về, thuật lại cho Đa-vít nghe mọi lời ấy. Đa-vít liền bảo những người theo chàng: “Anh em đeo gươm vào!” Mỗi người đeo gươm mình, Đa-vít cũng đeo gươm mình. Khoảng bốn trăm người đi theo Đa-vít, còn hai trăm người kia ở lại giữ đồ đạc. Một trong những người đầy tớ báo cho bà A-bi-ga-in, vợ ông Na-banh biết: “Ông Đa-vít có sai người từ sa mạc đến chào ông chủ nhưng ông chủ mắng xối xả vào mặt họ. Trong khi những người này đối xử rất tốt với chúng tôi. Họ không hề quấy nhiễu chúng tôi, chúng tôi không mất mát gì cả trong suốt thời gian chúng tôi chung đụng với họ ngoài đồng. Ngày và đêm, họ là bức tường che chở chúng tôi suốt thời gian chúng tôi chăn chiên và dê trong vùng họ ở. Vậy bây giờ xin bà tính xem phải làm gì, vì ông chủ và cả nhà chắc chắn sẽ mang họa; còn ông chủ hung hăng quá, không ai dám nói gì với ông cả.” Bà A-bi-ga-in vội vàng lấy hai trăm ổ bánh, hai bầu da đầy rượu, năm con chiên đã nấu nướng sẵn, một giạ hạt rang, một trăm chùm nho khô, hai trăm bánh trái vả khô, chất tất cả lên lưng lừa. Bà bảo các đầy tớ: “Các anh đi trước, tôi theo sau.” Nhưng bà không nói cho chồng bà, là ông Na-banh, biết gì cả. Bà đang cưỡi lừa đi xuống, khuất sau ngọn đồi, bỗng gặp Đa-vít và những người theo chàng cũng đang đi xuống về phía bà. Trên đường đi, Đa-vít đã thầm nhủ: “Ta đã phí công bảo vệ tài sản của tên này trong sa mạc! Nó không mất mát gì cả, vậy mà nó lấy oán trả ơn cho ta! Cầu xin Đức Chúa Trời phạt Đa-vít như thế này hoặc nặng hơn nữa, nếu đến sáng mai ta còn để cho một người nam nào trong gia đình nó sống sót!” Vừa thấy Đa-vít, bà A-bi-ga-in vội vàng xuống lừa, quì sấp xuống đất trước mặt Đa-vít. Phủ phục dưới chân Đa-vít, bà van xin: “Lỗi tại tôi, thưa ông, tại tôi! Xin ông cho phép tôi trình bày, xin ông rủ lòng nghe tôi nói. Xin ông đừng quan tâm đến Na-banh, con người hung hăng đó, vì anh ta cư xử y hệt như tên anh ta. Anh ta tên là Na-banh và sự dại dột ở trong anh ta. Còn tôi, tôi không thấy các thanh niên do ông sai đến. Bây giờ, thưa ông, có CHÚA hằng sống, và có ông đây, ước gì kẻ thù của ông và những người tìm cách hại ông đều sẽ chịu đồng số phận với Na-banh! CHÚA đã ngăn cản, không cho ông làm đổ máu và tự trả thù cho chính mình. Và thưa ông, đây là chút quà tôi mang đến, xin được giao cho các thanh niên đi theo ông. Xin ông tha lỗi cho tôi cả gan nói dài dòng. CHÚA chắc chắn sẽ ban cho ông ngôi nước vững bền vì ông tham gia những trận chiến của CHÚA. Suốt đời ông, tai họa sẽ không bao giờ xảy đến cho ông. Nếu có người nào nổi lên săn đuổi ông và tìm cách hại mạng sống ông, CHÚA là Đức Chúa Trời của ông sẽ bảo bọc mạng sống ông trong bọc kẻ sống bên cạnh Ngài, nhưng Ngài sẽ ném đi xa mạng sống của kẻ thù ông như người ta dùng ná mà ném đá. Ngày nào CHÚA thực hiện mọi điều tốt Ngài hứa ban cho ông, và lập ông lên làm thủ lãnh dân Y-sơ-ra-ên, ước gì ông sẽ khỏi phải áy náy hay bị lương tâm cắn rứt vì đã đổ máu vô cớ và tự trả thù cho chính mình. Và khi nào CHÚA ban phước lành cho ông, xin ông nhớ đến tôi.” Đa-vít đáp lời bà A-bi-ga-in: “Tôi ca ngợi CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên vì Ngài đã sai bà đến gặp tôi hôm nay. Tôi cám ơn CHÚA và xin Ngài ban phước cho bà vì ngày hôm nay bà đã hành động sáng suốt, bà đã ngăn cản không cho tôi gây đổ máu và tự trả thù cho chính mình. Thật như CHÚA Hằng Sống là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Đấng đã ngăn cản không cho tôi hại bà, nếu bà không vội vàng đến gặp tôi, thì chắc chắn không một người nam nào trong nhà Na-banh còn sống sót đến khi trời rạng sáng.” Đa-vít nhận quà bà mang đến và căn dặn: “Bà an tâm về nhà. Tôi đã nghe điều bà yêu cầu và tôi tôn trọng ý bà.” Khi bà A-bi-ga-in về đến nhà, bà thấy ông Na-banh mở tiệc linh đình như tiệc yến vua đãi vậy. Ông Na-banh vui vẻ và say túy lúy nên bà không kể lại cho ông điều gì, dù nhỏ hay lớn, trước khi trời hừng sáng. Sáng hôm sau, chờ khi ông Na-banh tỉnh rượu, bà vợ ông mới thuật lại cho ông các sự việc ấy. Ông bị sốc nặng người ông cứng đờ ra như tảng đá. Khoảng mười ngày sau, CHÚA đánh ông Na-banh và ông qua đời. Nghe tin ông Na-banh qua đời, Đa-vít nói: “Con ca ngợi CHÚA vì Ngài đã biện hộ cho con khi Na-banh sỉ nhục con. Con cám ơn CHÚA vì Ngài đã giữ con là tôi tớ Ngài khỏi làm điều ác, và Ngài đã đổ lại trên đầu Na-banh điều ác nó làm.”Sau đó, Đa-vít sai người đi hỏi bà A-bi-ga-in làm vợ. Tôi tớ của Đa-vít đến Cạt-mên gặp bà A-bi-ga-in và thưa: “Ông Đa-vít sai chúng tôi đến đây để xin được cưới bà làm vợ.” Bà A-bi-ga-in liền quì sấp mặt xuống đất thưa: “Tôi đây sẵn sàng làm đầy tớ của ông Đa-vít để rửa chân cho các tôi tớ của chủ tôi.” Bà vội vã đứng dậy, cưỡi lừa, và cùng với năm cô tớ gái ra đi theo các sứ giả của Đa-vít và bà trở thành vợ của Đa-vít Trước đây, Đa-vít cũng đã cưới A-hi-nô-am, người thành Gít-rê-ên. Vậy cả hai bà đều là vợ ông. Vua Sau-lơ đã gả Mi-canh, con gái vua, cũng là vợ của Đa-vít, cho Phanh-ti, con ông La-ít, người thành Ga-lim. Người Xíp đến Ghi-bê-a tâu với vua Sau-lơ: “Đa-vít đang trốn trên đồi Ha-ki-la, đối ngang đồng vắng Giê-si-môn.” Vua Sau-lơ liền đi xuống sa mạc Xíp cùng với ba ngàn quân tinh nhuệ của Y-sơ-ra-ên để tìm bắt Đa-vít. Vua Sau-lơ đóng trại trên đồi Ha-li-la, cạnh bên đường, đối ngang Giê-si-môn, còn Đa-vít ở trong sa mạc. Được tin vua Sau-lơ vào sa mạc đuổi bắt mình, Đa-vít sai người đi do thám và biết chắc vua Sau-lơ đã đến. Đa-vít đến tận nơi vua Sau-lơ đóng trại, nhìn thấy chỗ vua Sau-lơ và tướng Áp-ne, con ông Ne, là tướng chỉ huy quân đội của vua, đang nằm ngủ. Vua Sau-lơ đang nằm ngủ bên trong hàng rào phòng thủ, và quân sĩ đóng trại chung quanh vua. Đa-vít hỏi A-hi-mê-léc, người Hê-tít, và A-bi-sai, anh của Giô-áp, con bà Xê-ru-gia: “Ai muốn đi với tôi xuống nơi vua Sau-lơ đóng trại?” A-bi-sai đáp: “Cháu xin đi với cậu.” Vậy Đa-vít và A-bi-sai lẻn vào trại quân lúc ban đêm, thấy vua Sau-lơ đang nằm ngủ bên trong hàng rào phòng thủ, cây giáo vua cắm xuống đất, cạnh bên đầu. Tướng Áp-ne và binh sĩ nằm ngủ chung quanh vua. A-bi-sai nói với Đa-vít: “Hôm nay Đức Chúa Trời đã nộp kẻ thù của cậu vào tay cậu. Bây giờ xin cho cháu dùng cây giáo của nó ghim nó một nhát xuống đất, không cần đến nhát thứ hai.” Nhưng Đa-vít đáp: “Đừng giết vua! Có ai tra tay hại người được CHÚA xức dầu làm vua mà lại không bị phạt?” Đa-vít nói tiếp: “Có CHÚA Hằng Sống, cậu cam đoan với cháu, chính CHÚA sẽ kết thúc đời vua, hoặc vua chết tự nhiên khi đến kỳ hạn, hoặc vua ngã xuống ngoài trận địa. Nhưng xin CHÚA gìn giữ đừng cho cậu tra tay hại người được CHÚA xức dầu. Bây giờ chúng ta chỉ lấy cây giáo cạnh bên đầu vua và bình nước rồi đi thôi.” Đa-vít lấy cây giáo và bình nước cạnh bên đầu vua Sau-lơ, rồi hai người ra đi. Không ai thấy, không ai hay biết gì cả, cũng không ai thức giấc. Mọi người đều ngủ, vì CHÚA làm cho họ ngủ mê. Đa-vít băng qua đồi bên kia, đứng trên đỉnh, cách xa trại quân; có một khoảng cách lớn giữa họ. Đa-vít hướng về phía các binh sĩ, lớn tiếng gọi tướng Áp-ne, con ông Ne: “Tướng Áp-ne, ông có nghe tôi không?” Tướng Áp-ne đáp: “Ngươi là ai mà dám gọi vua?” Đa-vít đáp: “Ông là bậc trượng phu, và trong nước Y-sơ-ra-ên không có ai bằng ông! Vậy tại sao ông không bảo vệ chủ ông là vua? Vì có người định ám sát vua, chủ của ông! Ông làm như vậy là không tròn bổn phận. Có CHÚA Hằng Sống chứng giám, tất cả các ông đều đáng chết vì không canh giữ chủ mình là người được CHÚA xức dầu! Bây giờ xin ông hãy xem, cây giáo của vua và bình nước cạnh bên đầu vua đâu rồi?” Vua Sau-lơ nhận ra tiếng của Đa-vít. Vua hỏi: “Đa-vít, con cha, có phải tiếng con nói đó không?” Đa-vít đáp: “Tâu vua, chính tiếng con đây.” Đa-vít thưa tiếp: “Tại sao vua cứ tiếp tục đuổi bắt tôi tớ vua? Con đã làm gì? Tay con có làm điều gì ác? Bây giờ con xin vua vui lòng nghe tôi tớ vua trình bày. Nếu CHÚA xúi giục vua hại con, nguyện xin Ngài nhậm lễ vật có mùi thơm. Còn nếu do người xúi giục, họ đáng bị CHÚA nguyền rủa, vì ngày nay họ đã đuổi con ra, không cho con ở trong xứ mà CHÚA ban cho dân Ngài, khác nào họ bảo con: ‘Hãy đi thờ phượng các thần khác!’ Ôi, xin đừng cho máu con rơi xuống đất nước ngoài, xa cách CHÚA! Tại sao vua Y-sơ-ra-ên kéo quân ra tìm bắt con, một con bọ chét? Tại sao vua săn đuổi con như người ta săn chim đa đa trên đồi núi?” Vua Sau-lơ đáp: “Cha thật đắc tội. Đa-vít, con cha, hãy trở về. Cha sẽ không bao giờ hại con nữa, vì ngày nay con đã coi trọng mạng sống cha. Thật cha hành động ngu xuẩn, cha đã sai lầm quá mức.” Đa-vít thưa: “Đây cây giáo của vua. Xin vua sai một trong các bạn trẻ sang đây lấy về. CHÚA sẽ ban thưởng mọi người tùy theo sự công chính và lòng trung thành của họ. Hôm nay CHÚA có nộp vua vào tay con, nhưng con không muốn tra tay hại vua là người được CHÚA xức dầu. Hôm nay con đã coi trọng mạng sống vua. Cầu xin CHÚA cũng coi trọng mạng sống con như vậy, và giải thoát con khỏi mọi cảnh gian nguy.” Vua Sau-lơ đáp: “Cầu xin CHÚA ban phước cho con, Đa-vít. Con sẽ làm nhiều việc trọng đại và con chắc chắn sẽ thành công.”Đa-vít đi đường mình, trong khi vua Sau-lơ trở về nhà. Đa-vít nghĩ thầm: “Một ngày nào đây, chắc chắn tôi sẽ phải chết bởi tay vua Sau-lơ. Không gì tốt hơn cho tôi là trốn sang đất người Phi-li-tin. Bấy giờ vua Sau-lơ sẽ mất hết hy vọng tìm bắt được tôi trong toàn lãnh thổ Y-sơ-ra-ên, và tôi sẽ thoát khỏi tay vua.” Đa-vít liền cùng với sáu trăm người theo mình vượt qua biên giới, đến với vua A-kích, con ông Ma-óc, tại thành Gát. Đa-vít và những người theo chàng, mỗi người với gia đình mình, đều ở lại thành Gát với vua A-kích. Đa-vít cũng dẫn theo hai bà vợ, bà A-hi-nô-am, người Gít-rê-ên, và bà A-bi-ga-in, vợ góa của Na-banh, người Cạt-mên. Khi vua Sau-lơ hay tin Đa-vít đã trốn sang thành Gát, vua không còn tìm bắt chàng nữa. Đa-vít tâu với vua A-kích: “Nếu vua đẹp lòng, xin vua cho phép tôi cư ngụ trong một thành nào đó ở miền quê. Vì tôi tớ vua sao lại được ở trong hoàng thành với vua?” Ngay hôm đó, vua A-kích cho Đa-vít thành Xiếc-lác; vì thế thành Xiếc-lác thuộc về các vua Giu-đa cho đến ngày nay. Thời gian Đa-vít cư ngụ trong xứ người Phi-li-tin là một năm bốn tháng. Đa-vít và những người theo chàng thường cướp phá các dân Ghê-sua, Ghiệt-xi và A-ma-léc là những dân tộc sống trong vùng từ Tê-la-im trải dài đến sa mạc Su-rơ và tận biên giới Ai-cập. Mỗi khi đánh phá vùng nào, Đa-vít không để cho ai sống sót, dù đàn ông hay đàn bà. Đa-vít lấy hết chiên dê, bò lừa, lạc đà và quần áo, rồi trở về và đến gặp vua A-kích. Mỗi khi vua A-kích hỏi: “Hôm nay các ngươi cướp phá vùng nào?” Đa-vít thường đáp: “Vùng Ne-ghép xứ Giu-đa,” hoặc “vùng Ne-ghép của dân Giê-ra-mên,” hoặc “vùng Ne-ghép của dân Kê-ni” Đa-vít không chừa một người đàn ông hay đàn bà nào sống sót để đem về thành Gát, vì sợ họ tố cáo những việc Đa-vít và những người theo chàng đã làm. Đa-vít cứ hành động như vậy suốt thời gian ở trong xứ người Phi-li-tin. Vua A-kích tin Đa-vít. Vua thầm nghĩ: “Nó đã tự làm cho dân Y-sơ-ra-ên của nó ghê tởm nó đến nỗi nó phải làm chư hầu ta suốt đời.” Vào lúc ấy, người Phi-li-tin tập hợp lực lượng ra trận đánh dân Y-sơ-ra-ên. Vua A-kích bảo Đa-vít: “Nhà ngươi phải biết rõ rằng ngươi và thuộc hạ của ngươi phải theo ta ra trận.” Đa-vít tâu: “Xin tuân lệnh. Chính vua sẽ biết tôi tớ vua làm được gì.” Vua A-kích đáp: “Tốt lắm! Ta sẽ đặt ngươi làm vệ sĩ cho ta suốt đời.” Lúc bấy giờ, ông Sa-mu-ên đã qua đời. Toàn dân Y-sơ-ra-ên đã than khóc và chôn cất ông tại quê hương ông là thành Ra-ma. Vua Sau-lơ cũng đã trục xuất những người làm nghề đồng bóng ra khỏi xứ. Quân Phi-li-tin tập hợp lại và đến đóng trại gần thành Su-nem. Vua Sau-lơ tập hợp toàn quân Y-sơ-ra-ên và đóng trại trên núi Ghinh-bô-a. Khi vua Sau-lơ thấy trại quân Phi-li-tin, vua sợ hãi, tim vua đập mạnh. Vua Sau-lơ cầu hỏi ý CHÚA, nhưng CHÚA không đáp lời, dù qua giấc mộng, hoặc qua thẻ U-rim, hoặc qua các tiên tri. Vua Sau-lơ bảo các triều thần: “Hãy tìm cho ta một bà đồng bóng để ta đi hỏi ý bà.” Triều thần tâu: “Thưa có một bà đồng bóng ở làng Ên-đô-rơ.” Vua Sau-lơ cải trang, mặc quần áo khác, và ban đêm, đi cùng với hai người đến nhà người đàn bà. Vua bảo bà: “Xin bà ngồi hầu bóng và cho tôi biết việc sắp xảy ra. Xin bà gọi lên hồn của người tôi sẽ nói cho bà biết.” Người đàn bà đáp: “Nhưng ông thừa biết vua Sau-lơ đã bài trừ mọi việc lên đồng ngồi bóng trong xứ. Sao ông lại còn gài bẫy để giết tôi?” Vua Sau-lơ nhân danh CHÚA thề với bà: “Có CHÚA Hằng Sống, bà sẽ không mắc tội về việc này.” Người đàn bà hỏi: “Ông muốn tôi gọi ai lên?” Vua đáp: “Bà gọi ông Sa-mu-ên lên cho tôi.” Khi bà thấy ông Sa-mu-ên, bà rú lên một tiếng khủng khiếp, và nói với vua Sau-lơ: “Tại sao bệ hạ đánh lừa tôi? Bệ hạ chính là vua Sau-lơ đây!” Vua trấn an bà: “Bà đừng sợ. Hãy cho ta biết bà thấy gì?” Bà tâu: “Tôi thấy một vị thần từ dưới đất đi lên.” Vua hỏi: “Hình dáng vị ấy ra sao?” Bà thưa: “Một cụ già đang đi lên, mình quấn áo choàng.” Vua Sau-lơ biết chắc ấy là ông Sa-mu-ên. Vua quì sấp mặt xuống đất mà lạy. Ông Sa-mu-ên hỏi vua Sau-lơ: “Sao vua quấy rầy tôi, gọi tôi lên làm chi?” Vua Sau-lơ đáp: “Con gặp tình thế nguy cấp quá. Quân Phi-li-tin đang giao chiến với con, và Đức Chúa Trời đã lìa bỏ con. Ngài không còn đáp lời con nữa, dù qua các tiên tri, hoặc qua giấc mộng. Vì thế con buộc lòng phải gọi ông lên để chỉ cho con biết điều gì phải làm.” Ông Sa-mu-ên nói: “Tại sao vua lại hỏi tôi trong khi CHÚA đã lìa bỏ vua và trở thành kẻ thù của vua? CHÚA thực hiện điều Ngài nói trước đây: CHÚA lấy ngôi nước khỏi tay vua và giao cho Đa-vít, người láng giềng của vua. Vua không vâng lời CHÚA, không thi hành án phạt do cơn thịnh nộ của Ngài đối với dân A-ma-léc, cho nên hôm nay CHÚA khiến việc này xảy ra cho vua. CHÚA sẽ giao vua và dân Y-sơ-ra-ên vào tay quân Phi-li-tin. Ngày mai vua và các con trai vua sẽ ở với tôi. CHÚA cũng sẽ giao trại quân Y-sơ-ra-ên vào tay quân Phi-li-tin.” Nghe ông Sa-mu-ên nói, vua Sau-lơ hoảng sợ ngã nằm dài xuống đất. Hơn nữa, vua cũng đã kiệt sức, vì không ăn gì hết suốt ngày và suốt đêm hôm ấy. Người đàn bà đến bên vua Sau-lơ; thấy vua quá sợ hãi, bà nói: “Tôi là đầy tớ của bệ hạ, tôi đã vâng lời bệ hạ, liều mạng làm theo lời bệ hạ truyền. Bây giờ, xin bệ hạ vui lòng nghe đầy tớ bệ hạ nói, để tôi dọn chút thức ăn bệ hạ dùng cho lại sức trước khi lên đường.” Vua từ chối: “Ta không ăn.” Nhưng các triều thần và ngay cả người đàn bà cứ năn nỉ mãi nên vua nghe theo họ. Vua nhổm dậy khỏi đất và ngồi lên giường. Người đàn bà có vỗ béo một con bê trong nhà. Bà vội vàng làm thịt con bê, rồi bà lấy bột nhồi và nướng bánh không men. Bà dọn lên cho vua Sau-lơ và triều thần. Ăn xong, họ đứng dậy và ra đi ngay đêm ấy. Quân Phi-li-tin tập hợp toàn bộ lực lượng tại A-phéc, trong khi quân Y-sơ-ra-ên đóng trại bên suối nước trong thung lũng Gít-rê-ên. Các nhà lãnh đạo Phi-li-tin đi trước, dẫn đầu những đoàn quân một trăm hoặc một ngàn người; Đa-vít và những người theo chàng đi sau cùng với vua A-kích. Các quan tướng Phi-li-tin hỏi: “Bọn Hy-bá này làm gì ở đây?” Vua A-kích đáp: “Đây là Đa-vít, tôi tớ vua Sau-lơ, vua Y-sơ-ra-ên. Nó ở với tôi cả năm nay. Từ ngày nó bỏ chủ theo tôi cho đến nay, tôi không thấy nó có lỗi gì cả.” Nhưng các quan tướng Phi-li-tin nổi giận với vua A-kích mà rằng: “Vua hãy cho người ấy về nơi vua đã chỉ định cho nó ở. Nó không được ra trận với chúng ta, kẻo nó trở thành địch thủ của chúng ta trong chiến trận. Thật vậy, nó có cách nào lấy lòng chủ nó tốt hơn là nộp đầu của binh sĩ ta? Vua nên nhớ tên Đa-vít này là tên mà bọn chúng hát hò khi nhảy múa:‘Sau-lơ giết hàng ngàn,Đa-vít giết hàng vạn.’” Vua A-kích đành phải gọi Đa-vít đến và bảo: “Có CHÚA Hằng Sống, ngươi là người ngay thẳng. Ta muốn ngươi phục vụ trong quân ngũ của ta, vì ta không thấy ngươi có điều gì sai quấy kể từ ngày ngươi đến ở với ta cho đến nay. Nhưng những người lãnh đạo không bằng lòng. Vậy ngươi hãy trở về bình an, và đừng làm gì phật lòng các nhà lãnh đạo Phi-li-tin.” Đa-vít phản đối: “Nhưng tôi đã làm gì? Từ ngày tôi phục vụ vua cho đến nay, vua có thầy đầy tớ vua phạm lỗi nào mà tôi không được ra trận đánh kẻ thù của vua là chủ tôi?” Vua A-kích đáp: “Ta biết. Đối với ta, ngươi tốt như một sứ giả của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên các quan tướng Phi-li-tin đã quyết định không cho ngươi ra trận chiến đấu bên cạnh họ. Vậy, sáng mai hãy dậy sớm, ngươi và các tôi tớ đang ở với ngươi, các ngươi hãy dậy sớm và ra đi khi trời vừa sáng.” Sáng hôm sau, Đa-vít và những người theo chàng dậy sớm và ra đi, trở về xứ người Phi-li-tin. Trong khi đó, quân Phi-li-tin tiến lên trũng Gít-rê-ên. Khi Đa-vít và những người theo chàng về đến thành Xiếc-lác vào ngày thứ ba, thì người A-ma-léc đã cướp phá vùng Ne-ghép và thành Xiếc-lác. Chúng hủy phá thành Xiếc-lác và phóng hỏa đốt thành. Chúng bắt đàn bà và mọi người. trong thành, từ nhỏ đến lớn, làm tù binh, không giết một ai. Chúng dẫn họ đi theo và lên đường. Đa-vít và những người theo chàng về đến nơi, thấy thành cháy rụi, còn vợ và con trai, con gái họ thì bị bắt đi. Đa-vít và binh sĩ theo mình òa lên khóc cho đến khi họ không còn sức khóc nữa. Ngay cả hai bà vợ của Đa-vít, A-hi-nô-am người Gít-rê-ên, và A-bi-ga-in, vợ góa của Na-banh, người Cạt-mên, cũng bị bắt đi. Đa-vít lâm vào tình cảnh rất nguy kịch vì tất cả các binh sĩ đều cay đắng khi nghĩ đến con trai con gái mình nên bàn chuyện ném đá chàng.Nhưng Đa-vít lấy lại can đảm nhờ CHÚA là Đức Chúa Trời mình. Đa-vít nói với thầy tế lễ A-bia-tha, con ông A-hi-mê-léc: “Xin thầy đem ê-phót lại đây cho tôi.” Khi thầy tế lễ A-bia-tha đem ê-phót đến, Đa-vít cầu hỏi ý CHÚA: “Con có nên đuổi theo bọn cướp này không? Con có rượt kịp chúng không?” Ngài đáp: “Hãy đuổi theo chúng. Thế nào con cũng rượt kịp chúng và giải thoát các tù binh.” Đa-vít ra đi cùng với sáu trăm người theo chàng. Đến khe Bê-sô, hậu quân dự bị dừng lại. Đa-vít cùng với bốn trăm người tiếp tục đuổi theo bọn cướp, còn hai trăm người kia dừng lại vì họ đuối sức, không thể băng qua khe Bê-sô được. Binh sĩ bắt gặp một tên Ai-cập ngoài đồng, dẫn đến cho Đa-vít. Họ cho nó ăn bánh và nước uống. Họ cũng cho nó một miếng bánh trái vả khô và hai chùm nho khô. Ăn xong, nó lại sức, vì đã ba ngày ba đêm nó không ăn uống gì. Đa-vít hỏi nó: “Anh là người của ai? Quê anh ở đâu?” Nó đáp: “Tôi là người Ai-cập, làm nô lệ cho một người A-ma-léc. Chủ bỏ tôi lại đây ba ngày vì tôi ngã bệnh. Trước đó, chúng tôi cướp phá vùng Ne-ghép của người Kê-rê-thít, vùng Ne-ghép của người Giu-đa, và vùng Ne-ghép của người Ca-lép. Chúng tôi cũng phóng hỏa đốt thành Xiếc-lác.” Đa-vít hỏi: “Anh có muốn dẫn tôi xuống chỗ bọn cướp đó không?” Nó đáp: “Xin ông nhân danh Đức Chúa Trời thề với tôi rằng ông sẽ không giết tôi, cũng không nộp tôi vào tay chủ tôi, thì tôi sẽ dẫn ông xuống chỗ bọn cướp đó.” Người Ai-cập dẫn Đa-vít xuống. Kìa, quân A-ma-léc tràn lan khắp miền, chè chén, ăn mừng vì số chiến lợi phẩm lớn thu được từ xứ Phi-li-tin và Giu-đa. Đa-vít đánh giết chúng từ rạng đông đến chiều ngày hôm sau. Không một tên nào thoát, ngoại trừ bốn trăm thanh niên cưỡi lạc đà chạy trốn. Đa-vít giải cứu tất cả những người bị quân A-ma-léc bắt đi, kể cả hai bà vợ của mình. Họ không mất một ai, từ người nhỏ đến người lớn, từ con trai đến con gái. Đa-vít cũng thu hồi được chiến lợi phẩm và tất cả những gì bị cướp. Đa-vít bắt tất cả chiên dê và bò. Những người theo chàng lùa đàn súc vật đi trước và nói: “Đây là chiến lợi phẩm của Đa-vít.” Đa-vít về đến nơi hai trăm người ở lại khe Bê-sô vì họ quá mệt mỏi không theo chàng được. Họ ra đón Đa-vít và đoàn quân đi theo chàng. Đa-vít và đoàn quân đến gần chào hỏi họ. Bấy giờ, tất cả những tên côn đồ vô lại trong đám người theo Đa-vít lên tiếng: “Vì chúng nó không có đi với chúng ta nên chúng ta không chia chiến lợi phẩm thu được cho chúng nó. Chúng chỉ được phép dẫn vợ con đi thôi.” Nhưng Đa-vít cản họ: “Anh em không nên làm như vậy. Hãy xem những gì CHÚA ban cho chúng ta, thể nào Ngài gìn giữ chúng ta bình an vô sự, lại còn nộp bọn cướp vào tay chúng ta. Không ai có thể nghe lời anh em đề nghị! Phần của người đi đánh giặc cũng như phần của người ở lại giữ đồ đạc đều bằng nhau. Họ sẽ chia đồng đều.” Kể từ hôm ấy, Đa-vít lập quyết định này thành luật trong dân Y-sơ-ra-ên, vẫn còn áp dụng đến ngày nay. Về đến Xiếc-lác, Đa-vít gởi một phần chiến lợi phẩm cho bạn bè mình là các trưởng lão Giu-đa, kèm theo sứ điệp: “Xin gởi đến anh em món quà này trong số chiến lợi phẩm lấy được từ tay kẻ thù của CHÚA.” Đa-vít cũng gởi quà cho các trưởng lão ở Bê-tên, Ra-mốt Ne-ghép, và Giạt-thia, các trưởng lão ở A-rô-e, Síp-mốt, và Et-tơ-mô-a, các trưởng lão ở Ra-canh, ở trong các thành của người Giê-ra-mên, và các thành của người Kê-ni, các trưởng lão ở Họt-ma, Bọt-a-san, A-thạch, các trưởng lão ở Hếp-rôn, và ở tất cả mọi nơi Đa-vít và những người theo chàng thường qua lại. Quân Phi-li-tin giao chiến với quân Y-sơ-ra-ên. Quân Y-sơ-ra-ên thua chạy, bỏ lại những người chết trên núi Ghinh-bô-a. Quân Phi-li-tin bám sát vua Sau-lơ và các con vua. Chúng giết được Giô-na-than, A-bi-na-đáp, và Manh-ki-sua là các con vua Sau-lơ. Thế trận áp đảo vua Sau-lơ dữ dội. Mấy tên bắn cung bắn trúng vua, vua bị trọng thương. Vua Sau-lơ bảo người vác binh khí cho mình: “Hãy rút gươm ngươi ra đâm cho ta chết đi, kẻo bọn không cắt bì kia đến đâm ta chết và sỉ nhục ta.” Nhưng người vác binh khí từ chối vì quá sợ. Vua Sau-lơ liền rút gươm ra, lao mình vào mũi gươm. Người vác binh khí thấy vua Sau-lơ chết rồi, cũng lao mình vào mũi gươm của mình, cùng chết với vua. Thế là vua Sau-lơ, ba người con của vua, người vác binh khí của vua, và tất cả những người của vua đều chết ngày hôm ấy. Khi dân Y-sơ-ra-ên bên kia thung lũng và bên kia sông Giô-đanh thấy quân Y-sơ-ra-ên trốn chạy và vua Sau-lơ và các con vua đều chết, họ cũng bỏ các thành mình trốn đi. Quân Phi-li-tin đến chiếm cứ các thành đó. Ngày hôm sau, quân Phi-li-tin đến lục soát các tử thi, thấy vua Sau-lơ và ba con vua đều ngã chết trên đỉnh núi Ghinh-bô-a. Chúng cắt đầu vua và tước lột khí giới vua, gởi đi khắp xứ Phi-li-tin, loan báo tin mừng trong các miếu thờ thần tượng của họ và trong dân chúng. Chúng đặt khí giới vua trong miếu thờ Ách-ta-rốt, còn xác vua chúng treo trên tường thành Bết-san. Khi dân thành Gia-bết ở Ga-la-át hay được cách quân Phi-li-tin đối xử với vua Sau-lơ, tất cả các dũng sĩ trong thành ra đi suốt đêm, gỡ xác vua Sau-lơ và các con vua khỏi tường thành Bết-san, đem về Gia-bết hỏa táng. Họ lấy cốt chôn dưới gốc cây thánh liễu tại Gia-bết và kiêng ăn bảy ngày. Sau khi vua Sau-lơ chết, Đa-vít cũng vừa đánh thắng quân A-ma-léc xong, trở về Xiếc-lác, ở lại đó hai ngày. Ngày thứ ba, có một người từ trại quân vua Sau-lơ đến, áo quần xé rách, đầu rắc bụi đất, khi đến gần Đa-vít, người ấy sấp mình xuống đất, vái lạy. Đa-vít hỏi: “Anh từ đâu đến?” Anh ta đáp: “Tôi vừa chạy thoát từ trại quân Y-sơ-ra-ên.” Đa-vít hỏi tiếp: “Tình hình thế nào? Anh thuật cho tôi biết.” Anh ta đáp: “Quân Y-sơ-ra-ên thua chạy khỏi chiến trường, nhiều chiến sĩ đã ngã xuống, ngay cả vua Sau-lơ và Giô-na-than, con vua, cũng đã chết.” Đa-vít gạn hỏi thanh niên đưa tin: “Sao anh biết vua Sau-lơ và Giô-na-than, con vua, đã chết?” Thanh niên đưa tin đáp: “Tình cờ tôi ở trên núi Ghinh-bô-a, thấy vua Sau-lơ tựa mình trên cây giáo, còn chiến xa và kỵ binh địch thì bám sát theo vua. Vua quay lại, thấy tôi, và gọi tôi. Tôi thưa: ‘Tâu bệ hạ, có tôi đây.’ Vua hỏi tôi: ‘Ngươi là ai?’Tôi thưa: ‘Tâu bệ hạ, tôi là người A-ma-léc.’ Vua bảo tôi: ‘Hãy đến gần bên ta và kết liễu đời ta, vì ta bị xây xẩm, dù ta hãy còn tỉnh.’ Tôi biết vua không thể nào sống nổi sau khi ngã vì trọng thương nên tôi đến gần bên vua và kết liễu đời vua. Kế đến, tôi gỡ vương miện khỏi đầu vua và vòng đeo tay ra khỏi tay vua, mang đến đây cho chúa tôi.” Đa-vít liền nắm áo mình xé rách ra. Tất cả những người ở với chàng cũng làm y như vậy. Họ đấm ngực than khóc và kiêng ăn cho đến chiều để tỏ lòng thương tiếc vua Sau-lơ, và Giô-na-than, con vua, và đội quân của CHÚA và nhà Y-sơ-ra-ên, vì những người này đã ngã xuống ngoài trận địa. Sau đó, Đa-vít hỏi thanh niên đưa tin: “Anh gốc gác ở đâu?”Anh ta đáp: “Tôi là con một người A-ma-léc định cư trong xứ này.” Đa-vít quát lên: “Sao ngươi không sợ mà dám tra tay giết vị vua được CHÚA xức dầu?” Đa-vít gọi một trong các thuộc hạ và bảo: “Hãy đến, giết nó đi!” Trong khi người này đánh anh ta chết, Đa-vít nói: “Máu ngươi đổ lại trên đầu ngươi, vì chính miệng ngươi làm chứng chống lại ngươi khi ngươi nói: ‘Chính tôi đã kết liễu đời vị vua được CHÚA xức dầu.’” Bấy giờ Đa-vít ngâm bài điếu ca này khóc vua Sau-lơ và hoàng tử Giô-na-than. Đa-vít truyền dạy cho dân Giu-đa bài điếu ca Cây Cung được ghi chép trong sách Người Công Chính: Ôi, Y-sơ-ra-ên, vinh quang ngươi, ngã chết trên đồi!Than ôi, dũng sĩ nay ngã gục! Đừng rao tin này trong thành Gát,Đừng loan tin ra trong các đường phố Ách-ca-lôn,Kẻo các cô gái dân Phi-li-tin vui mừng,Kẻo các cô gái dân không cắt bì hớn hở! Ôi, đồi núi Ghinh-bô-a,Ước gì sương móc không còn sa, mưa cũng chẳng rơi trên các ngươi nữa!Ước gì các ngươi không còn đồng ruộng phì nhiêu nữa!Vì nơi đó, thuẫn khiên các dũng sĩ bị vứt bỏ,Thuẫn khiên vua Sau-lơ không còn ai chùi dầu cho bóng nữa! Cây cung của Giô-na-than không hề rút về,Mà không vấy máu kẻ thương vong;Cây gươm của vua Sau-lơ không hề trở về vô hiệu,Nhưng lúc nào cũng dính mỡ các chiến sĩ. Ôi, vua Sau-lơ và Giô-na-than, thật đáng yêu, đáng quý!Khi sống cũng như lúc chết,Cha con chẳng hề lìa nhau!Họ nhanh hơn chim đại bàng,Dũng mãnh hơn sư tử! Hỡi các cô gái Y-sơ-ra-ên,Hãy thương khóc vua Sau-lơ!Vua đã cho các cô mặc vải điều sang trọng,Cài trang sức vàng trên áo các cô! Than ôi, dũng sĩ nay ngã gục giữa chiến trận!Giô-na-than ngã chết trên đồi! Anh Giô-na-than ơi! Vì anh, lòng tôi đau như cắt!Tôi quý mến anh vô cùng!Tình bạn của anh đối với tôi thật tuyệt vời,Hơn hẳn tình yêu của phụ nữ. Than ôi, dũng sĩ nay ngã gục!Vũ khí chiến tranh nay tan tành! Sau đó Đa-vít cầu hỏi ý CHÚA: “Con có nên đi lên một thành nào trong xứ Giu-đa không?” CHÚA bảo: “Con hãy đi.” Đa-vít hỏi tiếp: “Con nên đi lên thành nào?” Ngài bảo: “Con hãy đi lên Hếp-rôn.” Đa-vít đi lên đó cùng với hai bà vợ, bà A-hi-nô-am người Gít-rê-ên và bà A-bi-ga-in, vợ góa của Na-banh người Cạt-mên. Đa-vít cũng đưa những người theo chàng cùng với gia đình họ lên định cư trong các thành vùng phụ cận Hếp-rôn. Những người thuộc chi tộc Giu-đa đến Hếp-rôn và tại đó, họ xức dầu tấn phong Đa-vít làm vua xứ Giu-đa.Người ta báo tin cho vua Đa-vít: “Chính dân thành Gia-bết ở Ga-la-át đã chôn cất vua Sau-lơ.” Vua Đa-vít sai sứ giả đến chào thăm hữu nghị dân thành Gia-bết ở Ga-la-át: “Cầu xin CHÚA ban phước cho anh em vì anh em đã trung thành với chúa mình là vua Sau-lơ và chôn cất vua. Giờ đây, cầu xin CHÚA đối xử với anh em theo đức thành tín và chân thật của Ngài. Chính ta đây cũng sẽ trọng thưởng anh em vì anh em đã làm việc ấy. Vậy bây giờ, anh em hãy can đảm lên, hãy tỏ ra là người có khí phách, vì chúa của anh em là vua Sau-lơ đã mất, còn ta thì dân Giu-đa đã xức dầu tấn phong ta làm vua.” Trong khi đó, ông Áp-ne, con ông Ne và là tướng chỉ huy quân đội của vua Sau-lơ, đưa ông Ích-bô-sết con vua Sau-lơ, trốn sang Ma-ha-na-im. Tại đó, ông Áp-ne tôn ông Ích-bô-sết làm vua địa phận Ga-la-át, dân A-se, địa phận Gít-rê-ên, Ép-ra-im, Bên-gia-min, và toàn xứ Y-sơ-ra-ên. Ông Ích-bô-sết, con vua Sau-lơ, được bốn mươi tuổi khi lên ngôi, và trị vì Y-sơ-ra-ên trong hai năm. Chỉ có dân Giu-đa theo vua Đa-vít. Thời gian vua Đa-vít đóng đô ở Hếp-rôn và cai trị dân Giu-đa là bảy năm sáu tháng. Một lần kia, tướng Áp-ne, con ông Ne, cùng với một đơn vị cận vệ của vua Ích-bô-sết, con vua Sau-lơ, ra đi từ Ma-ha-na-im, tiến về hướng Ghíp-ôn. Ông Giô-áp, con bà Xê-ru-gia, cũng ra đi với một đơn vị cận vệ của vua Đa-vít. Hai phe gặp nhau tại hồ Ghíp-ôn, mỗi phe đóng một bên hồ. Ông Áp-ne đề nghị với ông Giô-áp: “Ta cho các thanh niên ra đấu sức đọ tài đi!”Ông Giô-áp đồng ý: “Được, hãy để họ đấu sức.” Các thanh niên lần lượt tiến ra, mười hai người Bên-gia-min, thuộc phe vua Ích-bô-sết, con vua Sau-lơ, và mười hai người thuộc phe vua Đa-vít. Mỗi người túm lấy đầu đối thủ và đâm gươm mình vào hông đối thủ, cho nên cả hai phe đều cùng nhau ngã gục. Người ta gọi nơi đó là Cánh đồng Đá Tảng Cánh đồng này ở Ghíp-ôn. Tiếp theo đó, một cuộc giao tranh khốc liệt diễn ra ngay hôm ấy. Ông Áp-ne và quân Y-sơ-ra-ên bị quân của vua Đa-vít đánh bại. Ba người con của bà Xê-ru-gia cũng có mặt hôm ấy: ông Giô-áp, ông A-bi-sai, và ông A-xa-ên. Ông A-xa-ên chạy nhanh như dê rừng, nên ông chạy thẳng đuổi theo ông Áp-ne, không quay qua bên phải hoặc bên trái. Ông Áp-ne ngoái cổ lại hỏi: “Có phải A-xa-ên đó không?”Ông này đáp: “Phải.” Ông Áp-ne bảo: “Cậu hãy đuổi theo ai khác bên phải hoặc bên trái. Hãy bắt một tên lính, lột áo nó đi!” Nhưng ông A-xa-ên không chịu ngưng đuổi theo ông Áp-ne. Ông Áp-ne lại khuyên nài: “Đừng đuổi theo tôi nữa! Sao cậu lại bắt tôi phải giết cậu? Làm thể nào tôi còn nhìn mặt anh cậu là Giô-áp được?” Nhưng ông A-xa-ên không chịu quay sang phía khác nên ông Áp-ne đành phải quay mũi giáo ngược về phía sau, đâm ngay vào bụng ông A-xa-ên, xuyên thấu lưng. Ông A-xa-ên ngã xuống, chết ngay tại chỗ. Mọi người chạy đến nơi ông A-xa-ên ngã xuống chết đều dừng lại. Nhưng ông Giô-áp và ông A-bi-sai tiếp tục đuổi theo ông Áp-ne. Mặt trời vừa lặn khi họ đến đồi Am-ma, phía đông Ghi-ách trên đường vào sa mạc Ghíp-ôn. Binh sĩ thuộc chi tộc Bên-gia-min tập hợp thành một đội ngũ chặt chẽ chung quanh ông Áp-ne và dừng lại trên đỉnh một ngọn đồi. Ông Áp-ne gọi vọng sang ông Giô-áp: “Lẽ nào chúng ta để cho gươm đao chém giết mãi sao? Ông biết rõ việc này sẽ kết thúc bi thảm dường nào! Đến bao giờ ông mới ra lệnh cho binh sĩ ngưng đuổi theo anh em mình nữa?” Ông Giô-áp đáp: “Có Đức Chúa Trời Hằng sống chứng cho tôi, nếu ông không lên tiếng, tôi quyết chắc phải đến sáng mai binh sĩ mới ngưng đuổi theo quân của ông!” Đoạn ông cho thổi tù và. Toàn quân dừng lại. Họ không đuổi theo quân Y-sơ-ra-ên nữa, và cuộc giao tranh chấm dứt. Suốt đêm ấy, ông Áp-ne và binh sĩ của ông đi xuyên qua vùng A-ra-ba, vượt qua sông Giô-đanh, tiếp tục đi suốt buổi sáng hôm sau mới về tới Ma-ha-na-im. Sau khi ngưng đuổi theo ông Áp-ne, ông Giô-áp tập hợp toàn quân lại kiểm điểm, thì thấy bên phe vua Đa-vít thiếu mười chín người cộng với ông A-xa-ên. Ngược lại, binh sĩ của vua Đa-vít giết được ba trăm sáu mươi người Bên-gia-min là binh sĩ của ông Áp-ne. Họ đem xác ông A-xa-ên về Bết-lê-hem, chôn cất trong mộ của cha ông. Đoạn ông Giô-áp và binh sĩ của ông đi suốt đêm, và về đến Hếp-rôn khi trời hừng sáng. Giao tranh kéo dài giữa phe vua Sau-lơ và phe vua Đa-vít. Trong khi vua Đa-vít ngày càng vững mạnh, thì dòng dõi vua Sau-lơ ngày càng suy yếu. Tại Hếp-rôn, các bà vợ vua Đa-vít sanh được con trai cho vua.Con trưởng là Am-nôn, do bà A-hi-nô-am, người Gít-rê-ên, sanh ra. Con thứ hai là Ki-lê-áp, do bà A-bi-ga-in, vợ góa ông Na-banh, người Cạt-mên, sanh ra.Con thứ ba là Áp-sa-lôm, do bà Ma-a-ca, ái nữ vua Tan-mai, xứ Gơ-sua, sanh ra. Con thứ tư là A-đô-ni-gia, do bà Ha-ghít sanh ra;con thứ năm là Sơ-phát-gia, do bà A-bi-tanh sanh ra. Con thứ sáu là Gít-rơ-am, do bà vợ vua Đa-vít tên là Éc-la.Đó là những người con trai do các bà vợ vua Đa-vít sanh cho vua tại Hếp-rôn. Trong khi chiến tranh tiếp diễn giữa triều vua Sau-lơ và triều vua Đa-vít, ông Áp-ne củng cố địa vị của mình giữa những người ủng hộ nhà Sau-lơ. Vua Sau-lơ trước kia có một nàng hầu tên là Rít-ba, con ông A-gia. Vua Ích-bô-sết, con vua Sau-lơ, trách ông Áp-ne: “Tại sao ông đi lại với nàng hầu của cha tôi?” Ông Áp-ne nghe vua Ích-bô-sết trách, giận lắm, nói: “Tôi là đầu chó của Giu-đa sao? Tôi vẫn trung thành với triều vua Sau-lơ, cha của vua, với anh em và bạn bè của vua Sau-lơ cho đến ngày nay. Tôi đã không nộp vua vào tay vua Đa-vít, thế mà bây giờ vua trách tôi về tội dính dáng đến một người đàn bà! Nguyện Đức Chúa Trời phạt Áp-ne cách nặng nề nếu tôi không làm cho vua Đa-vít theo như điều CHÚA hứa với người! Ngài đã hứa chuyển vương quyền từ nhà Sau-lơ sang nhà Đa-vít, và lập Đa-vít làm vua cai trị cả Y-sơ-ra-ên và Giu-đa, từ Đan đến Bê-e-sê-ba!” Vua Ích-bô-sết không dám đáp lại ông Áp-ne một lời nào vì vua sợ ông. Ông Áp-ne tức khắc sai sứ đến yết kiến vua Đa-vít, tâu: “Đất nước này thuộc về ai? Xin vua lập giao ước với tôi, tôi sẽ giúp đem toàn dân Y-sơ-ra-ên quay về với vua.” Vua Đa-vít đáp: “Được, ta sẽ lập giao ước với ông. Ta chỉ xin ông một điều: ông sẽ không được vào chầu ta nếu ông không dẫn theo bà Mi-canh, ái nữ vua Sau-lơ, khi ông đến xin yết kiến ta.” Vua Đa-vít cũng sai sứ đến yết kiến vua Ích-bô-sết, con vua Sau-lơ, tâu: “Xin vua trả Mi-canh, vợ tôi, lại cho tôi. Tôi đã cưới nàng với sính lễ một trăm bao quy đầu của người Phi-li-tin.” Vua Ích-bô-sết sai người đến nhà chồng bà là Phan-ti-ên, con ông La-ít, đem bà về. Chồng bà tiễn bà đi; ông vừa đi vừa khóc theo sau bà đến tận Ba-hu-rim. Bấy giờ ông Áp-ne bảo: “Ông trở về đi.” Ông đành quay về. Ông Áp-ne đã bàn trước với các trưởng lão Y-sơ-ra-ên: “Lâu nay, anh em vẫn ao ước được ông Đa-vít làm vua. Bây giờ là lúc anh em phải hành động. Vì CHÚA có phán về ông Đa-vít như thế này: ‘Ta sẽ dùng đầy tớ Ta là Đa-vít giải cứu dân Y-sơ-ra-ên Ta ra khỏi tay quân Phi-li-tin và khỏi tay mọi kẻ thù khác.’” Ông Áp-ne cũng bàn như vậy với người Bên-gia-min. Đoạn ông đi Hếp-rôn trình lên vua Đa-vít tất cả những nguyện vọng của dân Y-sơ-ra-ên và toàn thể chi tộc Bên-gia-min. Khi ông Áp-ne đến Hếp-rôn yết kiến vua Đa-vít, ông dẫn theo hai mươi người. Vua Đa-vít mở tiệc khoản đãi ông Áp-ne và những người đi theo ông. Mãn tiệc, ông Áp-ne tâu với vua Đa-vít: “Tôi sẽ đi tập hợp toàn dân Y-sơ-ra-ên về với bệ hạ. Họ sẽ lập giao ước với bệ hạ, rồi bệ hạ sẽ cai trị toàn quốc, như bệ hạ hằng mong ước.” Vua Đa-vít cho ông Áp-ne về, và ông ra đi bình an. Ngay khi ấy, ông Giô-áp và binh sĩ của vua Đa-vít trở về sau một trận đột kích, mang theo nhiều chiến lợi phẩm. Lúc bấy giờ ông Áp-ne không có mặt tại Hếp-rôn với vua Đa-vít, vì vua đã cho ông về, và ông đã ra đi bình an. Khi ông Giô-áp và toàn quân về đến nơi, ông Giô-áp hay tin ông Áp-ne, con ông Ne, có đến yết kiến vua, và vua đã cho ông về, và ông đã ra đi bình an. Ông Giô-áp liền vào chầu vua, tâu: “Bệ hạ làm gì vậy? Áp-ne đến gặp bệ hạ, sao bệ hạ lại để cho nó ra về? Và nó đã đi rồi! Hẳn bệ hạ thừa biết Áp-ne, con ông Ne? Nó đến chỉ để gạt bệ hạ, để dò biết đường đi nước bước của bệ hạ, để tìm hiểu mọi việc bệ hạ làm.” Chầu vua Đa-vít xong, ông Giô-áp lui ra, và tức khắc sai sứ đuổi theo cho kịp ông Áp-ne. Tới bể nước Xi-ra, họ mời ông quay về. Vua Đa-vít chẳng hay biết gì cả. Khi ông Áp-ne về đến Hếp-rôn, ông Giô-áp dẫn ông đi tách ra một bên cổng thành như để nói chuyện riêng. Tại đó, ông Giô-áp đâm kiếm ngay vào bụng ông Áp-ne, giết ông chết để đền nợ máu cho ông A-xa-ên, em mình. Sau khi nghe biết sự việc, vua Đa-vít tuyên bố: “CHÚA biết ta và ngôi nước ta hoàn toàn vô tội trong vụ đổ máu của ông Áp-ne, con ông Ne. Ước gì máu đó đổ lại trên đầu ông Giô-áp và trên cả nhà cha ông! Ước gì dòng họ Giô-áp không hề thiếu người bị bệnh hoa liễu, hoặc bệnh phong hủi, hoặc đàn ông mà chỉ biết làm công việc của đàn bà. hoặc người chết vì gươm đao, hoặc người đói khổ thiếu ăn.” Như vậy, ông Giô-áp và anh là ông A-bi-sai đã giết chết ông Áp-ne, vì ông này đã giết chết em của họ là ông A-xa-ên trong trận Ghíp-ôn. Vua Đa-vít truyền cho ông Giô-áp và toàn quân có mặt ở đó: “Anh em hãy xé rách áo mình, quấn bao vải thô, đấm ngực than khóc đi trước cỗ đòn ông Áp-ne.” Chính vua Đa-vít cũng đi theo sau cỗ đòn đám ma. Khi chôn cất ông Áp-ne tại Hếp-rôn, vua òa lên khóc bên mộ ông Áp-ne; toàn quân đều khóc theo. Vua ngâm điếu văn khóc ông Áp-ne:“Sao Áp-ne phải chết như một kẻ điên rồ?Tay không bị trói,Chân không bị xiềng, Nhưng ông đã ngã xuống,Như người ta ngã vì bị kẻ gian ám hại!”Toàn quân tiếp tục khóc. Sau đó, toàn quân đến nài xin vua Đa-vít ăn chút gì khi còn ban ngày, nhưng vua thề: “Nguyện Đức Chúa Trời phạt ta nặng nề nếu ta nếm chút bánh hay bất cứ món gì trước khi mặt trời lặn!” Toàn quân ghi nhận điều ấy và tán thành, như toàn quân vẫn tán thành mọi điều vua làm. Ngày hôm ấy, toàn quân và toàn dân Y-sơ-ra-ên biết rằng vua không có ra lệnh ám sát tướng Áp-ne, con ông Ne. Vua nói với triều thần: “Hẳn anh em biết rằng hôm nay, một vị tướng, một vĩ nhân trong Y-sơ-ra-ên đã ngã xuống. Dù ta đây được xức dầu làm vua, ta cảm thấy yếu mềm so với những người này là con bà Xê-ru-gia; họ quá bạo tàn! Nguyện CHÚA báo trả kẻ ác xứng hiệp với lòng dạ gian ác của nó!” Nghe tin ông Áp-ne chết tại Hếp-rôn, vua Ích-bô-sết, con trai vua Sau-lơ, rủn chí sờn lòng, và toàn dân Y-sơ-ra-ên đều kinh hãi. Vua Ích-bô-sết, con trai vua Sau-lơ, có hai sĩ quan cầm đầu đội quân du kích. Một người tên là Ba-a-na, và người kia là Rê-cáp. Cả hai đều là con ông Rim-môn, người Bê-ê-rốt, thuộc chi tộc Bên-gia-min, vì thành Bê-ê-rốt được kể là một thành trong địa phận Bên-gia-min. Dân thành Bê-ê-rốt đã trốn đến thành Ghít-ta-dim và định cư ở đó cho đến ngày nay. Ông Giô-na-than, con vua Sau-lơ, có để lại một người con trai bại hai chân, tên là Mơ-phi-bô-sết. Cậu bé được năm tuổi khi có người từ thành Gít-rê-ên về báo tin vua Sau-lơ và ông Giô-na-than tử trận. Chị vú nuôi ẵm cậu chạy trốn. Trong khi hấp tấp chạy trốn, chị đánh rơi cậu, cho nên cậu bị què. Rê-cáp và Ba-a-na, hai người con của ông Rim-môn người Bê-ê-rốt, lên đường và đến nhà vua Ích-bô-sết vào lúc nóng nực nhất trong ngày. Vua đang nằm ngủ trưa. Bà gác cổng đang nhặt sạn cho sạch lúa. Bà ngủ gà ngủ gật rồi ngủ luôn. Rê-cáp và anh là Ba-a-na lẻn vào bên trong nhà. Vua đang nằm ngủ trên giường, trong phòng ngủ. Chúng đâm vua chết, rồi chặt đầu vua. Chúng mang đầu vua đi suốt đêm xuyên qua vùng đồng bằng A-ra-ba. Chúng mang đầu vua Ích-bô-sết đến chầu vua Đa-vít tại Hếp-rôn và tâu: “Đây là đầu của Ích-bô-sết, con vua Sau-lơ, là kẻ thù của bệ hạ, là người tìm hại mạng sống bệ hạ. Ngày hôm nay, CHÚA đã báo thù vua Sau-lơ và dòng dõi vua cho bệ hạ.” Nhưng vua Đa-vít đáp lại Rê-cáp và anh là Ba-a-na, hai con trai của ông Rim-môn, người Bê-ê-rốt: “Có CHÚA hằng sống, là Đấng giải cứu ta khỏi mọi cảnh nguy khốn, làm chứng cho ta. Người báo cho ta biết tin vua Sau-lơ chết, tưởng rằng mình báo tin mừng, nhưng ta đã truyền bắt và xử tử nó tại Xiếc-lác! Đó là cách ta thưởng nó về tin mừng của nó. Huống chi bọn gian ác giết một người vô tội đang ngủ trên giường, ngay trong nhà mình! Ta sẽ đòi máu người đó nơi tay các ngươi, và ta sẽ diệt các ngươi khỏi mặt đất!” Vua Đa-vít truyền lệnh, quân lính liền giết chúng, chặt cả tay chân và treo chúng lên cạnh hồ nước tại Hếp-rôn. Nhưng đầu vua Ích-bô-sết thì quân lính đem chôn trong mộ của ông Áp-ne tại Hếp-rôn. Tất cả các chi tộc Y-sơ-ra-ên đến Hếp-rôn chầu vua Đa-vít và tâu: “Chúng tôi đây là cốt nhục của bệ hạ. Trước kia, ngay dưới triều vua Sau-lơ, chính bệ hạ đã cầm đầu quân Y-sơ-ra-ên đi chinh chiến. CHÚA cũng đã phán với bệ hạ: ‘Chính con sẽ chăn dắt dân Y-sơ-ra-ên Ta, chính con sẽ lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên.’” Tất cả các trưởng lão Y-sơ-ra-ên đến Hếp-rôn chầu vua. Vua Đa-vít lập giao ước với họ tại Hếp-rôn, trước mặt CHÚA. Rồi họ xức dầu tấn phong Đa-vít làm vua Y-sơ-ra-ên. Vua Đa-vít được ba mươi tuổi khi lên ngôi, và vua trị vì bốn mươi năm. Tại Hếp-rôn, vua cai trị dân Giu-đa bảy năm sáu tháng, và tại Giê-ru-sa-lem, vua cai trị toàn thể dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa ba mươi ba năm. Vua tiến quân lên tấn công thành Giê-ru-sa-lem. Người Giê-bút là dân địa phương nói với vua Đa-vít: “Ông không vào đây được. Ngay cả người mù và người què cũng đủ sức đẩy lui ông.” Ý họ muốn nói là: “Đa-vít không bao giờ vào đây được.” Tuy nhiên, vua Đa-vít chiếm đóng đồn Si-ôn, nay gọi là Thành Đa-vít. Lúc ấy, vua Đa-vít nói: “Người nào đánh dân Giê-bút phải chui qua cống dẫn nước ngầm, đánh người què và người mù, là những người thù ghét Đa-vít. Vì thế có câu: ‘Người mù và người què không được vào đền thờ.’” Vua Đa-vít ngự trong đồn và đặt tên đồn là Thành Đa-vít. Vua Đa-vít xây dựng vùng chung quanh đó, từ gò Mi-lô trở vào trong. Vua Đa-vít ngày càng vững mạnh vì CHÚA là Đức Chúa Trời Vạn Quân ở với vua. Vua Hi-ram thành Ty-rơ sai sứ giả đến thăm hữu nghị vua Đa-vít, mang theo gỗ bá hương, thợ mộc, thợ đẽo đá; và họ xây dinh thự cho vua Đa-vít. Bấy giờ vua Đa-vít nhận thức rõ rằng CHÚA đã lập vua lên cai trị dân Y-sơ-ra-ên và khiến cho ngôi nước vua được tôn trọng là vì lợi ích của dân Ngài là dân Y-sơ-ra-ên. Sau khi dời từ Hếp-rôn về Giê-ru-sa-lem, vua Đa-vít cưới thêm vợ và nàng hầu; những bà này sanh thêm con trai con gái cho vua Đa-vít. Đây là tên những người con sanh tại Giê-ru-sa-lem: Sa-mua, Sô-báp, Na-than, Sa-lô-môn, Díp-ha, Ê-li-sua, Nê-phết, Gia-phia, Ê-li-sa-ma, Ên-gia-đa, và Ê-li-phê-lết. Khi người Phi-li-tin nghe tin vua Đa-vít được xức dầu làm vua dân Y-sơ-ra-ên, toàn quân Phi-li-tin kéo lên tìm bắt vua Đa-vít. Vua Đa-vít nghe tin liền đi xuống ẩn trong đồn. Quân Phi-li-tin kéo đến và bủa ra trong thung lũng Rê-pha-im. Vua Đa-vít cầu hỏi ý CHÚA: “Con có nên đi lên đánh quân Phi-li-tin không? CHÚA có giao chúng vào tay con không?”CHÚA đáp: “Con hãy đi. Chắc chắn Ta sẽ giao quân Phi-li-tin vào tay con.” Vua Đa-vít đến Ba-anh Phê-ra-xim, đánh bại chúng tại đó. Vua Đa-vít nói: “CHÚA phá vỡ hàng ngũ quân thù trước mặt tôi như nước lũ vỡ bờ.” Vì thế vua đặt tên nơi đó là Ba-anh Phê-ra-xim. Vua Đa-vít và binh sĩ đem về các thần tượng quân Phi-li-tin bỏ lại đó trong khi chạy trốn. Quân Phi-li-tin lại kéo đến và bủa ra trong thung lũng Rê-pha-im một lần nữa. Vua Đa-vít lại cầu hỏi ý CHÚA. Ngài bảo: “Con không nên đi thẳng lên, nhưng hãy đi vòng phía sau chúng và đánh bọc hậu đối ngang lùm cây dương. Ngay khi con nghe tiếng chân bước trên ngọn cây dương, con hãy tấn công ngay, vì lúc bấy giờ CHÚA ra trận đánh quân Phi-li-tin trước con.” Vua Đa-vít làm theo y như lệnh CHÚA truyền. Nhờ vậy, vua đánh đuổi được quân Phi-li-tin từ Ghê-ba đến tận Ghê-xe. Vua Đa-vít lại tập hợp toàn quân tinh nhuệ trong Y-sơ-ra-ên, số là ba mươi ngàn người. Vua dẫn toàn quân đến thành Ba-a-la trong xứ Giu-đa để thỉnh rương giao ước của Đức Chúa Trời về. Rương giao ước mang danh của CHÚA Vạn Quân. Ngài đặt ngôi của Ngài trên các thần hộ giá, trên nắp rương. Họ đặt rương giao ước của Đức Chúa Trời lên một cỗ xe mới, đem ra khỏi nhà ông A-bi-na-đáp ở trên đồi. Ông U-xa và ông A-hi-giô, hai người con của ông A-bi-na-đáp, dẫn chiếc xe mới đi. Họ dẫn xe ra khỏi nhà ông A-bi-na-đáp ở trên đồi, trên xe có rương giao ước của Đức Chúa Trời, ông U-xa đi bên cạnh rương và ông A-hi-giô đi trước rương. Vua Đa-vít và toàn dân Y-sơ-ra-ên vui mừng nhảy múa trước mặt CHÚA, theo tiếng đàn của đủ loại nhạc cụ bằng gỗ tùng như đàn hạc và đàn lia, có đệm theo tiếng trống con, chũm chọe, thanh la. Khi đến sân đạp lúa của Na-côn, bò vấp chân, nên ông U-xa giơ tay ra đỡ rương giao ước của Đức Chúa Trời. CHÚA nổi giận với ông U-xa. Đức Chúa Trời đánh phạt ông ngay tại chỗ vì cử chỉ sơ ý đó. Ông chết ngay đó, cạnh bên rương giao ước của Đức Chúa Trời. Vua Đa-vít buồn bực vì CHÚA đã đánh chết ông U-xa, khiến cho dòng dõi ông bị đứt đoạn; vua gọi nơi đó là Pê-rết U-xa tên này vẫn còn cho đến nay. Ngày hôm ấy, vua Đa-vít sợ CHÚA và tự nhủ: “Làm sao tôi dám đem rương giao ước của CHÚA về với tôi được?” Vua Đa-vít không muốn đem rương giao ước của CHÚA về thành Đa-vít với mình nên chuyển hướng, đưa rương về nhà ông Ô-bết Ê-đôm, quê ở thành Gát. Rương giao ước của CHÚA ở ba tháng trong nhà của ông Ô-bết Ê-đôm, người thành Gát. CHÚA ban phước cho ông Ô-bết Ê-đôm và cả gia đình ông. Có người báo tin cho vua Đa-vít: “Vì rương giao ước của Đức Chúa Trời, CHÚA có ban phước cho gia đình ông Ô-bết Ê-đôm và mọi tài sản của ông.” Vua liền đi thỉnh rương giao ước của Đức Chúa Trời từ nhà ông Ô-bết Ê-đôm lên thành Đa-vít với lễ tiệc liên hoan. Khi những người khiêng rương giao ước của CHÚA đi được sáu bước, vua dâng một con bò đực béo tốt làm sinh tế. Để tôn vinh CHÚA, vua Đa-vít quấn chiếc ê-phót bằng vải lanh ngang hông, ra sức nhảy múa quay cuồng, trong khi vua và toàn dân Y-sơ-ra-ên thỉnh rương giao ước của CHÚA về giữa tiếng reo mừng với tiếng tù và. Khi rương giao ước của CHÚA vào thành Đa-vít, bà Mi-canh, ái nữ vua Sau-lơ, nhìn qua cửa sổ, thấy vua Đa-vít nhảy múa quay cuồng trước mặt CHÚA. Bà đem lòng khinh dể vua. Người ta đem rương giao ước của CHÚA đặt vào chỗ dành riêng cho rương trong lều vua Đa-vít dựng sẵn, rồi vua Đa-vít dâng lên CHÚA sinh tế toàn thiêu và sinh tế liên hoan. Khi vua Đa-vít dâng các sinh tế toàn thiêu và sinh tế liên hoan xong, vua nhân danh CHÚA Vạn Quân chúc phước cho dân. Rồi vua phân phát cho toàn dân, cho toàn thể đám đông người Y-sơ-ra-ên, cả nam lẫn nữ, mỗi người một ổ bánh mì, một miếng thịt nướng và một cái bánh nho khô. Sau đó, mọi người ai nấy về nhà mình. Vua Đa-vít cũng về nhà chúc phước cho gia đình mình. Bà Mi-canh, ái nữ vua Sau-lơ, ra đón vua Đa-vít. Bà nói: “Hôm nay vua Y-sơ-ra-ên thật đã tự làm cho mình nên tôn trọng khi vua nhảy múa để lộ thân hình mình ra trước mặt bọn nữ tỳ của triều thần y như một người chẳng ra gì!” Vua Đa-vít đáp: “Ta nhảy múa để tôn vinh CHÚA, là Đấng đã chọn ta thay vì thân phụ nàng và cả gia đình thân phụ nàng. Ngài lập ta lên chỉ huy dân Y-sơ-ra-ên của CHÚA. Vì thế ta vui mừng nhảy múa để tôn vinh CHÚA. Và ta sẽ làm cho mình nên khinh hèn hơn nữa, ta sẽ tự hạ mình xuống thấp hơn nữa. Còn bọn nữ tỳ nàng vừa nhắc đến, chính họ sẽ tôn trọng ta.” Vì vậy, bà Mi-canh, ái nữ vua Sau-lơ, không có con cho đến ngày qua đời. Sau khi vua ngự về cung, và CHÚA cho vua được an ninh mọi bề, không còn quân thù quấy nhiễu, vua nói với tiên tri Na-than: “Này, ta sống trong cung xây bằng gỗ bá hương, còn rương giao ước của Đức Chúa Trời lại ngự giữa các bức màn!” Ông Na-than tâu với vua: “Xin bệ hạ cứ thực hiện mọi điều bệ hạ suy tính trong lòng, vì CHÚA ở với bệ hạ.” Nhưng ngay đêm ấy, CHÚA bảo ông Na-than: “Con hãy đi nói với tôi tớ Ta là Đa-vít: ‘CHÚA phán như vầy: Con định xây đền thờ cho Ta ngự sao? Từ ngày Ta đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập cho đến nay, Ta chưa hề ngự trong một đền thờ nào cả, nhưng Ta chỉ ngự trong lều hoặc đền tạm khi Ta đi đây đó. Bất cứ nơi nào Ta đi với toàn dân Y-sơ-ra-ên, có bao giờ Ta trách các vị lãnh đạo mà Ta đã lập lên chăn dắt dân Y-sơ-ra-ên Ta: Sao các ngươi không xây cho Ta một đền thờ bằng gỗ bá hương?’ Vậy bây giờ, con hãy bảo tôi tớ Ta là Đa-vít: ‘CHÚA Vạn Quân phán như vầy: Chính Ta đã đem con ra từ đồng cỏ, nơi con chăn chiên, và lập con lên cai trị dân Y-sơ-ra-ên Ta. Ta đã từng ở với con mọi nơi con đi, và Ta đã diệt trừ mọi kẻ thù con cho khuất mắt con. Hơn nữa, Ta sẽ ban cho con danh tiếng lẫy lừng như danh các bậc vĩ nhân trên đất. Ta sẽ ban cho dân Y-sơ-ra-ên Ta một chỗ ở, Ta sẽ cho chúng đâm rễ tại đó, để chúng sống vững vàng, không còn run sợ nữa, và bọn gian ác không còn áp bức chúng nữa như trước kia, khi Ta lập các thẩm phán cai trị dân Y-sơ-ra-ên Ta. Và Ta sẽ cho con được an ninh, không còn quân thù quấy nhiễu nữa.Và CHÚA báo cho con biết rằng chính CHÚA sẽ dựng nhà cho con. Khi ngày đời con đã mãn, và con nằm xuống với tổ tiên, Ta sẽ lập một người từ dòng dõi con, do chính con sanh ra, lên nối ngôi con, và Ta sẽ làm cho ngôi nước nó vững bền. Chính nó sẽ xây đền thờ cho danh Ta ngự, và Ta sẽ lập ngôi nước nó vững bền mãi mãi. Ta sẽ làm cha nó, và nó sẽ làm con Ta. Khi nó phạm lỗi, Ta sẽ sửa phạt nó như cha mẹ dùng roi đòn răn dạy con. Nhưng tình thương của Ta sẽ không rời khỏi nó như đã rời khỏi Sau-lơ mà Ta đã dẹp bỏ để con được lên ngôi. Nhà con sẽ không thiếu người nối dõi, Ta sẽ cho vương quốc con tồn tại mãi mãi, và Ta sẽ lập ngôi nước con vững bền đời đời.’” Tiên tri Na-than lặp lại cho vua Đa-vít nghe mọi điều đúng như lời Chúa phán trong khải tượng. Bấy giờ vua Đa-vít đi vào lều, chầu trước mặt CHÚA, và thưa: “Kính lạy CHÚA là Chúa của con, con là ai, và gia đình con là gì, mà Ngài đã đưa con tới địa vị này? Ôi, lạy CHÚA là Chúa của con, dù vậy, Ngài vẫn cho đó là chuyện nhỏ mọn, và Ngài còn phán dạy con là tôi tớ Ngài về triều đại của con trong tương lai, và ôi, lạy CHÚA là Chúa của con, Ngài còn cho con nhìn thấy trước các thế hệ sắp đến. Đa-vít còn biết thưa gì với Ngài nữa? Ôi, lạy CHÚA là Chúa của con, Ngài biết tôi tớ của Ngài. Vì lời hứa của Ngài, và tùy theo ý muốn Ngài, Ngài đã thực hiện tất cả những việc lớn lao này và bày tỏ cho tôi tớ Ngài. Lạy CHÚA là Chúa của con, Ngài thật cao cả vĩ đại, vì không ai có thể sánh với Ngài, và ngoài Ngài ra, không có Đức Chúa Trời nào khác, theo như mọi điều chính tai chúng con đã nghe! Có ai giống như dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, một dân tộc duy nhất trên đất được Đức Chúa Trời giải cứu để làm thành dân riêng của Ngài? Danh Ngài được tôn trọng khi Ngài thực hiện những việc lớn lao đáng sợ cho dân Ngài và đất của Ngài, khi Ngài đuổi những dân tộc khác và thần của họ ra khỏi đất trước mặt dân của Ngài mà Ngài đã vì chính mình Ngài giải cứu ra khỏi Ai-cập. Ngài đã lập vững dân Y-sơ-ra-ên của Ngài thành dân riêng của Ngài cho đến đời đời, và lạy CHÚA, Ngài đã trở thành Đức Chúa Trời của họ. Kính lạy CHÚA là Đức Chúa Trời, giờ đây con kính xin Ngài mãi mãi thực hiện lời Ngài đã hứa về tôi tớ Ngài và triều đại của tôi tớ Ngài. Xin Ngài làm theo như lời Ngài đã hứa. Nguyền xin danh Ngài được muôn đời ca ngợi: ‘CHÚA Vạn Quân là Đức Chúa Trời cai trị dân Y-sơ-ra-ên!’ Cầu xin Ngài lập cho vững triều đại của tôi tớ Ngài là Đa-vít! Kính lạy CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên, vì chính Ngài đã tỏ cho tôi tớ Ngài biết rằng Ngài sẽ dựng cho con một triều đại, nên tôi tớ Ngài mới thu hết can đảm dâng lên Ngài lời cầu xin này. Kính lạy CHÚA là Chúa của con, chính Ngài là Đức Chúa Trời. Lời Ngài phán chắc chắn sẽ thành tựu, và Ngài đã hứa ban cho tôi tớ Ngài phước lành này. Giờ đây, con kính xin Ngài vui lòng ban phước cho dòng dõi của tôi tớ Ngài, để chúng còn mãi trước mặt Ngài, vì chính Ngài, ôi CHÚA là Chúa của con, đã hứa như vậy. Cầu xin Ngài mãi mãi ban phước cho triều đại của tôi tớ Ngài!” Sau đó, vua Đa-vít đánh bại người Phi-li-tin, bắt chúng phải phục tùng, và đoạt quyền bá chủ các đô thị phụ thuộc khỏi tay chúng. Vua cũng đánh bại người Mô-áp, và dùng dây đo chúng. Vua bắt chúng nằm rạp xuống đất, rồi cứ đo hai dây thì giết, và đủ trọn một dây thì tha cho sống. Vậy dân Mô-áp trở thành chư hầu và triều cống vua Đa-vít. Vua Đa-vít đánh bại vua Ha-đa-rê-xe, con vua Rê-hốp, nước Xô-ba; khi vua này đang trên đường đến vùng sông Ơ-phơ-rát để trùng tu đài kỷ niệm của mình. Vua Đa-vít bắt làm tù binh một ngàn bảy trăm kỵ binh và hai mươi ngàn bộ binh của vua Xô-ba. Vua Đa-vít cũng cho cắt gân đầu gối của tất cả những con ngựa kéo xe, chỉ để lại đủ số ngựa kéo một trăm cỗ xe thôi. Khi quân Sy-ri ở Đa-mách kéo đến tiếp viện vua Ha-đa-rê-xe nước Xô-ba, vua Đa-vít đánh bại chúng, giết được hai mươi hai ngàn quân. Vua Đa-vít đặt quan trấn thủ cai trị dân Sy-ri ở Đa-mách. Vậy dân Sy-ri trở thành chư hầu và triều cống vua Đa-vít. CHÚA cho vua Đa-vít đánh đâu thắng đó. Vua Đa-vít tịch thu những cái khiên bằng vàng của các sĩ quan hầu cận vua Ha-đa-rê-xe và đem về thành Giê-ru-sa-lem. Vua Đa-vít cũng thu được rất nhiều đồng từ thành Bê-tác và thành Bê-rô-thai của vua Ha-đa-rê-xe. Vua Tô-i thành Ha-mát nghe tin vua Đa-vít đánh bại toàn quân của vua Ha-đa-rê-xe. Vua Tô-i liền sai hoàng tử Giô-ram đến thăm hữu nghị và chúc mừng vua Đa-vít đã chiến thắng vua Ha-đa-rê-xe. Thật ra, chính vua Tô-i cũng đã từng giao chiến với vua Ha-đa-rê-xe. Hoàng tử Giô-ram đem biếu vua Đa-vít những tặng phẩm bằng bạc, vàng, và đồng. Vua Đa-vít biệt riêng những tặng phẩm ấy dâng lên CHÚA, cũng như vua đã biệt riêng và dâng lên CHÚA bạc, vàng thu được từ tất cả những dân tộc bị vua chinh phục: Ê-đôm Mô-áp, Am-môn, Phi-li-tin, A-ma-léc, và từ chiến lợi phẩm vua đoạt được của vua Ha-đa-rê-xe, con vua Rê-hốp, nước Xô-ba. Danh tiếng vua Đa-vít vang lừng. Sau khi chiến thắng quân Sy-ri trở về, vua đánh bại mười tám ngàn quân Ê-đôm tại Thung lũng Muối. Vua đặt quan trấn thủ cai trị toàn xứ Ê-đôm. Toàn dân Ê-đôm trở thành chư hầu của vua Đa-vít. CHÚA cho vua Đa-vít đánh đâu thắng đó. Vua Đa-vít cai trị toàn nước Y-sơ-ra-ên, thi hành luật lệ cách công minh cho toàn dân. Ông Giô-áp, con bà Xê-ru-gia, chỉ huy quân đội. Ông Giô-sa-phát, con ông A-hi-lút, làm quan thái sư. Ông Xa-đốc, con ông A-hi-túp, và ông A-bia-tha, con ông A-hi-mê-léc làm thầy tế lễ; ông Sê-ra-gia làm tổng thư ký. Bê-na-gia, con ông Giê-hô-gia-đa, chỉ huy đoàn vệ binh hoàng gia người Cơ-rết và Phê-lết; và các con trai vua Đa-vít làm thầy tế lễ. Một hôm, vua Đa-vít hỏi: “Trong gia đình vua Sau-lơ có người nào còn sống sót không? Ta muốn giữ lòng thành với người đó vì ông Giô-na-than.” Gia-đình vua Sau-lơ trước kia có một người đầy tớ tên là Xi-ba. Người ta mời ông vào chầu vua Đa-vít. Vua hỏi ông: “Ngươi là Xi-ba phải không?”Ông thưa: “Tâu bệ hạ, tôi đây là tôi tớ bệ hạ.” Vua hỏi tiếp: “Trong gia đình vua Sau-lơ không còn người nào sao? Ta muốn giữ lòng thành với người đó theo như đã hứa trước mặt Đức Chúa Trời.”Ông Xi-ba thưa: “Tâu bệ hạ, còn một người con trai của ông Giô-na-than, què hai chân.” Vua tiếp: “Ông ấy ở đâu?”Ông Xi-ba thưa: “Ông ấy hiện đang ở nhà ông Ma-ki, con ông A-mi-ên, tại Lô-đê-ba.” Vua Đa-vít sai người đến nhà ông Ma-ki, con ông A-mi-ên, ở Lô-đê-ba, đón ông ấy về. Khi Mê-phi-bô-sết, con ông Giô-na-than, cháu vua Sau-lơ, vào chầu vua Đa-vít, ông sấp mình xuống đất lạy vua.Vua hỏi: “Cháu là Mê-phi-bô-sết phải không?”Ông thưa: “Tâu bệ hạ, cháu đây là tôi tớ bệ hạ.” Vua Đa-vít bảo: “Cháu đừng sợ. Vì ông Giô-na-than, cha cháu, ta sẽ giữ lòng thành với cháu. Ta sẽ trả lại cho cháu tất cả ruộng đất của vua Sau-lơ, ông nội cháu; hơn nữa, cháu sẽ dùng bửa cùng bàn với ta mãi mãi.” Ông Mê-phi-bô-sết cúi sấp xuống đất, vái lạy: “Tôi tớ bệ hạ là gì mà bệ hạ lại quan tâm đến một con chó chết như cháu?” Vua truyền đòi ông Xi-ba, đầy tớ vua Sau-lơ, đến và căn dặn: “Tất cả những gì thuộc về vua Sau-lơ và toàn thể gia đình vua, ta đều ban cho cháu nội của chủ ngươi. Vậy ngươi, con cái ngươi, và tôi tớ của ngươi hãy cày cấy ruộng đất cho ông ấy, và thu hoạch hoa màu để cung cấp lương thực cho gia đình của chủ ngươi. Nhưng ông Mê-phi-bô-sết, cháu nội của chủ ngươi, sẽ dùng bữa cùng bàn với ta luôn.” Ông Xi-ba có mười lăm con trai và hai mươi tôi tớ. Ông Xi-ba thưa: “Tôi tớ của bệ hạ xin tuân theo mọi điều bệ hạ là chúa tôi truyền dạy.” Vậy ông Mê-phi-bô-sết dùng bữa cùng bàn với vua Đa-vít như một hoàng tử. Ông Mê-phi-bô-sết có một con trai nhỏ tên là Mi-ca. Mọi người trong gia đình ông Xi-ba đều là tôi tớ của ông Mê-phi-bô-sết. Vậy ông Mê-phi-bô-sết sống tại thành Giê-ru-sa-lem vì ông được dùng bữa cùng bàn với vua luôn, dù ông bị què cả hai chân. Chẳng bao lâu sau đó, vua dân Am-môn qua đời. Con vua là thái tử Ha-nun lên ngôi kế vị. Vua Đa-vít tự nhủ: “Ta muốn đối xử trung hậu với vua Ha-nun, con vua Na-hát, y như vua Na-hát đã đối xử trung hậu với ta.” Vua Đa-vít liền sai một số triều thần đi sứ đến chia buồn với vua Ha-nun về sự qua đời của vua cha là Na-hát.Vậy triều thần vua Đa-vít đi sứ đến nước dân Am-môn. Nhưng các tướng lãnh dân Am-môn tâu với chúa mình là vua Ha-nun: “Bệ hạ tưởng Đa-vít thật sự kính trọng vua cha khi sai sứ đến chia buồn với bệ hạ sao? Không đâu! Đa-vít sai sứ thần đến với bệ hạ chỉ để dò xét và do thám thành đô với mục đích đánh chiếm thành sau này!” Vua Ha-nun truyền lệnh bắt các sứ thần của vua Đa-vít, đem cạo sạch râu một bên mặt, cắt bỏ một bên nửa áo quần của họ ngay phía mông, rồi thả họ về. Vua Đa-vít nghe tin, sai người đi đón các sứ thần vì họ cảm thấy nhục nhã lắm. Vua bảo họ: “Các ngươi cứ ở lại thành Giê-ri-cô, chờ cho râu mọc lại, rồi hãy về.” Dân Am-môn biết họ đã chọc cho vua Đa-vít căm thù, nên sai người đi thuê hai mươi ngàn bộ binh Sy-ri ở thành Bết-rê-hốp và Xô-ba, một ngàn quân của vua thành Ma-a-ca, và mười hai ngàn quân của thành Tốp. Vua Đa-vít nghe tin liền sai tướng Giô-áp ra trận với toàn quân chuyên nghiệp. Quân Am-môn kéo ra dàn trận tại lối vào cổng thành, trong khi quân Sy-ri ở Xô-ba và Rê-hốp, và quân thành Tốp và Ma-a-ca dàn quân riêng ngoài đồng. Khi tướng Giô-áp thấy quân địch hãm đánh cả hai mặt, phía trước và phía sau, ông chọn đạo quân ưu tú nhất trong toàn quân tinh nhuệ của Y-sơ-ra-ên và dàn trận đánh quân Sy-ri. Ông giao số quân còn lại cho anh là ông A-bi-sai, và họ dàn trận đánh quân Am-môn. Ông căn dặn: “Nếu quân Sy-ri mạnh hơn em, anh đến cứu giúp em, còn nếu quân Am-môn mạnh hơn anh, em sẽ đến cứu giúp anh. Anh hãy can đảm lên, chúng ta hãy chiến đấu hết sức để bảo vệ dân tộc và các thành trì của Đức Chúa Trời. Xin CHÚA thực hiện ý tốt của Ngài!” Ông Giô-áp và đạo quân của ông tiến công đánh quân Sy-ri; chúng thua trận, bỏ chạy. Khi quân Am-môn thấy quân Sy-ri bỏ chạy, chúng cũng bỏ chạy trước mặt ông A-bi-sai và trốn vô thành. Ông Giô-áp liền ngưng đánh quân Am-môn và trở về thành Giê-ru-sa-lem. Quân Sy-ri thấy mình bị quân Y-sơ-ra-ên đánh bại nên tập hợp lực lượng. Vua Ha-đa-rê-xe sai người triệu tập quân Sy-ri từ phía bên kia sông Ơ-phơ-rát. Tướng Sô-bác, chỉ huy quân đội của vua Ha-đa-rê-xe, hướng dẫn chúng đến thành Hê-lam. Vua Đa-vít nghe tin liền tập hợp toàn quân Y-sơ-ra-ên, vượt sông Giô-đanh, và kéo đến Hê-lam, nơi quân Sy-ri dàn trận sẵn sàng để nghênh chiến vua Đa-vít. Quân Sy-ri tấn công, nhưng chúng thua bỏ chạy trước mặt quân Y-sơ-ra-ên. Vua Đa-vít tiêu diệt bảy trăm cỗ xe ngựa và bốn mươi ngàn kỵ binh Sy-ri. Tướng Sô-bác chỉ huy quân đội Sy-ri bị trọng thương và tử trận. Khi tất cả các vua chư hầu của vua Ha-đa-rê-xe thấy quân Sy-ri bị quân Y-sơ-ra-ên đánh bại, họ cầu hòa với dân Y-sơ-ra-ên và trở thành chư hầu của Y-sơ-ra-ên.Người Sy-ri sợ không dám tiếp viện dân Am-môn nữa. Một năm sau khi các vua ra quân vua Đa-vít sai tướng Giô-áp và triều thần lãnh đạo toàn quân Y-sơ-ra-ên đi chinh chiến. Họ đánh bại quân Am-môn và vây hãm kinh đô Ráp-ba. Còn vua Đa-vít thì ở lại Giê-ru-sa-lem. Một buổi chiều kia, vua Đa-vít nghỉ trưa xong, thức dậy, đi dạo trên sân thượng cung điện; từ sân thượng vua nhìn thấy một phụ nữ đang tắm. Nàng rất đẹp. Vua Đa-vít sai người dò hỏi về nàng. Người ta tâu: “Đó chính là bà Bát-sê-ba, con gái ông Ê-li-am, vợ ông U-ri-gia, người Hê-tít.” Vua Đa-vít sai người đón nàng vào cung. Lúc ấy, nàng vừa thanh tẩy mình sau kỳ kinh nguyệt. Khi nàng đến, vua nằm với nàng. Rồi nàng trở về nhà. Sau đó, nàng thụ thai và sai người báo tin cho vua Đa-vít: “Tôi có thai.” Vua Đa-vít liền sai người mang lệnh vua cho tướng Giô-áp: “Hãy bảo U-ri-gia, người Hê-tít, về gặp ta.” Ông Giô-áp sai ông U-ri-gia về chầu vua Đa-vít. Khi ông U-ri-gia đến chầu vua, vua Đa-vít hỏi thăm tin tức về tướng Giô-áp, về binh sĩ, và tình hình chiến sự. Rồi vua Đa-vít bảo ông U-ri-gia: “Ngươi hãy về nhà nghỉ ngơi đôi chút” Ông U-ri-gia rời khỏi cung điện. Vua sai người mang quà đến nhà cho ông. Nhưng ông U-ri-gia không về nhà. Ông nằm ngủ tại cổng hoàng cung chung với tất cả các cận vệ của chủ ông. Khi vua Đa-vít hay tin ông U-ri-gia không có về nhà, vua hỏi ông: “Ngươi đi đường xa mới về, sao ngươi không về nhà?” Ông U-ri-gia tâu với vua Đa-vít: “Rương giao ước và các chiến sĩ Y-sơ-ra-ên và Giu-đa đều ở trong lều; trong khi tướng Giô-áp chủ tôi, và các đầy tớ của ông đều cắm trại ngoài đồng, lẽ nào tôi lại về nhà tôi, ăn uống và ngủ với vợ tôi sao? Tôi xin thề với bệ hạ tôi không bao giờ làm một chuyện như vậy!” Vua Đa-vít bảo: “Hãy ở lại đây hôm nay nữa, rồi ngày mai ta sẽ cho ngươi đi.” Vậy ông U-ri-gia ở lại thành Giê-ru-sa-lem ngày hôm ấy. Ngày hôm sau, vua Đa-vít mời ông U-ri-gia đến. Ông dùng bữa với vua, vua ép ông uống cho thật say, nhưng đến chiều, ông vẫn không về nhà. Ông ra ngoài nằm ngủ trên chiếu của mình, bên cạnh mấy người cận vệ của vua. Sáng hôm sau, vua Đa-vít viết thơ gởi ông U-ri-gia cầm về cho tướng Giô-áp. Trong thơ, vua viết như thế này: “Hãy đặt U-ri-gia ở ngay hàng đầu, chỗ trận chiến ác liệt nhất, rồi các ngươi hãy lui xa ra, để cho U-ri-gia bị trúng thương mà tử trận.” Vậy, trong lúc vây thành, ông Giô-áp đặt ông U-ri-gia ở ngay chỗ ông biết quân địch có chiến sĩ hùng mạnh. Khi quân trong thành xông ra giao chiến với quân của ông Giô-áp, một vài người trong số các cận thần của vua Đa-vít, bị tử trận. Ông U-ri-gia, người Hê-tít, cũng tử trận. Ông Giô-áp sai người báo cáo cho vua Đa-vít biết mọi sự về tình hình chiến trận. Ông dặn người đem tin: “Khi anh báo cáo cho vua nghe xong mọi việc về tình hình chiến trận, có thể vua nổi giận hỏi: ‘Tại sao các ngươi đến gần tường thành như vậy mà giao chiến? Các ngươi không biết rằng quân địch bắn từ trên tường thành xuống sao? Ai giết A-bi-mê-léc, con ông Giê-ru-bê-sết. Phải chăng một người đàn bà từ trên tường thành đã liệng thớt đá xuống trên đầu ông và ông chết tại Thê-bết? Tại sao các ngươi lại đến gần tường thành như vậy?’ Bấy giờ anh hãy tâu: ‘Tôi tớ vua là ông U-ri-gia, người Hê-tít, cũng tử trận.’” Người lính đem tin lên đường; anh đến nơi, báo cáo lại cho vua Đa-vít mọi điều ông Giô-áp căn dặn. Anh thưa với vua: “Lúc đầu quân địch mạnh hơn chúng tôi, chúng nó xông vào đánh chúng tôi ngoài đồng, nhưng sau đó chúng tôi đẩy lui chúng về đến cổng thành. Nhưng lính bắn cung từ trên tường thành bắn vào các đầy tớ của vua, và một vài người tử trận; đầy tớ vua là ông U-ri-gia, người Hê-tít, cũng tử trận.” Vua Đa-vít bảo người đem tin: “Ngươi hãy khuyến khích tướng Giô-áp, khuyên ông đừng buồn phiền về chuyện này, vì lưỡi gươm chém giết khi nhằm người này, lúc người kia. Ngươi hãy khuyên ông ra sức chiến đấu, tấn công và phá hủy thành.” Bà vợ ông U-ri-gia nghe tin chồng tử trận, liền than khóc chồng. Sau khi mãn tang, vua Đa-vít sai người đón bà về cung. Bà trở thành vợ vua, và sanh cho vua một con trai. CHÚA sai tiên tri Na-than đi gặp vua Đa-vít. Ông đến gặp vua và nói: “Có hai người ở trong cùng một thành, một người giàu, và một người nghèo. Người giàu có rất nhiều đàn chiên dê, và bò. Còn người nghèo chẳng có gì cả, ngoài một con chiên cái nhỏ mà ông đã mua. Ông nuôi nó, và nó lớn lên trong nhà ông, cùng với con cái ông. Nó ăn chung bánh với ông, uống chung chén với ông, và ngủ trong lòng ông. Ông coi nó như một đứa con gái. Một ngày kia, có khách đi đường xa đến thăm người giàu. Ông này tiếc, không muốn bắt chiên dê, hoặc bò của mình làm thịt đãi người lữ khách đến thăm ông. Ông bắt con chiên cái của người nghèo làm thịt đãi khách.” Vua Đa-vít bất bình giận dữ về việc làm của người giàu, nói với ông Na-than: “Có CHÚA hằng sống, kẻ nào làm chuyện đó thật đáng chết! Nó phải bồi thường gấp bốn lần giá con chiên cái, vì nó đã làm chuyện đó, và không có lòng thương xót.” Ông Na-than nói với vua Đa-vít: “Kẻ đó chính là bệ hạ! CHÚA, là Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: ‘Chính Ta đã xức dầu cho con làm vua dân Y-sơ-ra-ên, chính Ta đã giải cứu con khỏi tay vua Sau-lơ. Ta ban cho con quyền trên gia đình của chủ con, Ta giao những người vợ của chủ con vào lòng con, Ta ban cho con quyền cai trị dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa. Nếu bấy nhiêu chưa đủ, Ta có thể ban cho con nhiều hơn gấp mấy lần nữa. Tại sao con lại khinh dể mạng lịnh của CHÚA, làm điều ác trước mắt Ngài? Con đã dùng gươm giết U-ri-gia, người Hê-tít! Con lấy vợ nó làm vợ con, rồi con dùng gươm của quân Am-môn giết nó! Vậy, lưỡi gươm sẽ không bao giờ lìa khỏi nhà con, vì con đã khinh dể Ta, lấy vợ của U-ri-gia người Hê-tít làm vợ con.’ CHÚA phán như vầy: ‘Này, Ta sẽ khiến chính người nhà của con gây họa cho con. Ngay trước mắt con, Ta sẽ bắt các vợ của con và giao cho một người thân cận của con, và nó sẽ ngủ với các vợ của con giữa ban ngày, trước mắt mọi người. Con đã hành động lén lút, nhưng Ta sẽ làm việc này ngay giữa ban ngày, trước mặt toàn dân Y-sơ-ra-ên.’” Vua Đa-vít thú nhận với ông Na-than: “Tôi có tội với CHÚA.” Ông Na-than đáp: “Phải, nhưng CHÚA đã tha thứ cho bệ hạ, và bệ hạ sẽ không chết. Tuy nhiên, vì bệ hạ đã tỏ ra khinh thường CHÚA trong vụ này, nên bé trai vừa sanh ra cho bệ hạ sẽ phải chết.” Nói xong, ông Na-than trở về nhà.CHÚA khiến cho đứa bé bà vợ ông U-ri-gia vừa sanh ra cho vua Đa-vít lâm bệnh nặng. Vua Đa-vít nài xin Đức Chúa Trời chữa lành cho đứa bé; vua nhịn ăn, và ban đêm, vua về phòng nằm dưới đất suốt đêm. Các cận thần phục vụ lâu năm trong hoàng cung chầu chực bên cạnh vua, nài nỉ xin đỡ vua dậy, nhưng vua không chịu; vua cũng chẳng ăn chút gì với họ. Đến ngày thứ bảy, đứa bé chết. Các cận thần sợ, không dám báo cho vua Đa-vít hay tin đứa bé chết, vì họ bảo nhau: “Khi đứa bé còn sống, vua đã chẳng chịu nghe chúng ta khuyên giải. Làm sao chúng ta dám báo cho vua hay là đứa bé chết? Vua có thể làm liều!” Thấy triều thần thì thầm với nhau, vua Đa-vít biết là đứa bé đã chết.Vua hỏi triều thần: “Đứa bé chết rồi, phải không?” Họ thưa: “Tâu phải.” Vua Đa-vít chổi dậy khỏi đất, tắm rửa, xức dầu thơm; thay quần áo xong, vua vào Lều của CHÚA, sấp mình xuống thờ phượng. Rồi vua trở về cung, truyền dọn thức ăn. Khi người ta dọn lên, vua dùng ngay. Triều thần thưa với vua: “Chúng tôi không hiểu tại sao bệ hạ hành động như vậy. Khi đứa bé còn sống, bệ hạ nhịn ăn và khóc lóc. Nhưng ngay khi đứa bé chết, bệ hạ lại chổi dậy và ăn.” Vua đáp: “Khi đứa bé còn sống, ta nhịn ăn và khóc lóc, vì ta tự nhủ: ‘Biết đâu CHÚA thương xót ta và Ngài cho đứa bé được sống.’ Nhưng bây giờ nó chết rồi, ta còn nhịn ăn làm gì nữa? Ta có thể nào đem nó trở lại dương gian này được không? Chính ta sẽ đi đến nơi nó ở, chớ nó không thể trở về với ta được.” Vua Đa-vít an ủi bà Bát-sê-ba, vợ mình. Vua đến với nàng và ngủ với nàng. Nàng sanh một con trai, vua đặt tên là Sa-lô-môn. CHÚA yêu thương đứa bé và sai tiên tri Na-than đến báo cho vua Đa-vít biết CHÚA đặt tên đứa bé là Giê-đi-đê-gia, vì Ngài yêu thương nó. Trong khi đó, tướng Giô-áp tấn công thành Ráp-ba, kinh đô của dân Am-môn, và sắp chiếm được kinh thành. Ông Giô-áp sai lính về tâu với vua Đa-vít: “Tôi đang tấn công kinh đô Ráp-ba, và tôi đã chiếm được thành lũy bảo vệ nơi dự trữ nước của kinh thành. Bây giờ, xin bệ hạ tập hợp số binh sĩ còn lại, đến bao vây và chiếm kinh đô, kẻo chính tôi chiếm nó, và nó mang tên tôi.” Vua Đa-vít tập hợp toàn quân, kéo đến đánh thành Ráp-ba, và chiếm được. Vua lột vương miện trên đầu tượng thần Minh-côm ra, đặt lên đầu mình; vương miện bằng vàng, nặng khoảng ba mươi lăm kí, và có một viên ngọc quý. Vua cũng đem đi rất nhiều chiến lợi phẩm lấy được từ trong thành. Vua cũng đưa dân trong thành đi lao động, bắt họ sử dụng cưa, bừa sắt, rìu sắt, và đúc gạch. Vua xử như vậy với mọi thành của dân Am-môn. Rồi vua Đa-vít và toàn quân trở về thành Giê-ru-sa-lem. Sau đó một thời gian, chuyện này xảy ra. Áp-sa-lôm, con trai vua Đa-vít, có một cô em gái xinh đẹp, tên là Ta-ma. Am-nôn, một người con trai khác của vua Đa-vít, yêu cô. Am-nôn bị dày vò đến ốm tương tư vì công chúa Ta-ma, em gái mình vì nàng là gái còn trinh, và Am-nôn thấy không có cách chi làm gì được nàng cả. Nhưng Am-nôn có một người bạn rất khôn lanh, tên là Giô-na-đáp, con ông Sim-a; ông này là anh vua Đa-vít. Giô-na-đáp hỏi Am-nôn: “Sao mà hoàng tử trông ngày càng xơ xác như vậy? Nói cho anh biết được không?”Am-nôn đáp: “Em yêu Ta-ma, em gái của Áp-sa-lôm, em trai của em.” Giô-na-đáp bày vẽ: “Chú lên giường nằm, giả bệnh. Khi vua cha đến thăm, chú thưa với cha: ‘Xin cha cho phép Ta-ma, em con, đến săn sóc miếng ăn cho con: em con sẽ nấu món ăn trước mắt con, cho con thấy, và sẽ tự tay dọn lên cho con ăn.’” Vậy Am-nôn đi nằm và giả bệnh. Khi vua cha đến thăm, Am-nôn thưa: “Xin cha cho phép Ta-ma, em con, đến đây làm vài cái bánh nhỏ trước mắt con, rồi tự tay dọn lên cho con ăn.” Vua Đa-vít sai người đến nhắn với công chúa Ta-ma, tại nhà nàng: “Con hãy đến nhà Am-nôn, nấu ăn cho anh con.” Công chúa Ta-ma đến nhà Am-nôn, thấy anh mình đang nằm trên giường. Nàng lấy bột, nhồi, nặn thành từng bánh nhỏ trước mắt anh mình, rồi đem hấp. Nàng cầm nồi, gắp bánh ra, dọn lên cho anh. Nhưng Am-nôn từ chối, không chịu ăn, và ra lệnh cho mọi người lui ra. Khi mọi người ra khỏi, Am-nôn nói với Ta-ma: “Em mang thức ăn vào phòng dọn cho anh.” Ta-ma đem những ổ bánh vừa làm xong vô phòng cho anh là Am-nôn. Khi nàng bưng bánh đến gần giường, Am-nôn chụp lấy nàng, bảo: “Em lại đây nằm với anh.” Nhưng Ta-ma phản đối: “Đừng, anh! Đừng cưỡng ép em! Không ai làm như vậy trong nước Y-sơ-ra-ên! Đừng làm chuyện đồi bại dường ấy! Em sẽ mang nỗi hổ nhục này đi đâu? Còn anh, anh sẽ bị coi như một tên đồi bại trong nước Y-sơ-ra-ên! Bây giờ, xin anh thưa với vua cha, vua sẽ không từ chối gả em cho anh đâu!” Nhưng Am-nôn không chịu nghe nàng. Vì chàng mạnh hơn, nên đè nàng xuống và cưỡng hiếp nàng. Bấy giờ Am-nôn đâm ra ghét nàng thậm tệ. Thật chàng còn ghét nàng nhiều hơn là chàng yêu nàng lúc trước. Sau đó Am-nôn đuổi nàng: “Đứng dậy! Ra khỏi đây!” Nàng năn nỉ: “Đừng, anh! Đuổi em đi lại còn độc ác hơn tội ác anh vừa phạm đối với em.”Nhưng Am-nôn không chịu nghe nàng. Chàng gọi người đầy tớ hầu hạ mình, bảo: “Đuổi cô này đi cho khuất mắt tôi! Cài then cửa lại sau khi cô ấy ra!” Người đầy tớ đuổi nàng ra và cài then cửa lại sau lưng nàng. Lúc ấy, nàng đang mặc chiếc áo dài, tay dài như các công chúa còn trinh thuở ấy thường mặc. Ta-ma rắc tro lên đầu, xé rách chiếc áo dài, tay dài nàng đang mặc, lấy hai tay bụm mặt lại vừa đi vừa khóc lớn tiếng. Áp-sa-lôm, anh nàng, hỏi: “Có phải Am-nôn, anh của em, vừa làm nhục em không? Bây giờ, em nên giữ yên lặng; nó là anh của em. Cố gắng đừng bận tâm về chuyện đó nữa.” Vậy, Ta-ma sống cô đơn buồn thảm trong nhà Áp-sa-lôm, anh nàng. Vua Đa-vít giận lắm khi nghe biết mọi việc xảy ra. Còn Áp-sa-lôm ghét Am-nôn đến nỗi không hề nói một lời gì, dù lành hay dữ, với Am-nôn, vì Am-nôn đã làm nhục Ta-ma, em gái chàng. Hai năm sau, Áp-sa-lôm tổ chức hớt lông bầy chiên của mình tại làng Ba-anh Hát-so, gần thành Ép-ra-im. Chàng mời tất cả các hoàng tử đến dự. Áp-sa-lôm vào chầu vua và tâu: “Hạ thần có tổ chức hớt lông chiên, kính mời phụ vương và triều thần đến dự.” Vua đáp: “Không được, con. Tất cả chúng ta không thể cùng đi vì sẽ làm gánh nặng cho con.” Áp-sa-lôm nài nỉ, nhưng vua nhất quyết không đi. Vua chỉ chúc phước cho chàng thôi. Áp-sa-lôm lại thưa: “Nếu phụ vương không đi được, xin phụ vương cho phép anh Am-nôn đi với chúng con.”Vua hỏi: “Tại sao Am-nôn phải đi?” Áp-sa-lôm nài nỉ mãi, vua mới cho phép Am-nôn và tất cả các hoàng tử cùng đi. Áp-sa-lôm mở tiệc linh đình như tiệc yến vua đãi vậy. Áp-sa-lôm ra lệnh cho các đầy tớ mình: “Các ngươi để ý xem chừng, khi Am-nôn hứng chí vì rượu đã ngà ngà, ta sẽ bảo các ngươi hạ nó. Các ngươi cứ giết nó, đừng sợ chi hết, vì chính ta đã ra lệnh cho các ngươi. Hãy mạnh dạn lên, hãy tỏ chí trượng phu!” Các đầy tớ của Áp-sa-lôm vâng lệnh chủ, giết Am-nôn. Tất cả các hoàng tử khác vội đứng lên, cưỡi la chạy trốn. Khi họ còn đang trên đường thì có tin báo cho vua Đa-vít rằng Áp-sa-lôm đã giết tất cả các hoàng tử, không một ai sống sót. Vua Đa-vít liền đứng dậy, xé rách áo mình, và nằm xuống đất. Toàn thể triều thần đứng hầu chung quanh cũng xé áo họ ra. Bấy giờ Giô-na-đáp, con ông Sim-a, và là cháu của vua Đa-vít, thưa: “Xin chúa tôi là bệ hạ đừng nghĩ rằng các đầy tớ đã giết hết các hoàng tử. Chỉ một mình Am-nôn chết thôi, vì Áp-sa-lôm đã quyết định việc ấy kể từ ngày Am-nôn cưỡng hiếp em nó là Ta-ma. Vậy, bây giờ, xin chúa tôi là bệ hạ đừng bận tâm đến tin đồn cho rằng tất cả các hoàng tử đều chết. Chỉ một mình Am-nôn chết thôi.” Trong khi đó, Áp-sa-lôm đã trốn đi.Người lính trẻ nơi vọng canh ngước mắt lên nhìn, thấy một đám đông đi xuống dọc theo sườn đồi, trên đường về Hô-rô-na-im Người canh gác đến báo tin cho vua hay: “Tâu bệ hạ, tôi thấy nhiều người đàn ông đi trên đường về Hô-rô-na-im, đang tiến về đây”. Giô-na-đáp thưa với vua: “Kìa, các hoàng tử về đến nơi, y như lời hạ thần tâu.” Giô-na-đáp vừa nói xong, các hoàng tử bước vào. Họ òa lên khóc. Vua và toàn thể triều thần cũng khóc than thảm thiết. Áp-sa-lôm đã trốn đến ở với vua Thanh-mai con vua A-mi-hút, xứ Ghê-sua. Vua Đa-vít khóc thương Am-nôn lâu ngày. Áp-sa-lôm trốn đến Ghê-sua và ẩn trú ở đó ba năm. Nỗi buồn mất Am-nôn vừa nguôi ngoai, vua Đa-vít lại khắc khoải mong nhớ Áp-sa-lôm. Ông Giô-áp, con bà Xê-ru-gia, biết lòng vua hướng về Áp-sa-lôm. Ông Giô-áp sai người đi Tê-kô-a mời một người đàn bà khôn khéo về. Ông bảo bà: “Bà hãy giả bộ để tang. Bà mặc áo tang, đừng xức dầu thơm, và giả làm như một người để tang nay đã lâu ngày. Bà đến xin gặp vua và thưa với vua những lời như sau.” Rồi ông Giô-áp chỉ dạy bà những lời phải nói. Người đàn bà Tê-kô-a đến tâu với vua. Bà sấp mặt xuống đất lạy và thưa: “Tâu bệ hạ, xin bệ hạ cứu tôi!” Vua hỏi bà: “Bà có vấn đề gì?”Bà thưa: “Than ôi! Tôi là đàn bà góa, chồng tôi chết rồi. Nữ tỳ vua có hai con trai. Một hôm, chúng cãi nhau ngoài đồng. Vì không có ai khuyên can nên đứa này đánh đứa kia chết. Bây giờ toàn thị tộc nổi dậy chống lại nữ tỳ của vua. Họ bảo tôi: ‘Bà phải nộp đứa con đã giết chết anh em nó, để chúng tôi xử tử nó. Nó phải đền mạng cho đứa kia bị nó giết chết. Dù nó là người thừa kế, chúng ta vẫn cứ diệt luôn!’ Như vậy, họ sẽ dập tắt cụm than hồng còn lại, để chồng tôi không còn tên tuổi hoặc người nối dõi trên mặt đất.” Vua bảo người đàn bà: “Bà an tâm về nhà. Ta sẽ giải quyết vụ này cho bà.” Người đàn bà Tê-kô-a thưa tiếp: “Tâu vua chúa tôi, xin tội này đổ lại trên tôi và họ hàng nhà cha tôi, còn bệ hạ và ngôi vua thì vô can.” Vua bảo: “Nếu có ai gây khó dễ cho bà, hãy đưa tới đây. Họ sẽ không dám đụng tới bà nữa.” Bà lại thưa: “Xin bệ hạ nhớ đến CHÚA là Đức Chúa Trời của bệ hạ, mà can ngăn, đừng để cho người họ hàng chịu trách nhiệm báo thù cho đứa con đã chết của tôi phải phạm tội nặng nề, giết hại đứa con còn sót lại của tôi.”Vua đáp: “Có CHÚA hằng sống chứng kiến, ta hứa rằng không một sợi tóc nào của con bà sẽ rơi xuống đất.” Người đàn bà thưa tiếp: “Xin vua chúa tôi cho phép nữ tỳ của bệ hạ thưa thêm một lời.”Vua bảo: “Bà cứ nói.” Bà thưa: “Sao bệ hạ lại toan tính một chuyện có hại cho dân của Đức Chúa Trời như thế? Nghĩa là bệ hạ không cho phép người con bị đày của bệ hạ trở về. Khi bệ hạ phán hứa như vừa rồi, bệ hạ đã tự kết án chính mình. Chúng ta ai nấy rồi cũng phải chết, như nước đổ xuống đất, không hốt lại được. Nhưng Đức Chúa Trời sẽ không cất mạng sống của người sắp xếp cho kẻ bị đày trở về, và bây giờ, tâu vua chúa tôi, tôi đến đây thưa với vua chuyện này, vì người ta làm tôi sợ. Nữ tỳ bệ hạ tự nhủ: ‘Tôi sẽ thưa với vua; biết đâu vua sẽ ban cho nữ tỳ vua điều tôi xin. Vua chắc sẽ nhận lời và giải cứu nữ tỳ vua khỏi tay kẻ tìm cách diệt trừ cả tôi và con trai tôi ra khỏi dân của Đức Chúa Trời.’ Nữ tỳ vua lại tự nhủ: ‘Xin lời của vua chúa tôi phán ra là quyết định tối hậu vì vua chúa tôi giống như thiên sứ của Đức Chúa Trời, biết phân biệt điều lành, điều dữ.’ Cầu xin CHÚA là Đức Chúa Trời của bệ hạ ở cùng bệ hạ.” Vua bảo: “Đừng giấu ta việc ta sắp hỏi bà.”Người đàn bà thưa: “Xin vua chúa tôi cứ hỏi.” Vua hỏi: “Có bàn tay của Giô-áp nhúng vào tất cả việc này không?”Bà thưa: “Tâu bệ hạ, tôi xin chỉ mạng sống vua chúa tôi mà thề rằng thật đúng y như lời vua chúa tôi nói. Chính đầy tớ của bệ hạ là tướng Giô-áp đã chỉ dạy tôi mọi điều tôi phải nói và làm. Chính vì muốn thay đổi tình thế mà đầy tớ vua là tướng Giô-áp đã làm như thế. Vua chúa tôi thật khôn ngoan như thiên sứ của Đức Chúa Trời: Bệ hạ biết mọi việc xảy ra trên đất.” Kế đó, vua bảo tướng Giô-áp: “Ta quyết định làm điều ngươi xin. Hãy đi, đem Áp-sa-lôm về đây.” Tướng Giô-áp sấp mặt xuống đất, vái lạy, và tâu: “Cầu xin Đức Chúa Trời ban phước cho bệ hạ! Hôm nay đầy tớ vua biết rõ vua chúa tôi hài lòng về tôi, vì vua quyết định thi hành điều tôi xin.” Tướng Giô-áp đứng lên, đi ngay đến Ghê-sua, đem hoàng tử Áp-sa-lôm về thành Giê-ru-sa-lem. Nhưng vua bảo: “Nó phải đi thẳng về nhà nó, không được trình diện ta.” Vậy Áp-sa-lôm đi về nhà mình, không được gặp mặt vua. Trong toàn quốc Y-sơ-ra-ên lúc bấy giờ, không có ai được khen ngợi nhiều về sắc đẹp của mình bằng hoàng tử Áp-sa-lôm: từ lòng bàn chân cho tới đỉnh đầu, không có một khuyết điểm nào. Cuối mỗi năm ông phải cắt tóc vì tóc đè nặng trên đầu. Khi ông cắt tóc và đem cân, tóc đầu ông nặng hơn hai kí, theo quả cân của nhà vua. Áp-sa-lôm có ba con trai và một con gái tên là Ta-ma. Cô rất xinh đẹp. Hoàng tử Áp-sa-lôm sống tại Giê-ru-sa-lem hai năm trọn, nhưng không được trình diện vua cha. Áp-sa-lôm sai mời ông Giô-áp đến, định nhờ ông vào tâu vua giùm, nhưng ông Giô-áp không chịu đến. Áp-sa-lôm sai mời lần thứ nhì, ông Giô-áp cũng không chịu đến. Áp-sa-lôm bảo các đầy tớ mình: “Xem kìa, ruộng của Giô-áp trồng lúa mạch, ở ngay bên cạnh ruộng ta. Các ngươi hãy đi đốt cháy ruộng ông ta.” Vậy các đầy tớ của Áp-sa-lôm đi đốt cháy ruộng của ông Giô-áp. Ông Giô-áp liền đi ngay đến nhà Áp-sa-lôm, hỏi: “Tại sao các đầy tớ của hoàng tử lại đi đốt cháy ruộng tôi?” Áp-sa-lôm đáp: “Tôi sai người mời ông đến, để nhờ ông vào tâu vua giùm tôi: ‘Con rời Ghê-sua về đây làm gì? Thà con ở lại đó còn hơn.’ Bây giờ tôi muốn được gặp mặt vua. Nếu tôi có lỗi, xin vua cứ giết tôi đi!” Ông Giô-áp vào tâu lên vua điều Áp-sa-lôm thỉnh cầu. Vua cho đòi Áp-sa-lôm vào. Áp-sa-lôm đến, quì sấp mặt xuống đất trước mặt vua mà lạy. Vua hôn Áp-sa-lôm. Sau đó, Áp-sa-lôm sắm cho mình một cỗ xe ngựa và năm mươi người chạy trước xe. Áp-sa-lôm thường dậy sớm, đứng ở bên đường vào cổng thành. Bất cứ người nào có việc thưa kiện đến xin vua xét xử, Áp-sa-lôm cũng gọi lại, hỏi: “Ông quê ở đâu, thành nào?” Sau khi người kia đáp: “Tôi tớ ngài thuộc chi tộc này, chi tộc nọ trong Y-sơ-ra-ên,” Áp-sa-lôm thường nói: “Tốt lắm, vụ kiện của ông đúng và chính đáng, nhưng tiếc là vua không có cử ai để nghe ông cả.” Áp-sa-lôm lại nói tiếp: “Ước gì có người cử tôi làm thẩm phán trong nước! Bấy giờ người nào có việc thưa kiện đến với tôi, tôi cũng sẽ xét xử công minh cho người đó.” Và hễ có người nào đến gần, sấp mình xuống vái chào, Áp-sa-lôm liền dang tay ra, ôm chầm lấy người ấy mà hôn. Áp-sa-lôm cư xử như thế với mọi người Y-sơ-ra-ên đến xin vua xét xử. Vậy, Áp-sa-lôm đánh gạt được dân Y-sơ-ra-ên. Sau bốn năm Áp-sa-lôm thưa với vua: “Xin cho phép con đi Hếp-rôn để giữ trọn lời khấn nguyện với CHÚA. Vì lúc còn ở Ghê-sua, thuộc xứ Sy-ri, tôi tớ phụ vương có khấn nguyện: ‘Nếu CHÚA cho con trở về thành Giê-ru-sa-lem, con sẽ thờ phượng CHÚA tại Hếp-rôn’ Vua bảo: ‘Con đi bình an.’” Vậy, Áp-sa-lôm đi Hếp-rôn. Đồng thời, Áp-sa-lôm sai người bí mật đi khắp các chi tộc Y-sơ-ra-ên và căn dặn họ: “Khi anh em nghe tiếng tù và thổi, hãy tung hô lên: ‘Áp-sa-lôm làm vua ở Hếp-rôn!’” Áp-sa-lôm có mời hai trăm quan khách ở Giê-ru-sa-lem cùng đi với mình, nhưng họ đi với thiện ý, không hề biết gì về mưu phản của ông. Khi chuẩn bị dâng tế lễ, Áp-sa-lôm sai người đi thành Ghi-lô mời ông A-hi-tô-phen đến. Ông là cố vấn của vua Đa-vít. Bọn âm mưu phản loạn thêm mạnh, và số người ủng hộ Áp-sa-lôm ngày càng đông. Có người đến báo cho vua Đa-vít: “Dân Y-sơ-ra-ên theo phe Áp-sa-lôm.” Toàn thể triều thần đang ở với vua tại Giê-ru-sa-lem. Vua Đa-vít liền bảo họ: “Chúng ta phải đi trốn ngay, vì Áp-sa-lôm sẽ không để cho một ai trong chúng ta thoát chết đâu. Chúng ta phải đi nhanh, kẻo chẳng mấy chốc nó đuổi kịp chúng ta, đánh bại chúng ta, và dùng gươm giết mọi người trong thành.” Triều thần tâu với vua: “Vua chúa chúng tôi quyết định thể nào, chúng tôi đây là tôi tớ vua xin tuân theo.” Vậy vua ra đi cùng với mọi người trong hoàng cung. Vua chỉ để lại mười cung phi để giữ cung điện. Vua ra đi, và mọi người đi theo. Họ dừng lại ở ngôi nhà cuối cùng. Tất cả các tôi tớ vua đi qua trước mặt vua, kể cả toàn thể người Kê-rết và Phê-lết trong toán vệ binh hoàng gia. Khi tất cả sáu trăm quân binh theo vua từ thành Gát đi qua trước mặt vua, Vua hỏi ông Y-tai, người Gát: “Ngươi cũng đi theo chúng ta nữa sao? Hãy trở về ở với nhà vua, vì ngươi là người nước ngoài, và ngươi hiện cũng đang sống lưu vong, xa quê hương. Ngươi chỉ mới đến với ta hôm qua thôi. Không lẽ hôm nay ta lại bắt ngươi đi lang thang với chúng ta, trong khi chính ta cũng không biết ta sẽ đi về đâu? Ngươi hãy trở về, và dẫn theo các anh em ngươi. Cầu xin lòng thương xót và sự thành tín của CHÚA ở với ngươi.” Ông Y-tai thưa: “Có CHÚA hằng sống chứng kiến, và trước mặt vua chúa tôi đang sống đây, tôi xin thề: vua chúa tôi ở đâu, tôi tớ ngài sẽ ở đó, dù sống hay chết.” Vua Đa-vít bảo ông: “Được, vậy thì hãy đi qua.” Ông Y-tai, người Gát, đi qua cùng với tất cả những quân binh theo ông và gia đình họ. Toàn dân trong thành Giê-ru-sa-lem khóc lớn tiếng khi đoàn quân đi qua. Vua đi qua khe Kít-rôn, và đoàn quân đi qua theo con đường dẫn vào sa mạc; Có cả thầy tế lễ Xa-đốc với tất cả các thầy Lê-vi khiêng Rương giao ước của Đức Chúa Trời. Họ đặt Rương giao ước của Đức Chúa Trời xuống, và thầy tế lễ A-bia-tha dâng tế lễ cho đến khi đoàn quân ra khỏi thành đi qua hết. Vua bảo thầy tế lễ Xa-đốc: “Xin thầy đem Rương giao ước của Đức Chúa Trời trở về thành. Nếu tôi được đẹp lòng CHÚA, Ngài sẽ đưa tôi về và cho tôi nhìn thấy Rương và nơi Rương ngự. Còn nếu Ngài phán: ‘Con không đẹp lòng Ta,’ thì xin Ngài xử với tôi theo ý tốt đẹp của Ngài.” Vua bảo tiếp: “Thầy có hiểu ý tôi không? Thầy và thầy tế lễ A-bia-tha hãy trở về thành bình an cùng với hai con, A-hi-mát, con thầy, và Giô-na-than, con thầy tế lễ A-bia-tha. Về phần tôi, tôi sẽ nán lại trong đồng vắng, gần các chỗ qua sông cho đến khi được tin hai thầy.” Vậy, hai thầy tế lễ Xa-đốc và A-bia-tha đưa Rương giao ước của Đức Chúa Trời trở vào thành Giê-ru-sa-lem, và họ ở lại đó. Trong lúc ấy, vua Đa-vít đi lên dốc núi Ô-liu, vừa đi vừa khóc, đầu trùm lại, và đi chân không. Tất cả những người đi theo vua cũng trùm đầu lại, vừa đi vừa khóc. Khi vua Đa-vít được tin ông A-hi-tô-phen ở trong nhóm âm mưu phản loạn cùng với Áp-sa-lôm, vua cầu: “Lạy CHÚA, xin làm cho lời bàn của A-hi-tô-phen ra ngu dại.” Lên đến đỉnh núi, nơi người ta thờ phượng Đức Chúa Trời, vua Đa-vít gặp ông Hu-sai người Ạt-kít ra đón vua, áo xé rách và đầu phủ bụi đất. Vua Đa-vít bảo ông: “Nếu ngươi đi với ta, ngươi sẽ nên gánh nặng cho ta. Nhưng nếu ngươi trở về thành, nói với Áp-sa-lôm: ‘Tâu bệ hạ, tôi là tôi tớ bệ hạ; trước đây tôi là tôi tớ của cha bệ hạ, nhưng bây giờ tôi là tôi tớ bệ hạ,’ thì ngươi có thể giúp ta bằng cách phá hỏng lời bàn của A-hi-tô-phen. Kìa, hai thầy tế lễ Xa-đốc và A-bia-tha cũng ở đó với ngươi. Hãy báo cho hai thầy ấy biết mọi tin tức ngươi nghe được từ cung vua. Hai thầy cũng có hai người con ở đó, A-hi-mát con thầy Xa-đốc, và Giô-na-than, con thầy A-bia-tha. Ngươi có thể sai chúng báo cho ta mọi điều gì ngươi nghe được.” Vậy, ông Hu-sai, bạn vua Đa-vít, vào thành đúng ngay lúc Áp-sa-lôm về đến Giê-ru-sa-lem. Vua Đa-vít vừa đi qua đỉnh núi được một chút thì gặp ông Xi-ba, đầy tớ của Mê-phi-bô-sết, ra đón, dẫn theo hai con lừa có thắng yên sẵn sàng, chở hai trăm ổ bánh, một trăm chùm nho khô, một trăm trái vả và một bầu da đầy rượu. Vua hỏi ông Xi-ba: “Ngươi định làm gì với những thứ này?” Ông Xi-ba thưa: “Tâu bệ hạ, lừa dành cho hoàng gia cưỡi, bánh và trái cây cho đoàn quân dùng, và rượu cho người nào mệt lả trong sa mạc uống.” Vua hỏi tiếp: “Cháu nội của chủ ngươi đâu?” Ông Xi-ba thưa: “Ông ấy ở lại Giê-ru-sa-lem, vì ông tự bảo: ‘Hôm nay dân Y-sơ-ra-ên sẽ trả lại cho ta ngôi nước của ông nội ta.’” Vua bảo ông Xi-ba: “Vậy ta ban cho ngươi tất cả những gì thuộc về Mê-phi-bô-sết.” Ông Xi-ba thưa: “Tôi xin cúi lạy, đội ơn bệ hạ. Xin cho tôi được đẹp lòng vua chúa tôi mãi mãi.” Vua Đa-vít vừa đến gần Ba-hu-rim thì thấy một người từ làng đó đi tới, vừa đi vừa rủa. Người này cùng một gia tộc với vua Sau-lơ, tên là Sim-y, con ông Ghê-ra. Sim-y ném đá vào vua Đa-vít và toàn thể triều thần, mặc dù có cả đoàn quân và tất cả các dũng sĩ đi bên phải và bên trái vua. Sim-y rủa sả vua: “Đi đi! Ra khỏi đây! Đồ sát nhân! Tên vô lại! CHÚA phạt mầy vì tất cả những vụ đổ máu mầy gây ra trong nhà vua Sau-lơ. Vì mầy đã chiếm đoạt ngôi vua khỏi nhà Sau-lơ nên CHÚA trao ngôi nước vào tay Áp-sa-lôm, con mầy. Và bây giờ mầy mang họa, vì mầy là tên sát nhân!” Ông A-bi-sai, con bà Xê-ru-gia, thưa với vua: “Tên chó chết này sao dám rủa vua chúa tôi? Xin bệ hạ cho tôi qua chặt đầu nó!” Vua bảo: “Việc của ta can gì đến các ngươi, hỡi các con bà Xê-ru-gia? Hãy để nó rủa, vì nếu CHÚA bảo nó rủa ta, ai dám hỏi nó: ‘Tại sao ngươi làm như vậy?’” Vua Đa-vít lại bảo ông A-bi-sai và toàn thể triều thần: “Kìa, con trai ta, con ruột ta, còn tìm hại mạng sống ta, huống chi là tên Bên-gia-min này! Hãy để mặc nó! Cứ để nó nguyền rủa ta, vì CHÚA đã bảo nó. Biết đâu CHÚA nhìn thấy nỗi khổ của ta và ban phước lành cho ta thay vào lời nguyền rủa của nó hôm nay.” Vua Đa-vít và đoàn người của vua tiếp tục đi trên đường, trong khi Sim-y đi song song trên sườn núi, vừa đi vừa nguyền rủa vua, vừa ném đá và hất tung bụi lên. Vua và hết thảy đoàn người đi theo vua đến nơi thì mệt lả; họ nghỉ lấy sức tại đó. Trong khi đó, Áp-sa-lôm và hết thảy những người Y-sơ-ra-ên theo ông vào thành Giê-ru-sa-lem. Có ông A-hi-tô-phen đi với họ. Khi ông Hu-sai, người Ạt-kít, bạn vua Đa-vít, đến gặp Áp-sa-lôm, ông tung hô: “Vua vạn tuế! Vua vạn tuế!” Nhưng Áp-sa-lôm hỏi ông Hu-sai: “Ông trung thành với bạn ông như vậy sao? Tại sao ông không đi theo bạn ông?” Ông Hu-sai đáp: “Tôi không đi. Người nào mà CHÚA, dân này, và toàn dân Y-sơ-ra-ên chọn, tôi sẽ theo người đó và ở với người. Hơn nữa, tôi sẽ phục vụ ai, nếu không phục vụ con của bạn tôi? Như tôi đã phục vụ thân phụ bệ hạ thế nào, tôi cũng sẽ phục vụ bệ hạ thể ấy.” Kế đến, Áp-sa-lôm hỏi ông A-hi-tô-phen: “Các ông hãy bàn nhau xem chúng ta phải làm gì.” Ông A-hi-tô-phen đáp: “Bệ hạ nên đến ngủ với các cung phi thân phụ bệ hạ để lại đặng giữ cung. Khi toàn dân Y-sơ-ra-ên nghe tin bệ hạ đã làm cho thân phụ ghê tởm mình, mọi người theo bệ hạ sẽ mạnh dạn lên.” Người ta căng lều cho Áp-sa-lôm trên sân thượng của cung điện vua, và Áp-sa-lôm đến ngủ với các cung phi của cha mình. Toàn dân Y-sơ-ra-ên đều hay biết chuyện đó. Thuở ấy, người ta tôn trọng lời bàn của ông A-hi-tô-phen như lời phán của Đức Chúa Trời mỗi khi người ta cầu hỏi ý Ngài. Cả vua Đa-vít và Áp-sa-lôm đều nghe theo mọi lời bàn của ông A-hi-tô-phen như vậy. Chẳng bao lâu sau đó, ông A-hi-tô-phen đề nghị với Áp-sa-lôm: “Xin bệ hạ cho tôi chọn mười hai ngàn quân để tôi lên đường đuổi theo Đa-vít ngay đêm nay. Tôi sẽ xông vào tấn công lúc ông ta đang mệt mỏi và ngã lòng; ông ta sẽ hoảng sợ; toàn quân ở với ông ta sẽ bỏ chạy, và tôi sẽ giết một mình nhà vua thôi. Tôi sẽ đem toàn quân trở về với bệ hạ; khi toàn quân trở về, ngoại trừ người mà bệ hạ đang tìm hại, lúc bấy giờ cả nước sẽ được bình an vô sự.” Áp-sa-lôm và các trưởng lão Y-sơ-ra-ên đều công nhận kế hoạch đó tốt. Tuy nhiên, Áp-sa-lôm nói: “Hãy mời cả ông Hu-sai, người Ạt-kít, đến nữa, để chúng ta nghe thêm ý kiến ông.” Khi ông Hu-sai đến, Áp-sa-lôm nói với ông: “Ông A-hi-tô-phen sắp đặt kế hoạch như thế này. Chúng ta có nên làm theo không? Nếu không, thì xin ông cho biết ý kiến.” Ông Hu-sai đáp: “Lần này, kế hoạch ông A-hi-tô-phen đưa ra không được tốt.” Ông Hu-sai nói tiếp: “Bệ hạ biết rõ vua cha và người của ông là những dũng sĩ, và họ đang giận dữ như gấu mẹ bị mất con ngoài đồng hoang. Hơn nữa, vua cha là người thạo việc binh đao, ông ta sẽ không ngủ đêm với đạo quân đâu. Hiện giờ có thể ông ta đang ẩn núp trong hầm hố hoặc một nơi nào đó. Nếu ngay trận đầu, có vài người trong hàng ngũ chúng ta ngã xuống, ai nghe được cũng sẽ nói: ‘Đạo quân theo Áp-sa-lôm bị đánh bại.’ Bấy giờ, ngay cả những người có khí phách gan dạ như sư tử cũng khiếp sợ rụng rời, vì toàn dân Y-sơ-ra-ên đều biết rằng cha bệ hạ là một dũng sĩ, và những người theo ông là những người có khí phách. Vậy, tôi đề nghị ta nên tập hợp tất cả những chiến sĩ trong dân Y-sơ-ra-ên, từ thành Đan đến thành Bê-e-sê-ba lại chung quanh bệ hạ. Họ sẽ đông như cát biển, và bệ hạ sẽ đích thân cầm quân ra trận. Chúng ta sẽ đi đánh Đa-vít, bất luận ông ở nơi nào, và chúng ta sẽ đáp xuống trên ông ta như sương rơi phủ mặt đất. Rồi ông ta và những người theo ông ấy, sẽ không một ai sống sót. Còn nếu ông rút quân về một thành nào đó, toàn quân Y-sơ-ra-ên sẽ đem dây thừng đến kéo thành ấy xuống đáy sông cho đến khi không còn tìm thấy một viên sỏi tại đó.” Áp-sa-lôm và toàn dân Y-sơ-ra-ên đều đồng ý rằng kế hoạch của ông Hu-sai, người Ạt-kít, tốt hơn kế hoạch của ông A-hi-tô-phen, vì CHÚA đã quyết định phá hỏng mưu sâu của ông A-hi-tô-phen để giáng họa xuống Áp-sa-lôm. Ông Hu-sai liền thuật lại cho hai thầy tế lễ Xa-đốc và A-bia-tha nghe: “Ông A-hi-tô-phen đã bàn như thế này với Áp-sa-lôm và các trưởng lão Y-sơ-ra-ên, còn chính tôi đã bàn như thế này. Vậy bây giờ xin hai thầy sai người đem tin gấp cho vua Đa-vít, căn dặn vua đừng nghỉ đêm nơi chỗ sông cạn, trong đồng hoang, nhưng phải qua sông ngay, kẻo vua và toàn quân theo vua bị tiêu diệt.” Giô-na-than và A-hi-mát đứng đợi sẵn bên suối Rô-ghên. Một nữ tỳ thường ra suối đem tin cho họ, rồi họ đem tin về cho vua Đa-vít. Họ không dám vào thành, vì sợ bị bại lộ. Tuy nhiên, một thanh niên thấy họ và báo cho Áp-sa-lôm biết. Giô-na-than và A-hi-mát vội vàng ra đi, đến nhà một người kia ở Ba-hu-rim. Sân nhà ông này có một cái giếng. Họ leo xuống đó. Bà vợ ông này lấy tấm bố trải lên miệng giếng rồi rải thóc lên. Không ai nghi ngờ gì cả. Lính của Áp-sa-lôm đến nhà hỏi bà: “A-hi-mát và Giô-na-than ở đâu?” Bà đáp: “Họ băng qua suối rồi.” Mấy người lính tìm họ nhưng chẳng thấy, nên quay trở về Giê-ru-sa-lem. Sau khi chúng đi khỏi, hai người từ dưới giếng leo lên, và đi đem tin cho vua Đa-vít. Họ tâu với vua Đa-vít: “Xin bệ hạ và quần thần mau mau đi qua sông, vì ông A-hi-tô-phen đã bày mưu như thế này để hại vua.” Vua Đa-vít và toàn quân theo vua liền đi băng qua sông Giô-đanh. Khi trời hừng sáng, không còn sót lại một người nào chưa qua sông. Khi ông A-hi-tô-phen thấy Áp-sa-lôm và các trưởng lão Y-sơ-ra-ên không nghe theo lời bàn của ông, ông thắng lừa về quê, về nhà ông ở thành Ghi-lô. Ông thu xếp việc nhà rồi treo cổ tự tử. Người ta chôn cất ông trong phần mộ của cha ông. Vua Đa-vít đến Ma-ha-na-im trong khi Áp-sa-lôm và toàn quân Y-sơ-ra-ên theo ông qua sông Giô-đanh. Áp-sa-lôm cử ông A-ma-sa chỉ huy quân đội thay ông Giô-áp. Ông A-ma-sa là con ông Gít-ra, thuộc dòng họ ông Ích-ma-ên Ông Gít-ra đi lại với bà A-bi-ganh; bà này là con ông Na-hách, và là em gái của bà Xê-ru-gia, mẹ của ông Giô-áp. Quân Y-sơ-ra-ên và Áp-sa-lôm đóng trại trong miền Ga-la-át. Khi vua Đa-vít đến Ma-ha-na-im, ông Sô-bi, con ông Na-hách, từ thành Ráp-ba của người Am-môn, ông Ma-ki, con ông Am-mi-ên, từ thành Lô-đê-ba, và ông Bát-xi-lai, người Ga-la-át, từ thành Rô-ghê-lim, đem mền chiếu, chậu, chén, các thứ đồ gốm đến, cùng với lúa mì, lúa mạch, bột, hạt rang, đậu tằm, đậu lăng, mật ong, sữa chua, chiên dê và phó mát lấy từ sữa bò. Họ dâng những thức ăn đó cho vua và quân binh theo vua dùng, vì họ biết ai đi qua sa mạc cũng đói, mệt, và khát lắm. Vua Đa-vít duyệt đoàn quân theo mình; vua chia họ ra thành những đơn vị một ngàn người, và những đơn vị một trăm người, và cắt đặt sĩ quan chỉ huy các đơn vị. Vua Đa-vít sai quân đi: vua giao một phần ba cho ông Giô-áp, một phần ba cho ông A-bi-sai, con bà Xê-ru-gia, và là em ông Giô-áp, và một phần ba cho ông Y-tai, người Gát. Vua tuyên bố với đoàn quân: “Ta sẽ đích thân ra trận với các ngươi.” Nhưng đoàn quân can gián: “Không được, bệ hạ không nên ra trận. Vì nếu chúng tôi có thua chạy, kẻ thù sẽ chẳng quan tâm đến chúng tôi; nếu phân nửa số chúng tôi chết đi, kẻ thù cũng chẳng để ý. Nhưng bệ hạ quý bằng mười ngàn chúng tôi. Vậy, tốt hơn là xin bệ hạ cứ ở trong thành lo tiếp viện chúng tôi. Vua đáp: ‘Được, ta sẽ làm điều các ngươi thấy là tốt.’”Vua đứng bên cổng thành trong khi toàn quân kéo ra theo đơn vị một trăm, một ngàn. Vua căn dặn ông Giô-áp, ông A-bi-sai, và ông Y-tai: “Hãy vì ta nhẹ tay với Áp-sa-lôm, con ta.” Toàn thể các binh sĩ đều nghe vua dặn dò tất cả các vị chỉ huy về Áp-sa-lôm. Đoàn quân kéo ra đồng nghênh chiến quân Y-sơ-ra-ên, và cuộc giao tranh xảy ra trong rừng Ép-ra-im. Quân của vua Đa-vít đánh bại quân Y-sơ-ra-ên tại đó. Quân Y-sơ-ra-ên thua nặng ngày hôm ấy, hai mươi ngàn người bị giết chết. Cuộc giao tranh lan ra khắp vùng; ngày hôm ấy, số binh sĩ chết trong rừng nhiều hơn chết vì gươm. Một số binh sĩ của vua Đa-vít tình cờ bắt gặp Áp-sa-lôm đang cưỡi la. Khi con la chui dưới những nhánh cây chằng chịt của một cây sồi lớn, đầu ông bị kẹt cứng giữa mấy cành cây; con la ông cưỡi vẫn tiếp tục đi nên ông bị treo giữa trời và đất. Một người trông thấy liền báo cho ông Giô-áp: “Tôi vừa thấy ông Áp-sa-lôm treo giữa mấy cành cây sồi.” Ông Giô-áp nói với người báo tin: “Anh thấy nó! Sao anh không giết nó ngay đó cho nó rơi xuống đất? Nếu anh hạ nó, ta chắc đã thưởng anh ba lượng bạc và một cái thắt lưng rồi!” Nhưng người ấy đáp: “Dù ông cân vào tay tôi ba trăm lượng bạc, tôi cũng không dám ra tay hại hoàng tử, vì chúng tôi có nghe vua căn dặn ông, ông A-bi-sai, và ông Y-tai: ‘Hãy coi chừng, đừng cho ai hại Áp-sa-lôm, con ta.’ Nếu tôi phản vua, giết ông Áp-sa-lôm thì không thể nào giấu được vua, còn chính ông cũng sẽ đứng xa, không can thiệp vào để bào chữa cho tôi!” Ông Giô-áp quát lên: “Ta không phí thì giờ với anh như thế này nữa!” Rồi ông cầm ba cây lao trong tay, đâm vào tim ông Áp-sa-lôm, đang còn sống giữa mấy cành cây sồi. Mười người lính trẻ mang khí giới của ông Giô-áp vây quanh ông Áp-sa-lôm và đánh ông chết. Ông Giô-áp cho thổi tù và. Đoàn quân của ông Giô-áp quay về, không đuổi theo quân Y-sơ-ra-ên nữa, vì ông Giô-áp giữ quân lại. Họ lấy xác Áp-sa-lôm quăng xuống một hố sâu trong rừng, rồi chất một đống đá thật lớn phủ lên trên. Trong khi đó, toàn quân Y-sơ-ra-ên chạy trốn, ai nấy về nhà mình. Khi còn sống, Áp-sa-lôm có dựng cho mình một tấm bia trong thung lũng Nhà Vua vì ông tự nhủ: “Ta không có con trai để lưu danh.” Ông lấy tên mình đặt cho tấm bia. Đến ngày nay, bia ấy vẫn còn gọi là “đài kỷ niệm Áp-sa-lôm.” A-hi-mát, con thầy tế lễ Xa-đốc, thưa với ông Giô-áp: “Xin ông cho con chạy về báo tin cho vua là CHÚA đã cứu vua thoát khỏi tay quân thù.” Ông Giô-áp đáp: “Hôm nay, con không phải là người đem tin. Con sẽ đem tin một ngày nào khác, nhưng hôm nay, con không nên đem tin, vì hoàng tử đã chết.” Ông Giô-áp bảo một người lính Ê-thi-ô-bi: “Đi báo cho vua điều gì ngươi thấy.” Người Ê-thi-ô-bi sấp mình xuống lạy ông Giô-áp rồi chạy đi. A-hi-mát, con thầy tế lễ Xa-đốc, cố nài nỉ thêm: “Dù sao đi nữa, xin ông cứ cho con chạy theo sau người Ê-thi-ô-bi.” Ông Giô-áp hỏi: “Con ơi, tại sao con muốn chạy đem tin? Đem tin này, con chẳng được thưởng đâu.” A-hi-mát năn nỉ: “Dù sao đi nữa, con vẫn muốn chạy đem tin.” Ông Giô-áp bảo: “Cứ chạy đi.” A-hi-mát bắt con đường vòng chạy xuyên qua đồng bằng sông Giô-đanh, và chạy qua mặt người Ê-thi-ô-bi. Vua Đa-vít đang ngồi giữa cổng trong và cổng ngoài của thành. Người lính canh leo lên nóc cổng thành, trên đỉnh tường thành, nhìn ra xa, thấy một người đang chạy một mình. Người lính canh lớn tiếng báo tin cho vua. Vua nói: “Nếu chạy một mình, đó là người đem tin.” Khi người ấy chạy tới gần, người lính canh thấy một người khác đang chạy thì gọi vọng xuống người gác cổng: “Có một người khác đang chạy một mình!” Vua đáp: “Người này cũng đem tin nữa.” Người lính canh nói: “Tôi thấy người đầu chạy giống như A-hi-mát, con thầy tế lễ Xa-đốc.” Vua nói: “Anh ta là một người tốt, chắc anh đem tin lành.” A-hi-mát lớn tiếng chào vua: “Kính chúc bình an!” Anh sấp mình xuống đất lạy vua, và tâu: “Ngợi khen CHÚA là Đức Chúa Trời của bệ hạ, Ngài đã nộp cho bệ hạ những kẻ chống nghịch lại bệ hạ, là chúa của con!” Vua hỏi: “Áp-sa-lôm, con ta, có bình an không?” A-hi-mát thưa: “Khi ông Giô-áp, tôi tớ của bệ hạ, sai đầy tớ ngài là con đây con thấy đám đông xôn xao, nhưng không biết chuyện gì xảy ra.” Vua bảo: “Đứng lui ra bên kia!” Anh lui ra một bên, đứng chầu. Ngay lúc ấy, người Ê-thi-ô-bi đến. Anh tâu: “Xin bệ hạ là chúa tôi biết rằng hôm nay CHÚA đã giải cứu bệ hạ khỏi tay mọi kẻ dấy lên chống nghịch bệ hạ.” Vua hỏi người Ê-thi-ô-bi: “Áp-sa-lôm, con ta, có bình an không?” Người Ê-thi-ô-bi thưa: “Tâu bệ hạ, ước chi các kẻ thù của vua chúa tôi và mọi kẻ dấy lên để hại bệ hạ, đều phải chung số phận với cậu ấy!” Vua Đa-vít Khóc Con. Vua xúc động run cả người. Vua đi lên phòng trên nóc cổng để khóc. Vua vừa đi vừa kêu than: “Ôi, con ơi! Áp-sa-lôm, con ơi! Con ơi! Áp-sa-lôm! Ước chi chính cha chết thế cho con! Áp-sa-lôm, con ơi, con ơi!” Có người báo cho ông Giô-áp: “Vua khóc và thương tiếc Áp-sa-lôm.” Cuộc chiến thắng ngày hôm ấy trở thành tang chế cho toàn quân khi họ nghe tin vua khóc thương con mình. Ngày hôm ấy, quân sĩ lẻn vào thành y như một đạo binh xấu hổ lẻn về khi trốn chạy khỏi chiến trận. Trong khi đó, vua trùm mặt, khóc than lớn tiếng: “Ôi, con ơi! Áp-sa-lôm, Áp-sa-lôm, con ơi, con ơi!” Ông Giô-áp vào cung gặp vua, và tâu: “Hôm nay, bệ hạ làm hổ mặt tất cả các tôi tớ của bệ hạ, là những người đã cứu sống chẳng những bệ hạ hôm nay, mà còn cứu luôn các hoàng tử, công chúa, hoàng hậu, và cung phi nữa. Bệ hạ yêu người ghét mình và ghét người yêu mình! Điều bệ hạ làm hôm nay đã tỏ cho các sĩ quan và binh sĩ thấy rõ bệ hạ coi họ không ra gì. Bệ hạ ắt sẽ vui lòng nếu hôm nay Áp-sa-lôm còn sống, dù tất cả chúng tôi đều chết hết! Vậy, bây giờ xin bệ hạ đứng lên, ra ủy lạo các tôi tớ của bệ hạ ngay. Tôi thề trước mặt CHÚA, nếu bệ hạ không ra, thì không một ai ở lại với bệ hạ đêm nay. Và đó sẽ là tai họa lớn hơn mọi tai họa bệ hạ đã từng gặp từ thời niên thiếu cho đến bây giờ!” Vua đứng lên, ra ngồi bên cổng thành. Toàn quân nghe tin vua ngồi tại cổng thành liền kéo đến chầu vua.Trong khi đó, quân Y-sơ-ra-ên chạy trốn, ai nấy về nhà mình. Mọi người trong khắp các chi tộc Y-sơ-ra-ên khởi sự bàn tán: “Chính vua đã giải cứu chúng ta khỏi tay quân thù. Chính vua đã cứu chúng ta khỏi tay quân Phi-li-tin. Và bây giờ vua phải trốn ra khỏi xứ vì Áp-sa-lôm. Còn Áp-sa-lôm mà chúng ta đã xức dầu để làm vua chúng ta, nay đã tử trận. Vậy, bây giờ tại sao anh em ngồi yên, không ngỏ lời mời vua trở về?” Lời mọi người Y-sơ-ra-ên bàn tán đến tai vua Đa-vít. Vua sai nói với hai thầy tế lễ Xa-đốc và A-bia-tha: “Xin hai thầy nói với các trưởng lão Giu-đa như thế này: ‘Tại sao anh em lại là những người cuối cùng mời vua về cung? Anh em là họ hàng, là cốt nhục của ta! Tại sao anh em lại là những người cuối cùng mời vua trở về?’ Xin hai thầy cũng nói với ông A-ma-sa như thế này: ‘Nhà ngươi là cốt nhục của ta. Nguyện Đức Chúa Trời phạt ta thế này, và nặng hơn nữa, nếu từ nay trở đi ngươi không là tướng chỉ huy quân đội của ta thay cho Giô-áp!’” Vua được lòng mọi người Giu-đa. Họ đồng lòng cử người đi mời vua: “Xin bệ hạ và tất cả tôi tớ của bệ hạ trở về.” Vua lên đường trở về. Khi vua đến sông Giô-đanh, người Giu-đa cũng đến Ghinh-ganh để đón vua và đưa vua qua sông Giô-đanh. Ông Sim-y, con ông Ghê-ra, người Bên-gia-min ở Ba-hu-rim, cũng vội vàng đi xuống với người Giu-đa để đón vua Đa-vít. Ông Sim-y dẫn theo một ngàn người Bên-gia-min. Ông Xi-ba, quản gia trong nhà vua Sau-lơ, cùng với mười lăm con trai và hai mươi đầy tớ, vội vàng đến sông Giô-đanh trước nhà vua. Họ lội đi lội về qua khúc sông cạn để đưa hoàng gia qua sông, và để làm mọi việc vua cần.Khi vua chuẩn bị qua sông Giô-đanh, ông Sim-y, con ông Ghê-ra, phủ phục trước mặt vua. Ông thưa với vua: “Xin chúa tôi đừng kể tội cho tôi! Xin bệ hạ đừng nhớ đến tội ác tôi tớ ngài phạm trong ngày vua chúa tôi ra khỏi thành Giê-ru-sa-lem. Xin bệ hạ đừng để tâm đến. Vì tôi tớ ngài biết mình có lỗi, nên hôm nay tôi là người đầu tiên trong các chi tộc miền bắc xuống đây để nghênh đón vua chúa tôi.” Ông A-bi-sai, con bà Xê-ru-gia, quát lên: “Sim-y không đáng bị xử tử vì tội ấy sao? Nó đã rủa sả đấng được CHÚA xức dầu để làm vua!” Vua Đa-vít bảo: “Việc ta can gì đến các ngươi, hỡi các con bà Xê-ru-gia, mà các ngươi lại chống đối ta ngày nay? Có nên xử tử một người nào trong nước Y-sơ-ra-ên ngày hôm nay không? Ta không biết rằng ngày nay ta là vua Y-sơ-ra-ên sao?” Vua bảo ông Sim-y: “Ta hứa với ngươi là ngươi sẽ không bị xử tử.” Ông Mê-phi-bô-sết, cháu nội vua Sau-lơ, cũng đi xuống đón vua. Ông không cắt móng chân cũng không tỉa râu, hay giặt áo, từ ngày vua ra đi cho đến ngày vua trở về bình an. Khi ông đi từ thành Giê-ru-sa-lem xuống đón vua, vua hỏi ông: “Mê-phi-bô-sết, tại sao con không đi với ta?” Ông thưa: “Tâu bệ hạ, chúa tôi! Đầy tớ tôi đã gạt tôi. Hạ thần có bảo nó: ‘Hãy thắng lừa cho ta cưỡi đi theo vua,’ vì hạ thần bị què. Nó đã vu khống hạ thần với bệ hạ chúa tôi. Nhưng bệ hạ chúa tôi giống như thiên sứ của Đức Chúa Trời. Xin bệ hạ xử với tôi cách nào bệ hạ thấy phải. Thật vậy, mọi người trong nhà cha ông tôi đều đáng bị vua chúa tôi xử tử, nhưng bệ hạ đã cho hạ thần được ngồi ăn chung bàn với bệ hạ. Tôi còn quyền gì nữa mà khiếu nại với bệ hạ?” Vua bảo: “Con không cần nói nữa. Ta quyết định cho con và Xi-ba chia đất với nhau.” Mê-phi-bô-sết thưa: “Xi-ba lấy hết cũng được. Bệ hạ chúa tôi trở về nhà bình an là đủ lắm cho tôi rồi.” Ông Bát-xi-lai, người Ga-la-át, cũng từ Rô-ghê-lim xuống, đi theo tiễn vua qua sông Giô-đanh. Ông Bát-xi-lai già lắm rồi, ông được tám mươi tuổi. Chính ông đã cung cấp thực phẩm cho vua suốt thời gian vua ở Ma-ha-na-im, vì ông rất giàu có. Vua bảo ông: “Ông hãy qua sông, về Giê-ru-sa-lem ở cạnh bên ta, ta sẽ cấp dưỡng cho ông.” Nhưng ông Bát-xi-lai thưa với vua: “Tôi còn sống bao nhiêu năm nữa mà lên Giê-ru-sa-lem với bệ hạ? Nay tôi đã tám mươi tuổi. Tôi không còn phân biệt cái hay cái dở nữa. Hạ thần không nếm được vị của đồ ăn, thức uống, cũng không thưởng thức được tiếng hát của các ca sĩ nam nữ. Hạ thần chỉ là gánh nặng cho vua chúa tôi mà thôi. Hạ thần chỉ cố gắng qua sông Giô-đanh với bệ hạ thôi, không đáng được bệ hạ trọng thưởng như vậy. Xin bệ hạ cho phép hạ thần trở về để được chết trong thành mình, gần bên phần mộ của cha mẹ mình. Tuy nhiên, có Kim-ham là tôi tớ của bệ hạ đây. Xin cho nó đi theo bệ hạ chúa tôi, và xin bệ hạ đãi nó theo ý bệ hạ.” Vua đáp: “Kim-ham sẽ đi theo ta, và ta sẽ đãi nó theo ý ông. Ông muốn xin ta điều gì, ta sẽ làm cho ông.” Toàn quân đi qua sông Giô-đanh. Vua cũng đi qua. Rồi vua hôn ông Bát-xi-lai và từ giã ông. Ông Bát-xi-lai trở về quê mình. Vua tiếp tục đi đến Ghinh-ganh, có Kim-ham cùng đi. Toàn quân Giu-đa và phân nửa đội quân Y-sơ-ra-ên cũng đi theo vua. Bấy giờ, mọi người Y-sơ-ra-ên đến thưa với vua: “Tại sao anh em chúng tôi, là người Giu-đa, bắt cóc bệ hạ, và đưa bệ hạ cùng với hoàng gia và tất cả những người theo bệ hạ qua sông Giô-đanh?” Mọi người Giu-đa đáp: “Bởi vì chúng tôi có họ hàng với nhà vua. Tại sao anh em lại bất bình về điều này? Chúng tôi có ăn bám nhà vua không? Vua có ban cho chúng tôi quà cáp gì không?” Người Y-sơ-ra-ên đáp: “Đối với nhà vua, chúng tôi có quyền hơn anh em gấp mười lần, hơn nữa, chúng tôi sanh ra trước anh em. Sao anh em lại khinh rẻ chúng tôi? Chính chúng tôi lên tiếng trước về việc rước nhà vua về.” Nhưng người Giu-đa đáp lại, lý lẽ còn cứng hơn lý lẽ của người Y-sơ-ra-ên nữa. Nào ngờ tại đó có một tay côn đồ, tên là Sê-ba, con ông Bích-ri, người Bên-gia-min. Sê-ba thổi tù và, kêu gọi:“Chúng ta không được phần gì nơi Đa-vít,Cũng chẳng hưởng được gì với con của Y-sai!Anh em Y-sơ-ra-ên, ai nấy hãy trở về nhà mình!” Mọi người Y-sơ-ra-ên đều bỏ vua Đa-vít, theo Sê-ba, con ông Bích-ri; nhưng người Giu-đa vẫn trung thành với vua mình, hộ tống vua từ sông Giô-đanh về Giê-ru-sa-lem. Về đến cung tại Giê-ru-sa-lem, vua sai tìm mười cung phi vua đã để lại giữ cung điện. Vua dời họ về một nhà có người canh giữ; vua cấp dưỡng cho họ nhưng không đi lại với họ. Họ ở góa trong khi chồng vẫn còn sống; và họ bị giam kín cho đến ngày chết. Vua bảo ông A-ma-sa: “Ta cho ngươi ba ngày để tập họp quân đội Giu-đa về đây trình diện ta.” Ông A-ma-sa đi triệu tập binh sĩ Giu-đa, nhưng ông chậm trễ quá hạn vua ấn định. Vậy, vua Đa-vít bảo ông A-bi-sai: “Hiện giờ, Sê-ba, con Bích-ri, có thể làm hại chúng ta hơn cả Áp-sa-lôm. Ngươi hãy chỉ huy đội quân của ta đuổi theo nó, kẻo nó chiếm được vài thành trì kiên cố nào đó và thoát khỏi chúng ta.” Ông A-bi-sai chỉ huy đội quân của ông Giô-áp, đội vệ binh người Kê-rết và người Phê-lết, và tất cả các dũng sĩ, ra khỏi thành Giê-ru-sa-lem, đuổi theo Sê-ba, con ông Bích-ri. Khi họ đến gần tảng đá lớn ở Ga-ba-ôn thì gặp ông A-ma-sa đi tới. Lúc ấy, ông Giô-áp mặc binh phục; ngang đai lưng, ông đeo một thanh gươm đút trong vỏ. Khi ông bước tới, gươm tuột ra khỏi vỏ. Ông Giô-áp chào ông A-ma-sa: “Anh khỏe không?” Tay phải ông nắm lấy râu ông A-ma-sa để hôn ông. Nhưng ông A-ma-sa không để ý đến thanh gươm trong tay trái của ông Giô-áp. Ông này cầm gươm đâm vào bụng ông A-ma-sa, khiến ruột đổ ra xuống đất, và ông chết. Ông Giô-áp không cần đâm nhát thứ hai.Rồi ông Giô-áp và anh là ông A-bi-sai tiếp tục đuổi theo Sê-ba, con ông Bích-ri. Một người lính của ông Giô-áp đứng bên cạnh xác ông A-ma-sa, kêu gọi: “Ai là bạn của ông Giô-áp ai phò vua Đa-vít, hãy theo ông Giô-áp!” Nhưng anh thấy toàn quân đều dừng lại, vì xác của ông A-ma-sa đẫm máu nằm giữa đường cái. Anh liền kéo xác ông vào trong đồng, khỏi đường cái, rồi ném một cái áo lên trên, vì anh thấy ai đến nơi cũng dừng lại. Một khi xác đã dời khỏi đường cái, mọi người đều đi qua theo ông Giô-áp đuổi bắt Sê-ba, con ông Bích-ri. Sê-ba đi qua suốt lãnh thổ của tất cả các chi tộc Y-sơ-ra-ên, đến thành A-bên Bết-ma-a-ca. Tất cả những người trong gia tộc Bích-ri tập họp lại theo Sê-ba cũng vào luôn trong thành. Toàn quân của ông Giô-áp đến vây hãm Sê-ba trong thành A-bên Bết-ma-a-ca. Họ đắp lũy sát vào tường ngoài và đang đào phá cho tường thành đổ xuống, thì một người đàn bà khôn ngoan từ trên tường thành gọi vọng xuống: “Xin nghe đây, xin nghe đây! Xin mời tướng Giô-áp đến gần đây cho tôi thưa chuyện.” Khi ông Giô-áp đến gần, bà hỏi: “Thưa ông là tướng Giô-áp?” Ông đáp: “Ta đây.” Bà nói: “Xin ông nghe nữ tỳ ông thưa vài lời.” Ông bảo: “Ta nghe đây.” Bà nói tiếp: “Người xưa thường nói: ‘Phải hỏi ý dân thành A-bên mới xong việc.’ Chúng tôi là những người hiếu hòa và trung tín trong nước Y-sơ-ra-ên. Nhưng ông lại tìm cách giết hại một thành mẹ trong Y-sơ-ra-ên! Tại sao ông lại muốn hủy diệt cơ nghiệp của CHÚA?” Ông Giô-áp đáp: “Không bao giờ! Không bao giờ ta có ý định hủy diệt hay phá đổ! Không phải vậy đâu! Nhưng có một người từ miền đồi núi Ép-ra-im, tên là Sê-ba, con ông Bích-ri. Nó nổi dậy chống vua Đa-vít. Các ngươi hãy nộp nó cho ta, một mình nó thôi, thì ta sẽ rút quân, không vây thành nữa.” Bà thưa: “Chúng tôi sẽ ném đầu nó qua tường cho ông.” Bà đi gặp mọi người trong thành và trình bày ý kiến khôn ngoan của mình. Họ chặt đầu Sê-ba, con ông Bích-ri, ném xuống cho ông Giô-áp. Ông cho thổi tù và, đoàn quân rút khỏi thành và tản ra, ai về nhà nấy. Còn ông Giô-áp trở về Giê-ru-sa-lem trình diện vua. Ông Giô-áp chỉ huy toàn thể quân đội Y-sơ-ra-ên; ông Bê-na-gia, con ông Giê-hô-gia-đa, chỉ huy đoàn vệ binh người Kê-rết và người Phê-lết. Ông A-đô-ram phụ trách việc lao dịch; ông Giô-sa-phát, con ông A-hi-lút, làm quan thái sư. Ông Sê-va làm tổng thư ký; ông Xa-đốc và ông A-bia-tha làm thầy tế lễ. Ông Y-ra người Giai-rơ cũng làm thầy tế lễ cho vua Đa-vít. Dưới triều vua Đa-vít có một nạn đói kéo dài ba năm liên tiếp. Vua Đa-vít cầu hỏi ý CHÚA. CHÚA phán: “Nạn đói xảy ra vì Sau-lơ và gia đình nó có nợ máu, vì Sau-lơ đã sát hại người Ga-ba-ôn.” Người Ga-ba-ôn không thuộc thành phần dân Y-sơ-ra-ên, nhưng thuộc giống dân A-môn còn sót lại. Dân Y-sơ-ra-ên có thề không giết họ, nhưng vua Sau-lơ, vì lòng nhiệt thành đối với các chi tộc Y-sơ-ra-ên và Giu-đa, đã tìm cách tiêu diệt họ. Vua truyền gọi người Ga-ba-ôn đến. Vua hỏi người Ga-ba-ôn: “Ta phải làm gì cho các ngươi? Ta có cách nào chuộc lỗi vua Sau-lơ đã phạm, để các ngươi cầu xin CHÚA ban phước lành cho cơ nghiệp của Ngài?” Người Ga-ba-ôn thưa: “Bạc vàng không thể giải quyết vấn đề giữa chúng tôi với vua Sau-lơ và dòng dõi vua. Mặt khác, chúng tôi không có quyền giết ai trong dân Y-sơ-ra-ên.” Vua bảo: “Các ngươi muốn xin bất cứ điều chi, ta sẽ làm cho.” Họ tâu với vua: “Đối với người đã sát hại chúng tôi, và mưu toan tuyệt diệt chúng tôi, để chúng tôi không còn tồn tại trên khắp lãnh thổ Y-sơ-ra-ên, xin bệ hạ giao cho chúng tôi bảy người thuộc con cháu của người đó, để chúng tôi treo lên trước mặt CHÚA, tại Ghi-bê-a, thành của vua Sau-lơ, là vua được CHÚA tuyển chọn.” Vua bảo: “Ta sẽ giao chúng nó cho các ngươi.” Vua tha chết cho ông Mê-phi-bô-sết, con ông Giô-na-than, và là cháu nội vua Sau-lơ, vì lời thề với CHÚA giữa hai người, nghĩa là giữa vua Đa-vít và Giô-na-than, con vua Sau-lơ. Vua bắt Ạt-mô-ni và Mê-phi-bô-sết, hai người con trai mà bà Rít-ba, con gái ông Ai-gia, đã sanh cho vua Sau-lơ. Vua cũng bắt năm người con trai mà bà Mê-ráp con gái vua Sau-lơ, đã sanh cho ông Át-ri-ên, con ông Bát-xi-lai, người Mê-hô-la. Vua giao chúng cho người Ga-ba-ôn. Họ treo chúng trên núi, trước mặt CHÚA. Bảy người chết cùng một lúc. Chúng bị xử tử vào những ngày đầu mùa gặt, khi người ta khởi sự gặt lúa mạch. Bà Rít-ba, con gái ông Ai-gia, lấy tấm vải thô trải trên một tảng đá, và bà ở đó từ đầu mùa gặt cho đến khi mưa từ trời đổ xuống trên các xác chết. Ban ngày, bà không cho chim trời đậu trên xác, còn ban đêm, bà không cho thú rừng đến gần. Có người báo cho vua Đa-vít biết những điều bà Rít-ba, con gái ông Ai-gia, cung phi của vua Sau-lơ, đã làm. Vua Đa-vít liền đi gặp các nhà lãnh đạo thành Gia-bết ở Ga-la-át để xin lấy hài cốt vua Sau-lơ và hài cốt con vua là ông Giô-na-than. Những người này đã lấy trộm được xác hai cha con bị quân Phi-li-tin treo lên tại quảng trường Bết-san sau khi chúng hạ sát vua Sau-lơ trên núi Ghinh-bô-a. Vua đem hài cốt vua Sau-lơ và hài cốt con vua là ông Giô-na-than, từ Gia-bết về, rồi sai người thu góp hài cốt của những kẻ bị treo, đem chôn cất cùng với hài cốt của vua Sau-lơ và của ông Giô-na-than, con vua, tại Xê-la thuộc lãnh thổ Bên-gia-min, trong phần mộ của ông Kích, cha vua Sau-lơ. Sau khi họ thi hành xong mọi điều vua truyền, Đức Chúa Trời nhậm lời vua cầu xin và ban phước cho đất nước. Giao tranh lại xảy ra giữa người Phi-li-tin và dân Y-sơ-ra-ên. Vua Đa-vít đích thân cầm quân của mình đi xuống chiến đấu với người Phi-li-tin. Đang khi giao chiến, vua bỗng cảm thấy mệt mỏi. Ích-bi-bê-nốp, một người Phi-li-tin thuộc dòng giống người Ra-pha có cây giáo đồng nặng hơn ba kí rưỡi, gươm mới đeo ngang hông, quyết định giết vua Đa-vít. Nhưng ông A-bi-sai, con bà Xê-ru-gia, tiếp cứu vua. Ông tấn công người Phi-li-tin và giết nó. Bấy giờ quân binh của vua Đa-vít thề: “Bệ hạ sẽ không bao giờ ra trận với chúng tôi nữa, kẻo bệ hạ dập tắt ngọn đèn của dân Y-sơ-ra-ên.” Sau đó, giao tranh lại xảy ra với người Phi-li-tin tại Góp. Trong trận này, ông Si-bê-cai, người Hu-sai, giết được Sáp, thuộc dòng giống người Ra-pha. Trong một trận khác với người Phi-li-tin cũng tại Góp, ông Ên-ha-nan, con ông Gia-ri, người Bết-lê-hem, giết Gô-li-át, người thành Gát, Gô-li-át có cây giáo, cán to như trục khung cửi thợ dệt. Giao tranh lại xảy ra tại thành Gát. Tại đây, có một người khổng lồ, tay chân đều có sáu ngón, tổng cộng hai mươi bốn ngón; người này cũng thuộc dòng giống người Ra-pha. Người này thách dân Y-sơ-ra-ên, liền bị ông Giô-na-than, con ông Si-mê-a, anh vua Đa-vít, giết chết. Bốn người kể trên đều thuộc dòng giống người Ra-pha, thành Gát. Chúng đều ngã gục dưới tay vua Đa-vít và quân binh của vua. Vua Đa-vít dâng lên CHÚA những lời của bài ca này, sau khi CHÚA giải cứu vua khỏi tay mọi kẻ thù và khỏi tay vua Sau-lơ. Vua ca:“Lạy CHÚA là núi đá, là thành lũy, là Đấng giải cứu con! Lạy Đức Chúa Trời là núi đá cho con nương náu,Ngài là thuẫn khiên che chở con,Là Đấng quyền năng cứu chuộc con, Là tháp cao kiên cố, là nơi con trú ẩn,Là Đấng giải cứu, Ngài cứu con thoát khỏi kẻ bạo hành! Lạy CHÚA, con ca ngợi Ngài! Khi con kêu cầu CHÚA,Ngài giải thoát con khỏi kẻ thù nghịch con. Sóng tử thần vây lượn chung quanh,Thác diệt vong cuộn xoay chực sẵn, Dây Âm phủ vương vấn bao quanh,Bẫy tử thần đón chờ con sập. Phút gian nguy con kêu cầu CHÚA,Kêu xin Ngài là Đức Chúa Trời của con,Từ đền thánh Ngài nghe tiếng con,Ngài lắng tai nghe tiếng con kêu cứu. Bấy giờ, đất chuyển mình rúng động,Nền móng các tầng trời rung chuyển lung lay,Vì Chúa nổi giận. Khói bốc lên từ mũi Ngài,Miệng Ngài phát ra ngọn lửa thiêu nuốtVà than hồng cháy rực. Chúa xé các tầng trời, ngự xuống,Chân đạp lớp mây dày đen nghịt. Chúa cưỡi thần hộ giá, vụt bay,Và xuất hiện trên cánh gió. Trướng rủ quanh Ngài là bóng tối,Khối mây dày đọng nước. Than hồng cháy rựcChói sáng trước mặt Ngài. CHÚA cho sấm nổ rền trời,Đấng Tối Cao lên tiếng vang dội. Ngài bắn tên, khiến quân thù tán loạn,Phát chớp nhoáng, chúng bỏ chạy tan hàng. CHÚA quở một tiếng,Đáy biển xuất hiện;Ngài nổi giận,Nền móng trái đất phơi trần. Từ trời cao Chúa đưa tay nắm lấy con,Vớt con lên khỏi nước sâu thăm thẳm. Ngài cứu con thoát khỏi kẻ thù cường bạo,Khỏi những kẻ ghét con, và mạnh thế hơn con. Chúng tấn công con ngày con lâm nạn,Nhưng CHÚA phù hộ con. Ngài đưa con ra khỏi cảnh nguy nan,Ngài giải cứu con vì Ngài thương con. CHÚA ban thưởng con vì con vâng lời Ngài,Ngài ban phước cho con vì tay con trong sạch. Con giữ theo các đường lối CHÚA dạy,Không làm ác xây bỏ Đức Chúa Trời con tôn thờ. Con vâng theo mọi mạng lệnh Ngài truyền,Không lìa bỏ một điều răn nào. Chúa biết con hoàn toàn vâng theo Ngài,Và giữ mình, không làm điều ác. Vậy, CHÚA ban phước cho con vì con vâng lời Ngài,Vì Chúa biết con trong sạch. Chúa bền lòng thương xót người nào trung thành vâng lời Ngài,Chúa đối xử trọn vẹn với người hoàn toàn vâng theo Ngài. Chúa đối xử ngay thẳng với người chân thật thanh liêm,Nhưng Ngài trừng phạt kẻ gian xảo xứng đáng với việc làm của chúng. Chúa giải cứu người khiêm nhu hạ mình,Nhưng mắt Ngài thấy kẻ kiêu ngạo, Ngài hạ họ xuống. Lạy CHÚA, Ngài là ngọn đèn của con,CHÚA soi chiếu vào đời con, xua tan bóng tối tử vong và tội lỗi. Nhờ sức Ngài, con tấn công quân thù,Cậy ơn Đức Chúa Trời, con phóng qua tường thành. Lạy Đức Chúa Trời, đường lối Ngài trọn vẹn;Lời CHÚA hứa đáng tin cậy hoàn toàn.Ngài là thuẫn khiên che chởMọi người ẩn náu bên Ngài. Ngoài CHÚA ra, ai là Đức Chúa Trời?Ai là núi đá an toàn, ngoài Đức Chúa Trời chúng con tôn thờ? Lạy Đức Chúa Trời, Ngài là nơi trú ẩn vững chắc của con,Ngài giữ cho con đi lại an toàn. Ngài cho chân con nhanh nhẹn như chân nai,Ngài đặt con đứng vững vàng trên đỉnh núi. Chúa luyện tay con thạo việc chinh chiến,Cánh tay con giương nổi cung đồng. Chúa che chở và giải cứu con,Chúa hạ mình xuống để nâng con lên. Chúa mở rộng đường cho con bước đi,Nên con không vấp ngã. Con đuổi theo, hủy diệt quân thù,Chỉ trở về sau khi tận diệt chúng. Con tận diệt chúng, con đập tan chúng,Chúng không đứng dậy nổi, chúng ngã gục dưới chân con. Chúa ban cho con sức mạnh để chiến đấu,Chúa khiến đối phương quỳ mọp dưới chân con. Chúa bắt kẻ thù quay lưng chạy trốn,Con tiêu diệt những kẻ oán thù con. Chúng kêu cứu nhưng không ai cứu giúp,Chúng kêu cầu CHÚA, nhưng Ngài không đáp lời. Con nghiền tan chúng như bụi đất,Con giẫm nát chúng, chà đạp chúng như bùn ngoài đường. Dân con phản loạn, Chúa cứu con thoát khỏi;Ngài giữ con làm đầu các nước,Dân xa lạ phải thần phục con. Người nước ngoài cúi mọp trước mặt con,Nghe đến con, tức khắc tuân theo. Người nước ngoài tiêu tan khí phách,Từ trong đồn lũy, run rẩy bước ra. Lạy CHÚA Hằng Sống! Con ca ngợi Ngài là núi đá cho con nương náu!Con tôn vinh Đức Chúa Trời, Ngài là núi đá che chở con, Ngài cứu con thoát khỏi hiểm nguy! Lạy Đức Chúa Trời, Ngài là Đấng báo thù cho con,Ngài bắt các dân thần phục con, Ngài giải cứu con khỏi kẻ thù,Cho con chiến thắng đối phương,Cứu con thoát khỏi kẻ bạo tàn. Vì thế, lạy CHÚA, con xin tôn vinh Ngài giữa muôn dân,Và ca hát ngợi khen danh Ngài. Chúa ban chiến thắng vẻ vang cho vua Ngài chọn,Chúa yêu thương người được Chúa xức dầu với tình yêu bền bỉ, không dời đổi.Chúa yêu thương Đa-vít và dòng dõi người đến muôn đời.” Đây là những lời cuối cùng của vua Đa-vít:Lời của Đa-vít, con ông Y-sai,Lời của người được nhấc lên cao,Người được Đức Chúa Trời của nhà Gia-cốp xức dầu tấn phong;Người sáng tác những bài ca được dân Y-sơ-ra-ên ưa chuộng: Thần Linh CHÚA dùng ta phán dạy,Sứ điệp Ngài ở nơi lưỡi ta. Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên truyền dạy,Núi Đá của dân Y-sơ-ra-ên phán với ta:“Người nào cai trị nhân loại cách công minh,Người nào cai trị với lòng kính sợ Đức Chúa Trời, Sẽ như ánh sáng ban mai, lúc mặt trời mọcVào một buổi sáng trời quang mây tạnh,Ánh hào quang rực rỡ sau cơn mưa,Làm cây cỏ xanh tươi mọc lên từ lòng đất.” Đức Chúa Trời chắc chắn sẽ ban phước cho dòng dõi ta như vậy!Vì Ngài đã lập với ta một giao ước đời đời,Có quy định đầy đủ, không đổi dời.Mọi thành công, mọi điều ta ao ước,Ngài sẽ cho nẩy mầm. Nhưng phường gian ác, hết thảy chúng đều bị nhổ bỏ như gai gốc.Không ai dám nắm chúng trong tay. Người nào đụng đến chúng,Phải có dụng cụ bằng sắt, hoặc gỗ, cây giáo.Chúng bị đốt cháy rụi trong lửa, ngay tại chỗ. Đây là tên các dũng sĩ của vua Đa-vít: ông Giô-sép Ba-sê-bết, người Tách-kê-môn, đứng đầu các dũng sĩ. Người ta cũng gọi ông là A-đi-nô, người Ê-xen. Ông giết chết tám trăm người cùng một lúc. Kế đến trong số ba dũng sĩ là ông Ê-lê-a-sa, con ông Đô-đô, người A-hô-hi. Ông theo vua Đa-vít khi họ thách quân Phi-li-tin đã tụ tập về đó để giao chiến. Quân Y-sơ-ra-ên rút lui. Nhưng ông giữ vững vị trí và chém giết quân Phi-li-tin cho đến khi bàn tay ông mệt mỏi dính chặt vào thanh gươm. Quân Y-sơ-ra-ên trở về ủng hộ ông, nhưng chỉ để lột xác chết. Ngày hôm ấy, CHÚA cho dân Y-sơ-ra-ên chiến thắng vẻ vang. Kế đến là ông Sam-ma, con ông A-ghê, người Ha-ra. Quân Phi-li-tin tụ về Lê-hi. Tại đó có một thửa đất trồng đậu lăng. Quân Y-sơ-ra-ên chạy trốn quân Phi-li-tin. Nhưng ông đứng giữa thửa đất, đánh giết quân Phi-li-tin và bảo vệ vườn đậu. CHÚA cho dân Y-sơ-ra-ên chiến thắng vẻ vang. Ba người trong Nhóm Ba Mươi dũng sĩ hàng đầu đi xuống hang đá A-đu-lam vào mùa gặt để gặp vua Đa-vít. Một đạo binh Phi-li-tin đang đóng quân trong thung lũng Rê-pha-im. Chúng đã chiếm đóng thành Bết-lê-hem. Lúc ấy, vua Đa-vít đang ở trong đồn ẩn náu. Vua nhớ nhà và nói: “Ước chi có ai cho ta uống nước lấy ở giếng từ cổng thành Bết-lê-hem!” Vậy ba dũng sĩ đột nhập trại quân Phi-li-tin, lấy nước từ giếng bên cổng thành Bết-lê-hem, đem về cho vua Đa-vít. Nhưng vua từ chối, không uống. Vua đổ nước ra, dâng lên CHÚA. Vua thưa: “Lạy CHÚA, xin đừng cho con uống nước ấy, vì đây là máu của những người đã liều mạng mình đi lấy về cho con.” Vậy vua từ chối, không uống nước. Đó là những thành tích của ba dũng sĩ. Ông A-bi-sai, anh ông Giô-áp, con bà Xê-ru-gia, đứng đầu các dũng sĩ. Ông vung gươm, chém giết ba trăm người, nên có tên trong nhóm ba dũng sĩ. Ông được tôn trọng hơn Nhóm Ba Mươi và chỉ huy họ, nhưng không được vào Bộ Ba. Ông Bê-na-gia, con ông Giê-hô-gia-đa, ở Cáp-xê-ên, là con một dũng sĩ, đạt được nhiều thành tích. Chính ông đã giết hai con trai của ông A-ri-ên, người Mô-áp. Chính ông cũng đã xuống hầm giết một con sư tử vào một ngày tuyết giá. Chính ông cũng đã giết một tên Ai-cập khổng lồ. Tên Ai-cập cầm giáo, trong khi ông Bê-na-gia chỉ có cây gậy. Ông giật cây giáo khỏi tay tên Ai-cập, và lấy giáo của nó mà giết nó. Ông Bê-na-gia, con ông Giê-hô-gia-đa, đã lập được những thành tích đó nên ông có tên trong nhóm ba dũng sĩ. Ông được tôn trọng hơn Nhóm Ba Mươi, nhưng không được vào Bộ Ba. Vua Đa-vít cử ông chỉ huy đoàn vệ binh. Trong Nhóm Ba Mươi có ông A-sa-ên, em ông Giô-áp; Ên-ha-nan, con ông Đô-đô, ở Bết-lê-hem; ông Sam-ma ở Ha-rốt; ông Ê-li-ca cũng ở Ha-rốt; ông Hê-lết, người Phan-ti, ông Y-ra, con ông Y-kết ở Thê-cô-a; ông A-bi-ê-se ở A-na-tốt; ông Mê-bu-nai ở Hu-sa; ông Sanh-môn, thuộc dòng dõi ông A-hô-a; ông Ma-ha-rai ở Nê-tô-pha; ông Hê-lép, con ông Ba-a-na, ở Nê-tô-pha; ông Y-tai, con ông Ri-bai, ở Ghi-bê-a thuộc lãnh thổ Bên-gia-min; ông Bê-na-gia ở Phi-ra-thôn; ông Hi-đai ở vùng khe suối núi Ga-ách; ông A-bi-anh-bôn ở A-ra-ba; ông Át-ma-vết ở Ba-hu-rim; ông Ên-gia-ba ở Sa-an-bim; ông Gia-sen ở Gu-ni; ông Giô-na-than, con ông Sam-ma ở Ha-ra; ông A-hi-am, con ông Sa-ra, ở A-ra; ông Ê-li-phê-lết, con ông A-hát-bai ở Ma-a-ca; ông Ê-li-am, con ông A-hi-tô-phen ở Ghi-lô; ông Hết-rai ở Cạt-mên; ông Pha-rai ở A-ráp; ông Gích-an, con ông Na-than ở Xô-ba; ông Ba-ni, người Gát; ông Xê-léc người Am-môn; ông Na-ha-rai ở Bê-ê-rốt, người mang khí giới của ông Giô-áp, con bà Xê-ru-gia; ông Y-ra người Gít-rơ; ông Ga-rép, người Gít-rơ; ông U-ri người Hết.Tổng cộng là ba mươi bảy dũng sĩ. CHÚA lại nổi giận với dân Y-sơ-ra-ên. Ngài giục vua Đa-vít gây hại cho họ. Ngài phán với vua: “Hãy đi đếm dân Y-sơ-ra-ên và dân Giu-đa.” Vua bảo ông Giô-áp, tướng chỉ huy quân lực, đang ở với vua: “Hãy đi điều tra dân số khắp các chi tộc Y-sơ-ra-ên, từ thành Đan phía bắc đến Bê-e-sê-ba ở phía nam, cho ta biết tổng số dân trong tuổi lính tráng là bao nhiêu.” Ông Giô-áp tâu với vua: “Cầu xin CHÚA là Đức Chúa Trời của bệ hạ ban cho bệ hạ một đội quân đông gấp trăm lần đội quân hiện tại. Cầu xin Ngài cho chính mắt vua chúa tôi thấy được điều đó. Nhưng tại sao vua chúa tôi lại muốn làm việc này?” Tuy nhiên lệnh vua truyền không thay đổi, nên ông Giô-áp và các sĩ quan trong quân lực buộc lòng phải cáo lui và ra đi điều tra dân số khắp lãnh thổ Y-sơ-ra-ên. Họ đi qua sông Giô-đanh và khởi sự đếm dân số từ thành A-rô-e, và một thành ở giữa thung lũng rồi đi lên hướng địa phận Gát đến thành Gia-xe. Họ đến địa phận Ga-la-át, đi xuyên qua lãnh thổ người Hết, đến thành Ca-đết, đến Đan Gia-an rồi vòng về thành Si-đôn. Họ đến Ty-rơ, một thành lũy kiên cố, và đi khắp các thành của người Hê-vi và người Ca-na-an. Cuối cùng, họ đến Bê-e-sê-ba, thuộc vùng sa mạc miền nam địa phận Giu-đa. Họ trở về thành Giê-ru-sa-lem sau khi đi khắp lãnh thổ, mất chín tháng hai mươi ngày. Ông Giô-áp trình lên vua kết quả cuộc điều tra dân số: Y-sơ-ra-ên có tám trăm ngàn binh sĩ biết tuốt gươm, và Giu-đa có năm trăm ngàn. Sau khi điều tra dân số xong, vua Đa-vít bị lương tâm cắn rứt và thưa với CHÚA: “Lạy Chúa, con đã làm một việc rất ngu dại và phạm tội nặng. Giờ đây, con xin CHÚA tha tội cho đầy tớ của Ngài.” Sáng hôm sau, trước khi vua Đa-vít dậy, CHÚA bảo tiên tri Gát, là tiên tri phục vụ tại triều vua Đa-vít: “Con hãy đi nói với Đa-vít: ‘CHÚA phán như vầy: Ta có ba cách để sửa trị ngươi. Ta cho phép ngươi chọn một trong ba, rồi Ta sẽ theo đó mà sửa trị ngươi.’” Tiên tri Gát đến thuật lại cho vua Đa-vít nghe. Tiên tri hỏi vua: “Bệ hạ chọn điều nào: bảy năm đói kém trên khắp lãnh thổ của bệ hạ, hoặc ba tháng bệ hạ phải chạy trốn trong khi quân thù đuổi theo bệ hạ, hoặc ba ngày bệnh dịch lan tràn khắp đất nước? Bây giờ, xin bệ hạ cân nhắc thận trọng, xem tôi phải thưa lại Đấng sai bảo tôi như thế nào.” Vua Đa-vít nói với tiên tri Gát: “Ta bối rối vô cùng, ta khó chọn quá. Thà chúng ta rơi vào tay CHÚA còn hơn, vì Ngài rộng lòng thương xót! Xin đừng cho ta rơi vào tay loài người!” Vậy CHÚA giáng bệnh dịch xuống dân Y-sơ-ra-ên từ sáng hôm đó cho đến giờ ấn định. Từ Đan đến Bê-e-sê-ba, có bảy mươi ngàn người chết. Thiên sứ đưa tay ra hướng về thành Giê-ru-sa-lem để hủy diệt thành, nhưng CHÚA không muốn gây thêm khổ đau nên bảo thiên sứ đang hủy diệt dân chúng: “Đủ rồi! Rút tay về đi!” Bấy giờ thiên sứ của CHÚA ở bên sân đạp lúa của ông A-rau-na, người Giê-bu. Khi vua Đa-vít thấy thiên sứ giết hại dân chúng, vua thưa với CHÚA: “Chính con là người phạm tội, chính con là người lỗi lầm! Còn những con chiên này, chúng có làm gì đâu? Xin cho tay CHÚA giáng xuống con và dòng họ nhà cha con!” Ngay hôm ấy, tiên tri Gát đến nói với vua Đa-vít: “Xin bệ hạ đi đến sân đạp lúa của ông A-rau-na người Giê-bu và dựng tại đó một bàn thờ để thờ CHÚA.” Vua Đa-vít đi ngay theo lời chỉ dẫn của tiên tri Gát, y như CHÚA đã truyền dạy ông. Ông A-rau-na nhìn ra, thấy vua và triều thần tiến về phía mình, ông liền đi ra, cúi sấp mặt xuống đất, vái lạy vua. Ông A-rau-na thưa: “Tâu vua chúa tôi đến gặp hạ thần có điều chi dạy bảo?” Vua Đa-vít bảo: “Ta đến mua sân đạp lúa của ngươi. Ta phải dựng bàn thờ lên tại đây để thờ CHÚA và để cho bệnh dịch này ngưng, không hủy diệt dân chúng nữa.” Ông A-rau-na thưa với vua Đa-vít: “Xin vua chúa tôi tùy nghi sử dụng sân đạp lúa này và dâng tế lễ theo ý bệ hạ. Thưa đây có sẵn bò để dâng tế lễ toàn thiêu, cũng có bàn đạp lúa và ách bò để làm củi. Tâu bệ hạ, A-rau-na xin dâng bệ hạ tất cả những thứ đó.” Ông A-rau-na thưa tiếp: “Cầu xin CHÚA là Đức Chúa Trời của bệ hạ nhậm lời bệ hạ!” Nhưng vua đáp: “Không được. Ta muốn mua và trả tiền sòng phẳng cho ngươi. Ta không muốn dâng lên CHÚA là Đức Chúa Trời của ta những của lễ toàn thiêu mà ta không mất tiền mua.” Vậy vua Đa-vít mua sân đạp lúa và bò với giá khoảng mười sáu lượng bạc. Vua Đa-vít dựng lên tại đó một bàn thờ để thờ CHÚA. Vua dâng lên CHÚA tế lễ toàn thiêu và tế lễ cầu an. CHÚA nhậm lời vua cầu xin cho đất nước, và bệnh dịch ngưng hủy hoại dân Y-sơ-ra-ên. Vua Đa-vít đã già và tuổi cao, mặc dù người ta đắp cho vua mấy lớp áo, vua vẫn không cảm thấy đủ ấm. Các bề tôi của vua bèn tâu với vua: “Xin hãy để người ta tìm cho hoàng thượng, chúa của hạ thần, một trinh nữ trẻ, để nàng sẽ hầu hạ và chăm sóc hoàng thượng. Hãy để nàng nằm trong lòng hoàng thượng, như thế hoàng thượng, chúa của hạ thần, mới có thể ấm được.” Vậy họ phái người đi tìm một thiếu nữ xinh đẹp trong khắp lãnh thổ Y-sơ-ra-ên, và tìm được A-bi-sắc, người Su-nem, rồi họ đem nàng đến cho vua. Người thiếu nữ nầy rất đẹp. Nàng trở thành người hầu hạ và săn sóc cho vua, nhưng vua không có liên hệ tình dục với nàng. Bấy giờ hoàng tử A-đô-ni-gia, con trai hoàng phi Ha-ghít, tự tôn mình lên rằng: “Ta sẽ làm vua.” A-đô-ni-gia sắm cho chàng các xe chiến mã, những người đánh xe, và năm mươi người chạy trước chàng. Cha chàng chẳng bao giờ trách cứ chàng một lời, mà hỏi rằng: “Tại sao con làm như thế?” Chàng lại là một thanh niên tuấn tú đẹp trai, sanh kế sau hoàng tử Áp-sa-lôm. Chàng bàn luận với Giô-áp con trai Xê-ru-gia và thầy tế lễ A-bia-tha. Họ đồng lòng ủng hộ A-đô-ni-gia. Nhưng thầy tế lễ Xa-đốc, Bê-na-gia con trai Giê-hô-gia-đa, tiên tri Na-than, Si-mê-i, Rê-i, và các dũng sĩ của Đa-vít không theo phe A-đô-ni-gia. A-đô-ni-gia tổ chức một buổi lễ dâng các chiên, bò, và thú mập làm sinh tế trên một vầng đá ở Xô-hê-lết, gần Ên Rô-ghên. Chàng mời tất cả các hoàng tử, tức là các con trai của vua, và tất cả các vị quan trong triều đang ở Giu-đa; nhưng chàng không mời tiên tri Na-than, hay Bê-na-gia, hay các dũng sĩ, hay hoàng tử Sa-lô-môn, em chàng. Bấy giờ Na-than nói với Bát-sê-ba, mẹ Sa-lô-môn rằng: “Bà há không nghe hoàng tử A-đô-ni-gia, con trai Ha-ghít, đã tự xưng làm vua mà chúa Đa-vít chúng ta không hay biết gì sao? Vậy bây giờ hãy lại đây để tôi bày kế cho, hầu có thể cứu mạng bà và mạng Sa-lô-môn, con trai bà. Hãy đi lập tức đến gặp vua Đa-vít và tâu với vua rằng: Tâu hoàng thượng: ‘Há chẳng phải hoàng thượng đã thề với đứa tớ gái của hoàng thượng rằng: Con ngươi là Sa-lô-môn chắc chắn sẽ kế vị ta để làm vua, nó sẽ ngồi trên ngai ta sao? Thế mà sao bây giờ A-đô-ni-gia lại làm vua?’ Rồi đang khi bà còn ở đó tâu với vua thì tôi sẽ theo sau bà và xác nhận lời bà.” Thế là Bát-sê-ba đến gặp vua trong ngự phòng. Vua đã già yếu lắm. Có A-bi-sắc, người Su-nem đang hầu hạ vua. Bát-sê-ba sấp mình phủ phục trước mặt vua. Vua hỏi: “Ngươi muốn gì?” Bà tâu: “Tâu hoàng thượng, hoàng thượng đã có thề với tiện thiếp trước mặt CHÚA là Đức Chúa Trời của hoàng thượng rằng: Con trai ngươi là Sa-lô-môn sẽ kế vị ta để làm vua, nó sẽ ngồi trên ngai ta. Nhưng bây giờ thình lình A-đô-ni-gia đã trở thành vua, mà chúa của tiện thiếp là hoàng thượng chưa hay biết gì cả. A-đô-ni-gia đã dâng sinh tế bằng bò, thú mập, và thật nhiều chiên. Hoàng tử đã mời tất cả các hoàng tử khác, luôn cả thầy tế lễ A-bia-tha, quan Tổng Binh Giô-áp, nhưng tôi tớ của hoàng thượng là Sa-lô-môn thì không được mời. Tâu hoàng thượng, mọi mắt của cả nước Y-sơ-ra-ên đang nhìn vào hoàng thượng chờ xem hoàng thượng bảo cho họ biết ai sẽ ngồi trên ngai để kế vị hoàng thượng. Nếu không, rồi đây khi hoàng thượng đã trở về an giấc cùng các tổ phụ mình, thì Sa-lô-môn con trai tiện thiếp và chính tiện thiếp sẽ bị xem như những kẻ tội đồ.” Đang khi bà còn tâu với vua thì tiên tri Na-than bước vào. Người ta tâu với vua: “Có tiên tri Na-than đến đây.” Khi tiên tri đến trước mặt vua, ông quỳ sấp mặt xuống đất bái kiến vua. Tiên tri Na-than tâu: “Tâu hoàng thượng, chúa của hạ thần, có phải hoàng thượng đã nói rằng: ‘A-đô-ni-gia sẽ kế vị ta để làm vua, và nó sẽ ngồi trên ngai ta chăng?’ Vì hôm nay hoàng tử đã đi xuống dâng sinh tế bằng bò, thú mập, và rất nhiều chiên. Hoàng tử cũng đã mời tất cả các con của hoàng thượng, quan Tổng Binh Giô-áp, và thầy tế lễ A-bia-tha. Bây giờ họ đang ăn uống trước mặt hoàng tử và chúc mừng rằng: ‘Vua A-đô-ni-gia vạn tuế!’ Nhưng hoàng tử không có mời hạ thần, là tôi tớ của hoàng thượng, hay thầy tế lễ Xa-đốc, hay Bê-na-gia con trai Giê-hô-gia-đa, hay tôi tớ của hoàng thượng là Sa-lô-môn. Phải chăng việc nầy là do hoàng thượng, chúa của hạ thần, đã sắp đặt như vậy, mà hoàng thượng không muốn cho bầy tôi của hoàng thượng biết trước ai sẽ ngồi trên ngôi của hoàng thượng, chúa của hạ thần, để kế vị hoàng thượng chăng?” Vua Đa-vít phán: “Hãy truyền Bát-sê-ba gặp ta.” Người ta đưa bà vào triều kiến vua, và bà đứng trước mặt vua. Vua thề rằng: “Nguyện Chúa là Đấng hằng sống, Đấng đã giải cứu sinh mạng ta ra khỏi mọi nghịch cảnh, như ta đã thề với ngươi trước mặt CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên rằng: ‘Con trai ngươi là Sa-lô-môn sẽ kế vị ta làm vua, và nó sẽ ngồi trên ngai ta thay thế cho ta.’ Ta sẽ thực hiện điều đó hôm nay.” Bát-sê-ba liền quỳ sấp mặt xuống đất, bái lạy vua và tâu: “Nguyện chúa của tiện thiếp là vua Đa-vít sống đời đời!” Vua Đa-vít phán: “Hãy triệu cho ta thầy tế lễ Xa-đốc, tiên tri Na-than, và Bê-na-gia con trai Giê-hô-gia-đa.” Khi họ đến trước mặt vua, vua bảo họ: “Các ngươi hãy đem các tôi tớ của chúa các ngươi đi theo, đỡ Sa-lô-môn, con trai ta, cỡi trên con lừa của ta, rồi đem nó xuống Ghi-hôn. Tại đó thầy tế lễ Xa-đốc và tiên tri Na-than hãy xức dầu nó làm vua trên Y-sơ-ra-ên. Rồi các ngươi hãy thổi kèn và rao lên rằng: ‘Vua Sa-lô-môn vạn tuế!’ Sau đó các ngươi hãy theo nó đi lên. Hãy đưa nó vào triều và ngồi trên ngai ta. Nó sẽ làm vua thế cho ta. Vì ta có chỉ định nó trị vì trên toàn cõi Y-sơ-ra-ên và Giu-đa.” Bê-na-gia con trai Giê-hô-gia-đa tâu với vua: “A-men! Nguyện CHÚA là Đức Chúa Trời của hoàng thượng, chúa của hạ thần, chuẩn y như vậy. Nguyện Chúa là Đấng đã ở với hoàng thượng, chúa của hạ thần, cũng sẽ ở với Sa-lô-môn, và khiến cho ngôi nước người lớn hơn ngôi nước của vua Đa-vít, là chúa của hạ thần.” Vậy thầy tế lễ Xa-đốc, tiên tri Na-than, Bê-na-gia con trai Giê-hô-gia-đa, những người Kê-rê-thít và người Phê-lê-thít đi xuống, đỡ Sa-lô-môn cỡi lên con lừa của vua Đa-vít và dẫn Sa-lô-môn đi xuống Ghi-hôn. Tại đó thầy tế lễ Xa-đốc lấy cái sừng đựng dầu trong lều và xức dầu cho Sa-lô-môn. Rồi họ thổi kèn và mọi người reo lên: “Vua Sa-lô-môn vạn tuế!” Tất cả dân chúng đều theo Sa-lô-môn đi lên, họ thổi sáo và reo mừng rất lớn đến nỗi đất rúng động vì tiếng reo hò của họ. A-đô-ni-gia và tất cả quan khách của chàng đều nghe tiếng reo hò đó nhằm lúc vừa mãn tiệc. Khi Giô-áp nghe tiếng kèn thì hỏi: “Tại sao trong thành náo nhiệt như vậy?” Khi ông còn đang nói thì Giô-na-than con trai thầy tế lễ A-bia-tha vừa đến. A-đô-ni-gia nói: “Hãy vào đây, ông là một người được kính trọng, thế nào ông cũng đem tin mừng.” Giô-na-than đáp lời A-đô-ni-gia: “Không đâu! Vì chúa của chúng ta là vua Đa-vít đã lập Sa-lô-môn làm vua rồi. Hoàng thượng đã sai thầy tế lễ Xa-đốc, tiên tri Na-than, Bê-na-gia con trai Giê-hô-gia-đa, người Kê-rê-thít và người Phê-lê-thít, và họ đã đỡ Sa-lô-môn cỡi trên con lừa của vua. Thầy tế lễ Xa-đốc và tiên tri Na-than đã xức dầu cho Sa-lô-môn làm vua tại Ghi-hôn, và họ đã reo mừng mà đi lên; ấy chính là tiếng huyên náo trong thành. Đó là tiếng reo hò mà quý vị đã nghe. Sa-lô-môn bây giờ đang ngồi trên ngai vua. Hơn nữa các tôi tớ của hoàng thượng đã đến chúc mừng chúa của chúng ta là vua Đa-vít rằng: ‘Nguyện Đức Chúa Trời khiến cho danh của Sa-lô-môn nổi hơn danh hoàng thượng và ngôi nước của người trổi hơn ngôi nước của hoàng thượng.’ Nhà vua đã sấp mình xuống nơi long sàng để thờ lạy, và đã cầu nguyện như vầy: ‘Chúc tụng Chúa, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Đấng hôm nay đã cho con có một người ngồi trên ngôi của con và cho phép mắt con được chứng kiến điều nầy.’” Bấy giờ tất cả các quan khách của A-đô-ni-gia đều đứng dậy, run sợ và ai đi đường nấy. A-đô-ni-gia sợ hãi Sa-lô-môn, bèn đi lên nắm lấy sừng ở góc bàn thờ. Người ta báo cáo cho Sa-lô-môn điều đó: “A-đô-ni-gia đang sợ vua Sa-lô-môn. Kìa, ông ấy đang nắm lấy sừng ở góc bàn thờ và nói rằng: ‘Xin vua Sa-lô-môn thề với tôi hôm nay rằng vua sẽ không giết tôi tớ của vua bằng gươm.’” Vậy Sa-lô-môn đáp: “Nếu hắn chứng tỏ hắn là một con người xứng đáng, thì không một sợi tóc nào của hắn sẽ bị rơi xuống đất; nhưng kể từ nay nếu hắn có điều chi gian ác, thì hắn ắt phải chết.” Rồi vua Sa-lô-môn sai người đem A-đô-ni-gia xuống khỏi bàn thờ. A-đô-ni-gia bèn đến bái phục vua Sa-lô-môn. Vua Sa-lô-môn phán bảo: “Ngươi hãy về nhà của ngươi đi.” Khi ngày Đa-vít qua đời đến gần, Đa-vít khuyên dặn Sa-lô-môn, con trai của mình rằng: “Cha sắp đi vào con đường mọi người trên đất phải đi qua. Vậy con hãy mạnh mẽ, hãy chứng tỏ con là một bậc trượng phu, và hãy để ý kỹ những gì CHÚA là Đức Chúa Trời của con đòi hỏi nơi con. Con hãy đi trong đường lối Ngài, vâng giữ những mạng lịnh, điều răn, luật pháp và quy tắc của Ngài như đã chép trong kinh luật Môi-se, để con được thịnh vượng trong mọi việc con làm và nơi nào con đi đến, hầu cho Chúa sẽ giữ lời hứa của Ngài đã hứa với cha rằng: ‘Nếu hậu tự của ngươi biết cẩn trọng sống trước mặt Ta; nếu chúng hết lòng và hết tâm hồn mà bước đi cách trung thành trước mặt Ta, thì ngươi sẽ không lo có một người kế vị ngồi trên ngôi của Y-sơ-ra-ên.’ Ngoài ra, con cũng biết những việc Giô-áp con trai Giê-ru-a đã làm cho cha, thế nào hắn đã đối với hai vị chỉ huy quân đội Y-sơ-ra-ên, tức là Áp-ne con trai Nê-rơ và A-ma-sa, con trai Giê-the. Hắn đã giết hai người ấy, làm đổ máu họ ra trong thời bình như thể ngoài trận mạc. Hắn đã làm vấy máu chiến trường nơi đai lưng của hắn và trên giày của hắn mang nơi chân. Con hãy dựa vào sự khôn ngoan của con mà xử sự trong việc nầy, và đừng để đầu bạc của hắn bình an đi xuống âm phủ. Con hãy đối xử tử tế với các con trai Bát-xi-lai, người Ga-la-át; hãy để họ ăn đồng bàn với con. Vì họ đã đứng bên cha, khi cha chạy trốn khỏi Áp-sa-lôm, anh con. Con cũng có Si-mê-i, con trai Ghê-ra, người Bên-gia-min, ở Ba-hu-rim. Hắn đã lấy những lời độc hại rủa sả cha trong ngày cha đi đến Ma-ha-na-im, nhưng khi hắn xuống đón cha ở bờ sông Giô-đanh, cha có nhân danh Chúa mà thề với hắn rằng: ‘Ta sẽ không giết ngươi bằng gươm.’ Nhưng con chớ coi hắn là vô tội, vì con khôn ngoan và biết phải đối xử với hắn thể nào. Con hãy làm cho hắn phải mang đầu bạc dính máu mà xuống âm phủ.” Rồi Đa-vít an giấc cùng các tổ phụ mình, và được chôn trong thành Đa-vít. Những ngày Đa-vít trị vì trên Y-sơ-ra-ên là bốn mươi năm. Vua trị vì bảy năm tại Hếp-rôn và ba mươi ba năm tại Giê-ru-sa-lem. Vậy Sa-lô-môn ngồi trên ngai Đa-vít, cha mình, và vương quốc của Sa-lô-môn được thiếp lập vững vàng. A-đô-ni-gia, con trai Ha-ghít đến gặp Bát-sê-ba, mẹ của Sa-lô-môn. Bà hỏi: “Ngươi đến có ý bình an chăng?”A-đô-ni-gia đáp: “Vâng, bình an.” Rồi nói tiếp: “Xin cho tôi có một lời thưa cùng bà.”Bà đáp: “Hãy nói đi.” A-đô-ni-gia nói: “Chắc bà cũng biết là vương quốc nầy đáng lý thuộc về tôi, và cả Y-sơ-ra-ên đều mong đợi tôi trị vì, nhưng vương quốc đã quay trở thành của em tôi, ấy là do nơi Chúa mà thôi. Nhưng bây giờ tôi có một điều muốn xin bà, mong bà đừng từ chối.”Bà đáp: “Hãy nói đi.” A-đô-ni-gia nói, “Xin bà hãy nói với vua Sa-lô-môn, vì vua chẳng từ chối với bà điều gì, xin vua ban cho tôi A-bi-sắc, người Su-nem, làm vợ.” Bát-sê-ba đáp: “Được, ta sẽ nói với vua cho ngươi.” Bát-sê-ba đến gặp vua Sa-lô-môn để xin vua giùm cho A-đô-ni-gia. Vua đứng dậy đón bà và cúi đầu trước mặt bà; đoạn vua ngồi xuống trên ngai, rồi truyền đem một ngai nữa cho thái hậu, và bà ngồi bên phải vua. Bấy giờ bà nói: “Mẹ có một việc nhỏ xin con, mong con đừng từ chối.”Vua đáp: “Thưa mẹ, xin mẹ hãy nói, con sẽ không từ chối đâu.” Bà nói: “Hãy ban A-bi-sắc, người Su-nem, làm vợ A-đô-ni-gia, anh con.” Nhưng vua Sa-lô-môn đáp với thái hậu rằng: “Tại sao mẹ lại xin A-bi-sắc, người Su-nem, cho A-đô-ni-gia? Sao mẹ không xin cả vương quốc nầy cho anh ấy luôn. Vì anh ấy là anh của con mà. Sao mẹ không xin cho anh ấy thầy tế lễ A-bia-tha và Giô-áp, con trai Giê-ru-a luôn một thể đi.” Bấy giờ vua Sa-lô-môn nhân danh Chúa mà thề rằng: “Nguyện Chúa đối xử với tôi, nguyện Ngài phạt tôi cách nặng nề, nếu A-đô-ni-gia không bị thiệt mạng vì lời yêu cầu nầy. Vậy bây giờ, tôi nhân danh Chúa hằng sống, là Đấng đã làm cho tôi được vững vàng, đã đặt tôi trên ngai của Đa-vít, cha tôi, và xây dựng một nhà cho tôi, mà nói rằng, A-đô-ni-gia phải bị xử tử hôm nay.” Vua Sa-lô-môn truyền lịnh cho Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa. Bê-na-gia đến giết A-đô-ni-gia và A-đô-ni-gia chết. Vua truyền cho thầy tế lễ A-bia-tha: “Hãy về A-na-tốt, nơi sản nghiệp ngươi, vì ngươi đáng chết. Nhưng hôm nay ta không giết ngươi, vì ngươi có khiêng rương của Chúa Hằng Hữu trước mặt Đa-vít, cha ta, và vì ngươi có chia sẻ những khổ cực mà cha ta đã gánh chịu.” Vậy, Sa-lô-môn đuổi A-bia-tha đi, không cho làm thầy tế lễ truớc mặt Chúa nữa, hầu cho lời của Chúa đã phán tại Si-lô về gia tộc của thầy tế lễ Hê-li được ứng nghiệm. Khi tin nầy đến tai Giô-áp, vì Giô-áp đã ủng hộ A-đô-ni-gia, dù ông không ủng hộ Áp-sa-lôm, thì ông liền trốn đến Đền Tạm của Chúa và nắm lấy sừng ở góc bàn thờ. Người ta tâu với vua Sa-lô-môn rằng: “Giô-áp đã trốn đến Đền Tạm của Chúa, và kìa ông ấy đang nắm lấy sừng ở góc bàn thờ.”Sa-lô-môn truyền cho Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa rằng: “Hãy đi, giết hắn đi.” Vậy Bê-na-gia đến Đền Tạm của Chúa và nói với ông: “Vua truyền rằng: Ông hãy ra khỏi nơi đó.”Nhưng Giô-áp đáp: “Không. Ta sẽ chết ở đây.”Bê-na-gia về tâu lại cho vua: “Tôi có nói với Giô-áp thế nầy, và ông ấy đã đáp lại thế kia.” Vua phán: “Hãy làm y như ông ấy đã nói. Hãy giết ông ấy và đem chôn ông ấy đi. Như thế ta và nhà cha ta sẽ được cất khỏi máu vô tội mà Giô-áp đã làm chảy ra vô cớ. Chúa sẽ báo trả những hành động đẫm máu lại trên đầu ông ấy. Bởi vì, trong khi cha ta là Đa-vít không biết, thì ông ấy đã tấn công và giết chết hai người ngay lành và tốt hơn ông ấy. Đó là Áp-ne, con trai Nê-rơ, chỉ huy quân đội Y-sơ-ra-ên, và A-ma-sa, con trai Giê-the, chỉ huy quân đội Giu-đa. Vậy máu của họ sẽ đổ lại trên đầu của Giô-áp và trên đầu của dòng dõi ông ấy đời đời; nhưng Đa-vít và dòng dõi người, cùng nhà người, và ngôi nước người sẽ được bình an từ nơi Chúa mãi mãi.” Vậy Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, đi lên, đánh hạ Giô-áp và giết chết ông ta. Người ta chôn ông ta tại nhà ông, gần sa mạc. Vua đặt Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, chỉ huy quân đội thay cho Giô-áp, và vua cũng đặt thầy tế lễ Xa-đốc thay thế chức vụ của A-bia-tha. Sau đó vua truyền cho Si-mê-i vào chầu và phán: “Hãy cất cho ngươi một cái nhà trong Giê-ru-sa-lem và ở đó. Chớ đi ra khỏi đó để đi đây đi đó. Vì ngươi khá biết rằng hễ ngày nào ngươi ra khỏi đó mà vượt qua khỏi khe Kít-rôn thì ngươi chắc sẽ chết. Máu của ngươi sẽ đổ lại trên đầu ngươi.” Si-mê-i tâu với vua: “Lời của hoàng thượng thật chí lý. Hoàng thượng là chúa của hạ thần đã truyền dạy thế nào, hạ thần sẽ làm y như vậy.” Vậy Si-mê-i sống ở Giê-ru-sa-lem lâu ngày. Nhưng sau ba năm, có hai đầy tớ của Si-mê-i bỏ trốn đến A-kích, con trai Ma-a-ca, vua của Gát. Người ta báo cho Si-mê-i rằng: “Kìa, các đầy tớ của ông đang ở tại Gát.” Si-mê-i liền chỗi dậy, thắng lừa, và đi đến Gát, gặp A-kích để tìm các đầy tớ của ông. Vậy Si-mê-i đi đến Gát và bắt các đầy tớ của ông về. Khi vua Sa-lô-môn được tâu rằng Si-mê-i đã rời Giê-ru-sa-lem đi đến Gát và đã trở về, vua cho gọi Si-mê-i vào và nói với ông: “Có phải ta đã bắt ngươi thề trước mặt Chúa và cảnh cáo ngươi rằng: ‘Ngày nào ngươi rời khỏi Giê-ru-sa-lem mà đi đây đi đó thì ngươi chắc sẽ chết sao?’ Ngươi đã nói với ta rằng: ‘Lời vua nói rất đúng. Tôi sẽ tuân theo.’ Thế tại sao ngươi không vâng giữ lời ngươi đã thề trước mặt CHÚA và tuân theo lệnh ta đã truyền cho ngươi?” Vua lại nói tiếp với Si-mê-i: “Ngươi đã biết và lòng ngươi cũng đã quá rõ những việc ác mà ngươi đã làm cho Đa-vít, cha ta. Bây giờ Chúa sẽ báo trả cho ngươi những việc ác ngươi đã làm. Nhưng vua Sa-lô-môn sẽ được ban phước, và ngôi của Đa-vít sẽ tồn tại cách vững bền trước mặt CHÚA đến đời đời.” Đoạn, vua truyền lịnh cho Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa. Ông ấy đi đánh hạ Si-mê-i và Si-mê-i chết.Bấy giờ vương quốc được thiết lập vững vàng trong tay Sa-lô-môn. Sa-lô-môn kết đồng minh với Pha-ra-ôn, vua Ai-cập. Vua cưới công chúa của Pha-ra-ôn rồi đưa nàng về thành Đa-vít, cho đến khi vua hoàn thành công trình xây cất cung điện cho mình, Đền Thờ cho Chúa, và tường thành bao quanh Giê-ru-sa-lem. Tuy nhiên dân chúng vẫn còn dâng tế lễ trong các đền miếu trên những nơi cao, vì đến bấy giờ vua vẫn chưa xây được Đền Thờ cho danh Chúa. Sa-lô-môn kính mến Chúa, bước đi theo những huấn lệnh của Đa-vít, thân phụ vua, ngoại trừ vua vẫn còn dâng tế lễ và đốt hương trong các đền miếu trên những nơi cao. Vua đi đến Ga-ba-ôn để dâng tế lễ, vì đó là ngôi đền trên nơi cao quan trọng nhất. Tại đó Sa-lô-môn dâng trên bàn thờ một ngàn sinh tế làm của lễ thiêu. Tại Ga-ba-ôn, ban đêm Chúa hiện ra cùng Sa-lô-môn trong một giấc chiêm bao, Đức Chúa Trời phán rằng: “Hãy cầu xin Ta bất cứ điều gì ngươi muốn, Ta sẽ ban cho.” Sa-lô-môn thưa: “Ngài đã lấy lòng nhân từ đối cùng tôi tớ Ngài là Đa-vít, cha con, vì cha con đã hết lòng bước đi cách trung thành, ngay lành, và trung chính trước mặt Ngài. Ngài lại tiếp tục bày tỏ lòng nhân từ lớn lao ấy đối với cha con mà ban cho cha con một con trai để ngồi trên ngai của cha con cho đến ngày nay. Bây giờ, ôi lạy CHÚA là Đức Chúa Trời của con, Ngài đã cho kẻ tôi tớ Ngài được làm vua thay thế cho Đa-vít, cha con, nhưng con chỉ là một đứa trẻ, không biết phải điều khiển việc nước như thể nào. Tôi tớ Ngài lại ở giữa tuyển dân của Ngài, là một dân lớn và thật đông đúc, không thể đếm hết được. Vậy xin Ngài ban cho kẻ tôi tớ Ngài một tâm trí khôn sáng, một khả năng phân biệt chính tà để trị vì dân Ngài, vì ai là người có thể trị vì một dân lớn của Ngài như thế nầy được?” Chúa rất hài lòng vì Sa-lô-môn đã xin điều ấy. Vậy Đức Chúa Trời phán với vua: “Bởi vì ngươi có xin điều nầy mà không xin cho ngươi được sống lâu hay giàu có, ngươi cũng không xin cho những kẻ thù của ngươi bị tiêu diệt, nhưng lại xin sự khôn sáng để thi hành công lý. Nầy, Ta sẽ ban cho ngươi điều ngươi cầu xin. Nầy, Ta sẽ ban cho ngươi tâm trí khôn ngoan thông sáng, đến nỗi trước ngươi chưa có ai bằng và sau ngươi sẽ không ai sánh kịp. Hơn nữa, Ta sẽ ban cho ngươi những điều ngươi không cầu xin. Ngươi sẽ được cả giàu có lẫn tôn trọng, đến nỗi trọn đời ngươi, không một vua nào có thể sánh bằng ngươi. Nếu ngươi cứ bước đi trong đường lối Ta, vâng theo các luật lệ và điều răn Ta, như Đa-vít cha ngươi đã làm, thì Ta sẽ cho ngươi được trường thọ.” Rồi Sa-lô-môn thức giấc, và nhận biết rằng ấy là một giấc chiêm bao. Vua trở về Giê-ru-sa-lem, đứng trước Rương Giao Ước của Chúa và dâng cho Ngài những của lễ thiêu và của lễ tạ ơn. Rồi vua mở một yến tiệc thiết đãi tất cả quần thần của mình. Bấy giờ có hai người gái điếm đến đứng trước mặt vua. Một người nói: “Tâu chúa thượng, người đàn bà nầy và tôi sống chung với nhau một nhà. Tôi sinh được một con trai, trong lúc chị ấy đang ở nhà với tôi. Ngày thứ ba, sau khi tôi sinh con, chị ấy cũng sinh một con trai. Chỉ có hai chúng tôi ở trong nhà, không có một người xa lạ nào khác. Đang đêm, con trai của chị ấy chết, bởi vì chị ngủ đè trên nó. Cho nên nửa đêm chị ấy thức dậy, đang lúc tôi ngủ mê, chị đến bế con trai tôi đang ở bên cạnh tôi đi. Chị đem cháu đặt vào lòng chị, rồi chị đem đứa con đã chết của chị để vào lòng tôi. Sáng hôm sau, tôi dậy cho con bú, thì kìa, nó đã chết rồi. Nhưng đến khi trời sáng, tôi nhìn kỹ, thì biết rằng đó không phải là đứa con tôi đã sinh ra.” Người đàn bà kia nói: “Không! Đứa sống là con tôi, đứa chết là con chị.”Nhưng người nọ nhất định: “Không! Đứa chết là con chị, đứa sống là con tôi.” Vậy họ cãi nhau trước mặt vua. Vua phán: “Người nầy nói: ‘Con tôi là đứa sống còn con chị là đứa chết,’ trong khi người kia nói: ‘Không! Con chị là đứa chết còn con tôi là đứa sống.’” Rồi vua truyền: “Hãy đem cho ta một thanh gươm.” Vậy họ mang đến cho vua một thanh gươm. Đoạn vua truyền lịnh: “Hãy chặt đứa bé còn sống đó ra làm hai, rồi cho người nầy một nửa và cho người kia một nửa.” Người đàn bà có đứa con còn sống rất xúc động vì thương con, liền tâu với vua: “Xin đừng, tâu chúa thượng. Hãy cho chị ấy đứa bé đi. Xin đừng giết nó!”Nhưng người kia nói: “Nó sẽ không là con của chị và cũng không là con của tôi. Cứ chặt nó ra làm hai đi.” Bấy giờ vua phán quyết: “Hãy trao đứa bé còn sống cho người thứ nhất. Đừng giết nó. Người ấy chính là mẹ nó.” Khi cả Y-sơ-ra-ên đã nghe phán quyết của vua, họ lấy làm kính phục vua, vì họ thấy rằng vua có sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời để thi hành công lý. Vua Sa-lô-môn trị vì trên toàn cõi Y-sơ-ra-ên. Sau đây là quần thần của vua:A-xa-ria, con trai của Xa-đốc, làm thầy tế lễ; Ê-li-ô-rếp và A-hi-gia, hai con trai của Si-sa, là hai bí thư;Giê-hô-sa-phát, con trai A-hi-lút, làm ngự sử; Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, chỉ huy quân đội;Xa-đốc và A-bia-tha, làm thầy tế lễ; A-xa-ria, con trai Na-than, chỉ huy các quan lại;Xa-bút, con trai Na-than, làm thầy tế lễ và cố vấn của vua; A-hi-sa, làm tổng quản hoàng cung;A-đô-ni-ram, con trai Áp-đa, đặc trách việc lao dịch. Sa-lô-môn có mười hai quan trưởng trên toàn cõi Y-sơ-ra-ên, họ phụ trách cung cấp lương thực cho vua và mọi người trong triều đình. Mỗi người chịu trách nhiệm cung cấp một tháng trong một năm. Đây là tên của họ:Con trai Hu-rơ, đặc trách vùng đồi núi Ép-ra-im. Con trai Đê-ke, đặc trách vùng Ma-cát, Sa-an-bim, Bết Sê-mết, và Ê-lơn thuộc Bết Ha-nan. Con trai Hê-sết, đặc trách vùng A-ru-bốt, ông ấy cũng quản nhiệm vùng Sô-cô và toàn xứ Hê-phê; Con trai A-bi-na-đáp, đặc trách toàn vùng cao nguyên Đô-rơ. Vợ ông là công chúa Ta-phát, ái nữ của Sa-lô-môn. Ba-a-na, con trai A-hi-lút, đặc trách vùng Ta-a-nác, Mê-ghi-đô, cả xứ Bết Sê-an, là xứ gần Xạt-han, phía dưới Ghít-rê-ên, và từ Bết Sê-an cho đến A-bên Mê-hô-la, chạy dài đến tận phía bên kia Giốc-mê-am. Con trai Ghê-be, ở Ra-mốt Ga-la-át, đặc trách các làng của Giai-rơ con trai Ma-na-se, trong miền Ga-la-át; ông cũng cai trị vùng Ạt-gốp trong xứ Ba-san, gồm sáu mươi thành có tường bao quanh và cổng thành có những thanh cài làm bằng đồng. A-hi-na-đáp, con trai I-đô, đặc trách vùng Ma-ha-na-im. A-hi-mát, đặc trách vùng Nép-ta-li. Ông cưới công chúa Bạch-mai, ái nữ của Sa-lô-môn, làm vợ. Ba-a-na, con trai Hu-sai, đặc trách vùng A-se và Bê-a-lốt. Giê-hô-sa-phát, con trai Pha-ru-ác, đặc trách vùng Y-sa-ca. Si-mê-i, con trai Ê-la, đặc trách vùng Bên-gia-min. Ghê-be, con trai U-ri, đặc trách vùng Ga-la-át, ngày trước là lãnh thổ của vua Si-hôn, người A-mô-rít, và vua Óc của Ba-san. Chỉ một mình ông làm quan cai trị trên cả xứ nầy. Dân Giu-đa và Y-sơ-ra-ên đông như cát trên bờ biển. Họ ăn, uống, và vui sướng. Sa-lô-môn trị vì trên các vương quốc từ sông Ơ-phơ-rát đến xứ Phi-li-tin, tận đến biên giới Ai-cập. Người ta phải triều cống và phục vụ vua Sa-lô-môn trọn đời của vua. Mỗi ngày trong hoàng cung của Sa-lô-môn người ta tiêu thụ sáu ngàn sáu trăm lít bột mịn, mười ba ngàn hai trăm lít bột thô, mười con bò mập béo nuôi trong chuồng, hai mươi con bò nuôi ngoài đồng, một trăm con chiên, không kể nai, hoàng dương, mang rừng, và gà vịt nuôi mập. Sa-lô-môn trị vì trên các nước phía tây sông Ơ-phơ-rát, từ Típ-sắc đến Ga-xa; tất cả các nước phía tây sông Ơ-phơ-rát đều ở dưới quyền của vua, vua giao hảo thân thiện với tất cả các nước xung quanh. Trọn đời Sa-lô-môn trị vì, Giu-đa và Y-sơ-ra-ên, từ Đan cho đến Bê-e-sê-ba, sống an cư lạc nghiệp, ai nấy đều sống an lành dưới bóng cây nho và cây vả của mình. Vua Sa-lô-môn cũng có bốn mươi ngàn chuồng ngựa để nuôi ngựa kéo các xe chiến mã, do mười hai ngàn kỵ binh điều khiển. Các quan trưởng từng vùng, cứ theo tháng đã định cho họ, cung cấp mọi nhu cầu thực phẩm cho vua Sa-lô-môn và tất cả những ai đến nơi bàn của vua Sa-lô-môn. Họ không để cho thiếu vật chi. Họ còn đem đến nơi đã chỉ định lúa mạch và rơm cho ngựa và ngựa kéo các xe chiến mã theo số đã quy định cho họ. Đức Chúa Trời ban cho vua Sa-lô-môn sự khôn ngoan, thông sáng, và một khả năng hiểu biết uyên bác vô kể như cát trên bờ biển vậy. Sự khôn ngoan của Sa-lô-môn trổi hơn sự khôn ngoan của mọi người ở phương Đông, trổi hơn sự khôn ngoan của mọi người ở Ai-cập. Sa-lô-môn khôn ngoan hơn mọi người khác, kể cả Ê-than, người Ết-ra-hít; nhà vua khôn ngoan hơn Hê-man, Canh-côn, và Đạt-đa, là các con trai của Ma-hôn. Danh tiếng của vua thật lẫy lừng trong các nước xung quanh. Vua nói ra ba ngàn câu châm ngôn và sáng tác một ngàn lẻ năm bài hát. Vua luận về các thảo mộc, từ cây bá hương ở Li-ban cho đến cây bài hương mọc ở bờ tường. Vua giảng giải về các thú vật và chim chóc, loài bò sát và loài cá. Thiên hạ từ mọi nước kéo đến lắng nghe sự khôn ngoan của vua Sa-lô-môn. Các vua trên đất khi nghe nói về sự khôn ngoan của vua Sa-lô-môn đều phái người đến triều kiến. Khi Hi-ram vua Ty-rơ nghe rằng Sa-lô-môn đã được xức dầu làm vua kế vị cho cha là Đa-vít, vua bèn sai các sứ giả đến triều kiến Sa-lô-môn, vì vua là bạn của vua Đa-vít lúc sinh tiền. Sa-lô-môn gởi sứ điệp đến vua Hi-ram tâu rằng: “Vua chắc đã biết rằng vì chiến tranh giặc giã bao quanh tứ phía, nên thân phụ tôi không thể xây cất một Đền Thờ cho danh Chúa, là Đức Chúa Trời của người được cho đến khi Chúa đã cho người đè bẹp các kẻ thù của người dưới chân. Nhưng bây giờ Chúa, là Đức Chúa Trời của tôi, đã ban cho tôi được bình an tứ phía, không còn quân nghịch và cũng chẳng có họa tai. Vậy nên tôi muốn xây cất một Đền Thờ cho danh Chúa, là Đức Chúa Trời của tôi, như Chúa đã phán với Đa-vít, thân phụ tôi rằng: ‘Con trai ngươi, là kẻ Ta sẽ đặt trên ngôi kế vị ngươi, sẽ xây một Đền Thờ cho danh Ta.’ Vậy xin vua hãy ban lịnh cho đốn những cây bá hương ở Li-ban cho tôi. Người của tôi sẽ làm việc với người của vua. Tôi sẽ trả lương cho người của vua theo mức do vua ấn định. Vì vua cũng biết rằng chúng tôi không có ai thạo nghề đốn gỗ bằng người Si-đôn.” Khi Hi-ram nghe xong những lời ấy, vua rất đỗi vui mừng và nói: “Chúc tụng Chúa, vì ngày nay Ngài đã ban cho Đa-vít một đứa con khôn ngoan để trị vì trên một nước lớn như thế nầy.” Vậy Hi-ram sai người đến nói với Sa-lô-môn: “Tôi đã nhận được sứ điệp vua đã sai người đến báo với tôi. Tôi sẽ làm cho vua mọi điều vua muốn về việc gỗ bá hương và gỗ tùng. Người của tôi sẽ di chuyển các gỗ đó từ Li-ban xuống biển, rồi tôi sẽ đóng bè và đưa đến nơi vua chỉ định. Tại đó tôi sẽ rã bè và vua sẽ lấy đi. Còn vua, xin vua hãy làm cho tôi điều tôi muốn, ấy là cung cấp lương thực cho cả triều đình của tôi.” Như thế Hi-ram cung cấp cho Sa-lô-môn tất cả gỗ bá hương và gỗ tùng vua muốn. Còn Sa-lô-môn cung cấp cho Hi-ram hai mươi ngàn thùng lúa mì làm lương thực cho triều đình của người. Ngoài ra, vua còn cấp thêm cho Hi-ram hai mươi thùng dầu ô-liu nguyên chất nữa. Sa-lô-môn cung cấp như thế cho Hi-ram hằng năm. Chúa ban cho Sa-lô-môn sự khôn ngoan như Ngài đã phán với vua. Giữa Hi-ram và Sa-lô-môn có mối giao hảo thân thiện với nhau, và hai vua kết ước với nhau. Vua Sa-lô-môn truyền cho cả dân Y-sơ-ra-ên đi dân công. Có ba mươi ngàn người đáp ứng. Vua phái họ thay phiên nhau đến Li-ban, mỗi tháng mười ngàn người. Vậy họ ở Li-ban một tháng và ở nhà hai tháng. A-đô-ni-gia chỉ huy lực lượng dân công nầy. Sa-lô-môn có bảy mươi ngàn người khuân vác và tám mươi ngàn người đục đá trên núi. Ngoài ra còn có ba ngàn ba trăm người do vua bổ nhiệm để quản lý công trình xây cất và điều động nhân công. Theo lịnh vua, họ cho đục những tảng đá quý thành những phiến đá vuông vức và to lớn để làm nền Đền Thờ. Những thợ khéo của Sa-lô-môn và Hi-ram, cùng với người Ghi-bê đốn gỗ và đục đá chuẩn bị cho việc xây cất Đền Thờ. Vào năm bốn trăm tám mươi, sau khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai-cập, tức là năm thứ tư của triều đại Sa-lô-môn trị vì trên dân Y-sơ-ra-ên, vào tháng Di, tức là tháng thứ hai, vua bắt đầu xây cất Đền Thờ cho Chúa. Ngôi đền mà vua Sa-lô-môn xây cất cho Chúa có chiều dài ba mươi thước, chiều rộng mười thước, và chiều cao mười lăm thước. Tiền đình ở phía trước chính điện của Đền Thờ có chiều dài mười thước, theo chiều rộng của Đền Thờ, và rộng năm thước, nối theo chiều dài của Đền Thờ. Vua cũng làm những cửa sổ có chấn song cho Đền Thờ. Dọc theo tường quanh chính điện và nơi chí thánh vua xây các tầng lầu với nhiều phòng chái. Tầng dưới rộng hai thước rưỡi, tầng giữa rộng ba thước, và tầng thứ ba rộng ba thước rưỡi. Vua cho xây các vách tường thụt vào để các cây đà của các tầng lầu có thể gác đầu trên các vách nhưng không đâm vào vách của Đền Thờ. Khi xây cất đền, người ta chỉ dùng những khối đá đã được đục sẵn nơi các hầm đá, nên đang khi xây cất không ai nghe tiếng búa, đục, hay một dụng cụ bằng sắt nào cả. Lối vào tầng dưới nằm về hông phía nam của Đền Thờ. Người ta dùng một thang hình xoắn ốc đi lên tầng giữa, rồi từ tầng giữa đi lên tầng thứ ba. Vậy vua xây cất Đền Thờ và hoàn tất công trình xây cất ấy. Vua đóng trần Đền Thờ bằng những cây đà ngang và những phiến gỗ bá hương. Vua cũng xây các phòng dọc theo tường Đền Thờ. Mỗi phòng cao hai thước rưỡi. Những phòng ấy dính liền với Đền Thờ bằng những cây đà gỗ bá hương. Có lời của Chúa phán với Sa-lô-môn rằng: “Về ngôi đền mà ngươi đang xây cất đây, nếu ngươi đi theo các mạng lịnh Ta, thi hành các luật lệ Ta, giữ gìn mọi điều răn Ta và vâng theo chúng, thì Ta sẽ làm trọn những lời Ta đã hứa với Đa-vít, cha ngươi, trên đời sống ngươi. Ta sẽ ngự giữa dân Y-sơ-ra-ên và Ta sẽ không bỏ Y-sơ-ra-ên, dân Ta.” Vậy Sa-lô-môn xây cất Đền Thờ và hoàn tất công trình xây cất ấy. Vua dùng ván bá hương lát tường trong Đền Thờ, từ nền cho đến trần. Còn mặt nền của Đền Thờ thì vua lát bằng ván gỗ tùng. Vua dùng ván bá hương ngăn mười thước phía trong của Đền Thờ, từ nền cho đến trần, thành một Nơi Cực Thánh, và gọi là Nơi Chí Thánh. Phần chính điện ở phía trước của Nơi Chí Thánh dài hai mươi thước. Tường bên trong của Đền Thờ được lát toàn bằng ván bá hương chạm trổ những hình trái bầu và hoa nở. Chỗ nào cũng là gỗ bá hương chứ không thấy đá. Vua cũng chuẩn bị một Nơi Chí Thánh trong Đền Thờ để đặt rương giao ước của Chúa tại đó. Nơi Chí Thánh đó dài mười thước, rộng mười thước, và cao mười thước. Vua dát toàn Nơi Chí Thánh nầy bằng vàng ròng. Vua cũng dát vàng ròng cho bàn thờ làm bằng gỗ bá hương. Sa-lô-môn dát vàng ròng bên trong của Đền Thờ. Vua cho giăng một dây xích làm bằng vàng ở phía trước Nơi Chí Thánh, là nơi cũng được dát bằng vàng. Vậy vua dát vàng toàn cả phía trong của Đền Thờ cho đến nỗi không còn một chỗ nào là không được dát vàng. Vua cũng dát vàng bàn thờ để trong Nơi Chí Thánh. Trong Nơi Chí Thánh, vua làm hai chê-ru-bim bằng gỗ ô-liu, mỗi chê-rúp cao năm thước. Một cánh của chê-rúp dài hai thước rưỡi, cánh kia cũng dài hai thước rưỡi; vậy từ đầu cánh nầy đến đầu cánh kia là năm thước. Chê-rúp thứ hai cũng đo được năm thước. Vì hai chê-ru-bim đều giống nhau về cả kích thước lẫn hình dạng. Chiều cao của một chê-rúp là năm thước; chê-rúp thứ hai cũng vậy. Vua đặt hai chê-ru-bim với đôi cánh giang ra nầy vào Nơi Chí Thánh của Đền Thờ. Một cánh của một chê-rúp đụng ở tường nầy, một cánh của chê-rúp kia đụng ở tường kia, hai cánh còn lại thì chạm vào nhau ở chính giữa Nơi Chí Thánh. Vua dát cả hai chê-ru-bim bằng vàng. Trên tường chung quanh Đền Thờ, vua chạm hình các chê-ru-bim, các cây kè, và những cành hoa nở, cả trong Nơi Chí Thánh lẫn Nơi Thánh. Vua cũng dát vàng mặt nền của Đền Thờ, cả Nơi Chí Thánh lẫn Nơi Thánh. Lối vào Nơi Chí Thánh, vua làm hai cánh cửa bằng gỗ ô-liu, gắn vào hai trụ cửa có năm cạnh. Trên hai cánh cửa bằng gỗ ô-liu, vua chạm hình các chê-ru-bim, các cây kè, và những cành hoa nở. Vua dát vàng hình các chê-ru-bim và các cây kè bằng vàng cán mỏng. Lối vào Nơi Thánh cũng vậy, vua làm các trụ cửa có bốn cạnh bằng gỗ ô-liu. Vua cũng làm hai cửa bằng gỗ tùng; cửa nầy có hai cánh xoay trên bản lề và cửa kia cũng có hai cánh xoay trên bản lề. Vua chạm hình các chê-ru-bim, các cây kè, và những cành hoa nở trên các cánh cửa, rồi lấy vàng khảm đều vào những đường nét đã chạm. Vua cũng xây cất sân trong của Đền Thờ với ba hàng đá quý được đục đẽo mỹ thuật và một hàng xà ngang bằng gỗ bá hương. Năm thứ tư, vào tháng Di, nền Đền Thờ của Chúa được khai móng. Năm thứ mười một, tháng Bun, tức là tháng tám, công trình xây cất Đền Thờ được hoàn tất đúng theo các chi tiết về kiểu mẫu và kích thước đã định. Vua mất bảy năm mới xây cất xong Đền Thờ. Sa-lô-môn cũng xây cất cung điện cho mình. Vua hoàn tất công trình xây cất đó trong mười ba năm. Vua xây cung điện Rừng Li-ban. Cung điện ấy dài năm mươi thước, rộng hai mươi lăm thước, và cao mười lăm thước. Cung điện được xây trên bốn hàng cột gỗ bá hương; gỗ bá hương cũng được dùng làm đà đặt trên các hàng cột gỗ bá hương. Trần cung điện được lát bằng gỗ bá hương, do bốn mươi lăm cây đà nâng đỡ, mười lăm cây mỗi dãy, các đà ấy đều gát đầu trên cột. Có ba dãy cửa sổ, các cửa sổ đối diện nhau, và cứ mỗi ba cửa sổ thì thành một bộ. Gỗ của tất cả các cửa và khung cửa đều có bốn cạnh, đối diện nhau, và cứ ba cửa thì thành một bộ. Vua cũng xây một hành lang bằng cột, hành lang ấy dài hai mươi lăm thước, rộng mười lăm thước. Phía trước hành lang là một vòm mặt tiền với một hàng cột và một mái hiên. Vua cũng xây một triều cung để đặt ngai vàng, là nơi vua xét đoán; đó là Cung Công Lý. Cung ấy được lát bằng gỗ bá hương từ sàn cho đến trần. Còn cung thất là nơi vua ở thì nằm phía sau triều cung, cũng có lối kiến trúc như thế. Sa-lô-môn cũng xây một cung tương tự cho công chúa Pha-ra-ôn, mà vua đã cưới làm vợ. Tất cả các cung điện nầy đều được xây bằng đá quý; các đá ấy được đục đẽo cắt xén theo kích thước đã định sẵn, cả phía trước lẫn phía sau, từ nền cho đến trần, từ bên ngoài cho đến đại sảnh. Nền các cung điện làm bằng những phiến đá quý và lớn, mỗi phiến rộng bốn thước và dài năm thước. Xây trên nền là các phiến đá thượng hạng đã cắt sẵn theo kích thước và gỗ bá hương. Chung quanh đại sảnh là ba hàng đá và một hàng đà bằng gỗ bá hương, giống như nội sảnh của Đền Thờ Chúa và tiền đình của Đền Thờ. Vua Sa-lô-môn sai người mời Hu-ram ở Ty-rơ về. Ông là con một góa phụ thuộc chi tộc Nép-ta-li, cha ông là một người Ty-rơ, một chuyên viên làm đồ đồng. Hu-ram là một người có tài khéo, kinh nghiệm và có kiến thức về nghệ thuật và kỹ thuật làm đồ đồng. Ông đến với vua Sa-lô-môn và làm mọi việc vua giao cho ông. Hu-ram đúc hai trụ đồng, mỗi trụ cao chín thước; chu vi mỗi trụ là sáu thước, nếu lấy dây mà đo. Ông cũng đúc hai đầu trụ bằng đồng, để đặt trên đầu hai trụ. Chiều cao của đầu trụ nầy là hai thước rưỡi, chiều cao của đầu trụ kia cũng hai thước rưỡi. Ông cũng làm một lưới bằng đồng gắn trên đầu mỗi trụ, lưới ấy do những dây chuyền đồng kết lại, các dây chuyền nầy được đúc theo hình các đóa hoa. Có bảy dây chuyền cho đầu trụ nầy và bảy dây chuyền cho đầu trụ kia. Hu-ram cũng đúc hai hàng trái thạch lựu bằng đồng, gắn bên ngoài lưới bằng đồng, ở trên đầu trụ, để tô điểm cho đầu trụ đẹp đẽ. Ông làm như vậy cho mỗi đầu trụ. Các đầu trụ đặt trên các trụ dựng nơi tiền đình đều được đúc theo hình hoa huệ, lớn hai thước. Ở ngoài mặt, trên chóp mỗi đầu trụ, gần lưới bằng đồng, ông cho đúc một hàng hai trăm trái thạch lựu, gắn quanh đầu trụ. Rồi ông dựng hai trụ ấy nơi tiền đình của Đền Thờ. Ông dựng một trụ bên phải và đặt tên là Gia-kin, ông dựng một trụ bên trái và đặt tên là Bô-ách. Mỗi đầu trụ đặt trên chóp trụ đều có hình hoa huệ. Vậy công việc làm hai trụ đồng được hoàn tất. Hu-ram cũng đúc một bể nước tròn, bằng đồng, đường kính của miệng bể là năm thước; bể nước nầy cao hai thước rưỡi, với chu vi là mười lăm thước nếu lấy dây mà đo. Ông cũng cho đúc hai hàng hình các trái bầu quanh mép bể, cứ nửa thước là mười trái. Ông cho đúc như thế cùng một lượt với khi đúc bể. Bể nước bằng đồng nầy được đặt trên lưng mười hai con bò đứng quay đuôi vào nhau. Ba con nhìn về hướng bắc, ba con nhìn về hướng tây, ba con nhìn về hướng nam, và ba con nhìn về hướng đông. Thành bể dày bằng bề ngang của mặt bàn tay, và mép bể giống như mép chén có hình hoa huệ. Bể nầy chứa được bốn mươi bốn ngàn lít nước. Hu-ram cũng làm mười chiếc xe bằng đồng, mỗi xe dài hai thước, rộng hai thước, và cao một thước rưỡi. Kiểu của mỗi xe như sau: mỗi xe đều có những tấm đồng gắn vào khung. Trên mỗi tấm đồng gắn vào khung đó có chạm hình các sư tử, các bò đực, và chê-ru-bim. Phía trên và phía dưới các hình của các sư tử và các bò đực lại chạm khắc những tràng hoa. Mỗi xe có bốn bánh bằng đồng và các trục bằng đồng. Ở bốn góc xe lại có bốn cái chân trụ để chịu đựng sức nặng đặt trên xe. Bốn chân trụ nầy được đúc liền với khung xe và ngoài mặt các chân ấy có chạm khắc hình các tràng hoa. Trên mặt xe là một khung tròn làm đế, khung nầy lồi lên nửa thước, và lõm xuống bảy tấc rưỡi. Mặt của thành khung được chạm khắc mỹ thuật. Mặt của thành khung được làm bằng những tấm đồng vuông, chứ không tròn. Dưới các tấm đồng trên thân xe là bốn bánh và các trục bánh xe. Mỗi bánh xe cao bảy tấc rưỡi. Các bánh xe nầy cũng được làm giống như bánh xe của xe chiến mã. Cây trục, vành, căm, và bộ trục đều được đúc cả. Ở bốn góc xe, dưới bốn chân trụ là bốn cái đế được đúc liền với xe. Trên mặt xe cũng có một niền tròn, cao hai tấc rưỡi. Thành của niền và chân của nó được đúc liền với mặt xe. Trên các mặt vuông của khung tròn và trên mặt các tấm đồng ở thân xe ông chạm khắc các hình chê-ru-bim, sư tử và cây chà là. Còn nơi nào có chỗ trống thì ông chạm khắc các tràng hoa chung quanh. Ông làm mười chiếc xe như thế. Tất cả đều được đúc cùng một khuôn, một kích thước, và một kiểu. Đoạn ông làm mười bồn nước bằng đồng; mỗi bồn chứa được tám trăm tám mươi lít. Mỗi bồn như thế cao hai thước. Rồi ông cho đặt chúng trên mười chiếc xe đó, mỗi xe một bồn nước. Xong ông để năm xe ở phía nam của Đền Thờ và năm xe ở phía bắc của Đền Thờ. Ông cũng cho đặt bể nước bằng đồng ở góc đông nam của Đền Thờ. Hu-ram cũng làm các nồi, vá, và chậu. Vậy Hu-ram hoàn tất mọi công tác vua Sa-lô-môn giao ông làm cho nhà Chúa, gồm: hai trụ đồng,hai đầu trụ đặt trên hai trụ đồng,các lưới bằng đồng gắn trên các đầu trụ, bốn trăm trái thạch lựu bằng đồng, gắn thành hai hàng, mỗi hàng một trăm trái, quanh mỗi đầu trụ, mười chiếc xe, mười bồn nước để trên các xe, một bể nước, và mười hai con bò chịu bên dưới bể nước, các nồi, vá và chậu.Tất cả các vật nầy Hu-ram làm cho nhà Chúa do vua Sa-lô-môn giao phó đều được làm bằng đồng đánh bóng. Vua cho làm những vật nầy tại một nơi có nhiều đất sét trong đồng bằng Giô-đanh, giữa Su-cốt và Xác-than. Sa-lô-môn không cho cân các khí dụng ấy, vì chúng nhiều quá, và số lượng đồng thì không tính nổi Sa-lô-môn cũng làm các khí dụng cho nhà Chúa gồm:bàn thờ bằng vàng,bàn bánh trần thiết bằng vàng, các chân đèn bằng vàng ròng, năm cái bên phải và năm cái bên trái, trước Nơi Chí Thánh.Vua cũng cho làm các hoa, đèn, và kẹp gắp đều bằng vàng. Các chén, kéo cắt tim đèn, chậu, khay đựng tro, khay đựng than đều bằng vàng ròng.Các bộ bản lề các cửa vào phía trong của Đền Thờ, tức là Nơi Chí Thánh, và các cửa của Nơi Thánh đều làm bằng vàng cả. Vậy vua Sa-lô-môn hoàn tất mọi công trình vua muốn làm cho nhà Chúa. Sa-lô-môn đem vào Đền Thờ những vật mà Đa-vít, cha vua, đã dâng hiến, gồm bạc, vàng, và các vật dụng. Vua để các vật ấy trong các kho của nhà Chúa. Bấy giờ Sa-lô-môn triệu tập các trưởng lão của Y-sơ-ra-ên, tất cả các trưởng chi tộc và các trưởng gia tộc trong Y-sơ-ra-ên lại trước mặt vua ở Giê-ru-sa-lem, để rước Rương Giao Ước của Chúa từ thành Đa-vít ở Si-ôn đến Đền Thờ. Vào tháng Ê-tha-nim, tức tháng bảy, toàn dân Y-sơ-ra-ên tụ họp lại quanh vua Sa-lô-môn để dự lễ. Khi tất cả các trưởng lão đến, các thầy tế lễ khiêng Rương đi. Vậy những thầy tế lễ và những người Lê-vi khiêng Rương của Chúa, Lều Tạm là nơi diện kiến với Chúa, và tất cả các vật dụng thánh trong Lều Tạm đem đi. Vua Sa-lô-môn và toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên, tức là những người đã nhóm họp trước mặt vua, hiệp cùng với vua đến trước Rương. Họ dâng hiến chiên và bò nhiều vô kể, nhiều đến độ không thể đếm được. Rồi các thầy tế lễ thỉnh Rương Giao Ước của Chúa đặt vào vị trí, ở phía bên trong của Đền Thờ, tức là Nơi Chí Thánh, dưới các cánh chê-ru-bim. Các chê-ru-bim dang cánh ra bên trên Rương; các chê-ru-bim che phủ Rương và các đòn khiêng. Các đòn khiêng nầy khá dài đến độ ở Nơi Thánh ngay trước Nơi Chí Thánh người ta có thể trông thấy được đầu các đòn khiêng, nhưng ở ngoài thì không thấy được. Các đòn khiêng ấy vẫn còn ở đó cho đến ngày nay. Trong Rương không có gì khác ngoài hai bảng bằng đá mà Môi-se đã đặt vào đó khi còn ở Hô-rếp, là nơi Chúa đã lập giao ước với dân Y-sơ-ra-ên, khi họ vừa mới ra khỏi Ai-cập. Khi các thầy tế lễ vừa ra khỏi Nơi Thánh, thì có một đám mây bao phủ Đền Thờ của Chúa, đến nỗi các thầy tế lễ không thể tiếp tục thi hành nghi lễ vì mây bao phủ và vì vinh hiển của Chúa đầy dẫy khắp Đền Thờ của Chúa. Bấy giờ Sa-lô-môn nói: “Chúa đã phán rằng Ngài ngự trong mây dày đặc. Con đã xây cho Ngài một ngôi đền nguy nga tráng lệ, làm một nơi để Ngài ngự đời đời.” Đoạn vua quay lại và chúc phước cho hội chúng Y-sơ-ra-ên, trong khi cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đang đứng. Vua nói: “Chúc tụng Chúa, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Đấng dùng tay Ngài làm ứng nghiệm mọi điều Ngài đã hứa với Đa-vít, cha ta. Ngài có phán rằng: ‘Từ ngày Ta đem dân Y-sơ-ra-ên Ta ra khỏi Ai-cập, Ta không chọn một thành nào trong các chi tộc Y-sơ-ra-ên để xây cất một nhà cho Ta, hầu cho danh Ta sẽ ngự tại đó, nhưng Ta đã chọn Đa-vít để trị vì dân Y-sơ-ra-ên Ta.’ Đa-vít, cha ta, có ý định xây cất một ngôi đền cho danh Chúa, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Nhưng Chúa có phán với Đa-vít, cha ta rằng: ‘Ngươi có ý tốt khi muốn xây cất một ngôi đền cho danh Ta; nhưng ngươi sẽ không xây đền ấy cho Ta đâu, nhưng con trai ngươi, do ngươi sinh ra, sẽ xây đền ấy cho danh Ta.’ Bây giờ Chúa đã làm thành những lời Ngài đã hứa, vì ta đã đứng thay vào chỗ của Đa-vít, cha ta; ta ngồi trên ngai của Y-sơ-ra-ên, như Chúa đã hứa, và ta cũng đã xây một ngôi đền cho danh Chúa, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Đây nầy ta đã làm một chỗ để đặt Rương Giao Ước, trong đó có chứa đựng giao ước của Chúa, mà Ngài đã hứa với các tổ phụ chúng ta, khi Ngài đem họ ra khỏi xứ Ai-cập.” Bấy giờ Sa-lô-môn đứng trước bàn thờ của Chúa, trước mặt toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên, giơ hai tay lên trời và cầu nguyện rằng:“Lạy Chúa, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, chẳng có thần nào giống như Ngài ở trên trời cao kia hay dưới đất thấp nầy. Ngài giữ giao ước và tỏ tình thương đối với các tôi tớ Ngài là những người bước đi cách hết lòng trước mặt Ngài. Ngài đã giữ giao ước Ngài phán với tôi tớ Ngài là Đa-vít, cha của con. Điều chính miệng Ngài đã hứa thì ngày nay cánh tay Ngài đã thực hiện. Giờ đây, lạy Chúa, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, xin Ngài tiếp tục giữ những gì Ngài đã hứa với Đa-vít, cha của con, rằng: ‘Trước mặt Ta, ngươi sẽ không thiếu một kẻ kế vị ngươi để ngồi trên ngôi của Y-sơ-ra-ên, nếu con cháu ngươi biết cẩn thận giữ đúng đường lối chúng, bước đi trước mặt Ta như ngươi đã bước đi trước mặt Ta.’ Vậy nên, lạy Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, cầu xin Ngài thực hiện lời nầy mà Ngài đã hứa với tôi tớ Ngài là Đa-vít, cha của con. Nhưng Đức Chúa Trời thật có ngự trên đất chăng? Ngay cả trời của các từng trời còn chưa thể chứa Ngài được thay, huống chi là ngôi đền con xây cất cho Ngài đây. Lạy CHÚA là Đức Chúa Trời của con, xin đoái đến lời cầu nguyện và nài xin của tôi tớ Ngài; xin đoái nghe lời cầu xin và khẩn nguyện mà tôi tớ Ngài xin dâng lên trước thánh nhan Ngài ngày nay. Nguyện mắt Ngài đêm ngày đoái xem ngôi đền nầy, là nơi Ngài đã phán rằng: ‘Danh Ta sẽ ngự tại đó,’ để Ngài nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Ngài hướng về nơi đây cầu khẩn. Xin Ngài lắng nghe lời cầu xin của tôi tớ Ngài và của con dân Ngài mỗi khi họ hướng về nơi nầy mà cầu nguyện. Từ chốn thiên đàng, nơi Ngài ngự, xin Ngài dủ nghe và tha thứ cho. Khi có ai phạm tội nghịch lại người lân cận mình, và người ta bắt kẻ ấy phải thề; nếu kẻ ấy đến và thề trước bàn thờ Ngài trong ngôi đền nầy, thì từ chốn thiên đàng xin Ngài lắng nghe, hành động và phân xử các tôi tớ Ngài; xin Ngài kết án kẻ có tội và bắt nó phải cúi đầu chịu lấy hậu quả tội lỗi mình; và xin Ngài minh oan cho người ngay lành và ban thưởng cho họ vì sự vô tội của họ. Khi dân Y-sơ-ra-ên Ngài có phạm tội nghịch lại Ngài, rồi bị quân thù đánh bại, nhưng khi họ biết quay về với Ngài, tuyên xưng danh Ngài, cầu nguyện và khẩn xin Ngài trong ngôi đền nầy, thì từ chốn thiên đàng, xin Ngài dủ nghe, xin Ngài tha thứ tội cho dân Y-sơ-ra-ên Ngài, và đem họ về lại xứ mà Ngài đã ban cho tổ phụ họ. Khi trời đóng lại và không mưa xuống đất bởi vì họ có phạm tội nghịch lại Ngài, nhưng rồi họ hướng về nơi nầy mà cầu nguyện, tuyên xưng danh Ngài, lìa bỏ tội lỗi, vì đã bị Ngài sửa phạt, thì từ chốn thiên đàng, xin Ngài dủ nghe, xin Ngài tha thứ tội lỗi của các tôi tớ Ngài, là dân Y-sơ-ra-ên Ngài. Cầu xin Ngài chỉ dạy họ con đường tốt mà họ phải đi và ban mưa xuống xứ mà Ngài đã ban cho dân Ngài làm sản nghiệp. Khi trong xứ có đói kém, khi họ gặp phải dịch lệ, hạn hán, nấm mốc, cào cào, hay sâu bọ, nếu quân thù có vây hãm thành nào của họ, bất cứ họ bị dịch lệ nào, bất cứ họ bị bịnh tật gì, và có cá nhân nào hay toàn dân Y-sơ-ra-ên Ngài hết lòng nhận biết nỗi đau đớn của mình mà giơ tay ra hướng về ngôi đền nầy mà cầu nguyện, nài xin, thì từ chốn thiên đàng, nơi ngự của Ngài, xin Ngài dủ nghe, tha thứ, hành động, và báo trả cho mỗi người tùy theo điều Ngài biết nơi lòng của họ, và tùy theo những đường lối của họ; vì chỉ một mình Ngài mới biết rõ mọi sự trong lòng mỗi người mà thôi; hầu cho họ sẽ kính sợ Ngài trọn đời mình và sẽ sống trong xứ mà Ngài đã ban cho tổ phụ họ. Ngoài ra, khi có người ngoại quốc nào, là người không thuộc về dân Y-sơ-ra-ên Ngài, từ một xứ xa đến vì nghe uy danh Ngài-- vì người ta sẽ nghe đại danh của Ngài, cánh tay quyền năng của Ngài, và cánh tay Ngài đã giang ra--khi có một người ngoại quốc đến, hướng về ngôi đền nầy mà cầu nguyện, thì từ chốn thiên đàng, nơi ngự của Ngài, xin Ngài dủ nghe, và nhậm mọi lời cầu nguyện người ngoại quốc đó đã cầu xin với Ngài, hầu cho mọi dân trên đất sẽ biết đến danh Ngài và kính sợ Ngài, giống như dân Y-sơ-ra-ên Ngài đã làm vậy, và thiên hạ sẽ biết rằng danh của Ngài được kêu cầu nơi nhà nầy, là nhà mà con đã xây. Khi dân Ngài phải ra chiến trận đánh đuổi quân thù, dù họ đang ở bất cứ nơi nào Ngài sai họ đi, và khi dân Ngài hướng về thành nầy là thành Ngài đã chọn và ngôi đền con đã xây cho danh Ngài mà cầu nguyện với Chúa, thì từ chốn thiên đàng, nơi ngự của Ngài, xin Ngài dủ nghe lời cầu nguyện và nài xin của họ mà binh vực duyên cớ họ. Khi họ phạm tội cùng Ngài--vì chẳng ai là không phạm tội--và Ngài giận họ, phó họ cho quân thù, chúng bắt họ lưu đày trong xứ của kẻ thù nghịch, dù xa hay gần; nhưng nếu đang lúc ở trong xứ lưu đày họ biết hồi tâm sửa đổi, họ ăn năn và kêu cầu với Ngài trong xứ của những kẻ bắt họ đi lưu đày, mà rằng: ‘Chúng con đã phạm tội, chúng con đã sai trật, chúng con đã làm điều gian ác.’ Nếu họ hết lòng hết linh hồn ăn năn cùng Ngài trong xứ của kẻ thù, là những kẻ bắt họ đi lưu đày, nếu họ hướng về xứ mà Ngài đã ban cho tổ phụ họ, về thành mà Ngài đã chọn, và về ngôi đền mà con đã xây cho danh Ngài mà cầu nguyện, thì từ chốn thiên đàng, nơi ngự của Ngài, xin Ngài dủ nghe lời cầu nguyện và nài xin của họ mà binh vực duyên cớ họ; xin Ngài tha thứ cho dân Ngài mọi tội lỗi và mọi vi phạm mà họ đã phạm đối với Ngài; xin Ngài khiến những kẻ đang bắt họ lưu đày tỏ lòng thương xót họ; vì họ là dân Ngài, là cơ nghiệp của Ngài, là những kẻ Ngài đã đem ra từ Ai-cập, từ giữa lò nung chảy sắt. Cầu xin mắt Ngài đoái xem lời cầu xin của tôi tớ Ngài, và lời cầu xin của dân Y-sơ-ra-ên Ngài, xin Ngài lắng nghe họ khi họ kêu cầu Ngài. Vì Ngài đã tách họ ra khỏi mọi dân tộc trên đất, để họ làm cơ nghiệp Ngài, như Ngài đã hứa cùng Môi-se, tôi tớ Ngài, khi Ngài đem tổ phụ chúng con ra khỏi Ai-cập, ôi lạy Chúa là Đấng Chủ Tể Tuyệt Đối.” Khi Sa-lô-môn đã dâng lời cầu nguyện nầy và những lời cầu xin nầy lên Chúa xong, vua đứng dậy trước bàn thờ của Chúa, là nơi vua đã quỳ và giơ hai tay lên trời. Vua đứng dậy, cất tiếng lớn chúc phước cho toàn hội chúng Y-sơ-ra-ên rằng: “Chúa tụng Chúa, là Đấng ban cho dân Y-sơ-ra-ên Ngài được an nghỉ như mọi lời Ngài đã hứa. Không một lời nào trong tất cả những lời hứa tốt đẹp mà Ngài đã cậy Môi-se, tôi tớ Ngài, nói ra mà Ngài không làm cho ứng nghiệm. Nguyện xin CHÚA là Đức Chúa Trời chúng ta ở với chúng ta, như Ngài đã ở với tổ phụ chúng ta. Nguyện xin Ngài đừng lìa và đừng bỏ chúng ta. Nguyện lòng của chúng ta luôn hướng về Ngài, đi trong mọi đường lối Ngài, vâng giữ những điều răn, luật lệ, và mạng lịnh mà Ngài đã truyền cho tổ phụ chúng ta. Nguyện những lời của ta đã cầu nguyện trước mặt CHÚA sẽ ở bên cạnh Chúa là Đức Chúa Trời chúng ta ngày và đêm. Nguyện Ngài binh vực duyên cớ của tôi tớ Ngài và dân Y-sơ-ra-ên Ngài tùy theo nhu cầu mỗi ngày; để cho mọi dân tộc trên đất sẽ biết rằng CHÚA là Đức Chúa Trời, không có một chân thần nào khác. Vậy, các ngươi khá hết lòng tận trung với CHÚA là Đức Chúa Trời chúng ta, mà sống theo các luật lệ của Ngài và vâng giữ các điều răn của Ngài, y như đã làm ngày nay.” Rồi vua và toàn dân Y-sơ-ra-ên đang hiệp với vua dâng các sinh tế lên trước mặt Chúa. Sa-lô-môn dâng cho Chúa hai mươi hai ngàn con bò và một trăm hai mươi ngàn con chiên làm của lễ tạ ơn. Vậy vua và toàn dân Y-sơ-ra-ên cung hiến Đền Thờ lên Chúa. Ngày hôm đó, vua biệt riêng khu vực ở giữa sân trước Đền Thờ của Chúa làm nơi dâng các của lễ thiêu, các của lễ chay, và mỡ của các của lễ tạ ơn, vì bàn thờ bằng đồng trước mặt CHÚA quá nhỏ, không đủ chỗ để nhận các của lễ thiêu, các của lễ chay, và mỡ của các của lễ tạ ơn. Vậy, lúc ấy Sa-lô-môn và toàn dân Y-sơ-ra-ên có mặt với vua mừng lễ trước mặt CHÚA là Đức Chúa Trời chúng ta bảy ngày. Thật là một đoàn dân đông đảo, đến từ cửa ải Ha-mát cho đến suối Ai-cập. Vào ngày thứ tám, vua truyền cho dân chúng ra về. Họ chúc phước cho vua, rồi trở về trại mình, tinh thần vui mừng phấn khởi, vì mọi điều tốt đẹp mà Chúa đã làm cho Đa-vít, tôi tớ Ngài và cho dân Y-sơ-ra-ên Ngài. Khi Sa-lô-môn đã xây dựng Đền Thờ cho Chúa, cung điện hoàng gia và những dinh thự mà vua muốn xây cất xong, thì Chúa hiện ra với Sa-lô-môn lần thứ nhì, như Ngài đã hiện ra với vua tại Ga-ba-ôn. Chúa phán với vua rằng: “Ta đã nghe lời cầu nguyện và lời cầu xin của ngươi, là những lời ngươi đã trình dâng trước mặt Ta. Ta đã biệt ra thánh ngôi đền mà ngươi đã xây và đặt danh Ta tại nơi đó đời đời. Mắt Ta và lòng Ta sẽ hằng ở đó luôn luôn. Riêng phần ngươi, nếu ngươi bước đi trước mặt Ta như Đa-vít, cha ngươi, đã đi, lấy lòng trọn lành và ngay thẳng làm theo mọi điều Ta đã truyền cho ngươi, vâng giữ các luật lệ và mạng lịnh Ta, thì Ta sẽ lập ngôi nước ngươi trên Y-sơ-ra-ên được vững vàng đến đời đời, như Ta đã hứa với Đa-vít, cha ngươi, rằng: ‘Ngươi sẽ chẳng hề thiếu người kế vị trên ngôi của Y-sơ-ra-ên.’ Nhưng nếu ngươi hoặc con cháu ngươi quay khỏi Ta, không giữ điều răn và luật lệ Ta đã truyền cho các ngươi, nhưng đi phục vụ và thờ phượng các thần khác, thì Ta sẽ dứt bỏ Y-sơ-ra-ên khỏi xứ mà Ta đã ban cho họ; Ta sẽ loại bỏ ngôi đền mà Ta đã biệt ra thánh cho danh Ta, và dân Y-sơ-ra-ên sẽ thành một câu tục ngữ và đầu đề để giễu cợt giữa các dân. Ngôi đền nầy sẽ trở thành một đống đổ nát hoang tàn; những ai đi qua đó sẽ kinh ngạc, sẽ thắc mắc mà hỏi rằng: ‘Tại sao Chúa đã làm điều ấy cho xứ nầy và cho dân nầy?’ Rồi người ta sẽ đáp rằng: ‘Bởi vì họ đã lìa bỏ CHÚA là Đức Chúa Trời của họ, là Đấng đã đem tổ phụ họ ra khỏi xứ Ai-cập, mà bây giờ họ lại đi theo các thần khác, thờ phượng và phục vụ các thần ấy, cho nên Chúa đã khiến tai vạ nầy đến trên họ.’” Cuối hai mươi năm, là thời gian Sa-lô-môn đã xây xong hai công trình kiến trúc, tức là Đền Thờ cho Chúa và cung điện hoàng gia, vì vua Hi-ram của Ty-rơ đã cung cấp cho Sa-lô-môn gỗ bá hương, gỗ tùng, và vàng tuỳ ý vua muốn, nên vua Sa-lô-môn đã ban cho Hi-ram hai mươi thành trong địa phận Ga-li-lê. Nhưng khi Hi-ram đến Ty-rơ để quan sát các thành mà Sa-lô-môn đã ban cho mình, thì vua ấy chẳng hài lòng. Hi-ram nói: “Những thành mà anh cho tôi là những thành gì vậy, thưa anh?” Vậy họ gọi xứ đó là Ca-bun cho đến ngày nay. Dầu vậy Hi-ram cũng gởi cho vua một trăm hai mươi ta-lâng vàng. Đây là ký thuật về việc cưỡng bách lao động mà vua Sa-lô-môn đã trưng dụng dân công để xây đền cho Chúa, cung điện cho vua, các công sự phòng thủ, tường thành Giê-ru-sa-lem, Hát-so, Mê-ghi-đô, Ghê-xe (Pha-ra-ôn là vua của Ai-cập đã đi lên chiếm lấy Ghê-xe, phóng hỏa đốt thành, tiêu diệt dân Ca-na-an cư ngụ trong thành, rồi ban thành ấy làm của hồi môn cho con gái mình, là vợ Sa-lô-môn. Vì thế Sa-lô-môn phải xây lại thành Ghê-xe), phần dưới của thành Bết Hô-rôn, Ba-lát, Tát-mốt trong đồng hoang, thuộc địa phận của vua, và tất cả những thành làm kho tiếp liệu, những thành cho đạo quân có các xe chiến mã, những thành cho kỵ binh, và tất cả những gì Sa-lô-môn muốn xây cất, ở Giê-ru-sa-lem, ở Li-ban, và trong mọi xứ dưới vương quyền của vua. Tất cả những người còn sót lại của các dân A-mô-rít, Hê-tít, Phê-rê-sít, Hê-vít, và Giê-bu-sít, tức là những người không phải dân Y-sơ-ra-ên. Họ là con cháu của những người mà dân Y-sơ-ra-ên không thể tuyệt diệt, còn sót lại trong xứ. Sa-lô-môn bắt những người ấy làm nô dịch để cung cấp nhân công lao động, và họ làm như vậy cho đến ngày nay. Nhưng dân Y-sơ-ra-ên thì Sa-lô-môn không bắt ai làm nô lệ. Họ là quân lính, quan quyền, tướng lãnh, sĩ quan, và những người chỉ huy các đạo quân có các xe chiến mã và kỵ binh. Sau đây là số quan chức mà Sa-lô-môn đặt lên để cai quản những người thực hiện các công trình xây cất của vua: năm trăm năm mươi người. Sau khi công chúa Pha-ra-ôn từ thành Đa-vít dọn lên ở trong cung điện mà Sa-lô-môn đã xây cất cho nàng, vua bèn cho xây cất các công sự phòng thủ. Mỗi năm ba lần Sa-lô-môn lên dâng của lễ thiêu và của lễ cầu bình an trên bàn thờ mà vua đã xây cho Chúa, vua dâng hương trước mặt CHÚA. Như vậy, vua đã hoàn tất công trình xây cất Đền Thờ. Vua Sa-lô-môn cũng cho đóng một đoàn tàu tại Ê-xi-ôn Ghê-be, gần Ê-lốt, nơi bờ Hồng Hải, thuộc xứ Ê-đôm. Hi-ram sai các tôi tớ và đoàn tàu của mình, tức những thủy thủ thông thạo hàng hải, đi cùng các tôi tớ của Sa-lô-môn. Họ đến Ô-phia và đem về bốn trăm hai mươi ta-lâng vàng, rồi đem giao nộp cho Vua Sa-lô-môn. Khi nữ hoàng của Sê-ba nghe danh tiếng của Sa-lô-môn, là danh có được nhờ danh Chúa, thì bà đến để thử tài vua, bằng những câu hỏi hóc búa. Nữ hoàng đến Giê-ru-sa-lem với một đoàn tuỳ tùng rất đông, có những lạc đà chở các hương liệu, rất nhiều vàng, và các loại ngọc thạch. Khi đến gặp Sa-lô-môn, bà nói cho vua nghe những gì bà đã suy nghĩ trong lòng. Sa-lô-môn giải đáp tất cả các câu hỏi của bà. Chẳng có điều gì là bí ẩn mà vua không giải nghĩa cho bà được. Khi nữ hoàng của Sê-ba đã chứng kiến tất cả sự khôn ngoan của Sa-lô-môn và cung điện vua đã xây, thức ăn trên bàn vua, dinh thự của quần thần, cơ cấu tổ chức các quần thần và y phục của họ, các quan dâng thức uống cho vua, và các của lễ thiêu vua dâng trong Đền Thờ Chúa, thì bà hết hồn. Bà nói với vua: “Những gì tôi nghe nói trong xứ của tôi về các thành quả và sự khôn ngoan của vua đều là thật, nhưng tôi không tin những điều ấy cho đến khi tôi đến đây và thấy tận mắt. Những điều tôi nghe chỉ là một nửa. Sự khôn ngoan và giàu sang của vua thật vượt quá những gì tôi đã nghe. Phước hạnh thay cho các vợ của vua! Phước hạnh thay cho bầy tôi của vua, là những người thường xuyên chầu chực trước mặt vua và được nghe sự khôn ngoan của vua! Chúc tụng CHÚA là Đức Chúa Trời của vua, là Đấng đã hài lòng nơi vua và đặt vua trên ngôi của Y-sơ-ra-ên! Vì Chúa yêu thương Y-sơ-ra-ên mãi mãi, nên Ngài đã lập vua làm vua, để thi hành công lý và lẽ công chính.” Rồi bà tặng vua một trăm hai mươi ta-lâng vàng, rất nhiều hương liệu và ngọc thạch. Chưa bao giờ có ai đem hương liệu đến nhiều như số hương liệu của nữ hoàng Sê-ba đã tặng cho vua Sa-lô-môn. Ngoài ra, đoàn tàu của Hi-ram, đem vàng từ Ô-phia về, cũng chở theo rất nhiều gỗ đàn hương và ngọc thạch từ Ô-phia về nữa. Vua lấy các gỗ đàn hương đó làm cột trong đền của Chúa, trong cung điện hoàng gia, làm đàn lia và đàn hạc cho các ca sĩ. Ngày nay, thứ gỗ đàn hương đó không ai đem đến và cũng không còn thấy nữa. Trong khi đó, vua Sa-lô-môn cũng tặng cho nữ vương Sê-ba bất cứ điều gì bà thích, ngoài những gì vua đã tặng cho bà theo sự giàu sang của vua. Đoạn bà và đoàn tuỳ tùng của bà lên đường trở về nước của bà. Số vàng mà vua Sa-lô-môn thâu nhận hàng năm cân nặng khoảng hai mươi hai ngàn năm trăm ký-lô, ngoài số lợi tức thu được từ những thương gia và những người buôn bán đổi chác, và từ tất cả các vua Ả-rập và các quan trưởng của các tỉnh đem nộp. Vua Sa-lô-môn làm hai trăm chiếc thuẫn lớn bọc vàng dát mỏng. Mỗi chiếc dùng gần bốn ký-lô vàng. Vua cũng cho làm ba trăm chiếc thuẫn nhỏ hơn bọc vàng dát mỏng. Mỗi chiếc dùng gần hai ký-lô vàng. Rồi vua cho đặt những thuẫn đó trong cung Rừng Li-ban. Vua cũng cho làm một chiếc ngai lớn bằng ngà, bọc vàng ròng. Chiếc ngai có sáu cấp. Phần cao nhất của ngai là chỗ dựa lưng có hình tròn, hai bên chỗ ngồi có chỗ gác tay, bên cạnh hai chỗ gác tay là hai con sư tử, cũng có mười hai con sư tử khác, mỗi con đứng ở mỗi đầu của sáu cấp. Chưa hề có vương quốc nào làm như vậy. Tất cả các ly chén vua dùng để uống đều bằng vàng, và tất cả các vật dụng trong cung Rừng Li-ban đều bằng vàng ròng. Không có món chi làm bằng bạc. Vì trong thời của Sa-lô-môn bạc không có giá trị gì. Vì nhà vua có một đoàn tàu Ta-rê-si đi biển với đoàn tàu của Hi-ram. Cứ ba năm đoàn tàu Ta-rê-si ấy trở về mang theo vàng, bạc, ngà voi, khỉ và công. Vì thế vua Sa-lô-môn trổi hơn các vua trên đất về giàu có và khôn ngoan. Thiên hạ đều mong được diện kiến Sa-lô-môn, để nghe sự khôn ngoan mà Đức Chúa Trời đã ban cho tâm trí vua. Ai đến cũng đem theo lễ vật; nào là các vật bằng bạc, bằng vàng, quần áo, vũ khí, hương liệu, ngựa và lừa; cứ thế hết năm nầy qua năm khác. Sa-lô-môn cũng thâu thập các xe chiến mã và ngựa. Vua có một ngàn bốn trăm xe chiến mã và mười hai ngàn ngựa. Vua giữ các xe chiến mã trong những thành của các đạo quân có các xe chiến mã gần bên vua tại Giê-ru-sa-lem. Vua làm cho bạc trở nên tầm thường như sỏi đá và gỗ bá hương nhiều như gỗ sung ở các chân đồi. Sa-lô-môn cho mua ngựa từ Ai-cập và Cơ-ve về. Những người phụ trách mậu dịch của vua đến tận Cơ-ve trả giá mua về. Một xe chiến mã mua từ Ai-cập giá gần bảy ký bạc, còn một con ngựa giá khoảng một ký bảy. Rồi các thương gia của hoàng gia đem bán lại cho các vua của dân Hê-tít và các vua của dân A-ram. Ngoài con gái của Pha-ra-ôn, vua Sa-lô-môn yêu nhiều phụ nữ ngoại quốc khác; ấy là các phụ nữ người Mô-áp, Am-môn, Ê-đôm, Si-đôn, và Hê-tít. Họ thuộc về các dân mà Chúa đã truyền cho dân Y-sơ-ra-ên rằng: “Các ngươi không được cưới gả với chúng, vì chắc chắn chúng sẽ khiến cho lòng các ngươi ngả theo các thần của chúng.” Nhưng Sa-lô-môn yêu say mê các phụ nữ ấy. Vua có bảy trăm vợ là các công chúa và ba trăm cung phi. Các vợ của vua đã làm cho lòng vua chuyển hướng sai lạc. Khi vua về già, các vợ của vua đã khiến cho lòng vua ngả theo các thần của họ; lòng vua không còn trung thành với CHÚA là Đức Chúa Trời của vua, như lòng của Đa-vít, cha vua đã có. Vì Sa-lô-môn đi theo Át-tạc-tê, nữ thần của dân Si-đôn, Minh-côm, thần gớm ghiếc của dân Am-môn. Vậy Sa-lô-môn làm những việc tội lỗi trước mặt CHÚA, không trung thành đi theo Chúa, như phụ vương của vua đã làm. Khi ấy Sa-lô-môn cũng xây một miếu thờ cho Kê-móc, là thần gớm ghiếc của dân Mô-áp, một miếu thờ cho Mo-lóc, là thần gớm ghiếc của dân Am-môn, trên núi đối ngang Giê-ru-sa-lem. Vua cũng làm như vậy cho tất cả các bà vợ ngoại quốc của vua. Họ dâng hương và dâng sinh tế cho các thần của họ. Bấy giờ Chúa nổi giận với Sa-lô-môn, vì lòng vua đã xây bỏ Chúa, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Đấng đã hiện ra cho vua hai lần, đã truyền cho vua chớ theo các thần khác, nhưng vua không vâng theo mạng lịnh Chúa đã truyền. Bấy giờ Chúa phán với Sa-lô-môn: “Vì ngươi đã làm điều nầy, không vâng giữ giao ước và luật lệ Ta đã truyền cho ngươi, Ta chắc chắn sẽ phân chia vương quốc của ngươi ra và ban cho tôi tớ ngươi. Nhưng vì cớ Đa-vít, cha ngươi, Ta sẽ không làm điều đó trong đời ngươi; Ta chắc chắn sẽ xé nó ra trong tay của con ngươi. Tuy nhiên, Ta sẽ không xé cả vương quốc, nhưng sẽ để dành lại cho con trai ngươi một chi phái, vì cớ Đa-vít, tôi tớ Ta và vì cớ Giê-ru-sa-lem, nơi Ta đã chọn.” Chúa bèn dấy lên một người nghịch lại Sa-lô-môn, đó là Ha-đát, người Ê-đôm. Người ấy thuộc hoàng tộc của dân Ê-đôm. Số là khi Đa-vít ở Ê-đôm, thì Giô-áp, quan Tổng Binh, đi lên chôn xác những người chết, ông diệt mọi người nam ở Ê-đôm. Vì Giô-áp và tất cả những người Y-sơ-ra-ên đi theo ông đã ở lại đó sáu tháng, cho đến khi họ diệt hết mọi người nam trong Ê-đôm. Nhưng Ha-đát với một số người Ê-đôm, là tôi tớ của cha ông, chạy trốn qua Ai-cập. Khi ấy ông chỉ là một cậu bé. Họ chạy từ Ma-đi-an đến Pha-ran, đoạn họ bắt một số người Ma-đi-an theo mình, rồi đi đến Ai-cập, vào ra mắt Pha-ra-ôn, vua của Ai-cập. Vua ấy cấp cho ông nhà ở, thực phẩm và ruộng đất. Ha-đát được ơn lớn trước mặt Pha-ra-ôn, nên vua gả em vợ cho ông, tức là em gái của hoàng hậu Tác-bê-ne. Em gái của Tác-bê-ne sinh cho ông một con trai, tên là Ghê-nu-bát. Đó là đứa con được dứt sữa trong cung điện của Pha-ra-ôn. Ghê-nu-bát lớn lên giữa cung điện của Pha-ra-ôn, và giữa các con của Pha-ra-ôn. Khi Ha-đát ở Ai-cập nghe tin Đa-vít đã về an giấc cùng các tổ phụ của mình, và Giô-áp, quan Tổng Binh của vua đã chết, thì Ha-đát đến xin Pha-ra-ôn: “Xin vua cho phép tôi trở về quê hương của tôi.” Nhưng Pha-ra-ôn đáp với ông: “Ngươi ở với ta có thiếu gì sao mà nay lại muốn trở về xứ sở của ngươi?”Ông đáp: “Thưa không thiếu chi hết. Nhưng xin vua hãy cho phép tôi đi.” Chúa cũng dấy lên một người chống nghịch khác, người ấy là Rê-xôn, con trai của Ê-li-gia-đa; Rê-xôn là người đã bỏ chủ mình là vua Ha-đa-rê-xe của xứ Xô-ba để trốn thoát. Khi vua của Xô-ba bị Đa-vít đánh bại, thì Rê-xôn thu nhận một số người theo mình và làm thủ lãnh của đám tàn quân đó. Họ kéo chạy đến Đa-mách, chiếm lấy thành ấy, rồi ông tự tôn làm vua ở Đa-mách. Suốt thời của Sa-lô-môn, Rê-xôn luôn luôn là kẻ chống nghịch Y-sơ-ra-ên, ngoài sự quấy nhiểu của Ha-đát đã có. Ông chống nghịch Y-sơ-ra-ên và cai trị vùng A-ram. Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, người Ép-ra-im, ở Xê-rê-đa, là một tôi tớ của Sa-lô-môn; mẹ ông là một góa phụ, tên là Xê-ru-ha; ông nổi lên chống lại vua. Sau đây là lý do tại sao ông nổi lên chống lại vua. Sa-lô-môn xây dựng các công sự phòng thủ, xây lại những chỗ đã hỏng quanh tường thành Đa-vít, là thành của phụ thân vua. Thấy Giê-rô-bô-am là người trẻ, có khả năng và chăm chỉ, Sa-lô-môn bèn lập ông lên chỉ huy lực lượng dân công của chi tộc Giô-sép. Cũng độ ấy, khi Giê-rô-bô-am vừa ra khỏi Giê-ru-sa-lem, thì tiên tri A-hi-gia, người Si-lô, đón gặp ông giữa đường. A-hi-gia đang mặc một chiếc áo choàng mới. Trong lúc chỉ có hai người đang ở ngoài đồng, A-hi-gia lấy chiếc áo choàng mới đang mặc xé ra làm mười hai mảnh. Đoạn ông nói với Giê-rô-bô-am: “Hãy lấy mười mảnh cho ông. Chúa là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán vậy: ‘Nầy, Ta sắp xé vương quốc từ tay của Sa-lô-môn và ban cho ngươi mười chi tộc. Nhưng vì cớ tôi tớ Ta là Đa-vít, và vì cớ Giê-ru-sa-lem là thành Ta đã chọn trong tất cả các chi tộc của Y-sơ-ra-ên, Ta sẽ giữ lại cho nó một chi tộc. Bởi vì nó đã lìa bỏ Ta, thờ phượng Át-tạc-tê, nữ thần của dân Si-đôn, Kê-mốt, thần của dân Mô-áp, và Minh-côm, thần của dân Am-môn. Nó đã không đi theo các đường lối Ta, không làm những việc ngay lành trước mắt Ta, không giữ những luật lệ và mạng lịnh của Ta như Đa-vít, cha nó, đã làm. Dù vậy, Ta sẽ không cất cả vương quốc khỏi nó, nhưng sẽ cho nó được trị vì trọn đời nó, vì cớ tôi tớ Ta là Đa-vít, người Ta đã chọn, và là kẻ đã vâng giữ các điều răn và luật lệ của Ta; nhưng Ta sẽ cất vương quốc khỏi con nó và ban cho ngươi mười chi tộc. Còn con nó thì Ta sẽ cho một chi tộc, hầu cho tôi tớ Ta là Đa-vít có thể luôn có một ngọn đèn trước mặt Ta tại Giê-ru-sa-lem, là thành Ta đã chọn để đặt danh Ta. Ta sẽ lập ngươi và ngươi sẽ trị vì trên tất cả, như lòng ngươi muốn. Ngươi sẽ làm vua trên Y-sơ-ra-ên. Nếu ngươi nghe theo mọi điều Ta truyền cho ngươi, đi trong các đường lối Ta, làm điều công chính trước mắt Ta bằng cách vâng giữ các luật lệ và các điều răn Ta, như Đa-vít, tôi tớ Ta đã làm, thì Ta sẽ ở với ngươi, Ta sẽ lập cho nhà ngươi được vững bền, như Ta đã lập cho Đa-vít, và Ta sẽ ban Y-sơ-ra-ên cho ngươi. Như thế Ta sẽ sửa phạt các con cháu của Đa-vít, nhưng không phải mãi mãi đâu.’” Biết vậy Sa-lô-môn liền tìm cách giết Giê-rô-bô-am; nhưng Giê-rô-bô-am vội vàng chạy trốn qua Ai-cập, đến với vua Si-sắc của Ai-cập, và cứ ở mãi tại Ai-cập cho đến khi Sa-lô-môn băng hà. Các việc khác của Sa-lô-môn, tất cả những gì vua làm, và sự khôn ngoan của vua, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Sa-lô-môn sao? Thời gian Sa-lô-môn trị vì tại Giê-ru-sa-lem trên toàn dân Y-sơ-ra-ên là bốn mươi năm. Sa-lô-môn an giấc cùng các tổ phụ mình và được chôn trong thành của Đa-vít, cha vua. Rô-bô-am, con trai vua, lên ngôi kế vị. Rô-bô-am đến Si-chem, vì cả Y-sơ-ra-ên đã đến Si-chem để lập ông lên làm vua. Khi Giê-rô-bô-am con của Nê-bát nghe điều đó, vì khi ấy ông còn ở Ai-cập, là nơi ông đã trốn khỏi Sa-lô-môn, thì ông từ Ai-cập trở về. Người ta phái người đến mời ông đến. Vậy Giê-rô-bô-am và toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên đến nói với Rô-bô-am: “Phụ vương của vua đã đặt trên chúng tôi một ách nặng nề. Vậy bây giờ xin vua hãy làm nhẹ bớt lao dịch nặng nhọc của phụ vương vua và ách nặng nề mà phụ vương vua đã đặt trên chúng tôi, thì chúng tôi sẽ phục vụ vua.” Rô-bô-am đáp với họ: “Hãy về đi, ba ngày sau hãy trở lại gặp ta.” Vậy dân chúng ra về. Bấy giờ vua Rô-bô-am họp các đại thần cao niên, là những người đã phục vụ dưới triều của Sa-lô-môn, cha vua, khi tiên vương còn sống. Vua hỏi: “Các ngươi bảo ta phải trả lời với dân nầy thế nào đây?” Họ tâu với vua: “Nếu ngày nay vua quyết định làm đầy tớ cho dân nầy và phục vụ họ, dùng lời tử tế nhã nhặn đối đáp với họ, thì họ sẽ làm tôi của vua mãi mãi.” Nhưng vua chẳng coi những lời khuyên của các đại thần cao niên ra gì. Vua bàn luận với những người trẻ, là những người lớn lên đồng thời với mình, và đang phục vụ vua. Vua hỏi họ: “Các ngươi bảo chúng ta phải trả lời thế nào với dân nầy, là những người đã nói với ta rằng: ‘Xin hãy làm cho nhẹ bớt cái ách mà phụ vương của vua đã đặt trên chúng tôi?’” Những người trẻ lớn lên đồng thời với vua tâu: “Xin vua hãy nói với dân nầy, là những người đã nói với vua: ‘Phụ vương của vua đã bắt chúng tôi mang một ách nặng nề, bây giờ xin vua hãy làm cho ách chúng tôi được nhẹ bớt,’ thì vua hãy nói với họ rằng, ‘Ngón tay út của ta còn lớn hơn cái lưng của cha ta.’ Nầy, nếu cha ta đã đặt một ách nặng nề trên các ngươi, thì ta sẽ chất thêm ách các ngươi nặng hơn nữa. Cha ta trừng phạt các ngươi bằng roi, nhưng ta sẽ trừng phạt các ngươi bằng bọ cạp.” Vậy ngày thứ ba Giê-rô-bô-am và toàn dân đến gặp Rô-bô-am, như lời vua đã nói: “Ba ngày sau hãy đến gặp ta.” Vua đáp lời dân chúng cách xẳng xớm. Vua chẳng màng gì đến những lời khuyên của các đại thần cao niên. Vua đáp với họ theo lời khuyên của những người trẻ: “Cha ta đã đặt một ách nặng nề trên các ngươi, ta sẽ chất thêm cho ách các ngươi nặng hơn nữa. Cha ta trừng phạt các ngươi bằng roi, nhưng ta sẽ trừng phạt các ngươi bằng bọ cạp.” Vậy vua chẳng nghe theo lời của dân, bởi vì đó là việc Chúa khiến xảy ra, để làm ứng nghiệm lời của Ngài, mà Chúa đã cậy A-hi-gia, người ở Si-lô, nói với Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát. Khi toàn dân Y-sơ-ra-ên thấy vua không nghe theo họ, thì dân chúng nói với vua:“Chúng ta nào có phần gì với Đa-vít?Chúng ta nào có hưởng được gì với con cháu của Y-sai.Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy trở về trại mình.Hỡi Đa-vít, từ nay khá giữ lấy nhà của ngươi.”Vậy dân Y-sơ-ra-ên trở về trại của họ. Nhưng Rô-bô-am trị vì trên những người Y-sơ-ra-ên đang cư ngụ trong các thành ở Giu-đa. Khi vua Rô-bô-am sai A-đô-ram, quan chỉ huy việc cưỡng bách lao động, đến với dân chúng, thì dân Y-sơ-ra-ên ném đá ông chết. Vua Rô-bô-am liền vội vàng lên xe chạy trốn về Giê-ru-sa-lem. Vậy Y-sơ-ra-ên đã làm loạn nghịch lại nhà Đa-vít cho đến ngày nay. Khi cả dân Y-sơ-ra-ên nghe rằng Giê-rô-bô-am đã trở về, thì họ cho người mời ông đến với hội chúng và lập ông làm vua trên Y-sơ-ra-ên. Không một ai đi theo nhà Đa-vít, ngoại trừ chi tộc Giu-đa mà thôi. Khi Rô-bô-am đến Giê-ru-sa-lem, vua liền triệu tập toàn thể nhà Giu-đa và chi tộc Bên-gia-min, được một trăm tám mươi ngàn tinh binh, để đánh lại nhà Y-sơ-ra-ên, nhằm tái lập vương quốc dưới quyền Rô-bô-am là con của Sa-lô-môn. Nhưng có lời của Đức Chúa Trời đến với Sê-ma-gia, người của Đức Chúa Trời, rằng: “Rô-bô-am, con của Sa-lô-môn, vua Giu-đa nói cùng toàn thể nhà Giu-đa, Bên-gia-min và toàn thể dân chúng: ‘Chúa phán như vầy: Các ngươi không được đi lên đánh anh em của các ngươi là dân Y-sơ-ra-ên. Mọi người hãy về nhà mình, vì việc nầy do Ta mà đến.’” Vậy họ nghe theo lời của Chúa và trở về lại nhà mình, theo như lời của Chúa đã dạy bảo. Khi ấy Giê-rô-bô-am xây cất thành Si-chem, trong miền đồi núi Ép-ra-im, và ở tại đó. Rồi từ đó vua đi ra xây cất thành Phê-nu-ên. Đoạn Giê-rô-bô-am tự nhủ: “Như thế nầy thì vương quốc sẽ trở về lại với nhà Đa-vít thôi. Vì nếu dân nầy cứ tiếp tục lên Giê-ru-sa-lem để dâng tế lễ trong Đền Thờ của Chúa tại Giê-ru-sa-lem, thì lòng dân sẽ quay về với vua của họ là Rô-bô-am của Giu-đa. Họ sẽ giết ta và quay về với vua Rô-bô-am của Giu-đa.” Vậy vua bàn luận và cho làm hai con bò con bằng vàng. Vua nói với dân chúng: “Các ngươi đi lên Giê-ru-sa-lem chi cho xa xôi. Hỡi Y-sơ-ra-ên, đây là các thần của các ngươi, là các thần đã đưa các ngươi ra khỏi xứ Ai-cập.” Vua đặt một con ở Bê-tên và con kia ở Đan. Điều nầy đã trở thành một tội lỗi. Vì dân chúng đi đến tận Đan để thờ phượng trước con bò con ấy. Vua cũng cho xây các đền miếu trên những nơi cao và bổ nhiệm các thầy tế lễ, là những người từ mọi thành phần trong dân, chứ không phải là các con cháu Lê-vi Giê-rô-bô-am lập một ngày lễ, vào ngày mười lăm tháng tám, giống như ngày lễ ở Giu-đa, rồi vua đến dâng các sinh tế trên bàn thờ. Vua làm điều ấy tại Bê-tên, dâng sinh tế cho con bò con mà vua đã làm nên. Vua cũng đặt tại Bê-tên các thầy tế lễ cho các đền miếu trên những nơi cao mà vua đã xây cất. Vua đi đến bàn thờ mà vua đã xây tại Bê-tên vào ngày mười lăm tháng tám, tức là tháng mà chính vua đã tự ý chỉ định. Vua lập một ngày lễ cho dân Y-sơ-ra-ên, rồi vua lên trước bàn thờ mà dâng hương. Do lời Chúa sai bảo, một người của Đức Chúa Trời đi từ Giu-đa đến Bê-tên, nhằm lúc Giê-rô-bô-am đang đứng cạnh bàn thờ để dâng hương. Theo lời Chúa sai bảo, người ấy la lên chống lại bàn thờ rằng: “Hỡi bàn thờ! Bàn thờ! Chúa phán như vầy: ‘Một con trai tên Giô-si-a sẽ được sinh ra cho nhà Đa-vít. Người ấy sẽ dâng trên ngươi sinh tế là những thầy tế lễ của các đền miếu trên những nơi cao, tức những kẻ đã dâng hương cho ngươi, và xương người sẽ được thiêu đốt trên ngươi.’” Trong ngày ấy, người của Đức Chúa Trời cho một dấu lạ, mà rằng: “Đây là dấu lạ để chỉ rằng Chúa đã phán bảo: ‘Bàn thờ sẽ bị nứt ra, và tro trên bàn thờ sẽ bị đổ xuống.’” Khi vua nghe người của Đức Chúa Trời la lên chống lại bàn thờ ở Bê-tên, thì vua Giê-rô-bô-am từ bàn thờ giơ tay ra truyền: “Hãy bắt nó!” Nhưng cánh tay giơ ra chỉ vào người ấy liền bị khô cứng, không co lại được nữa. Bàn thờ nứt ra, và tro trên bàn thờ đổ xuống, đúng y như dấu lạ mà người của Đức Chúa Trời đã vâng theo lời Chúa truyền bảo. Vua bèn nói với người của Đức Chúa Trời: “Bây giờ xin ông làm ơn cầu thay với CHÚA là Đức Chúa Trời của ông, xin ông cầu nguyện cho tôi để tay tôi được phục hồi trở lại.” Vậy người của Đức Chúa Trời cầu thay với CHÚA, và cánh tay của vua được phục hồi như trước. Đoạn vua nói với người của Đức Chúa Trời: “Xin mời ông đến nhà tôi dùng bữa và tôi có món quà xin tặng ông.” Nhưng người của Đức Chúa Trời nói với vua: “Dù vua có cho tôi đến nửa nước tôi cũng không đi với vua, tôi sẽ không ăn bánh hoặc uống nước ở nơi nầy. Vì lời CHÚA đã truyền bảo tôi như thế: ‘Ngươi không được ăn bánh, hoặc uống nước, hoặc trở về bằng con đường mà ngươi đã đến.’” Vậy người ấy ra về bằng con đường khác, không trở lại con đường mà người ấy đã đến Bê-tên. Thuở ấy cũng có một vị tiên tri già đang sống tại Bê-tên. Các con trai của cụ về thuật lại cho cụ nghe mọi điều người của Đức Chúa Trời đã làm ngày hôm ấy tại Bê-tên; luôn cả những lời người ấy đã nói với vua, họ đều thuật lại cho cha họ nghe hết thảy. Cha họ bảo họ: “Ông ấy đi đường nào?” Các con cụ chỉ cho cụ con đường mà người của Đức Chúa Trời từ Giu-đa đến đang trở về. Cụ bảo các con: “Hãy thắng lừa cho cha.” Họ liền thắng lừa cho cụ và cụ lên cỡi. Cụ đuổi theo người của Đức Chúa Trời và bắt kịp người ấy đang ngồi nghỉ dưới gốc cây sồi. Cụ hỏi: “Có phải ông là người của Đức Chúa Trời từ Giu-đa đến đấy chăng?”Người ấy đáp: “Thưa chính tôi.” Cụ nói: “Hãy về nhà với tôi và ăn chút bánh.” Nhưng người ấy đáp: “Tôi không thể trở lại với cụ được. Tôi cũng không thể ăn bánh hay uống nước với cụ ở nơi nầy. Vì lời CHÚA đã truyền cho tôi rằng: ‘Ngươi không được ăn bánh, hoặc uống nước, hoặc trở về bằng con đường mà ngươi đã đến.’” Bấy giờ cụ nói: “Tôi cũng là một tiên tri như ông. Một thiên sứ đã phán với tôi lời của CHÚA rằng: ‘Hãy đem người ấy trở lại với ngươi, về nhà ngươi, để người ấy ăn bánh và uống nước.’” Nhưng cụ chỉ nói gạt ông ấy thôi. Thế là người của Đức Chúa Trời trở lại với cụ, ăn bánh và uống nước trong nhà cụ. Đang khi họ ngồi ở bàn ăn thì có lời của CHÚA đến với vị tiên tri đã đưa người kia trở lại. Cụ nói lớn với người của Đức Chúa Trời đã đến từ Giu-đa rằng: “CHÚA phán như vầy: Bởi vì ngươi đã bất tuân lời CHÚA, không vâng giữ mạng lịnh mà CHÚA là Đức Chúa Trời của ngươi đã truyền cho ngươi. Ngươi đã đi trở lại, ăn bánh và uống nước trong nơi mà Ngài đã bảo ngươi: ‘Không được ăn bánh và không được uống nước,’ cho nên thây của ngươi sẽ không được nằm chung trong hang mộ của tổ phụ ngươi.” Sau khi người của Đức Chúa Trời dùng bữa xong, họ thắng con lừa của cụ tiên tri đã đem ông trở lại để ông cỡi đi về. Ông ra đi chẳng bao lâu thì có một con sư tử ra đón ông ở dọc đường, giết chết ông, bỏ xác ông nằm bên đường; con lừa vẫn đứng bên cạnh, cả con sư tử cũng đứng bên xác chết nữa. Có người đi ngang qua đó thấy xác người nằm bên đường, với con sư tử đứng bên cạnh, thì đi vào trong thành, là nơi cụ tiên tri già cư ngụ, thuật lại cho mọi người hay. Khi vị tiên tri già là người đã đem vị tiên tri kia trở lại nghe thế thì bảo: “Đó là người của Đức Chúa Trời đã bất tuân lời Chúa. Cho nên Chúa đã phó ông ấy cho sư tử, sư tử đã vồ và giết chết ông ta y theo lời của Chúa đã truyền cho ông.” Cụ liền bảo các con: “Hãy thắng lừa cho cha.” Họ liền thắng lừa cho cụ. Cụ ra đi và thấy xác người chết bên đường, với con lừa và con sư tử đứng bên cạnh. Con sư tử không ăn xác người chết và cũng không cắn xé con lừa. Vị tiên tri già lấy xác của người Đức Chúa Trời, đặt trên lưng lừa, rồi đem về thành mình, để than khóc và chôn cất. Cụ đặt xác người ấy vào hang mộ của chính mình. Người ta than khóc vị tiên tri ấy. Cụ khóc rằng: “Than ôi, người anh em hỡi!” Sau khi chôn cất người ấy, cụ nói với các con mình: “Khi cha chết, các con hãy chôn cha trong hang mộ mà người của Đức Chúa Trời đã được chôn. Hãy để hài cốt cha nằm bên cạnh hài cốt người ấy. Vì những lời người ấy vâng lịnh CHÚA nói nghịch lại bàn thờ ở Bê-tên, và nghịch lại các đền miếu trên những nơi cao trong các thành ở Sa-ma-ri, chắc chắn sẽ xảy ra.” Sau việc đó, Giê-rô-bô-am cũng không xây bỏ đường lối tội lỗi của mình, nhưng cứ tiếp tục bổ nhiệm những người từ mọi thành phần trong dân làm thầy tế lễ cho các đền miếu trên những nơi cao. Hễ ai muốn làm thầy tế lễ thì vua phong làm thầy tế lễ cho các đền miếu trên những nơi cao. Việc nầy đã trở thành một tội trọng của nhà Giê-rô-bô-am, khiến cho nó sụp đổ và bị tuyệt diệt khỏi mặt đất. Khi ấy A-bi-gia, con trai của Giê-rô-bô-am bị bịnh, Giê-rô-bô-am nói với vợ: “Bây giờ, bà hãy cải trang, để người ta không biết bà là vợ của Giê-rô-bô-am, rồi bà hãy đi đến Si-lô. Tiên tri A-hi-gia đang ở đó. Ông ấy là người đã nói trước cho tôi biết rằng tôi sẽ làm vua của dân nầy. Bà hãy lấy mười ổ bánh, một ít bánh ngọt, và một hũ mật, rồi đi đến đó gặp ông ta. Ông ấy sẽ nói cho bà biết chuyện gì sẽ xảy đến cho con mình.” Vậy vợ của Giê-rô-bô-am làm y như lời của chồng bà bảo. Bà chỗi dậy, đi đến Si-lô, vào nhà của A-hi-gia.Lúc ấy cụ A-hi-gia không thấy được nữa, mắt cụ đã lòa, vì cớ tuổi già. Nhưng Chúa phán với cụ A-hi-gia: “Vợ của Giê-rô-bô-am đang đến để gặp ngươi đó. Bởi vì con nó đang bị bịnh. Ngươi hãy nói với nó thể nầy.”Khi vợ của Giê-rô-bô-am đến, bà cải trang làm một người khác. Nhưng khi nghe tiếng chân bà vừa bước vô cửa thì cụ nói: “Vào đây, hỡi vợ của Giê-rô-bô-am. Tại sao bà lại cải trang làm một người khác? Tôi được lệnh báo cho bà một tin buồn. Hãy về, bảo Giê-rô-bô-am rằng: ‘CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Ta đã cất nhắc ngươi lên giữa vòng dân thường, lập ngươi làm lãnh tụ trên dân Y-sơ-ra-ên Ta. Ta đã xé vương quốc của nhà Đa-vít mà ban cho ngươi, nhưng ngươi không giống như Đa-vít, tôi tớ Ta, là người đã vâng giữ các điều răn Ta, theo Ta hết lòng, và làm những điều ngay lành trước mắt Ta. Ngươi đã làm điều tội ác hơn tất cả những người trước ngươi. Ngươi đã làm cho mình những thần khác, đúc tượng của chúng, chọc cho Ta giận, rồi vứt bỏ Ta ra sau lưng. Vậy nên, Ta sẽ giáng họa xuống trên nhà Giê-rô-bô-am. Ta sẽ dứt bỏ khỏi gia đình Giê-rô-bô-am mọi người nam trong Y-sơ-ra-ên, dù tự do hay nô lệ. Ta sẽ thiêu hủy nhà Giê-rô-bô-am như người ta đốt phân, cho đến khi không còn lại gì nữa. Kẻ nào thuộc về gia đình Giê-rô-bô-am chết trong thành sẽ bị chó ăn, kẻ nào chết ngoài đồng sẽ bị chim trời ăn. Vì CHÚA đã phán như vậy.’ Thôi, hãy đứng dậy mà về nhà ngươi đi. Khi ngươi bước chân vào thành thì con của ngươi sẽ chết. Mọi người trong Y-sơ-ra-ên sẽ than khóc nó. Nó là người duy nhất trong gia đình Giê-rô-bô-am sẽ được chôn cất đàng hoàng. Bởi vì nó là người duy nhất trong gia đình Giê-rô-bô-am có chút gì đẹp lòng CHÚA, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Ngoài ra, ngày nay CHÚA sẽ dấy lên một người khác để làm vua trên Y-sơ-ra-ên, là người sẽ tiêu diệt gia đình Giê-rô-bô-am. Chẳng lẽ ngay bây giờ sao? Quả thật, ngay bây giờ. Chúa sẽ đánh phạt Y-sơ-ra-ên, như cây sậy bị dập vùi trong giòng nước. Ngài sẽ bứng gốc Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ tốt đẹp nầy, là xứ Ngài đã ban cho tổ phụ họ, và Ngài sẽ phân tán họ qua phía bên kia sông Ơ-phơ-rát. Bởi vì họ đã làm ra những trụ thờ nữ thần A-sê-ra, để chọc giận CHÚA. Ngài sẽ bỏ Y-sơ-ra-ên vì những tội lỗi của Giê-rô-bô-am, là những tội vua đã phạm và đã xui cho Y-sơ-ra-ên cùng phạm nữa.” Vậy vợ của Giê-rô-bô-am đứng dậy và đi về. Bà về đến Tiệt-sa. Khi bà vừa bước chân qua ngạch cửa thì đứa trẻ chết. Người ta chôn cất nó và toàn dân Y-sơ-ra-ên than khóc nó, đúng y như lời CHÚA đã phán qua tôi tớ Ngài là tiên tri A-hi-gia vậy. Những việc khác của Giê-rô-bô-am làm, những cuộc chiến vua tham dự, những đường lối vua trị vì, đều được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên. Giê-rô-bô-am trị vì được hai mươi hai năm; rồi vua an giấc cùng tổ phụ mình. Con trai vua là Na-đáp lên ngôi kế vị. Khi ấy Rô-bô-am, con của Sa-lô-môn trị vì Giu-đa. Rô-bô-am được bốn mươi mốt tuổi khi lên ngôi làm vua. Vua trị vì mười bảy năm tại Giê-ru-sa-lem, là thành CHÚA đã chọn trong các chi tộc của Y-sơ-ra-ên, để đặt danh Ngài tại đó. Mẹ của vua là bà Na-a-ma, người Am-môn. Giu-đa làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA. Do những tội lỗi họ đã phạm, họ chọc giận Ngài hơn tất cả những gì tổ phụ họ đã làm. Vì họ đã xây dựng cho mình các đền miếu trong những nơi cao, những trụ tượng bằng đá, những trụ thờ nữ thần trên mỗi đồi cao và dưới mỗi cây cổ thụ xanh rậm. Trong xứ cũng có những đàn ông làm điếm để phục vụ trong các đền miếu đó. Chúng làm mọi sự gớm ghiếc của các dân mà CHÚA đã đuổi đi trước dân Y-sơ-ra-ên. Trong năm thứ năm của triều đại vua Rô-bô-am, vua Si-rắc của Ai-cập lên đánh Giê-ru-sa-lem. Vua ấy chiếm đoạt tất cả kho tàng trong Đền Thờ CHÚA và kho tàng trong cung điện nhà vua. Vua ấy đem đi tất cả, luôn cả những chiếc khiên dát vàng mà vua Sa-lô-môn đã làm. Vậy Rô-bô-am đã làm những khiên bằng đồng để thay thế; rồi vua giao các khiên ấy cho những vị quan chỉ huy đội quân thị vệ canh gác cổng hoàng cung. Mỗi khi vua đến Đền Thờ CHÚA, thì các thị vệ lấy các khiên ấy đi theo. Rồi sau đó họ đem đặt lại trong phòng của đội quân thị vệ. Các việc khác của Rô-bô-am và tất cả những gì vua làm há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? Giữa Rô-bô-am và Giê-rô-bô-am có chiến tranh với nhau luôn. Rô-bô-am an giấc với tổ phụ mình và được chôn với các tổ phụ vua trong thành Đa-vít. Mẹ của vua tên là Na-a-ma, người Am-môn. A-bi-giam, con trai vua, lên ngôi kế vị. Vào năm thứ mười tám triều vua Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, A-bi-giam lên ngôi làm vua Giu-đa. A-bi-giam trị vì được ba năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua là Ma-a-ca, con gái của A-bi-sa-lôm. Vua phạm mọi tội lỗi mà cha của vua đã phạm trước kia. Lòng của vua không trọn thành theo CHÚA, như Đa-vít, tổ phụ của vua. Tuy nhiên, vì cớ Đa-vít, CHÚA là Đức Chúa Trời của vua ban cho vua một ngọn đèn ở Giê-ru-sa-lem, đặt con trai vua lên kế vị vua, và giữ cho Giê-ru-sa-lem đứng vững. Vì Đa-vít đã làm những điều ngay lành trước mặt CHÚA, ngoại trừ vụ U-ri người Hê-tít, thì suốt đời vua, vua không bỏ qua một điều nào trong các mạng lịnh mà Chúa đã truyền cho vua. Cuộc chiến giữa Rô-bô-am và Giê-rô-bô-am đã tiếp diễn qua suốt triều đại của A-bi-giam. Những việc khác của A-bi-giam và mọi việc vua làm há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? Giữa A-bi-giam và Giê-rô-bô-am luôn có chiến tranh với nhau. A-bi-giam an giấc với các tổ phụ mình và được chôn trong thành Đa-vít. A-sa, con trai vua, lên ngôi kế vị. Vào năm thứ hai mươi triều vua Giê-rô-bô-am của Y-sơ-ra-ên, A-sa lên ngôi làm vua của Giu-đa. Vua trị vì bốn mươi mốt năm tại Giê-ru-sa-lem. Bà nội của vua là Ma-a-ca, con gái của A-bi-sa-lôm. A-sa làm điều ngay lành trước mặt CHÚA, giống như Đa-vít, tổ phụ vua đã làm. Vua loại trừ những đàn ông làm điếm trong các đền miếu ra khỏi xứ, và dẹp bỏ tất cả những hình tượng mà cha ông của vua đã làm. Vua cũng cách chức quốc mẫu của bà nội vua là Ma-a-ca, bởi vì bà có dựng một trụ thờ đáng gớm ghiếc cho nữ thần A-sê-ra. A-sa cho đốn ngã trụ thờ đó xuống và đem thiêu rụi trong thung lũng Kít-rôn. Nhưng vua không dỡ bỏ các đền miếu trên những nơi cao. Dù vậy, lòng của A-sa luôn trọn thành với CHÚA suốt đời của vua. Vua đem vào trong Đền Thờ CHÚA những vật thánh của vua cha và của chính vua đã dâng; ấy là bạc, vàng và các khí cụ. Giữa A-sa và Ba-ê-sa, vua Y-sơ-ra-ên, luôn có chiến tranh suốt thời sinh tiền của hai vua. Ba-ê-sa, vua Y-sơ-ra-ên, lên đánh Giu-đa, xây dựng Ra-ma, để không cho ai ra vào nước Giu-đa của vua A-sa được. A-sa bèn lấy tất cả bạc và vàng còn lại trong Đền Thờ CHÚA và trong kho tàng hoàng gia trao cho các tôi tớ mình. Vua A-sa sai họ đến vua Bên Ha-đát, con của Táp-ri-môn, cháu Hê-xi-ôn, vua của A-ram, đang trị vì tại Đa-mách, mà nói rằng: “Xin lập một hiệp ước giữa tôi và vua, giống như giữa phụ thân tôi và phụ thân vua. Kìa, tôi gởi đến vua những lễ vật gồm bạc và vàng. Bây giờ xin vua hãy hủy bỏ hiệp ước giữa vua với Ba-ê-sa, vua Y-sơ-ra-ên đi, để hắn bỏ tôi mà rút về.” Bên Ha-đát nghe theo đề nghị của vua A-sa. Vua sai các tướng chỉ huy quân đội tiến đánh các thành của Y-sơ-ra-ên. Họ chiếm được I-giôn, Đan, A-bên Bết Ma-ca, cả vùng Ki-nê-rết, và toàn địa phận của Nép-ta-li. Khi Ba-ê-sa nghe vậy, vua ngưng việc xây dựng Ra-ma mà rút về trấn thủ ở Tiệt-sa. Vua A-sa liền truyền lịnh cho mọi người ở Giu-đa, không trừ một ai, đến khiêng đi tất cả đá và gỗ mà Ba-ê-sa định dùng để xây cất Ra-ma. Vua A-sa dùng các vật liệu đó mà xây dựng Ghê-ba trong đất Bên-gia-min và Mích-ba. Các công việc khác của A-sa, những thành quả của vua, mọi việc vua làm, những thành vua xây, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? Khi vua về già, vua bị bịnh ở chân. Vua A-sa an giấc với tổ phụ mình và được chôn với các tổ phụ vua trong thành Đa-vít. Giê-hô-sa-phát, con trai vua, lên ngôi kế vị. Na-đáp con trai Giê-rô-bô-am lên ngôi làm vua của Y-sơ-ra-ên vào năm thứ nhì của triều vua A-sa, vua Giu-đa. Na-đáp trị vì trên Y-sơ-ra-ên được hai năm. Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA, đi theo đường lối của cha vua đã làm và đi trong tội lỗi cha vua đã phạm và gây cho cả Y-sơ-ra-ên phạm theo nữa. Ba-ê-sa, con trai A-hi-gia, thuộc chi tộc I-sa-ca lập mưu làm phản vua. Trong khi Na-đáp và cả Y-sơ-ra-ên bao vây Ghi-bê-thôn, là thành thuộc dân Phi-li-tin, thì Ba-ê-sa đã hạ sát vua. Vậy Ba-ê-sa giết Na-đáp vào năm thứ ba triều vua A-sa của Giu-đa, và lên ngôi thế vị. Vừa khi lên ngôi xong, Ba-ê-sa ra lịnh tuyệt diệt mọi người trong gia đình Giê-rô-bô-am. Vua chẳng để trong giòng họ Giê-rô-bô-am một người nào sống sót, cho đến khi đã diệt hết, theo như lời CHÚA đã dùng tôi tớ Ngài là A-hi-gia, người Si-lô, phán trước. Bởi vì những tội lỗi Giê-rô-bô-am đã phạm và đã gây cho Y-sơ-ra-ên phạm theo, và bởi vì vua đã chọc giận CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Những việc khác của Na-đáp, và mọi việc vua làm, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên sao? Giữa A-sa và vua Ba-ê-sa của Y-sơ-ra-ên luôn có chiến tranh với nhau suốt thời sinh tiền của họ. Vào năm thứ ba triều vua A-sa của Giu-đa, Ba-ê-sa con trai A-hi-gia, bắt đầu trị vì trên cả Y-sơ-ra-ên tại Tiệt-sa. Vua trị vì được hai mươi bốn năm. Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA, đi trong các đường lối của Giê-rô-bô-am, phạm tội lỗi vua ấy đã phạm và gây cho Y-sơ-ra-ên phạm theo. Có lời của Chúa đến với Giê-hu, con trai Ha-na-nia nghịch lại Ba-ê-sa rằng: “Vì Ta đã cất nhắc ngươi lên từ bụi đất và lập ngươi làm lãnh tụ của dân Y-sơ-ra-ên Ta, nhưng ngươi lại đi trong con đường của Giê-rô-bô-am, đã gây cho dân Y-sơ-ra-ên Ta phạm tội, chọc giận Ta bằng những tội lỗi của họ, vậy nên, Ta sẽ hủy diệt Ba-ê-sa và nhà người. Ta sẽ làm cho nhà ngươi giống như nhà của Giê-rô-bô-am con trai Nê-bát. Ai trong nhà Ba-ê-sa chết trong thành sẽ bị chó ăn, còn ai chết ngoài đồng sẽ bị chim trời ăn.” Những việc khác của Ba-ê-sa, những thành đạt của vua, quyền thế của vua, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên sao? Ba-ê-sa an giấc với các tổ phụ mình và được chôn tại Tiệt-sa. Ê-la, con trai vua, lên ngôi kế vị. Lại có lời của Chúa đến với tiên tri Giê-hu, con trai Ha-na-nia, nghịch lại Ba-ê-sa và nhà của vua, vì mọi điều tội lỗi mà vua đã phạm trước mặt CHÚA, chọc giận Chúa bằng những việc vua làm, và trở nên giống như nhà Giê-rô-bô-am, và vì vua tiêu diệt nhà ấy. Vào năm thứ hai mươi sáu triều vua A-sa của Giu-đa, Ê-la con trai Ba-ê-sa lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên. Ê-la trị vì tại Tiệt-sa được hai năm. Xim-ri, bầy tôi của vua, là quan chỉ huy một nửa đạo quân có các xe chiến mã của vua, đã lập mưu làm phản. Vào năm thứ hai mươi bảy triều vua A-sa của Giu-đa, vua Ê-la đến nhà Ạt-sa, quan tổng quản hoàng cung tại Tiệt-sa, uống rượu và bị say khướt, Xim-ri đi vào, đánh hạ và giết chết vua; rồi lên ngôi thế vị. Vừa khi lên ngôi trị vì, vua Xim-ri giết tất cả mọi người trong nhà của Ba-ê-sa, chẳng chừa lại một người nam nào, dù là bà con hay bạn hữu. Như thế Xim-ri đã tiêu diệt mọi người trong gia tộc của Ba-ê-sa, theo như lời của CHÚA đã phán qua tiên tri Giê-hu. Ấy là vì tất cả tội lỗi của Ba-ê-sa và tội lỗi của Ê-la, con của vua, đã phạm và đã gây cho dân Y-sơ-ra-ên phạm theo, chọc giận CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên bằng sự thờ cúng những hình tượng vô dụng. Những việc của Ê-la và mọi việc vua làm, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên sao? Vào năm thứ hai mươi bảy triều vua A-sa, vua Giu-đa, Xim-ri trị vì tại Tiệt-sa được bảy ngày. Lúc ấy quân Y-sơ-ra-ên đang bao vây Ghi-bê-thôn, thành của dân Phi-li-tin. Đang khi quân binh bao vây thành thì nghe tin Xim-ri đã làm phản và đã giết chết vua, cả Y-sơ-ra-ên liền lập Ôm-ri, quan Tổng Binh, lên làm vua Y-sơ-ra-ên. Ôm-ri và toàn quân Y-sơ-ra-ên bèn từ Ghi-bê-thôn kéo về bao vây Tiệt-sa. Khi vua Xim-ri thấy hoàng thành bị bao vây thì rút vào pháo đài của hoàng cung, rồi phóng hỏa đốt cả hoàng cung, và chết thiêu trong đó. Ấy là vì tội lỗi mà vua đã phạm, làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA, đi theo con đường của Giê-rô-bô-am, chính vua đã phạm tội và gây cho dân Y-sơ-ra-ên phạm theo. Những việc khác của Xim-ri và cuộc phản loạn vua làm, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên sao? Khi ấy dân Y-sơ-ra-ên chia làm hai phe. Một phe ủng hộ Típ-ni, con trai Ghi-nát, và lập ông làm vua, còn phe kia ủng hộ Ôm-ri. Nhưng phe theo Ôm-ri mạnh hơn phe theo Típ-ni. Vậy Típ-ni chết và Ôm-ri làm vua. Năm thứ ba mươi mốt triều vua A-sa của Giu-đa, Ôm-ri lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên. Vua trị vì mười hai năm, mà sáu năm ở Tiệt-sa. Vua mua ngọn đồi Sa-ma-ri của Sê-me với giá hai ta-lâng bạc, rồi xây dựng nó thành một thành trì và đặt tên là Sa-ma-ri, theo tên chủ cũ của ngọn đồi. Ôm-ri làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA. Vua làm nhiều điều tội lỗi hơn những người trước vua. Vua đi theo con đường của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, và làm theo những tội lỗi mà vua ấy đã gây cho Y-sơ-ra-ên phạm theo, chọc giận CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên bằng sự thờ cúng những hình tượng vô dụng. Những việc khác của Ôm-ri làm, và những thành quả vua đạt, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên sao? Ôm-ri an giấc với các tổ phụ mình và được chôn tại Sa-ma-ri. A-háp, con trai vua, lên ngôi kế vị. Vào năm thứ ba mươi tám triều vua A-sa của Giu-đa, A-háp, con trai Ôm-ri lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên. Vua trị vì trên Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri hai mươi hai năm. A-háp con trai Ôm-ri làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA hơn tất cả những người trước vua. Vua cho việc làm theo những tội lỗi của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, là nhỏ, nên vua đi cưới Giê-sa-bên, con gái của Ếch-ba-anh, vua Si-đôn, làm vợ. Vua bắt đầu phục vụ Ba-anh và thờ phượng thần đó. A-háp xây một bàn thờ cho Ba-anh trong đền thờ Ba-anh mà vua đã xây cất tại Sa-ma-ri. A-háp cũng dựng một trụ thờ nữ thần A-sê-ra. A-háp làm nhiều điều tội lỗi và chọc giận CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên hơn tất cả các tiên vương trước vua. Trong thời của vua, Hi-ên ở Bê-tên, xây dựng lại thành Giê-ri-cô. Khi ông ấy bắt đầu xây móng thì A-bi-ram, con trưởng nam của ông qua đời, và khi ông dựng cổng thành thì Sê-gúp, con trai út của ông qua đời, đúng y như lời của CHÚA đã dùng Giê-suê, con trai của Nun, báo trước. Khi ấy tiên tri Ê-li, người Thi-sê-be, ngụ tại Thi-sê-be, trong vùng Ga-la-át, đến nói với A-háp: “Tôi đứng trước mặt CHÚA là Đức Chúa Trời hằng sống của Y-sơ-ra-ên mà tuyên bố rằng: trong những năm tới sẽ không có sương hoặc mưa rơi xuống đất, nếu tôi không tuyên bố trở lại.” Có lời của CHÚA đến với ông: “Hãy rời khỏi đây, đi về hướng đông, và ẩn mình trong khe Kê-rít, ở phía đông sông Giô-đanh. Ngươi sẽ uống nước trong khe, và Ta đã truyền cho quạ nuôi ngươi tại đó.” Vậy Ê-li đi và làm theo như lời Chúa đã phán dạy. Ông đến sống tại khe Kê-rít, về phía đông sông Giô-đanh. Buổi sáng, các chim quạ mang bánh và thịt đến cho ông; chiều đến, chúng cũng mang bánh và thịt đến. Ông uống nước trong khe. Nhưng sau một thời gian, nước trong khe khô cạn, bởi vì trong xứ không có mưa. Bấy giờ, có lời của CHÚA đến với Ê-li rằng: “Hãy chổi dậy, đi đến Sa-rép-ta, thuộc xứ Si-đôn, và hãy ở tại đó. Vì Ta đã truyền cho một góa phụ kia nuôi ngươi.” Vậy, ông đứng dậy, đi đến Sa-rép-ta. Khi ông đến cổng thành thì thấy một góa phụ đang lượm củi ở đó. Ông gọi bà lại và bảo: “Xin bà hãy lấy bình đem cho tôi một ít nước, để tôi uống.” Bà ấy vừa đi lấy nước, thì ông gọi giật bà lại và bảo: “Xin bà cũng hãy đem cho tôi một miếng bánh trong tay nữa.” Nhưng bà đáp: “Có CHÚA là Đức Chúa Trời hằng sống của ông làm chứng, tôi không có bánh. Tôi chỉ còn một nắm bột trong hũ và một chút dầu trong vò. Tôi ra đây kiếm mấy khúc củi nầy, để về nhà, nấu cho tôi và con trai tôi ăn một bữa cuối cùng rồi chết.” Ê-li nói với bà: “Bà đừng sợ. Hãy đi làm như lời bà nói. Nhưng trước hết, hãy làm một cái bánh nhỏ, đem đến cho tôi, rồi sau đó, hãy làm cho bà và con trai bà. Vì có lời của CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Bột trong hũ sẽ không vơi, dầu trong vò sẽ không cạn, cho đến ngày CHÚA ban mưa xuống đất.” Bà đi và làm như lời tiên tri Ê-li đã nói. Vậy bà, tiên tri Ê-li, và gia đình bà có đủ ăn trong nhiều ngày. Bột không vơi trong hũ, dầu cũng không cạn trong vò, đúng y như lời của CHÚA đã cậy tiên tri Ê-li phán dạy. Sau đó ít lâu, đứa con trai của góa phụ chủ nhà đau nặng. Cơn bịnh của đứa trẻ trầm trọng đến độ nó tắt thở. Bà đến nói với Ê-li: “Hỡi người của Đức Chúa Trời. Ông đến để hại tôi chăng? Ông đến để nhắc lại tội lỗi tôi, khiến cho con tôi phải chết chăng?” Nhưng ông đáp với bà: “Hãy trao đứa con trai bà cho tôi.” Ông bồng lấy đứa trẻ từ lòng mẹ nó, đem nó lên phòng trên lầu, là nơi ông ở, rồi đặt đứa trẻ trên giường của ông. Đoạn ông kêu cầu với CHÚA: “Lạy CHÚA là Đức Chúa Trời của con. Tại sao Ngài lại giáng họa trên người góa phụ nầy, là người đã cho con tá túc, mà nỡ để cho con nàng chết đi?” Rồi ông nằm sấp trên mình đứa trẻ ba lần, và kêu cầu với CHÚA: “Lạy CHÚA là Đức Chúa Trời của con. Xin Ngài hãy cho linh hồn đứa trẻ trở lại trong thân xác nó.” CHÚA lắng nghe lời kêu cầu của Ê-li, linh hồn của đứa trẻ trở lại trong thân xác nó và nó sống lại. Ê-li bồng đứa trẻ, từ phòng trên lầu đi xuống nhà dưới, trao lại cho mẹ nó, và nói, “Bà hãy xem, con bà đang sống đây.” Bà nói với Ê-li: “Bây giờ tôi nhận biết ông là người của Đức Chúa Trời, và những lời của CHÚA từ miệng ông nói ra là chân thật.” Sau nhiều ngày, vào năm hạn hán thứ ba, có lời của CHÚA đến với Ê-li rằng: “Hãy đi gặp A-háp. Ta sẽ cho mưa xuống đất trở lại.” Vậy Ê-li đi đến gặp A-háp.Lúc ấy, nạn đói đang hoành hành tại Sa-ma-ri. A-háp gọi Áp-đia, quan tổng quản hoàng cung đến. Áp-đia rất kính sợ CHÚA. Khi Giê-sa-bên giết hại các tiên tri của CHÚA, thì Áp-đia có đem một trăm tiên tri đi giấu, năm mươi người trong một hang, rồi cung cấp bánh và nước để nuôi họ. A-háp nói với Áp-đia: “Ngươi hãy đi khắp xứ, hãy đến các suối và các khe, may ra chúng ta sẽ tìm được cỏ để giữ cho ngựa và lừa sống, và chúng ta khỏi phải giết các súc vật của chúng ta hết chăng.” Vậy họ chia nhau đi khắp xứ. A-háp đi một hướng, còn Áp-đia đi một hướng khác. Đang khi Áp-đia đi đường thì Ê-li gặp ông. Áp-đia nhận ra ông, liền sấp mặt xuống đất, và hỏi: “Thưa có phải chúa tôi đây là Ê-li chăng?” Ông trả lời: “Chính tôi đây. Hãy đi, nói với chủ của ông rằng Ê-li đang ở đây.” Áp-đia đáp: “Tôi có tội tình gì mà ngài muốn trao tôi vào tay A-háp để giết tôi đi? Như CHÚA là Đức Chúa Trời hằng sống của ngài chứng giám, chẳng có nước nào hoặc vương quốc nào mà chủ tôi không sai người đến kiếm ngài. Khi người ta bảo rằng ngài không có ở đó, thì ông ấy đòi nước đó hoặc vương quốc đó phải thề là họ không có gặp ngài. Nhưng bây giờ ngài bảo tôi: ‘Hãy đi, nói với chủ của ông rằng Ê-li đang ở đây.’ Nhưng vừa khi tôi rời khỏi ngài thì Thần của CHÚA đem ngài đi đến nơi nào tôi không biết. Rồi khi tôi đến nói cho A-háp, ông ấy đến mà không thấy ngài, ông ấy chắc sẽ giết tôi đi, mặc dù tôi đây, là tôi tớ ngài, đã kính sợ CHÚA từ thuở nhỏ. Người ta há không nói cho chúa tôi biết rằng tôi đã làm gì khi Giê-sa-bên giết hại các tiên tri của CHÚA sao, thể nào tôi đã đem giấu một trăm tiên tri của CHÚA, năm mươi người trong một hang, rồi cung cấp bánh và nước để nuôi họ sao? Bây giờ ngài bảo tôi: ‘Hãy đi, nói với chủ của ông rằng Ê-li đang ở đây’, ông ấy chắc sẽ giết tôi.” Nhưng Ê-li đáp: “Có CHÚA Vạn Quân, là Đấng tôi phục vụ, chứng giám, chắc chắn hôm nay tôi muốn gặp chủ của ông.” Vậy Áp-đia đi gặp vua A-háp và báo cho vua biết. A-háp liền đi gặp Ê-li. Khi A-háp thấy Ê-li, A-háp nói với ông: “Ngươi, kẻ gây rối cho Y-sơ-ra-ên, có phải ngươi đó chăng?” Ê-li đáp: “Không phải tôi gây rối cho Y-sơ-ra-ên, nhưng chính là vua và nhà cha vua. Vì vua và phụ vương của vua đã bỏ các điều răn của CHÚA, và vua lại đi theo các thần Ba-anh. Bây giờ xin vua hãy triệu tập toàn dân Y-sơ-ra-ên lại gặp tôi ở núi Cạt-mên, cùng với bốn trăm năm mươi tiên tri của Ba-anh và bốn trăm tiên tri của A-sê-ra, là những kẻ được Giê-sa-bên cấp dưỡng.” Vậy A-háp sai người đi khắp Y-sơ-ra-ên và triệu tập các tiên tri tại núi Cạt-mên. Ê-li đến gần dân chúng và nói: “Các ngươi cứ khập khiễng đi hàng hai cho đến chừng nào? Nếu CHÚA là Đức Chúa Trời thì hãy theo Ngài, còn nếu Ba-anh là Đức Chúa Trời thì hãy theo hắn.”Nhưng dân chúng lặng thinh. Bấy giờ Ê-li nói với dân chúng: “Tôi, chỉ một mình tôi, là tiên tri của CHÚA còn sót lại; nhưng ở đây có bốn trăm năm mươi tiên tri của Ba-anh. Bây giờ hãy cho chúng tôi hai con bò đực. Hãy để họ chọn một con cho họ trước đi. Hãy sả con bò ra từng mảnh, rồi chất trên củi, nhưng không được châm lửa. Tôi sẽ sả con bò kia, chất nó trên củi, nhưng cũng không châm lửa. Rồi các ông hãy kêu cầu danh thần của các ông, còn tôi, tôi sẽ kêu cầu danh CHÚA. Vị thần nào đáp lời bằng lửa thì vị đó chính là Đức Chúa Trời.”Toàn thể dân chúng hiện diện nói: “Đề nghị rất hữu lý!” Bấy giờ Ê-li nói với các tiên tri của Ba-anh: “Các ông hãy chọn lấy cho mình một con bò và sả thịt nó trước đi, vì các ông đông người; rồi hãy kêu cầu danh thần của các ông, nhưng không được châm lửa đấy nhé.” Vậy họ bắt một con bò đực đem đến đó, sả thịt nó ra, rồi kêu cầu danh thần Ba-anh từ sáng đến trưa. Họ cầu rằng, “Lạy thần Ba-anh, xin hãy đáp lời chúng tôi.” Nhưng chẳng có tiếng nào, cũng chẳng có ai trả lời. Họ nhảy khập khiễng xung quanh bàn thờ họ đã dựng. Đến trưa Ê-li chế nhạo họ rằng: “Hãy kêu cầu lớn hơn chút nữa. Ba-anh chính là thần đó mà. Có thể thần đang tĩnh tâm, hay là thần bận đi đâu đó, không chừng thần kẹt đi xa, hay là thần đang ngủ cũng có, phải đánh thức thần dậy.” Nghe thế họ lại càng kêu cầu lớn hơn nữa, và theo như thói tục của họ, họ lấy gươm và giáo rạch mình đến chảy máu. Đến quá trưa, họ vẫn tiếp tục nói tiên tri theo kiểu như thế cho đến giờ dâng tế lễ buổi chiều, nhưng chẳng có tiếng nào đáp lại, cũng chẳng ai trả lời, và chẳng ai quan tâm đến. Bấy giờ Ê-li nói với toàn dân: “Hãy đến gần tôi.” Toàn dân kéo lại gần ông. Trước hết, ông sửa lại bàn thờ của CHÚA đã bị sụp đổ. Ê-li lấy mười hai phiến đá, theo số chi tộc của các con trai Gia-cốp, là người mà lời của CHÚA đã phán, “Y-sơ-ra-ên sẽ là tên ngươi.” Ê-li dùng các phiến đá đó xây lại một bàn thờ cho danh CHÚA. Rồi ông đào một đường mương chung quanh bàn thờ, rộng cỡ chứa được hai thúng hạt giống. Kế đến ông sắp củi trên bàn thờ. Đoạn ông sả con bò ra từng mảnh, rồi chất nó trên củi. Xong ông bảo: “Hãy múc đầy bốn bình nước, rồi đem đổ trên của lễ thiêu và củi.” Ông bảo họ: “Hãy làm lần thứ nhì.” Họ làm lần thứ nhì. Ông lại bảo họ: “Hãy làm lần thứ ba.” Họ làm lần thứ ba, đến nỗi nước chảy ướt đẫm xung quanh bàn thờ và đầy tràn cái mương. Đến giờ dâng tế lễ buổi chiều, tiên tri Ê-li đến gần và cầu nguyện rằng: “Lạy CHÚA là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, I-sác, và Y-sơ-ra-ên. Ngày hôm nay xin Ngài hãy cho thiên hạ biết rằng Ngài là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, rằng con đây là đầy tớ Ngài, và con đã làm mọi sự nầy là do Ngài phán bảo. Lạy CHÚA, xin nhậm lời con, để dân nầy biết rằng chính Ngài, Chúa ôi, là Đức Chúa Trời, và sẽ khiến lòng dân nầy quay trở lại.” Bấy giờ lửa của CHÚA giáng xuống, thiêu rụi của lễ thiêu, củi, đá, bụi đất, và làm khô hết nước trong mương. Khi toàn dân thấy vậy, họ liền sấp mặt xuống đất và nói: “CHÚA quả thật là Đức Chúa Trời! CHÚA quả thật là Đức Chúa Trời!” Ê-li nói với họ: “Hãy bắt các tiên tri của Ba-anh. Đừng để thoát một ai.” Họ liền bắt những người ấy. Ê-li đem họ xuống khe Kít-sôn và giết hết họ tại đó. Ê-li nói với A-háp: “Xin mời vua đi lên, ăn và uống. Vì tôi nghe có tiếng mưa rào.” Vậy A-háp đi lên, ăn và uống. Ê-li đi lên đỉnh núi Cạt-mên. Tại đó, ông sấp mặt xuống đất, giữa hai đầu gối. Ông nói với người đầy tớ ông: “Hãy đi, nhìn về hướng biển.”Người ấy đi, nhìn, rồi trở lại nói: “Con chẳng thấy gì cả.”Ông bảo: “Hãy đi trở lại, và làm bảy lần như thế.” Lần thứ bảy người ấy nói: “Kìa, con thấy có một đám mây, cỡ bằng bàn tay, đang nổi lên ngoài biển.”Ông bảo: “Hãy đến nói với A-háp: ‘Xin vua hãy thắng xe và đi xuống mau, kẻo mưa sẽ giữ vua lại.’” Chẳng mấy chốc, mây đen kéo đến phủ khắp bầu trời và gió cuồn cuộn thổi. Một trận mưa lớn đổ xuống. A-háp vội vàng lên xe, chạy đến Gít-rê-ên. Tay của CHÚA đặt trên Ê-li. Ông thắt lưng và chạy trước xe A-háp, cho đến lúc vào thành Gít-rê-ên. A-háp kể cho Giê-sa-bên mọi sự Ê-li đã làm, thể nào ông đã dùng gươm giết tất cả các tiên tri. Giê-sa-bên bèn sai một sứ giả đến nói với Ê-li rằng: “Nguyện các thần phạt ta cách nặng nề, nếu giờ nầy ngày mai, ta không khiến mạng ngươi giống như mạng một người trong các tiên tri ngươi đã giết.” Bấy giờ Ê-li sợ hãi. Ông đứng dậy, chạy trốn để cứu mạng. Ông đến Bê-e Sê-ba thuộc nước Giu-đa. Ông để đầy tớ ông lại đó. Còn ông, ông đi thêm bốn ngày, vào sâu trong đồng hoang. Ông đến ngồi dưới bóng một cây kim tước, và cầu xin được chết rằng: “Lạy CHÚA, con thấy đã đủ rồi. Bây giờ xin Ngài hãy cất lấy mạng sống con đi. Vì con không hơn gì các tổ phụ con.” Xong ông nằm dưới bóng cây kim tước đó và ngủ thiếp đi.Thình lình, một thiên sứ chạm vào người ông và bảo: “Hãy thức dậy và ăn.” Ông nhìn quanh và thấy kề nơi đầu ông nằm có một cái bánh nướng trên than đá và một bình nước. Ông ăn bánh và uống nước, rồi nằm xuống ngủ tiếp. Thiên sứ của CHÚA đến lần thứ nhì, chạm vào người ông và nói: “Hãy thức dậy và ăn, vì đường còn xa lắm cho ngươi.” Ông thức dậy ăn và uống, rồi nhờ sức lực của thực phẩm đó, ông đi bộ bốn mươi ngày và bốn mươi đêm, đến Hô-rếp, là núi của Đức Chúa Trời. Đến nơi, ông vào trú ẩn trong một cái hang, và qua đêm tại đó.Bấy giờ có lời của CHÚA đến với Ê-li rằng: “Hỡi Ê-li, ngươi làm gì ở đây?” Ông đáp: “Con rất nhiệt thành về CHÚA, là Đức Chúa Trời Vạn Quân; vì dân Y-sơ-ra-ên đã lìa bỏ giao ước Ngài, phá đổ các bàn thờ Ngài, dùng gươm giết hại các tiên tri Ngài. Chỉ còn một mình con còn sót lại, mà bây giờ họ đang lùng bắt để lấy mạng con.” Ngài phán: “Hãy đi ra và đứng trên núi trước mặt CHÚA, vì Chúa sắp đi ngang qua.”Bấy giờ có một trận gió rất mạnh thổi qua, gió mạnh đến nỗi xẻ núi ra và làm vỡ đá ra từng mảnh trước mặt CHÚA, nhưng Chúa không có trong trận gió. Sau trận gió là một cơn động đất, nhưng Chúa cũng không có trong cơn động đất. Sau cơn động đất là một luồng lửa hực, nhưng Chúa cũng không có trong luồng lửa hực đó. Sau luồng lửa hực có một tiếng êm dịu nhỏ nhẹ. Khi Ê-li nghe tiếng đó, ông vội lấy áo choàng che mặt, chạy ra và đứng nơi miệng hang.Bấy giờ có một tiếng nói với ông: “Hỡi Ê-li, ngươi làm gì ở đây?” Ông đáp: “Con rất nhiệt thành về CHÚA, là Đức Chúa Trời Vạn Quân; vì dân Y-sơ-ra-ên đã lìa bỏ giao ước Ngài, phá đổ các bàn thờ Ngài, dùng gươm giết hại các tiên tri Ngài. Chỉ còn một mình con còn sót lại, mà bây giờ họ đang lùng bắt để lấy mạng con.” Chúa bèn phán với ông: “Hãy đi, hãy trở lại con đường ngươi đã đi, mà đến vùng đồng hoang Đa-mách. Khi đến nơi, ngươi hãy xức dầu cho Ha-xa-ên làm vua A-ram. Ngươi cũng hãy xức dầu cho Giê-hu, con trai Nim-si, làm vua Y-sơ-ra-ên; và ngươi cũng hãy xức dầu cho Ê-li-sê, con trai Sa-phát, ở A-bên Mê-hô-la, làm tiên tri thế cho ngươi. Ai thoát khỏi gươm của Ha-xa-ên, Giê-hu sẽ giết; ai thoát khỏi gươm của Giê-hu, Ê-li-sê sẽ giết. Còn Ta, Ta đã để dành cho Ta bảy ngàn người trong Y-sơ-ra-ên. Tất cả những người nầy chưa hề quỳ gối trước Ba-anh, và môi họ chưa hề hôn nó.” Vậy Ê-li rời khỏi nơi đó và gặp Ê-li-sê, con trai Sa-phát, đang cày. Ông ấy có mười hai đôi bò đang cày trước mặt ông; chính ông đang cày đôi thứ mười hai. Ê-li đi ngang qua và quăng chiếc áo choàng của mình trên ông. Ông liền để đôi bò đó, chạy theo Ê-li và nói: “Xin thầy cho phép con về hôn chào từ giã cha và mẹ con, rồi con sẽ theo thầy.”Ê-li đáp: “Hãy đi, rồi trở lại. Thầy có làm gì anh đâu.” Ê-li-sê rời Ê-li trở về, bắt đôi bò đang cày làm thịt; ông chẻ cày làm củi để nấu thịt, rồi đãi mọi người ăn, và mọi người đều ăn. Xong rồi ông đứng dậy đi theo Ê-li, làm môn đồ phục vụ Ê-li. Vua Bên Ha-đát của A-ram triệu tập tất cả quân đội của vua lại. Có ba mươi hai vua khác cùng hiệp với vua. Họ có nhiều chiến mã và xe chiến mã. Vua ấy kéo quân đến Sa-ma-ri, bao vây thành, và tấn công thành. Vua sai các sứ giả vào trong thành gặp vua A-háp của Y-sơ-ra-ên và nói rằng: “Bên Ha-đát nói như vầy: Bạc và vàng của ngươi là của ta. Những người vợ đẹp nhất của ngươi và con cái của ngươi là của ta.” Vua Y-sơ-ra-ên đáp lại: “Tâu vua, là chúa của tôi, thật đúng vậy. Bản thân tôi và mọi sự tôi có đều thuộc về vua.” Các sứ giả trở lại nữa và nói: “Bên Ha-đát nói như vầy: Ta sai sứ giả đến nói cho ngươi biết: ‘Hãy trao nộp cho ta bạc, vàng, các vợ và các con của ngươi. Ngoài ra, giờ nầy ngày mai, ta sẽ sai các tôi tớ ta đến với ngươi. Chúng sẽ lục soát nhà ngươi và nhà bầy tôi của ngươi, hễ bất cứ điều gì chúng thích, chúng sẽ lấy đem đi hết.’” Vua của Y-sơ-ra-ên bèn triệu tập tất cả các trưởng lão trong xứ lại và nói: “Các ngươi hãy xem đó. Kìa, người nầy đến để gây sự với chúng ta. Vì hắn đã sai sứ đến đòi ta phải nộp các vợ của ta, con cái của ta, bạc của ta và vàng của ta cho hắn, và ta đã không từ chối rồi.” Bấy giờ tất cả các trưởng lão và toàn dân nói: “Xin vua đừng nghe lời hắn và đừng chấp thuận gì cả.” Vậy A-háp trả lời cho các sứ giả của Bên Ha-đát rằng: “Hãy tâu với vua là chúa của tôi rằng: Tất cả những gì vua đòi hỏi nơi tôi lần thứ nhất, tôi xin tuân theo, nhưng lần nầy thì tôi không thể làm được.”Các sứ giả ra đi đem tin về cho Bên Ha-đát. Bên Ha-đát lại sai một sứ giả khác đến gặp A-háp và nói: “Nguyện các thần phạt ta cách nặng nề, nếu bụi đất ở Sa-ma-ri đủ cho mỗi người trong đại binh ta, mỗi người có được một nắm tay.” Vua Y-sơ-ra-ên đáp lại: “Hãy về nói với hắn: Đợi khi xong trận rồi hãy khoác lác.” Khi Bên Ha-đát nghe nói như thế, lúc đó vua đang uống rượu với các vua trong trại quân, thì ra lịnh cho bầy tôi của vua: “Chuẩn bị tấn công!” Họ liền chuẩn bị tấn công thành. Có một vị tiên tri kia đến gặp vua A-háp của Y-sơ-ra-ên và nói: “Chúa phán như vầy: ‘Ngươi có thấy đạo quân đông đảo nầy chăng? Hãy xem, hôm nay Ta sẽ ban nó vào trong tay ngươi, để ngươi biết rằng Ta là CHÚA.’” A-háp hỏi: “Nhưng biết nhờ ai bây giờ?”Vị tiên tri đáp: “CHÚA phán như vầy: Hãy nhờ những trai trẻ phục vụ dưới quyền các quận trưởng.”Vua lại hỏi: “Ai sẽ dẫn đầu cuộc tấn công?”Người ấy trả lời: “Chính vua.” Vua liền triệu tập tất cả những chàng trai trẻ phục dưới quyền các quận trưởng; đếm được hai trăm ba mươi hai người. Vua cũng triệu tập cả thảy dân Y-sơ-ra-ên, được bảy ngàn người nữa, để theo sau tiếp ứng. Vào lúc giữa trưa, họ kéo quân ra. Khi ấy Bên Ha-đát và ba mươi hai vua đồng minh của vua đang uống rượu và say mèm trong trại quân. Những trai trẻ phục vụ dưới quyền các quận trưởng đi tiên phong. Bên Ha-đát sai quân thám báo ra đi, họ báo cáo về cho vua: “Có người từ trong thành Sa-ma-ri đi ra.” Vua truyền: “Nếu chúng ra để cầu hòa, hãy bắt sống chúng. Nếu chúng ra để gây chiến, cũng hãy bắt sống chúng.” Nhưng những người nầy đã ra khỏi thành rồi. Đó là các trai trẻ phục vụ dưới quyền các quận trưởng và đạo quân đi sau tiếp hậu. Ai nấy đều đánh hạ đối phương mình. Quân A-ram bỏ chạy, và quân Y-sơ-ra-ên đuổi theo. Vua Bên Ha-đát của A-ram lên ngựa chạy thoát thân với một ít kỵ binh. Vua Y-sơ-ra-ên đi ra, tấn công vào quân kỵ và các đạo quân có các xe chiến mã, đánh bại quân A-ram và gây cho họ tổn thất nặng nề. Bấy giờ vị tiên tri đến gần vua Y-sơ-ra-ên và nói với vua: “Hãy đi. Củng cố quân lực của vua cho mạnh mẽ. Hãy chuẩn bị những việc phải làm. Bởi vì mùa xuân năm sau, vua A-ram sẽ trở lại tấn công vua nữa.” Quần thần của vua A-ram tâu với vua: “Thần của họ là thần núi, cho nên họ mạnh hơn chúng ta. Nhưng nếu chúng ta đánh họ dưới đồng bằng, chắc chắn chúng ta sẽ mạnh hơn họ. Xin vua hãy làm điều nầy: Hãy cách chức các vua khỏi các chức vụ điều binh, mà thay vào đó bằng các tướng lãnh. Vua hãy lập lại một đội quân như đội quân đã mất, kiếm đủ số ngựa và số xe chiến mã như đã có trước kia; rồi chúng ta đến đánh họ dưới đồng bằng. Chắc chắn chúng ta sẽ mạnh hơn họ.” Vua A-ram tán đồng ý kiến họ và làm theo như vậy. Mùa xuân năm sau, Bên Ha-đát điểm quân và kéo tới A-phéc để đánh Y-sơ-ra-ên. Dân Y-sơ-ra-ên cũng điểm binh và chuẩn bị lương thực để ra nghinh địch. Dân Y-sơ-ra-ên đóng quân đối diện quân A-ram như hai bầy dê nhỏ, còn quân A-ram thì đầy tràn khắp xứ. Một người của Đức Chúa Trời đến gần và nói với vua Y-sơ-ra-ên: “CHÚA phán như vầy: Bởi vì dân A-ram nói: ‘CHÚA là thần núi chứ không phải thần thung lũng,’ cho nên Ta sẽ ban vào tay ngươi toàn thể đội quân lớn nầy, và ngươi sẽ biết rằng Ta là Chúa.” Họ đóng trại gườm nhau bảy ngày. Đến ngày thứ bảy, họ bắt đầu giao chiến. Quân Y-sơ-ra-ên đánh giết một trăm ngàn bộ binh A-ram trong một ngày. Số còn lại chạy trốn vào thành A-phéc, nhưng các vách thành lại sụp đổ, đè chết hai mươi bảy ngàn quân còn lại. Bên Ha-đát cũng bỏ chạy vào thành và trốn trong một phòng kín. Bầy tôi của vua đến tâu với vua: “Chúng tôi có nghe nói các vua của Y-sơ-ra-ên đều là những vị vua nhân từ. Vì vậy, xin cho chúng tôi buộc vải gai quanh lưng và quấn dây quanh đầu, rồi ra trình diện vua Y-sơ-ra-ên, may đâu vua ấy sẽ tha mạng cho vua.” Vậy họ buộc vải gai quanh lưng và quấn dây quanh đầu, rồi ra trình diện vua Y-sơ-ra-ên, và nói: “Bên Ha-đát, tôi tớ vua có nói như vầy: ‘Xin vua tha mạng cho tôi.’”Vua Y-sơ-ra-ên hỏi: “Ông ấy vẫn còn sống sao? Ông ấy là anh em của ta mà.” Những người kia thấy có dấu hiệu tốt, liền vội vàng dựa vào đó mà nói: “Vâng, Bên Ha-đát là anh em của vua.”Vua A-háp nói tiếp: “Hãy đi dẫn ông ấy đến gặp ta.” Vậy Bên Ha-đát đi ra gặp A-háp. Vua A-háp mời Bên Ha-đát lên xe chiến mã của mình. Bên Ha-đát nói với A-háp: “Tôi sẽ trả lại cho vua những thành mà thân phụ tôi đã lấy của thân phụ vua. Vua cũng có thể lập một khu thương mại ngay tại Đa-mách như thân phụ tôi đã lập tại Sa-ma-ri.”Vua Y-sơ-ra-ên đáp: “Tôi chấp thuận đề nghị của vua và sẽ để cho vua ra đi.” Vậy A-háp lập giao ước với Bên Ha-đát và để cho Bên Ha-đát ra về. Theo lịnh CHÚA, một vị tiên tri trong hàng ngũ các tiên tri đến nói với bạn mình: “Xin hãy đánh tôi đi!” Nhưng người kia không chịu đánh. Ông ấy bèn nói với người kia: “Bởi vì anh không nghe theo lời CHÚA, vì thế một khi anh đi khỏi tôi, thì sư tử sẽ vồ chết anh.” Người kia rời khỏi ông ra đi, thì gặp ngay một con sư tử và đã bị nó vồ chết. Vị tiên tri ấy gặp một người khác, liền nói: “Xin hãy đánh tôi đi!” Người nọ đánh ông và làm cho ông bị thương. Bấy giờ vị tiên tri ấy ra đi, đứng đợi bên đường, chờ vua đi ngang qua; ông lấy vải bịt đôi mắt để giả dạng. Vừa khi vua đi qua, ông kêu cầu vua rằng: “Tôi tớ vua đang ở giữa chiến trận thì có người đem đến cho tôi tớ vua một tù binh và bảo: ‘Hãy canh giữ cẩn thận tên nầy. Nếu nó trốn thoát thì mạng anh phải đền cho mạng nó, còn không thì anh phải đền một ta-lâng bạc.’ Đang khi tôi tớ vua đang bận việc nầy việc nọ thì tên tù đã trốn mất.”Nhà vua liền bảo ông: “Như vậy án ngươi đã đành rành. Chính ngươi đã tự kết án cho mình rồi.” Bấy giờ vị tiên tri vội gỡ bỏ tấm vải che mắt xuống. Vua liền nhận ra ông là một người trong hàng ngũ các tiên tri. Vị tiên tri nói với vua: “CHÚA phán như vầy: ‘Vì ngươi đã để cho kẻ Ta muốn phải chết thoát đi. Cho nên mạng ngươi phải đền cho mạng nó, và dân ngươi sẽ thay cho dân nó.’” Vua Y-sơ-ra-ên trở về cung điện mình tại Sa-ma-ri, buồn rầu và bực bội. Sau các việc đó, thì xảy ra chuyện nầy: Na-bốt, người Gít-rê-ên, có một vườn nho ở Gít-rê-ên, kề bên cung điện của vua A-háp tại Sa-ma-ri. A-háp nói với Na-bốt: “Hãy nhượng vườn nho của ngươi cho ta, để ta làm vườn rau, vì nó ở sát cạnh nhà ta. Ta sẽ bù lại cho ngươi một vườn nho khác tốt hơn; hoặc nếu ngươi thích, giá bao nhiêu, ta sẽ trả cho ngươi bằng tiền mặt.” Nhưng Na-bốt trả lời A-háp: “Nguyện xin Chúa đừng để tôi nhượng gia sản của tổ tiên tôi cho vua.” Vậy A-háp trở về nhà, buồn rầu và bực bội, vì Na-bốt, người Gít-rê-ên, có nói với vua: “Tôi không thể nhượng cho vua sản nghiệp của tổ tiên tôi.” Vua nằm trên giường, quay mặt đi, và không chịu ăn. Hoàng hậu Giê-sa-bên vào gặp vua và nói: “Tại sao tâm thần vua buồn rầu và vua không chịu ăn?” Vua trả lời: “Tại vì ta có nói với Na-bốt, người Gít-rê-ên, rằng: ‘Hãy bán vườn nho của ngươi cho ta, ta sẽ trả tiền cho, hoặc nếu ngươi muốn, ta sẽ đền cho ngươi một vườn nho khác.’ Nhưng hắn nói: ‘Tôi sẽ không nhượng vườn nho của tôi cho vua đâu.’” Hoàng hậu Giê-sa-bên nói với vua: “Há chẳng phải vua đang cai trị trên Y-sơ-ra-ên sao? Xin vua hãy chỗi dậy và ăn đi. Xin vua hãy vui lên. Thần thiếp sẽ tặng vua vườn nho của Na-bốt, người Gít-rê-ên.” Vậy bà nhân danh vua A-háp viết thư, lấy ấn dấu của vua đóng lên, rồi bà gởi các bức thư đó cho các trưởng lão và những người quyền quý sống cùng thành với Na-bốt. Bà viết trong các thư ấy rằng: “Hãy rao một cuộc kiêng ăn. Hãy đặt Na-bốt ngồi trước mặt dân thành. Hãy để hai kẻ làm chứng dối ngồi đối diện hắn và bảo hai kẻ đó làm chứng rằng Na-bốt đã rủa sả Đức Chúa Trời và vua. Rồi hãy đem hắn ra ngoài và ném đá cho hắn chết đi.” Những người trong thành, tức các trưởng lão và những người quyền quý sống trong thành, làm y như lời Giê-sa-bên đã gởi cho họ. Theo như thư bà gởi cho, họ rao một cuộc kiêng ăn, và đặt Na-bốt ngồi trước dân thành. Hai kẻ làm chứng dối bước vào, ngồi đối diện Na-bốt. Hai tên vô lại đó tố cáo Na-bốt trước mặt dân thành rằng: “Na-bốt đã rủa sả Đức Chúa Trời và vua.” Vậy họ đem Na-bốt ra ngoài thành và ném đá cho ông chết. Rồi họ gởi tin cho Giê-sa-bên bảo: “Na-bốt đã bị ném đá và đã chết.” Khi Giê-sa-bên nghe tin Na-bốt đã bị ném đá và đã chết, Giê-sa-bên đến nói với A-háp: “Xin vua hãy đi, chiếm lấy vườn nho của Na-bốt, người Gít-rê-ên, mà hắn đã không chịu bán cho vua để lấy tiền, vì Na-bốt không còn sống nữa, nhưng đã chết rồi.” Vừa khi A-háp nghe tin Na-bốt đã chết, A-háp đứng dậy, đi xuống vườn nho của Na-bốt, người Gít-rê-ên, để chiếm đoạt cho mình. Bấy giờ có lời của CHÚA đến với Ê-li người Thi-sê-be rằng: “Hãy đi gặp vua A-háp của Y-sơ-ra-ên, đang cai trị tại Sa-ma-ri. Nầy, nó đang ở trong vườn nho của Na-bốt, là sản nghiệp nó đã chiếm đoạt cho mình. Ngươi hãy nói với nó rằng: CHÚA phán như vầy: ‘Có phải ngươi đã giết người và cướp của chăng?’ Ngươi cũng hãy nói với nó: ‘CHÚA phán như vầy: Tại chỗ chó đã liếm máu của Na-bốt, chó cũng sẽ liếm máu của ngươi.’” A-háp nói với Ê-li: “Hỡi kẻ thù của ta, ngươi đã bắt quả tang được ta sao?”Tiên tri Ê-li đáp: “Tôi đã bắt quả tang được vua rồi. Vì vua đã tự bán mình để làm điều ác trước mặt CHÚA, nên Ngài phán: ‘Ta sẽ mang tai họa đến trên ngươi. Ta sẽ thiêu rụi hậu tự ngươi. Ta sẽ diệt khỏi nhà A-háp mọi người nam trong Y-sơ-ra-ên, bất kể nô lệ hay tự do. Ta sẽ khiến nhà ngươi giống như nhà của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, và giống như nhà của Ba-ê-sa, con trai A-hi-gia, vì ngươi đã chọc giận Ta và đã gây cho Y-sơ-ra-ên phạm tội.’ Còn về Giê-sa-bên, thì CHÚA phán: ‘Chó sẽ ăn thịt Giê-sa-bên trong khu vực Gít-rê-ên.’ Ai thuộc gia đình A-háp chết trong thành sẽ bị chó ăn thịt, còn ai trong gia đình nó chết ngoài đồng sẽ bị chim trời ăn thịt.” Thật chẳng có ai giống như A-háp, là kẻ đã tự bán mình để làm điều ác trước mặt CHÚA, và bị vợ là Giê-sa-bên xúi giục. A-háp đã hành động cách ghê tởm là đi theo các hình tượng, như dân A-mô-rít đã làm; họ là những kẻ mà CHÚA đã đuổi đi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên. Khi A-háp nghe những lời đó thì vua xé quần áo mình, lấy bao gai che đậy da thịt mình, kiêng ăn, nằm trong tro, và bước đi cách thiểu não. Bấy giờ có lời của CHÚA đến với Ê-li người Thi-sê-be rằng: “Ngươi có thấy A-háp đã hạ mình như thế nào trước mặt Ta chăng? Bởi vì nó đã hạ mình trước mặt Ta, nên Ta sẽ không giáng tai họa xuống trong đời nó; nhưng trong đời con nó, Ta sẽ giáng tai họa xuống trên nhà nó.” Suốt ba năm, giữa A-ram và Y-sơ-ra-ên không có chiến tranh. Nhưng vào năm thứ ba, vua Giê-hô-sa-phát của Giu-đa xuống thăm vua Y-sơ-ra-ên. Vua của Y-sơ-ra-ên nói với bầy tôi của mình: “Các ngươi biết đó, Ra-mốt Ga-la-át là địa phận của chúng ta, nhưng chúng ta chẳng làm gì cả để lấy nó lại từ tay vua A-ram.” Vua nói với Giê-hô-sa-phát: “Vua có muốn đi đánh Ra-mốt Ga-la-át với tôi không?”Giê-hô-sa-phát trả lời: “Tôi cũng như vua, quân dân tôi cũng như quân dân vua, chiến mã tôi cũng như chiến mã vua.” Tuy nhiên Giê-hô-sa-phát cũng nói thêm với vua Y-sơ-ra-ên: “Nhưng chúng ta phải cầu hỏi ý CHÚA trước đã.” Vậy vua Y-sơ-ra-ên tập họp các tiên tri lại với nhau. Có khoảng bốn trăm vị cả thảy. Vua hỏi họ, “Ta có nên tiến đánh Ra-mốt Ga-la-át, hay là nên đình lại?”Họ đáp: “Vua hãy lên đánh đi. Vì Chúa sẽ phó nó vào trong tay vua.” Nhưng Giê-hô-sa-phát hỏi: “Ở đây còn có vị tiên tri nào của CHÚA nữa mà chúng ta có thể cầu vấn chăng?” Vua của Y-sơ-ra-ên nói với vua Giê-hô-sa-phát: “Còn một người nữa mà chúng ta có thể cầu hỏi ý CHÚA; đó là Mi-chê, con của Giêm-la; nhưng tôi ghét ông ấy, vì ông ấy không bao giờ nói tiên tri điều gì lành về tôi, mà toàn là điều dữ thôi.”Giê-hô-sa-phát nói: “Xin vua đừng nói như thế.” Vậy vua Y-sơ-ra-ên truyền cho một vị quan đến và bảo: “Hãy lập tức đưa Mi-chê, con của Giêm-la, đến đây.” Khi ấy vua của Y-sơ-ra-ên và vua Giê-hô-sa-phát của Giu-đa, mỗi người đều mặc vương bào, ngồi trên ngai của mình, trong sân đạp lúa, gần lối vào ở cổng thành Sa-ma-ri, và tất cả các tiên tri đều nói tiên tri trước mặt họ. Sê-đê-kia, con trai Kê-na-nia, làm cho mình một cặp sừng bằng sắt, và nói: “CHÚA phán như vầy: Với các sừng nầy, vua sẽ húc dân A-ram cho đến khi chúng bị tuyệt diệt.” Tất cả các tiên tri đều nói như vậy, mà rằng: “Hãy lên Ra-mốt Ga-la-át và được chiến thắng. CHÚA sẽ phó nó vào trong tay vua.” Sứ giả được sai đi mời Mi-chê nói với ông: “Nầy, tất cả các vị tiên tri kia đều nói những lời hợp với ý của vua; mong rằng lời ông cũng phù hợp với lời họ mà nói lên sự tán thành.” Nhưng Mi-chê đáp: “Thật như CHÚA hằng sống chứng giám, tôi chỉ có thể nói những gì CHÚA bảo tôi nói mà thôi.” Khi Mi-chê đến gặp vua, vua hỏi ông: “Mi-chê, chúng ta có nên lên đánh Ra-mốt Ga-la-át không, hay là chúng ta nên đình lại?”Ông đáp: “Lên đánh đi và sẽ được chiến thắng. CHÚA sẽ phó nó vào trong tay vua mà.” Nhưng vua nói: “Ta phải nói với ngươi bao nhiêu lần để ngươi phải nhân danh CHÚA mà thề rằng ngươi chỉ nói cho ta sự thật mà thôi?” Bấy giờ Mi-chê nói: “Tôi thấy Y-sơ-ra-ên tan lạc trên các núi rừng, như chiên không có người chăn; và CHÚA phán: ‘Họ chẳng có chủ. Ai hãy về nhà nấy bình an.’” Vua Y-sơ-ra-ên nói với Giê-hô-sa-phát: “Tôi há không có nói với vua rằng ông ấy không bao giờ nói tiên tri điều gì lành về tôi, mà toàn là điều dữ không sao?” Mi-chê lại nói: “Vậy hãy nghe lời của CHÚA. Tôi thấy CHÚA ngồi trên ngai, với tất cả thiên binh đứng hầu bên phải và bên trái Ngài. CHÚA hỏi: ‘Ai sẽ đi dụ A-háp để nó đi lên và gục ngã tại Ra-mốt Ga-la-át đây?’Vị thì nói thế nầy, vị thì nói thế khác, cho đến khi có một vị thần tiến tới, đứng trước mặt CHÚA và nói: ‘Thần xin đi dụ hắn cho.’ CHÚA hỏi: ‘Làm thể nào?’Vị thần ấy đáp: ‘Thần xin đi làm một thần nói dối trong miệng các tiên tri của hắn.’Bấy giờ CHÚA phán: ‘Ngươi sẽ làm kẻ dụ hắn và ngươi sẽ thành công. Hãy đi và làm như vậy.’ Thế thì vua có thấy không, CHÚA đã đặt một thần nói dối trong miệng các tiên tri nầy của vua. CHÚA đã định giáng họa cho vua đó.” Khi ấy Sê-đê-kia, con trai Kê-na-nia, đến tát vào má của Mi-chê một cái và nói: “Thần của CHÚA đã đi ngả nào qua khỏi tôi mà đến nói với ông?” Mi-chê trả lời: “Ông sẽ biết rõ điều đó trong ngày ông chui trốn trong một phòng kín.” Vua Y-sơ-ra-ên bèn ra lịnh: “Hãy bắt Mi-chê giao cho A-môn, quan tổng quản kinh thành, và giao cho hoàng tử Giô-ách, và truyền rằng: ‘Vua phán như vầy: Hãy nhốt tên nầy vào ngục, hãy cho nó bánh và nước đủ sống cầm hơi, cho đến khi ta trở về bình an.’” Mi-chê nói: “Nếu vua trở về bình an thì CHÚA đã không có phán qua tôi.” Rồi ông tiếp: “Hãy ghi nhớ lời tôi nói, hỡi muôn dân, hỡi mọi người!” Vậy vua của Y-sơ-ra-ên và vua Giê-hô-sa-phát của Giu-đa đi lên Ra-mốt Ga-la-át. Vua của Y-sơ-ra-ên nói với Giê-hô-sa-phát: “Tôi sẽ cải trang và xung trận, nhưng vua cứ mặc vương bào.” Vậy vua Y-sơ-ra-ên cải trang cho mình và xông vào chiến trận. Khi ấy vua của A-ram có truyền lịnh cho ba mươi hai tướng chỉ huy các đạo quân có các xe chiến mã: “Các ngươi chớ đánh ai, bất kể nhỏ hay lớn, mà chỉ nhắm vào vua Y-sơ-ra-ên mà đánh cho ta.” Khi các tướng chỉ huy các đạo quân có các xe chiến mã thấy Giê-hô-sa-phát, họ nghĩ: “Chắc là vua Y-sơ-ra-ên đây rồi.” Cho nên họ cùng nhau tấn công vào vua; nhưng khi Giê-hô-sa-phát gào thét lên, họ nhận ra đấy không phải là vua Y-sơ-ra-ên, cho nên họ quay trở lại và không đuổi theo vua nữa. Nhưng có một người giương cung bắn đại, không ngờ tên lại trúng ngay vào giữa khớp áo giáp của vua Y-sơ-ra-ên. Vua nói với người đánh xe của mình: “Hãy quay trở lại và đưa ta ra khỏi chiến trường, vì ta đã bị thương.” Nhưng ngày hôm đó, trận chiến đã trở nên khốc liệt, cho nên người ta phải đỡ cho vua đứng trên xe chiến mã mà đối diện với quân A-ram. Máu từ vết thương của vua chảy xuống ướt đẫm cả sàn xe, và đến chiều tối thì vua chết. Hoàng hôn đến, người ta rao lên giữa đội quân rằng: “Ai nấy hãy trở về thành mình! Ai nấy hãy trở về xứ mình!” Vậy vua qua đời và được đem về Sa-ma-ri; người ta chôn cất vua tại Sa-ma-ri. Họ rửa chiếc xe chiến mã của vua bên bờ hồ Sa-ma-ri, chỗ các gái điếm tắm rửa, và chó đến liếm máu của vua, đúng y như lời của Chúa đã phán trước. Những việc khác của A-háp, tất cả những việc vua làm, cung điện bằng ngà vua xây cất, và tất cả những thành vua xây dựng, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên sao? Vậy A-háp an giấc với các tổ phụ mình và A-cha-xia, con trai vua, lên ngôi kế vị. Giê-hô-sa-phát, con trai A-sa, lên ngôi làm vua Giu-đa vào năm thứ tư triều vua A-háp của Y-sơ-ra-ên. Giê-hô-sa-phát được ba mươi lăm tuổi khi lên ngôi làm vua, và vua trị vì hai mươi lăm năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là A-xu-ba, con gái của Si-chi. Vua đi trong mọi đường lối của A-sa, cha mình, mà không hề sai lệch. Vua làm điều ngay lành trước mặt CHÚA. Nhưng vua không dỡ bỏ các đền miếu trên những nơi cao. Dân chúng vẫn còn dâng sinh tế và dâng hương trong các đền miếu trên những nơi cao đó. Giê-hô-sa-phát giao hảo thuận hòa với vua Y-sơ-ra-ên. Những việc khác của Giê-hô-sa-phát, những thành quả vua đạt, và những chiến tích quân sự của vua, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? Vua diệt trừ khỏi xứ bọn đàn ông làm điếm phục vụ trong các đền miếu còn sót lại trong thời phụ vương của vua. Lúc ấy trong xứ Ê-đôm không có vua; chỉ có một vị quan làm nhiếp chính. Giê-hô-sa-phát đóng một đoàn thương thuyền Ta-rê-si để đi Ô-phia mua vàng, nhưng đoàn tàu đó không đi được, vì mới đến Ê-xi-ôn Ghê-be thì đoàn tàu đã vỡ. Lúc ấy A-cha-xia, con trai A-háp, có nói với Giê-hô-sa-phát: “Xin hãy cho các tôi tớ tôi cùng đi trên các tàu đó với các tôi tớ vua,” nhưng Giê-hô-sa-phát không cho. Giê-hô-sa-phát an giấc với các tổ phụ mình và được chôn với các tổ phụ vua trong thành Đa-vít, là tổ phụ vua. Giô-ram, con trai vua, lên ngôi kế vị. A-cha-xia, con trai A-háp, lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên ở Sa-ma-ri vào năm thứ mười bảy triều vua Giê-hô-sa-phát của Giu-đa. Vua trị vì trên Y-sơ-ra-ên được hai năm. Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA, đi trong đường lối của cha vua và của mẹ vua, và trong đường lối của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, là người đã gây cho Y-sơ-ra-ên phạm tội. Vua phục vụ Ba-anh và thờ phượng nó. Vua chọc giận CHÚA, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, như cha của vua đã làm. Sau khi A-háp qua đời, dân Mô-áp nổi loạn chống lại Y-sơ-ra-ên. Ở Sa-ma-ri, vua A-cha-xia từ lan can trên lầu té xuống và bị thương; nên vua truyền các sứ giả đến và bảo: “Hãy đi, cầu vấn Ba-anh Xê-bụt, thần của Éc-rôn, để hỏi xem ta có được lành khỏi thương tích nầy chăng?” Nhưng thiên sứ của CHÚA bảo Ê-li, người Thi-sê-be rằng: “Hãy chỗi dậy, đi đón các sứ giả của vua Sa-ma-ri, và bảo họ: ‘Có phải trong Y-sơ-ra-ên không có Đức Chúa Trời sao, mà ngươi đi cầu vấn Ba-anh Xê-bụt, thần của Éc-rôn?’ Vậy bây giờ CHÚA phán như vầy: ‘Ngươi sẽ không xuống khỏi giường bịnh ngươi đang nằm, nhưng ngươi chắc chắn sẽ chết.’” Ê-li bèn đi. Các sứ giả trở về gặp vua, vua hỏi họ: “Tại sao các ngươi trở về?” Họ đáp: “Có một người gặp chúng tôi và bảo chúng tôi đi trở về tâu với vua rằng: CHÚA phán như vầy: ‘Có phải trong Y-sơ-ra-ên không có Đức Chúa Trời sao mà ngươi sai người đi cầu vấn Ba-anh Xê-bụt, thần của Éc-rôn?’ Vì thế ngươi sẽ không xuống khỏi giường bịnh ngươi đang nằm, nhưng ngươi chắc chắn sẽ chết.” Vua hỏi họ: “Người ra đón gặp các ngươi và nói với các ngươi những lời ấy là người như thế nào?” Họ tâu: “Đó là một người mặc một áo choàng bằng da thú đầy lông, lưng thắt một dây nịt da.”Vua nói: “Ấy là Ê-li, người Thi-sê-be.” Đoạn vua sai một sĩ quan dẫn năm mươi quân sĩ đến gặp Ê-li. Lúc ấy Ê-li đang ngồi trên một đỉnh đồi. Viên sĩ quan bảo Ê-li: “Hỡi người của Đức Chúa Trời, vua bảo ông: Hãy xuống!” Nhưng Ê-li trả lời viên sĩ quan: “Nếu ta là người của Đức Chúa Trời thì lửa từ trên trời sẽ giáng xuống thiêu hủy ngươi và năm mươi người đi với ngươi đi.” Tức thì lửa từ trên trời giáng xuống thiêu hủy viên sĩ quan đó và năm mươi người đi với ông ta. Vua lại sai một viên sĩ quan khác với năm mươi quân sĩ khác đến gặp Ê-li. Viên sĩ quan ấy nói: “Hỡi người của Đức Chúa Trời, đây là lịnh của vua: Hãy xuống mau!” Nhưng Ê-li trả lời viên sĩ quan ấy: “Nếu ta là người của Đức Chúa Trời thì lửa từ trên trời sẽ giáng xuống thiêu hủy ngươi và năm mươi người đi với ngươi đi.” Tức thì lửa từ trên trời giáng xuống thiêu hủy viên sĩ quan đó và năm mươi người đi với ông ta. Vua lại sai một viên sĩ quan nữa với năm mươi quân sĩ nữa đến gặp Ê-li. Viên sĩ quan thứ ba đi lên, quỳ xuống trước mặt Ê-li và van nài: “Hỡi người của Đức Chúa Trời, nguyện mạng sống tôi và mạng sống của năm mươi người đi với tôi là quý báu trước mặt ông. Kìa, lửa từ trời đã giáng xuống thiêu hủy hai vị sĩ quan kia cùng với hai toán quân năm mươi người của họ. Nhưng bây giờ xin ông hãy xem mạng sống tôi là quý báu trước mặt ông.” Bấy giờ thiên sứ của CHÚA nói với Ê-li: “Hãy đi xuống với người ấy. Đừng sợ người ấy gì cả.” Vậy Ê-li đứng dậy, đi xuống, theo người ấy đến gặp vua. Ông nói với vua: “CHÚA phán như vầy: Bởi vì ngươi đã sai sứ giả đến cầu vấn Ba-anh Xê-bụt, thần của Éc-rôn. Có phải trong Y-sơ-ra-ên không có Đức Chúa Trời để ngươi có thể cầu hỏi lời Ngài sao? Vì thế ngươi sẽ không xuống khỏi giường bịnh ngươi đang nằm, nhưng ngươi chắc chắn sẽ chết.” Vậy vua A-cha-xia qua đời, theo như lời của CHÚA đã phán qua Ê-li. Bởi vì A-cha-xia không có con, nên em trai của A-cha-xia là Giô-ram lên ngôi làm vua kế vị, nhằm năm thứ hai của Giô-ram, con trai Giê-hô-sa-phát, vua của Giu-đa. Những việc khác của A-cha-xia làm há không được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên sao? Đang khi CHÚA muốn cất Ê-li lên trời trong một cơn gió trốt thì Ê-li và Ê-li-sê từ Ghinh-ganh đi ra. Ê-li nói với Ê-li-sê: “Hãy ở lại đây. Vì CHÚA sai tôi đi đến Bê-tên.”Nhưng Ê-li-sê đáp: “Nguyền xin CHÚA hằng sống chứng giám, hễ ngày nào thầy còn sống, thì con sẽ không rời xa thầy.” Vậy họ cùng nhau đi xuống Bê-tên. Một nhóm tiên tri ở Bê-tên đi ra gặp Ê-li-sê và nói: “Anh há không biết là hôm nay CHÚA sẽ cất thầy anh đi sao?”Ông đáp: “Tôi biết. Xin anh em đừng nói gì nữa.” Ê-li lại nói với ông: “Ê-li-sê, hãy ở lại đây. Vì CHÚA sai tôi đến Giê-ri-cô.”Nhưng ông đáp: “Nguyền xin CHÚA hằng sống chứng giám, hễ ngày nào thầy còn sống, thì con sẽ không rời xa thầy.” Vậy họ cùng nhau đi đến Giê-ri-cô. Một nhóm tiên tri ở Giê-ri-cô đến gần Ê-li-sê và bảo ông: “Anh há không biết là hôm nay CHÚA sẽ cất thầy anh đi sao?”Ông đáp: “Tôi biết. Xin anh em đừng nói gì nữa.” Bấy giờ Ê-li nói với ông: “Hãy ở lại đây. Vì CHÚA sai tôi đi đến Giô-đanh.”Nhưng ông đáp: “Nguyền xin CHÚA hằng sống chứng giám, hễ ngày nào thầy còn sống, thì con sẽ không rời xa thầy.” Vậy hai người cùng nhau tiếp tục lên đường. Có một nhóm năm mươi tiên tri đi theo và đứng cách xa họ khi hai người đang đứng ở bờ sông Giô-đanh. Bấy giờ Ê-li lấy chiếc áo choàng của mình, cuộn lại, và đập vào mặt nước; nước sông liền rẽ ra hai bên và hai người đi ngang qua trên đất khô. Khi họ đã qua bờ bên kia, Ê-li nói với Ê-li-sê: “Hãy nói cho tôi biết anh muốn tôi làm gì cho anh, bởi vì tôi sắp được cất đi rồi.”Ê-li-sê đáp: “Con mong được thần của thầy tác động trên con gấp đôi.” Ê-li nói: “Anh xin một điều khó quá. Tuy nhiên, nếu anh thấy tôi, khi tôi được cất đi, thì anh sẽ được ban cho điều ấy; còn như anh không thấy, thì anh sẽ không nhận được.” Đang khi họ tiếp tục đi và nói chuyện với nhau, thì một xe chiến mã bằng lửa kéo bằng các ngựa lửa chạy đến tách hai người ra, và Ê-li được cất lên trời trong một cơn gió trốt. Ê-li-sê nhìn theo và la lên: “Cha ơi, cha ơi! Các xe chiến mã và kỵ binh của Y-sơ-ra-ên!” Ông cứ nhìn theo cho đến khi không còn thấy Ê-li nữa, rồi ông nắm lấy áo của mình mà xé toạc ra làm hai. Ê-li-sê nhặt lấy chiếc áo choàng của Ê-li rớt lại và đi về. Ông đến đứng ở bờ sông Giô-đanh. Ông lấy chiếc áo choàng của Ê-li rớt lại đập vào mặt nước và nói: “CHÚA là Đức Chúa Trời của Ê-li ở đâu?” Khi ông đập vào mặt nước, nước sông rẽ ra làm hai, và Ê-li-sê đi qua sông. Khi nhóm tiên tri ở Giê-ri-cô thấy ông từ xa, thì họ nói với nhau: “Thần của Ê-li đã ngự trên Ê-li-sê rồi.” Họ đến gặp ông và cúi đầu sát đất trước mặt ông. Họ nói với ông: “Hãy xem, chúng tôi có năm mươi người lực lưỡng ở đây sẵn sàng phục vụ ngài. Xin hãy cho họ đi tìm thầy của ngài. Có thể Thần của CHÚA đã cất lấy người rồi đặt người xuống một nơi nào đó trên núi hay trong thung lũng chăng.”Ông đáp: “Đừng, bảo họ đừng đi tìm.” Nhưng họ cứ nài nỉ mãi đến độ ông cảm thấy ái ngại mà từ chối, nên ông nói, “Thôi bảo họ đi đi.” Vậy năm mươi người ấy đi tìm hết ba ngày nhưng không tìm được Ê-li. Khi họ trở về gặp ông, lúc ấy ông còn đang ở Giê-ri-cô, ông nói với họ: “Có phải tôi đã bảo là đừng đi không?” Bấy giờ dân trong thành đến nói với Ê-li-sê: “Như chúa thấy đó, địa thế của thành thật tốt, nhưng nguồn nước thì lại không tốt, nên trong xứ không trồng tỉa gì được.” Ông bảo: “Hãy bỏ muối vào trong một bát còn mới và đem đến cho tôi.” Vậy họ đem bát muối đến cho ông. Ông đi đến nguồn nước, đổ bát muối xuống nước và nói: “CHÚA phán như vầy: Ta chữa lành nguồn nước nầy. Từ nay về sau, nguồn nước nầy sẽ không gây nên chết chóc hay làm cho bị hư thai nữa.” Vậy nguồn nước đó đã được chữa lành cho đến ngày nay, y như lời Ê-li-sê đã nói. Ê-li-sê rời khỏi nơi đó đi lên Bê-tên. Đang đi dọc đường, một bọn trẻ từ trong thành ra, chúng chế nhạo ông rằng: “Lên đi, ông sói đầu! Lên đi, ông sói đầu!” Ông quay lại, thấy chúng, ông bèn nhân danh CHÚA mà rủa chúng. Bấy giờ có hai con gấu cái từ trong rừng đi ra cấu xé bốn mươi hai cậu trẻ đó. Đoạn từ đó ông lên núi Cạt-mên, rồi trở về Sa-ma-ri. Vào năm thứ mười tám triều vua Giê-hô-sa-phát của Giu-đa, Giô-ram con trai A-háp lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên. Giô-ram trị vì mười hai năm tại Sa-ma-ri. Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA, dù không như cha và mẹ của vua đã làm, vì vua có dẹp bỏ trụ đá thờ thần Ba-anh mà cha của vua đã lập. Tuy nhiên vua vẫn bám lấy tội lỗi của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, là tội đã gây cho dân Y-sơ-ra-ên phạm tội; vua không từ bỏ tội lỗi ấy. Thuở ấy, Mê-sa, vua của Mô-áp là vị vua có biệt tài nuôi chiên. Vua đã đồng ý cống nộp cho vua Y-sơ-ra-ên một trăm ngàn chiên con và lông của một trăm ngàn chiên đực. Nhưng sau khi vua A-háp qua đời, thì vua của Mô-áp nổi loạn chống lại vua Y-sơ-ra-ên. Vì thế, lúc ấy vua Giô-ram ở Sa-ma-ri đi ra động viên cả Y-sơ-ra-ên. Vua sai sứ giả đến thưa với vua Giê-hô-sa-phát của Giu-đa rằng: “Vua của Mô-áp có nổi lên chống lại tôi, vua có thể đi với tôi để giúp đánh dân Mô-áp không?”Vua Giê-hô-sa-phát đáp: “Tôi sẽ đi với vua. Tôi cũng như vua, dân tôi cũng như dân vua, chiến mã tôi cũng như chiến mã của vua.” Rồi vua hỏi tiếp: “Nhưng chúng ta sẽ tấn công qua ngả nào?”Giô-ram trả lời: “Qua ngả đồng hoang Ê-đôm.” Vậy vua của Y-sơ-ra-ên, vua của Giu-đa, và vua của Ê-đôm kéo quân ra; nhưng họ đi lòng vòng mất bảy ngày, bấy giờ cả đại quân và các súc vật đi theo đều không còn nước uống. Vua của Y-sơ-ra-ên bèn nói: “Than ôi! CHÚA đã gọi chúng ta, cả ba vua ra đây, chỉ để nộp vào tay dân Mô-áp mà thôi.” Nhưng Giê-hô-sa-phát nói: “Ở đây chẳng có vị tiên tri nào của CHÚA để chúng ta có thể cầu vấn chăng?”Một bầy tôi của vua Y-sơ-ra-ên tâu: “Thưa có Ê-li-sê, là người thường xối nước cho Ê-li rửa tay, ở gần đây.” Giê-hô-sa-phát nói: “Người nầy có lời của CHÚA đó.” Vậy vua của Y-sơ-ra-ên, Giê-hô-sa-phát, và vua của Ê-đôm đi xuống gặp Ê-li-sê. Ê-li-sê nói với vua Y-sơ-ra-ên: “Tôi với vua có can hệ gì chăng? Hãy đi cầu vấn các tiên tri của cha vua hoặc các tiên tri của mẹ vua.”Nhưng vua của Y-sơ-ra-ên đáp: “Không đâu. Vì CHÚA đã gọi chúng tôi, cả ba vua đến, chỉ để nộp cho dân Mô-áp đó thôi.” Ê-li-sê đáp: “Nguyện CHÚA Toàn Năng hằng sống, là Đấng tôi phục vụ, làm chứng. Nếu tôi không kính trọng Giê-hô-sa-phát, vua của Giu-đa, thì tôi chẳng coi vua ra gì và cũng không tiếp vua nữa. Hãy đem cho tôi một người khảy đàn hạc.”Đang khi người ấy khảy đàn hạc thì tay CHÚA giáng trên Ê-li-sê, và ông nói: “CHÚA phán như vầy: ‘Ta sẽ làm cho thung lũng nầy đầy những hố nước.’ Bởi CHÚA phán như vầy: ‘Các ngươi sẽ không thấy gió hay mưa, nhưng thung lũng sẽ đầy nước, để các ngươi sẽ uống. Các ngươi, bò lừa và súc vật các ngươi sẽ uống. Nhưng đây chỉ là việc nhỏ trước mặt CHÚA. Vì Ngài sẽ trao Mô-áp vào trong tay các ngươi. Các ngươi sẽ đánh hạ các thành kiên cố và các đô thị quan trọng. Các ngươi sẽ đốn hạ những cây tốt, lấp ngăn mọi suối nước, rải đá phá hoại tất cả những cánh đồng phì nhiêu.’” Ngày hôm sau, vào lúc dâng của lễ buổi sáng, thình lình nước từ hướng Ê-đôm đổ xuống, cho đến khi cả xứ tràn đầy nước. Lúc ấy, khi toàn dân Mô-áp nghe rằng các vua đã kéo đến để tấn công họ, thì tất cả những ai có khả năng chiến đấu, từ người trẻ nhất đến người già nhất, đều được triệu tập, trang bị vũ khí và đưa ra trấn đóng ở biên thùy. Sáng sớm họ thức dậy, ánh sáng mặt trời chiếu trên mặt nước, người Mô-áp thấy nước trước mặt họ trông đỏ như máu. Họ nói với nhau: “Ấy là máu đó. Các vua kia chắc đã đánh nhau và giết nhau chết rồi. Bây giờ, hỡi người Mô-áp, hãy đi cướp của!” Nhưng khi họ đến trại quân Y-sơ-ra-ên, quân Y-sơ-ra-ên chỗi dậy tấn công quân Mô-áp. Người Mô-áp bỏ chạy trước mặt người Y-sơ-ra-ên. Quân Y-sơ-ra-ên đuổi theo vào xứ Mô-áp, tiếp tục truy kích và đánh giết họ. Đại quân của Y-sơ-ra-ên đánh hạ các thành, những cánh đồng phì nhiêu đều bị những cánh quân đi qua mỗi người ném vào một cục đá cho đến khi lấp đầy, mọi suối nước đều bị lấp ngăn, và mọi cây tốt đều bị đốn ngã. Chỉ có ở Kiệt Ha-rê-sết thì các vách thành bằng đá là còn lại cho đến khi đội quân bắn đá đến bao vây và tấn công nó. Khi vua của Mô-áp thấy mình bị thất trận, thì vua dẫn một đạo quân gồm bảy trăm người cầm gươm, mở đường máu xông đến vua Ê-đôm, nhưng họ xông đến không nổi. Vua liền bắt lấy đứa con trai đầu lòng, là con sẽ nối ngôi mình, đem lên trên tường thành và dâng làm của lễ thiêu. Một cơn thịnh nộ lớn giáng xuống trên Y-sơ-ra-ên, nên họ rút lui khỏi vua Mô-áp mà trở về xứ mình. Lúc ấy có một thiếu phụ là vợ của một tiên tri trong nhóm các tiên tri đến khóc than với Ê-li-sê rằng: “Tôi tớ của thầy là chồng con đã qua đời, và thầy biết tôi tớ của thầy là người kính sợ CHÚA. Bây giờ chủ nợ muốn đến bắt hai con trai của con đi làm nô lệ để trừ nợ.” Ê-li-sê nói với bà: “Tôi có thể giúp chị được gì không? Xin chị nói cho tôi biết, trong nhà chị còn thứ gì không?”Bà ấy đáp: “Thưa, tôi tớ của thầy chẳng còn gì trong nhà cả, ngoại trừ một bình dầu.” Ê-li-sê nói: “Chị hãy đi, đến các bà con xóm giềng mượn những bình không, nhớ đừng mượn ít. Xong rồi, chị và các con chị vào nhà, đóng cửa lại, đổ dầu vào những bình không đó, hễ bình nào đầy thì để riêng ra.” Bà ra về, bà và các con trai bà đóng cửa lại. Các con bà mang các bình không đến cho bà đổ dầu vào. Khi các bình đã đầy, bà nói với con: “Mang đến cho mẹ một bình nữa.”Nhưng con bà đáp: “Dạ hết bình rồi.” Dầu liền ngưng chảy. Bà đến trình với người của Đức Chúa Trời. Ông bảo: “Chị hãy đi bán các dầu ấy mà trả nợ. Số còn lại thì mẹ con chị hãy dùng mà sinh sống.” Một ngày nọ Ê-li-sê đi ngang qua Su-nem. Nơi đó có một người đàn bà giàu có cư ngụ. Bà ấy nài mời ông ở lại dùng bữa. Từ đó, mỗi khi đi ngang qua đó, ông ghé lại nhà bà nầy dùng bữa. Bà ấy nói với chồng bà: “Mình à, tôi biết người hay đi ngang qua nhà chúng ta đây, là người thánh của Đức Chúa Trời. Chúng ta hãy xây một căn phòng trên sân thượng, có tường vách hẳn hoi, rồi để trong đó một cái giường, một cái bàn, một cái ghế, và một cái đèn, để mỗi khi người ấy đến với chúng ta thì sẽ ở trong phòng ấy.” Một ngày kia, khi Ê-li-sê đi qua đó, ông lên căn phòng ấy và nằm xuống nghỉ. Ông nói với Ghê-ha-xi, đầy tớ mình: “Hãy đi gọi người đàn bà Su-nem đó.” Người đầy tớ đi gọi và bà đến đứng trước mặt ông. Ông bảo người đầy tớ: “Hãy nói với bà ấy: Kìa, bà đã cực nhọc lo cho chúng tôi mọi thứ nầy. Bây giờ chúng tôi phải làm gì cho bà đây? Bà có muốn chúng tôi nói với vua hay với quan Tổng Tư Lệnh quân đội điều gì giúp bà chăng?”Bà đáp: “Tôi vẫn sống an lành giữa dân tộc tôi.” Ông lại nói: “Nếu vậy thì chúng ta phải làm gì cho bà ấy đây?”Ghê-ha-xi đáp: “Con thấy bà ấy không có con trai mà chồng thì đã già rồi.” Ê-li-sê bảo: “Hãy gọi bà ấy lại.” Người đầy tớ đi gọi, bà đến đứng ngoài cửa. Ê-li-sê nói: “Cũng vào mùa nầy, vào độ nầy sang năm, bà sẽ bồng một đứa con trai.”Bà đáp: “Đừng, thưa chúa của tôi, người của Đức Chúa Trời, xin ngài đừng gạt đứa tớ gái của ngài.” Người đàn bà thụ thai và năm sau, sanh một con trai đúng vào kỳ, vào độ mà Ê-li-sê đã bảo trước cho bà. Đứa trẻ lớn lên, một ngày kia, nó theo cha đi ra đồng thăm những người đang gặt lúa. Nó nói với cha: “Con nhức đầu quá! Con nhức đầu quá!”Người cha nói với đầy tớ mình: “Hãy bồng nó về cho mẹ nó.” Người đầy tớ bồng nó về, trao cho mẹ nó. Đứa trẻ ngồi trên đùi của mẹ nó cho đến trưa thì chết. Bà bèn đem nó lên, để trong phòng của người Đức Chúa Trời, đóng cửa lại, rồi ra đi. Bà gọi chồng bà và nói: “Mình hãy cắt cho tôi một người đầy tớ và một con lừa, để tôi sẽ đi đến gặp người của Đức Chúa Trời ngay, rồi tôi sẽ trở về.” Chồng bà hỏi: “Tại sao hôm nay lại đi gặp người ấy? Hôm nay nào phải là ngày trăng mới hay là ngày Sa-bát đâu?”Bà đáp: “Mình cứ yên tâm đi.” Rồi bà bảo thắng lừa và nói với người đầy tớ: “Hãy thúc lừa đi nhanh. Chỉ khi nào tôi bảo thì cậu mới dừng lại.” Thế là bà lên đường đi đến gặp người của Đức Chúa Trời tại núi Cạt-mên.Khi người của Đức Chúa Trời thấy bà đến, ông bảo Ghê-ha-xi là đầy tớ mình: “Kìa, có bà ở Su-nem đang đến. Ngươi hãy mau ra đón bà ấy và hỏi: ‘Bà có bình an chăng? Chồng bà có bình an chăng? Con bà có bình an chăng?’”Bà đáp: “Mọi sự đều bình an.” Khi đến gần người của Đức Chúa Trời trên núi, bà sụp xuống ôm lấy chân ông. Ghê-ha-xi liền đến gần để gỡ bà ra, nhưng người của Đức Chúa Trời nói: “Hãy để yên cho bà ấy, vì bà ấy đang đắng cay sầu khổ lắm. CHÚA đã giấu ta việc nầy và Ngài đã không cho ta biết.” Đoạn bà nói: “Tôi nào dám xin ngài cho được một đứa con trai đâu? Ngài có nhớ là tôi có nói rằng ‘xin ngài đừng gạt tôi’ không?” Ông bảo Ghê-ha-xi: “Ngươi hãy thắt lưng, cầm gậy của ta, và đi. Nếu ngươi gặp ai dọc đường, đừng chào hỏi. Nếu ai chào hỏi ngươi, chớ trả lời. Hãy đem cây gậy của ta để trên mặt của đứa trẻ.” Nhưng người mẹ của đứa trẻ nói: “Nguyện CHÚA là Đấng Hằng Sống chứng giám, và nguyện ngài là người đang sống đây chứng cho, tôi xin thề là tôi sẽ không rời khỏi nơi đây nếu ngài không xuống giúp cho.” Vậy Ê-li-sê đứng dậy và đi theo bà. Ghê-ha-xi đi trước, để cây gậy trên mặt đứa trẻ, nhưng không nghe động tĩnh gì hay thấy dấu hiệu gì của sự sống. Ghê-ha-xi đang đi trở về thì gặp Ê-li-sê và nói: “Đứa trẻ không tỉnh lại.” Khi Ê-li-sê vào trong nhà, ông thấy đứa trẻ đã chết, nằm trên giường của ông. Ông bèn vào trong phòng, đóng cửa lại, chỉ một mình ông và đứa trẻ, rồi ông cầu nguyện với CHÚA. Đoạn ông đứng dậy, lên giường và nằm sấp trên đứa trẻ, đặt miệng ông trên miệng đứa trẻ, mắt ông trên mắt đứa trẻ, tay ông trên tay đứa trẻ; và đang khi ông ấp đứa trẻ như thế, thân thể đứa trẻ từ từ ấm lại. Ông bước xuống, đi tới đi lui trong phòng, rồi ông lại lên giường, ấp trên đứa trẻ lần nữa. Đứa trẻ nhảy mũi bảy lần và mở mắt ra. Ê-li-sê gọi Ghê-ha-xi và bảo: “Hãy gọi người đàn bà Su-nem đến đây.” Ghê-ha-xi liền đi gọi bà. Khi bà ấy đến, ông bảo: “Hãy đem con bà đi.” Bà đến, quỳ xuống nơi chân ông, cúi đầu sát đất, rồi bà ôm lấy con bà và dẫn nó đi. Khi Ê-li-sê trở lại Ghinh-ganh thì gặp lúc trong xứ có nạn đói. Đang khi các tiên tri ngồi trước mặt ông, ông bảo người đầy tớ mình: “Hãy bắc một nồi lớn lên và nấu canh cho các tiên tri ăn.” Một người trong nhóm đi ra đồng hái rau. Người ấy gặp một bụi cây giống như cây nho dại, bèn hái những trái dưa dại ấy, bọc đầy một vạt áo, đem về cắt ra, bỏ vào nồi canh, mà không hề biết đó là trái gì. Đoạn họ múc canh cho mọi người ăn. Nhưng khi vừa nếm canh thì họ la lên: “Thưa người của Đức Chúa Trời, nồi canh nầy độc lắm!” Rồi họ không thể ăn canh ấy được. Ê-li-sê bảo: “Hãy đem ít bột lại đây.” Ông lấy bột bỏ vào nồi canh rồi nói: “Hãy múc ra cho mọi người ăn.” Chất độc trong nồi biến mất và không còn nữa. Có một người từ Ba-anh Sa-li-ma đến, người ấy đem bánh trái đầu mùa để biếu người của Đức Chúa Trời. Đồ người ấy biếu gồm hai mươi ổ bánh lúa mạch và một túi cốm gạo. Ê-li-sê bảo: “Hãy đem phát ra cho mọi người ăn.” Người đầy tớ của ông thưa: “Có bao nhiêu đây thì làm sao con có thể phát cho một trăm người ăn?”Nhưng ông lại bảo nữa: “Hãy cứ đem phát cho mọi người ăn, vì CHÚA đã phán: ‘Họ sẽ ăn no nê và còn thừa lại nữa.’” Người đầy tớ bèn phát ra cho mọi người ăn. Họ ăn no nê, bánh và cốm vẫn còn thừa lại, y như lời của CHÚA. Na-a-man, Tổng Tư Lệnh quân đội của vua A-ram, là một người quyền thế và rất có uy tín với chủ mình; bởi vì CHÚA đã dùng ông mà ban chiến thắng cho A-ram. Tuy ông là một chiến sĩ dũng mãnh nhưng lại mắc chứng bịnh phung. Lúc ấy, các toán quân của A-ram có đi đột kích và bắt được một em gái người Y-sơ-ra-ên đem về làm nô tỳ cho vợ Na-a-man. Em gái ấy nói với bà chủ mình: “Ôi phải chi ông chủ con gặp được ông tiên tri ở Sa-ma-ri, thì ông ấy sẽ chữa cho ông chủ được lành.” Vậy Na-a-man vào tâu với chủ mình về những lời mà em gái ở Y-sơ-ra-ên đã nói. Vua của A-ram bèn nói: “Thế thì ngươi hãy đi. Ta sẽ gởi cho vua Y-sơ-ra-ên một bức thư.” Na-a-man lên đường, đem theo ba trăm ký bạc, sáu mươi ký vàng, và mười bộ quần áo. Ông đem bức thư trình lên vua Y-sơ-ra-ên. Thư viết rằng: “Cùng với bức thư nầy gởi đến vua, thì tôi đã sai Na-a-man, đầy tớ tôi, đến với vua, để xin vua chữa lành bịnh phung cho ông ấy.” Khi vua Y-sơ-ra-ên đọc xong bức thư thì vua xé áo mình và nói: “Ông ấy sai người đến với ta để ta chữa lành bịnh phung cho. Bộ ông ấy tưởng ta là Đức Chúa Trời, có quyền làm sống làm chết hay sao? Các ngươi hãy xem đấy, rõ ràng là ông ấy kiếm cớ để gây sự với ta mà.” Nhưng khi Ê-li-sê, người của Đức Chúa Trời, có nghe vua Y-sơ-ra-ên xé áo mình thì sai người đến nói với vua: “Tại sao vua xé áo mình? Hãy sai người ấy đến với tôi, để ông ấy sẽ biết rằng trong Y-sơ-ra-ên có một tiên tri.” Vậy Na-a-man cùng với các ngựa xe mình kéo đến trước cửa nhà Ê-li-sê. Ê-li-sê sai một sứ giả ra bảo: “Hãy đi, đến sông Giô-đanh tắm bảy lần, thì da thịt ngươi sẽ lành và được sạch bịnh.” Nhưng Na-a-man nổi giận, bỏ đi và nói: “Ta nghĩ rằng ông ấy phải đích thân ra đón ta, rồi đứng mà cầu khẩn danh CHÚA là Đức Chúa Trời của ông ta. Rồi ông ấy phải lấy tay đưa qua đưa lại trên các vết phung và chữa lành bịnh phung cho ta. A-ba-na và Bạt-ba là hai con sông ở Đa-mách, nước các sông ấy há chẳng tốt hơn các giòng nước ở Y-sơ-ra-ên sao? Ta há chẳng có thể tắm ở hai sông đó mà được sạch sao?” Rồi ông giận dỗi bỏ đi. Nhưng các tôi tớ ông đến gần và nói với ông: “Thưa cha, nếu ông tiên tri có truyền cho cha phải làm một việc khó khăn, chẳng lẽ cha không làm sao? Huống hồ chi bây giờ ông ấy chỉ bảo cha rằng: ‘Hãy đi tắm thì sẽ được sạch!’” Vậy Na-a-man đi xuống, tắm mình bảy lần dưới sông Giô-đanh, theo như lời của người Đức Chúa Trời. Da thịt ông được bình phục trở lại, như của một đứa trẻ, và ông được sạch bịnh phung. Ông và đoàn tuỳ tùng liền trở lại gặp người của Đức Chúa Trời. Ông đến đứng trước người và nói: “Bây giờ tôi nhận biết rằng trên khắp thế gian không có Đức Chúa Trời nào khác ngoài Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Xin ngài hãy nhận một lễ vật của tôi tớ ngài.” Nhưng Ê-li-sê từ chối và nói: “Nguyện Đức Chúa Trời hằng sống, là Đấng ta phục sự, chứng giám. Ta sẽ không nhận gì hết.” Na-a-man nài nỉ ông nhận, nhưng ông nhất định từ chối. Bấy giờ Na-a-man nói: “Nếu ngài không chịu nhận vật gì, vậy thôi xin ngài cho tôi tớ ngài mang về một ít đất đủ cho hai con lừa chở được. Vì tôi tớ ngài sẽ không dâng của lễ thiêu hay sinh tế cho thần nào khác ngoại trừ một mình CHÚA. Chỉ xin CHÚA tha thứ cho tôi tớ ngài một điều, đó là khi chủ tôi đi vào đền của Rim-môn để thờ lạy, ông ấy hay vịn vào cánh tay tôi để quỳ xuống, vì thế tôi bị bắt phải quỳ theo trong đền của Rim-môn. Vậy khi tôi phải quỳ xuống trong đền của Rim-môn, nguyện CHÚA tha thứ cho tôi tớ ngài việc ấy.” Ê-li-sê nói với ông: “Hãy đi bình an.”Sau khi Na-a-man ra đi được một khoảng xa xa, thì Ghê-ha-xi, đầy tớ của Ê-li-sê, người của Đức Chúa Trời, nghĩ rằng: “Thầy ta để cho Na-a-man, người A-ram, ra đi quá dễ dàng, mà không nhận vật gì ông ấy đem tặng. Có Đức Chúa Trời hằng sống chứng giám, ta sẽ đuổi theo ông ấy và nhận lấy vật gì mới được.” Vậy Ghê-ha-xi đuổi theo Na-a-man. Khi Na-a-man thấy có người đuổi theo mình thì ông từ trên xe nhảy xuống, đến đón và hỏi: “Mọi sự bình an chăng?” Ghê-ha-xi đáp: “Bình an. Có điều là thầy tôi sai tôi đến nói: ‘Có hai tiên tri mới vừa từ vùng đồi núi Ép-ra-im đến, xin ngài hãy cho họ ba mươi ký bạc và hai bộ quần áo để thay đổi.’” Na-a-man đáp: “Xin hãy nhận lấy sáu mươi ký.” Rồi ông nài ép Ghê-ha-xi hãy nhận. Ông cho cột sáu mươi ký bạc và hai bộ quần áo để thay đổi vào hai bao, rồi sai hai người đầy tớ mang đi trước mặt Ghê-ha-xi. Khi họ đến chân đồi, thì Ghê-ha-xi lấy hai bao ấy khỏi tay họ để đem cất trong nhà mình, rồi cho hai người ấy đi về, và họ ra về. Đoạn Ghê-ha-xi đi vào gặp thầy mình và đứng hầu trước mặt ông.Ê-li-sê hỏi: “Ghê-ha-xi, ngươi đi đâu về đó?”Ghê-ha-xi đáp: “Tôi tớ của thầy đâu có đi đâu.” Nhưng ông bảo: “Tâm linh ta há không đi với ngươi khi người ta từ trên xe nhảy xuống để đón ngươi sao? Bây giờ há có phải là lúc để nhận tiền bạc, quần áo, vườn ô-liu, vườn nho, chiên, bò và tôi trai, tớ gái hay sao? Thế nên bịnh phung của Na-a-man sẽ dính vào ngươi và con cháu ngươi mãi mãi.” Ghê-ha-xi rời khỏi Ê-li-sê, mắc lấy bịnh phung, trắng như tuyết. Khi ấy các tiên tri nói với Ê-li-sê: “Xin thầy xem đấy, nơi chúng con ngồi nghe thầy dạy thật là chật hẹp so với số người của chúng con. Xin thầy cho chúng con xuống mé sông Giô-đanh, mỗi người đốn một cây, rồi cất tại đó một chỗ ở cho chúng ta.”Ông đáp: “Thì làm như vậy đi.” Một người trong đám họ nói: “Xin thầy đi với các tôi tớ thầy.”Ông đáp: “Ta sẽ đi.” Vậy ông đi với họ.Khi đến mé sông Giô-đanh, họ chặt cây xuống. Nhưng có một người đang khi đốn cây thì lưỡi rìu sút khỏi cán và văng xuống nước. Người ấy kêu lên: “Thôi rồi, thầy ôi! Chiếc rìu nầy con mượn của người ta.” Người của Đức Chúa Trời hỏi: “Nó văng xuống chỗ nào?” Người ấy chỉ cho ông chỗ nó văng xuống. Ông chặt một nhánh cây, phóng xuống chỗ ấy, lưỡi rìu bằng sắt bèn nổi lên. Ông bảo: “Hãy cầm lấy nó.” Người ấy liền vói tay ra nắm lấy lưỡi rìu. Thuở ấy vua A-ram giao chiến với Y-sơ-ra-ên. Vua ấy họp bàn với các quan tham mưu của mình rằng: “Ta sẽ đóng trại quân ở chỗ nọ chỗ kia.” Nhưng người của Đức Chúa Trời sai người đến báo với vua Y-sơ-ra-ên: “Chớ có đi qua chỗ ấy, vì dân A-ram đang phục binh ở đó.” Vua Y-sơ-ra-ên bèn truyền quân thám báo đến dò xét chỗ người của Đức Chúa Trời đã bảo thì quả đúng như vậy. Hơn một đôi lần Ê-li-sê sai người đến báo như thế. Nhờ vậy vua Y-sơ-ra-ên cứ đề phòng luôn. Lòng vua A-ram rất bối rối về việc nầy. Vua gọi các quan tham mưu lại và nói: “Chẳng lẽ các ngươi không nói cho ta biết ai trong các ngươi theo phe vua Y-sơ-ra-ên sao?” Một trong các người ấy tâu: “Tâu bệ hạ, chúa của hạ thần, không ai trong chúng tôi đâu. Nhưng ấy là Ê-li-sê, tiên tri của Y-sơ-ra-ên, người ấy có thể bảo cho vua Y-sơ-ra-ên biết những lời bệ hạ nói trong phòng ngủ của bệ hạ.” Vua ấy truyền: “Hãy đi và tìm xem người ấy ở đâu. Ta sẽ sai quân đi bắt người ấy.” Người ta tâu với vua: “Ông ấy ở Đô-than.” Vậy vua A-ram sai một đội quân lớn có kỵ binh và các xe chiến mã kéo đến đó. Họ kéo đến vào ban đêm và vây thành. Sáng sớm, một người đầy tớ của người Đức Chúa Trời đi ra và thấy một đạo quân với các ngựa chiến và các xe chiến mã đang vây thành. Người đầy tớ ấy bèn nói: “Chết rồi, thầy ơi! Làm sao bây giờ?” Ông đáp: “Đừng sợ. Vì những người ở với chúng ta đông hơn những người ở với chúng.” Rồi Ê-li-sê cầu nguyện: “Lạy CHÚA, xin Ngài mở mắt cho đầy tớ của con để nó có thể thấy được.” Vậy CHÚA mở mắt cho đầy tớ ấy, và người ấy thấy trên núi đầy những ngựa lửa và các xe chiến mã bằng lửa đang bao quanh bảo vệ Ê-li-sê. Khi quân A-ram xuống tấn công Ê-li-sê, ông cầu nguyện với CHÚA: “Con xin Ngài hãy đánh cho dân nầy bị mù mắt.” Ngài bèn khiến cho dân ấy bị mù mắt y như Ê-li-sê đã cầu xin. Ê-li-sê nói với họ: “Đây không phải là đường. Đây cũng không phải là thành. Tôi sẽ dẫn các anh đến người mà các anh đang tìm kiếm.” Rồi ông dẫn họ đến Sa-ma-ri. Vừa khi họ vào trong thành Sa-ma-ri, Ê-li-sê nói: “Lạy CHÚA, bây giờ xin Ngài mở mắt những người nầy để họ thấy.” CHÚA bèn mở mắt họ và họ thấy mình đang ở trong thành Sa-ma-ri. Khi vua của Y-sơ-ra-ên thấy họ thì nói với Ê-li-sê: “Thưa cha, tôi phải giết chúng không? Tôi phải giết chúng không?” Ông đáp: “Đừng. Những người mà vua dùng gươm và cung mà bắt sống, vua có giết họ không? Hãy lấy bánh và nước ra đãi họ ăn uống; rồi thả họ về với chủ họ.” Vậy vua dọn tiệc lớn đãi họ. Sau khi họ ăn và uống rồi, vua cho họ trở về cùng chủ của họ. Vì thế những toán quân A-ram không đi đột kích trong lãnh thổ của Y-sơ-ra-ên nữa. Sau đó ít lâu, vua Bên Ha-đát của A-ram huy động toàn bộ quân đội mình. Vua kéo đến Sa-ma-ri và bao vây thành. Vì thành bị vây khá lâu, nên trong thành có cơn đói kém lớn, đến nỗi một cái đầu lừa giá bán đến hai mươi bốn lượng bạc, còn một phần tư lít phân bồ câu cũng bán được một lượng rưỡi bạc. Khi ấy vua Y-sơ-ra-ên đi thanh tra trên tường thành, thì có một bà nọ kêu cầu với vua: “Xin hãy giúp đỡ tôi, tâu vua, chúa của tôi.” Vua đáp: “Nếu CHÚA không giúp đỡ ngươi, thì ta cũng không biết lấy gì để giúp đỡ ngươi bây giờ. Đâu còn gì ở sân đạp lúa hay là trong bàn ép rượu nho đâu?” Rồi vua hỏi bà ấy: “Ngươi kêu van việc gì?”Bà ấy đáp: “Mụ nầy có nói với tôi: ‘Hãy đem con trai chị ra đây. Hôm nay chúng ta ăn thịt nó, rồi ngày mai chúng ta sẽ ăn thịt con trai tôi.’ Vậy chúng tôi có nấu con trai tôi và ăn thịt nó. Ngày hôm sau, tôi bảo mụ ấy: ‘Hãy đưa con chị ra đây để chúng ta ăn thịt nó.’ Nhưng mụ ấy đã đem con trai mình mà giấu đi mất.” Khi vua nghe những lời bà ấy nói xong thì vua xé áo mình. Vả, khi ấy vua đang đi thanh tra trên tường thành, nên người ta có thể trông thấy vua đang mặc một lớp vải gai bên trong. Vua nói: “Nguyện Đức Chúa Trời phạt ta cách nặng nề, nếu hôm nay cái đầu của Ê-li-sê, con trai Sa-phát, vẫn còn nằm trên vai nó.” Vua bèn truyền cho một tên quân cận vệ đi giết Ê-li-sê.Khi ấy, Ê-li-sê đang ngồi trong nhà ông. Có các trưởng lão ngồi ở đó với ông. Trước khi tên cận vệ đến nơi, Ê-li-sê nói với các trưởng lão: “Quý vị có biết kẻ sát nhân đang sai người đến chém đầu tôi chăng? Khi kẻ ấy đến, xin quý vị cứ đóng chặt cửa lại và không cho hắn vào. Há chẳng phải là tiếng chân của chủ hắn đang theo sau hắn đó sao?” Đang khi Ê-li-sê còn đang nói với các trưởng lão thì vua đến với ông và nói: “Tai họa nầy là do nơi CHÚA mà ra. Tại sao tôi còn phải trông cậy nơi CHÚA nữa?” Nhưng Ê-li-sê đáp: “Hãy nghe rõ lời của CHÚA: CHÚA phán rằng: ‘Ngày mai, cũng vào giờ nầy, tại cổng thành Sa-ma-ri, bảy lít bột lọc giá còn ba chỉ bạc, mười bốn lít lúa mạch cũng bán ba chỉ bạc mà thôi.’” Vị quan hộ giá đang giang tay ra cho vua vịn liền nói với người của Đức Chúa Trời: “Dầu CHÚA có mở các cửa sổ trên trời mà đổ xuống thì điều ấy há có thể xảy ra được sao?”Nhưng Ê-li-sê đáp: “Chính mắt ông sẽ thấy điều ấy, nhưng ông sẽ không được ăn.” Khi ấy có bốn người phung ngoài cổng thành. Họ nói với nhau: “Tại sao chúng ta cứ ngồi đây cho đến chết? Nếu chúng ta nói: ‘Hãy vào trong thành,’ thì trong thành đang có cơn đói kém, và chúng ta sẽ chết trong đó; nhưng nếu chúng ta cứ ngồi đây, thì chúng ta cũng sẽ chết. Chi bằng chúng ta hãy qua trại quân A-ram và đầu hàng. Nếu họ tha mạng cho thì chúng ta sẽ sống; còn nếu họ giết thì đàng nào chúng ta cũng chết thôi.” Vậy họ chỗi dậy lúc trời vừa sập tối để đi đến trại quân A-ram; nhưng khi họ đến đầu trại quân A-ram thì không thấy có ai ở đó cả. Vì CHÚA đã khiến cho đội quân A-ram nghe tiếng rúng động do các xe chiến mã và các ngựa chiến, tiếng của một đạo binh rất lớn đang kéo đến, vì thế họ bảo nhau: “Vua Y-sơ-ra-ên đã thuê các vua của người Hê-tít và vua Ai-cập đến đánh chúng ta.” Vậy lúc trời vừa sập tối họ bỏ trại, ngựa, lừa, và mọi thứ y nguyên mà mạnh ai nấy chạy để cứu mạng. Những người phung nầy đến đầu trại quân, rồi họ tiến sâu vào trong doanh trại; họ ăn và uống, xong lấy bạc, vàng, và quần áo đem đi giấu; rồi họ trở lại, vào trong một doanh trại khác, lấy những của cải và đem đi giấu nữa. Bấy giờ họ nói với nhau: “Chúng ta làm như thế nầy thật không phải. Đây là ngày có tin mừng. Nếu chúng ta cứ yên lặng và đợi đến trời sáng, thì chúng ta sẽ mắc tội. Chúng ta phải đi ngay, báo tin nầy cho nhà vua.” Vậy họ đến và gọi những người canh cổng thành và nói: “Chúng tôi có đến trại quân A-ram, nhưng chúng tôi không thấy có ai và không nghe tiếng người nào ở đó cả. Chúng tôi thấy ngựa đang cột, lừa đang cột, và các lều trại vẫn y nguyên.” Những người canh cổng thành liền gọi vào báo cáo cho nhà vua. Nửa đêm, vua thức dậy và nói với bầy tôi của mình: “Để ta nói cho các ngươi biết quân A-ram đang chuẩn bị làm gì với chúng ta. Chúng biết rằng chúng ta đang bị đói; nên chúng đã rút vào trong đồng ẩn núp và nghĩ rằng: ‘Đợi cho dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi thành thì chúng ta sẽ bắt sống chúng, rồi vào chiếm lấy thành.’” Một trong các tôi tớ của vua nói: “Xin hãy cho vài người lấy năm con ngựa còn lại, nếu không chúng cũng sẽ đồng chịu chung số phận với toàn dân Y-sơ-ra-ên đang chết dần chết mòn còn sót lại đây, mà sai họ đi xem thử thật hư ra sao.” Vậy họ chọn hai chiếc xe chiến mã, mắc ngựa vào, rồi vua sai họ đuổi theo đạo quân A-ram và bảo: “Hãy đi và xem thử tình hình ra sao.” Vậy họ đuổi theo đạo quân A-ram cho đến tận bờ sông Giô-đanh. Dọc đường họ thấy, trong lúc hối hả chạy trốn, quân A-ram đã vứt bỏ quần áo, quân trang quân dụng la liệt khắp nơi. Các sứ giả bèn trở về và trình báo với nhà vua. Bấy giờ dân chúng từ trong thành túa ra cướp lấy của trong các trại quân A-ram. Cho nên bảy lít bột lọc giá còn ba chỉ bạc, mười bốn lít lúa mạch cũng bán ba chỉ bạc, y như lời của CHÚA. Khi ấy vua chỉ thị cho vị quan hộ giá đã giang tay ra cho vua vịn điều động trật tự ở cổng thành. Dân chúng giẫm lên trên quan ấy mà tràn ra làm cho ông ấy thiệt mạng ở cổng thành, y như lời Đức Chúa Trời đã phán khi vua xuống gặp Ê-li-sê. Lúc ấy người của Đức Chúa Trời có nói với vua: “Ngày mai, cũng vào giờ nầy, tại cổng thành Sa-ma-ri, bảy lít bột lọc giá còn ba chỉ bạc, mười bốn lít lúa mạch cũng bán ba chỉ bạc mà thôi.” Nhưng vị quan ấy đã nói với người của Đức Chúa Trời: “Dầu CHÚA có mở các cửa sổ trên trời mà đổ xuống thì điều ấy há có thể xảy ra được sao?” Và người của Đức Chúa Trời đã đáp: “Chính mắt ông sẽ thấy điều ấy, nhưng ông sẽ không được ăn.” Việc nầy đã xảy ra cho vị quan ấy. Người ta giẫm lên trên ông ta và ông đã chết tại cổng thành. Khi ấy Ê-li-sê nói với người đàn bà có con được sống lại: “Bà và gia đình bà hãy chỗi dậy và đi đến một xứ nào sống được mà sống, vì CHÚA đã định cho xứ phải chịu một cơn đói kém dài bảy năm.” Vậy bà ấy chỗi dậy làm theo như lời của người Đức Chúa Trời đã bảo. Bà và gia đình bà đến kiều ngụ trong xứ Phi-li-tin bảy năm. Cuối bảy năm bà từ xứ Phi-li-tin trở về và đến kêu cầu nhà vua cho bà được phục hồi chủ quyền nhà cửa và đất đai. Khi ấy nhằm lúc nhà vua đang nói chuyện với Ghê-ha-xi, tôi tớ của người Đức Chúa Trời, vua hỏi: “Hãy nói cho ta nghe mọi việc lớn lao mà Ê-li-sê đã làm.” Đang khi Ghê-ha-xi kể cho vua nghe thể nào Ê-li-sê đã khiến cho một người từ cõi chết sống lại, thì người đàn bà có con được sống lại đến kêu cầu vua cho bà được phục hồi chủ quyền nhà cửa và đất đai.Ghê-ha-xi nói: “Tâu vua, chúa của tôi. Đây là người đàn bà đó và đứa con trai của bà được Ê-li-sê cứu sống lại.” Vua bèn hỏi bà và bà thuật lại mọi việc cho vua nghe.Đoạn vua chỉ thị cho một vị quan lo giải quyết lời yêu cầu của bà và dặn rằng: “Hãy trả lại cho bà tất cả những gì thuộc về bà, cùng với mọi lợi tức của ruộng vườn bà, từ ngày bà lìa xứ cho đến ngày nay.” Ê-li-sê đến Đa-mách nhằm lúc vua Bên Ha-đát của A-ram đang lâm bịnh. Khi vua nghe báo rằng: “Có người của Đức Chúa Trời đã đến đây.” Vua bèn sai Ha-xa-ên: “Ngươi hãy lấy một lễ vật đến gặp người của Đức Chúa Trời, nhờ người cầu vấn với CHÚA xem ta có thể bình phục sau cơn bịnh nầy chăng?” Vậy Ha-xa-ên đi gặp người của Đức Chúa Trời, mang theo một lễ vật, gồm những sản phẩm tốt nhất của Đa-mách, do bốn mươi con lạc đà chuyên chở. Ông đến đứng trước mặt Ê-li-sê và nói: “Con trai ngài là Bên Ha-đát, vua của A-ram, có sai tôi đến cầu vấn ngài rằng: ‘Tôi có thể bình phục sau cơn bịnh nầy chăng?’” Ê-li-sê đáp: “Hãy về và nói với vua: ‘Vua chắc chắn sẽ bình phục;’ nhưng CHÚA đã cho ta biết rằng vua chắc chắn sẽ chết.” Đoạn người của Đức Chúa Trời nghiêm sắc mặt nhìn chăm chăm vào Ha-xa-ên đến nỗi ông ta phát ngượng, rồi người của Đức Chúa Trời lại cất tiếng lên khóc. Ha-xa-ên hỏi: “Tại sao chúa tôi khóc?” Ê-li-sê đáp: “Bởi vì ta biết những việc ác mà ngươi sẽ làm cho dân Y-sơ-ra-ên. Ngươi sẽ thiêu đốt thành trì của họ. Ngươi sẽ giết các trai tráng của họ bằng gươm. Ngươi sẽ chà nát những trẻ thơ dưới đất. Và ngươi sẽ mổ bụng những phụ nữ có thai.” Ha-xa-ên nói: “Kẻ tôi tớ ngài là ai, chẳng qua là một con chó thôi, làm sao có thể làm được việc lớn lao như thế?”Ê-li-sê nói: “CHÚA đã cho ta biết rằng ngươi sẽ làm vua của A-ram.” Sau đó ông rời khỏi Ê-li-sê mà về gặp chủ mình là Bên Ha-đát. Vua Bên Ha-đát hỏi ông: “Ê-li-sê đã nói với ngươi thế nào?” Ông đáp: “Người ấy nói với tôi rằng vua chắc chắn sẽ khỏi bịnh.” Nhưng ngày hôm sau, Ha-xa-ên lấy một cái mền, thấm đầy nước, đem phủ trên mặt của nhà vua cho đến khi vua ngộp thở chết, rồi ông lên ngôi thế vị làm vua. Vào năm thứ năm triều vua Giô-ram, con trai A-háp, trị vì ở Y-sơ-ra-ên, thì Giê-hô-ram, con trai vua Giê-hô-sa-phát, bắt đầu trị vì ở Giu-đa. Giê-hô-ram được ba mươi hai tuổi khi bắt đầu làm vua. Vua trị vì tám năm tại Giê-ru-sa-lem. Vua đi theo đường lối của các vua Y-sơ-ra-ên, như nhà A-háp đã làm, vì vua có cưới con gái của A-háp làm vợ. Vua đã làm những việc tội lỗi trước mặt CHÚA. Dầu vậy CHÚA cũng không hủy diệt Giu-đa, vì cớ Đa-vít, tôi tớ Ngài, vì Ngài đã hứa với Đa-vít rằng Ngài sẽ để một ngọn đèn cho người và cho dòng dõi người mãi mãi. Trong thời của Giê-hô-ram, dân Ê-đôm dấy lên chống lại sự cai trị của Giu-đa và lập lấy một vua cho mình. Vì vậy Giê-hô-ram kéo toàn bộ xe chiến mã của mình vượt qua Xai-rơ. Dân Ê-đôm kéo đến bao vây đội quân của vua. Ban đêm vua và những sĩ quan chỉ huy các xe chiến mã của vua tấn công dân Ê-đôm, nhưng khi đội quân của vua vừa thoát khỏi vòng vây, họ đã bỏ chạy về nhà. Thế là dân Ê-đôm đã nổi dậy chống lại sự đô hộ của dân Giu-đa cho đến ngày nay. Đồng lúc ấy, dân ở Líp-na cũng nổi lên chống lại sự cai trị của Giu-đa. Tất cả những việc khác của Giê-hô-ram và mọi việc vua làm há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? Giê-hô-ram an giấc với các tổ phụ mình và được chôn với họ trong thành Đa-vít. A-cha-xia, con trai vua, lên ngôi kế vị. Năm thứ mười hai triều vua Giô-ram, con trai A-háp, trị vì ở Y-sơ-ra-ên, thì A-cha-xia, con trai vua Giê-hô-ram, bắt đầu trị vì ở Giu-đa. A-cha-xia được hai mươi hai tuổi khi bắt đầu làm vua. Vua trị vì được một năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ của vua là A-tha-li, cháu nội của vua Ôm-ri, nước Y-sơ-ra-ên. Vua cũng bước đi trong đường lối của A-háp, làm những việc tội lỗi trước mặt CHÚA, giống như nhà A-háp đã làm, vì vua là con rể của nhà A-háp. Vua đi với vua Giô-ram, con trai A-háp, tiến đánh vua Ha-xa-ên của A-ram tại Ra-mốt Ga-la-át. Trận đó vua Giô-ram bị thương. Vua Giô-ram bèn rút về dưỡng thương tại Gít-rê-ên. Đó là những vết thương do quân A-ram đả thương vua tại Ra-mốt khi vua tiến đánh vua Ha-xa-ên của A-ram.A-cha-xia, con của Giê-hô-ram, vua Giu-đa, xuống thăm Giô-ram, con trai A-háp, đang nằm dưỡng thương tại Gít-rê-ên. Lúc ấy tiên tri Ê-li-sê gọi một tiên tri đến và bảo: “Hãy thắt lưng và cầm chai dầu nầy đi đến Ra-mốt Ga-la-át. Khi đến nơi hãy tìm Giê-hu, con trai Giê-hô-sa-phát, cháu của Nim-si. Hãy đi vào, mời người ấy rời khỏi các bạn đồng đội, đưa người ấy vào một phòng kín. Rồi hãy lấy chai dầu ra, đổ trên đầu người ấy và nói: CHÚA phán như vầy: ‘Ta xức dầu cho ngươi làm vua trên Y-sơ-ra-ên.’ Xong rồi hãy mở cửa và chạy trốn. Chớ có chậm trễ.” Vậy chàng thanh niên đó, một tiên tri trẻ, đi đến Ra-mốt Ga-la-át. Chàng ấy đến nhằm lúc các tướng lãnh của quân đội đang hội nghị. Chàng ấy nói: “Thưa tướng quân, tôi có một sứ điệp cần phải báo riêng với ngài.”Giê-hu hỏi: “Cho người nào trong chúng tôi?”“Cho ngài, thưa tướng quân.” Vậy Giê-hu đứng dậy, đi vào phòng trong. Chàng thanh niên đổ chai dầu trên đầu của ông và nói: “CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Ta xức dầu cho ngươi làm vua trên con dân của CHÚA, tức là dân Y-sơ-ra-ên. Ngươi sẽ đánh hạ nhà của chủ ngươi là A-háp. Ta sẽ báo trả cho Giê-sa-bên về máu của các tôi tớ Ta, là các tiên tri, và máu của tất cả các tôi tớ CHÚA. Toàn thể nhà A-háp phải bị tuyệt diệt. Ta sẽ diệt khỏi nhà A-háp mọi người nam, bất kể là nô lệ hay tự do, trong Y-sơ-ra-ên. Ta sẽ làm cho nhà A-háp giống như nhà của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, và giống như nhà của Bê-a-sa, con trai A-hi-gia. Chó sẽ ăn thịt của Giê-sa-bên trong đồng Gít-rê-ên và không ai sẽ chôn xác bà ấy.”Nói xong chàng thanh niên ấy mở cửa và chạy trốn. Khi Giê-hu trở lại với các tướng lãnh của chủ ông, họ hỏi ông: “Mọi sự đều bình an chứ? Tại sao tên khùng nầy lại đến gặp ông?”Ông đáp: “Anh em biết mà. Anh em biết mấy người ấy hay lải nhải thế nào mà.” Họ nói: “Ông nói dối rồi. Nào, hãy kể thật cho chúng tôi nghe đi.”Vậy ông kể lại cho họ: “Người ấy nói với tôi rằng, CHÚA phán như vầy: Ta xức dầu cho ngươi làm vua trên Y-sơ-ra-ên.” Nghe thế mọi người liền vội vàng cởi áo choàng của mình, trải ra trên các bậc thang, nơi chân của Giê-hu. Đoạn họ thổi kèn và rao lên rằng: “Giê-hu làm vua!” Ấy vậy, Giê-hu, con trai Giê-hô-sa-phát, cháu của Nim-si, âm mưu làm phản Giô-ram. Lúc ấy Giô-ram với toàn thể Y-sơ-ra-ên đang phòng thủ chống lại vua Ha-xa-ên của A-ram tại Ra-mốt Ga-la-át. Vua Giô-ram đã lui về Gít-rê-ên để dưỡng thương, vì quân A-ram đã đả thương vua khi vua ra giao chiến với vua Ha-xa-ên của A-ram. Giê-hu nói: “Nếu anh em đã muốn như thế thì xin đừng để cho người nào thoát khỏi thành đi báo tin cho Gít-rê-ên.” Rồi Giê-hu cho thắng xe chiến mã của mình và đi đến Gít-rê-ên, là nơi Giô-ram đang nằm dưỡng bịnh. Lúc ấy vua A-cha-xia của Giu-đa xuống thăm Giô-ram cũng có mặt tại đó. Tại Gít-rê-ên, lính gác nơi tháp canh trông thấy đạo quân của Giê-hu tiến đến bèn báo: “Tôi thấy một đạo quân đang tiến đến.”Giô-ram bảo: “Hãy sai một kỵ binh ra đón họ và hỏi: ‘Mọi sự bình an chăng?’” Vậy họ sai một kỵ binh phóng ngựa ra gặp Giê-hu và nói: “Vua hỏi như vầy: ‘Có bình an chăng?’”Giê-hu đáp: “Bình an hay không có can hệ gì đến ngươi? Hãy lui ra phía sau ta.”Người lính gác nơi tháp canh lại báo: “Sứ giả đã đến gặp họ rồi nhưng không thấy trở lại.” Vua bèn sai một kỵ binh thứ hai đến với họ và nói: “Vua hỏi như vầy: ‘Có bình an chăng?’”Giê-hu đáp: “Bình an hay không có can hệ gì đến ngươi? Hãy lui ra phía sau ta.” Người lính gác nơi tháp canh lại báo nữa: “Sứ giả đã đến gặp họ rồi nhưng không thấy trở lại. Trông cách dẫn xe thì giống như Giê-hu con của Nim-si, vì ông ấy dẫn xe chạy như điên.” Giô-ram bảo: “Hãy chuẩn bị xe cho ta.” Họ chuẩn bị xe cho vua. Rồi vua Giô-ram của Y-sơ-ra-ên và vua A-cha-xia của Giu-đa ra đi, mỗi người đi xe của mình; họ cùng nhau ra đón Giê-hu. Họ gặp Giê-hu trong cánh đồng của Na-bốt, người Gít-rê-ên. Khi Giô-ram thấy Giê-hu thì hỏi: “Hỡi Giê-hu, bình an chứ?”Ông đáp: “Bình an sao được khi sự thờ hình tượng của Giê-sa-bên, mẹ vua vẫn còn tiếp tục chứ?” Giô-ram liền quay xe lại chạy trốn và la lên cho A-cha-xia hay rằng: “Phản loạn. A-cha-xia ơi!” Giê-hu giương cung, lấy hết sức lực, bắn Giô-ram trúng giữa hai vai, xuyên thủng trái tim. Vua liền quỵ xuống trên xe chiến mã của mình. Giê-hu bảo Bích-ca, sĩ quan tùy viên của mình: “Hãy lôi xác hắn ra, đem vất vào cánh đồng của Na-bốt, người Gít-rê-ên. Ngươi còn nhớ không, khi ta và ngươi cỡi ngựa song song với nhau, đi sau lưng A-háp, cha hắn, thì có lời sấm ngôn của CHÚA nghịch lại hắn như vầy: ‘Vì cớ máu của Na-bốt và máu của các con cái người mà Ta đã thấy hôm qua, CHÚA phán, Ta thề rằng Ta sẽ báo trả cho ngươi lại ngay trên cánh đồng nầy.’ Vậy bây giờ hãy lôi xác hắn ra và vứt hắn trên cánh đồng đó, y theo lời của CHÚA đã phán.” Khi A-cha-xia, vua của Giu-đa thấy vậy, vua liền chạy trốn về hướng Bết Ha-gan. Giê-hu đuổi theo và nói: “Hãy giết hắn luôn.” Họ liền áp vào đánh vua trọng thương đang lúc vua ở trên xe chiến mã của mình, ngay tại khúc quẹo về hướng Gu-rơ, gần Gíp-lê-am. Vua chạy thoát được về đến Mê-ghi-đô thì chết ở đó. Các tôi tớ của A-cha-xia để xác của vua trên một chiếc xe chiến mã rồi chở về thành Giê-ru-sa-lem. Họ chôn cất vua trong mồ với các tổ phụ của vua, trong thành Đa-vít. A-cha-xia trị vì ở Giu-đa vào năm thứ mười một triều vua Giô-ram, con trai A-háp. Khi Giê-hu vào trong thành Gít-rê-ên, Giê-sa-bên nghe điều đó thì bà kẻ mắt và giồi tóc, rồi ra đứng nơi cửa sổ trông xuống. Vừa khi Giê-hu vào cổng thành thì bà nói: “Hỡi Xim-ri, tên giết chủ, bình an chứ?” Giê-hu nhìn lên cửa sổ và nói: “Ai trên đó theo ta? Ai?” Có hai ba thái giám nhìn xuống Giê-hu. Ông bảo: “Hãy quăng nó xuống.” Vậy họ quăng bà xuống. Máu của bà văng ra trên tường và trên ngựa. Ngựa giẫm lên thây bà mà đi qua. Giê-hu đi vào, ăn và uống. Xong rồi ông bảo: “Hãy đi lấy xác con đàn bà khốn kiếp đó chôn đi. Dù sao nó cũng là con gái của vua.” Nhưng khi họ đi lo chôn bà thì họ chẳng thấy còn gì ngoài cái sọ, hai chân và hai bàn tay của bà còn lại. Khi họ trở vô báo cáo cho Giê-hu thì ông bảo: “Đây là lời của CHÚA, mà Ngài đã phán qua tôi tớ Ngài là Ê-li, người Thi-sê-be: Trong cánh đồng ở Gít-rê-ên, chó sẽ ăn thịt Giê-sa-bên. Thây của Giê-sa-bên sẽ như phân trên cánh đồng Gít-rê-ên; đến nỗi không ai có thể nói: ‘Đây là Giê-sa-bên.’” Vua A-háp có bảy mươi con trai sống tại Sa-ma-ri. Vậy Giê-hu viết thư gởi đến Sa-ma-ri, cho các thủ lãnh ở Gít-rê-ên, cho các trưởng lão, và cho các quan đỡ đầu các con trai A-háp. Thư rằng: “Vì các con trai của chủ các ngươi đang ở với các ngươi, và các ngươi có quyền điều động các xe chiến mã, kỵ binh, với một thành trì kiên cố, và vũ khí. Vậy hãy chọn trong vòng các con trai của chủ các ngươi một người tài giỏi nhất, tôn người ấy lên ngôi vua thay cha hắn, rồi hãy ra mà chiến đấu cho nhà chủ các ngươi.” Nhưng khi nghe thế, họ đều vô cùng kinh hãi và nói: “Kìa, cả hai vua mà còn không chống cự nổi ông ấy thay, thì huống chi là chúng ta, làm sao chúng ta có thể cự lại được?” Vậy quan tổng quản hoàng cung, quan tổng quản hoàng thành, cùng với các trưởng lão, và các quan đỡ đầu các hoàng tử, gởi sứ điệp đến Giê-hu rằng: “Chúng tôi là tôi tớ của ông. Chúng tôi sẽ làm bất cứ điều gì ông dạy bảo. Chúng tôi sẽ không lập ai làm vua cả. Xin ông cứ làm điều gì ông nghĩ là phải.” Vậy Giê-hu viết cho họ một thư thứ hai rằng: “Nếu quý ông ủng hộ tôi và bằng lòng vâng phục tôi thì hãy chém đầu các con trai của chủ các ông, rồi mang đến gặp tôi tại Gít-rê-ên vào ngày mai cũng vào giờ nầy.”Vả, bấy giờ bảy mươi con trai của nhà vua đang sống với những quan lớn trong hoàng thành, những vị quan ấy được giao cho trách nhiệm giáo dục các hoàng tử nầy. Khi bức thư đó đến với họ, họ bắt các hoàng tử và đem giết hết, cả thảy là bảy mươi người, rồi để đầu các hoàng tử ấy trong các giỏ và gởi đến Gít-rê-ên. Sứ giả đến báo với Giê-hu: “Họ đã mang đầu của các hoàng tử đến rồi.”Ông bảo: “Hãy đem chất chúng thành hai đống ở hai bên cổng thành cho đến sáng mai.” Rồi sáng hôm sau, ông ra đứng trước cổng thành và nói với dân chúng: “Các người đều vô can. Chính tôi mới là kẻ âm mưu phản nghịch chủ tôi mà sát hại ông ấy. Nhưng ai đã giết những người nầy? Vậy bây giờ khá biết rằng, tất cả những lời mà CHÚA đã phán về nhà A-háp thì không một lời nào của CHÚA bị rơi xuống đất, nhưng CHÚA làm ứng nghiệm mọi lời Ngài đã phán ra, qua Ê-li, tôi tớ Ngài.” Vậy Giê-hu giết tất cả những người còn lại trong nhà A-háp ở Gít-rê-ên, tất cả các quan đại thần, các bạn thiết của nhà vua, các thầy tế lễ của hoàng gia, cho đến khi không còn sót lại một ai. Đoạn ông lên đường tiến về thành Sa-ma-ri. Dọc đường, tại Bết Ê-két thuộc khu Giữ Chiên, Giê-hu gặp các bà con của vua A-cha-xia nước Giu-đa. Ông hỏi họ: “Quý vị là ai?”Họ trả lời: “Chúng tôi là bà con của vua A-cha-xia. Chúng tôi xuống thăm các hoàng tử và các hoàng thúc.” Ông bảo: “Hãy bắt sống chúng.” Người ta liền bắt sống những người ấy, rồi đem giết họ bên hố nước ở Bết Ê-két, gồm cả thảy là bốn mươi hai người. Ông không để sót lại một người nào. Khi rời khỏi đó, ông gặp Giê-hô-na-đáp, con trai Rê-cáp, người ấy đang đến đón ông. Ông chào ông ấy và nói: “Lòng ông có chân thành với tôi như lòng tôi chân thành với ông không?”Giê-hô-na-đáp trả lời: “Có.”Giê-hu lại nói: “Nếu ông một lòng với tôi thì hãy đưa tay ông ra.” Giê-hô-na-đáp bèn đưa tay ra cho Giê-hu. Giê-hu bắt tay Giê-hô-na-đáp và đỡ ông ta lên xe chiến mã của mình. Ông nói: “Hãy đi với tôi và xem lòng nhiệt thành của tôi đối với CHÚA.” Vậy Giê-hu đưa Giê-hô-na-đáp cùng đi một xe chiến mã với mình. Khi ông đến Sa-ma-ri, ông giết tất cả những người thuộc về nhà A-háp tại Sa-ma-ri, cho đến khi ông diệt sạch nhà ấy, y như lời của CHÚA đã phán ra bởi Ê-li. Đoạn Giê-hu triệu tập toàn dân lại và nói: “A-háp phụng thờ Ba-anh còn ít quá, Giê-hu sẽ phụng thờ Ba-anh nhiều hơn. Vậy bây giờ hãy triệu tập cho ta tất cả những tiên tri của Ba-anh, tất cả người phục vụ Ba-anh, và tất cả thầy tế lễ của Ba-anh. Không ai được vắng mặt. Hễ ai vắng mặt thì sẽ không sống nữa.” Nhưng Giê-hu chỉ lập mưu để tận diệt những kẻ thờ Ba-anh mà thôi. Giê-hu truyền cho họ: “Hãy triệu tập một đại hội thật trọng thể để thờ phượng thần Ba-anh.” Vậy người ta truyền rao tin đó. Giê-hu sai người đi khắp nước Y-sơ-ra-ên loan báo, nên tất cả những kẻ thờ phượng Ba-anh tề tựu về đông đủ, không thiếu một ai. Họ vào trong đền thờ thần Ba-anh đông nghẹt từ đầu nầy đến đầu kia. Giê-hu bảo người phụ trách lễ phục: “Hãy đem lễ phục ra phân phát cho mọi người đến thờ phượng thần Ba-anh.” Vậy người ấy đem các lễ phục ra phân phát cho họ. Rồi Giê-hu cùng với Giê-hô-na-đáp, con trai Rê-cáp, đi vào đền thờ của Ba-anh; ông nói với họ: “Hãy lục soát kỹ xem, có tôi tớ nào của CHÚA ở đây không. Ở đây chỉ có những người thờ phượng thần Ba-anh mà thôi.” Xong rồi họ bắt đầu nghi lễ dâng các lễ vật và các của lễ thiêu.Vả, Giê-hu đã đặt tám mươi dũng sĩ nằm phục bên ngoài và dặn: “Nếu các ngươi để bất cứ người nào trong những người ta trao vào tay các ngươi chạy thoát thì sinh mạng của các ngươi sẽ đền bù cho sinh mạng của người đó.” Vừa khi Giê-hu dâng của lễ thiêu xong thì ông truyền lịnh cho các vệ sĩ và các quan tướng chỉ huy: “Hãy vào và giết hết chúng. Chớ để một ai chạy thoát.” Vậy họ xông vào dùng gươm giết chúng. Các vệ sĩ và các quan tướng liệng thây chúng ra ngoài; rồi họ xông vào cung thánh của đền thờ Ba-anh. Họ hạ trụ thờ trong đền Ba-anh xuống, lôi nó ra ngoài và đốt đi. Xong rồi họ đập nát tượng Ba-anh, phá hủy đền thờ của Ba-anh, và biến nó thành một nơi xú uế cho đến ngày nay. Như vậy Giê-hu diệt trừ Ba-anh khỏi Y-sơ-ra-ên. Nhưng Giê-hu không dứt bỏ các tội của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, đã gây cho dân Y-sơ-ra-ên phạm tội. Đó là sự thờ phượng các con bò vàng ở Bê-tên và Đan. CHÚA phán với Giê-hu: “Bởi vì ngươi đã làm tốt điều Ta cho là chánh đáng, xử trị nhà A-háp hợp với lòng Ta, cho nên con cháu ngươi sẽ ngồi trên ngôi Y-sơ-ra-ên cho đến đời thứ tư.” Nhưng Giê-hu không hết lòng cẩn thận làm theo Kinh Luật của CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Ông không lìa bỏ tội lỗi của Giê-rô-bô-am, là kẻ đã xui cho dân Y-sơ-ra-ên phạm tội. Trong thuở ấy, CHÚA bắt đầu giảm bớt địa phận của Y-sơ-ra-ên. Ha-xa-ên đánh bại họ trên toàn lãnh thổ Y-sơ-ra-ên và chiếm lấy vùng từ phía đông sông Giô-đanh trở đi, toàn lãnh thổ Ga-la-át, địa phận của chi tộc Gát, chi tộc Ru-bên, và chi tộc Ma-na-se; từ A-rô-e, tức từ bờ suối Ạt-nôn cho đến cả vùng Ga-la-át và Ba-san. Tất cả các việc khác của Giê-hu, mọi việc vua làm, mọi quyền thế của vua há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên sao? Vậy Giê-hu an giấc với các tổ phụ mình. Người ta chôn vua tại Sa-ma-ri. Con trai vua là Giô-a-cha lên ngôi kế vị. Thời gian Giê-hu trị vì Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri là hai mươi tám năm. Khi ấy, A-tha-li là mẹ của vua A-cha-xia, thấy con mình đã chết, nên bà chỗi dậy giết tất cả mọi người trong hoàng tộc. Nhưng Giô-sê-ba, con gái vua Giô-ram, tức là chị của vua A-cha-xia, bắt trộm Giô-ách, con trai vua A-cha-xia, khỏi vòng các hoàng tử mà A-tha-li toan giết. Bà giấu Giô-ách và người vú trong một phòng ngủ. Như vậy bà giấu Giô-ách khỏi tay A-tha-li, nên Giô-ách không bị giết. Giô-ách ở với bà sáu năm như thế, được giấu trong đền thờ của CHÚA, trong khi A-tha-li cai trị trên xứ. Đến năm thứ bảy, Giê-hô-gia-đa mời các vị chỉ huy một trăm quân thuộc đội quân Ca-ri, và các vị chỉ huy quân hộ vệ đến gặp ông trong đền thờ CHÚA. Ông lập một giao ước với họ và buộc họ thề nguyện với ông trong đền thờ CHÚA, xong ông giới thiệu hoàng tử cho họ. Ông truyền rằng: “Đây là những điều quý ông sẽ làm: một phần ba quý ông đến phiên trực ngày Sa-bát sẽ bảo vệ nơi vua ở. Một phần ba khác sẽ canh giữ ở cổng Su-rơ, một phần ba còn lại sẽ canh giữ cổng phía sau quân hộ vệ. Ba đơn vị cứ luân phiên nhau canh giữ đền thờ. Hai đơn vị đáng lý được hết phiên trực trong ngày Sa-bát thì bây giờ sẽ đến canh giữ đền thờ CHÚA để bảo vệ vua. Quý ông phải bao quanh đức vua, người nào cũng cầm binh khí trong tay. Hễ ai xông vào hàng ngũ của quý ông thì hãy giết thẳng tay. Mỗi khi vua đi ra đi vào thì quý ông cũng phải đi theo để hộ vệ.” Các vị chỉ huy làm y như lời thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa đã truyền. Mỗi người đem quân của mình đến, quân đang phiên trực trong ngày Sa-bát hoặc quân hết phiên trực trong ngày Sa-bát, đều cùng nhau đến với thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa. Thầy tế lễ trao cho các vị chỉ huy những giáo và khiên của vua Đa-vít, được cất giữ lâu nay trong đền thờ CHÚA. Các quân hộ vệ, tay cầm binh khí, đứng từ phía nam của đền thờ cho đến phía bắc của đền thờ, họ cũng đứng phía trước bàn thờ và phía trước đền thờ nữa, để bảo vệ vua mọi phía. Đoạn Giê-hô-gia-đa đưa hoàng tử ra, đội vương miện cho hoàng tử, trao cho hoàng tử một bộ luật và tuyên bố rằng người là vua. Họ xức dầu cho người, rồi vỗ tay và tung hô: “Đức Vua Vạn Tuế!” Khi A-tha-li nghe tiếng huyên náo của quân hộ vệ và dân chúng thì bà đến đền thờ CHÚA để gặp dân chúng. Bà thấy, kìa vua đang đứng trên bệ cao, theo lễ nghi xưa nay, có các vị chỉ huy và ban nhạc kèn đứng bên cạnh vua; mọi người trong xứ đang vui mừng và kèn thổi rền vang. A-tha-li bèn xé áo mình và la lên: “Phản tặc! Phản tặc!” Thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa truyền cho các vị chỉ huy quân đội: “Hãy lôi bà ấy ra khỏi hàng quân và hễ kẻ nào theo bà ấy thì cứ dùng gươm giết chết.” Vì thầy tế lễ có bảo: “Đừng cho bà ấy được chết trong đền thờ CHÚA.” Vậy họ bắt bà, khi bà qua cổng dành cho ngựa vào hoàng cung, thì họ giết bà tại đó. Giê-hô-gia-đa lập một giao ước giữa CHÚA với vua và dân để toàn dân được làm con dân của CHÚA. Ông cũng lập một giao ước giữa vua với dân. Đoạn toàn dân trong xứ kéo nhau đến đền thờ của Ba-anh và phá dỡ nó xuống. Họ đập nát các bàn thờ và các hình tượng của Ba-anh ra thành mảnh vụn. Họ giết Ma-than, thầy tế lễ của Ba-anh, trước các bàn thờ.Thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa đặt quân đội bảo vệ quanh đền thờ CHÚA. Ông đem các vị chỉ huy trăm quân, đội quân Ca-ri, các toán quân hộ vệ, và tất cả dân chúng trong xứ đến rước vua từ đền thờ CHÚA xuống rồi tiến về hoàng cung đi qua lối vào của cổng dành cho quân hộ vệ. Vua ngự lên ngai vua. Vậy toàn dân trong xứ đều vui mừng, rồi kinh thành yên tĩnh trở lại, sau khi A-tha-li đã bị giết bằng gươm tại hoàng cung. Giô-ách được bảy tuổi khi bắt đầu trị vì. Năm thứ bảy triều Giê-hu, Giô-ách lên ngôi làm vua. Vua trị vì bốn mươi hai năm tại Giê-ru-sa-lem. Thân mẫu của vua là bà Xi-bia, quê ở Bê-e Sê-ba. Giô-ách làm điều lành trước mặt Chúa trọn đời mình, bởi vì có thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa dạy dỗ vua. Tuy nhiên, các tế đàn trên những nơi cao vẫn chưa được dỡ đi. Dân chúng vẫn còn đến dâng sinh tế và dâng của lễ trên những tế đàn ấy. Giô-ách nói cùng các thầy tế lễ: “Tất cả tiền bạc dâng hiến làm của lễ thánh trong đền thờ CHÚA, gồm tiền đóng góp cá nhân được quy định cho mỗi người và tiền do các cá nhân tự ý dâng hiến cho đền thờ CHÚA. Xin các thầy tế lễ hãy thu nhận từ những người dâng hiến, rồi dùng số tiền đó sửa sang lại đền thờ ở những chỗ nào thấy bị hư hại.” Nhưng đến năm thứ hai mươi ba của triều vua Giô-ách, các thầy tế lễ không sửa sang đền thờ nữa. Vì vậy vua Giô-ách triệu thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa và những thầy tế lễ đến và hỏi: “Tại sao quý vị không tu bổ đền thờ nữa? Thế thì từ nay quý vị đừng nhận tiền từ những người dâng hiến nữa, nhưng hãy để tiền đó cho việc sửa sang đền thờ.” Thế là các thầy tế lễ đồng ý rằng từ đó trở đi họ sẽ không nhận tiền dâng hiến của dân chúng và cũng không chịu trách nhiệm việc sửa sang đền thờ nữa. Thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa bèn lấy một cái rương, đục một lỗ trên nắp, rồi để nó bên cạnh bàn thờ, khi người ta bước vào đền thờ Chúa thì thấy nó ở bên phải. Những thầy tế lễ canh cửa đền thờ bỏ vào đó tất cả số tiền người ta đem dâng cho đền thờ Chúa. Khi nào người ta thấy rương đầy tiền, thì quan bí thư của vua và vị Thượng Tế đi lên, đếm tiền trong rương của đền thờ CHÚA, bỏ vào bao và cột lại. Sau khi họ đã định giá, họ trao số tiền đó vào tay những người quản cai các thợ sửa sang đền thờ CHÚA. Những người ấy dùng tiền đó trả cho các thợ mộc và thợ xây cất, là những thợ làm việc nơi đền thờ CHÚA. Họ cũng trả cho những thợ nề và thợ đá. Họ dùng tiền đó mua gỗ và đá đã đẽo sẵn để sửa chữa những chỗ hư nứt nơi đền thờ CHÚA, và trang trải tất cả những phí tổn trong việc tu bổ đền thờ. Người ta không dùng những số tiền đem dâng cho đền thờ CHÚA nầy để sắm những chậu bạc, dao kéo cắt tim đèn, bát rảy, kèn, hay bất cứ vật dụng bằng vàng hoặc bằng bạc nào cho đền thờ CHÚA, mà chỉ trao cho những người phụ trách công việc sửa chữa để chi phí cho việc sửa sang đền thờ CHÚA thôi. Họ không bắt những người quản cai việc trả lương cho nhân công phải tính sổ vì những người ấy làm việc rất ngay thật. Họ không đem những tiền thuộc của lễ chuộc lỗi và của lễ chuộc tội vào đền thờ CHÚA, vì những tiền ấy thuộc về các thầy tế lễ. Lúc ấy vua Ha-xa-ên của A-ram đi lên, tấn công Gát, và chiếm lấy địa phận nầy. Sau đó Ha-xa-ên dẫn quân tiến đánh Giê-ru-sa-lem. Vua Giô-ách của Giu-đa bèn lấy tất cả những vật thánh của các tiên vương là Giê-hô-sa-phát, Giê-hô-ram, và A-cha-xia, các vua Giu-đa đã dâng hiến, cùng với những vật thánh mà chính vua đã dâng, tất cả vàng trong các kho của đền thờ Chúa và của hoàng cung, mà đem nộp hết cho vua Ha-xa-ên của A-ram. Bấy giờ Ha-xa-ên mới chịu rút lui khỏi Giê-ru-sa-lem. Những việc khác của Giô-ách, và tất cả những việc vua thực hiện, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? Các tôi tớ của vua nổi loạn, lập mưu phản nghịch, ám sát vua trong điện Mi-lô, trên con đường đi xuống Si-la. Giô-xa-ca, con trai Si-mê-át, và Giê-hô-sa-bát, con trai Sô-mê, là hai tôi tớ vua, sát hại vua, và vua bị giết chết. Người ta chôn vua cùng chỗ với các tổ phụ vua trong thành Đa-vít. Con trai vua là A-ma-xia lên ngôi kế vị. Vào năm thứ hai mươi ba triều vua Giô-ách, con trai A-cha-xia, nước Giu-đa, thì Giô-a-cha, con trai Giê-hu, lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri. Vua trị vì mười bảy năm. Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA, đi theo những tội lỗi của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, là những tội lỗi mà vua ấy đã gây cho Y-sơ-ra-ên phạm tội. Vua chẳng dứt bỏ những tội lỗi đó. Cơn giận của CHÚA nổi lên cùng Y-sơ-ra-ên. Ngài phó họ vào tay Ha-xa-ên, vua A-ram, và vào tay Bên Ha-đát, con của Ha-xa-ên, suốt thời hai vua đó. Bấy giờ Giô-a-cha cầu khẩn với CHÚA, và Chúa nhậm lời vua; vì Ngài có thấy nỗi áp bức mà dân Y-sơ-ra-ên phải gánh chịu, thể nào vua A-ram đã đàn áp họ. Vì thế CHÚA đã ban cho dân Y-sơ-ra-ên một người giải cứu, để họ thoát ra khỏi quyền lực của dân A-ram, và mọi người trong Y-sơ-ra-ên được sống an lạc dưới mái nhà mình như ngày trước. Tuy nhiên, họ vẫn không từ bỏ những tội lỗi của nhà Giê-rô-bô-am, mà vua ấy đã gây cho Y-sơ-ra-ên phạm tội, nhưng họ cứ phạm các tội lỗi đó; đến nỗi trụ thờ thần A-sê-ra vẫn còn đứng sừng sững tại Sa-ma-ri. Chúa để cho đội quân của Giô-a-cha chỉ còn lại năm mươi kỵ binh, mười xe chiến mã, và mười ngàn bộ binh. Vì vua của A-ram có tiêu diệt họ, nghiền nát họ như bụi nơi sân đập lúa. Những việc khác của Giô-a-cha, những việc vua thực hiện, quyền lực của vua, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên sao? Giô-a-cha an giấc với các tổ phụ mình và được chôn tại Sa-ma-ri. Giê-hô-ách, con trai vua, lên ngôi kế vị. Năm thứ ba mươi bảy triều vua Giô-ách của Giu-đa, thì Giê-hô-ách, con trai Giô-a-cha, lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri. Vua trị vì mười sáu năm. Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA. Vua chẳng từ bỏ những tội lỗi của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, là những tội lỗi mà vua ấy đã gây cho Y-sơ-ra-ên phạm tội, nhưng vua cứ đi theo đường tội lỗi đó. Những việc khác của Giê-hô-ách, tất cả những việc vua làm, những chiến công của vua khi đánh với vua A-ma-xia của Giu-đa, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên sao? Giê-hô-ách an giấc với các tổ phụ mình, rồi Giê-rô-bô-am lên ngôi kế vị. Giê-hô-ách được chôn tại Sa-ma-ri, cùng chỗ với các vua của Y-sơ-ra-ên. Khi ấy Ê-li-sê lâm bịnh và cơn bịnh ấy khiến cho ông qua đời. Vua Giê-hô-ách của Y-sơ-ra-ên xuống thăm ông. Vua khóc trước mặt ông và than rằng: “Cha ơi! Cha ơi! Những xe chiến mã và những kỵ binh của Y-sơ-ra-ên ơi!” Ê-li-sê nói với vua: “Xin vua hãy lấy cung tên ra.” Vua bèn lấy cung tên ra. Ông nói với vua Y-sơ-ra-ên: “Xin vua hãy giương cung lên.” Vua bèn giương cung. Ê-li-sê đặt tay ông trên tay vua, rồi bảo: “Xin vua hãy mở cửa sổ về hướng đông.” Vua đến mở cửa sổ. Ê-li-sê nói: “Vua hãy bắn đi.” Vua liền bắn. Bấy giờ Ê-li-sê nói: “Ấy là mũi tên chiến thắng của CHÚA, mũi tên chiến thắng dân A-ram. Vì vua sẽ đánh bại dân A-ram tại A-phéc cho đến khi vua tận diệt họ.” Ông nói tiếp: “Xin vua hãy lấy một bó tên.” Vua lấy ra một bó tên. Ông nói với vua Y-sơ-ra-ên: “Hãy đập chúng xuống đất.” Vua đập chúng xuống đất ba lần rồi ngừng lại. Bấy giờ người của Đức Chúa Trời nổi giận với vua và nói: “Đáng lẽ vua phải đập năm hay sáu lần thì vua mới có thể tận diệt họ được, nhưng bây giờ vua chỉ có thể đánh bại dân A-ram được ba lần thôi.” Đoạn Ê-li-sê qua đời. Người ta đem chôn ông.Thuở ấy, cứ mỗi độ xuân sang, các toán quân Mô-áp hay xâm nhập vào xứ. Nhằm lúc người ta đem chôn một người chết thì thấy một toán quân cướp đến, họ liền ném thây của người chết đó vào mộ của Ê-li-sê để chạy trốn. Vừa khi thây của người chết đụng vào hài cốt của Ê-li-sê, thì người chết đó liền sống lại và đứng dậy. Vua Ha-xa-ên của A-ram đã đàn áp Y-sơ-ra-ên suốt triều vua Giô-a-cha. Nhưng CHÚA đã dủ lòng nhân của Ngài đối với họ, Ngài thương xót họ, và đoái đến họ, bởi vì giao ước của Ngài đối với Áp-ra-ham, I-sác, và Gia-cốp, nên Ngài không diệt họ và không cất họ khỏi trước mặt Ngài cho đến bấy giờ. Khi vua Ha-xa-ên của A-ram băng hà, Bên Ha-đát, con trai của vua lên nối ngôi, thì Giê-hô-ách, con trai của Giô-a-cha lấy lại khỏi tay Bên Ha-đát, con trai Ha-xa-ên, những thành mà vua ấy đã chiếm lấy của vua Giô-a-cha trong các cuộc chiến. Giê-hô-ách đánh bại Bên Ha-đát ba lần và lấy lại các thành đã bị mất về cho Y-sơ-ra-ên. Vào năm thứ hai triều vua Giê-hô-ách, con trai Giô-a-cha của Y-sơ-ra-ên, thì A-ma-xia, con trai Giô-ách, vua Giu-đa, lên ngôi làm vua. Vua được hai mươi lăm tuổi khi bắt đầu trị vì và vua trị vì hai mươi chín năm tại Giê-ru-sa-lem. Thân mẫu của vua là bà Giê-hoa-đan, người Giê-ru-sa-lem. Vua làm điều ngay lành trước mặt CHÚA, nhưng không được như Đa-vít, tổ phụ vua, mà vua chỉ làm như những điều Giô-ách, cha vua, đã làm. Các tế đàn trên những nơi cao vẫn chưa được dẹp bỏ. Dân chúng vẫn còn đến dâng sinh tế và dâng hương trên những tế đàn ấy. Khi thấy vương quyền đã được nắm vững trong tay, vua cho xử tử những bầy tôi đã sát hại vua cha. Nhưng vua không giết con cái của những kẻ sát nhân ấy, theo như đã chép trong sách Kinh Luật của Môi-se, trong đó CHÚA đã truyền rằng: “Người ta sẽ không giết cha mẹ vì tội của con cái, và cũng không giết con cái vì tội của cha mẹ; nhưng ai nấy đều sẽ bị giết vì tội của chính mình.” Vua đã đánh hạ mười ngàn người Ê-đôm trong Thung Lũng Muối và đánh chiếm Sê-la, rồi đặt tên cho thành đó là Giốc-then, và người ta vẫn còn gọi như thế cho đến ngày nay. Bấy giờ A-ma-xia sai sứ giả đến nói với Giê-hô-ách, con trai Giô-a-cha, cháu của Giê-hu, đang làm vua của Y-sơ-ra-ên rằng: “Hãy đến, để chúng ta đối mặt đọ sức với nhau.” Vua Giê-hô-ách của Y-sơ-ra-ên sai sứ giả trả lời A-ma-xia vua Giu-đa rằng: “Một bụi gai ở Li-ban có gởi lời đến nói với cây bá hương của Li-ban như vầy: ‘Hãy gả con gái ngươi làm vợ cho con trai ta.’ Nhưng có một con thú rừng ở Li-ban đi ngang qua và đạp nát bụi gai đó. Vua quả đã đánh bại dân Ê-đôm, nên bây giờ lòng vua sinh ra kiêu ngạo. Hãy ở nhà mà vênh vang với chiến thắng của mình. Tại sao vua lại muốn khiêu khích cho tai họa giáng xuống trên mình, trên vua và trên cả dân Giu-đa đi với vua?” Nhưng A-ma-xia chẳng khứng nghe. Vậy, vua Giê-hô-ách của Y-sơ-ra-ên đi lên. Vua và vua A-ma-xia đối diện với nhau trong trận chiến tại Bết Sê-mết, trong đất Giu-đa. Quân Giu-đa bị quân Y-sơ-ra-ên đánh bại. Mọi người đều bỏ trốn, chạy về nhà mình. Vua Giê-hô-ách bắt sống A-ma-xia, con trai Giô-ách, cháu A-cha-xia, vua Giu-đa tại Bết Sê-mết, rồi kéo quân đến Giê-ru-sa-lem, phá dỡ tường thành Giê-ru-sa-lem từ cổng Ép-ra-im cho đến cổng Góc, tạo một khoảng trống dài hai trăm thước. Vua chiếm đoạt tất cả vàng bạc, tất cả những vật dụng để trong đền thờ CHÚA và trong các kho tàng của hoàng cung. Vua cũng bắt theo một số người làm con tin, rồi rút về lại Sa-ma-ri. Những việc khác mà Giê-hô-ách đã làm, chiến công của vua, và thể nào vua đã đánh bại vua A-ma-xia của Giu-đa, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên sao? Giê-hô-ách an giấc với các tổ phụ mình và được chôn tại Sa-ma-ri, cùng chỗ với các vua của Y-sơ-ra-ên. Rồi con trai của vua là Giê-rô-bô-am lên ngôi kế vị. Còn vua A-ma-xia, con trai Giô-ách của Giu-đa sống thêm mười lăm năm nữa, sau khi vua Giê-hô-ách, con của Giô-a-cha, vua Y-sơ-ra-ên băng hà. Tất cả những việc khác của A-ma-xia há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? Ở Giê-ru-sa-lem người ta lập một âm mưu chống lại vua A-ma-xia. Vua phải bỏ trốn đến La-chi. Nhưng họ đuổi theo vua đến tận La-chi và hạ sát vua tại đó. Đoạn họ để xác vua trên lưng ngựa và chở về Giê-ru-sa-lem. Họ chôn vua tại Giê-ru-sa-lem với các tổ phụ vua trong thành Đa-vít. Toàn dân Giu-đa lập A-xa-ria, mười sáu tuổi, lên ngôi làm vua kế vị cho cha là A-ma-xia. Sau khi vua A-ma-xia an giấc với các tổ phụ mình, vua A-xa-ria xây lại thành Ê-lát và thâu hồi nó lại dưới chủ quyền của Giu-đa. Vào năm thứ mười lăm triều vua A-ma-xia, con trai Giô-ách, vua Giu-đa, thì Giê-rô-bô-am, con trai Giê-hô-ách của Y-sơ-ra-ên lên ngôi làm vua tại Sa-ma-ri. Vua trị vì bốn mươi mốt năm. Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA. Vua không từ bỏ các tội lỗi của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, là những tội lỗi mà vua ấy đã gây cho Y-sơ-ra-ên phạm tội. Vua lập lại biên thùy cho Y-sơ-ra-ên, từ ải Ha-mát cho đến bờ biển Ả-rập, theo như lời của CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã phán bởi tôi tớ Ngài là tiên tri Giô-na, con trai A-mi-tai, người ở Gát Hê-phê. Vì CHÚA đã thấy nỗi hoạn nạn mà Y-sơ-ra-ên phải chịu thật cay đắng; chẳng có một ai, dù là nô lệ hay tự do, để giúp đỡ Y-sơ-ra-ên cả. Vì Chúa nói rằng Ngài sẽ không xóa tên họ dưới trời, nên Ngài đã dùng tay của Giê-rô-bô-am, con trai Giê-hô-ách, để giải cứu họ. Tất cả những việc khác của Giê-rô-bô-am, tất cả những việc vua làm, quyền lực của vua, thể nào vua đã chiến đấu, thể nào vua đã thâu hồi Đa-mách và Ha-mát, vốn thuộc Giu-đa, trở lại dưới chủ quyền của Y-sơ-ra-ên, há không được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên sao? Giê-rô-bô-am an giấc với các tổ phụ mình, là các vua Y-sơ-ra-ên. Xa-cha-ri, con trai vua, lên ngôi kế vị. Năm thứ hai mươi bảy triều vua Giê-rô-bô-am của Y-sơ-ra-ên, thì A-xa-ria, con trai A-ma-xia, lên ngôi làm vua Giu-đa. Vua được mười sáu tuổi khi mới lên ngôi và trị vì năm mươi hai năm tại Giê-ru-sa-lem. Thân mẫu của vua là bà Giê-cô-lia, người Giê-ru-sa-lem. Vua làm điều ngay lành trước mặt CHÚA, như thân phụ của vua là vua A-ma-xia đã làm. Dầu vậy những tế đàn trên các nơi cao vẫn chưa được dẹp bỏ. Dân chúng vẫn còn đến dâng tế lễ và dâng hương trên những tế đàn ấy. CHÚA phạt vua mắc bịnh phung cho đến ngày băng hà. Vua sống biệt lập trong một nhà riêng. Giô-tham, con trai vua, điều hành việc triều chính và quản trị dân trong nước. Tất cả những việc khác của A-xa-ria, tất cả những việc vua làm, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? A-xa-ria an giấc với các tổ phụ mình. Người ta chôn vua với các tổ phụ của vua trong thành Đa-vít. Giô-tham, con trai vua, lên ngôi kế vị. Năm thứ ba mươi tám triều vua A-xa-ria của Giu-đa, Xa-cha-ri, con trai Giê-rô-bô-am, lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên. Vua trị vì tại Sa-ma-ri được sáu tháng. Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA, như các tổ phụ của vua đã làm. Vua chẳng từ bỏ những tội lỗi của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, là những tội lỗi mà vua ấy đã gây cho Y-sơ-ra-ên phạm tội. Sa-lum, con trai Gia-bê, lập mưu phản nghịch vua, hạ sát vua trước mặt dân chúng, rồi lên ngôi thế vị. Những việc khác của vua Xa-cha-ri đều đã ghi trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên. Như thế là ứng nghiệm lời của CHÚA đã phán cho Giê-hu rằng: “Dòng dõi ngươi sẽ được ngồi trên ngôi Y-sơ-ra-ên cho đến đời thứ tư.” Điều đó đã xảy ra như vậy. Năm thứ ba mươi chín triều vua Ô-xia của Giu-đa, Sa-lum, con trai Gia-bê, lên ngôi làm vua và trị vì được một tháng tại Sa-ma-ri. Bấy giờ Mê-na-hem, con trai Ga-đi, từ Tiệt-sa kéo lên Sa-ma-ri, đánh bại Sa-lum, con trai Gia-bê, ngay ở Sa-ma-ri, giết chết vua đi, rồi lên ngôi thế vị. Những việc khác của vua Sa-lum, kể cả âm mưu do vua chủ xướng, đều được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên. Sau đó Mê-na-hem xuất quân từ Tiệt-sa đến tấn công thành Típ-sắc, cướp phá mọi người trong thành và những người sống trong địa hạt thuộc về thành ấy; bởi vì trước đó họ không chịu mở cửa thành tiếp rước vua, nên vua đánh phạt họ. Vua cho mổ bụng tất cả những phụ nữ mang thai trong thành. Năm thứ ba mươi chín triều vua A-xa-ria của Giu-đa, thì Mê-na-hem, con trai Ga-đi, lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên. Vua trị vì mười năm tại Sa-ma-ri. Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA. Vua chẳng từ bỏ những tội lỗi của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, là những tội lỗi mà vua ấy đã gây cho Y-sơ-ra-ên phạm tội. Phun, vua A-si-ri, xâm lăng xứ. Mê-na-hem nộp cho Phun 30.000kg bạc, để vua ấy giúp vua được tiếp tục giữ vững vương quyền. Mê-na-hem thu góp số bạc ấy nơi dân Y-sơ-ra-ên, tức nơi những người giàu có. Mỗi người phải đóng góp 600gm bạc, để nộp cho vua A-si-ri. Vậy vua A-si-ri lui quân về và không ở lại trong xứ. Những việc khác của Mê-na-hem, tất cả những việc vua làm, há không được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên sao? Mê-na-hem an giấc với các tổ phụ mình, và Phê-ca-hia, con trai vua, lên ngôi kế vị. Năm thứ năm mươi triều vua A-xa-ria của Giu-đa, thì Phê-ca-hia, con trai Mê-na-hem, lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên. Vua trị vì tại Sa-ma-ri được hai năm. Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA. Vua chẳng từ bỏ những tội lỗi của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, là những tội lỗi mà vua ấy đã gây cho Y-sơ-ra-ên phạm tội. Phê-ca, con trai Rê-ma-lia, Tổng Tư Lệnh quân đội của vua, lập mưu phản lại vua. Ông ấy dẫn năm mươi người quê ở Ga-la-át tấn công vào chiến lũy của hoàng cung tại Sa-ma-ri, giết chết vua cùng với Ạt-gốp và A-ri-ê. Rồi ông ta lên ngôi thế vị. Những việc khác của Phê-ca-hia, tất cả những việc vua làm, đều được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên. Năm thứ năm mươi hai triều vua A-xa-ria của Giu-đa, thì Phê-ca, con trai Rê-ma-lia, lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên. Vua trị vì tại Sa-ma-ri được hai mươi năm. Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA. Vua chẳng từ bỏ những tội lỗi của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, là những tội lỗi mà vua ấy đã gây cho Y-sơ-ra-ên phạm tội. Trong thời vua Phê-ca trị vì trên Y-sơ-ra-ên, Tiếc-lác Phi-lê-se, vua A-si-ri, đến và chiếm lấy I-giôn, A-bên Bết Ma-ca, Gia-nô-a, Kê-đe, Hát-so, Ga-la-át, và Ga-li-lê, cùng cả địa phận của Nép-ta-li. Vua ấy bắt dân những nơi đó dẫn về A-si-ri lưu đày. Bấy giờ, Ô-sê, con trai Ê-la, lập mưu phản nghịch Phê-ca, con trai Rê-ma-lia. Ông ấy tấn công và giết hạ vua, rồi lên ngôi thế vị, nhằm vào năm thứ hai mươi triều vua Giô-tham, con trai Ô-xia. Những việc khác của Phê-ca, tất cả những việc vua làm, đều được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên. Năm thứ hai triều vua Phê-ca, con trai Rê-ma-lia, của Y-sơ-ra-ên, thì Giô-tham, con trai Ô-xia, lên ngôi làm vua Giu-đa. Vua được hai mươi lăm tuổi khi lên ngôi làm vua. Vua trị vì mười sáu năm tại Giê-ru-sa-lem. Thân mẫu của vua là bà Giê-ru-sa, con gái của Xa-đốc. Vua làm điều lành trước mặt CHÚA, như thân phụ của vua là vua Ô-xia đã làm. Dầu vậy, những tế đàn trên các nơi cao vẫn chưa được trừ bỏ. Dân chúng vẫn còn đến dâng tế lễ và dâng hương trên những tế đàn đó. Vua xây một cổng thượng cho đền thờ CHÚA. Những việc khác của Giô-tham, tất cả những việc vua làm, há không được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? Trong thời ấy, CHÚA cho vua Rê-xin của A-ram, và vua Phê-ca, con trai Rê-ma-lia, đến tấn công Giu-đa. Giô-tham an giấc cùng các tổ phụ mình và được chôn bên cạnh các tổ tiên vua trong thành Đa-vít, tổ phụ của vua. A-cha, con trai vua, lên ngôi kế vị. Năm thứ mười bảy triều vua Phê-ca, con trai Rê-ma-lia, thì A-cha, con trai Giô-tham, lên ngôi làm vua. A-cha được hai mươi tuổi khi bắt đầu trị vì. Vua trị vì mười sáu năm tại Giê-ru-sa-lem. Vua làm điều không đúng trước mặt CHÚA, là Đức Chúa Trời của vua, không như tổ phụ vua là Đa-vít đã làm, nhưng vua đi theo đường lối của các vua Y-sơ-ra-ên. Thậm chí vua còn thiêu dâng con trai mình qua lửa, theo tập tục gớm ghiếc của các dân mà Chúa đã đuổi ra trước mặt dân Y-sơ-ra-ên. Vua dâng tế lễ và dâng hương trên các tế đàn của những nơi cao, trên núi, và dưới những cây xanh. Bấy giờ vua Rê-xin của A-ram, và vua Phê-ca, con trai Rê-ma-lia, của Y-sơ-ra-ên, kéo đến gây chiến với Giê-ru-sa-lem. Họ bao vây A-cha, nhưng không thắng được vua. Lúc đó, vua của Ê-đôm lấy lại Ê-la cho Ê-đôm và đuổi người Giu-đa ở Ê-la đi, rồi đem người Ê-đôm đến chiếm ngụ, và họ cứ ở đó cho đến ngày nay. A-cha sai các sứ giả đến nói với Tiếc-lác Phi-lê-se, vua của A-si-ri rằng: “Tôi là tôi tớ vua và là con trai vua. Xin hãy đến giải cứu tôi khỏi tay của vua A-ram và vua Y-sơ-ra-ên, vì họ đang vây hãm tôi.” A-cha lấy những vật dụng bằng bạc bằng vàng trong đền thờ CHÚA và trong các kho tàng của hoàng cung mà làm quà biếu cho vua A-si-ri. Vua A-si-ri nghe theo lời yêu cầu của vua A-cha và dẫn quân tiến đánh Đa-mách, chiếm lấy thành, bắt dân chúng ở đó đem về Kia để lưu đày, và giết chết vua Rê-xin. Khi vua A-cha đến Đa-mách để hội kiến với vua Tiếc-lác Phi-lê-se của A-si-ri, thì vua có thấy một bàn thờ ở Đa-mách, vua A-cha bèn gởi về cho thầy tế lễ U-ri-a một mô hình của bàn thờ đó, với kiểu mẫu và kích thước giống hệt như bàn thờ vua đã thấy. Thầy tế lễ U-ri-a bèn làm một bàn thờ đúng y như kiểu mẫu mà vua A-cha ở Sa-ma-ri gởi về. Thầy tế lễ U-ri-a thực hiện xong việc đó trước khi vua A-cha ở Đa-mách trở về. Khi vua A-cha ở Đa-mách trở về, vua đến xem bàn thờ ấy. Vua đến gần bàn thờ mới, bước lên, dâng tế lễ thiêu, tế lễ chay, đổ lễ quán xuống, và rảy huyết các con sinh tế thuộc tế lễ cầu an nơi bàn thờ nầy. Vua cho di chuyển bàn thờ bằng đồng vốn ở trước đền thờ, tức là ở khoảng giữa bàn thờ vua mới làm và đền thờ CHÚA, mà đem đặt ở phía bắc của bàn thờ vua mới làm. Vua A-cha truyền cho thầy tế lễ U-ri-a rằng: “Từ nay hãy dâng tế lễ thiêu buổi sáng và tế lễ chay buổi chiều, cùng với tế lễ thiêu của vua, tế lễ chay của vua, tế lễ thiêu của toàn dân trong nước, của lễ chay của họ, của lễ quán của họ, và hãy rảy huyết của các sinh tế dâng làm tế lễ thiêu trên bàn thờ lớn nầy; còn bàn thờ bằng đồng thì chỉ để dành cho ta cầu vấn mà thôi.” Thầy tế lễ U-ri-a làm đúng theo mọi điều vua A-cha đã truyền cho ông. Kế đó vua A-cha cho gỡ bỏ những chiếc xe bằng đồng và những bồn nước trên các xe đó xuống. Vua cũng lấy bể nước đặt trên lưng các con bò bằng đồng mà đem đặt trên một bệ bằng đá. Vua cũng dẹp bỏ lều che nắng dùng trong ngày Sa-bát nơi sân đền thờ, còn cổng vào dành đặt biệt cho vua ở phía trước đền thờ CHÚA, vua cũng dẹp bỏ. Vua làm tất cả những việc ấy để làm vừa lòng vua A-si-ri. Những việc khác vua A-cha đã làm há không được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? A-cha an giấc với các tổ phụ mình và được chôn bên cạnh họ trong thành Đa-vít. Ê-xê-chia, con trai vua, lên ngôi kế vị. Năm thứ mười hai triều vua A-cha của Giu-đa thì Ô-sê, con trai Ê-la, lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri. Vua trị vì được chín năm. Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA, nhưng không như các vua Y-sơ-ra-ên trước vua. Vua Sanh-ma-na-se của A-si-ri kéo đến đánh vua. Vua Ô-sê trở thành một chư hầu của vua ấy và phải nộp triều cống cho vua ấy. Nhưng vua của A-si-ri thấy vua Ô-sê có ý làm phản, vì vua Ô-sê có sai sứ giả đến cầu vua Sô của Ai-cập giúp đỡ. Vua Ô-sê cũng không nộp triều cống hằng năm cho vua A-si-ri như thường làm nữa. Vì thế vua của A-si-ri đến bắt vua Ô-sê và tống giam vào ngục. Bấy giờ vua A-si-ri xâm chiếm xứ và tiến đánh Sa-ma-ri. Vua ấy bao vây thành Sa-ma-ri ba năm. Năm thứ chín triều vua Ô-sê, vua A-si-ri chiếm được thành Sa-ma-ri. Vua ấy bắt dân Y-sơ-ra-ên đem về A-si-ri. Vua cho họ định cư tại Cha-la, bên bờ sông Cha-bo, thuộc xứ Gô-sen, và trong các thành của xứ Mê-đi. Việc nầy xảy ra vì dân Y-sơ-ra-ên đã phạm tội cùng CHÚA, là Đức Chúa Trời của họ, là Đấng đã đem họ ra khỏi xứ Ai-cập, tức ra khỏi tay của Pha-ra-ôn, vua Ai-cập. Họ đã thờ phượng những thần khác, và sống theo các tập tục của những dân mà CHÚA đã đuổi đi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên, và vì họ theo các thói tục mà các vua Y-sơ-ra-ên đã bày ra. Dân Y-sơ-ra-ên đã lén lút làm những việc không đẹp lòng CHÚA, là Đức Chúa Trời của họ. Họ đã xây dựng cho họ những tế đàn trên các nơi cao trong các thành của họ, từ những thành rất nhỏ cho đến những thành lớn và kiên cố. Họ dựng cho mình những tượng thờ bằng đá và những trụ thờ nữ thần A-sê-ra trên các núi đồi và dưới những cây xanh. Họ dâng tế lễ trên các tế đàn ở các nơi cao, giống như các dân tộc mà CHÚA đã đuổi đi trước mặt họ. Họ làm những điều tội lỗi, chọc giận CHÚA. Họ thờ các hình tượng mà Chúa đã bảo: “Các ngươi chớ thờ chúng.” Dầu vậy CHÚA đã sai các đấng tiên tri và các nhà tiên kiến đến cảnh cáo Y-sơ-ra-ên và Giu-đa rằng: “Hãy quay khỏi những đường lối tội lỗi của các ngươi, và hãy tuân giữ những điều răn và mạng lịnh Ta, tức là tất cả Kinh Luật Ta đã truyền cho tổ phụ các ngươi và mọi điều Ta đã sai các tôi tớ Ta là các tiên tri rao bảo cho các ngươi.” Nhưng họ không chịu nghe và cứ ương ngạnh, giống như tổ phụ của họ đã làm, ấy là những người không tin vào CHÚA là Đức Chúa Trời của họ. Họ khinh bỉ các mạng lịnh Ngài, họ khinh bỉ các giao ước Ngài đã lập với tổ phụ họ, và họ cũng khinh bỉ những lời cảnh cáo mà Ngài đã sai các sứ giả Ngài đến truyền cho họ. Họ đi theo những hình tượng giả dối và trở thành những kẻ giả dối. Họ bắt chước các dân tộc sống chung quanh họ, đó là những dân tộc mà Chúa đã căn dặn họ không được làm như các dân tộc ấy. Họ loại bỏ CHÚA là Đức Chúa Trời của họ mà đúc cho mình tượng hai con bò con, rồi dựng những trụ thờ nữ thần A-sê-ra lên mà thờ lạy. Họ thờ phượng các thiên binh trên trời, và thờ lạy thần Ba-anh. Họ thiêu sống con trai và con gái họ trong lửa. Họ tin theo các phù thủy và xem bói. Họ bán chính mình để làm những tội lỗi gớm ghiếc trước mặt CHÚA, và chọc giận Ngài. Vì thế CHÚA rất giận dân Y-sơ-ra-ên và Ngài đã cất bỏ họ khỏi trước mặt Ngài, chỉ còn lại chi tộc Giu-đa mà thôi. Nhưng dân Giu-đa cũng không vâng giữ các điều răn của CHÚA là Đức Chúa Trời của họ, mà lại đi theo các thói tục của dân Y-sơ-ra-ên đã bày ra. Vì thế CHÚA đã từ bỏ toàn thể dòng dõi của Y-sơ-ra-ên. Ngài phạt họ và phó họ vào tay những kẻ cướp đoạt, cho đến khi Ngài loại hẳn họ ra khỏi trước mặt Ngài. Khi Ngài tách rời dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi nhà Đa-vít, họ lập Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, làm vua. Giê-rô-bô-am đã lôi kéo Y-sơ-ra-ên xa cách CHÚA và xui cho họ phạm tội trọng. Dân Y-sơ-ra-ên cứ tiếp tục đi theo những tội lỗi mà Giê-rô-bô-am đã phạm. Họ không chịu từ bỏ những tội lỗi ấy, cho đến khi CHÚA cất bỏ họ khỏi trước mặt Ngài, như Ngài đã bảo trước qua các tiên tri là các tôi tớ Ngài. Vì thế, Y-sơ-ra-ên bị lưu đày khỏi xứ sở mình mà đến A-si-ri cho đến ngày nay. Vua A-si-ri bắt dân từ Ba-by-lôn, Cư-tha, A-va, Ha-mát, và Sê-phạt-va-im đến định cư trong các thành của Sa-ma-ri thế chỗ dân Y-sơ-ra-ên. Các dân ấy đến chiếm lấy Sa-ma-ri và định cư trong các thành của xứ ấy. Khi mới đến định cư tại đó, họ không tôn thờ CHÚA, nên Chúa đã sai các sư tử đến vồ chết một số người của họ. Người ta bèn tâu với vua A-si-ri rằng: “Các dân tộc mà vua đã trục xuất và đày đến định cư trong các thành ở Sa-ma-ri không biết luật lệ phải tôn thờ vị thần của xứ, nên vị thần ấy đã sai các sư tử đến vồ chết một số người. Đó là vì họ không biết tôn thờ vị thần của xứ ấy vậy.” Vua A-si-ri bèn truyền lịnh: “Các ngươi hãy chọn một người trong số những thầy tế lễ đã bị bắt qua đây. Hãy đưa người ấy trở về xứ và sống tại đó, để người ấy dạy cho chúng biết thờ phượng vị thần của xứ.” Vậy một thầy tế lễ trong số những thầy tế lễ bị bắt đi lưu đày khỏi Sa-ma-ri được cho trở về và ngụ tại Bê-tên. Người ấy dạy cho họ biết phải thờ phượng CHÚA như thể nào. Nhưng mỗi dân tộc đều dựng thần riêng của họ, đem để vào trong những trang thờ, đặt trong những đền miễu trên các nơi cao mà người Sa-ma-ri đã xây. Dân tộc nào cũng lập thần riêng cho mình trong các thành họ ở. Dân Ba-by-lôn thì dựng tượng thần Su-cốt Bê-nốt, dân Cút thì lập tượng thần Nẹt-ganh, dân Ha-mát thì làm tượng thần A-si-ma, dân A-vim thì làm tượng thần Níp-ca và Tạt-tác, dân Sê-phạt-va-im thì thiêu con thơ mình trong lửa cho thần A-tra-mê-léc và thần A-na-mê-léc, tức là các thần của dân Sê-phạt-va-im. Các dân tộc ấy cũng thờ phượng CHÚA và tự chọn trong vòng họ đủ hạng người mà lập làm những thầy cúng cho các đền miếu trên những nơi cao; những thầy cúng ấy vì họ mà dâng các sinh tế trên các tế đàn ở những nơi cao. Như vậy các dân tộc ấy thờ phượng CHÚA nhưng cũng thờ phượng các thần của họ, cứ giữ theo phong tục của dân tộc họ đã có, trước khi họ bị đem đi lưu đày. Cho đến ngày nay họ vẫn tiếp tục theo các phong tục ngày trước của họ. Dân Y-sơ-ra-ên không thờ phượng CHÚA, và cũng không tuân giữ các quy tắc, mạng lịnh, luật lệ hay điều răn mà Chúa đã truyền cho các con cháu Gia-cốp, là người Ngài đặt tên là Y-sơ-ra-ên. CHÚA đã lập giao ước với họ và truyền cho họ rằng: “Các ngươi chớ thờ phượng các thần khác, chớ quỳ lạy chúng, chớ phục vụ chúng, và cũng chớ dâng của tế lễ cho chúng. Nhưng các ngươi chỉ hãy thờ phượng CHÚA, là Đấng đã dùng cánh tay quyền năng Ngài giang ra mà đem các ngươi ra khỏi xứ Ai-cập. Các ngươi chỉ quỳ lạy một mình Ngài và chỉ dâng của tế lễ cho Ngài. Những quy luật, mạng lịnh, luật lệ và điều răn mà Ngài đã viết ra cho các ngươi, thì các ngươi phải cẩn thận tuân giữ. Các ngươi không được thờ phượng các thần khác. Các ngươi không được quên giao ước mà Ta đã lập với các ngươi. Các ngươi không được thờ phượng các thần khác, nhưng các ngươi chỉ hãy thờ phượng CHÚA là Đức Chúa Trời của các ngươi. Ngài sẽ giải cứu các ngươi khỏi tay mọi kẻ thù của các ngươi.” Những dân tộc mới đến cũng không nghe, họ cứ tiếp tục thờ lạy theo phong tục trước kia của họ. Vậy các dân tộc đó vừa thờ phượng CHÚA, nhưng cũng vừa thờ phượng các thần do họ đúc chạm tạo nên. Rồi con cháu họ và con cháu của con cháu họ cũng tiếp tục theo truyền thống như cha ông họ đã làm cho đến ngày nay. Năm thứ ba triều vua Ô-sê, con trai Ê-la, của Y-sơ-ra-ên, thì Ê-xê-chia, con trai vua A-cha của Giu-đa lên ngôi làm vua. Vua được hai mươi lăm tuổi khi bắt đầu trị vì. Vua trị vì hai mươi chín năm tại Giê-ru-sa-lem. Thân mẫu của vua là bà A-bi, con gái của Xa-cha-ri. Vua làm điều ngay lành trước mặt CHÚA như tổ phụ Đa-vít của vua đã làm. Vua dẹp bỏ những nơi cao, đập vỡ các tượng thờ bằng đá, và đốn hạ những trụ thờ nữ thần A-sê-ra. Vua đập nát con rắn bằng đồng mà Môi-se đã làm. Vì cho đến lúc đó dân Y-sơ-ra-ên vẫn còn dâng hương cho con rắn bằng đồng ấy. Người ta gọi nó là Nê-hu-tan. Vua tin cậy CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Trong số những vị vua của Giu-đa sau vua thì không ai được như thế, còn trong số các vị vua trước vua thì cũng chẳng ai được như vậy. Vì vua bám chặt lấy CHÚA. Vua chẳng rời bỏ Ngài, nhưng gìn giữ những điều răn mà CHÚA đã truyền cho Môi-se. Chúa ở cùng vua; vua làm điều gì cũng được thành công. Vua nổi dậy chống lại vua A-si-ri và không chịu thần phục vua ấy nữa. Vua tiến đánh dân Phi-li-tin đến tận Ga-xa và những vùng phụ cận, từ tháp canh cho đến thành trì kiên cố. Năm thứ tư triều vua Ê-xê-chia, tức là năm thứ bảy triều vua Ô-sê, con trai Ê-la, của Y-sơ-ra-ên, vua Sanh-ma-na-se của A-si-ri đến tấn công Sa-ma-ri và bao vây thành ấy. Cuối ba năm, vua ấy chiếm được thành. Năm thứ sáu triều vua Ê-xê-chia, tức là năm thứ chín triều vua Ô-sê của Y-sơ-ra-ên, Sa-ma-ri bị thất thủ. Vua A-si-ri bắt dân Y-sơ-ra-ên đem lưu đày ở A-si-ri, cho họ định cư ở Ha-la bên bờ sông Cha-bo, thuộc xứ Gô-sen, và trong các thành của xứ Mê-đi. Bởi vì họ không vâng theo tiếng CHÚA là Đức Chúa Trời của họ, nhưng vi phạm giao ước Ngài, tức là tất cả những điều Môi-se, tôi tớ của Chúa, đã truyền ban. Họ không nghe và cũng chẳng thi hành. Năm thứ mười bốn triều vua Ê-xê-chia, vua San-chê-ríp của A-si-ri, đến tấn công các thành kiên cố của Giu-đa và chiếm lấy. Vua Ê-xê-chia của Giu-đa sai sứ đến gặp vua của A-si-ri tại La-chi và tâu rằng: “Tôi có lỗi. Xin vua hãy lui binh. Vua muốn điều chi, tôi cũng chịu cả.” Vua của A-si-ri đòi vua Ê-xê-chia của Giu-đa phải nộp chín ngàn ký bạc và chín trăm ký vàng. Vua Ê-xê-chia lấy tất cả bạc trong đền thờ CHÚA và trong các kho tàng của hoàng cung mà nộp cho vua ấy. Bấy giờ vua Ê-xê-chia phải gỡ vàng bọc trên những cánh cửa của đền thờ CHÚA, và vàng mà vua đã cẩn trên những khung cửa ấy, để đem nộp cho vua A-si-ri. Nhưng vua A-si-ri lại sai Tạt-tan, Ráp-sa-ri, và Ráp-sa-kê, cùng một đạo binh rất lớn từ La-chi đến với Ê-xê-chia tại Giê-ru-sa-lem. Họ tiến lên và đến Giê-ru-sa-lem. Khi tiến gần, họ đến và dừng lại tại đầu kênh dẫn nước của hồ trên, tức là chỗ con đường dẫn đến cánh đồng của thợ nện. Rồi họ yêu cầu được hội kiến với vua. Ê-li-a-kim con trai Hinh-kia, quan tổng quản hoàng cung, Sép-na, quan bí thư, và Giô-a con trai A-sáp, quan quản lý văn khố, ra gặp họ. Ráp-sa-kê nói với họ: “Hãy về bảo Ê-xê-chia: Đại đế ta là vua của A-si-ri có phán như vầy: Ngươi dựa vào gì mà tự tin như vậy? Bộ ngươi tưởng rằng trong chiến tranh mà lời nói suông có thể thay thế được mưu lược và sức mạnh sao? Ngươi dựa vào gì mà ngươi dám chống lại ta? Kìa, ngày nay ngươi dựa vào Ai-cập chăng. Đó là một cây sậy gãy. Ai dựa vào nó ắt sẽ bị nó đâm thủng bàn tay. Bất cứ kẻ nào dựa vào Pha-ra-ôn, vua của Ai-cập, sẽ bị như vậy. Nhưng nếu ngươi bảo ta rằng: ‘Chúng tôi tin cậy vào CHÚA là Đức Chúa Trời của chúng tôi,’ thì há chẳng phải Ê-xê-chia đã dẹp bỏ các tế đàn của Ngài trên các nơi cao, rồi bảo dân Giu-đa và dân Giê-ru-sa-lem rằng: ‘Các ngươi chỉ thờ phượng Ngài ở bàn thờ tại Giê-ru-sa-lem mà thôi’ sao? Bây giờ hãy đánh cuộc với chủ ta là vua A-si-ri đi. Ta sẽ cho các ngươi hai ngàn con ngựa, nếu các ngươi có đủ kỵ binh để cỡi. Liệu các ngươi nhờ cậy vào các xe chiến mã và các kỵ binh của Ai-cập mà có thể chống cự nổi một tiểu tướng trong đám đầy tớ của chủ ta chăng? Hơn nữa, há không phải là ý Chúa mà ta đến đây để hủy diệt xứ nầy sao? Chúa bảo ta rằng: Hãy lên đánh xứ nầy và tiêu diệt nó đi.” Bấy giờ Ê-li-a-kim con trai Hinh-kia, với Sép-na và Giô-a nói với Ráp-sa-kê rằng: “Xin hãy nói với các tôi tớ ông bằng tiếng A-ram, vì chúng tôi hiểu tiếng ấy. Xin đừng nói với chúng tôi bằng tiếng Giu-đa, kẻo dân trên tường thành nghe được.” Nhưng Ráp-sa-kê đáp lại họ: “Há chủ ta chỉ sai ta đến nói những lời nầy với chủ các ngươi và với các ngươi, mà không nói với những người đang ngồi trên tường thành kia, tức những người đang ăn phân và uống nước tiểu của mình, nữa sao?” Đoạn Ráp-sa-kê đứng dậy và nói lớn bằng tiếng Giu-đa rằng: “Hãy nghe lời của đại đế ta là vua A-si-ri. Vua phán như vầy: Chớ để Ê-xê-chia lừa gạt các ngươi, vì ông ấy không thể giải thoát các ngươi khỏi tay ta được đâu. Chớ để Ê-xê-chia xúi giục các ngươi nương cậy nơi CHÚA, mà rằng: ‘Chúa sẽ chắc chắn giải cứu chúng ta, và thành nầy sẽ không bị phó vào tay vua A-si-ri đâu.’ Chớ nghe theo lời của Ê-xê-chia, vì vua của A-si-ri có phán như vầy: Hãy làm hòa với ta và ra đây với ta, thì mỗi người trong các ngươi sẽ được ăn hoa quả của vườn nho và vườn vả mình, sẽ được uống nước của giếng mình, cho đến khi ta đến đem các ngươi qua một xứ giống như xứ của các ngươi, một xứ có lúa và rượu, một xứ có bánh và vườn nho, một xứ có dầu ô-liu và mật, để các ngươi sẽ sống và không chết. Chớ để Ê-xê-chia dẫn dụ các ngươi đi sai lạc khi ông ấy nói rằng: ‘CHÚA sẽ giải cứu chúng ta.’ Có thần của dân tộc nào đã giải cứu xứ họ thoát khỏi tay của vua A-si-ri chưa? Các thần của dân Ha-mát và dân Ạt-bát ở đâu? Các thần của dân Sê-phạt-va-im, dân Hê-na, và dân Y-va ở đâu? Các thần ấy có giải cứu Sa-ma-ri thoát khỏi tay ta chăng? Trong tất cả các thần của các nước, có thần nào đã giải cứu nước họ thoát khỏi tay của ta chăng? Thế thì CHÚA há có thể giải cứu Giê-ru-sa-lem thoát khỏi tay của ta sao?” Nhưng dân chúng đều im lặng, chẳng ai đáp lại một lời, vì vua có truyền rằng: “Đừng trả lời hắn.” Bấy giờ Ê-li-a-kim con trai Hinh-kia, quan tổng quản hoàng cung, Sép-na, quan bí thư, và Giô-a con trai A-sáp, quan quản lý văn khố, xé rách áo mình, đến với vua Ê-xê-chia tâu trình những lời Ráp-sa-kê đã nói. Khi vua Ê-xê-chia nghe những lời đó, vua xé áo mình, mặc vải gai, rồi đi vào đền thờ CHÚA. Vua sai Ê-li-a-kim, quan tổng quản hoàng cung, Sép-na, quan bí thư, và những thầy tế lễ trưởng thượng, mặc vải gai mà đến gặp tiên tri I-sa, con trai A-mốt. Họ nói với ông: “Vua Ê-xê-chia có nói như vầy: Ngày nay là ngày khốn quẫn, ngày bị trách phạt, và ngày tủi nhục. Các thai nhi đã đến ngày chào đời mà không có sức để sanh ra. Có lẽ CHÚA là Đức Chúa Trời của ông đã nghe thấu tất cả những lời của Ráp-sa-kê, là kẻ được vua A-si-ri, chủ hắn, sai đến để phỉ báng Đức Chúa Trời hằng sống; ước gì CHÚA là Đức Chúa Trời của ông sẽ quở phạt những kẻ nói những lời Ngài đã nghe. Vậy xin ông hãy dâng lời cầu nguyện cho những người còn sót lại.” Khi các tôi tớ của vua Ê-xê-chia đến với I-sa, Tiên tri I-sa nói với họ: “Hãy về nói với chủ các ngươi: ‘CHÚA phán như vầy: Đừng sợ vì những lời các ngươi đã nghe, tức những lời các tôi tớ của vua A-si-ri đã xúc phạm đến Ta. Chính Ta sẽ đặt một thần linh trong nó, để nó sẽ nghe tiếng đồn mà rút về xứ mình. Ta sẽ làm cho nó bị giết chết bằng gươm trong xứ của nó.’” Ráp-sa-kê rút về và thấy vua của A-si-ri đang tấn công Líp-na, vì ông có nhận được tin rằng vua của ông đã rời khỏi La-chi. Khi vua của A-si-ri nghe được tin báo về vua Tiệt-ha-ca của Ê-thi-ô-bi: “Kìa, vua ấy đang kéo quân ra chống lại vua,” thì vua sai các sứ giả đến nói với Ê-xê-chia rằng: “Hãy nói với Ê-xê-chia, vua của Giu-đa như vầy: Chớ để Đức Chúa Trời của ngươi là Đấng ngươi nhờ cậy lừa gạt ngươi khi nói rằng Giê-ru-sa-lem sẽ không rơi vào tay vua A-si-ri đâu. Kìa, hãy xem những gì vua A-si-ri đã làm cho mọi nước: tiêu diệt tất cả. Còn ngươi, ngươi sẽ thoát được sao? Những thần của các dân mà tổ tiên ta đã tiêu diệt như dân Gô-dan, Ga-ran, Rê-xép, và dân Ê-đen ở Tê-la-sa có giải cứu được họ chăng? Vua của Ha-mát, vua của Ạt-bát, vua của thành Sê-phạt-va-im, vua của Hê-na, và vua của I-va bây giờ ở đâu?” Khi Ê-xê-chia nhận được thư từ tay các sứ giả thì đọc, rồi vua đi lên đền thờ CHÚA và mở bức thư ấy ra trước mặt Chúa. Ê-xê-chia cầu nguyện với CHÚA rằng: “Lạy CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra- ên, Đấng đang ngự trên các chê-ru-bim. Chỉ một mình Ngài là Đức Chúa Trời của tất cả các nước trên thế gian. Chính Ngài đã dựng nên trời và đất. Xin nghiêng tai và nghe, Chúa ôi. Xin mở mắt và nhìn, Chúa ôi. Xin nghe những lời của San-chê-ríp đã gởi đến để nhục mạ Đức Chúa Trời hằng sống. Lạy CHÚA, thật sự là San-chê-ríp, vua của A-si-ri có hủy diệt các nước và xứ sở của họ, có ném các thần tượng của họ vô lửa, vì chúng chẳng phải là thần, mà chỉ là sản phẩm của bàn tay loài người, chỉ là gỗ và đá, cho nên chúng đã bị hủy diệt. Nhưng bây giờ, lạy CHÚA là Đức Chúa Trời của chúng con, con cầu xin Ngài, xin cứu chúng con khỏi tay của vua ấy, để mọi nước trên đất sẽ biết rằng chỉ một mình Ngài là Đức Chúa Trời mà thôi, Chúa ôi.” Bấy giờ I-sa, con trai A-mốt, gởi lời đến nói với vua Ê-xê-chia rằng: “CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Ta có nghe lời cầu nguyện của ngươi về việc vua San-chê-ríp của A-si-ri. Đây là lời của CHÚA đã phán về hắn:Trinh nữ ở Si-ôn khinh dể ngươi, nhạo báng ngươi;Sau lưng ngươi, con gái ở Giê-ru-sa-lem lắc đầu. Ngươi đã nhục mạ và khinh bỉ ai?Ngươi đã lên giọngVà giương mắt kiêu căng với ai?Ngươi nghịch cùng Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên ấy à! Ngươi đã dùng các sứ giả mà phỉ báng CHÚA,Ngươi nói rằng: ‘Với nhiều xe chiến mã,Ta đã lên những đỉnh cao các núi,Ta đã lên tận những nơi chót vót của núi Li-ban;Ta đã đốn hạ những cây bá hương cao nhất, và những cây tùng tốt nhất;Ta đã vào tới giữa rừng sâu, vào tận chốn rừng rậm thâm u. Ta đã đào giếng, và uống nước nơi xứ lạ.Ta đã làm khô cạn các sông suối ở Ai-cập bằng gót bàn chân ta.’ Ngươi há không nghe rằng Ta đã định từ lâu rồi sao?Những gì Ta đã định từ thời thái cổ, giờ đây Ta cho thực hiện,Đó là ngươi phải biến những thành trì kiên cốThành những đống vụn hoang tàn. Dân cư ở những nơi đó đều yếu nhược,Khiếp sợ và bối rối;Họ trở nên như cây cỏ ngoài đồng,Như cỏ non mới mọc,Như cỏ mọc trên mái nhà,Héo khô trước khi chưa kịp lớn. Nhưng Ta biết ngươi,Ta biết lúc ngươi đứng dậy và khi ngươi ngồi xuống,Ta biết lúc ngươi đi ra và khi ngươi đi vào,Ta cũng biết ngươi lúc ngươi nổi giận nghịch lại Ta. Vì ngươi đã nổi giận nghịch lại Ta,Những lời ngạo mạn của ngươi đã thấu đến tai Ta,Nên Ta sẽ xỏ vòng vào lỗ mũi ngươi,Tra hàm thiếc vào miệng ngươi;Ta sẽ bắt ngươi phải trở vềTrên con đường mà ngươi đã ra đi. Hỡi Ê-xê-chia, đây sẽ là một dấu hiệu cho ngươi:Năm nay ngươi sẽ ăn hoa màu tự mọc,Năm thứ hai ngươi sẽ ăn những gì mọc lên từ các hoa màu ấy,Năm thứ ba ngươi sẽ gieo, gặt,Trồng vườn nho và ăn trái. Những gì còn sót lại của Giu-đaSẽ đâm rễ và đơm bông kết trái; Vì từ Giê-ru-sa-lem những người sống sót sẽ tràn ra,Từ núi Si-ôn sẽ tuôn ra một dòng người thoát nạn.Lòng nhiệt thành của Chúa Vạn Quân sẽ làm như vậy.” Vậy nên, Chúa phán về vua của A-si-ri như vầy:“Nó sẽ không vào được thành nầy,Nó sẽ không bắn một mũi tên vào thành,Nó sẽ không núp sau thuẫn khiên mà xông tới,Nó sẽ không đắp lũy tấn công thành. Nó đã dùng đường nào để đi tới, thì cũng sẽ dùng đường đó mà trở về;Nó sẽ không vào được thành nầy, CHÚA phán vậy. Vì Ta sẽ bảo vệ thành và cứu thành nầy,Vì cớ Ta và vì Đa-vít, tôi tớ Ta.” Ngay trong đêm đó, một thiên sứ của CHÚA đi ra và giết chết một trăm tám mươi lăm ngàn người trong trại quân A-si-ri. Đến sáng, người ta thức dậy thì chỉ thấy toàn là xác chết. Vua San-chê-ríp của A-si-ri rút lui về và ở tại Ni-ni-ve. Khi vua đang quỳ lạy trước thần của mình trong đền thờ của Nít-róc, thì hai con trai của vua là A-tra-mê-léc và Sa-rết-se dùng gươm đâm vua chết, rồi bỏ trốn sang xứ A-ra-rát. Con trai vua là Ê-sa-ha-đôn lên ngôi kế vị. Trong những ngày ấy, Ê-xê-chia bị bịnh và gần chết. Tiên tri I-sa, con trai A-mốt, đến thăm vua và nói: “CHÚA phán rằng: Hãy sắp đặt việc nhà của ngươi, vì ngươi sẽ qua đời. Ngươi sẽ không qua khỏi cơn bịnh nầy đâu.” Nhưng Ê-xê-chia xây mặt vào tường và cầu nguyện với CHÚA: “Lạy CHÚA, con cầu khẩn Ngài, xin nhớ đến con, thể nào con đã bước đi cách trung tín và hết lòng trước mặt Ngài, và con đã làm những gì đẹp lòng Ngài.” Rồi Ê-xê-chia khóc lóc thảm thiết. Khi tiên tri I-sa ra đi chưa tới giữa sân thì có lời của CHÚA đến với ông: “Hãy trở lại và nói với Ê-xê-chia, thủ lãnh của dân Ta rằng: CHÚA là Đức Chúa Trời của Đa-vít, tổ phụ ngươi, phán rằng: Ta có nghe lời cầu nguyện ngươi. Ta có thấy nước mắt ngươi. Quả thật, Ta sẽ chữa lành ngươi. Ngày thứ ba ngươi sẽ đi lên đền thờ CHÚA được. Ta sẽ cho ngươi sống thêm mười lăm năm nữa. Ta sẽ giải cứu ngươi và thành nầy khỏi tay vua A-si-ri. Ta sẽ bảo vệ thành nầy vì cớ Ta và vì Đa-vít, tôi tớ Ta.” Rồi tiên tri I-sa bảo: “Hãy đem cho tôi một cái bánh làm bằng trái vả. Hãy đắp nó lên chỗ ung độc, thì vua sẽ được lành.” Ê-xê-chia nói với tiên tri I-sa: “Nhờ dấu hiệu nào mà ta biết rằng CHÚA sẽ chữa lành ta và ngày thứ ba ta có thể đi lên đền thờ CHÚA được?” Tiên tri I-sa đáp: “Đây là dấu hiệu của CHÚA ban cho vua, rằng Chúa sẽ làm điều Ngài đã hứa. Vua muốn thấy bóng mặt trời ngã tới thêm mười độ hay ngã lui đi mười độ?” Ê-xê-chia đáp: “Bóng ngã tới thêm mười độ là chuyện thường; vậy xin hãy cho bóng ngã lui đi mười độ.” Tiên tri I-sa kêu cầu với CHÚA, và Ngài khiến bóng mặt trời chiếu trên các bậc thang vua A-cha đã xây ngã lui đi mười độ. Khi ấy, vua Mê-rô-đác Ba-la-đan, con trai của Ba-la-đan, ở Ba-by-lôn có sai các sứ giả đem thư và quà đến biếu Ê-xê-chia, vì vua có nghe Ê-xê-chia bị bịnh. Sau khi Ê-xê-chia nghe các sứ giả tâu xong thì dẫn họ đi xem tất cả các kho tàng của mình, nào bạc, nào vàng, nào các hương liệu, dầu quý, kho vũ khí, và tất cả những gì chất chứa trong các kho tàng của vua. Chẳng có vật gì trong cung điện hoặc trong vương quốc mình mà vua Ê-xê-chia không cho họ xem. Bấy giờ tiên tri I-sa đến gặp vua Ê-xê-chia và hỏi: “Những người ấy nói gì? Và họ từ đâu đến vậy?”Ê-xê-chia đáp: “Họ đến từ một nước rất xa, ở tận xứ Ba-by-lôn.” Tiên tri nói: “Họ đã xem thấy những gì trong cung điện của vua?”Ê-xê-chia đáp: “Họ đã xem thấy tất cả những gì trong cung điện ta. Chẳng có vật gì trong các kho tàng của ta mà ta không chỉ cho họ.” Bấy giờ tiên tri I-sa nói với vua Ê-xê-chia: “Xin vua hãy nghe lời của CHÚA: Trong những ngày đến, khi tất cả những gì có trong cung điện của vua, và tất cả những gì tổ tiên của vua đã tích trữ cho đến ngày nay, sẽ bị mang qua Ba-by-lôn; chẳng còn vật chi chừa lại. CHÚA phán vậy. Một số con cái của vua, do chính vua sinh ra, cũng sẽ bị bắt đi. Chúng sẽ trở thành những hoạn quan trong cung điện của vua Ba-by-lôn.” Ê-xê-chia bèn nói với tiên tri I-sa: “Lời của CHÚA do ông truyền quả là tốt vậy.” Vì vua nghĩ: “Không sao, miễn là trong đời ta có hòa bình và an ninh là được rồi.” Những việc khác của vua Ê-xê-chia, tất cả quyền thế của vua, thể nào vua xây hồ nước, làm ống dẫn nước, và dẫn nước vào kinh thành, há không được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? Ê-xê-chia an giấc với các tổ phụ mình, và Ma-na-se, con trai vua, lên ngôi kế vị. Ma-na-se được mười hai tuổi khi lên ngôi làm vua. Vua trị vì năm mươi lăm năm tại Giê-ru-sa-lem. Thân mẫu vua là bà Hép-si-ba. Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA, theo những cách gớm ghiếc của các dân mà Chúa đã đuổi đi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên. Vì vua cho xây lại các tế đàn trên những nơi cao mà Ê-xê-chia đã phá hủy. Vua cho dựng tượng thần Ba-anh, làm một trụ thờ nữ thần A-sê-ra, giống như vua A-háp của Y-sơ-ra-ên đã làm. Vua thờ lạy tất cả các thần linh trên không trung và phụng thờ chúng. Vua xây thêm nhiều bàn thờ trong đền thờ CHÚA, là nơi Chúa đã phán rằng: “Tại Giê-ru-sa-lem, Ta sẽ đặt danh Ta ở đó.” Vua xây cất bàn thờ cho các thần linh trên không trung trong hai sân của đền thờ CHÚA. Vua thiêu dâng con trai mình trong lửa. Vua thực hành phép phù thủy và bói khoa. Vua cậy vào đồng bóng và thầy bói. Vua làm nhiều điều tội lỗi trước mặt CHÚA, chọc giận Ngài. Vua tạc tượng nữ thần A-sê-ra rồi đem để trong đền thờ, là nơi CHÚA đã bảo Đa-vít và con trai người là Sa-lô-môn rằng: “Trong đền thờ nầy và trong Giê-ru-sa-lem là nơi Ta đã chọn trong các chi tộc Y-sơ-ra-ên để đặt danh Ta ngự đời đời. Nếu họ cẩn thận làm theo tất cả những gì Ta đã truyền cho họ, và vâng theo tất cả Kinh Luật mà Môi-se, tôi tớ Ta, đã truyền cho họ, thì Ta sẽ không để cho chân của dân Y-sơ-ra-ên phải lang thang ra khỏi xứ mà Ta đã ban cho tổ phụ họ nữa đâu.” Nhưng họ không chịu nghe. Ma-na-se đã dẫn dắt họ đi sai lạc, khiến họ phạm nhiều tội lỗi hơn tất cả các nước mà CHÚA đã hủy diệt trước mặt dân Y-sơ-ra-ên. Chúa đã dùng các tôi tớ Ngài là các tiên tri phán dạy họ: “Bởi vì vua Ma-na-se đã làm những việc gớm ghiếc nầy, vua đã làm những việc gian tà hơn tất cả người A-mô-rít đã làm trước vua, vua đã gây cho Y-sơ-ra-ên phạm tội thờ các hình tượng của vua làm ra. Vậy nên, CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: ‘Ta sẽ giáng những tai vạ xuống trên Giê-ru-sa-lem và Giu-đa đến nỗi ai nghe đến sẽ lùng bùng lỗ tai. Ta sẽ giăng trên Giê-ru-sa-lem thước dây đã đo Sa-ma-ri, và sẽ dùng dây dọi đã áp dụng cho nhà A-háp. Ta sẽ chùi sạch Giê-ru-sa-lem như người ta chùi một cái dĩa, chùi sạch nó rồi úp nó xuống. Ta sẽ vứt bỏ những gì còn sót lại của di sản Ta, mà phó chúng vào tay những kẻ thù của chúng. Chúng sẽ trở thành một miếng mồi, một chiến lợi phẩm cho những kẻ thù của chúng. Bởi vì chúng đã làm những việc tội lỗi trước mặt Ta, chọc cho Ta giận, kể từ khi tổ tiên chúng ra khỏi Ai-cập và mãi cho đến ngày nay.’” Ngoài ra, Ma-na-se còn làm đổ máu nhiều người vô tội, cho đến khi vua làm ngập Giê-ru-sa-lem với máu vô tội từ đầu nầy đến đầu kia, ngoài những tội vua đã làm để gây cho Giu-đa phạm tội, khiến cho họ làm những điều tội lỗi trước mặt CHÚA. Những việc khác của Ma-na-se, tất cả những việc vua làm, những tội lỗi vua phạm, há không được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? Ma-na-se an giấc cùng các tổ phụ mình và được chôn trong vườn ngự uyển ở hoàng cung, tức trong vườn U-xa. A-môn, con trai vua, lên ngôi kế vị. A-môn được hai mươi hai tuổi khi lên ngôi làm vua. Vua trị vì được hai năm tại Giê-ru-sa-lem. Thân mẫu vua là bà Mê-su-lê-mết, con gái của Ha-rút, cháu của Giô-ba. Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA như Ma-na-se, cha vua, đã làm. Vua đi theo mọi đường lối mà cha vua đã đi, phục vụ các thần tượng mà cha vua đã phục vụ và vua thờ phượng chúng. Vua lìa bỏ CHÚA là Đức Chúa Trời của tổ tiên vua, và không đi theo các đường lối Chúa. Các tôi tớ của A-môn lập mưu phản nghịch vua, và hạ sát vua ngay trong cung điện. Nhưng dân trong xứ xử tử tất cả những người đã lập mưu và giết vua A-môn. Rồi dân trong xứ lập Giô-si-a, con trai vua, lên ngôi kế vị. Tất cả những việc khác của vua A-môn làm, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? Vua được chôn trong mộ của mình, trong vườn U-xa. Rồi Giô-si-a, con trai vua, lên ngôi kế vị. Giô-si-a được tám tuổi khi lên ngôi làm vua. Vua trị vì ba mươi mốt năm tại Giê-ru-sa-lem. Thân mẫu vua là bà Giê-đi-đa, con gái của A-đa-gia, cháu của Bô-cát. Vua làm điều ngay lành trước mặt CHÚA và bước đi trong mọi đường lối của tổ phụ vua là Đa-vít. Vua chẳng xây qua bên phải hay bên trái. Vào năm thứ mười tám triều vua Giô-si-a, vua sai Sa-phan, con trai A-xa-lia, cháu của Mê-su-lam, là quan bí thư của vua đến đền thờ của CHÚA và dặn rằng: “Hãy đi gặp thầy Thượng Tế Hinh-kia và nói với ông ta: Hãy đếm tất cả số tiền mà những người giữ cửa đã thâu nhận của dân khi họ vào đền thờ CHÚA. Hãy trao số tiền đó cho những người có trách nhiệm bảo trì đền thờ CHÚA, để họ sửa sang đền thờ. Đó là những thợ mộc, thợ xây cất và thợ nề, để họ mua gỗ, mua đá đã đẽo sẵn mà tu bổ đền thờ lại. Nhưng không nên bắt họ phải khai báo về số tiền đã giao vào tay họ, vì họ làm việc rất chân thật.” Thầy Thượng Tế Hinh-kia nói với Sa-phan, quan bí thư, rằng: “Tôi có tìm được cuốn sách Kinh Luật trong đền thờ CHÚA.” Đoạn, Hinh-kia trao cuốn sách đó cho Sa-phan. Ông ta lấy đọc. Sau đó, Sa-phan, quan bí thư, đến gặp vua và tâu: “Bầy tôi của vua có đến lấy tất cả số tiền có trong đền thờ và giao cho những người có trách nhiệm sửa sang đền thờ CHÚA rồi.” Sa-phan, quan bí thư, tâu tiếp: “Thầy Thượng Tế Hinh-kia có trao cho tôi một cuốn sách.” Rồi Sa-phan đọc lớn tiếng cho vua nghe. Khi vua nghe xong những lời trong sách Kinh Luật thì vua xé áo mình. Rồi vua truyền cho thầy Thượng Tế Hinh-kia, cho A-hi-cam con trai Sa-phan, cho Ạc-bồ con trai Mi-ca-gia, cho Sa-phan quan bí thư, và cho A-sa-gia đầy tớ của vua, mà rằng: “Hãy đi, cầu vấn CHÚA cho ta, cho dân chúng, cho cả Giu-đa, theo những lời trong sách mới tìm được. Vì cơn thịnh nộ của CHÚA đang nhen lên nghịch lại chúng ta thật lớn thay. Bởi vì tổ tiên chúng ta đã không vâng theo những lời trong sách nầy, mà làm theo những điều đã viết cho chúng ta.” Vậy thầy Thượng Tế Hinh-kia, A-hi-cam, Ạc-bồ, Sa-phan, và A-sa-gia đi gặp nữ tiên tri Hân-đa, vợ của Sa-lum, con trai Ti-va, cháu của Hạt-ha, Sa-lum là người giữ áo lễ. Nữ tiên tri Hân-đa ngụ ở Giê-ru-sa-lem, trong Quận Nhì. Họ đến tham khảo ý kiến của bà. Bà nói với họ: “CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán rằng: Hãy về nói với người đã sai các ông đến gặp tôi như vầy: Chúa phán: ‘Ta chắc chắn sẽ giáng tai họa trên nơi nầy và trên dân cư của nó y theo những lời trong sách mà vua Giu-đa đã đọc. Bởi vì họ đã lìa bỏ Ta mà dâng tế lễ cho các thần khác. Họ đã chọc giận Ta bằng công việc của bàn tay họ. Vậy nên cơn thịnh nộ của Ta đã nhen lên nghịch lại chốn nầy, và nó sẽ không bị dập tắt được.’ Còn về vua của Giu-đa, là người đã sai các ông đi cầu vấn CHÚA, hãy nói với người ấy rằng: CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán rằng: ‘Về những lời mà ngươi đã nghe, thì vì lòng ngươi đã ăn năn, và ngươi biết hạ mình xuống trước mặt CHÚA, khi ngươi nghe Ta nói nghịch lại chốn nầy, nghịch lại dân nầy, rằng chúng sẽ bị hoang vu và sẽ thành nơi nguyền rủa, nhưng vì ngươi đã xé áo mình và khóc lóc trước mặt Ta, Ta đã nghe ngươi. CHÚA phán vậy. Vậy nên, Ta sẽ cho ngươi được về với các tổ phụ ngươi, ngươi sẽ được an giấc bình an trong mộ; mắt ngươi sẽ không thấy những tai họa mà Ta sẽ giáng xuống trên chốn nầy.’”Họ về tâu lại cho vua sứ điệp ấy. Bấy giờ Giô-si-a cho vời tất cả các trưởng lão của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem đến gặp vua. Vua đi đến đền thờ CHÚA; đi theo vua có mọi người Giu-đa, toàn dân Giê-ru-sa-lem, các thầy tế lễ, các vị tiên tri, và hết thảy mọi người, cả nhỏ lẫn lớn. Vua đọc cho họ nghe mọi lời trong sách giao ước đã tìm được trong đền thờ CHÚA. Vua đứng nơi bục cao và lập một giao ước trước mặt CHÚA, quyết tâm đi theo CHÚA, gìn giữ các điều răn, sắc lịnh, và quy luật Ngài với tất cả tấm lòng và hết cả linh hồn; vua cam kết thực hiện những điều khoản giao ước đã ghi trong sách ấy. Toàn dân đồng tuyên thệ thực hiện giao ước ấy. Vua truyền cho thầy Thượng Tế Hinh-kia, những thầy tế lễ, và những người canh cửa đền thờ phải đem ra khỏi đền thờ tất cả những vật dụng đã làm cho thần Ba-anh, cho thần A-sê-ra, và cho tất cả những thần linh trên không trung. Vua đốt tất cả những thứ đó trong cánh đồng ở trũng Kết-rôn, bên ngoài thành Giê-ru-sa-lem, rồi bảo đem tro chúng đến Bê-tên. Vua cách chức và đuổi hết các thầy cúng hình tượng mà các vua Giu-đa đã phong chức để dâng tế lễ trên các tế đàn ở những nơi cao trong các thành của Giu-đa hoặc ở xung quanh Giê-ru-sa-lem. Vua cũng cách chức và đuổi đi các thầy cúng chuyên dâng tế lễ cho thần Ba-anh, mặt trời, mặt trăng, các tinh tú, và các thiên binh trên trời. Vua cất khỏi đền thờ CHÚA trụ thờ thần A-sê-ra, đem nó ra ngoài thành Giê-ru-sa-lem, đến khe Kết-rôn, đốt nó tại khe Kết-rôn, nghiền nát nó thành bụi, rồi ném bụi nó trên mồ mả của thường dân. Vua cũng phá hủy tất cả nhà cửa của bọn đàn ông làm điếm trong đền thờ CHÚA, là nơi các phụ nữ dệt vải cho nữ thần A-sê-ra. Vua đem tất cả các thầy tế lễ trong các thành ở Giu-đa ra, rồi làm ô uế tất cả tế đàn ở những nơi cao, là nơi các thầy tế lễ đã dâng hương, từ Ghê-ba cho đến Bê-e Sê-ba. Vua phá hủy tất cả các miếu thờ thần ngoài cổng thành, gần bên cổng Giô-suê, quan thị trưởng, các miếu ấy ở bên trái của cổng thành. Tuy nhiên, các thầy tế lễ của các tế đàn ở những nơi cao không được đến với bàn thờ CHÚA ở Giê-ru-sa-lem, nhưng chỉ ăn bánh không men ở giữa anh em của họ mà thôi. Vua cũng làm ô uế Tô-phết trong thung lũng Bên Hi-nôm, để từ đó về sau không ai sẽ dùng nó thiêu dâng con trai hay con gái mình trong lửa cho thần Mo-lóc nữa. Vua dẹp bỏ khỏi cổng vào đền thờ CHÚA những tượng ngựa mà các vua Giu-đa đã dâng cho mặt trời, ở trong sân, kề bên phòng của hoạn quan Na-than Mê-léc. Vua cũng đốt các xe chiến mã dâng cho mặt trời trong lửa. Vua phá hủy các bàn thờ trên sân thượng lầu của vua A-cha, mà các vua Giu-đa đã lập; còn các bàn thờ mà Ma-na-se đã xây trong hai sân của đền thờ CHÚA thì vua kéo xuống và đập vỡ ra từng mảnh, rồi đem quăng các mảnh vụn đó xuống khe Kết-rôn. Vua làm ô uế các tế đàn trên những nơi cao phía đông Giê-ru-sa-lem, phía nam của núi Hủy Diệt, mà vua Sa-lô-môn của Y-sơ-ra-ên đã xây cho Át-tạc-tê thần gớm ghiếc của dân Si-đôn, cho Kê-mốt thần gớm ghiếc của dân Mô-áp, Minh-côm thần gớm ghiếc của dân Am-môn. Vua đập nát các tượng thờ bằng đá thành từng mảnh, đốn ngã các trụ thờ nữ thần A-sê-ra, và chất đầy xương người vào những nơi đó. Ngoài ra, bàn thờ ở Bê-tên, tế đàn ở nơi cao do Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, đã gây cho Y-sơ-ra-ên phạm tội, vua hủy phá bàn thờ ấy cùng với tế đàn ở nơi cao đó. Vua thiêu hủy tế đàn ở nơi cao đó, nghiền nó ra thành bụi. Vua cũng đốt luôn trụ thờ nữ thần A-sê-ra. Khi vua Giô-si-a quay lại thì thấy những ngôi mộ trên núi. Vua cho người đến lấy những xương cốt ra khỏi những ngôi mộ ấy, rồi đem đốt chúng trên bàn thờ, để làm ô uế bàn thờ, y như lời của CHÚA mà người của Đức Chúa Trời đã tuyên bố trong dịp Giê-rô-bô-am đứng bên bàn thờ trong kỳ lễ. Vua cũng quay lại, nhìn lên và thấy lăng mộ của người Đức Chúa Trời, là người đã báo trước những điều nầy. Vua hỏi: “Lăng mộ ta thấy đó là lăng mộ của ai vậy?”Dân trong thành ấy đáp: “Tâu đó là lăng mộ của người Đức Chúa Trời từ Giu-đa đến, để nói trước những điều nầy, mà vua đã làm hầu nghịch lại bàn thờ ở Bê-tên.” Vua phán: “Hãy để người an nghỉ ở đó. Đừng ai lấy xương cốt của người đi.” Vậy họ để yên xương cốt vị tiên tri ấy ở đó, cùng với xương cốt của ông tiên tri ở Sa-ma-ri. Ngoài ra, Giô-si-a cũng phá dỡ tất cả các đền miếu trên những nơi cao trong thành Sa-ma-ri, mà các vua Y-sơ-ra-ên đã xây dựng, để chọc giận CHÚA. Vua làm cho những nơi ấy giống như những gì vua đã làm tại Bê-tên. Vua đem tất cả các thầy cúng của các tế đàn trên những nơi cao có mặt tại đó mà giết hết trên các bàn thờ, rồi đốt xương người ta trên các bàn thờ đó. Xong rồi vua trở về Giê-ru-sa-lem. Vua truyền cho toàn dân: “Hãy tổ chức lễ Vượt Qua cho CHÚA là Đức Chúa Trời của chúng ta như đã chép trong sách giao ước.” Từ thời các thẩm phán đoán xét trên dân Y-sơ-ra-ên, hay trong thời của các vua Y-sơ-ra-ên hay trong thời các vua Giu-đa, người ta chưa hề thấy một lễ Vượt Qua nào được tổ chức như vậy. Nhưng vào năm thứ mười tám triều vua Giô-si-a lễ Vượt Qua nầy đã được tổ chức cho CHÚA tại Giê-ru-sa-lem. Ngoài ra, Giô-si-a cũng diệt trừ những đồng bóng, những thầy bói, những thần riêng của mỗi nhà, những hình tượng, và mọi điều gớm ghiếc đã thấy trong xứ Giu-đa và tại Giê-ru-sa-lem. Vua làm vậy để thực hiện đúng theo những lời đã viết trong sách Kinh Luật mà thầy Thượng Tế Hinh-kia đã tìm được trong đền thờ CHÚA. Trước vua, không có vua nào làm như vua; vua hướng về CHÚA hết lòng, hết linh hồn, và hết sức mà vâng theo mọi điều trong Kinh Luật của Môi-se; sau vua cũng chẳng có vua nào được như thế. Dầu vậy CHÚA vẫn không nguôi cơn thịnh nộ của Ngài. Cơn giận Ngài đã nhen lên nghịch lại Giu-đa, vì tất cả những việc khiêu khích mà Ma-na-se đã làm. CHÚA phán: “Ta sẽ dẹp bỏ Giu-đa khỏi mặt Ta, như Ta đã dẹp bỏ Y-sơ-ra-ên. Ta sẽ loại bỏ thành Giê-ru-sa-lem nầy mà Ta đã chọn, cùng loại bỏ đền thờ nầy mà Ta đã nói: Danh Ta sẽ ngự tại đó.” Những việc khác của Giô-si-a, tất cả những việc vua làm, há không được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? Trong thời của vua, Pha-ra-ôn Nê-cô, vua của Ai-cập, đem quân đi giúp đỡ vua của A-si-ri bên bờ sông Ơ-phơ-rát. Nhưng vua Giô-si-a kéo quân ra nghênh chiến. Vừa khi gặp vua Giô-si-a tại Mê-ghi-đô, vua Nê-cô liền giết chết vua Giô-si-a. Các tôi tớ của vua từ Mê-ghi-đô mang xác vua về Giê-ru-sa-lem trên một xe chiến mã; rồi người ta đem chôn vua trong mộ của vua. Dân trong xứ lập Giô-a-cha, con trai vua Giô-si-a, xức dầu cho, và tôn người ấy lên làm vua kế vị cho cha. Giô-a-cha được hai mươi ba tuổi khi lên ngôi làm vua. Vua trị vì ba tháng tại Giê-ru-sa-lem. Thân mẫu vua là bà Ha-mu-ta, con gái của Giê-mê-mi ở Líp-na. Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA như các tổ tiên vua đã làm. Pha-ra-ôn Nê-cô bắt giam vua tại Ríp-lát, trong xứ Ha-mát, hầu cho vua không trị vì tại Giê-ru-sa-lem được nữa, và bắt xứ phải nộp triều cống gồm ba ngàn ký bạc và ba mươi ký vàng. Pha-ra-ôn Nê-cô lập Ê-li-a-kim, con trai Giô-si-a, lên ngôi làm vua kế vị cho cha là Giô-si-a và bắt đổi tên lại là Giê-hô-gia-kim. Còn Giô-a-cha thì bị bắt đem đi lưu đày ở Ai-cập và qua đời tại đó. Giê-hô-gia-kim nộp cho Pha-ra-ôn số bạc vàng vua ấy yêu cầu, nhưng vua phải đánh thuế dân trong xứ để có số bạc vàng mà Pha-ra-ôn đòi hỏi. Vua bắt dân đóng thuế bằng bạc vàng tùy theo tài sản mỗi người, rồi lấy đó mà nộp cho Pha-ra-ôn Nê-cô. Giê-hô-gia-kim được hai mươi lăm tuổi khi lên ngôi làm vua. Vua trị vì mười một năm tại Giê-ru-sa-lem. Thân mẫu vua là bà Xê-bi-đa, con gái của Phê-đa-gia ở Ru-ma. Vua làm điều tội lỗi truớc mặt CHÚA, như các tổ tiên vua đã làm. Trong thời vua Giê-hô-gia-kim trị vì, vua Nê-bu-cát-nết-sa của Ba-by-lôn đi lên xâm chiếm xứ và vua Giê-hô-gia-kim phải thần phục trong ba năm. Nhưng sau đó vua đổi ý và chống lại vua Ba-by-lôn. CHÚA sai các đạo quân Canh-đê, A-ram, Mô-áp, và Am-môn đến tấn công để hủy diệt Giu-đa theo như lời của CHÚA mà các tôi tớ Ngài là các vị tiên tri đã nói trước. Việc nầy xảy đến cho Giu-đa quả hẳn là do lịnh của CHÚA, để dẹp bỏ họ khỏi trước mặt Ngài, vì cớ những tội lỗi của Ma-na-se, và vì mọi điều vua ấy đã làm, và cũng vì những máu vô tội đã đổ ra nữa; vì vua ấy đã làm cho Giê-ru-sa-lem đầy tràn những máu vô tội, và CHÚA không muốn bỏ qua chuyện đó. Những việc khác của Giê-hô-gia-kim, tất cả những việc vua làm, há không được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? Rồi Giê-hô-gia-kim an giấc với các tổ phụ mình, Giê-hô-gia-kin là con trai vua lên ngôi kế vị. Vua của Ai-cập không dám ra khỏi xứ của mình nữa, vì vua của Ba-by-lôn đã chiếm tất cả lãnh thổ thuộc về vua Ai-cập từ khe Ai-cập cho đến sông Ơ-phơ-rát. Giê-hô-gia-kin được mười tám tuổi khi lên ngôi làm vua. Vua trị vì được ba tháng tại Giê-ru-sa-lem. Thân mẫu vua là bà Nê-hu-ta, con gái của Ên-na-than ở Giê-ru-sa-lem. Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA, như các tổ tiên vua đã làm. Trong lúc đó các tôi tớ của Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, kéo lên bao vây thành Giê-ru-sa-lem. Vua Nê-bu-cát-nết-sa của Ba-by-lôn đến trước thành, đang khi quân đội của vua đang bao vây nó. Vua Giê-hô-gia-kin của Giu-đa ra đầu hàng vua Ba-by-lôn; vua, mẹ vua, bầy tôi của vua, các tướng lãnh của vua, và các triều thần của vua. Vua Ba-by-lôn bắt vua Giê-hô-gia-kin đem giam trong ngục vào năm thứ tám của triều mình. Vua Ba-by-lôn mang đi tất cả các kho tàng của đền thờ CHÚA, và các kho tàng của hoàng cung. Vua đập vỡ mọi khí cụ bằng vàng mà vua Sa-lô-môn đã làm cho đền thờ CHÚA, y như mọi lời mà CHÚA đã bảo trước. Vua bắt đi mọi người dân Giê-ru-sa-lem, tất cả các tướng lãnh, tất cả những chiến sĩ dũng mãnh; gồm tất cả là mười ngàn người bị đem đi lưu đày. Tất cả các chuyên viên và những thợ rèn đều bị bắt đi hết, không chừa lại ai, ngoại trừ những người nghèo khó cùng cực trong xứ. Vậy vua Ba-by-lôn bắt vua Giê-hô-gia-kin đem về Ba-by-lôn; cùng với mẹ của vua, các vợ của vua, các quan chức, và những người quyền quý trong xứ mà đem lưu đày họ từ Giê-ru-sa-lem qua Ba-by-lôn. Vua Nê-bu-cát-nết-sa bắt đem về Ba-by-lôn bảy ngàn chiến sĩ, một ngàn chuyên viên và thợ rèn. Hết thảy đều là những người có khả năng chiến đấu. Rồi vua ấy lập Ma-tha-nia, chú của Giê-hô-gia-kin, lên ngôi làm vua thế vị, và bắt đổi tên là Sê-đê-kia. Sê-đê-kia được hai mươi mốt tuổi khi lên ngôi làm vua. Vua trị vì được mười một năm tại Giê-ru-sa-lem. Thân mẫu vua là bà Ha-mu-ta, con gái của Giê-rê-mi ở Líp-na. Vua làm điều tội lỗi truớc mặt CHÚA, giống như Giê-hô-gia-kim đã làm. Thật vậy, Giê-ru-sa-lem và Giu-đa đã chọc giận CHÚA đến độ Ngài phải loại bỏ chúng khỏi trước mặt Ngài.Lúc ấy vua Sê-đê-kia nổi lên chống lại vua Ba-by-lôn. Năm thứ chín triều Sê-đê-kia, vào ngày mồng mười, tháng mười, vua Nê-bu-cát-nết-sa của Ba-by-lôn đem hết đạo quân mình đến tấn công Giê-ru-sa-lem và bao vây thành. Vua đóng trại bên ngoài và đắp lũy bao vây thành. Vậy thành bị vây cho đến năm thứ mười một triều vua Sê-đê-kia. Vào ngày mồng chín, tháng tư, nạn đói hoành hành trong thành dữ dội; dân chúng không có bánh ăn. Trong khi đó thì quân Canh-đê phá được một lỗ thủng nơi vách thành. Ban đêm, vua và quân lính bỏ thành chạy trốn. Họ bỏ trốn qua cổng giữa hai bức tường, gần nơi vườn ngự uyển. Mặc dù biết có quân Canh-đê đang bao vây, họ vẫn nhắm hướng A-ra-ba mà chạy. Nhưng quân đội Canh-đê rượt theo vua. Họ bắt sống được vua trong đồng bằng Giê-ri-cô. Quân đội của vua bèn tan rã. Họ bỏ vua mà đào thoát. Vua bị bắt sống và đem về nộp cho vua Ba-by-lôn tại Ríp-lát. Chúng tuyên án vua. Quân Canh-đê giết các con trai của vua Sê-đê-kia trước mắt vua; chúng móc mắt vua Sê-đê-kia, lấy xích đồng mà xiềng vua lại, rồi dẫn vua về Ba-by-lôn. Vào ngày bảy, tháng năm, tức là năm thứ mười chín triều vua Nê-bu-cát-nết-sa của Ba-by-lôn, thì Nê-bu-xa-ra-đan, quan chỉ huy quân thị vệ, tôi tớ của vua Ba-by-lôn, vào thành Giê-ru-sa-lem. Ông phóng hỏa đốt đền thờ CHÚA, cung điện nhà vua, và tất cả nhà cửa trong thành Giê-ru-sa-lem. Ông cũng đốt hết thảy những dinh thự của các nhà quyền quý trong thành. Rồi toàn quân Canh-đê theo lệnh của quan chỉ huy quân thị vệ đập phá những tường thành bao quanh Giê-ru-sa-lem. Nê-bu-xa-ra-đan, quan chỉ huy quân thị vệ, bắt đem lưu đày tất cả những người còn lại trong thành, những người đào ngũ theo vua Ba-by-lôn, và những chuyên viên còn sót lại trong dân, mà đem đi hết thảy. Nhưng quan chỉ huy quân thị vệ có chừa lại một ít người nghèo khổ nhất trong xứ để trồng nho và làm ruộng. Những trụ đồng trong đền thờ CHÚA, những giàn xe đồng, và chiếc bể đồng nơi đền thờ CHÚA đều bị quân Canh-đê cắt ra từng mảnh, rồi chở cả thảy số đồng đó về Ba-by-lôn. Chúng cũng lấy đi những nồi đồng, vá đồng, dao, chén, và mọi vật dụng bằng đồng để dùng vào việc tế lễ trong đền thờ. Quan chỉ huy quân thị vệ cũng lấy đi các lư hương, các chậu, và tất cả những dụng cụ bằng vàng và bằng bạc. Còn hai trụ đồng, cái bể đồng, và các giàn xe đồng mà vua Sa-lô-môn đã làm cho đền thờ CHÚA, thì số đồng nầy quá nhiều, không thể cân được. Mỗi trụ cao chín thước, bên trên đầu trụ có táng bằng đồng, cao một thước rưỡi; xung quanh táng được bao bằng lưới đồng và những trái thạch lựu đồng. Trụ đồng thứ nhì cũng thế, cũng có lưới đồng như vậy. Quan chỉ huy quân thị vệ bắt thầy Trưởng Tế Sê-ra-gia, thầy phó Trưởng Tế Sô-phô-ni, ba viên chức canh cửa đền thờ, lại cũng bắt một tướng chỉ huy quân đội trong thành, năm người trong bộ tham mưu của vua còn sót lại trong thành, quan bí thư là phụ tá của quan Tổng Tư Lệnh quân đội, cũng là người đặc trách việc chiêu mộ quân binh trong xứ, cùng sáu mươi người của xứ bắt được trong thành. Nê-bu-xa-ra-đan, quan chỉ huy quân thị vệ, bắt họ và dẫn họ đến vua Ba-by-lôn ở Ríp-ba. Vua Ba-by-lôn truyền giết họ tại Ríp-ba, trong xứ Ha-mát. Như vậy, dân Giu-đa bị bắt đi lưu đày khỏi xứ sở họ. Vua Nê-bu-cát-nết-sa chỉ định Ghê-đa-lia, con trai A-hi-cam, cháu của Sa-phan, làm tổng trấn trên dân cư còn sót lại trong xứ Giu-đa; đó là những người mà vua Nê-bu-cát-nết-sa của Ba-by-lôn còn chừa lại. Khi các tướng lãnh chỉ huy quân kháng chiến và lực lượng của họ hay rằng Ghê-đa-lia đã được vua Ba-by-lôn bổ nhiệm làm tổng trấn, thì họ kéo nhau đến gặp Ghê-đa-lia tại Mích-ba. Đó là các ông Ích-ma-ên con trai Nê-tha-nia, Giô-ha-nan con trai Ca-rê-át, Xê-ra-gia con trai Tan-hu-mết ở Nê-tô-pha, và Gia-a-xa-nia con trai Ma-ca-thít. Ghê-đa-lia thề với họ và những đội quân của họ rằng: “Đừng sợ các viên chức người Canh-đê. Cứ ở trong xứ, thần phục vua Ba-by-lôn, thì các ông sẽ bình an.” Nhưng đến tháng bảy thì Ích-ma-ên con trai Nê-tha-nia, cháu của Ê-li-sa-ma, thuộc dòng hoàng tộc, đến tại Mích-ba, cùng với mười người theo ông. Họ vào giết chết Ghê-đa-lia, cùng với những người Giu-đa và Canh-đê đang ở với Ghê-đa-lia lúc đó. Đoạn cả dân chúng, từ nhỏ đến lớn, cùng với các tướng lãnh và quân kháng chiến, đứng dậy, đi đến xứ Ai-cập, vì họ sợ người Canh-đê báo thù. Năm thứ ba mươi bảy kể từ khi vua Giê-hô-gia-kin của Giu-đa bị lưu đày, tức là năm thứ nhất triều vua Ê-vin Mê-rô-đác, vào ngày hai mươi bảy, tháng mười hai trong năm đầu trị vì, vua phóng thích Giê-hô-gia-kin, vua Giu-đa, ra khỏi ngục. Vua dùng lời tử tế nói với vua Giê-hô-gia-kin, và ban cho vua một ngôi vị cao hơn ngôi vị các vua cùng bị quản thúc tại Ba-by-lôn. Vua cho Giê-hô-gia-kin cởi bỏ áo tù ra và hằng ngày được ngồi ăn đồng bàn với vua trọn đời mình. Về việc cấp dưỡng cho vua Giê-hô-gia-kin thì vua Ba-by-lôn cấp dưỡng đều đặn và đầy đủ mỗi ngày cho đến khi vua ấy sống hết đời mình. A-đam, Sết, Ê-nót, Kê-nan, Ma-ha-la-le, Giê-rệt, Hê-nóc, Mê-tu-sê-la, Lê-méc, Nô-ê, Sem, Cham, Gia-phết. Các con trai của Gia-phết là:Gô-me, Ma-gót, Ma-đai, Gia-van, Tu-banh, Mê-siếc và Ti-ra. Các con trai của Gô-me là:Ách-kê-na, Đi-phát và Tô-ga-ma. Các con trai của Gia-van là:Ê-li-sa, Ta-rê-si, Kít-tim và Rô-đa-nim. Các con trai của Cham là:Cúc, Mích-ra-im, Phút và Ca-na-an. Các con trai của Cúc là:Sê-ba, Ha-vi-la, Sáp-ta, Ra-ê-ma và Sáp-tê-ca.Các con trai của Ra-ê-ma là:Sê-ba và Đê-đan. Cúc sinh Nim-rốt;người trở thành dũng sĩ đầu tiên trên đất. Mích-ra-im sinhLu-đim, A-na-mim, Lê-ha-bim, Náp-tu-him, Phát-ru-sim, Cách-lu-him, từ người có dân Phi-li-tin, và Cáp-tô-rim. Ca-na-an sinhSi-đôn, là trưởng nam, và Hếch, Giê-bu-sít, A-mô-rít, Ghi-rê-ga-sít, Hê-vít, A-rê-kít, Si-nít, A-va-đi, Xê-ma-rít và Ha-ma-tít. Các con trai của Sem là:Ê-lam, A-sua, A-bác-sát, Lút, A-ram, Út-xơ, Hu-lơ, Ghê-te và Mê-siếc. A-bác-sát sinh Sê-lách;Sê-lách sinh Hê-be. Hê-be sinh hai con trai;một đứa tên Bê-lét vì vào thời này đất đã bị phân chia, đứa kia tên là Giốc-tan. Giốc-tan sinhA-mô-đát, Sê-lép, Ha-sa-ma-vết, Giê-rách, Ha-đô-ram, U-xa, Điếc-la, Ê-ban, A-bi-ma-ên, Sê-ba, Ô-phia, Ha-vi-la và Giô-báp. Tất cả những người đó là con trai của Giốc-tan. Sem, A-bác-sát, Sê-lách, Hê-be, Bê-léc, Rê-hu, Sê-rúc, Na-cô, Tha-rê, Áp-ram, tức là Áp-ra-ham. Các con trai của Áp-ra-ham là:Y-sác và Ích-ma-ên. Đây là dòng dõi của chúng:Con trưởng nam của Ích-ma-ên là: Nê-ba-giốt; kế đến là Kê-đa, Át-bê-ên, Mi-bô-sam, Mích-ba, Đu-ma, Ma-sa, Ha-đát, Thê-ma, Giê-thu, Na-phích và Kết-ma. Đó là các con trai của Ích-ma-ên. Các con trai do Kê-tu-ra, vợ nhỏ của Áp-ra-ham sinh:Xim-ram, Giốc-san, Mê-đan, Ma-đi-an, Dích-bác và Su-ách.Các con trai của Giốc-san là:Sê-ba và Đê-đan. Các con trai của Ma-đi-an là:Ê-pha, Ê-phê, Ha-nóc, A-bi-đa và Ên-đa.Tất cả những người này là con cháu của Kê-tu-ra. Áp-ra-ham sinh Y-sác.Các con trai của Y-sác là:Ê-sau và Y-sơ-ra-ên. Các con trai của Ê-sau là:Ê-li-pha, Rê-u-ên, Giê-úc, Gia-lam và Cô-ra. Các con trai của Ê-li-pha là:Thê-man, Ô-ma, Xê-phi, Ga-tham, Kê-na, Thim-na và A-ma-léc. Các con trai của Rê-u-ên là:Na-hát, Xê-rách, Sam-ma và Mích-xa. Các con trai của Sê-i-rơ là:Lô-than, Sô-banh, Xi-bê-ôn, A-na, Đi-sôn, Ét-xe và Đi-san. Các con trai của Lô-than là:Hô-ri và Hô-man; Thim-na là em gái Lô-than. Các con trai của Sô-banh là:A-li-an, Ma-na-hát, Ê-ban, Sê-phi và Ô-nam.Các con trai của Xi-bê-ôn là:Ai-gia và A-na. Con trai của A-na là:Đi-sôn.Các con trai của Đi-sôn là:Ham-ran, Ếch-ban, Dít-ran và Kê-ran. Các con trai của Ét-xe là:Binh-han, Xa-van và Gia-a-can.Các con trai của Đi-san là:Út-xơ và A-ran. Đây là các vua cai trị vùng Ê-đôm trước khi một vua nào trong các vua Y-sơ-ra-ên trị vì:Bê-la, con của Bê-ô; tên của thành là Đin-ha-ba. Khi Bê-la chết, Giô-báp, con trai Xê-rách, người Bốt-ra, kế vị. Khi Giô-báp chết, Hu-sam, người xứ Thê-man, kế vị. Khi Hu-sam chết, Ha-đát, con trai Bê-đát, kế vị; vua này đánh bại người Ma-đi-an tại đồng Mô-áp; thành của người tên là A-vít. Khi Ha-đát chết, Sam-la, người Ma-rê-ca, kế vị. Khi Sam-la chết, Shau-lơ, người Rê-hô-bốt thuộc vùng sông kế vị. Khi Shau-lơ chết, Ba-anh Ha-nan, con trai Hạt-bồ, kế vị. Khi Ba-anh Ha-nan chết, Ha-đát kế vị; tên thành của người là Pha-i; vợ người tên Mê-hê-ta-bên, con gái của Mát-rết, cháu của Mê-xa-háp. Sau đó Ha-đát cũng chết.Các trưởng tộc của Ê-đôm là:Trưởng tộc Thim-na, trưởng tộc A-li-a, trưởng tộc Giê-tết, trưởng tộc Ô-hô-li-ba-ma, trưởng tộc Ê-la, trưởng tộc Phi-nôn, trưởng tộc Kê-na, trưởng tộc Thê-man, trưởng tộc Mép-xa, trưởng tộc Mác-đi-ên và trưởng tộc Y-ram. Đó là các trưởng tộc của Ê-đôm. Đây là các con trai của Y-sơ-ra-ên:Ru-bên, Si-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, Y-sa-ca, Sa-bu-luân, Đan, Giô-sép, Bên-gia-min, Nép-ta-li, Gát và A-se. Các con trai của Giu-đa là:Ê-rơ, Ô-nan và Shê-la. Ba người này do con gái Su-a, người Ca-na-an sinh. Ê-rơ là con trưởng nam của Giu-đa nhưng người là kẻ ác trước mặt CHÚA nên Ngài cất mạng sống người đi. Ta-ma, con dâu của Giu-đa, sinh cho người Phê-rết và Xê-rách. Các con trai của Giu-đa tất cả là năm người. Các con trai của Phê-rết là:Hết-rôn và Ha-mun. Các con trai của Xê-rách là:Xim-ri, Ê-than, Hê-man, Canh-đôn và Đa-ra; tất cả là năm người. Con trai của Cạt-mi là:A-ca người đem tai họa cho Y-sơ-ra-ên vì đã vi phạm điều cấm kỵ. Con trai của Ê-than là:A-xa-ria. Các con trai của Hết-rôn là:Giê-rác-mê-ên, Ram và Kê-lu-bai. Ram sinhA-mi-na-đáp, A-mi-na-đáp sinh Na-ha-sôn, một thủ lãnh của dân Giu-đa. Na-ha-sôn sinh Sanh-ma, Sanh-ma sinh Bô-ô, Bô-ô sinh Ô-bết, Ô-bết sinh Y-sai. Y-sai sinh con trưởng nam làÊ-li-áp, con thứ hai là A-bi-na-đáp, con thứ ba là Si-mê-a, con thứ tư là Na-tha-na-ên, con thứ năm là Ra-đai, con thứ sáu là Ô-xem, con thứ bảy là Đa-vít. Các chị em của họ là Xê-ru-gia và A-bi-ga-in. Ba con trai của Xê-ru-gia là A-bi-sai, Giô-áp và A-xa-ên. A-bi-ga-in sinh A-ma-sa; cha của A-ma-sa là Giê-the, người Ích-ma-ên. Ca-lép, con trai của Hết-rôn, lấy vợ là A-xu-ba và Giê-ri-ốt; các con trai của bà là Giê-se, Sô-báp và Ạt-đôn. A-xu-ba qua đời; Ca-lép lấy Ê-phơ-rát và người sinh Hu-rơ. Hu-rơ sinh U-ri, U-ri sinh Bết-sa-lê-ên. Sau đó, khi người đã sáu mươi tuổi, Hết-rôn ăn ở với con gái của Ma-ki, là cha của Ga-la-át; Hết-rôn lấy nàng làm vợ và nàng sinh Sê-gúp. Sê-gúp sinh Giai-rơ, người có hai mươi ba thành trong xứ Ga-la-át. Dân Ghê-su-rơ và Sy-ri chiếm lấy thành Giai-rơ và Kê-nát cùng với các vùng phụ cận gồm sáu mươi thành. Tất cả những người này là con cháu Ma-ki, cha của Ga-la-át. Sau khi Hết-rôn chết tại Ca-lép Ép-ra-tha, vợ người là A-bi-gia sinh cho người A-sua, cha của Thê-cô-a. Các con trai của Giê-rác-mê-ên, con trưởng nam của Hết-rôn, là:Ram, Bu-na, Ô-ren, Ô-xem và A-hi-gia. Giê-rác-mê-ên lấy một người vợ nữa tên là A-ta-ra, mẹ của Ô-nam. Các con trai của Ram, con trưởng nam của Giê-rác-mê-ên, là:Ma-ách, Gia-min và Ê-ke. Các con trai của Ô-nam là:Sha-mai và Gia-đa.Các con trai của Sha-mai là:Na-đáp và A-bi-su. Vợ của A-bi-su tên là A-bi-hai, nàng sinh Ạc-ban và Mô-lít. Các con trai của Na-đáp là:Sê-lê và Áp-ba-im. Sê-lê qua đời không có con. Con trai của Áp-ba-im là:Di-si. Con trai của Di-si là Sê-sanvà con trai của Sê-san là Ạc-lai. Các con trai của Gia-đa, em Sa-mai là:Giê-the và Giô-na-than. Giê-the qua đời không con. Các con trai của Giô-na-than là:Phê-lết và Xa-xa.Đó là con cháu của Giê-rác-mê-ên. Sê-san không có con trai, chỉ có con gái; người cũng có một người tôi tớ Ai Cập tên Gia-ra. Sê-san gả con gái mình cho Gia-ra, tôi tớ mình và nàng sinh Ạt-tai. Ạt-tai sinh Na-than,Na-than sinh Xa-bát, Xa-bát sinh Êp-la,Ép-la sinh Ô-bết, Ô-bết sinh Giê-hu,Giê-hu sinh A-xa-ria, A-xa-ria sinh Hê-lết,Hê-lết sinh Ê-la-xa, Ê-la-xa sinh Sít-mai,Sít-mai sinh Sa-lum, Sa-lum sinh Giê-ca-mia,Giê-ca-mia sinh Ê-li-sa-ma. Các con trai của Ca-lép, em Giê-rác-mê-ên, là:Mê-sa, con trưởng nam, người là tổ phụ của Xíp và các con trai của Ma-rê-sa, là tổ phụ của Hếp-rôn. Các con trai của Hếp-rôn là:Cô-ra, Táp-bua, Rê-kem và Sê-ma. Rê-ma sinh Ra-cham, tổ phụ của Giô-kê-am; Rê-kem sinh Sa-mai. Con trai của Sa-mai là Ma-ôn và Ma-ôn là tổ phụ của Bết-sua. Ê-pha là vợ nhỏ của Ca-lép, sinh Ha-ran, Một-sa và Ga-xe; Ha-ran sinh Ga-xe. Các con trai của Gia-đai là:Rê-ghem, Giô-than, Ghê-san, Phê-lết, Ê-pha và Sa-áp. Vợ nhỏ của Ca-lép là Ma-a-ca; nàng sinh Sê-be và Ti-ra-na; nàng cũng sinh Sa-áp, tổ phụ của Mát-ma-na, Sê-va, tổ phụ của Mác-bê-na và Ghi-bê-a. Con gái của Ca-lép là Ạc-sa. Đây là con cháu của Ca-lép:Các con trai của Hu-rơ, con trưởng nam của Ép-ra-ta:Sô-banh là tổ phụ của Ki-ri-át Giê-a-rim; Sanh-ma là tổ phụ của Bết-lê-hem; Ha-rép là tổ phụ của Bết-ga-đe. Con cháu của Sô-banh, tổ phụ của Ki-ri-át Giê-a-rim, là:Ha-rô-ê và nửa phần dân Mê-nu-hốt; các dòng của Ki-ri-át Giê-a-rim là Dít-rít, Phu-tít, Su-ma-tít và Mích-ra-ít. Từ các dòng này có dân Xô-ra-tít và Ếch-tao-lít. Con cháu của Sanh-ma là:Bết-lê-hem, dân Nê-tô-pha-tít, dân Ạt-rốt Bết Giô-áp, nửa phần dân Ma-na-ha-tít và dân Xô-rít. Dòng họ của các giáo sư kinh luật ở tại Gia-bết là Ti-ra-tít, Si-ma-tít và Su-ca-tít. Đây là dân Kê-nít, dòng dõi của Ha-mát, tổ phụ nhà Rê-cáp. Đây là các con trai của Đa-vít sinh tại Hếp-rôn:Am-nôn, con trưởng nam, mẹ là A-hi-nô-am, người Gít-rê-ên.Con thứ hai là Đa-ni-ên, mẹ là A-bi-ga-in, người Cạt-mên; con thứ ba là Áp-sa-lôm, mẹ là Ma-a-ca, con gái Tan-mai, vua vùng Ghê-su-rơ;con thứ tư là A-đô-ni-gia, mẹ là Ha-ghít; con thứ năm là Sê-pha-tia, mẹ là A-bi-tanh;con thứ sáu là Dít-rê-am, mẹ là Éc-la, vợ Đa-vít. Sáu người con này sinh tại Hếp-rôn;Đa-vít trị vì tại đó bảy năm sáu tháng; người trị vì tại Giê-ru-sa-lem ba mươi ba năm. Đây là những người con sinh tại Giê-ru-sa-lem:Si-mê-a, Sô-báp, Na-than và Sa-lô-môn; bốn người có mẹ là Bát-sua, con gái của A-mi-ên. Cũng có Gi-ba, Ê-li-sa-ma, Ê-li-phê-lết, Nô-ga, Nê-phết, Gia-phia, Ê-li-sa-ma, Ê-li-gia-đa và Ê-li-phê-lết, tất cả chín người đều là các con trai của Đa-vít không kể những người con của các cung phi và Ta-ma là chị em của chúng. Con trai của Sa-lô-môn là Rô-bô-am,con Rô-bô-am là A-bi-gia,con trai A-bi-gia là A-sa,con trai A-sa là Giô-sa-phát, con trai Giô-sa-phát là Giô-ram,con trai Giô-ram là A-cha-xia,con trai A-cha-xia là Giô-ách, con trai Giô-ách là A-ma-xia,con trai A-ma-xia là A-xa-ria,con trai A-xa-ria là Giô-tham, con trai Giô-tham là A-cha,con trai A-cha là Ê-xê-chia,con trai Ê-xê-chia là Ma-na-se, con trai Ma-na-se là A-môn,con trai A-môn là Giô-si-a. Các con trai của Giô-si-a là:Giô-ha-nan, con trưởng nam,con thứ nhì là Giê-hô-gia-kim,con thứ ba là Sê-đê-kia,con thứ tư là Sa-lum. Các con trai của Giê-hô-gia-kim là:Giê-chô-niavà Sê-đê-kia. Các con trai của Giê-chô-nia, người bị lưu đày là:Sa-la-thi-ên, Manh-ki-ram, Phê-đa-gia, Sê-na-xa, Giê-ca-mia, Hô-sa-ma và Nê-đa-mia. Các con trai của Phê-đa-gia là:Xô-rô-ba-bên và Si-mê-i.Các con trai của Xô-rô-ba-bên là:Mê-su-lam và Ha-na-nia;và Sê-lô-mi là chị em của chúng. Năm người con khác là:Ha-su-ba, Ô-hên, Bê-rê-kia, Ha-sa-đia và Du-sáp Hê-sết. Các con trai của Ha-na-nia là:Phê-la-tia và I-sa; cũng có các con trai của Rê-pha-gia, của Ạc-nan, của Ô-ba-đia và của Sê-ca-nia. Con trai của Sê-ca-nia là:Sê-ma-gia;các con trai của Sê-ma-gia là:Hát-túc, Di-ganh, Ba-ria, Nê-a-ria và Sa-phát, gồm sáu người. Các con trai của Nê-a-ria là:Ê-li-ô-ê-nai, Ê-xê-chia, và A-ri-kham, gồm ba người. Các con trai của Ê-li-ô-ê-nai là:Hô-đa-via, Ê-li-a-síp, Phê-la-gia, A-cúp, Giô-ha-nan, Đê-la-gia và A-na-ni, gồm bảy người. Các con trai của Giu-đa là:Phê-rết, Hết-rôn, Cạt-mi, Hu-rơ và Sô-banh. Rê-a-gia, con trai của Sô-banh, sinh Gia-hát; Gia-hát sinh A-hu-mai và La-hát. Những người này là dòng họ Xô-ra-tít. Đây là con cháu của A-bi Ê-tam:Gít-rê-ên, Dít-ma và Di-ba; em gái họ tên là Ha-sê-lê-bô-ni. Phê-nu-ên là tổ phụ của Ghê-đô và Ê-xe, tổ phụ của Hu-sa.Những người này là con cháu của Hu-rơ, con trưởng nam của Ép-ra-ta, tổ phụ của Bết-lê-hem. A-sua, tổ phụ của Thê-cô-a, có hai vợ là Hê-lê-a và Na-a-ra. Na-a-ra sinh A-hu-xam, Hê-phê, Thê-mê-ni và A-hách-tha-ri. Đây là các con trai của Na-a-ra. Các con trai của Hê-lê-a là:Xê-rết, Xô-ba và Ết-nan. Ha-cốt sinh A-núp, Hát-xô-bê-ba và dòng họ A-ha-bên, con của Ha-rum. Gia-bê được tôn trọng hơn các anh em người. Mẹ đặt tên là Gia-bê vì nói rằng “ta đã sinh nó trong sự đau đớn.” Gia-bê cầu khẩn Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên rằng: “Xin Chúa ban phước cho tôi, xin Ngài mở rộng bờ cõi tôi, nguyện tay Ngài ở cùng tôi và bảo vệ tôi khỏi tai họa đau khổ.” Đức Chúa Trời ban cho người điều người cầu xin. Kê-lúp, anh của Su-ha, sinh Mê-hia, tổ phụ của Ê-tôn. Ê-tôn sinh Ra-pha, Pha-sê-a và Tê-hi-na, tổ phụ của I-na-hách. Đây là những người thuộc dòng họ Rê-ca. Các con trai của Kê-na là:Ốt-ni-ên và Sê-ra-gia.Con trai của Ốt-ni-ên là:Ha-thát. Mê-ô-nô-thai sinh Óp-ra;Sê-ra-gia sinh Giô-áp,tổ phụ của Ghe Ha-ra-shim, gọi như thế vì những người này là thợ thủ công. Các con trai của Ca-lép, con của Giê-phu-nê, là:Y-ru, Ê-la và Na-am;con trai của Ê-la là:Kê-na. Các con trai của Giê-ha-lê-le là:Xíp, Xi-pha, Thi-ria và A-sa-rên. Các con trai của Ê-xơ-ra là:Giê-the, Mê-rết, Ê-phe và Gia-luân. Vợ của Mê-rết sinh Mi-ri-am, Sa-mai và Dít-bác, tổ phụ của Ếch-tê-mô-a. Còn vợ khác, là người Giu-đa, sinh Giê-rệt, tổ phụ của Ghê-đô, Hê-be, tổ phụ của Sô-cô và Giê-cu-ti-ên, tổ phụ của Xa-nô-a. Những người này là các con của Bi-thia, con gái Pha-ra-ôn mà Mê-rết cưới làm vợ. Các con trai của vợ của Hô-đia, em gái Na-ham là:cha của Kê-hi-la, người Hạc-mít và Ếch-tê-mô-a, người Ma-ca-thít. Các con trai của Si-môn là:Am-môn, Ri-na, Bên Ha-nan và Ti-lôn.Các con trai của Di-si là:Xô-hết và Bên Xô-hết. Các con trai của Sê-la, con trai Giu-đa, là:Ê-rơ, tổ phụ của Lê-ca, La-ê-đa, tổ phụ của Ma-rê-sa và dòng họ của những người dệt vải ở Bết Ách-bê-a, Giô-kim, những người Cô-xê-ba, Giô-ách và Sa-ráp, người cai trị vùng Mô-áp và Gia-su-bi Lê-chem. Đây là những điều ghi chép cổ xưa. Những người này là thợ gốm cư ngụ tại Nê-ta-im và Ghê-đê-ra; họ ở đó và làm việc cho vua. Các con trai của Si-mê-ôn là:Nê-mu-ên, Gia-min, Gia-ríp, Xê-ra và Sau-lơ. Con trai của Sau-lơ là Sa-lum; con trai của Sa-lum là Míp-sam; con trai của Míp-sam là Mích-ma. Con trai của Mích-ma là:Ha-mu-ên; con trai của Ha-mu-ên là Xa-cư; con trai của Xa-cư là Si-mê-i. Si-mê-i có mười sáu con trai và sáu con gái nhưng các anh em người không có nhiều con cho nên cả họ hàng của họ không đông bằng họ hàng Giu-đa. Chúng ở tại Biệt-sê-ba, Mô-la-đa, Ha-sa-xua, Bi-la, Ê-xem, Tô-lát, Bê-tu-ên, Họt-ma, Xiếc-lác, Bết-ma-ca-bốt, Hát-sa-su-sim, Bết-bi-rê và Sa-a-ra-im. Đó là những thành của họ cho đến đời Đa-vít. Năm làng của họ là Ê-tam, A-in, Rim-môn, Tô-ken và A-san; và tất cả các làng khác chung quanh các thành kia đến tận Ba-anh. Đó là những nơi họ cư ngụ và gia phả của họ. Mê-sô-báp, Giam-léc, Giô-sa, con trai của A-ma-xia; Giô-ên và Giê-hu, con trai của Giô-xơ-bia, cháu Sê-ra-gia, chắt A-si-ên; Ê-li-ô-ê-nai, Gia-cô-ba, Giê-sô-ha-giai, A-sa-gia, A-đi-ên, Giê-si-mi-ên, Bê-na-gia, Xi-xa, con trai của Si-phi, cháu của A-lôn, chắt của Giê-đa-gia, chít của Sim-ri, con trai của Sê-ma-gia. Những người có tên trên là những người lãnh đạo trong họ hàng mình; dòng họ của chúng gia tăng rất nhiều. Họ đi qua vùng phụ cận của Ghê-đô đến phía đông của thung lũng tìm đồng cỏ cho bầy súc vật mình. Họ tìm được đồng cỏ phì nhiêu, tươi tốt và đất thì rộng rãi, yên lặng và bình an; trước kia dòng dõi Cham sinh sống ở đó. Những người có tên ở trên đã đến đây vào thời vua Ê-xê-chia, vua Giu-đa và tấn công những người sống ở đó cùng người Ma-ô-nít trong vùng; họ hoàn toàn hủy diệt chúng và ở thay vào đó cho đến ngày nay. Vì tại đó có đồng cỏ cho bầy súc vật của họ. Một số trong vòng họ, năm trăm người Si-mê-ôn đi đến vùng núi Sê-i-rơ, những người lãnh đạo của họ là Phê-la-tia, Nê-a-ria, Rê-pha-gia và U-xi-ên; đó là những con trai của Di-si. Họ tiêu diệt những người A-ma-léc còn sống sót và cư ngụ ở đó cho đến ngày nay. Các con trai của Ru-bên, trưởng nam của Y-sơ-ra-ên, vì người là trưởng nam nhưng đã làm ô uế giường của cha mình nên quyền trưởng nam của người bị trao cho các con của Giô-sép, con trai của Y-sơ-ra-ên; vì vậy người không được ghi trong gia phả như là trưởng nam. Mặc dù Giu-đa hùng mạnh hơn các anh em mình và một nhà lãnh đạo ra từ người nhưng quyền trưởng nam thuộc về Giô-sép. Các con trai của Ru-bên, trưởng nam của Y-sơ-ra-ên là:Hê-nóc, Pha-lu, Hết-rôn và Cạt-mi. con trai của Giô-ên là:Sê-ma-gia; con trai của Sê-ma-gia là Gót;con trai của Gót là Si-mê-i; con trai của Si-mê-i là Mi-ca;con trai của Mi-ca là Rê-a-gia, con trai của Rê-a-gia là Ba-anh; con trai của Ba-anh là Bê-ê-ra, người bị Tiếc-lác Phin-nê-se, vua A-si-ri bắt đi lưu đày, người là nhà lãnh đạo của chi tộc Ru-bên. Anh em của Bê-ê-ra theo họ hàng được liệt kê trong gia phả của dòng họ là:Giê-i-ên, trưởng tộc, Xa-cha-ri, Bê-la, con trai A-xa, cháu Sê-ma, chắt Giô-ên. Bê-la cư ngụ tại A-rô-e, cho đến Nê-bô và Ba-anh Mê-ôn; về phía đông người cư ngụ từ bờ sa mạc đến sông Ơ-phơ-rát vì bầy súc vật của người tăng gia rất nhiều trong xứ Ga-la-át. Trong thời vua Sau-lơ, họ tranh chiến với dân Ha-ga-rít và đánh bại chúng rồi cư ngụ trong khắp vùng của chúng ở phía đông Ga-la-át. Các con trai của Gát cư ngụ đối diện với họ trong xứ Ba-san cho đến Sanh-ca. Giô-ên là trưởng tộc, Sa-pham là phó rồi đến Gia-nai và Sa-phát ở Ba-san. Họ hàng theo tông tộc gồm có bảy người: Mi-ca-ên, Mê-su-lam, Sê-ba, Giô-rai, Gia-can, Xia và Ê-be; những người này là con cháu của A-bi-hai, A-bi-hai con của Hu-ri, Hu-ri con của Gia-ô-ra, Gia-rô-a con của Ga-la-át, Ga-la-át con của Mi-ca-ên, Mi-ca-ên con của Giê-si-sai, Giê-si-sai con của Giác-đô, Giác-đô con của Bu-xơ; A-hi con của Áp-đi-ên, Áp-đi-ên con của Gu-ni; A-hi là trưởng tộc. Những người này cư ngụ tại Ga-la-át, Ba-san, các làng của họ và trong mọi đồng cỏ của Sa-rôn, đến tận ranh giới nó. Tất cả những người này đều được chép trong gia phả vào thời vua Giô-tham nước Giu-đa và thời vua Giê-rô-bô-am nước Y-sơ-ra-ên. Những người Ru-bên, người Gát và nửa chi tộc Ma-na-se, là những người khỏe mạnh, biết sử dụng khiên, gươm, cung, thạo việc chinh chiến; có bốn mươi bốn ngàn bảy trăm sáu mươi người sẵn sàng để chiến đấu. Họ giao chiến với dân Ha-ga-rít, dân Giê-tua, dân Na-phi và dân Nô-đáp. Họ được giúp đỡ trong khi chiến đấu và dân Ha-ga-rít cùng những người theo chúng bị thua vì họ đã cầu khẩn Đức Chúa Trời trong khi chiến đấu và Ngài đáp lời họ vì họ tin cậy Ngài. Họ bắt đi bầy súc vật của người Ha-ga-rít: Năm mươi ngàn lạc đà, hai trăm năm mươi ngàn chiên, hai ngàn lừa và một trăm ngàn người; Cũng có nhiều người chết vì Đức Chúa Trời chiến đấu trong trận chiến này. Họ cư ngụ thay vào chỗ đó cho đến khi bị lưu đày. Người của nửa chi tộc Ma-na-se rất đông, họ cư ngụ trong vùng từ Ba-san cho đến Ba-anh Hẹt-môn, Sê-nia và núi Hẹt-môn. Đây là các tộc trưởng của họ: Ê-phe, Di-si, Ê-li-ên, Ách-ri-ên, Giê-rê-mi, Hô-đa-via và Giắt-đi-ên; họ là những trưởng tộc, dũng sĩ, can đảm và danh tiếng. Nhưng chúng bất trung với Đức Chúa Trời của tổ tiên mình, chúng đi theo các thần của dân bản địa mà Đức Chúa Trời đã hủy diệt trước mặt chúng; Nên Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên thúc đẩy tinh thần vua Phun của A-si-ri, vua Tiếc-lác Phin-nê-se của A-si-ri bắt dân Ru-bên, Gát và nửa chi tộc Ma-na-se lưu đày sang Ha-la, Cha-bo, Ha-ra và vùng sông Gô-sen cho đến ngày nay. Các con trai của Lê-vi là:Ghẹt-sôn, Kê-hát và Mê-ra-ri. Các con trai của Kê-hát là:Am-ram, Dít-sê-ha, Hếp-rôn và U-xi-ên. Các con của Am-ram là:A-rôn, Môi-se và Mi-ri-am;các con trai của A-rôn là:Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma. Ê-lê-a-sa sinh Phi-nê-a;Phi-nê-a sinh A-bi-sua. A-bi-sua sinh Bu-ki;Bu-ki sinh U-xi. U-xi sinh Xê-ra-hi-gia;Xê-ra-hi-gia sinh Ma-ra-giốt; Mê-ra-giốt sinh A-ma-ria;A-ma-ria sinh A-hi-túp; A-hi-túp sinh Xa-đốc;Xa-đốc sinh A-hi-ma-ách; A-hi-ma-ách sinh A-xa-ria;A-xa-ria sinh Giô-ha-nan; Giô-ha-nan sinh A-xa-ria, người là thầy tế lễ trong đền thờ vua Sa-lô-môn đã xây tại Giê-ru-sa-lem. A-xa-ria sinh A-ma-ria;A-ma-ria sinh A-hi-túp; A-hi-túp sinh Xa-đốc;Xa-đốc sinh Sa-lum; Sa-lum sinh Hinh-kia;Hinh-kia sinh A-xa-ria; A-xa-ria sinh Sê-ra-gia;Sê-ra-gia sinh Giê-hô-gia-đát; Giê-hô-gia-đát bị đi lưu đày khi CHÚA trao Giu-đa và Giê-ru-sa-lem vào tay Nê-bu-cát-nết-sa. Các con trai của Lê-vi làGhẹt-sôn, Kê-hát và Mê-ra-ri; Đây là tên các con trai của Ghẹt-sôn:Líp-ni và Si-mê-i. Các con trai của Kê-hátlà Am-ram, Dít-sê-ha, Hếp-rôn và U-xi-ên. Các con trai của Mê-ra-ri là:Mách-li và Mu-si.Ấy là họ hàng dòng Lê-vi theo tông tộc mình. Con trai của Ghẹt-sôn là:Líp-ni; con trai của Líp-ni là Gia-hát;con trai của Gia-hát là Xim-ma;con trai của Xim-ma là Giô-a; con trai Giô-a là Y-đô;con trai Y-đô là Xê-ra;con trai Xê-ra là Giê-a-trai. Con cháu của Kê-hát là:A-mi-na-đáp; con trai của A-mi-na-đáp là Cô-rê;con trai của Cô-rê là Át-si; con trai của Át-si là Ên-ca-na; con trai của Ên-ca-na là Ê-bi-a-sáp; con trai của Ê-bi-a-sáp là Át-si; con trai của Át-si là Ta-hát; con trai của Ta-hát là U-ri-ên;con trai của U-ri-ên là U-xi-gia; con trai của U-xi-gia là Sau-lơ. Con cháu của Ên-ca-na là:A-ma-sai và A-hi-mốt; Về Ên-ca-na, con trai của Ên-ca-na là Xô-phai;con trai của Xô-phai là Na-hát; con trai của Na-hát là Ê-li-áp;con trai Ê-li-háp là Giê-rô-ham; con trai của Giê-rô-ham là Ên-ca-navà con trai của Ên-ca-na là Sa-mu-ên. Các con trai của Sa-mu-ên là:Va-sê-ni, con trưởng nam, con thứ là A-bi-gia. Con cháu của Mê-ra-ri là:Mách-li; con trai Mách-li là Líp-ni;con trai của Líp-ni là Si-mê-i; con trai của Si-mê-i là U-xa; con trai của U-xa là Si-mê-a; con trai của Si-mê-a là Ha-ghi-gia;con trai của Ha-ghi-gia là A-sai-gia. Đây là những người vua Đa-vít cử ra đặt trách về việc ca hát trong đền của CHÚA sau khi rương giao ước đặt ở đó. Họ phục vụ trong việc ca hát trước đền tạm, tức là trại hội kiến, cho đến khi Sa-lô-môn xây đền thờ CHÚA tại Giê-ru-sa-lem. Họ thi hành phận sự theo các qui luật đã định. Đây là những người phục vụ cùng con cháu họ:Con cháu Kê-hát là:Hê-man, một ca sĩ,con trai của Giô-ên, Giô-ên con trai của Sa-mu-ên; Sa-mu-ên là con trai của Ên-ca-na; Ên-ca-na là con trai của Giê-rô-ham;Giê-rô-ham là con trai của Ê-li-ên; Ê-li-ên là con trai của Thô-a; Thô-a là con trai của Xu-phơ; Xu-phơ là con trai của Ên-ca-na;Ên-ca-na là con trai của Ma-hát; Ma-hát là con trai của A-ma-sai; A-ma-sai là con trai của Ên-ca-na; Ên-ca-na là con trai của Giô-ên;Giô-ên là con trai của A-xa-ria; A-xa-ria là con trai của Xô-phô-ni; Xô-phô-ni là con trai của Ta-hát; Ta-hát là con trai của Át-si;Át-si là con trai của Ê-bi-a-sáp; Ê-bi-a-sáp là con trai của Cô-rê; Cô-rê là con trai của Dít-sê-ha; Dít-sê-ha là con trai của Kê-hát;Kê-hát là con trai của Lê-vi; Lê-vi là con trai của Y-sơ-ra-ên. Anh em của Hê-man là A-sáp, phục vụ bên phải người.A-sáp là con trai của Bê-rê-kia; Bê-rê-kia là con trai của Si-mê-a; Si-mê-a là con trai của Mi-ca-ên; Mi-ca-ên là con trai của Ba-sê-gia;Ba-sê-gia là con trai của Manh-ki-gia; Manh-ki-gia là con trai của Ét-ni;Ét-ni là con trai của Xê-ra; Xê-ra là con trai của A-đa-gia; A-đa-gia là con trai của Ê-than; Ê-than là con trai của Xim-ma;Xim-ma là con trai của Si-mê-i; Si-mê-i là con trai của Gia-hát;Gia-hát là con trai của Ghẹt-sôn; Ghẹt-sôn là con trai của Lê-vi. Con cháu của Mê-ra-ri, anh em người phục vụ bên trái, làÊ-than con trai của Ki-si, Ki-si con trai của Áp-đi,Áp-đi con trai của Ma-lúc; Ma-lúc con trai của Ha-sa-bia;Ha-sa-bia con trai của A-ma-xia; A-ma-xia con trai của Hinh-kia; Hinh-kia con trai của Am-si; Am-si con trai của Ba-ni;Ba-ni con trai của Sê-me; Sê-me con trai của Mách-li;Mách-li con trai của Mu-si; Mu-si con trai của Mê-ra-ri;Mê-ra-ri con trai của Lê-vi. Những người Lê-vi anh em của chúng được giao cho mọi công việc phục vụ trong đền tạm, nhà của Đức Chúa Trời. Nhưng A-rôn và con cháu người dâng tế lễ trên bàn thờ tế lễ thiêu hay trên bàn thờ dâng hương, làm mọi phận sự nơi chí thánh và dâng tế lễ chuộc tội cho Y-sơ-ra-ên, theo như mọi điều Môi-se, tôi tớ Đức Chúa Trời, đã truyền. Đây là con cháu A-rôn:Ê-lê-a-sa con trai của người; Phi-nê-a con trai của Ê-lê-a-sa;A-bi-sua con trai của Phi-nê-a; Bu-ki con trai của A-bi-sua;U-xi con trai của Bu-ki; Xê-ra-hi-gia con trai của U-xi; Mê-ra-giốt con trai của Xê-ra-hi-gia; A-ma-ria con trai của Mê-ra-giốt;A-hi-túp con trai của A-ma-ria; Xa-đốc con trai của A-hi-túp;A-hi-ma-ách con trai của Xa-đốc. Đây là những địa điểm định cư trong địa phận cho con cháu A-rôn theo họ hàng Kê-hát vì phần họ được bóc thăm trước. Họ được ban cho Hếp-rôn trong phần đất của Giu-đa và các đồng cỏ chung quanh. Nhưng các cánh đồng trong thành và các làng thì ban cho Ca-lép, con trai của Giê-phu-nê. Con cháu A-rôn được ban cho các thành trú ẩn: Thành Hếp-rôn, Líp-na với các đồng cỏ của nó, Gia-tia và Ếch-tê-mô-a cùng các đồng cỏ của nó, Hi-lên với các đồng cỏ của nó, Đê-bia cùng các đồng cỏ nó, A-san và các đồng cỏ nó, Bết-sê-mết cùng các đồng cỏ nó; từ chi tộc Bên-gia-min họ được ban cho thành Ghê-ba và các đồng cỏ nó, A-lê-mết và các đồng cỏ nó, A-na-tốt và các đồng cỏ nó.Tất cả là mười ba thành cho họ hàng chúng. Con cháu còn lại của Kê-hát bắt thăm được mười thành từ dòng họ mình, từ nửa chi tộc mình và nửa chi tộc Ma-na-se. Con cháu Ghẹt-sôn theo họ hàng được mười ba thành từ chi tộc Y-sa-ca, chi tộc A-se, chi tộc Nép-ta-li và Ma-na-se trong vùng Ba-san. Con cháu Mê-ra-ri theo họ hàng được mười hai thành từ chi tộc Ru-bên, chi tộc Gát và Sa-bu-luân. Người Y-sơ-ra-ên cấp cho người Lê-vi các thành cùng với đồng cỏ của chúng. Từ các chi tộc Giu-đa, Si-mê-ôn và Bên-gia-min họ được các thành kể trên. Một số người thuộc họ Kê-hát được các thành trong chi tộc Ép-ra-im; Họ được ban cho các thành trú ẩn: Thành Si-chem với các đồng cỏ nó trên núi Ép-ra-im, Ghê-xe với các đồng cỏ nó, Giốc-mê-am với các đồng cỏ nó, Bết-hô-rôn với các đồng cỏ nó, A-gia-lôn với các đồng cỏ nó, Gát-rim-môn với các đồng cỏ nó; Những người con cháu còn lại của dòng họ Kê-hát cũng được thành A-ne cùng các đồng cỏ nó và Bi-li-am cùng các đồng cỏ nó từ nửa chi tộc Ma-na-se. Con cháu Ghẹt-sôntừ họ hàng của nửa chi tộc Ma-na-se được Gô-lan trong vùng Ba-san và các đồng cỏ nó, Ách-ta-rốt với các đồng cỏ nó. Từ chi tộc Y-sa-cahọ được Kê-đe với các đồng cỏ nó, Đô-bê-rát với các đồng cỏ nó, Ra-mốt cùng các đồng cỏ nó, A-nem cùng các đồng cỏ nó. Từ chi tộc A-sehọ được Ma-sanh cùng các đồng cỏ nó, Áp-đôn cùng các đồng cỏ nó, Hu-cô cùng các đồng cỏ nó, Rê-hốp cùng các đồng cỏ nó. Từ chi tộc Nép-ta-lihọ được Kê-đe trong vùng Ga-li-lê cùng với các đồng cỏ nó, Ham-môn cùng các đồng cỏ nó, Ki-ri-a-tha-im cùng các đồng cỏ nó. Con cháu còn lại của Mê-ra-ri nhận được từ chi tộc Sa-bu-luân thành Ri-mô-nô cùng các đồng cỏ nó, Tha-bô cùng các đồng cỏ nó. Từ chi tộc Ru-bên, phía bên kia sông Giô-đanh, tức phía đông sông Giô-đanh ở khoảng Giê-ri-cô họ được Bết-se trong sa mạc với các đồng cỏ nó, Gia-xa cùng các đồng cỏ nó, Kê-đê-mốt với các đồng cỏ nó, Mê-phát với các đồng cỏ nó. Từ chi tộc Gáthọ được Ra-mốt ở vùng Ga-la-át với các đồng cỏ nó, Ma-ha-na-im với các đồng cỏ nó, Hết-rôn với các đồng cỏ nó và Gia-ê-xe cùng các đồng cỏ nó. Các con trai của Y-sa-ca là:Thô-la, Phu-a, Gia-súp và Sim-rôn, bốn người. Các con trai của Thô-la:U-xi, Rê-pha-gia, Giê-ri-ên, Giác-mai, Díp-sam và Sa-mu-ên. Họ đều là trưởng tộc trong dòng họ Thô-la và là những chiến sĩ hùng dũng trong gia phả; vào thời vua Đa-vít số chiến sĩ được ghi trong gia phả là 22.600 người. Con trai của U-xi là:Dít-ra-hia;các con trai của Dít-ra-hia làMi-ca-ên, Ô-ba-đia, Giô-ên và Di-si-gia, cả năm người đều là trưởng tộc. Theo gia phả của gia đình, họ có 36.000 quân vì họ có nhiều vợ và con. Những người chiến sĩ cùng họ hàng thuộc chi tộc Y-sa-ca tất cả là 87.000 người. Ba con trai của Bên-gia-min là:Bê-la, Bê-ka và Giê-đi-a-ên. Các con trai của Bê-la:Ét-bôn, U-xi, U-xi-ên, Giê-ri-mốt và Y-ri; năm người đều là trưởng tộc. Họ có 22.034 chiến sĩ được ghi trong gia phả. Các con trai của Bê-ka là:Xê-mi-ra, Giô-ách, Ê-li-ê-se, Ê-li-ô-ê-nai, Ôm-ri, Giê-rê-mốt, A-bi-gia, A-na-tốt và A-lê-mết; tất cả đều là con Bê-ka. Họ là những trưởng tộc được ghi trong gia phả; có 20.200 chiến sĩ. Con trai của Giê-đi-a-ên là:Binh-han;các con trai của Binh-han là:Giê-úc, Bên-gia-min, Ê-hút, Kê-na-nia, Xê-than, Ta-rê-xi và A-hi-sa-ha. Những người này là con cháu của Giê-đi-a-ên, đều là trưởng tộc, và số chiến sĩ sẵn sàng ra trận là 17.200 người. Cũng có Súp-bim và Hốp-bim là con trai của Y-rơ và Hu-sim, con trai của A-he. Các con trai của Nép-ta-li:Gia-si-ên, Gu-ni, Giê-se và Sa-lum; chúng đều là con của bà Bi-la. Con cháu Ma-na-se là:Ách-ri-ên do cô hầu người A-ram sinh; người cũng sinh Ma-ki, là tổ phụ của Ga-la-át. Ma-ki cưới vợ cho Hốp-bim và Súp-bim; tên của em gái người là Ma-a-ca, tên của người con thứ là Xê-lô-phát; Xê-lô-phát chỉ có con gái. Ma-a-ca, vợ của Ma-ki sinh một đứa con trai, đặt tên là Phê-rết; em người là Sê-rết. Sê-rết sinh U-lam và Ra-kem. Con trai của U-lam là:Bê-đan;Những người này là con cháu của Ga-la-át, Ma-ki và Ma-na-se. Em gái của người là Ha-mô-lê-kết sinh Y-sốt, A-bi-ê-se và Mác-la. Các con trai của Sê-mi-đa là:A-hi-an, Sê-kem, Li-khi và A-ni-am. Con trai của Ép-ra-im là:Su-tê-la; con Su-tê-la là Bê-re,con của Bê-re là Ta-hát, con của Ta-hát là Ê-lê-a-đa,con trai của Ê-lê-a-đa là Ta-hát. Con trai của Ta-hát là Xa-bát,các con trai của Xa-bát là Su-tê-la, Ê-xe và Ê-lê-át.Hai người sau bị những người bản xứ Gát giết vì chúng nó xuống cướp súc vật của họ. Ép-ra-im, cha chúng nó khóc thương chúng nó nhiều ngày; các anh em người đến an ủi người. Người ăn ở với vợ, bà mang thai và sinh một đứa con trai; người đặt tên là Bê-ri-a vì nhà người bị tai họa. Con gái người là Sê-ê-ra, nàng xây dựng Bết Hô-rôn Hạ và Thượng cùng với U-xên Sê-ê-ra. Người cũng sinh Rê-pha;Rê-pha sinh Rê-sép và Tê-la; Tê-la sinh Ta-han; Ta-han sinh La-ê-đan, La-ê-đan sinh Am-mi-hút;Am-mi-hút sinh Ê-li-sa-ma; Ê-li-a-ma sinh Nun,Nun sinh Giô-suê. Sản nghiệp và những nơi định cư của họ là Bê-tên và các làng; về phía đông là Na-a-ran và phía tây là Ghê-xe và các làng; Si-chem và các làng của nó cho đến Ga-xa và các làng của nó. Dọc theo ranh giới của Ma-na-se là Bết-sê-an và các làng, Ta-nác và các làng, Mê-ghi-đô và các làng, Đô-rơ và các làng nó. Con cháu Giô-sép, con trai của Y-sơ-ra-ên sống tại những nơi này. Các con trai của A-se:Dim-na, Dích-va, Dích-vi, Bê-ri-a. Em gái của chúng là Sê-ra. Các con trai của Bê-ri-a là:Hê-be và Manh-ki-ên, người này là tổ của Biếc-xa-vít. Hê-be là cha của Giáp-phơ-lết, Sô-mê, Hô-tham. Em gái của chúng là Su-a. Các con trai của Giáp-phơ-lết là:Pha-sác, Bim-hanh và A-vát.Đó là các con trai của Giáp-phơ-lết. Các con trai của Sô-mê là:A-hi, Rô-hê-ga, Hu-ba và A-ram. Các con trai của Hê-lem, em người, là:Xô-pha, Dim-na, Sê-lết và A-manh. Các con trai của Xô-pha là:Su-a, Hạt-nê-phe, Su-anh, Bê-ri, Dim-ra, Bết-se, Hốt, Sa-ma, Sinh-sa, Dít-ran và Bê-ê-ra. Các con trai của Giê-the là:Giê-phu-nê, Phít-ba, và A-ra. Các con trai của U-la là:A-ra-a, Ha-ni-ên và Ri-xi-a. Tất cả những người này là con cháu A-se, trưởng tộc, những người chọn lọc, các chiến sĩ can đảm và là những người lãnh đạo hàng đầu. Số người sẵn sàng chiến đấu được ghi trong gia phả là 26.000 người. Bên gia-min sinh Bê-la, con trưởng nam,Ách-bên, con thứ nhì, Ạc-ra, thứ ba, Nô-ha, thứ tư và Ra-pha, thứ năm. Các con trai của Bê-la là:Át-đa, Ghê-ra, A-bi-hút, A-bi-sua, Na-a-man, A-hô-a, Ghê-ra, Sê-phu-phan và Hu-ram. Đây là con cháu của Ê-hút; Những người này đều là trưởng tộc của những người sống ở Gê-ba; họ bị lưu đày sang xứ Ma-na-hát, tức là Na-a-man, A-hi-gia và Ghê-ra; người đem họ đi và sinh U-xa và A-hi-hút. Các con của Sa-ha-ra-im được sinh ra trong xứ Mô-áp sau khi người bỏ các vợ mình là Hu-sim và Ba-ra. Các con trai do Hô-đe sinh là Giô-báp, Xi-bia, Mê-sa, Manh-cam, Giê-út, Sô-kia và Mít-ma. Đây là các con trai người và là trưởng tộc. Người cũng có con trai do bà Hu-sim sinh: A-bi-túp và Ên-ba-anh. Các con trai của Ên-ba-anh là:Ê-be, Mi-sê-am và Sê-mết; người xây thành Ô-nô và Lót cùng các làng nó, Bê-ri-a và Sê-ma; họ là trưởng tộc của những người sống ở A-gia-lôn và đã đánh đuổi dân thành Gát. Các con trai của Bê-ri-a là:A-hi-ô, Sa-sác, Giê-rê-mốt, Xê-ba-đia, A-rát, Ê-đe, Mi-ca-ên, Dít-pha và Giô-ha. Các con trai của Ên-ba-anh là:Xê-ba-đia, Mê-su-lam, Hi-ki, Hê-be, Gít-mê-rai, Gít-lia và Giô-báp. Các con trai của Si-mê-i là:Gia-kim, Xiếc-ri, Xáp-đi, Ê-li-ê-nai, Xi-lê-thai, Ê-li-ên, A-đa-gia, Bê-ra-gia và Sim-rát. Các con trai của Sa-sác là:Gít-ban, Ê-be, Ê-li-ên, Áp-đôn, Xiếc-ri, Ha-nan, Ha-na-nia, Ê-lam, An-tô-ti-gia, Gíp-đê-gia và Phê-nu-ên. Các con trai của Giê-rô-ham là:Sam-sê-rai, Sê-ha-ria, A-ta-li, Gia-rê-sia, Ê-li-gia và Xiếc-ri. Đây là các trưởng tộc theo gia phả, những thủ lãnh; họ sống tại Giê-ru-sa-lem. Cha của Ga-ba-ôn sống tại Ga-ba-ôn; vợ người tên là Ma-a-ca. Con trưởng nam của người là Áp-đôn, rồi đến Xu-rơ, Kích, Ba-anh, Na-đáp, Ghê-đô, A-hi-ô, Xê-ke, và Mích-lô, người này sinh Si-mê-a. Họ sống gần và đối diện với họ hàng mình tại Giê-ru-sa-lem. Nê-rơ sinh Kích; Kích sinh Sau-lơ; Sau-lơ sinh Giô-na-than, Manh-ki-sua, A-bi-na-đáp và Ếch-ba-anh. Con trai của Giô-na-than là:Mê-ri Ba-anh; Mê-ri Ba-anh sinh Mi-ca. Các con trai của Mi-ca là:Phi-thôn, Mê-léc, Ta-rê-a và A-cha. A-cha sinh Giê-hô-a-đa; Giê-hô-a-đa sinh A-lê-mết, Át-ma-vết và Xim-ri; Xim-ri sinh Một-sa; Một-sa sinh Bi-nê-a; con trai của Bi-nê-a là Ra-pha; Ra-pha sinh Ê-lê-a-sa; Ê-lê-a-sa sinh A-xên. A-xên có sáu con trai là:A-ri-kham, Bốc-ru, Ích-ma-ên, Sê-a-ria, Ô-ba-đia và Ha-nan. Tất cả những người này đều là con của A-xên. Các con trai của Ê-sết, anh em của A-xên, là:U-lam, con trưởng nam, Giê-úc, thứ nhì, và Ê-li-phê-lết, thứ ba. Các con trai của U-lam đều là những chiến sĩ can đảm, giỏi về cung tên; chúng có đông con cháu, tất cả là 150 người.Tất cả những người này là con cháu của Bên-gia-min. Vậy tất cả người Y-sơ-ra-ên đều được đăng ký theo gia phả, được ghi chép trong sách của các vua Y-sơ-ra-ên. Người Giu-đa bị lưu đày sang Ba-by-lôn vì tội bất trung của họ. Những người đầu tiên định cư trong các sản nghiệp, các thành của họ là những người Y-sơ-ra-ên, các thầy tế lễ, các người Lê-vi và những người phục vụ đền thờ. Những ngươi Giu-đa, Bên-gia-min, Ép-ra-im và Ma-na-se ở tại thành Giê-ru-sa-lem gồm có: U-thai, con trai của A-mi-hút, A-mi-hút con trai của Ôm-ri, Ôm-ri con trai của Im-ri, Im-ri con trai của Ba-ni, Ba-ni con cháu của Phê-rết, con trai của Giu-đa. Về dòng Si-lô-ni cóA-sai-gia, con trưởng nam và các con trai người. Về dòng Xê-rách có Giê-u-ênvà anh em người, 690 người. Về dòng Bên-gia-min cóSa-lu, con trai Mê-su-lam, Mê-su-lam, con trai Hô-đa-via; Hô-đa-via, con trai A-sê-nu-a; Gíp-ni-gia, con trai Giê-rô-ham; Ê-la, con trai U-xi; U-xi con trai Mi-cơ-ri; Mê-su-lam con trai Sê-pha-tia; Sê-pha-tia con trai Rê-u-ên; Rê-u-ên con trai Gíp-ni-gia; và những anh em của họ theo gia phả là 956 người; tất cả đều là trưởng tộc trong dòng họ mình. Về các thầy tế lễ cóGiê-đai-gia, Giê-hô-gia-ríp, Gia-kin, và A-xa-ria, con trai Hinh-kia; Hinh-kia, con trai Mê-su-lam; Mê-su-lam, con trai Xa-đốc; Xa-đốc, con trai Mê-ra-giốt; Mê-ra-giốt con trai A-hi-túp, là nhân viên cai quản đền Đức Chúa Trời. A-đa-gia, con trai Giê-rô-ham; Giê-rô-ham, con trai Pha-sua; Pha-sua, con trai Manh-ki-gia; Manh-ki-gia, con trai Ma-ê-sai; Ma-ê-sai, con trai A-đi-ên; A-đi-ên, con trai Gia-xê-ra; Gia-xê-ra, con trai Mê-su-lam; Mê-su-lam, con trai Mê-si-lê-mít; Mê-si-lê-mít, con trai Y-mê; và những anh em của họ; số người là 1.760 người; họ đều là trưởng tộc, có khả năng, chịu trách nhiệm phục vụ trong đền Đức Chúa Trời. Về những người Lê-vi cóSê-ma-gia, con trai Ha-súp, cháu A-ri-kham, chắt Ha-sa-bia; chúng là con cháu Mê-ra-ri; Bác-ba-cát, Hê-re, Ga-la, Ma-tha-nia là con cháu của Mi-ca, Xiếc-ri và A-sáp; Ô-ba-đia, con trai của Sê-ma-gia, cháu của Ga-la, chắt của Giê-đu-thun; Bê-rê-kia, con trai A-sa, cháu Ên-ca-na; họ ở trong các làng của người Nê-tô-pha-tít. Về những người giữ cổng cóSa-lum, A-cúp, Tanh-môn, A-hi-man, và các anh em của họ; Sa-lum là trưởng; họ canh giữ cổng Vua ở phía đông cho đến ngày nay và thuộc về trại của những người Lê-vi. Sa-lum, con trai của Cô-rê, cháu Ê-bi-a-sáp, chắt Cô-ra và anh em họ hàng mình; những người Cô-rê có trách nhiệm phục dịch và canh giữ cửa trại đền tạm; tổ tiên họ cũng chịu trách nhiệm canh giữ cửa trại của CHÚA. Xưa kia, Phi-nê-a, con trai Ê-lê-a-sa là người lãnh đạo của họ và CHÚA ở cùng người. Xa-cha-ri, con trai Mê-sê-lê-mi, là người giữ cổng trại Hội Kiến. Những người này là những người được lựa chọn để canh giữ các cửa, tất cả là 212 người; họ được ghi trong gia phả theo các làng của mình. Vua Đa-vít và Sa-mu-ên, vị tiên kiến, đã tín cẩn lập họ giữ các chức vụ này. Họ và con cháu họ lo việc canh giữ cổng đền CHÚA, tức là những người canh gác đền tạm. Những người canh cổng giữ bốn phía đông, tây, bắc, nam; các anh em họ hàng ở trong các làng theo thứ tự mỗi tuần đến giúp đỡ họ. Nhưng bốn người trưởng của những người canh cổng là người Lê-vi; họ được tín cẩn giao phó việc canh giữ các phòng và kho tàng đền Đức Chúa Trời. Họ cũng có trách nhiệm canh giữ chung quanh đền thờ Đức Chúa Trời ban đêm và mở cửa mỗi buổi sáng. Một số người có trách nhiệm giữ các dụng cụ trong đền thờ; họ đếm chúng khi đem vào cũng như lúc lấy ra. Một số khác coi sóc đồ đạc và dụng cụ trong thánh điện cùng bột, rượu, dầu, hương và trầm. Nhưng một số thầy tế lễ lo việc pha chế hương trầm. Ma-ti-thia, con trưởng nam của Sa-lum thuộc họ Cô-rê, người Lê-vi được giao phó việc nướng bánh tế. Một số anh em của họ thuộc dòng Kê-hát thì lo về bánh, sửa soạn cho ngày Sa-bát. Đây là những người ca hát, trưởng tộc trong vòng người Lê-vi, ở trong các phòng trong đền thờ, được miễn các dịch vụ khác vì họ phục vụ suốt ngày đêm. Đó là những trưởng tộc của người Lê-vi theo gia phả; những trưởng tộc này sống trong Giê-ru-sa-lem. Giê-i-ên ở thành Ga-ba-ôn là cha của Ga-ba-ôn;vợ người tên Ma-a-ca. Con trưởng nam của người là Áp-đôn, thứ đến là Xu-rơ, Kích, Ba-anh, Nê-rơ, Na-đáp, Ghê-đô, A-hi-ô, Xa-cha-ri và Mích-lô. Mích-lô sinh Si-mê-am; chúng cùng họ hàng sống trong Giê-ru-sa-lem đối diện với họ hàng mình. Nê-rơ sinh Kích; Kích sinh Sau-lơ; Sau-lơ sinh Giô-na-than, Manh-ki-sua, A-bi-na-đáp và Ếch-ba-anh. Con trai Giô-na-than là:Bê-ri-ba-anh; Mê-ri-ba-anh sinh Mi-ca. Con trai của Mi-ca là:Phi-thôn, Mê-léc, Ta-rê-a và A-cha. A-cha sinh Gia-ê-ra; Gia-ê-ra sinh A-lê-mết, Ách-ma-vết và Xim-ri; Xim-ri sinh Một-sa; Một-sa sinh Bi-nê-a; con trai Bi-nê-a là Rê-pha-gia; Rê-pha-gia sinh Ê-lê-a-sa và Ê-lê-a-sa sinh A-xên. A-xên có sáu người con trai tên làA-ri-kham, Bốc-ru, Ích-ma-ên, Sê-a-ria, Ô-ba-đia và Ha-nan. Những người này đều là con của A-xên. Nguời Phi-li-tin giao chiến với Y-sơ-ra-ên; người Y-sơ-ra-ên bỏ chạy trước mặt người Phi-li-tin; họ ngã gục và bị giết tại núi Ghinh-bô-a. Quân Phi-li-tin truy nã Sau-lơ và các con trai người; chúng giết chết các con trai của Sau-lơ là Giô-na-than, A-bi-na-đáp và Manh-ki-sua. Trận chiến trở nên dữ dội chung quanh Sau-lơ; những binh sĩ dùng cung bắn người và người bị tên bắn trúng thương. Sau-lơ nói với người mang binh khí hầu mình, hãy rút gươm ngươi đâm chết ta đi kẻo những kẻ không cắt bì kia đến và sỉ nhục ta. Nhưng kẻ vác binh khí không dám làm vì quá sợ hãi. Vì thế Sau-lơ lấy gươm và ngã người đâm vào gươm. Người vác binh khí thấy Sau-lơ chết thì cũng ngã người đâm vào gươm chết theo. Bấy giờ, Sau-lơ, ba con trai và cả nhà người đều chết. Khi người Y-sơ-ra-ên ở nơi đồng bằng thấy quân Y-sơ-ra-ên bỏ chạy, Sau-lơ và các con người chết thì bỏ thành chạy trốn; dân Phi-li-tin vào và chiếm lĩnh các thành ấy. Ngày hôm sau, người Phi-li-tin đến để tước đoạt đồ đạc của những kẻ tử trận; họ thấy Sau-lơ và các con trai người gục chết trên núi Ghinh-bô-a. Chúng tước đoạt đồ đạc của Sau-lơ, chặt đầu và lấy binh khí người; chúng cũng sai người đi khắp vùng Phi-li-tin loan báo tin cho các thần tượng lẫn dân chúng. Chúng để binh khí của Sau-lơ trong đền các thần mình còn đầu người thì treo tại đền thần Đa-gôn. Khi dân cư ở Gia-bê Ga-la-át nghe về tất cả những điều dân Phi-li-tin đã làm cho Sau-lơ; những người mạnh mẽ đồng đứng lên, lấy xác của Sau-lơ và các con người đem về Gia-bê và chôn cất hài cốt họ dưới cây sồi tại Gia-bê, rồi họ kiêng ăn bảy ngày. Như vậy, Sau-lơ chết vì tội bất trung với CHÚA; người không tuân giữ lời dạy của CHÚA, lại còn cầu vấn sự hướng dẫn của đồng bóng; Sau-lơ không cầu vấn CHÚA và Ngài giết người đi, chuyển vương quốc của người cho Đa-vít, con trai Y-sai. Toàn thể Y-sơ-ra-ên kéo đến cùng Đa-vít tại Hếp-rôn và nói rằng: “Kìa, chúng tôi vốn là cốt nhục của ông. Trước kia, ngay cả khi Sau-lơ còn là vua, chính ông là người lãnh đạo trong ngoài của Y-sơ-ra-ên. CHÚA, Đức Chúa Trời của ông đã phán cùng ông rằng: ‘Ngươi sẽ chăn dắt Y-sơ-ra-ên, dân ta; ngươi sẽ là người cai trị dân Y-sơ-ra-ên của ta.’” Bấy giờ tất cả các trưởng lão của Y-sơ-ra-ên đến cùng vua tại Hếp-rôn. Đa-vít kết ước với họ trước mặt CHÚA tại Hếp-rôn và họ xức dầu tấn phong Đa-vít làm vua Y-sơ-ra-ên theo như lời CHÚA phán bởi Sa-mu-ên. Đa-vít và cả Y-sơ-ra-ên tiến về Giê-ru-sa-lem, tức là Giê-bu. Người Giê-bu-sít là dân bản xứ đang ở đó. Dân Giê-bu nói với Đa-vít rằng ông không thể vào đồn lũy này được. Nhưng Đa-vít chiếm lĩnh đồn Si-ôn, tức là thành Đa-vít. Đa-vít tuyên bố: “Ai tấn công dân Giê-bu-sít trước hết sẽ được làm tướng, làm trưởng.” Giô-áp, con trai Xê-ru-gia, tiến lên tấn công trước tiên nên ông được làm tướng. Đa-vít cư trú trong đồn nên được gọi là thành Đa-vít. Đa-vít xây dựng các khu vực chung quanh thành, từ Mi-lô đến các vùng chung quanh và Giô-áp sửa chữa phần còn lại của thành. Đa-vít ngày càng cường thịnh vì CHÚA Vạn Quân ở cùng người. Đây là các tướng lĩnh giữa vòng những chiến sĩ dũng mãnh của Đa-vít; họ là những người hổ trợ mạnh mẽ vương quốc của ông, cùng toàn thể Y-sơ-ra-ên tấn phong Đa-vít làm vua theo như lời CHÚA đã hứa về nước Y-sơ-ra-ên. Đây là danh sách những dũng sĩ theo Đa-vít: Gia-sô-bê-am, con trai của Hác-mô-ni, quan trưởng; người đã dùng giáo chống lại ba trăm người và giết chúng trong một trận giao chiến. Kế đến là Ê-lê-a-sa, con trai Đô-đô ở A-hô-a; người là một trong ba dũng sĩ. Người ở cùng Đa-vít tại Pha-đa-mim khi quân Phi-li-tin tập họp lại để giao chiến. Ở đó có một cánh đồng đầy lúa mạch và quân lính bỏ chạy trước quân Phi-li-tin; nhưng những người này đứng giữa đồng chống cự và đánh tan quân Phi-li-tin; như thế CHÚA ban cho họ một cuộc chiến thắng lớn. Ba người trong số ba mươi tướng đi xuống hang đá A-đu-lam, đến cùng Đa-vít. Lúc ấy quân Phi-li-tin đang đóng trại tại thung lũng Rê-pha-im. Bấy giờ Đa-vít ở trong đồn và quân đồn trú Phi-li-tin đang ở tại Bết-lê-hem. Đa-vít khát nước và nói: “Ước gì có ai đem cho ta miếng nước từ giếng bên cửa thành Bết-lê-hem.” Ba người này băng ngang qua trại quân Phi-li-tin, múc nước từ giếng bên cửa thành Bết-lê-hem đem về cho Đa-vít. Nhưng Đa-vít không chịu uống nước; ông đổ nước ra trước mặt CHÚA và nói: “Xin Đức Chúa Trời giữ tôi không làm điều này. Làm sao ta có thể uống máu của những người này vì họ đã liều mạng sống mình để lấy nước?” Như thế Đa-vít không chịu uống nước. Đó là những việc ba người dũng sĩ đã làm. A-bi-sai, em của Giô-áp, là quan trưởng; người dùng giáo chống lại ba trăm người và giết chúng nên người cũng nổi danh trong số ba người ấy. Người được tôn trọng hơn trong ba người ấy và trở nên người chỉ huy của họ nhưng người không bằng ba người kia. Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa ở Cáp-xê-ên, một chiến sĩ dũng mãnh, có nhiều chiến công lớn. Người đã giết hai người con của A-ri-ên, người Mô-áp. Vào một ngày tuyết giá kia, người đi xuống một cái hố và giết một con sư tử. Người cũng đánh giết một người Ai Cập cao hai mét ba dù người Ai Cập này cầm trong tay một cây giáo lớn như cây trục máy dệt. Bê-na-gia dùng một khúc cây đánh với người ấy; người cướp lấy cây giáo nơi tay người Ai Cập và giết người bằng cây giáo ấy. Đó là những việc Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, đã làm; người cũng nổi tiếng trong số ba dũng sĩ. Trong toán ba mươi dũng sĩ, người rất được tôn trọng nhưng không ở trong số ba người kia. Vua Đa-vít đặt người chỉ huy quân cận vệ của mình. Những dũng sĩ mạnh mẽ là:A-sa-ên, em của Giô-áp;Ên-ca-na, con trai của Đô-đô người Bết-lê-hem; Sa-mốt, người Ha-rôn;Hê-lết, người Pha-lôn; Y-ra, con trai của Y-kết, người Thê-kô-a;A-bi-ê-se ở A-na-tốt; Si-bê-cai ở Hu-xa;Y-lai ở A-hô-a; Ma-ha-rai ở Nê-tô-pha;Hê-lết, con trai của Ba-a-na ở Nê-tô-pha; Y-tai, con trai của Ri-bai ở Ghi-bê-a, thuộc con cháu Bên-gia-min;Bê-na-gia ở Phi-ra-thôn; Hu-rai ở Na-ha-lê Ga-ách;A-bi-ên ở A-ra-ba; Ách-ma-vết ở Ba-hu-rim;Ê-li-ác-ba ở Sa-anh-bôn; Bê-nê-ha-sem ở Ghi-xôn;Giô-na-than, con trai của Sa-ghê ở Ha-ra; A-hi-giam, con trai của Sa-ca ở Ha-ra;Ê-li-pha, con trai của U-rơ; Hê-phê ở Mê-kê-ra;A-hi-gia ở pha-lôn; Hết-rô ở Cạt-mên;Na-a-rai, con trai của Ê-bai; Giô-ên, em của Na-than;Mi-bê-ha, con trai của Ha-gơ-ri; Xê-léc là người Am-môn;Na-ha-rai ở Bê-ê-rốt, là người vác binh khí của Giô-áp; con trai của Xê-ru-gia. Y-ra ở Giê-the;Ga-rép cũng ở Giê-the; U-ri người Hê-tít;Xa-bát, con trai của Ạc-lai; A-đi-na, con trai của Si-xa, người Ru-bên; người là một trưởng tộc Ru-bên và có ba mươi người theo mình. Ha-nan, con trai của Ma-a-ca;Giô-sa-phát ở Mê-then; U-xia ở Ách-ta-rốt;Sa-ma và Giê-hi-ên, con trai của Hô-tam ở A-rô-e; Giê-đi-a-ên, con trai của Sim-rivà Giô-ha, em người, là người Thi-sít; Ê-li-ên ở Ma-ha-vim;Giê-ri-bai và Giô-sa-via, con trai của Ên-na-am;Gít-ma là người Mô-áp; Ê-li-ên, Ô-bết và Gia-a-si-ên, là người Bết-sô-ba. Đây là những người đã đến theo Đa-vít tại Xiếc-lác trong khi ông trốn tránh mặt vua Sau-lơ, con trai của Kích; họ là những người trong số các dũng sĩ đã chiến đấu giúp Đa-vít. Họ sử dụng cung; có thể dùng tay phải hay tay trái để ném đá hay bắn tên. Họ là họ hàng của Sau-lơ thuộc chi tộc Bên-gia-min. Đứng đầu là A-hi-ê-xe và Giô-ách, con trai của Sê-ma ở Ghi-bê-a; Giê-xi-ên và Phê-lết, con trai của Ách-ma-vết; Bê-ra-ca và Giê-hu ở A-na-tốt; Gít-ma-giai ở Ga-ba-ôn, là một dũng sĩ và là trưởng trong số ba mươi người; Giê-rê-mi, Gia-ha-xi-ên, Giô-ha-nan, Giô-xa-bát ở Ghê-đê-ra; Ê-lu-xai; Giê-ri-mốt; Bê-a-lia; Sê-ma-ri-a; Sê-pha-tia ở Ha-rốp; Ên-ca-na; Di-si-gia; A-xa-rên; Giô-ê-xe và Gia-sô-bê-am, người Cô-rê; Giô-ê-lê và Xê-ba-đia, con trai của Giê-rô-ham ở Ghê-đô. Một số người Gát tại đồn lũy trong sa mạc đầu quân theo Đa-vít. Họ là những dũng sĩ mạnh mẽ, chiến sĩ tinh nhuệ trận mạc, sử dụng khiên và giáo; diện mạo như sư tử, nhanh nhẹn như linh dương trên núi. Đứng đầu là Ê-xe, Ô-ba-đia thứ nhì, Ê-li-áp thứ ba, Mích-ma-na thứ tư, Giê-rê-mi thứ năm, Ạt-tai thứ sáu, Ê-li-ên thứ bảy, Giô-ha-nan thứ tám, Ên-xa-bát thứ chín, Giê-rê-mi-a thứ mười, Mác-ba-nai thứ mười một. Những người này là con cháu Gát, là tướng trong quân đội; người nhỏ nhất mạnh bằng trăm người, người lớn nhất bằng cả ngàn người. Đây là những người đã vượt qua sông Giô-đanh vào tháng giêng khi nước sông tràn ngập hai bên bờ; họ đánh đuổi tất cả dân cư trong thung lũng về phía đông và phía tây. Một số người Bên-gia-min và Giu-đa cũng tới đồn lũy theo Đa-vít. Đa-vít ra đón họ và nói: “Nếu các ông đến với tinh thần hòa hảo và muốn hỗ trợ tôi thì lòng tôi cũng kết hiệp với các ông; nhưng nếu các ông mưu phản tôi để giúp địch thì nguyện Đức Chúa Trời của tổ tiên chúng ta thấy và đoán phạt các ông vì tay tôi không làm điều gì tàn bạo.” Bấy giờ Thần của Chúa bao phủ A-ma-sai, người đứng đầu ba mươi người kia, nói:“Tâu vua Đa-vít, chúng tôi thuộc về ngài;Thưa con trai Y-sai, chúng tôi theo ngài;Nguyện ngài được bình an, thịnh vượng;Những người hỗ trợ ngài cũng được bình an vì Đức Chúa Trời phù hộ ngài.”Đa-vít tiếp nhận họ và đặt họ đứng đầu các toán quân. Một số người Ma-na-se về theo Đa-vít khi người theo quân Phi-li-tin chiến đấu chống lại Sau-lơ; nhưng họ không giúp gì cả vì sau khi bàn luận, các người lãnh đạo Phi-li-tin sa thải Đa-vít vì cho rằng: “Nếu nó qui phục chủ nó là Sau-lơ thì chúng ta sẽ mất đầu.” Khi Đa-vít đến Xiếc-lác, có mấy người Ma-na-se về theo ông: Át-na, Giô-sa-bát, Giê-đi-a-ên, Mi-ca-ên, Giô-sa-bát, Ê-li-hu và Xi-lê-thai; họ là những người lãnh đạo cả ngàn quân thuộc chi tộc Ma-na-se. Họ hỗ trợ Đa-vít chống lại quân cướp vì họ đều là những dũng sĩ mạnh mẽ và là tướng trong đạo quân. Mỗi ngày có thêm người đến theo và hỗ trợ Đa-vít cho đến khi người có một đạo quân lớn như đạo quân của Đức Chúa Trời. Đây là số người của các đạo quân đã đến Hếp-rôn để trao vương quốc của Sau-lơ cho Đa-vít như lời CHÚA phán. Người Giu-đa có 6.800 người; được trang bị khiên và giáo, sẵn sàng chiến đấu. Người Si-mê-ôn có 7.100 dũng sĩ mạnh mẽ, sẵn sàng chiến đấu. Người Lê-vi có 4.600 người. Giê-hô-gia-đa, trưởng dòng A-rôn và 3.700 người. Xa-đốc, một dũng sĩ trẻ, mạnh mẽ cùng với 22 người lãnh đạo trong nhà cha mình. Người Bên-gia-min, họ hàng với Sau-lơ, có 3.000 người. Cho đến bấy giờ, đa số người Bên-gia-min còn trung thành với nhà Sau-lơ. Người Ép-ra-im có 20.800 người, đều là những dũng sĩ mạnh mẽ danh tiếng trong họ nhà mình. Nửa chi tộc Ma-na-se, 18.000 người được cử ra theo tên để đến tấn phong Đa-vít làm vua. Người Y-sa-ca, là những người hiểu biết thời thế, biết dân Y-sơ-ra-ên phải làm gì, có 200 trưởng tộc cùng tất cả họ hàng dưới sự hướng dẫn của họ. Người Sa-bu-luân, có 50.000 người biết sử dụng đủ loại vũ khí, sẵn sàng ra trận; họ một lòng trung thành với Đa-vít. Người Nép-ta-li, có 1.000 người chỉ huy cùng với 37.000 quân cầm khiên và giáo theo họ. Người Đan, có 28.600 người sẵn sàng ra trận. Người A-se, có 40.000 người sẵn sàng ra trận. Còn về phía đông sông Giô-đanh, có 120.000 người Ru-bên, người Gát và một nửa chi tộc Ma-na-se với đủ loại vũ khí chiến tranh. Tất cả những người này đều là những chiến sĩ trong hàng ngũ chiến đấu, quyết tâm đến Hếp-rôn để tấn phong Đa-vít làm vua trên toàn cõi Y-sơ-ra-ên; tất cả những người lãnh đạo Y-sơ-ra-ên khác cũng một lòng tấn phong Đa-vít làm vua. Họ ở lại với vua Đa-vít ba ngày và ăn uống vì họ hàng mình cung cấp cho. Những người lân cận đến tận Y-sa-ca, Sa-bu-luân và Nép-ta-li cũng dùng lừa, lạc đà, la và bò chở thực phẩm đến. Họ cung cấp rất nhiều bột mì, bánh vả, bánh nho, rượu, dầu, bò và cừu vì có sự vui mừng trong nước Y-sơ-ra-ên. Bấy giờ Đa-vít tham khảo ý kiến những người chỉ huy ngàn quân và trăm quân cùng tất cả các quan. Đa-vít nói với toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên: “Nếu các người thấy tốt và hợp ý CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta, hãy sai người đi đến cùng anh chị em ở khắp xứ Y-sơ-ra-ên, cũng mời các thầy tế lễ, người Lê-vi trong các thành và vùng đồng quê, để tụ họp họ lại cùng chúng ta. Chúng ta hãy đem rương giao ước của Đức Chúa Trời về cùng chúng ta vì trong thời Sau-lơ chúng ta không cầu vấn Chúa.” Cả hội chúng bằng lòng làm như thế vì họ thấy điều đó là phải. Vậy, Đa-vít tụ họp tất cả người Y-sơ-ra-ên từ Si-hô ở Ai Cập đến tận cổng Ha-mát để đem rương giao ước của Đức Chúa Trời từ Ki-ri-át Giê-a-rim về. Đa-vít và toàn thể người Y-sơ-ra-ên đi lên Ba-a-la, tức là Ki-ri-át Giê-a-rim, ở trong vùng Giu-đa để lấy rương giao ước, là rương mang tên Đức Chúa Trời, tức là CHÚA, Đấng ngự giữa các chê-ru-bim. Họ chở rương giao ước của Đức Chúa Trời trên một chiếc xe mới từ nhà A-bi-na-đáp; có U-xa và A-hi-ô hướng dẫn xe. Vua Đa-vít và toàn thể người Y-sơ-ra-ên hết sức vui mừng nhảy múa trước mặt Đức Chúa Trời giữa tiếng hát, đàn hạc, đàn lia, trống cơm, chập chỏa và kèn. Khi đến sân đạp lúa của Ki-đôn, U-xa đưa tay giữ lấy rương cho vững vì con bò vấp chân. CHÚA nổi giận cùng U-xa và đánh phạt người vì người đã đưa tay đụng đến rương giao ước, và người chết tại đó, ngay trước mặt Đức Chúa Trời. Đa-vít giận vì CHÚA đã đổ cơn thịnh nộ trên U-xa, người gọi nơi ấy là Bê-rết U-xa cho đến ngày nay. Ngày hôm ấy, Đa-vít sợ Đức Chúa Trời và nói rằng: “Làm sao ta có thể đem rương giao ước của Đức Chúa Trời về nhà ta được?” Vậy, Đa-vít không đem rương giao ước về nhà mình trong thành Đa-vít nhưng đem rương qua nhà Ô-bết Ê-đôm, người Gát. Rương giao ước của Đức Chúa Trời ở trong nhà của Ô-bết Ê-đôm ba tháng; CHÚA ban phước cho nhà Ô-bết Ê-đôm và mọi sự thuộc về người. Hi-ram, vua thành Ty-rơ, gởi sứ giả đến cùng vua Đa-vít và cũng gởi gỗ bá hương, thợ nề, thợ mộc để xây cung điện cho vua. Đa-vít biết rằng CHÚA đã thiết lập ông làm vua trên Y-sơ-ra-ên và vương quốc mình được hưng thịnh là vì dân Y-sơ-ra-ên của Ngài. Khi ở tại Giê-ru-sa-lem vua Đa-vít lấy thêm vợ và có thêm con trai, con gái. Đây là tên những người con sinh tại Giê-ru-sa-lem: Sa-mua, Sô-báp, Na-than, Sa-lô-môn, Gi-ba, Ê-li-sua, Ên-bê-lết, Nô-ga, Nê-phết, Gia-phia, Ê-li-sa-ma, Bê-ên-gia-đa và Ê-li-phê-lết. Khi dân Phi-li-tin nghe tin Đa-vít được xức dầu tấn phong làm vua trên toàn thể Y-sơ-ra-ên, toàn quân Phi-li-tin đi lên tìm Đa-vít. Vua Đa-vít nghe thế, đi ra đón chúng nó. Bấy giờ quân Phi-li-tin đến và cướp phá thung lũng Rê-pha-im. Vua Đa-vít cầu vấn Đức Chúa Trời: “Con có nên đi ra đánh quân Phi-li-tin không? Ngài có trao chúng nó vào tay con không?” CHÚA đáp: “Hãy đi ra, Ta sẽ trao chúng nó vào tay con.” Vậy, họ tiến lên Ba-anh Phê-ra-xim và vua Đa-vít đánh bại quân Phi-li-tin ở đó. Đa-vít bảo: “Đức Chúa Trời đã dùng tay ta đánh tan quân thù như nước vỡ bờ, cho nên người ta gọi chỗ đó là Ba-anh Phê-ra-xim.” Quân Phi-li-tin bỏ lại tại đó các thần tượng của mình; vua Đa-vít ra lệnh đốt chúng trong lửa. Một lần nữa, quân Phi-li-tin lại cướp phá thung lũng. Vua Đa-vít lại cầu vấn Đức Chúa Trời; Ngài đáp lời rằng: “Đừng đi lên theo chúng nó, nhưng hãy đi vòng quanh và tấn công chúng tại phía trước bụi cây bóng nước. Khi ngươi nghe tiếng chân bước trên đầu cây bóng nước, hãy ra trận vì Đức Chúa Trời sẽ đi ra trước ngươi để đánh quân đội Phi-li-tin.” Vua Đa-vít làm y như Đức Chúa Trời đã truyền; người đánh tan quân đội Phi-li-tin từ Ga-ba-ôn đến Ghê-xe. Danh tiếng vua Đa-vít lan truyền khắp các vùng và CHÚA làm tất cả các nước đều sợ hãi vua. Vua Đa-vít xây cung điện cho mình trong thành Đa-vít; người cũng chuẩn bị chỗ và dựng một trại cho rương giao ước của Đức Chúa Trời. Bấy giờ vua Đa-vít nói rằng: “Không ai được khiêng rương giao ước của Đức Chúa Trời ngoại trừ những người Lê-vi vì CHÚA đã chọn họ để khiêng rương giao ước và phụng vụ CHÚA đời đời.” Vua Đa-vít triệu tập tất cả người Y-sơ-ra-ên về Giê-ru-sa-lem để đem rương giao ước của CHÚA đến chỗ người đã chuẩn bị sẵn. Vua Đa-vít tập họp con cháu A-rôn và Lê-vi: Dòng dõi Kê-hát;U-ri-ên, là lãnh đạo và họ hàng người; 120 người. Dòng dõi Mê-ra-ri,A-sa-gia là lãnh đạo và họ hàng người; 220 người. Dòng dõi Ghẹt-sôn,Giô-ên là lãnh đạo và họ hàng người; 130 người. Dòng dõi Ê-li-sa-phan,Sê-ma-gia là lãnh đạo và họ hàng người; 200 người. Dòng dõi Hếp-rôn,Ê-li-ên là lãnh đạo và họ hàng người; 80 người. dòng dõi U-xi-ên,A-mi-na-đáp là lãnh đạo và họ hàng người; 112 người. Vua Đa-vít gọi thầy tế lễ Xa-đốc và A-bia-tha cùng những người Lê-vi: U-ri-ên, A-sa-gia, Giô-ên, Sê-ma-gia, Ê-li-ên và A-mi-na-đáp. Người bảo họ, các ngươi là những trưởng tộc Lê-vi, hãy thanh tẩy mình cùng anh em mình để khiêng rương giao ước của CHÚA, tức là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, lên nơi ta đã chuẩn bị sẵn. Vì lần trước, các ngươi đã không khiêng rương nên CHÚA, Đức Chúa Trời đã nổi cơn thịnh nộ cùng chúng ta. Chúng ta đã không thỉnh ý Ngài như cách Ngài truyền. Vậy, các thầy tế lễ và người Lê-vi thanh tẩy chính mình rồi khiêng rương giao ước của CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Những người Lê-vi dùng đòn khiêng rương giao ước của Đức Chúa Trời trên vai y như Môi-se đã truyền theo lời của CHÚA. Vua Đa-vít truyền cho các người lãnh đạo Lê-vi cử những anh em của họ là những người ca hát dùng đàn hạc, đàn lia, chập chỏa ca hát vui vẻ. Người Lê-vi cử Hê-man, con trai Giô-ên và các anh em người, A-sáp, con trai của Bê-rê-kia; các con trai của Mê-ra-ri, họ hàng của chúng nó; Ê-than, con trai của Cu-sa-gia; cùng với họ còn có những người họ hàng dòng thứ: Xa-cha-ri, Bên, Gia-xi-ên, Sê-mi-ra-mốt, Giê-hi-ên, U-ni, Ê-li-áp, Bê-na-gia, Ma-a-xê-gia, Ma-ti-thia, Ê-li-phê-lêt, Mích-nê-gia, Ô-bết-ê-đôm và Giê-i-ên là người giữ cổng. Những người ca hát là Hê-man, A-sáp và Ê-than đánh chập chỏa đồng. Xa-cha-ri, A-xi-ên, Sê-mi-ra-mốt, Giê-hi-ên, U-ni, Ê-li-áp, Ma-a-xê-gia và Bê-na-gia chơi đàn lia theo điệu A-la-mốt. Ma-ti-thia, Ê-li-phê-lêt, Mích-nê-gia, Ô-bết-ê-đôm, Giê-i-ên và A-xa-xia dùng đàn hạc hướng dẫn theo điệu Sê-mi-ni. Kê-na-nia, lãnh đạo của người Lê-vi về ca hát; ông coi việc ca hát vì có khả năng này. Bê-rê-kia và Ê-ca-na giữ cổng trước rương giao ước. Sê-ba-nia, Giô-sa-phát, Nê-tha-na-ên, A-ma-xai, Xa-cha-ri, Bê-na-gia và Ê-li-ê-se là những thầy tế lễ thổi kèn trước rương giao ước của Đức Chúa Trời; Ô-bết-ê-đôm và Giê-hi-gia giữ cổng trước rương giao ước. Vậy, vua Đa-vít, các trưởng lão Y-sơ-ra-ên và những người chỉ huy ngàn quân vui mừng đi rước rương giao ước của CHÚA từ nhà Ô-bết-ê-đôm. Vì Đức Chúa Trời phù hộ những người Lê-vi khiêng rương giao ước của CHÚA nên họ dâng tế lễ bảy con bò và bảy con chiên đực. Vua Đa-vít và tất cả những người Lê-vi khiêng rương giao ước, những người ca hát, Kê-na-nia, người đứng đầu những người ca hát đều mặc áo dài vải gai mịn; vua Đa-vít cũng đeo một cái ê-phót vải gai. Toàn thể Y-sơ-ra-ên rước rương giao ước của CHÚA trong tiếng reo hò, tiếng loa, tiếng kèn, chập chỏa cùng với đàn hạc, đàn lia. Khi rương giao ước của CHÚA vào thành Đa-vít, Mi-canh con gái vua Sau-lơ từ cửa sổ nhìn xuống thấy vua Đa-vít nhảy múa vui vẻ thì trong lòng khinh bỉ người. Người ta rước rương giao ước của Đức Chúa Trời và đặt trong trại mà vua Đa-vít đã dựng; họ cũng dâng tế lễ thiêu và tế lễ cầu an trước mặt Đức Chúa Trời. Sau khi dâng tế lễ thiêu và tế lễ cầu an, vua Đa-vít nhân danh CHÚA chúc phước cho dân chúng. Vua cũng ban cho mọi người Y-sơ-ra-ên, cả nam lẫn nữ, mỗi người một ổ bánh, một cái bánh chà là và một cái bánh nho. Vua lập một số người Lê-vi phụng vụ trước rương giao ước của CHÚA, để cầu khẩn, cảm tạ và ca ngợi CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. A-sáp là trưởng, phó là Xa-cha-ri, rồi đến Giê-i-ên, Sê-mi-ra-mốt, Giê-hi-ên, Ma-ti-thia, Ê-li-áp, Bê-na-gia, Ô-bết-ê-đôm và Giê-i-ên. Họ sử dụng các nhạc khí như đàn hạc, đàn lia; A-sáp đánh chập chỏa; hai thầy tế lễ Bê-na-gia và Giê-i-ên thường xuyên thổi kèn trước rương giao ước của Đức Chúa Trời. Ngày hôm ấy, lần đầu tiên, vua Đa-vít ban lệnh cho A-sáp và họ hàng ông giữ nhiệm vụ cảm tạ CHÚA: “Hãy cảm tạ CHÚA, cầu khẩn danh Ngài;Hãy truyền bá công việc Ngài giữa các dân. Hãy ca hát cho Ngài, hãy ca ngợi Ngài;Hãy suy gẫm mọi công việc kỳ diệu của Ngài. Hãy hân hoan trong danh thánh Ngài;Nguyện lòng những người tìm kiếm CHÚA vui vẻ. Hãy tìm CHÚA và sức mạnh của Ngài;Hãy luôn luôn tìm kiếm mặt Ngài. Hãy ghi nhớ những công việc kỳ diệu Ngài đã làm,Những phép lạ và những phán xét Ngài đã phán; Hỡi dòng dõi Y-sơ-ra-ên, tôi tớ Ngài,Hỡi con cháu Gia-cốp, những người Ngài đã chọn. Chính Ngài là CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta,Ngài phán xét trên khắp trái đất. Hãy ghi nhớ giao ước Ngài muôn đờiVà lệnh Ngài truyền đến ngàn thế hệ. Tức là giao ước Ngài đã lập với Áp-ra-hamVà lời thề cùng Y-sác; Qui luật Ngài đã xác lậpVới Gia-cốp, giao ước đời đời với Y-sơ-ra-ên. Ngài phán: ‘Ta sẽ ban cho ngươi đất Ca-na-anLàm phần cơ nghiệp;’ Khi ấy, dân ngươi rất ít,Là những kẻ kiều cư trong xứ; Lang thang từ nước này sang nước khác,Từ dân này đến dân nọ. Ngài không cho ai áp chế chúng,Ngài quở trách các vua vì cớ họ. Chớ đụng đến những kẻ được xức dầu của ta;Cũng đừng hại các tiên tri của ta. Mọi người trên trái đất, hãy ca hát cho CHÚA;Hằng ngày hãy công bố sự cứu rỗi của Ngài. Hãy tuyên xưng sự vinh quang của Ngài giữa các nước,Những công việc kỳ diệu của Ngài giữa các dân. Vì CHÚA là vĩ đại và rất đáng được ca ngợi;Ngài đáng được kính sợ hơn hết thảy các thần. Vì tất cả các thần của các dân chỉ là hình tượngNhưng CHÚA làm nên các tầng trời. Trước mặt Ngài là huy hoàng và oai nghi,Nơi Ngài ngự là sức mạnh và vui vẻ. Hỡi các dân tộc, hãy dâng lên CHÚA,Hãy dâng lên CHÚA vinh quang và sức mạnh. Hãy dâng lên CHÚA vinh quang xứng với danh Ngài;Hãy đem lễ vật đến trước mặt Ngài,Hãy thờ lạy CHÚA trong sự huy hoàng thánh khiết. Cả trái đất, hãy run sợ trước mặt Ngài;Thật vậy, Ngài thiết lập thế giới và nó không lay chuyển. Hỡi các tầng trời, hãy vui mừng; hỡi trái đất, hãy vui vẻ;Hỡi dân cư các nước, hãy tuyên xưng: ‘CHÚA là vua cai trị.’ Biển và mọi vật trong biển gầm thét;Đồng nội và mọi vật trong đó đều hân hoan. Bấy giờ cây cối trong rừng sẽ ca hát vui vẻTrước mặt CHÚA,Vì Ngài đến để phán xét trái đất. Hãy cảm tạ CHÚA vì Ngài là thiện;Tình yêu thương Ngài còn đến đời đời.” Hãy nói: “Lạy Đức Chúa Trời, Đấng cứu rỗi chúng tôi, xin cứu rỗi chúng tôi;Xin tập họp và giải cứu chúng tôi từ các nướcĐể chúng tôi cảm tạ danh thánh NgàiVà được vinh hiển trong khi ca ngợi Ngài.” CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ênĐáng được chúc tụng đời đời.Toàn dân hãy nói: “A-men! Ha-lê-lu-gia!” Vua Đa-vít để A-sáp và họ hàng người ở lại đó, túc trực trước rương giao ước của CHÚA và thường xuyên mỗi ngày phụng vụ rương giao ước theo qui định. Vua cũng đặt Ô-bết Ê-đôm và họ hàng người, sáu mươi tám người ở đó; Ô-bết Ê-đôm, con trai của Giê-đu-thun, và Hô-sa là người giữ cổng; Vua lập thầy tế lễ Xa-đốc và những thầy tế lễ họ hàng người túc trực đền tạm của CHÚA, được đặt ở một nơi cao tại Ga-ba-ôn, để thường xuyên mỗi sáng và chiều dâng tế lễ thiêu cho CHÚA trên bàn thờ tế lễ thiêu theo như mọi điều ghi chép trong luật của CHÚA đã truyền cho Y-sơ-ra-ên. Cùng với những người ấy, Hê-man, Giê-đu-thun và những người chọn lựa khác được đề cử theo tên để cảm tạ CHÚA vì tình yêu thương Ngài còn đến đời đời. Còn Hê-man và Giê-đu-thun sử dụng kèn, chập chỏa và những nhạc cụ dùng trong các bài hát ca tụng Đức Chúa Trời. Các con của Giê-đu-thun lo việc giữ cổng. Tất cả mọi người ra về, ai về nhà nấy; còn vua Đa-vít trở về nhà để chúc phước cho gia đình mình. Sau khi vua Đa-vít an cư trong cung điện mình, vua nói với tiên tri Na-than: “Này ta ở trong cung điện bằng gỗ bá hương còn rương giao ước của CHÚA thì ở trong trại.” Na-than đáp lời vua Đa-vít: “Vua hãy làm mọi điều lòng mình muốn vì Đức Chúa Trời ở cùng vua.” Nhưng tối hôm ấy có lời của Đức Chúa Trời phán cùng Na-than: “Hãy đi, nói với Đa-vít, tôi tớ ta, CHÚA phán như vầy: ‘Ngươi không phải là người sẽ xây đền thờ cho ta ngự.’ Vì từ ngày ta đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập, ta không ở trong nhà. Ta đã di chuyển từ trại này sang trại kia, từ chỗ ở này đến chỗ ở nọ. Trong mọi nơi ta đã đi cùng Y-sơ-ra-ên, có khi nào ta bảo cùng một trong những người lãnh đạo của Y-sơ-ra-ên, những người ta đã truyền chăn giữ dân ta, rằng: Sao các ngươi không xây cho ta một ngôi nhà bằng gỗ bá hương?” Bây giờ, hãy nói với Đa-vít, tôi tớ ta, CHÚA Vạn Quân phán như vầy: “Ta đã đem ngươi ra từ đồng cỏ, từ một kẻ chăn cừu để làm người cai trị dân Y-sơ-ra-ên ta. Ta đã ở cùng ngươi trong mọi nơi ngươi đi, diệt hết thù địch trước mặt ngươi; ta sẽ làm cho ngươi nổi danh như những người vĩ đại nổi danh trên thế giới. Ta sẽ lập một nơi cho dân Y-sơ-ra-ên ta, ta sẽ trồng chúng nó tại đó để chúng có một quê hương và không bị quấy rối nữa; quân gian ác cũng sẽ không còn áp bức chúng như thuở ban đầu, từ khi ta lập các người lãnh đạo trên dân Y-sơ-ra-ên ta, và ta sẽ bắt mọi kẻ thù địch qui phục ngươi. Ta công bố cho ngươi biết CHÚA sẽ xây cất một cung điện cho ngươi. Khi phần ngươi đã mãn, trở về với tổ tiên, ta sẽ cho dòng dõi ngươi, một trong những con trai ngươi, sẽ đứng lên kế vị ngươi; ta sẽ lập vương quốc người vững chắc. Người sẽ xây đền cho ta, ta sẽ lập ngai người bền vững mãi mãi. Chính ta sẽ làm cha người và người sẽ là con ta và ta sẽ không rút lại tình yêu thương của ta khỏi người như ta đã rút lại khỏi kẻ tiền nhiệm ngươi. Ta sẽ lập người trên nhà và trên vương quốc ta đời đời; ngai người sẽ được vững lập mãi mãi.” Na-than trình lại tất cả những lời và mạc khải trên cho Đa-vít. Bấy giờ vua Đa-vít đi vào, ngồi trước mặt CHÚA và thưa rằng: “Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời, con là ai? Gia đình con là gì mà Ngài đem con đến địa vị này. Điều này dường như vẫn còn nhỏ trước mắt Chúa; lạy CHÚA, Đức Chúa Trời, Ngài cũng hứa cho nhà của tôi tớ Chúa một tương lai và coi con như một người cao quí nhất. Đa-vít này không đủ lời để cảm tạ Chúa về sự vinh dự mà Ngài đã ban cho tôi tớ Ngài vì Ngài biết rõ tôi tớ Ngài. Lạy CHÚA, vì tôi tớ Chúa và theo ý Chúa, Ngài đã làm điều lớn lao này và cho biết những điều vĩ đại. Lạy CHÚA, không có ai như Ngài và như tai chúng tôi vẫn nghe, không có Đức Chúa Trời nào khác ngoài Ngài. Có dân tộc nào trên trái đất như dân Ngài, một nước đặc biệt, là Y-sơ-ra-ên; Ngài đã đi ra, cứu chuộc cho mình một dân tộc; làm cho Danh Ngài vĩ đại và đáng kính sợ khi đánh đuổi các nước khỏi trước mặt dân Ngài, là dân Ngài đã cứu chuộc khỏi Ai Cập. Ngài đã chọn dân Y-sơ-ra-ên làm dân của chính mình đời đời và chính CHÚA là Đức Chúa Trời của họ. Giờ đây, lạy CHÚA, nguyện lời Ngài đã hứa cùng tôi tớ Chúa và nhà người được thiết lập đời đời; xin Ngài hãy thực hiện điều Ngài đã hứa; để Danh Ngài tồn tại và vĩ đại đời đời. Người ta sẽ nói: CHÚA Vạn Quân là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Đức Chúa Trời cho Y-sơ-ra-ên và nhà Đa-vít, tôi tớ Ngài được thiết lập trước mặt Ngài. Thật vậy, lạy Đức Chúa Trời của con, Ngài đã bày tỏ cho tôi tớ Chúa rằng Ngài sẽ xây cho người một ngôi nhà, vì thế tôi tớ Chúa mới dám cầu nguyện trước mặt Ngài. Giờ đây, lạy CHÚA, là Đức Chúa Trời, Ngài đã hứa cho tôi tớ Chúa điều tốt đẹp này. Thật vậy, Ngài đã vui lòng ban phước cho nhà tôi tớ Chúa được tồn tại trước mặt Ngài đời đời; vì lạy CHÚA, chính Ngài đã ban phước thì nó sẽ được phước đời đời.” Sau đó vua Đa-vít đánh bại quân Phi-li-tin và bắt chúng nó qui phục; vua cũng chiếm cứ thành Gát và các làng chung quanh của người Phi-li-tin. Vua cũng đánh bại dân Mô-áp; người Mô-áp phải thần phục và triều cống vua Đa-vít. Vua Đa-vít cũng đánh bại Ha-đa-rê-xe, vua Xô-ba tại Ha-mát, khi vua này đi lập quyền kiểm soát của mình trên sông Ơ-phơ-rát. Vua Đa-vít chiếm một ngàn xe chiến mã, bảy ngàn kỵ binh, hai mươi ngàn lính bộ; vua cho cắt hết gân chân của ngựa kéo xe chỉ chừa lại một trăm con. Khi quân Sy-ri ở Đa-mách đến tiếp viện cho Ha-đa-xê-re, vua Xô-ba, vua Đa-vít đánh bại hai mươi hai ngàn quân Sy-ri. Vua Đa-vít lập đồn trong Sy-ri của Đa-mách; người Sy-ri phải thần phục và triều cống vua Đa-vít. CHÚA cho vua Đa-vít đi đến đâu, chiến thắng đến đó. Vua Đa-vít lấy các khiên bằng vàng mà các tướng của Ha-đa-rê-xe mang và đem về Giê-ru-sa-lem. Vua cũng lấy rất nhiều đồng từ các thành Ti-bát và Cun của Ha-đa-rê-xe; sau này vua Sa-lô-môn dùng đồng ấy làm bồn nước, cột và những vật dụng khác. Khi Tô-hu, vua Ha-mát nghe tin vua Đa-vít đánh bại toàn quân của Ha-đa-rê-xe, vua Xô-ba; người sai con trai mình là Ha-đô-ram đến chào và chúc mừng vua Đa-vít vì người đã chiến thắng Ha-đa-rê-xe. Vua Tô-hu cũng hay có chiến tranh với Ha-đa-rê-xe; vua gởi đủ thứ vật dụng bằng vàng, bạc và đồng đến tặng vua Đa-vít. Vua Đa-vít dâng hiến những vật dụng này cho CHÚA cùng với bạc, vàng vua đã chiếm được từ các nước Ê-đôm, Mô-áp, A-môn, Phi-li-tin và A-ma-léc. A-bi-sai, con trai Xê-ru-gia đánh bại mười tám ngàn quân Ê-đôm tại thung lũng muối. Người lập các đồn tại Ê-đôm và người Ê-đôm phải thần phục vua Đa-vít. CHÚA cho vua Đa-vít đi đến đâu, chiến thắng đến đó. Như thế, vua Đa-vít trị vì trên toàn thể Y-sơ-ra-ên; người làm điều công bình chính trực cho toàn dân. Giô-áp, con trai Xê-ru-gia, thống lĩnh quân đội; Giô-sa-phát, con trai A-hi-lút, thượng thư bộ lễ; Xa-đốc, con trai A-hi-túp và A-bi-mê-léc, con trai A-bi-tha, làm thầy tế lễ; Sa-vê-sa làm thư ký; Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, chỉ huy người Kê-rê-thít và người Phê-lê-thít; còn các con trai vua Đa-vít đều là những thủ lĩnh bên cạnh vua. Sau một thời gian, Na-hách, vua dân Am-môn qua đời, con trai người lên kế vị. Vua Đa-vít nói: “Ta sẽ lấy tình thương mà đối xử với Ha-nun, con trai của Na-hách, vì cha người đã lấy tình thương đối xử với ta.” Vua Đa-vít gởi sứ giả đến chia buồn với Ha-nun về vua cha. Vậy, các bề tôi của vua Đa-vít đến cùng Ha-nun trong đất Am-môn để chia buồn cùng vua. Nhưng các tướng lãnh Am-môn nói với vua rằng: “Ngài tưởng Đa-vít sai người đến chia buồn với ngài là vì tôn kính vua cha sao? Không phải các bề tôi của hắn đến với ngài để quan sát, do thám và lật đổ đất nước này sao?” Như thế Ha-nun bắt các bề tôi của Đa-vít, cạo râu, cắt vạt áo đến lưng rồi đuổi về. Người ta báo cho vua Đa-vít tình cảnh của những người này; vua sai người đi đón các sứ giả và bảo họ ở tại thành Giê-ri-cô cho đến khi râu mọc lại rồi hãy trở về vì họ rất hổ thẹn. Khi dân Am-môn thấy mình trở nên như mùi hôi tanh đối với Đa-vít, vua Ha-nun và dân Am-môn sai người đem ba mươi bốn tấn bạc đi mướn xe chiến mã và kỵ binh của A-ram Na-ha-ra, A-ram Ma-a-ca và Xô-ba. Họ mướn ba mươi hai ngàn xe chiến mã cùng vua Ma-a-ca và quân đội người; chúng đến và đóng quân phía trước Mê-đê-ba. Còn dân Am-môn từ các thành của họ tụ họp lại và tiến ra chiến trận. Nghe như thế, vua Đa-vít cử Giô-áp đem cả đạo quân ra, toàn là dũng sĩ. Người Am-môn tiến ra, dàn trận tại cổng thành; còn các vua đã đến thì đóng nơi đồng trống. Khi thấy quân địch dàn trận phía trước lẫn phía sau mình, Giô-áp chọn những binh sĩ tinh nhuệ nhất của Y-sơ-ra-ên và đặt họ đối diện với quân Sy-ri. Quân còn lại ông trao cho A-bi-sai, em mình chỉ huy, và đặt họ đối diện với quân Am-môn. Giô-áp bảo: “Nếu quân Sy-ri mạnh hơn anh, em sẽ tiếp cứu anh; nếu quân Am-môn mạnh hơn em, anh sẽ tiếp cứu em. Hãy mạnh mẽ và can đảm chiến đấu cho dân tộc chúng ta, cho các thành của Đức Chúa Trời chúng ta. CHÚA sẽ làm điều tốt đẹp theo mắt Ngài.” Bấy giờ Giô-áp tiến quân tấn công quân Sy-ri và chúng bỏ chạy trước mặt người. Quân Am-môn thấy quân Sy-ri bỏ chạy cũng chạy trốn trước mặt A-bi-sai, em Giô-áp; chúng chạy vào thành mình. Như vậy Giô-áp trở về Giê-ru-sa-lem. Khi người Sy-ri thấy mình bị thua quân Y-sơ-ra-ên; họ gởi sứ giả cầu viện quân Sy-ri từ bên kia sông Ơ-phơ-rát đến; có tướng Sô-phác của đạo quân Ha-đa-rê-xe thống lĩnh. Khi hay tin, Đa-vít tập họp toàn quân Y-sơ-ra-ên, vượt sông Giô-đanh, tiến ra trận; người dàn quân đối diện quân địch. Đa-vít dàn quân giao chiến và quân Sy-ri chiến đấu chống lại người. Quân Sy-ri thua chạy trước quân Y-sơ-ra-ên. Đa-vít tiêu diệt bảy ngàn kỵ binh và bốn chục ngàn bộ binh Sy-ri; người cũng giết Sô-phác, tướng thống lĩnh đạo binh của chúng. Khi các vua chư hầu của Ha-đa-rê-xe thấy họ bị Y-sơ-ra-ên đánh bại thì cầu hòa với vua Đa-vít và thần phục người; còn người Sy-ri thì không muốn tiếp cứu người Am-môn nữa. Vào mùa xuân năm sau, lúc các vua ra đi chinh chiến; Giô-áp đem quân tàn phá lãnh thổ người Am-môn; người đến và bao vây thành Ra-ba, còn Đa-vít ở lại thành Giê-ru-sa-lem. Giô-áp tấn công và hủy phá thành Ra-ba. Đa-vít lấy cái mão cẩn ngọc quí, cân nặng đến 34 ký-lô vàng trên đầu vua của chúng đội lên đầu mình. Người cũng chiếm đoạt nhiều chiến lợi phẩm trong thành. Còn dân trong thành, vua đem ra bắt làm lao công sử dụng cưa, bừa sắt và rìu; vua Đa-vít làm như vậy với tất cả các thành của dân Am-môn. Bấy giờ vua Đa-vít và toàn quân trở về Giê-ru-sa-lem. Sau đó, có chiến tranh với người Phi-li-tin tại Ghê-xe; Si-bê-cai người Hu-sa-tít đánh giết Síp-bai, một trong những con cháu của những người khổng lồ; thế là chúng phải thuận phục. Lại có chiến tranh với người Phi-li-tin, Ên-ha-nan, con trai của Giai-rơ đánh giết Lác-mi, em của Gô-li-át, người Gát; cán giáo của nó lớn như trục khung cửi thợ dệt. Trong một trận chiến khác tại Gát, có một người khổng lồ chân tay có sáu ngón, tất cả là hai mươi bốn ngón; người này cũng thuộc dòng dõi người khổng lồ. Hắn chửi rủa Y-sơ-ra-ên nhưng Giô-na-than, con trai của Si-mê-a, anh Đa-vít, đánh giết nó. Những người này thuộc dòng dõi những người khổng lồ tại Gát, chúng bị Đa-vít và bầy tôi người đánh hạ. Sa-tan nổi lên chống Y-sơ-ra-ên; nó xúi giục vua Đa-vít kiểm tra dân Y-sơ-ra-ên. Vua Đa-vít bảo Giô-áp và các người lãnh đạo dân chúng: “Hãy đi kiểm kê dân số Y-sơ-ra-ên từ Bê-e Sê-ba đến Đan và cho ta biết dân số.” Giô-áp thưa: “Nguyện CHÚA tăng dân số Ngài lên gấp trăm lần. Tâu vua, chúa tôi, không phải tất cả đều là thần dân của chúa sao? Tại sao chúa tôi lại muốn làm điều này? Ngài muốn Y-sơ-ra-ên phải mắc tội sao?” Nhưng lệnh vua thắng hơn lời can của Giô-áp nên Giô-áp đi khắp Y-sơ-ra-ên rồi trở về Giê-ru-sa-lem. Giô-áp trình dân số cho vua Đa-vít. Cả Y-sơ-ra-ên có một triệu một trăm ngàn người có thể cầm gươm và Giu-đa có bốn trăm bảy chục ngàn người có thể cầm gươm. Nhưng chưa kể dân số giữa chi tộc Lê-vi và Bên gia-min vì Giô-áp ghê tởm mệnh lệnh của vua. Mệnh lệnh này là một điều ác trước mặt Đức Chúa Trời nên Ngài hình phạt Y-sơ-ra-ên. Đa-vít thưa cùng Đức Chúa Trời: “Con đã phạm tội nặng khi làm điều này, xin tha tội cho tôi tớ Ngài vì con đã hành động vô cùng dại dột.” CHÚA phán cùng Gát, vị tiên kiến của Đa-vít, Hãy đi nói với Đa-vít, CHÚA phán như vầy: “Ta cho ngươi ba điều, hãy chọn một để ta thi hành.” Gát đến và nói với Đa-vít, CHÚA phán như vầy: “Ngươi hãy chọn lấy: hoặc ba năm đói kém, hoặc ba tháng bị quân thù càn quét và đánh bại, hoặc bị gươm của CHÚA phạt trong ba ngày, tức là ôn dịch trong đất nước; thiên sứ của CHÚA sẽ tàn phá toàn cõi Y-sơ-ra-ên. Bây giờ vua chọn điều nào để tôi phải trình lại cùng Đấng đã sai tôi.” Đa-vít nói với Gát: “Ta rất buồn rầu. Xin cho ta sa vào tay của CHÚA vì lòng thương xót của Ngài rất lớn, xin đừng để ta sa vào tay người phàm.” CHÚA giáng ôn dịch xuống Y-sơ-ra-ên làm cho bảy mươi ngàn người Y-sơ-ra-ên ngã gục. Đức Chúa Trời sai một thiên sứ đến hủy diệt Giê-ru-sa-lem; nhưng khi thiên sứ đang làm điều đó, CHÚA thấy và đổi ý về tai họa này; Ngài bảo thiên sứ đang hủy diệt: “Đủ rồi, hãy dừng tay lại”. Bấy giờ thiên sứ của CHÚA đang đứng tại sân đạp lúa của Ọt-nan, người Giê-bu-sít. Khi ấy, vua Đa-vít ngước mắt nhìn, thấy thiên sứ của CHÚA đang đứng trên không trung giữa trời và đất, tay tuốt gươm, hướng về Giê-ru-sa-lem. Vua Đa-vít và các trưởng lão đang mặc vải thô, cúi mặt sát đất. Vua Đa-vít thưa với Đức Chúa Trời: “Không phải chính con là người ra lệnh kiểm tra dân số, con là người đã phạm tội và làm điều ác này sao? Còn những con chiên này, họ có làm gì đâu? Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời của con, xin tay Chúa hãy phạt con và nhà cha con nhưng xin đừng giáng ôn dịch này trên dân Chúa.” Bấy giờ thiên sứ của CHÚA truyền cho Gát nói với Đa-vít rằng vua hãy đi lên xây một bàn thờ cho CHÚA tại sân đạp lúa của Ọt-nan, người Giê-bu-sít. Vậy, vua Đa-vít đi lên theo như lời Gát đã nhân danh CHÚA phán. Khi ấy Ọt-nan đang đập lúa, ông xoay lại, thấy thiên sứ; còn bốn người con đang ở đó thì ẩn trốn. Vua Đa-vít đi về phía Ọt-nan; khi thấy vua Đa-vít, Ọt-nan rời khỏi sân đạp lúa, cúi đầu sát đất chào vua Đa-vít. Vua Đa-vít nói với Ọt-nan: “Hãy bán sân đạp lúa này cho ta để ta xây bàn thờ cho CHÚA, hãy bán cho ta, ta sẽ trả giá đầy đủ.” Như thế ôn dịch sát hại dân chúng mới chấm dứt. Ọt-nan thưa cùng vua Đa-vít: “Xin vua cứ lấy, xin vua chúa tôi cứ làm theo điều đẹp ý Ngài. Tôi cũng xin dâng bò để làm tế lễ thiêu, bàn đập lúa để làm củi đốt, lúa mì để làm tế lễ chay, tôi xin dâng tất cả.” Vua Đa-vít trả lời Ọt-nan: “Không được, ta không muốn lấy của ngươi để dâng cho CHÚA. Ta sẽ trả tiền đầy đủ, ta không thể dâng một tế lễ thiêu mà không tốn kém gì.” Vậy, vua Đa-vít trả cho Ọt-nan sáu trăm siếc-lơ vàng để mua miếng đất. Vua Đa-vít xây một bàn thờ cho CHÚA tại đó; người cũng dâng tế lễ thiêu, tế lễ cầu an và cầu khẩn CHÚA; Ngài đáp lời vua bằng lửa từ trời giáng xuống tế lễ thiêu trên bàn thờ. Bấy giờ CHÚA truyền cho thiên sứ tra gươm vào vỏ. Khi vua Đa-vít thấy CHÚA đáp lời cầu nguyện mình tại sân đạp lúa của Ọt-nan, người Giê-bu-sít, vua dâng tế lễ tại đó; vì lúc ấy đền tạm của CHÚA mà Môi-se đã làm trong sa mạc và bàn thờ tế lễ thiêu đang để tại nơi cao ở Ga-ba-ôn. Vua Đa-vít không thể lên đó để cầu khẩn Đức Chúa Trời vì người sợ lưỡi gươm của thiên sứ của CHÚA. Bấy giờ vua Đa-vít tuyên bố: “Chỗ này sẽ là nhà CHÚA, là Đức Chúa Trời; và bàn thờ để người Y-sơ-ra-ên dâng tế lễ thiêu cũng sẽ ở đây.” Vua Đa-vít truyền tập họp tất cả những ngoại kiều trên lãnh thổ Y-sơ-ra-ên, đặt thợ đá đẽo những phiến đá để xây nhà Đức Chúa Trời. Vua cung cấp rất nhiều sắt để làm đinh cho các cửa cổng và làm móc, còn đồng thì nhiều không thể cân được. Gỗ bá hương nhiều vô số vì người Si-đôn và Ty-rơ đem rất nhiều gỗ bá hương cho vua Đa-vít. Vua Đa-vít nói: “Sa-lô-môn, con ta còn trẻ, thiếu kinh nghiệm mà đền của CHÚA thì phải xây vĩ đại, nguy nga và nổi tiếng khắp các nước, vậy ta phải chuẩn bị cho nó.” Vì thế vua Đa-vít chuẩn bị rất chu đáo trước khi qua đời. Vua cho gọi thái tử Sa-lô-môn, truyền lịnh cho người xây đền thờ CHÚA, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Vua Đa-vít nói với Sa-lô-môn: “Hỡi con ta, lòng ta muốn xây một đền cho danh CHÚA, là Đức Chúa Trời ta. Nhưng lời CHÚA phán với ta, ‘ngươi đã làm đổ máu nhiều, đã đánh nhiều trận chiến, ngươi sẽ không xây đền thờ cho danh Ta vì trước mặt Ta, ngươi đã làm đổ máu nhiều trên đất. Kìa, một đứa con của ngươi, nó sẽ là một người được yên ổn, Ta sẽ cho nó được yên ổn, không bị kẻ thù xung quanh quấy nhiễu. Thật vậy, Sa-lô-môn sẽ là người đó; trong thời người Ta sẽ ban cho Y-sơ-ra-ên bình an, yên ổn. Chính người sẽ xây một đền thờ cho danh Ta; người sẽ là con Ta, Ta sẽ là cha người. Ta sẽ lập ngôi vua cho người trên Y-sơ-ra-ên muôn đời.’ Vậy, hỡi con ta, nguyện CHÚA ở cùng con, giúp con thành công trong việc xây đền thờ CHÚA, là Đức Chúa Trời của con, y như lời Ngài đã phán về con. Nguyện CHÚA cũng ban cho con khôn ngoan, sáng suốt khi đặt con lãnh đạo Y-sơ-ra-ên, để con tuân giữ kinh luật của CHÚA, là Đức Chúa Trời của con. Như thế con sẽ thành công nếu con cẩn thận tuân theo các qui luật và sắc lệnh CHÚA truyền Môi-se ban cho Y-sơ-ra-ên. Hãy mạnh mẽ và can đảm lên, chớ sợ hãi và nản chí. Này, ta đã khổ nhọc cung cấp cho đền thờ CHÚA ba ngàn bốn trăm năm chục tấn vàng, ba mươi bốn ngàn năm trăm tấn bạc, đồng và sắt thì không thể cân được; ta cũng cung cấp vô số gỗ và đá, con có thể thêm vào. Con cũng có nhiều công nhân, thợ đá, thợ nề, thợ mộc và những người thông thạo đủ mọi ngành nghề; Những người thợ vàng, thợ bạc, thợ đồng, thợ sắt thì vô số. Hãy đứng lên và làm việc, CHÚA sẽ ở cùng con.” Vua Đa-vít ra lệnh cho tất cả những người lãnh đạo Y-sơ-ra-ên phải giúp đỡ thái tử Sa-lô-môn. Vua bảo: “Không phải CHÚA, là Đức Chúa Trời của các ngươi đang ở với các ngươi sao? Ngài ban cho các ngươi bốn bề yên ổn. Vì Ngài đã ban cho ta cư dân trong nước và lãnh thổ này đã khuất phục trước mặt CHÚA và trước mặt dân Ngài. Vậy, bây giờ hãy hết lòng, hết linh hồn tìm kiếm CHÚA, là Đức Chúa Trời các ngươi. Hãy đứng lên, xây thánh điện của CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi. Hãy đem rương giao ước của CHÚA và các vật thánh của Đức Chúa Trời vào đền mà các ngươi xây cho danh CHÚA.” Khi Đa-vít đã già, tuổi cao, vua lập thái tử Sa-lô-môn lên làm vua Y-sơ-ra-ên. Vua cũng tập họp tất cả những người lãnh đạo Y-sơ-ra-ên, những thầy tế lễ và người Lê-vi. Người Lê-vi từ ba mươi tuổi trở lên đều được kiểm kê, tổng số người là ba mươi tám ngàn người. Trong số những người ấy, hai mươi bốn ngàn người lo điều hành công việc đền thờ CHÚA; sáu ngàn người là quan viên và thẩm phán; Bốn ngàn người canh giữ cổng; bốn ngàn người ca ngợi CHÚA bằng nhạc khí Đa-vít đã chế tạo. Vua Đa-vít chia người Lê-vi thành từng ban theo các con của Lê-vi là Ghẹt-sôn, Kê-hát và Mê-ra-ri. Các con của Ghẹt-sôn là:La-ê-đan và Si-mê-i. Các con trai của La-ê-đan:Giê-hi-ên đứng đầu, rồi đến Xê-tham và Giô-ên, tất cả là ba người. Các con trai của Si-mê-i là:Sê-lô-mi, Ha-xi-ên và Ha-ran, ba người.Những người này là trưởng tộc La-ê-đan; và các con trai của Si-mê-i là:Gia-hát, Xi-na, Giê-úc và Bê-ri-a.Đây là bốn con trai của Si-mê-i. Gia-hát đứng đầu, thứ nhì là Xi-xa; còn Giê-úc và Bê-ri-a không có nhiều con cháu nên được kể chung vào một tộc. Các con trai của Kê-hát là:Am-ram, Dít-sê-ha, Hếp-rôn và U-xi-ên, bốn người. Các con trai của Am-ram là:A-rôn và Môi-se;A-rôn được tách riêng ra, ông và dòng dõi ông để dâng những lễ vật chí thánh, đời đời dâng tế lễ cho CHÚA, phục vụ Ngài và nhân danh Ngài chúc phước cho dân muôn đời. Môi-se là người của Đức Chúa Trời; các con ông được kể vào chi tộc Lê-vi. Các con trai của Môi-se là:Ghẹt-sôn và Ê-li-ê-se. Trong vòng con cháu Ghẹt-sôn,Sê-bu-ên là trưởng. Con trai của Ê-li-ê-se là:Rê-ha-bia, làm trưởng;Ê-li-ê-se không có con trai nào khác nhưng Rê-ha-bia có nhiều con cháu. Trong số con cháu của Dít-sê-ha,Sê-lô-mi là trưởng. trong số các con trai của Hếp-rôn,Giê-ri-gia là trưởng, thứ nhì là A-ma-ria, thứ ba là Gia-ha-xi-ên và Giê-ca-mê-am thứ tư. Các con trai của U-xi-ên gồm cóMi-ca, trưởng và Di-si-gia, thứ. Các con trai của Mê-ra-ri là:Mác-li và Mu-si.Các con trai của Mác-li là:Ê-lê-a-sa và Kích. Ê-lê-a-sa chết không có con trai chỉ có con gái và các con trai của Kích, là họ hàng, cưới chúng làm vợ. Các con trai của Mu-si là:Mác-li, Ê-đe và Giê-rê-mốt, tất cả là ba người. Đây là con cháu Lê-vi theo tông tộc; các trưởng tộc được ghi danh theo tộc mình; họ là những người nam từ hai mươi tuổi trở lên làm công việc phục dịch trong đền thờ CHÚA. Vì vua Đa-vít nói rằng: “CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã ban cho dân Ngài yên ổn và Ngài đến ngự tại Giê-ru-sa-lem đời đời. Người Lê-vi cũng không còn phải khiêng đền tạm và những vật dụng phụng vụ nữa.” Theo lời dặn sau cùng của vua Đa-vít, người ta kiểm kê số người Lê-vi từ hai mươi tuổi trở lên. Vậy, công việc của người Lê-vi là giúp con cháu A-rôn trong việc phục dịch đền thờ CHÚA, coi sóc các sân đền, các phòng bên cạnh, lo việc thanh tẩy các vật dụng thánh và phục dịch đền thờ Đức Chúa Trời. Họ cũng lo sắp bánh lên bàn thờ, bột mì cho tế lễ chay, bánh tráng không men, việc nướng bánh, trộn dầu, các cân lượng và kích thước. Mỗi buổi sáng và buổi chiều người Lê-vi phải đứng đó cảm tạ và ca ngợi CHÚA; và khi tế lễ thiêu được dâng lên CHÚA vào những ngày Sa-bát, ngày trăng mới và ngày lễ. Họ, theo số người đã qui định, thường xuyên túc trực trước mặt CHÚA. Như vậy, họ có trách nhiệm về trại hội kiến, về nơi thánh và cùng với con cháu A-rôn, bà con của họ, lo phục dịch đền thờ CHÚA. Các phân ban trong con cháu A-rôn: Các con trai của A-rôn là Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma. Nhưng Na-đáp và A-bi-hu chết trước cha chúng và không có con; Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma trở nên thầy tế lễ. Vua Đa-vít cùng với Xa-đốc, thuộc dòng dõi Ê-lê-a-sa, và A-hi-mê-léc thuộc dòng dõi Y-tha-ma, phân chia các thầy tế lễ thành các ban phục vụ. Giữa vòng con cháu Ê-lê-a-sa có nhiều trưởng tộc hơn là con cháu Y-tha-ma nên người ta phân chia như sau: Mười sáu trưởng tộc thuộc dòng dõi Ê-lê-a-sa và tám trưởng tộc thuộc dòng dõi Y-tha-ma. Những người này được phân chia theo ban bằng cách rút thăm vì họ đều là những viên chức thánh điện, viên chức của Đức Chúa Trời, thuộc con cháu Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma. Sê-ma-gia là thư ký, con của Na-tha-na-ên, thuộc chi tộc Lê-vi, ghi chép tên của họ trước mặt vua, các quan, thầy tế lễ Xa-đốc, A-hi-mê-léc, con trai A-bia-tha, và các trưởng tộc của thầy tế lễ và người Lê-vi: Cứ mỗi gia tộc thuộc Ê-lê-a-sa thì một gia tộc thuộc Y-tha-ma lại được rút thăm. Thăm thứ nhất trúng Giê-hô-gia-ríp;thăm thứ nhì vào Giê-đa-ê-gia; thăm thứ ba trúng Ha-rim,thứ tư vào Sê-ô-rim, thứ năm trúng Manh-kia,thứ sáu vào Mia-min, thứ bảy trúng Cốt,thứ tám vào A-bi-gia, thứ chín trúng Giê-sua,thứ mười vào Sê-ca-nia, thứ mười một trúng Ê-li-a-síp,thứ mười hai vào Gia-kim, thứ mười ba trúng Húp-ba,thứ mười bốn vào Giê-sê-báp, thứ mười lăm trúng Binh-ga,thứ mười sáu vào Y-mê, thứ mười bảy trúng Hê-xia,thứ mười tám vào Phi-xết, thứ mười chín trúng Phê-ta-hia,thứ hai mươi vào Ê-xê-chi-ên, thứ hai mươi mốt trúng Gia-kin,thứ hai mươi hai vào Ga-mun, thứ hai mươi ba trúng Đê-la-gia,thứ hai mươi bốn vào Ma-a-xia. Đây là các ban phục vụ trong đền thờ CHÚA theo những luật lệ mà tổ phụ họ là A-rôn thiết lập như CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã truyền. Những con cháu còn lại của Lê-vi:Trong con cháu Am-ram có Su-ba-ên,trong con cháu Su-ba-ên có Giê-đia. Còn về con cháu Rê-ha-bia,Di-si-gia là trưởng. Trong con cháu Dít-sê-ha có Sê-lô-mốt;trong con cháu Sê-lô-hốt có Gia-hát. Trong con cháu Hếp-rôn có Giê-ri-gia, con trưởng, A-ma-ria thứ nhì, Gia-ha-xi-ên thứ ba, và Gia-ca-mê-am thứ tư. Trong con cháu U-xi-ên có Mi-ca;trong con cháu Mi-ca có Sa-mia. Anh em của Mi-ca là Dít-hi-gia;trong con cháu Dít-hi-gia có Xa-cha-ri. Trong con cháu Mê-ra-ri có Mác-li và Mu-si;trong con cháu của Gia-a-xi-gia có Bê-nô. Các con trai của Mê-ra-ri làBê-nô, Sô-ham, Xác-cua và Y-bê-ri. Về dòng Mác-li có Ê-lê-a-sa, người không có con trai. Trong con cháu Kích coGiê-rác-mê-ên. Các con trai của Mu-si là Mác-li, Ê-đe và Giê-ri-mốt.Đó là con cháu Lê-vi theo tông tộc của chúng. Họ cũng bắt thăm như những anh em của họ thuộc dòng dõi A-rôn đã làm trước mặt vua Đa-vít, Xa-đốc, A-bi-mê-léc cùng trước mặt các trưởng tộc của những thầy tế lễ và người Lê-vi. Những trưởng tộc cũng bắt thăm như những người em của mình. Vua Đa-vít cùng với những người chỉ huy quân đội cũng tách riêng một số con cháu A-sáp, Hê-man và Giê-đu-thun cho công việc phục dịch; những người này nói tiên tri với tiếng đàn hạc, đàn lia và chập chỏa phụ họa. Danh sách những người phục dịch như sau: Các con trai của A-sáp:Xác-cua, Giô-sép, Nê-tha-nia, và A-sa-rê-la. Các con trai A-sáp phục vụ dưới quyền của ông, còn chính A-sáp thì nói tiên tri dưới quyền vua. Các con trai của Giê-đu-thun:Ghê-đa-lia, Xê-ri, I-sa, Ha-sa-bia, Ma-ti-thia, và Si-mê-i, sáu người tất cả phục vụ dưới quyền cha mình. Giê-đu-thun nói tiên tri với đàn hạc phụ họa để cảm tạ, ca ngợi CHÚA. Các con trai của Hê-man:Búc-ki-gia, Ma-tha-nia, U-xi-ên, Sê-bu-ên, Giê-ri-mốt, Ha-na-nia, Ha-na-nia, Ê-li-a-tha, Ghi-đanh-thi, Rô-mam-ti-ê-xe, Giốt-bê-ca-sa, Ma-lô-thi, Hô-thia, và Ma-ha-xi-ốt. Tất cả những người này là con của Hê-man, vị tiên kiến của vua, theo lời Đức Chúa Trời hứa để tôn vinh quyền năng Ngài. Đức Chúa Trời ban cho Hê-man mười bốn con trai và ba con gái. Tất cả những người trên đều ở dưới quyền cha mình lo về âm nhạc trong đền thờ CHÚA. Họ sử dụng chập chỏa, đàn lia, đàn hạc dưới quyền A-sáp, Giê-đu-thun và Hê-man theo lệnh vua để phục vụ nhà Đức Chúa Trời. Cùng với dòng họ mình, chúng là những người có khả năng, được huấn luyện về âm nhạc để phục vụ CHÚA; số người là hai trăm tám mươi tám người. Họ bắt thăm để nhận nhiệm vụ, lớn cũng như nhỏ, thầy cũng như trò. Thăm thứ nhất rơi nhằm Giô-sép thuộc dòng A-sáp; thăm thứ nhì trúng Ghê-đa-lia, những người họ hàng và các con người, tất cả 12 người. Thăm thứ ba nhằm Xác-cua, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người. Thăm thứ tư trúng Dít-sê-ri, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người. Thăm thứ năm nhằm Nê-tha-nia, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người. Thăm thứ sáu trúng Búc-ki-gia, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người. Thăm thứ bảy nhằm Giê-sa-rê-la, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người. Thăm thứ tám trúng I-sa, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người. Thăm thứ chín nhằm Ma-tha-nia, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người. Thăm thứ mười trúng Si-mê-i, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người. Thăm thứ mười một nhằm A-xa-rên, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người. Thăm thứ mười hai trúng Ha-sa-bia, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người. Thăm thứ mười ba nhằm Su-ba-ên, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người. Thăm thứ mười bốn trúng Ma-ti-thia, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người. Thăm thứ mười lăm nhằm Giê-rê-mốt, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người. Thăm thứ mười sáu trúng Ha-na-nia, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người. Thăm thứ mười bảy nhằm Giốt-bê-ca-sa, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người. Thăm thứ mười tám trúng Ha-na-nia, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người. Thăm thứ mười chín nhằm Ma-lô-thi, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người. Thăm thứ hai mươi trúng Ê-li-gia-ta, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người. Thăm thứ hai mươi mốt nhằm Hô-thia, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người. Thăm thứ hai mươi hai trúng Ghi-đanh-thi, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người. Thăm thứ hai mươi ba nhằm Ma-ha-xi-ốt, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người. Thăm thứ hai mươi bốn trúng Rô-mam-ti Ê-xe, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người. Các ban của những người giữ cổng như sau:Về dòng Kô-rê có Mê-sê-lê-mi, con trai của Kô-rê, một trong những con cháu của A-sáp. Mê-sê-lê-mi có các con trai là:Xa-cha-ri, con trưởng nam,Giê-đi-a-ên, con thứ nhì,Xê-ba-đia thứ baGiát-ni-ên thứ tư, Ê-lam thứ năm,Giô-ha-nan thứ sáu,và Ê-li-ô-ê-nai thứ bảy. Các con trai của Ô-bết-ê-đôm làSê-ma-gia, con trưởng nam,Giê-hô-sa-bát thứ nhì,Giô-a thứ ba,Sa-ca thứ tư,Nê-tha-nên thứ năm, A-mi-ên thứ sáu,Y-sa-ca thứ bảy,và Phê-u-lê-tai thứ tám;vì Đức Chúa Trời ban phước cho Ô-bết-ê-đôm. Con người là Sê-ma-gia cũng có các con trai lãnh đạo các tộc mình vì chúng là những người dũng mãnh. Các con trai của Sê-ma-gia là Ốt-ni, Rê-pha-ên, Ô-bết, Ên-xa-bát; các anh em họ là Ê-li-hu và Sê-ma-kia đều là những người dũng mãnh. Tất cả những người này đều là con cháu Ô-bết-ê-đôm; họ, con cái và họ hàng đều là những ngưởi dũng mãnh, có khả năng làm việc; có 62 người thuộc dòng dõi Ô-bết-ê-đôm. Mê-sê-lê-mi có các con trai và những người họ hàng, cả thảy là 18 người, đều là những người dũng mãnh. Hô-sa thuộc dòng Mê-ra-ri có các con trai: Sim-ri là trưởng dù người không phải là con đầu nhưng cha người lập người làm con trưởng. Hinh-kia thứ nhì, Tê-ba-lia thứ ba, Xa-cha-ri thứ tư. Tất cả các con trai và họ hàng của Hô-sa là 13 người. Đây là các ban giữ cổng cùng những người trưởng ban; họ cũng như các anh em mình có nhiệm vụ phục dịch đền thờ CHÚA. Họ theo từng tộc, trẻ cũng như già đều bắt thăm nhận cổng. Thăm cho cổng Đông trúng nhằm Sê-lê-mia; thăm về cổng Bắc trúng vào Xa-cha-ri, con Sê-lê-mia, một cố vấn khôn ngoan. Thăm cho cổng Nam trúng vào Ô-bết-ê-đôm còn thăm về nhà kho nhằm các con trai ông. Súp-bim và Hô-sa được cổng Tây với cửa Sa-lê-kết ở trên con đường dốc. Trạm canh này liền với trạm canh kia: Mỗi ngày có sáu người Lê-vi canh cổng Đông, bốn người canh cổng Bắc, bốn người canh cổng Nam và các nhà kho, hai người mỗi nhà kho. Về khu phụ thuộc phía tây, bốn người canh ngoài đường và hai người ở trong khu vực. Đó là những ban canh cổng theo dòng dõi Kô-rê và Mê-ra-ri. Trong vòng người Lê-vi, A-hi-gia lo việc quản lý các nhà kho đền thờ Đức Chúa Trời và kho chứa các vật thánh. Các con cháu của La-ê-đan thuộc tộc Ghẹt-sôn; trưởng tộc họ La-ê-đan, thuộc tộc Ghẹt-sôn là Giê-hi-ên. Các con trai của Giê-hi-ên là Xê-tham và Giô-ên, em người, quản lý các kho tàng đền thờ CHÚA. Trong các dòng Am-ram, Dít-sê-ha, Hếp-rôn và U-xi-ên, có Sê-bu-ên, con cháu Ghẹt-sôn, thuộc dòng dõi Môi-se là viên chức quản lý kho tàng. Các họ hàng của người theo tộc Ê-li-ê-se: Rê-ha-bia, con người, I-sa, con người, Giô-ram, con người, Xiếc-ri, con người, Sê-lô-mi, con người. Sê-lô-mi và các anh em người quản lý các nhà kho chứa đồ thánh mà vua Đa-vít, các trưởng tộc, các người chỉ huy ngàn quân và trăm quân cùng các người chỉ huy quân đội dâng hiến. Người ta cũng lấy các chiến lợi phẩm trong chiến trận sung vào kho để tu bổ đền thờ CHÚA. Tất cả những vật mà Sa-mu-ên, vị tiên kiến, vua Sau-lơ con trai của Kích, Áp-ne con trai của Nê-rơ, Giô-áp con trai của Xê-ru-gia và mọi người khác dâng hiến đều do Sê-lô-mi và anh em người quản lý. Trong dòng Dít-sê-ha có Kê-na-nia và các con trai người được lập lên làm viên chức và thẩm phán trên Y-sơ-ra-ên, có nhiệm vụ cai quản những việc bên ngoài đền thờ. Trong dòng Hếp-rôn có Ha-sa-bia và họ hàng người, là những người có khả năng, con số lên đến một ngàn bảy trăm người; họ cai quản Y-sơ-ra-ên về phía tây sông Giô-đanh trong mọi công việc của CHÚA cũng như phục dịch vua. Về dòng Hếp-rôn, Giê-ri-gia là trưởng tộc theo gia phả của gia đình. Vào năm thứ bốn mươi dưới triều vua Đa-vít, người ta tra cứu và thấy giữa vòng dòng họ Hếp-rôn có những người có khả năng tại Gia-ê-xe trong vùng Ga-la-át. Những người họ hàng của Giê-ri-gia gồm hai ngàn bảy trăm người có khả năng, là trưởng tộc, được vua Đa-vít lập lên cai quản người Ru-bên, người Gát và một nửa chi tộc Ma-na-se trong mọi công việc của Đức Chúa Trời lẫn của vua. Dân Y-sơ-ra-ên được liệt kê như sau: Các trưởng tộc, những người chỉ huy ngàn quân, chỉ huy trăm quân và các viên chức phục vụ vua về mọi vấn đề trong các đoàn quân; đoàn quân hoạt động cũng như đoàn quân nghỉ hằng tháng cho suốt năm. Mỗi đoàn quân có hai mươi bốn ngàn người. Trưởng đoàn thứ nhất cho tháng thứ nhất là Gia-sô-bê-am, con trai Giáp-đi-ên; đoàn này có 24.000 người. Người thuộc dòng dõi Phê-rết, đứng đầu trên hết các quan trong đoàn quân hoạt động vào tháng thứ nhất. Trưởng đoàn quân cho tháng hai là Đô-đai, người A-hô-ha; Mích-lô là người chỉ huy trong đoàn quân này; đoàn quân có 24.000 người. Trưởng đoàn quân thứ ba cho tháng ba là Bê-na-gia, con trai thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa, trưởng tế; đoàn quân của người có 24.000 người. Bê-na-gia là một dũng sĩ trong nhóm ba mươi dũng sĩ mà ông là trưởng; Am-mi-xa-đáp, con trai người cũng ở trong đoàn quân của ông. Trưởng đoàn quân thứ tư cho tháng tư là A-sa-ên, em Giô-áp; con trai người là Xê-ba-đia kế vị người; đoàn quân của người có 24.000 người. Trưởng đoàn quân thứ năm cho tháng năm là Sê-mê-hút, người Gít-ra; đoàn quân người có 24.000 người. Trưởng đoàn quân thứ sáu cho tháng sáu là Y-ra, con trai Y-ke người Thê-cô-a; đoàn quân người có 24.000 người. Trưởng đoàn quân thứ bảy cho tháng bảy là Hê-lết, người thuộc chi tộc Ép-ra-im ở Pha-lôn; đoàn quân người có 24.000 người. Trưởng đoàn quân thứ tám cho tháng tám là Si-bê-cai thuộc họ Xê-rách ở Hu-sa; đoàn quân người có 24.000 người. Trưởng đoàn quân thứ chín cho tháng chín là A-bi-ê-xe, người ở A-na-tốt thuộc chi tộc Bên-gia-min; đoàn quân người có 24.000 người. Trưởng đoàn quân thứ mười cho tháng mười là Ma-ha-rai thuộc họ Xê-rách ở Nê-tô-pha; đoàn quân người có 24.000 người. Trưởng đoàn quân thứ mười một cho tháng mười một là Bê-na-gia thuộc chi tộc Ép-ra-im ở Phi-ra-thôn; đoàn quân người có 24.000 người. Trưởng đoàn quân thứ mười hai cho tháng mười hai là Hiên-đai thuộc họ Ốt-ni-ên ở Nê-tô-pha; đoàn quân người có 24.000 người. Những người lãnh đạo các chi tộc Y-sơ-ra-ên gồm có:Ê-li-ê-se, con trai Xiếc-ri lãnh đạo chi tộc Ru-bên;Sê-pha-tia, con trai Ma-a-ca lãnh đạo chi tộc Si-mê-ôn; Ha-sa-bia, con trai Kê-mu-ên lãnh đạo chi tộc Lê-vi;Xa-đốc lãnh đạo con cháu A-rôn. Ê-li-hu, anh của Đa-vít lãnh đạo chi tộc Giu-đa;Ôm-ri, con trai của Mi-ca-ên lãnh đạo chi tộc Y-sa-ca. Dít-ma-hia, con trai Ô-ba-đia lãnh đạo chi tộc Sa-bu-luân;Giê-ri-mốt, con trai A-ri-ên lãnh đạo Nép-ta-li; Ô-sê, con trai A-xa-xia lãnh đạo chi tộc Ép-ra-im;Giô-ên, con trai Phê-đa-gia lãnh đạo nửa chi tộc Ma-na-se; Ghi-đô, con trai Xa-cha-ri lãnh đạo nửa chi tộc Ma-na-se tại Ga-la-át;Gia-a-xi-ên, con trai Áp-ne lãnh đạo chi tộc Bên-gia-min. A-xa-rên, con trai Giê-rô-ham lãnh đạo chi tộc Đan.Đó là những người lãnh đạo các chi tộc Y-sơ-ra-ên. Vua Đa-vít không lấy số người từ hai mươi tuổi trở xuống vì CHÚA hứa rằng Ngài sẽ làm cho dân Y-sơ-ra-ên đông như sao trên trời. Giô-áp, con trai Xê-ru-gia bắt đầu kiểm kê nhưng không hoàn tất được; vì việc này mà cơn thịnh nộ giáng xuống Y-sơ-ra-ên và người không ghi con số đó vào sử biên niên của vua Đa-vít. Ách-ma-vết, con trai A-đi-ên coi sóc các kho của vua; Giô-na-than, con trai U-xi-gia coi sóc các kho ở đồng ruộng, ở các thành, ở các thôn làng và đồn lũy. Ết-ri, con trai Kê-lúp cai quản những nông dân canh tác đất đai. Sim-ri, người Ra-ma cai quản những vườn nho; Xáp-đi, người Xê-pham cai quản những sản phẩm từ vườn nho và dự trữ rượu nho. Ba-anh Ha-nan, người Ghê-đe, cai quản những cây ô liu và cây vả trong vùng Sơ-phê-la. Giô-ách cai quản các kho dầu ô liu. Sít-trai, người Sa-rôn coi sóc các bầy bò nuôi ở Sa-rôn; Sa-phát, con trai Át-lai, coi sóc các đàn bò nuôi nơi các thung lũng. Ô-binh, người Ích-ma-ên, coi sóc lạc đà; Giê-đia, người Mê-rô-nốt coi sóc các lừa; Gia-xít, người Ha-ga-rít coi sóc các bầy chiên. Tất cả những người này là viên chức quản lý sản nghiệp của vua Đa-vít. Giô-na-than, cậu của Đa-vít làm cố vấn, một người sáng suốt và thông thái; Giê-hi-ên, con trai Hác-mô-ni chăm sóc các hoàng tử. A-hi-tô-phen là cố vấn của vua; Hu-sai, người Ạt-kít, là bạn của vua. Sau A-hi-tô-phen là Giê-hô-gia-đa, con trai Bê-na-gia, rồi đến A-bia-tha. Giô-áp là thống tướng quân đội hoàng gia. Vua Đa-vít triệu tập tất cả những viên chức Y-sơ-ra-ên về Giê-ru-sa-lem: Các người lãnh đạo các chi tộc, những người chỉ huy ngàn quân, chỉ huy trăm quân, những người quản lý các tài sản và súc vật của vua, các hoàng tử, các triều thần, anh hùng và tất cả dũng sĩ. Vua Đa-vít đứng dậy và nói: “Hỡi anh em và dân ta, hãy nghe đây: Ta đã định trong lòng sẽ xây một đền để đặt rương giao ước của CHÚA và cho bệ chân Đức Chúa Trời chúng ta và ta đã chuẩn bị để xây cất; nhưng Đức Chúa Trời phán với ta, ngươi sẽ không xây cất nhà cho danh ta vì ngươi là một chiến sĩ đã gây đổ máu. CHÚA, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã chọn ta từ gia đình của cha ta để làm vua Y-sơ-ra-ên đời đời. Thật vậy, Ngài đã chọn chi tộc Giu-đa lên lãnh đạo, từ Giu-đa Ngài đã chọn gia đình cha ta và từ các con trai của cha ta, Ngài đã vui lòng chọn ta làm vua trên toàn thể Y-sơ-ra-ên. Trong số tất cả các con trai ta, thật CHÚA có cho ta nhiều con trai, Ngài chọn Sa-lô-môn, con trai ta, đặt ngồi trên ngai của vương quốc CHÚA để cai trị Y-sơ-ra-ên. Ngài phán với ta: ‘Sa-lô-môn, con trai ngươi sẽ xây đền thờ và khuôn viên cho ta vì Ta đã chọn nó làm con và Ta sẽ là cha nó. Ta sẽ lập vương quốc người đời đời nếu người bền lòng gìn giữ các điều răn và luật pháp Ta như ngày nay.’ Vậy, giờ đây, trước mắt toàn thể Y-sơ-ra-ên, là hội chúng của CHÚA và có Đức Chúa Trời chúng ta nghe thấy, hãy gìn giữ và thi hành mọi điều răn của CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi, như thế các ngươi mới sở hữu đất nước tốt đẹp này và truyền lại cho con cháu mai sau làm cơ nghiệp đời đời. Còn con, hỡi Sa-lô-môn, con ta, hãy nhận biết Đức Chúa Trời của cha con, hãy hết lòng và hết linh hồn mà phục vụ Ngài vì CHÚA dò xét mọi tấm lòng và biết mọi ý định, tư tưởng. Nếu con tìm kiếm Ngài, con sẽ gặp được; nhưng nếu con từ bỏ Ngài thì Ngài sẽ loại bỏ con đời đời. Giờ đây, hãy xem, vì CHÚA đã chọn con để xây một đền làm thánh điện; hãy mạnh dạn lên mà làm.” Vua Đa-vít trao cho Sa-lô-môn, con trai vua, họa đồ về tiền đường, đền thờ, các nhà kho, phòng lầu, phòng trong và phòng xá tội Vua cũng trao họa đồ mà Linh trong vua bày tỏ về các sân đền CHÚA, về tất cả các phòng chung quanh, về các kho trong đền Đức Chúa Trời và các kho chứa vật thánh; về các ban thầy tế lễ và người Lê-vi, về mọi công việc phục dịch đền thờ CHÚA, về các vật dụng phục dịch trong đền CHÚA. Vua ấn định số lượng vàng cho tất cả các vật dụng bằng vàng dùng trong mỗi công việc; số lượng bạc cho tất cả các vật dụng bằng bạc dùng trong mỗi công việc; số lượng vàng cho các chân đèn vàng và đèn; số lượng vàng cho mỗi chân đèn và đèn; số lượng bạc cho mỗi chân đèn và đèn tùy cách sử dụng của chúng. Người cũng ấn định số lượng vàng cho các bàn và mỗi bàn để bánh thánh, và bạc cho các bàn bằng bạc; vàng ròng cho các chỉa, chậu rảy, bình; cho các đĩa, số lượng vàng cho mỗi đĩa vàng; cho các đĩa bạc và số lượng bạc cho mỗi đĩa. Người cũng ấn định số lượng vàng tinh luyện cho bàn thờ dâng hương và họa đồ xe có chê-ru-bim bằng vàng xòe cánh che trên rương giao ước của CHÚA. Vua Đa-vít nói: “Tất cả đều ở trong một văn bản do tay CHÚA ở trên ta mà viết ra; Ngài cho ta hiểu tất cả mọi chi tiết của họa đồ.” Vua Đa-vít bảo Sa-lô-môn, con trai vua: “Hãy mạnh mẽ và can đảm lên để làm việc, đừng sợ hãi và chán nản vì CHÚA, là Đức Chúa Trời của cha sẽ ở cùng con. Ngài sẽ không để con thất bại và sẽ không từ bỏ con cho đến khi mọi công trình để phục dịch đền thờ CHÚA được hoàn tất. Này, có các ban thầy tế lễ và người Lê-vi sẵn sàng cho mọi công việc phục dịch đền thờ Đức Chúa Trời; và trong mọi công việc con đều có người vui lòng, người có khả năng về mọi ngành giúp đỡ. Tất cả viên chức và toàn dân đang chờ lệnh con.” Vua Đa-vít nói với toàn hội chúng: “Sa-lô-môn, con trai ta, người mà Đức Chúa Trời đã chọn, hãy còn trẻ, thiếu kinh nghiệm, còn công việc thì lớn lao vì đền này không phải xây cho người phàm nhưng cho CHÚA, là Đức Chúa Trời. Ta đã hết sức cung cấp các vật liệu để xây đền Đức Chúa Trời ta; vàng cho những vật bằng vàng, bạc cho những vật bằng bạc, đồng cho những vật bằng đồng, sắt cho những vật bằng sắt, gỗ cho những vật bằng gỗ, ngọc mã não, ngọc để khảm, lam ngọc, ngọc nhiều màu và đủ loại đá quí và rất nhiều đá cẩm thạch. Hơn nữa vì lòng yêu mến đền Đức Chúa Trời ta, nên ngoài số vật liệu đã sắm sẵn cho đền thánh, ta cũng dâng hiến vàng bạc từ kho riêng của ta cho đền Đức Chúa Trời ta. Ta đã dâng hiến 100 tấn vàng Ô-phia 240 tấn bạc tinh luyện để dát tường đền thờ; vàng cho những vật bằng vàng, bạc cho các vật bằng bạc và cho tất cả những vật dụng thợ phải làm. Vậy, hôm nay ai là người muốn dâng hiến rộng rãi cho CHÚA?” Bấy giờ lãnh đạo các họ, lãnh đạo các chi tộc của Y-sơ-ra-ên, những vị chỉ huy ngàn quân, chỉ huy trăm quân, những viên chức quản lý của vua đều vui lòng dâng hiến. Họ dâng cho công việc xây đền Đức Chúa Trời: 170 tấn vàng 10.000 đồng tiền vàng đa-riếc, 345 tấn bạc 610 tấn đồng và 3.450 tấn sắt Người có đá quí cũng dâng vào kho đền thờ CHÚA do Gia-hi-ên, người họ Ghẹt-sôn quản lý. Dân chúng vui mừng trong sự tự nguyện dâng hiến, vì họ đã hết lòng dâng hiến cho CHÚA; vua Đa-vít cũng vô cùng vui mừng. Trước mặt toàn thể hội chúng, vua Đa-vít ca ngợi CHÚA:“Lạy CHÚA, là Đức Chúa TrờiCủa tổ phụ Y-sơ-ra-ên chúng con,Con xin ca ngợi Ngài đến muôn đời. Lạy CHÚA, Ngài thật vĩ đại, quyền năng,Vinh quang, uy nghi và rực rỡ;Lạy CHÚA, vì tất cả trời đất đều thuộc về Ngài;Vương quốc thuộc về NgàiVà Ngài được tôn cao đứng đầu mọi sự. Phú quí vinh hoa đều đến từ Ngài;Ngài cai quản mọi sự;Sức mạnh và quyền năng ở trong tay Ngài;Ngài có quyền làm cho vĩ đại và ban sức lực cho mọi người. Giờ đây, lạy Đức Chúa Trời chúng con,Chúng con cảm tạ Ngài và ca ngợi danh vinh hiển Ngài. Thật vậy, con là ai? Và dân của con là gì mà có thể dâng hiến rộng rãi thế này? Vì tất cả đều đến từ Ngài; những gì chúng con dâng hiến cho Ngài đều do tay Ngài mà ra. Vì trước mặt Ngài, chúng con cũng như tổ tiên chúng con chỉ là những người kiều cư, khách lạ; cuộc đời chúng con trên đất như những chiếc bóng, không nơi nương tựa. Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời chúng con, tất cả tài vật phong phú chúng con dâng để xây đền cho danh thánh Ngài đều do tay Ngài mà ra và đều thuộc về Ngài. Lạy Đức Chúa Trời của con, con biết rằng Ngài xét lòng người và vui về điều ngay thẳng. Chính con đã tự nguyện và với lòng ngay thẳng dâng hiến tất cả những vật này. Giờ đây con vui mừng thấy dân Ngài tại đây cũng vui vẻ tự nguyện dâng hiến cho Ngài. Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Y-sác, và Y-sơ-ra-ên, tổ phụ chúng con, xin gìn giữ ý nguyện, tư tưởng ấy trong lòng dân Ngài mãi mãi và xin giữ lòng họ hướng về Ngài. Xin Chúa ban cho Sa-lô-môn, con trai con, hết lòng gìn giữ điều răn, sắc luật và qui luật của Ngài; cùng làm mọi sự để xây cất đền thờ mà con đã chuẩn bị cho.” Bấy giờ vua Đa-vít nói với toàn thể hội chúng: “Giờ đây, hãy ca ngợi CHÚA, Đức Chúa Trời của các ngươi. Vậy, cả hội chúng chúc tụng CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ họ; chúng cúi đầu, quì lạy CHÚA và vua”. Ngày hôm sau, chúng dâng sinh tế và tế lễ thiêu cho CHÚA: 1.000 bò đực, 1.000 chiên đực, 1.000 chiên con cùng rất nhiều rượu tế và sinh tế cho toàn thể Y-sơ-ra-ên. Ngày hôm ấy họ ăn uống rất vui vẻ trước mặt CHÚA.Bấy giờ, một lần nữa họ tôn Sa-lô-môn, con vua Đa-vít lên làm vua; họ xức dầu cho ông trước mặt CHÚA để cai trị và xức dầu cho ông Xa-đốc làm thầy tế lễ. Sa-lô-môn được lên ngôi CHÚA ban, làm vua thế cho vua cha Đa-vít; người được thịnh vượng và toàn dân Y-sơ-ra-ên thuận phục vua. Tất cả những người lãnh đạo, các dũng sĩ và cả các hoàng tử con vua Đa-vít đều thề phục tùng vua Sa-lô-môn. CHÚA làm cho vua Sa-lô-môn được tôn trọng trước mắt toàn thể Y-sơ-ra-ên; Ngài ban cho người sự lộng lẫy vương giả mà chưa vua nào trong Y-sơ-ra-ên trước đây có được. Vua Đa-vít, con trai Y-sai, đã cai trị toàn thể Y-sơ-ra-ên. Vua trị vì trên Y-sơ-ra-ên 40 năm, 7 năm tại Hếp-rôn và 33 năm tại Giê-ru-sa-lem. Vua băng hà lúc tuổi cao, hưởng trường thọ cùng phú quí vinh hoa. Thái tử Sa-lô-môn lên ngôi kế vị. Sử tích của vua Đa-vít từ đầu đến cuối đều được ghi chép trong sách của vị tiên kiến Sa-mu-ên, sách của tiên tri Na-than và sách của tiên kiến Gát; cùng với toàn thể triều đại vua trị vì, quyền thế, biến cố xảy ra chung quanh người và trong Y-sơ-ra-ên cũng như các vương quốc lân cận trong vùng. Vua Sa-lô-môn, con vua Đa-vít, nắm quyền vững vàng trên vương quốc mình. CHÚA, Đức Chúa Trời của vua ở cùng vua và làm cho vua trở nên rất vĩ đại. Vua Sa-lô-môn nói chuyện với toàn thể Y-sơ-ra-ên, những người chỉ huy ngàn quân, những người chỉ huy trăm quân, các thẩm phán, cùng toàn thể những người lãnh đạo Y-sơ-ra-ên, các trưởng tộc. Sau đó vua Sa-lô-môn và toàn thể hội chúng đi đến nơi đồi cao tại Ga-ba-ôn, vì trại hội kiến mà Môi-se, tôi tớ CHÚA đã làm trong sa mạc, đang ở tại đó. Bấy giờ vua Đa-vít đã đem rương của Đức Chúa Trời từ Ki-ri-át Giê-a-rim đến nơi vua đã chuẩn bị vì vua đã dựng một cái trại cho rương tại Giê-ru-sa-lem. Còn bàn thờ bằng đồng mà Bết-sa-lê-ên, con trai U-ri, cháu Hu-rơ đã làm thì ở trước đền tạm của CHÚA nên vua Sa-lô-môn và hội chúng tìm ra nó. Vua Sa-lô-môn tiến lên bàn thờ bằng đồng trước mặt CHÚA, trong trại hội kiến và dâng một ngàn tế lễ thiêu trên bàn thờ ấy. Tối hôm ấy Đức Chúa Trời hiện ra cùng vua Sa-lô-môn; Ngài phán cùng người: “Hãy xin điều ngươi muốn ta ban cho ngươi.” Vua Sa-lô-môn thưa cùng Đức Chúa Trời: “Ngài đã đối xử với vua Đa-vít, cha con, hết sức yêu thương nhân từ và Ngài cũng lập con làm vua kế vị người. Giờ đây, lạy CHÚA là Đức Chúa Trời, xin lời hứa của Ngài cùng vua Đa-vít, cha con, được thành tựu vì Ngài đã lập con làm vua trên một dân tộc đông đúc như bụi đất. Nay xin Chúa ban cho con khôn ngoan và hiểu biết để con lãnh đạo dân này vì ai có thể cai trị dân tộc lớn lao này của Chúa.” Đức Chúa Trời phán cùng Sa-lô-môn: “Vì ngươi có lòng như vậy, không xin của cải, giàu có, danh vọng, mạng sống những kẻ thù và cả tuổi thọ cho mình, nhưng xin khôn ngoan và hiểu biết để cai trị dân ta, dân mà ta đã lập ngươi làm vua trên họ, nên khôn ngoan và hiểu biết sẽ được ban cho ngươi. Ta cũng sẽ ban cho ngươi của cải, giàu có, danh vọng đến nỗi không một vua nào trước hay sau ngươi được như vậy.” Bấy giờ vua Sa-lô-môn từ nơi đồi cao tại Ga-ba-ôn, trước trại hội kiến, trở về Giê-ru-sa-lem; người cai trị Y-sơ-ra-ên. Vua Sa-lô-môn tập trung xe chiến mã và ngựa; người có 1.400 xe và 12.000 ngựa, để trong các thành chứa xe và ở gần vua tại Giê-ru-sa-lem. Vua làm cho vàng bạc tại Giê-ru-sa-lem trở nên tầm thường như đá sỏi và cây bá hương nhiều như sung ở miền Sơ-phê-la. Ngựa của vua Sa-lô-môn được nhập cảng từ Ai Cập và Cơ-ve; các thương gia của vua đã mua ngựa từ Cơ-ve theo giá thị trường. Họ nhập cảng xe ngựa từ Ai Cập với giá 600 shê-ken bạc một chiếc và ngựa 150 shê-ken một con. Các xe và ngựa lại do họ xuất cảng cho các vua Hê-tít và vua Sy-ri. Vua Sa-lô-môn ra lệnh xây một đền thờ cho danh CHÚA và hoàng cung cho mình. Vua Sa-lô-môn động viên 70.000 người khuân vác, 80.000 người thợ đẽo đá trên núi và 3.600 người đốc công. Vua Sa-lô-môn gởi sứ điệp đến vua Hi-ram ở Ty-rơ: “Ngài đã gởi gỗ bá hương để xây hoàng cung cho vua Đa-vít; ngài đã làm cho vua Đa-vít, cha tôi thể nào, xin ngài cũng làm cho tôi như thế. Giờ đây tôi sắp xây đền thờ cho danh của CHÚA, Đức Chúa Trời tôi, một ngôi đền riêng cho Ngài để đốt hương thơm trước mặt Ngài; để thường xuyên dâng bánh thánh, sớm chiều dâng tế lễ thiêu hoặc trong ngày Sa-bát, ngày trăng mới, các ngày lễ của CHÚA, Đức Chúa Trời chúng tôi theo điều qui định cho Y-sơ-ra-ên muôn đời. Ngôi đền mà chính tôi sắp xây sẽ rất vĩ đại vì Đức Chúa Trời của chúng tôi vĩ đại hơn hết các thần. Nhưng ai là người có khả năng xây đền cho Chúa? Vì các tầng trời, trời của các tầng trời cũng không thể chứa được Ngài. Thế thì tôi là ai mà xây đền cho Chúa? Cất đền chẳng qua là để đốt hương trước mặt Ngài. Vậy, bây giờ xin ngài gởi cho tôi những người thợ lành nghề về vàng, bạc, đồng, sắt, vải tím, vải đỏ thẳm, vải xanh cùng những người thợ chạm khắc để làm việc với những người thợ giỏi của tôi tại Giu-đa và Giê-ru-sa-lem mà cha tôi, vua Đa-vít đã cung cấp. Xin ngài gởi cho tôi gỗ bá hương, gỗ thông, gỗ đàn hương từ Li-ban vì tôi biết rằng các tôi tớ ngài thạo đốn gỗ ở Li-ban. Các tôi tớ của tôi cũng sẽ làm việc với tôi tớ ngài, để đốn nhiều gỗ vì ngôi đền tôi xây sẽ vĩ đại và nguy nga. Tôi sẽ cung cấp cho các tôi tớ ngài, những thợ đốn gỗ 20.000 cô-rơ lúa mì, 20.000 cô-rơ lúa mạch, 20.000 bát rượu và 20.000 bát dầu ô-liu.” Hi-ram, vua Ty-rơ gởi thơ phúc đáp cho vua Sa-lô-môn: “Vì CHÚA yêu thương dân mình nên đã lập ngài lên làm vua của họ.” Người cũng thêm: “Ca ngợi CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Đấng tạo nên trời đất; Ngài đã ban cho vua Đa-vít một người con khôn ngoan hiểu biết, thông minh sáng suốt; người sẽ xây đền thờ cho CHÚA và hoàng cung cho mình. Nay tôi sai một người thợ thành thạo sáng suốt tên Hu-ram A-bi, mẹ người thuộc chi tộc Đan, cha là người Ty-rơ. Người là thợ thành thạo về đồ vàng, bạc, đồng, sắt, đá, gỗ, vải tím, vải xanh, vải gai mịn, vải đỏ. Người cũng biết chạm trỗ và sáng tạo bất cứ sản phẩm nào người ta đưa kiểu. Người sẽ làm việc với các thợ của ngài cũng như các thợ của chúa tôi, vua Đa-vít, cha ngài. Vậy, những lúa mì, lúa mạch, dầu và rượu chúa tôi đã hứa, xin ngài gởi cho các tôi tớ ngài. Chúng tôi sẽ đốn tất cả số gỗ ngài cần từ Li-ban và đóng bè theo đường biển chở xuống Gia-phô, rồi ngài sẽ đem lên Giê-ru-sa-lem.” Vua Sa-lô-môn kiểm kê tất cả những người ngoại quốc sống trong lãnh thổ Y-sơ-ra-ên theo như thống kê vua Đa-vít, cha người đã làm; người ta thấy có 153.600 người. Trong số đó, vua đặt 70.000 người là phu khuân vác, 80.000 người làm thợ đẽo đá trên núi và 3.600 người làm đốc công để đốc suất người ta làm việc. Vua Sa-lô-môn bắt đầu xây đền thờ CHÚA tại Giê-ru-sa-lem, trên núi Mô-ri-a, là nơi CHÚA đã hiện ra với vua cha Đa-vít; người đã chỉ định nơi này, tức là sân đạp lúa của Ọt-nan người Giê-bu-sít. Vua khởi công xây cất vào ngày hai tháng hai năm thứ tư dưới thời trị vì của mình. Đây là nền vua Sa-lô-môn xây cho đền thờ Đức Chúa Trời, theo thước đo cũ, chiều dài 27m, chiều rộng 9m. Tiền đường ở phía trước, dài 9m, bằng chiều rộng của đền thờ, cao 9m phía trong dát vàng ròng. Đại sảnh đường được lót bằng gỗ bá hương, dát vàng tốt và có chạm hình cây chà là và vòng xích. Vua cũng trang hoàng đền thờ bằng đá quí và vàng dùng là vàng Phạt-va-im. Vua dát vàng khắp đền thờ, xà ngang, khung cửa, tường, cửa và chạm hình chê-ru-bim trên tường. Vua xây nơi chí thánh, chiều dài bằng chiều rộng của đền thờ, 9m vuông vức mỗi chiều; vua dùng đến 21 tấn vàng tốt để dát phòng. Các đinh bằng vàng nặng nửa kí; vua cũng dát vàng các phòng lầu. Trong nơi chí thánh vua làm hai chê-ru-bim, là hai vật điêu khắc bọc vàng. Các cánh của chê-ru-bim dài tổng cộng 9m, mỗi cánh dài 2.25m. Một cánh của chê-ru-bim chạm một tường của đền thờ, còn cánh kia, dài 2.25m, đụng cánh của chê-ru-bim kia. Một cánh của chê-ru-bim này dài 2.25m, chạm tường kia của đền thờ, còn cánh kia, cũng dài 2.25m, đụng cánh của chê-ru-bim kia. Các cánh của hai chê-ru-bim này xòe ra dài 9m; chúng đứng trên chân mình, mặt hướng về sảnh đường. Vua cũng làm các màn bằng vải xanh, tím, đỏ thẳm, vải gai mịn và thêu hình chê-ru-bim lên trên. Trước đền thờ vua xây hai trụ cao 16m; trên đỉnh mỗi trụ có một đầu trụ cao 2.25m. Vua làm các vòng xích dây chuyền, treo trên đầu các trụ; người làm một trăm trái lựu, gắn vào các vòng xích ấy. Vua dựng các trụ trước đền thờ, một bên phải và một bên trái; trụ bên phải người gọi là Gia-kin và trụ bên trái là Bô-ách. Vua làm bàn thờ bằng đồng chiều dài 9m, chiều ngang 9m và cao 4.50m. Vua đúc một cái bể kim loại hình tròn, rộng 4.50m từ vành này sang vành kia, cao 2.25m và chu vi 13.50m. Phía dưới vành khắp chung quanh bể có hình bò, cứ nửa mét là mười con; các hình bò được đúc chung quanh trên bể thành hai hàng. Bể được đặt trên mười hai con bò, ba con hướng mặt về phía Bắc, ba con hướng mặt về hướng Tây, ba con hướng mặt về hướng Nam, ba con hướng mặt về hướng Đông; bể đặt trên chúng và phần mông hướng vào trong. Bề dày của bể là một gang; mép bể như vành chén hình hoa huệ nở; bể chứa được 66.000l. Người cũng làm mười cái chậu, năm cái bên phải, năm cái bên trái để rửa những vật tế lễ thiêu. Còn cái bể để thầy tế lễ thanh tẩy. Người làm mười chân đèn bằng vàng theo kiểu đã định và đặt chúng trong đền thờ, năm cái bên phải, năm cái bên trái. Vua làm mười cái bàn đặt trong đền thờ, năm cái bên phải, năm cái bên trái. Người cũng làm 100 bình rảy bằng vàng. Người xây sân cho thầy tế lễ và sân lớn; các cửa trong sân lớn người đều bọc đồng. Vua đặt cái bể ở bên phải, về phía đông nam. Hu-ram làm các bình, xẻng và bình rảy. Hu-ram hoàn tất những công việc cho vua Sa-lô-môn trong đền thờ Đức Chúa Trời: Hai cây trụ, các bầu của các đầu trụ trên đỉnh của hai cây trụ, các lưới bao quanh bầu trên đỉnh trụ; bốn trăm trái lựu gắn vào hai tấm lưới; mỗi tấm lưới có hai hàng lựu trang trí cho hai bầu của các đầu trụ trên đỉnh. Người cũng làm các chân và để các chậu trên chân; cái bể để trên mười hai con bò; các bình, xẻng và xiêng cùng mọi vật dụng liên hệ. Hu-ram A-bi đã làm tất cả những vật dụng này bằng đồng đánh bóng cho vua Sa-lô-môn để dùng trong đền thờ của CHÚA. Vua đúc những vật dụng này trong những khuôn bằng đất tại đồng bằng sông Giô-đanh, giữa Su-cốt và Xê-rê-đa. Vua Sa-lô-môn làm tất cả những vật dụng này rất nhiều đến nỗi số lượng đồng không thể tính được. Vua Sa-lô-môn làm tất cả những vật dụng trong đền Đức Chúa Trời: bàn thờ bằng vàng; các bàn để bày bánh; các chân đèn và đèn bằng vàng ròng để thắp trước nội điện theo qui định; các hoa, đèn và cặp toàn bằng vàng; dao cắt tim đèn, bình rảy, cái vá, bình hương đều bằng vàng ròng. Về cửa đền thờ, các cửa bên trong nơi chí thánh, các cửa trong nội điện đều bằng vàng. Khi mọi công trình vua Sa-lô-môn làm cho đền thờ CHÚA đã hoàn tất, vua cũng đem những vật vua cha Đa-vít dâng hiến: bạc, vàng và tất cả vật dụng khác, vào trong kho của đền thờ Đức Chúa Trời. Bấy giờ vua Sa-lô-môn triệu tập các trưởng lão Y-sơ-ra-ên, tất cả các lãnh đạo chi tộc, các trưởng tộc trong dân Y-sơ-ra-ên về Giê-ru-sa-lem để rước rương giao ước của CHÚA từ thành Đa-vít, tức là Si-ôn. Mọi người nam trong Y-sơ-ra-ên đều tập họp lại cùng vua để dự lễ, lúc ấy vào tháng bảy. Khi tất cả trưởng lão Y-sơ-ra-ên đến, những người Lê-vi khiêng rương giao ước đi. Những thầy tế lễ người Lê-vi khiêng rương giao ước, trại hội kiến và tất cả những vật dụng thánh trong trại. Vua Sa-lô-môn và toàn thể cộng đồng Y-sơ-ra-ên tập họp bên cạnh vua trước rương giao ước; họ dâng sinh tế chiên và bò nhiều đến nỗi không thể đếm được. Các thầy tế lễ đem rương giao ước của CHÚA vào nơi dành sẵn cho rương trong nội điện của đền thờ, tức là nơi chí thánh, phía dưới cánh các chê-ru-bim. Các chê-ru-bim xòe cánh trên chỗ để rương, che cả rương lẫn các đòn khiêng. Các đòn khiêng rất dài nên từ phía trước nội điện có thể thấy các đầu đòn nhưng ở bên ngoài không thấy được; chúng vẫn còn đó cho đến ngày nay. Không có gì trong rương ngoại trừ hai bảng đá kinh luật Môi-se đã đặt vào đó tại Hô-rếp khi CHÚA lập giao ước với người Y-sơ-ra-ên lúc họ ra khỏi Ai cập. Bấy giờ các thầy tế lễ lui ra khỏi nơi thánh vì tất cả các thầy tế lễ, bất luận thuộc ngành nào, đều đã phải thánh hóa. Tất cả những ca nhạc sĩ người Lê-vi, tức là A-sáp, Hê-man, Giê-đu-thun, và các con trai, họ hàng của họ, mặc áo vải gai mịn, cầm chập chỏa, đàn lia, đàn hạc, đứng ở phía đông bàn thờ cùng với 120 thầy tế lễ thổi kèn. Những người thổi kèn và ca sĩ cùng hòa ca một điệu; họ ca ngợi và cảm tạ CHÚA. Họ cất tiếng hát hòa với tiếng kèn, tiếng chập chỏa và những nhạc cụ khác cùng ca ngợi CHÚA rằng:“Ngài là thiện,Tình yêu thương nhân từ Ngài còn đến đời đời.”Bấy giờ đền thờ của CHÚA đầy mây, đến nỗi các thầy tế lễ không thể đứng hành lễ vì mây tỏa, vì vinh quang của CHÚA tỏa đầy đền thờ Đức Chúa Trời. Vua Sa-lô-môn nói: CHÚA đã phán rằng Ngài sẽ ngự trong đám mây dày đặc. Còn chính con, con đã xây một ngôi đền nguy nga cho Chúa, một nơi để Ngài ngự đời đời. Bấy giờ vua xoay mặt lại chúc phước cho dân chúng trong khi cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đang đứng. Vua nói: “Ca ngợi CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Đấng đã lấy tay hoàn thành điều miệng Ngài đã hứa với vua cha, rằng: ‘Từ khi Ta đem dân ta ra khỏi Ai Cập, Ta chưa hề chọn một thành nào trong vòng các thành của các chi tộc để xây đền cho danh Ta ngự tại đó; Ta cũng chưa chọn một người nào để lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên Ta. Nhưng Ta đã chọn Giê-ru-sa-lem để danh Ta ngự tại đó và Ta đã chọn Đa-vít để lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên Ta.’” Vua cha Đa-vít đã định trong lòng sẽ xây đền thờ cho danh CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Nhưng CHÚA phán với vua cha Đa-vít rằng: “Ngươi có lòng định xây một đền thờ cho danh Ta là điều tốt; tuy nhiên, ngươi không phải là người xây đền thờ, nhưng con trai từ lòng ngươi, chính nó sẽ xây đền thờ cho danh Ta.” CHÚA đã giữ lời hứa của Ngài, cho tôi lên ngôi kế vị vua cha Đa-vít, trị vì Y-sơ-ra-ên như CHÚA đã hứa, và tôi đã xây đền thờ cho danh CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên; tại nơi đó tôi đã đặt rương, là rương chứa giao ước mà CHÚA đã lập với dân Y-sơ-ra-ên. Bấy giờ vua đang đứng trước bàn thờ CHÚA, trước mặt toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên; vua giơ tay lên. Vua Sa-lô-môn đã làm một bục đồng vuông vức mỗi cạnh 2.25m, cao 1.30m, đặt giữa sân; vua đứng trên đó, rồi quì xuống trước toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên và giơ tay lên trời. Vua nói: “Lạy CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, không có thần nào giống như Chúa ở trên trời hay dưới đất, Ngài gìn giữ giao ước và lòng yêu thương nhân từ đối với các tôi tớ Ngài khi họ hết lòng bước đi trước mặt Ngài. Ngài đã giữ lời hứa với tôi tớ Ngài, vua cha Đa-vít. Thật vậy, chính miệng Ngài đã hứa và ngày nay chính tay Ngài đã hoàn thành điều ấy. Giờ đây, lạy CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, xin Ngài giữ lời Ngài đã hứa cùng tôi tớ Ngài, là vua cha Đa-vít rằng: Trước mặt Ta, ngươi sẽ không thiếu người ngồi trên ngai trị vì Y-sơ-ra-ên nếu con cháu ngươi cẩn thận trong đường lối mình, đi theo kinh luật Ta như ngươi đã đi trước mặt Ta. Vậy, lạy CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, xin lời Ngài đã hứa cùng tôi tớ Ngài, là vua Đa-vít được ứng nghiệm. Nhưng, Đức Chúa Trời có thật sự cư ngụ với phàm nhân ở dưới đất chăng? Kìa, trời của các tầng trời còn chưa chứa nổi Ngài huống chi đền thờ này mà con đã xây. Dẫu sao, lạy CHÚA, Đức Chúa Trời của con, xin đoái đến lời cầu nguyện và nài xin của tôi tớ Chúa, xin lắng nghe lời kêu xin và cầu nguyện mà tôi tớ Ngài cầu trước mặt Ngài. Xin mắt Chúa ngày đêm đoái đến đền thờ này, là nơi Chúa hứa sẽ để danh Ngài tại đó. Xin lắng nghe lời cầu nguyện tôi tớ Chúa hướng về nơi này mà cầu. Xin Chúa lắng nghe lời nài xin của tôi tớ Chúa và của con dân Y-sơ-ra-ên khi họ hướng về nơi này cầu nguyện; từ trên trời, nơi Ngài ngự, xin lắng nghe, nhậm lời và tha thứ. Nếu có ai phạm tội cùng người khác và buộc phải thề; người ấy đến thề trước bàn thờ Chúa trong đền thờ này. Xin Chúa từ trên trời lắng nghe và hành động; xin xét xử các tôi tớ Chúa; hãy báo trả kẻ phạm tội, đổ lại trên đầu hắn đường lối hắn đã làm; minh oan cho người vô tội, thưởng cho người tùy theo sự công chính người làm. Nếu dân Y-sơ-ra-ên của Chúa bị kẻ thù đánh bại vì họ phạm tội cùng Ngài, nhưng họ ăn năn, tuyên xưng danh Chúa mà cầu nguyện, nài xin Ngài tại đền thờ này, thì xin Chúa từ trên trời lắng nghe, tha thứ tội lỗi cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài và đem họ về đất mà Chúa đã ban cho họ cũng như tổ tiên họ. Khi trời đóng lại, không có mưa vì dân chúng phạm tội cùng Ngài nhưng rồi họ hướng về đền này cầu nguyện, tuyên xưng danh Ngài, ăn năn tội lỗi của mình vì Ngài đã phạt họ cực khổ, thì xin Chúa từ trên trời lắng nghe, tha thứ tội lỗi của các tôi tớ Chúa và dân Y-sơ-ra-ên của Ngài. Thật vậy, Chúa đã dạy họ con đường tốt lành họ phải theo và ban mưa tưới đất mà Ngài đã ban cho dân Ngài làm cơ nghiệp. Khi trong xứ có nạn đói kém, dịch lệ, khi mùa màng hư hoại, nấm mốc ăn hại, cào cào, châu chấu hoặc khi quân thù vây hãm một trong những nơi định cư trong xứ hay có tai họa hay bệnh tật gì xảy ra; nếu có người nào hay toàn dân Y-sơ-ra-ên của Chúa vì ý thức được sự hoạn nạn, đau đớn của mình mà giơ tay hướng về đền thờ này cầu nguyện và nài xin. Xin Chúa từ trên trời, là nơi Ngài ngự, lắng nghe, tha thứ và báo đền cho mỗi người tùy theo đường lối của họ vì Chúa biết tấm lòng họ; thật vậy, chỉ có Chúa biết lòng dạ loài người; như thế họ sẽ kính sợ Ngài, đi theo đường lối Ngài suốt đời khi họ sống trên mặt đất mà Ngài đã ban cho tổ tiên chúng con. Còn đối với người ngoại quốc, không thuộc về dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, người đến từ phương xa vì danh lớn của Ngài, vì cánh tay quyền năng và giang ra của Ngài; nếu họ đến, hướng về đền thờ này cầu nguyện; thì xin Chúa từ trên trời, từ nơi Ngài ngự, lắng nghe, thực hiện mọi lời người ngoại kiều ấy cầu nguyện để mọi dân tộc trên đất biết đến danh Ngài và kính sợ Ngài như dân Y-sơ-ra-ên và để họ cũng biết rằng đền thờ con xây đây mang danh Chúa. Khi dân Ngài đi ra chiến đấu cùng quân thù, bất cứ nơi nào Ngài sai họ đi, nếu họ hướng về thành Ngài đã chọn này và về đền thờ con đã xây cho danh Ngài mà cầu nguyện, thì xin Ngài từ trên trời lắng nghe lời cầu nguyện, nài xin của họ và phù hộ chính nghĩa họ. Nếu họ phạm tội cùng Chúa, vì không ai mà không phạm tội, và Ngài nổi giận cùng chúng nó, phó chúng nó cho quân thù bắt đi lưu đày ở một xứ xa hay gần. Tại xứ lưu đày ấy lòng họ hối cãi; từ đất bị lưu đày họ ăn năn và nài xin Ngài rằng: Chúng con đã phạm tội, làm điều sai quấy và gian ác. Nếu từ xứ, nơi họ bị lưu đày, họ hết lòng hết linh hồn quay trở lại cùng Chúa, cầu nguyện hướng về đất nước Ngài đã ban cho tổ tiên, về thành Ngài đã chọn và về đền thờ mà con xây cho danh Ngài, thì xin Chúa từ trên trời, nơi Ngài ngự, lắng nghe lời cầu nguyện nài xin của họ, xét duyên cớ và tha thứ cho dân Chúa, là dân đã phạm tội cùng Ngài. Lạy Đức Chúa Trời của con, nay xin Ngài đoái xem và lắng nghe lời cầu nguyện tại nơi đây. Giờ đây, lạy CHÚA, Đức Chúa Trời,Xin Ngài và rương quyền năng của Ngài ngự vào nơi nghỉ ngơi của Ngài.Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời, nguyện các thầy tế lễ của Chúa được mặc lấy sự cứu rỗi;Nguyện các người trung tín của Chúa vui mừng trong ơn lành. Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời, xin chớ từ bỏ đấng được xức dầu của Chúa;Xin ghi nhớ lòng yêu thương nhân từ của Chúa đối với vua Đa-vít, tôi tớ Ngài.” Khi vua Sa-lô-môn cầu nguyện xong, lửa từ trời giáng xuống thiêu đốt tế lễ thiêu, các sinh tế và vinh quang của CHÚA tràn ngập đền thờ. Các thầy tế lễ không thể vào đền thờ CHÚA vì vinh quang CHÚA tràn ngập đền thờ CHÚA. Khi tất cả dân Y-sơ-ra-ên thấy lửa giáng xuống và vinh quang CHÚA trên đền thờ; họ quì xuống trên nền đền thờ, sấp mặt xuống đất thờ phượng và cảm tạ CHÚA, rằng:Thật vậy, Ngài là thiện,Lòng yêu thương nhân từ Ngài còn đến đời đời. Bấy giờ vua và dân chúng dâng sinh tế cho CHÚA. Vua Sa-lô-môn dâng 22.000 bò và 120.000 chiên. Như thế, vua và toàn dân làm lễ cung hiến đền thờ Đức Chúa Trời. Các thầy tế lễ đứng tại chỗ của mình, những người Lê-vi cầm nhạc khí dùng cho CHÚA mà vua Đa-vít đã chế tạo để cảm tạ CHÚA, và dùng để ca ngợi Ngài, thật vậy, “lòng yêu thương nhân từ Ngài còn đến đời đời.” Đối diện với những người Lê-vi là các thầy tế lễ đứng thổi kèn; còn toàn thể dân Y-sơ-ra-ên đều đứng. Vua Sa-lô-môn thánh hiến sân giữa phía trước đền thờ CHÚA; chính tại đây vua dâng các tế lễ thiêu, các phần mỡ của tế lễ cầu an vì bàn thờ bằng đồng mà vua đã làm không đủ chỗ chứa các tế lễ thiêu, tế lễ ngũ cốc và các phần mỡ. Lúc ấy, vua Sa-lô-môn và toàn thể Y-sơ-ra-ên, một hội chúng rất đông đảo từ Lê-bô Ha-mát đến suối Ai Cập, cùng với vua dự lễ trong bảy ngày. Vào ngày thứ tám có cuộc hội họp long trọng vì họ đã làm lễ dâng hiến bàn thờ trong bảy ngày và dự lễ bảy ngày. Vào ngày hai mươi ba tháng thứ bảy, vua cho dân chúng trở về nhà, ai nấy đầy lòng vui mừng hân hoan vì CHÚA đã ban điều tốt lành cho Đa-vít, cho Sa-lô-môn và cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài. Vua Sa-lô-môn hoàn thành đền thờ CHÚA và cung vua; tất cả những công trình vua định làm cho đền thờ CHÚA và cho cung vua, người đều thực hiện cả. Bấy giờ CHÚA hiện ra cùng vua Sa-lô-môn vào ban đêm; Ngài phán: “Ta đã nghe lời cầu nguyện của ngươi và Ta chọn nơi này làm đền tế lễ cho Ta. Khi Ta đóng cửa trời không cho mưa xuống, khi Ta truyền châu chấu xâm chiếm đất đai, khi Ta sai dịch lệ đến giữa dân Ta; lúc ấy nếu dân Ta, dân được gọi bằng danh Ta, hạ mình xuống, cầu nguyện, tìm kiếm mặt Ta và ăn năn từ bỏ con đường gian ác thì Ta từ trên trời sẽ nghe, tha thứ tội lỗi chúng và chữa lành đất đai của chúng. Giờ đây, mắt Ta sẽ mở, tai Ta sẽ lắng nghe lời cầu nguyện tại nơi này. Nay Ta chọn và thánh hóa đền này cho danh Ta ngự đời đời; mắt và lòng Ta cũng sẽ ở đó mãi mãi. Còn ngươi, nếu ngươi bước đi trước mặt Ta như vua cha Đa-vít đã đi, làm tất cả những điều ta truyền, giữ những luật lệ, qui luật của Ta; thì Ta sẽ vững lập ngôi vua của ngươi như Ta đã giao ước với vua Đa-vít, cha ngươi rằng: người sẽ không thiếu người trị vì Y-sơ-ra-ên. Nhưng nếu ngươi quay đi, từ bỏ điều răn, qui luật mà Ta đã ban cho ngươi, đi phục vụ, thờ phượng các thần khác, thì Ta sẽ bứng các ngươi ra khỏi đất Ta đã ban cho các ngươi; Ta sẽ từ bỏ đền thờ này khỏi trước mặt ta, là đền Ta đã thánh hóa cho danh Ta; Ta sẽ biến nó thành câu tục ngữ, lời đàm tiếu giữa các dân. Còn đền thờ này dù nay cao trọng đến đâu thì bấy giờ những người qua lại sẽ ngạc nhiên và hỏi: Tại sao CHÚA làm cho đất nước này và đền thờ này như thế? Người ta sẽ trả lời ‘Vì chúng nó từ bỏ CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ tiên chúng, Đấng đã giải cứu chúng ra khỏi đất Ai Cập mà đi theo các thần khác, thờ phượng và phục vụ các thần ấy nên Ngài giáng tất cả những tai họa này trên chúng nó.’” Vào cuối năm thứ hai mươi, vua Sa-lô-môn xây cất xong đền thờ CHÚA và cung điện của mình. Bấy giờ vua Sa-lô-môn cũng tái thiết các thành mà vua Hu-ram nhường cho người và cho dân Y-sơ-ra-ên định cư tại đó. Vua Sa-lô-môn tiến đánh Ha-mát Xô-ba và chiếm đoạt thành này. Vua xây thành Tát-mốt trong sa mạc và tất cả các thành dùng làm kho dự trữ tại Ha-mát. Người xây Bết Hô-rôn Thượng và Bết Hô-rôn Hạ thành những thành kiên cố với tường, cổng và then cài. Vua Sa-lô-môn cũng xây thành Ba-lát và tất cả những thành dùng làm kho dự trữ, thành chứa xe ngựa, kỵ binh cùng tất cả những gì vua muốn xây cất tại Giê-ru-sa-lem, Li-ban và trên khắp lãnh thổ người cai trị. Tất cả những người sống sót thuộc các sắc tộc Hê-tít, A-mô-rít, Phê-rê-sít, Hê-vít và Giê-bu-sít, là những người không thuộc dòng giống Y-sơ-ra-ên; dòng dõi những người này còn lại trong lãnh thổ mà người Y-sơ-ra-ên chưa tiêu diệt hết được, thì vua Sa-lô-môn bắt chúng làm lao động cưỡng bách cho đến ngày nay. Nhưng vua Sa-lô-môn không bắt ai trong vòng người Y-sơ-ra-ên làm nô lệ cho vua vì họ là những binh sĩ, tướng lãnh, đội trưởng, chỉ huy các xe chiến mã và kỵ binh của vua. Vua Sa-lô-môn cũng có hai trăm năm chục viên chức quản đốc những người làm việc. Vua Sa-lô-môn đưa công chúa của Pha-ra-ôn từ thành Đa-vít lên cung điện mà người cất cho nàng vì vua nói rằng: Vợ ta sẽ không sống trong cung Đa-vít, vua Y-sơ-ra-ên vì nơi nào rương của CHÚA đến, đó là nơi thánh. Bấy giờ, trên bàn thờ CHÚA vua đã xây trước hiên cửa, vua dâng tế lễ thiêu cho CHÚA; vua dâng tế lễ theo như Môi-se đã qui định mỗi ngày, những ngày Sa-bát và trăng mới cũng như ba ngày lễ hằng năm: Lễ bánh không men, lễ các tuần và lễ lều tạm. Theo sắc lệnh của vua cha Đa-vít, vua lập các ban tế lễ theo phận sự; các ban người Lê-vi hướng dẫn ca ngợi và phụ giúp các thầy tế lễ trong việc phụng vụ hằng ngày; các ban giữ cổng cho mỗi cổng vì đây là lệnh của vua Đa-vít, người của Đức Chúa Trời. Lệnh của vua cho thầy tế lễ, người Lê-vi về mọi vấn đề, kể cả vấn đề nhà kho đều được thi hành chu đáo. Mọi công việc của vua Sa-lô-môn đều được thực hiện, từ ngày đặt nền đền thờ CHÚA cho đến khi kết thúc; đền thờ CHÚA được hoàn thành. Bấy giờ vua Sa-lô-môn đi đến Ê-xi-ôn Ghê-be và Ê-lốt trên bờ biển trong xứ Ê-đôm. Vua Hu-ram sai viên chức mình đem tàu và thủy thủ thành thạo hàng hải đến cùng các viên chức của vua Sa-lô-môn để đi Ô-phia; từ đó họ đem về mười sáu tấn vàng cho vua Sa-lô-môn. Khi nữ vương xứ Sê-ba nghe về danh tiếng vua Sa-lô-môn, bà đến Giê-ru-sa-lem với những câu đố khó để thử vua. Bà đem theo đoàn lạc đà rất lớn, chở hương liệu, rất nhiều vàng và đá quí. Bà đến gặp vua Sa-lô-môn và thảo luận về mọi vấn đề bà suy nghĩ trong trí. Vua Sa-lô-môn giải đáp mọi vấn đề bà đưa ra; không có vấn đề nào quá khó cho vua mà vua không giải đáp cho bà. Khi nữ vương xứ Sê-ba thấy sự khôn ngoan của vua Sa-lô-môn, cung điện vua xây, thức ăn trên bàn vua, triều đình, cách các quan chầu vua và y phục họ, các quan dâng rượu và y phục của họ, các tế lễ thiêu vua dâng tại đền thờ CHÚA thì bà hết hồn. Nữ vương nói với vua: Những điều tôi nghe ở trong nước tôi về các công trình và sự khôn ngoan của vua đều đúng. Lúc ấy tôi chưa tin những điều tôi nghe cho đến khi tôi đến đây và thấy tận mắt; thật, những điều người ta mô tả cho tôi chưa bằng một nửa sự khôn ngoan vua có; vua vượt xa tiếng tăm tôi đã nghe. Phước thay cho các quan viên của vua, phước thay cho những tôi tớ này, là những người hằng đứng chầu trước mặt vua và nghe những lời khôn ngoan của vua. Đáng ca ngợi CHÚA, Đức Chúa Trời của vua, Ngài đã hài lòng về vua nên lập vua lên ngôi làm vua cho CHÚA, Đức Chúa Trời của vua. Vì Đức Chúa Trời của vua yêu mến Y-sơ-ra-ên, muốn bảo toàn nó đến đời đời nên Ngài lập vua lên cai trị họ để thi hành công bình và công chính. Bấy giờ nữ vương tặng vua bốn tấn vàng, một số lượng rất lớn hương liệu và đá quí; chưa từng có thứ hương liệu nào giống như thứ hương liệu nữ vương Sê-ba tặng vua Sa-lô-môn. Ngoài ra các tôi tớ vua Hu-ram và vua Sa-lô-môn khi đem vàng từ Ô-phia về cũng đem gỗ đàn hương và đá quí về. Vua lấy gỗ đàn hương làm bậc thang cho đền thờ CHÚA, cung điện cho vua, đàn hạc, đàn lia cho các nhạc sĩ; từ trước đến nay người ta chưa bao giờ thấy những việc như vậy tại Giu-đa. Vua Sa-lô-môn tặng cho nữ vương Sê-ba mọi điều bà mơ ước và xin; vua ban cho bà nhiều hơn những tặng phẩm bà dâng cho vua. Sau đó nữ vương và các tôi tớ bà trở về nước mình. Mỗi năm vua Sa-lô-môn nhận được khoảng hai mươi ba tấn vàng, không kể số vàng những thương gia và người buôn bán đem vào. Tất cả các vua vùng A-ra-bia và thống đốc trong vùng cũng đem vàng, bạc đến cho vua Sa-lô-môn. Vua Sa-lô-môn làm 200 cái khiên lớn bằng vàng dát, mỗi cái dùng 3 ký vàng, 300 cái khiên nhỏ bằng vàng dát, mỗi cái dùng 1.7 ký vàng; vua để những khiên ấy tại Cung Rừng ở Li-ban. Vua làm một cái ngai lớn bằng ngà, bọc vàng ròng; có một bậc thang sáu cấp và bệ chân bằng vàng đính vào ngai; hai bên ngai có thành tựa tay và hai con sư tử đứng bên thành tựa tay; cũng có mười hai con sư tử đứng ở hai đầu mỗi nấc thang; không có nước nào làm ngai giống như vậy. Tất cả các đồ dùng để uống của vua Sa-lô-môn đều bằng vàng và tất cả các vật dụng ở Cung Rừng ở Li-ban đều bằng vàng ròng. Trong thời vua Sa-lô-môn bạc không có giá trị gì. Thật vậy, các thương thuyền của vua đi Ta-rê-si với các tôi tớ vua Hu-ram; cứ mỗi ba năm tàu trở về mang theo vàng, bạc, ngà voi, đười ươi và chim công. Như thế, vua Sa-lô-môn vĩ đại hơn tất cả các vua khác trên đất về cả giàu có lẫn khôn ngoan. Tất cả các vua trên đất đều mong gặp mặt vua Sa-lô-môn để nghe sự khôn ngoan mà Đức Chúa Trời đã ban cho tâm trí ông; mỗi người đều đem lễ vật bằng bạc, bằng vàng, y phục, vũ khí, hương liệu, ngựa và la; cứ như thế hằng năm. Vua Sa-lô-môn có bốn ngàn chuồng ngựa và nhà để xe ngựa, mười hai ngàn ngựa ở tại các thành chứa xe ngựa và ở bên cạnh vua tại Giê-ru-sa- lem. Vua thống trị tất cả các vua từ sông cái đến xứ Phi-li-tin cho đến biên giới Ai Cập. Tại Giê-ru-sa-lem, vua làm cho bạc trở nên như đá sỏi và gỗ bá hương thì nhiều như cây vả ở vùng Shơ-phê-la. Vua Sa-lô-môn nhập cảng ngựa từ Ai Cập và mọi nước khác. Còn các câu chuyện khác của vua Sa-lô-môn, từ đầu đến cuối, đều được ghi trong sách của tiên tri Na-than, trong sách tiên tri của A-hi-gia, người Si-lô, trong sách khải tượng của Giê-đô, vị tiên kiến nói về Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát. Vua Sa-lô-môn trị vì toàn thể Y-sơ-ra-ên tại Giê-ru-sa-lem bốn mươi năm. Vua Sa-lô-môn an nghỉ cùng tổ tiên mình, được chôn cất trong thành Đa-vít, thành của vua cha. Thái tử Rô-bô-am lên ngôi kế vị người. Rô-bô-am đi lên Si-chem vì toàn thể Y-sơ-ra-ên đã lên Si-chem để phong vương cho ông. Khi Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, nghe điều ấy, liền từ Ai Cập trở về, lúc bấy giờ người đang ở Ai Cập vì đã trốn vua Sa-lô-môn sang đó. Người ta mời Giê-rô-bô-am về; người và toàn thể Y-sơ-ra-ên đến thưa cùng Rô-bô-am rằng: “Thân phụ Ngài đã đặt một ách nặng trên chúng tôi; nay xin ngài giảm bớt sự phục dịch khó nhọc và ách nặng nề mà thân phụ ngài đã đặt trên chúng tôi thì chúng tôi sẽ phục dịch ngài.” Người nói với họ: “Hãy trở lại gặp ta trong ba ngày.” Thế là dân chúng ra về. Bấy giờ vua Rô-bô-am tham khảo với các trưởng lão đã từng phục vụ vua cha Sa-lô-môn khi người còn sống. “Các ông nghĩ rằng ta nên đáp lời thế nào cho dân chúng?” Họ trả lời vua: “Nếu ngài tốt với dân, làm vui lòng dân, dùng lời lẽ nhân từ phán với dân thì họ sẽ suốt đời phục vụ vua.” Nhưng vua bỏ lời cố vấn của các trưởng lão; người tham khảo các thanh niên cùng lớn lên với mình và đang phục vụ mình. Vua hỏi họ: “Dân này xin ta giảm nhẹ ách mà cha ta đã đặt trên họ, các ngươi nghĩ rằng ta nên trả lời thế nào cho chúng?” Các thanh niên, những người cùng lớn lên với vua trả lời: “Vua hãy bảo dân chúng, những người đã tâu cùng vua rằng thân phụ vua đã đặt ách nặng trên họ và xin vua giảm nhẹ cho họ, vua hãy nói với chúng thế này: ‘Ngón tay út của ta còn lớn hơn lưng của cha ta. Này, cha ta đã đặt ách nặng trên các ngươi; ta sẽ tăng thêm cho nặng hơn. Cha ta đã trừng phạt các ngươi bằng roi, còn ta, ta sẽ trừng phạt các người bằng bọ cạp.’” Ba ngày sau Giê-rô-bô-am và tất cả dân chúng trở lại với vua Rô-bô-am như người đã bảo họ, hãy trở lại gặp ta trong ba ngày. Vua trả lời cứng rắn với họ, vua Rô-bô-am bỏ lời khuyên của các trưởng lão. Vua trả lời họ theo lời khuyên của các thanh niên rằng cha ta đã đặt ách nặng trên các ngươi, ta sẽ tăng thêm; người đã trừng phạt các ngươi bằng roi, nhưng ta sẽ trừng phạt bằng bọ cạp. Như thế vua không nghe theo dân chúng và việc xảy ra như vậy là do Đức Chúa Trời để CHÚA làm ứng nghiệm lời Ngài đã dùng A-hi-gia, người Si-lô, phán với Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát. Khi thấy vua không nghe theo mình, toàn thể Y-sơ-ra-ên đáp lời vua:“Chúng ta có phần gì với Đa-vít?Chúng ta không có phần gì với con trai Y-sai.Bây giờ, hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy trở về nhà mình.Hỡi Đa-vít, hãy coi chừng nhà ông.”Thế là toàn thể Y-sơ-ra-ên trở về nhà mình. Nhưng vua Rô-bô-am vẫn cai trị trên những người Y-sơ-ra-ên sống trong các thành tại Giu-đa. Bấy giờ vua Rô-bô-am sai Ha-đô-ram đến, người quản đốc việc lao động cưỡng bách, nhưng người Y-sơ-ra-ên ném đá ông và ông chết; còn vua Rô-bô-am vội vã lên xe ngựa trốn về Giê-ru-sa-lem. Như thế người Y-sơ-ra-ên chống lại nhà Đa-vít cho đến ngày nay. Khi vua Rô-bô-am về đến Giê-ru-sa-lem, người triệu tập 180.000 chiến sĩ từ nhà Giu-đa và Bên-gia-min để tấn công Y-sơ-ra-ên và phục hồi vương quốc về cho Rô-bô-am. Nhưng lời của CHÚA đến với Sê-ma-gia, người của Đức Chúa Trời, phán: “Hãy nói với Rô-bô-am, con trai Sa-lô-môn, vua Giu-đa và toàn thể người Y-sơ-ra-ên trong Giu-đa và Bên-gia-min rằng, CHÚA phán thế này: ‘Các ngươi chớ đi lên tấn công anh em mình, mỗi người hãy trở về nhà vì việc này do Ta mà ra’”. Họ vâng lời CHÚA, trở về, không tấn công Giê-rô-bô-am nữa. Vua Rô-bô-am ở tại Giê-ru-sa-lem; người xây dựng các thành trong Giu-đa để phòng thủ. Người xây dựng các thành Bết-lê-hem, Ê-tam, Thê-cô-a, Bết-sua, Sô-cô, A-đu-lam, Gát, Ma-rê-sa, Xíp, A-đô-ra-im, La-ki, A-xê-ka, Xô-rê-a, A-gia-lôn và Hếp-rôn. Đó là những thành kiên cố trong Giu-đa và Bên-gia-min. Vua tăng cường việc phòng thủ cho các thành, đặt người chỉ huy, chứa lương thực, dầu và rượu. Vua cũng cung cấp khiên lớn và giáo cho tất cả mỗi thành, làm cho chúng trở nên rất kiên cố. Như vậy Giu-đa và Bên-gia-min thuộc về Vua. Những thầy tế lễ và người Lê-vi từ khắp các vùng trong toàn cõi Y-sơ-ra-ên đều theo vua Rô-bô-am. Người Lê-vi đã bỏ tài sản và đồng ruộng của mình để đến Giu-đa và Giê-ru-sa-lem vì Giê-rô-bô-am và các con trai người không cho họ làm thầy tế lễ cho CHÚA. Giê-rô-bô-am lập các thầy tế lễ cho mình tại những nơi cao, cho các tượng dê đực và bò con mà người đã làm ra. Từ mọi chi tộc Y-sơ-ra-ên, những người hết lòng tìm kiếm CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đều theo những người Lê-vi đến Giê-ru-sa-lem để dâng sinh tế cho CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ họ. Họ làm cho vương quốc Giu-đa vững mạnh; họ hỗ trợ vua Rô-bô-am, con trai Sa-lô-môn trong ba năm; thật vậy, trong ba năm họ đã đi theo đường lối của Đa-vít và Sa-lô-môn. Rô-bô-am cưới Ma-ha-lát, con gái của Giê-ri-mốt, cháu Đa-vít, làm vợ và A-bi-hai, con gái Ê-li-áp, cháu Y-sai. Bà sinh cho người các con trai là Giê-úc, Sê-ma-ri-a và Xa-ham. Sau đó vua lấy Ma-a-ca, con gái Áp-sa-lôm; bà sinh cho người: A-bi-gia, Át-thai, Xi-xa, và Sê-lô-mi. Vua Rô-bô-am yêu Ma-a-ca, con gái Áp-sa-lôm hơn các bà vợ và thứ phi khác; vì người lấy mười tám bà vợ và sáu mươi cung phi, có hai mươi tám con trai và sáu mươi con gái. Vua Rô-bô-am lập A-bi-gia, con trai bà Ma-a-ca làm trưởng, làm thái tử giữa vòng các anh em mình, để kế vị vua. Vua hành động khôn khéo, phân tán các hoàng tử đi khắp các vùng của Giu-đa và Bên-gia-min, đến các thành kiên cố, ban cho họ lương thực dồi dào và cưới cho nhiều vợ. Khi Rô-bô-am củng cố vương quốc và trở nên hùng cường, vua và toàn thể Y-sơ-ra-ên từ bỏ kinh luật của CHÚA. Vào năm thứ năm đời vua Rô-bô-am, vì chúng bất trung với CHÚA nên Si-sắc, vua Ai-cập tấn công Giê-ru-sa-lem. Từ Ai-cập người đem 1.200 xe chiến mã, 60.000 kỵ binh và vô số lính chiến Ly-bi, Su-ri và Ê-thi-ô-bi. Si-sắc chiếm cứ các thành kiên cố trong Giu-đa và tiến đến tận Giê-ru-sa-lem. Tiên tri Sê-ma-gia đến cùng vua Rô-bô-am và những người lãnh đạo Giu-đa đang tụ họp tại Giê-ru-sa-lem vì sợ Si-sắc; người nói với họ, CHÚA phán thế này: “Các ngươi đã từ bỏ Ta nên Ta cũng từ bỏ các ngươi vào tay Si-sắc.” Bấy giờ những người lãnh đạo Y-sơ-ra-ên và vua đều hạ mình xuống, tuyên xưng: “CHÚA là công chính”. Khi CHÚA thấy họ hạ mình xuống, có lời của CHÚA phán với Sê-ma-gia rằng: Vì chúng nó đã hạ mình xuống, Ta sẽ không hủy diệt nhưng sẽ sớm giải cứu chúng. Ta sẽ không dùng tay Si-sắc trút cơn thịnh nộ Ta xuống Giê-ru-sa-lem nữa; Nhưng chúng nó sẽ phải phục dịch vua ấy để biết sự phục dịch Ta khác với sự phục dịch các vua trên đất là thể nào. Si-sắc, vua Ai-cập, tấn công Giê-ru-sa-lem; người chiếm đoạt tất cả báu vật trong đền thờ CHÚA và trong cung vua; người cũng lấy tất cả các khiên bằng vàng mà vua Sa-lô-môn đã làm. Vì thế vua Rô-bô-am làm các khiên bằng đồng để thay thế; vua giao cho những người chỉ huy quân cảnh vệ canh gác cửa hoàng cung giữ. Mỗi khi vua vào đền thờ CHÚA, những người lính cảnh vệ mang các khiên ấy ra rồi lại đem cất vào kho cảnh vệ. Vì vua Rô-bô-am đã hạ mình xuống nên tránh được cơn thịnh nộ của CHÚA và không bị hủy diệt hoàn toàn; thật ra cũng có một vài điều tốt lành trong nước Giu-đa. Vậy, vua Rô-bô-am củng cố vững vàng và trị vì tại Giê-ru-sa-lem. Vua lên ngôi lúc bốn mươi mốt tuổi và trị vì mười bảy năm tại Giê-ru-sa-lem, là thành CHÚA chọn giữa các chi tộc Y-sơ-ra-ên và đặt danh Ngài ở đó. Mẹ vua tên là Na-a-ma, người Am-môn. Vua đã làm điều ác vì không dốc lòng tìm kiếm CHÚA. Những công việc của vua Rô-bô-am, từ đầu đến cuối, đã chẳng được ghi chép trong sách của tiên tri Sê-ma-gia và Y-đô, vị tiên kiến, theo cách chép gia phả sao? Trong suốt thời trị vì, vua Rô-bô-am luôn luôn có chiến tranh với Giê-rô-bô-am. Vua Rô-bô-am an giấc với tổ phụ và được chôn cất trong thành Đa-vít. Thái tử A-bi-gia lên ngôi kế vị vua. Vào năm thứ mười tám thời vua Giê-rô-bô-am, A-bi-gia lên làm vua nước Giu-đa. Người trị vì tại Giê-ru-sa-lem ba năm. Mẹ vua tên là Mi-ca-gia, con gái của U-ri-ên ở Ghi-bê-a. Lúc bấy giờ có chiến tranh giữa vua A-bi-gia và vua Giê-rô-bô-am. Vua A-bi-gia đem một lực lượng 400.000 chiến sĩ tinh nhuệ ra trận, còn Giê-rô-bô-am đem 800.000 quân tinh nhuệ, là những dũng sĩ, ra dàn trận nghênh chiến. Vua A-bi-gia đứng trên núi Xê-ra-ma-im thuộc miền đồi núi Ép-ra-im; người nói: “Hỡi Giê-rô-bô-am và toàn thể Y-sơ-ra-ên, hãy nghe ta, Các ngươi không biết rằng trong một giao ước muối, CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã ban quyền cai trị trên Y-sơ-ra-ên cho vua Đa-vít và dòng dõi người đời đời sao? Nhưng Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, tôi tớ vua Sa-lô-môn, con trai vua Đa-vít, đã nổi loạn chống lại chủ mình. Những tên côn đồ, vô lại hùa theo nó chống lại vua Rô-bô-am, con trai vua Sa-lô-môn khi vua Rô-bô-am còn trẻ, thiếu cương quyết, chưa đủ mạnh để chống lại chúng. Bây giờ các ngươi tưởng sẽ chống cự nổi vương quốc của CHÚA đang ở trong tay con cháu vua Đa-vít sao? Dù các ngươi có quân đông, có bò con vàng mà Giê-rô-bô-am đã đúc để làm thần các ngươi. Chẳng phải các ngươi đã đuổi các thầy tế lễ của CHÚA, là con cháu A-rôn và người Lê-vi sao? Rồi các ngươi lập các thầy tế lễ cho mình như dân bản xứ. Bất cứ ai đem một con bò tơ đực, bảy con dê đực đến dâng để xin thụ phong thì sẽ được làm thầy tế lễ cho cái không phải là thần. Đối với chúng ta, CHÚA là Đức Chúa Trời chúng ta; chúng ta không từ bỏ Chúa. Những thầy tế lễ phục vụ CHÚA đều là con cháu A-rôn và những người Lê-vi thi hành phận sự của họ. Mỗi buổi sáng và buổi chiều, người ta dâng tế lễ thiêu cho CHÚA; người ta cũng đốt hương thơm, trình dâng bánh trên bàn thanh sạch; đèn trên các chân đèn bằng vàng đều được thắp sáng mỗi đêm. Thật vậy, chúng ta tuân giữ những điều CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta truyền, còn các ngươi từ bỏ Ngài. Nầy, Đức Chúa Trời là Đấng lãnh đạo chúng ta và ở cùng chúng ta. Những thầy tế lễ của Ngài sẽ thổi kèn xuất quân tấn công các ngươi. Hỡi người Y-sơ-ra-ên, đừng chiến đấu chống lại CHÚA, là Đức Chúa Trời của tổ phụ các ngươi vì các ngươi sẽ không thắng được.” Bấy giờ Giê-rô-bô-am đã sai quân đi vòng phía sau quân Giu-đa cho nên khi họ ở phía trước thì quân phục kích phía sau chúng. Khi quân Giu-đa quay lại, kìa họ bị tấn công từ phía trước lẫn phía sau. Họ kêu cầu cùng CHÚA và các thầy tế lễ thì thổi kèn lên. Bấy giờ người Giu-đa hò hét xung trận; khi người Giu-đa hò hét xung trận, Đức Chúa Trời đánh bại Giê-rô-bô-am và toàn quân Y-sơ-ra-ên trước mặt vua A-bi-gia và người Giu-đa. Quân Y-sơ-ra-ên bỏ chạy trước mặt quân Giu-đa; Đức Chúa Trời trao chúng nó vào tay quân Giu-đa. Vua A-bi-gia và quân Giu-đa đánh bại và gây thiệt hại nặng nề cho quân Y-sơ-ra-ên; có 500.000 quân tinh nhuệ của họ bị thiệt mạng. Trong trận ấy quân Y-sơ-ra-ên bị thua trận, còn quân Giu-đa thắng trận vì họ đã nương cậy nơi CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ họ. Vua A-bi-gia đuổi theo Giê-rô-bô-am và chiếm cứ các thành Bê-tên và phụ cận, Giê-sa-na và phụ cận và Ếp-rôn cùng phụ cận. Trong thời vua A-bi-gia, Giê-rô-bô-am không phục hồi được quyền lực; CHÚA đánh phạt người và người chết. Nhưng vua A-bi-gia trở nên cường thịnh; người lấy mười bốn vợ và có hai mươi hai con trai và mười sáu con gái. Những việc khác của vua A-bi-gia, đường lối và hành động của vua được chép trong sách của tiên tri Y-đô. Vua A-bi-gia an giấc cùng tổ phụ mình và được chôn cất trong thành Đa-vít. A-sa con trai người lên ngôi kế vị. Trong thời vua A-sa đất nước được bình an mười năm. Vua A-sa làm điều thiện và ngay thẳng trước mặt CHÚA, Đức Chúa Trời người. Vua loại bỏ các bàn thờ của người ngoại quốc, những nơi cao; đập bể các trụ thờ và phá bỏ các cột thờ. Vua truyền cho nước Giu-đa phải tìm kiếm CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ họ và tuân theo kinh luật, điều răn của Ngài. Vua loại bỏ tất cả những nơi cao và bàn thờ dâng hương trong các thành của Giu-đa; dưới thời vua, vương quốc được thái bình. Nhờ đất nước được bình an, vua xây dựng những thành kiên cố trong Giu-đa. Trong suốt những năm người trị vì không có chiến tranh vì CHÚA ban cho vua thái bình. Vua nói với người Giu-đa: “Chúng ta hãy xây dựng những thành này, xây tường chung quanh, dựng tháp canh, cổng và then cài vì đất nước vẫn thuộc về chúng ta. Vì chúng ta đã tìm kiếm CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta; chúng ta đã tìm kiếm Ngài nên Ngài ban cho chúng ta bình an mọi bề.” Như thế họ xây dựng và thịnh vượng. Vua A-sa có một quân đội gồm 300.000 người Giu-đa trang bị khiên lớn và giáo và 280.000 người Bên-gia-min trang bị khiên nhỏ và cung; tất cả đều là những chiến sĩ tinh nhuệ. Bấy giờ Xê-rách, người Ê-thi-ô-bi đem một đạo binh một triệu quân với 300 xe chiến mã đến tấn công người Giu-đa; chúng kéo đến tận Ma-rê-sa. Vua A-sa đi ra nghênh chiến và dàn quân tại thung lũng Xê-pha-ta, gần Ma-rê-sa. Vua A-sa cầu khẩn CHÚA, Đức Chúa Trời mình rằng: “Lạy CHÚA, không có thần nào như Ngài, Đấng giúp đỡ người yếu chống lại kẻ mạnh; lạy CHÚA, Đức Chúa Trời chúng con, xin giúp đỡ chúng con, chúng con nương cậy nơi Ngài; chúng con nhân danh Ngài đi ra chống lại đoàn quân đông đảo này, lạy CHÚA, Đức Chúa Trời chúng con, xin đừng để phàm nhân thắng hơn Chúa.” CHÚA đánh tan quân Ê-thi-ô-bi trước mặt vua A-sa và người Giu-đa; chúng bỏ chạy. Vua A-sa và đoàn quân của người truy kích chúng đến tận Ghê-ra. Quân Ê-thi-ô-bi ngã gục, không phương cứu vãn; chúng bị đánh tan trước mặt CHÚA và trước đội quân của Ngài. Người ta chiếm được một số lớn chiến lợi phẩm. Quân Giu-đa cũng tiêu diệt mọi thành chung quanh Ghê-ra vì sự kinh hoàng từ CHÚA giáng xuống các thành ấy và chúng chiếm đoạt tài sản vì có rất nhiều sản vật trong đó. Chúng cũng tấn công các trại nuôi súc vật, cướp đoạt nhiều bầy cừu và lạc đà, rồi rút quân về Giê-ru-sa-lem. Thần của Đức Chúa Trời đến trên A-xa-ri, con trai Ô-đết; Người đến và thưa với vua A-sa: “Tâu vua A-sa cùng tất cả người Giu-đa và Bên-gia-min, xin hãy nghe tôi, CHÚA ở cùng các ngươi khi các ngươi ở cùng Ngài; nếu các ngươi tìm kiếm Ngài, các ngươi sẽ gặp được; nếu các ngươi từ bỏ Ngài, Ngài sẽ từ bỏ các ngươi. Đã lâu nay, Y-sơ-ra-ên không có một Đức Chúa Trời thật; không có thầy tế lễ dạy dỗ, cũng không có kinh luật. Nhưng trong khi hoạn nạn, họ quay trở lại cùng CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, tìm kiếm Ngài và Ngài cho họ gặp được. Vào thời ấy việc đi lại không được an toàn vì dân cư trong các xứ bị loạn lạc lớn. Nước này bị nước kia giày đạp; thành này bị thành nọ tấn công vì Đức Chúa Trời giáng đủ mọi điều khốn khổ xuống làm chúng rối loạn. Nhưng các ngươi, hãy can đảm lên, đừng buông xuôi bỏ cuộc vì công việc các ngươi làm sẽ được thưởng.” Khi vua A-sa nghe những lời này và lời tiên tri của tiên tri Ô-đết thì vua được can đảm. Vua dẹp bỏ tất cả những hình tượng gớm ghiếc trong khắp lãnh thổ Giu-đa, Bên-gia-min và các thành người chiếm được trên đồi Ép-ra-im. Vua cũng tu bổ bàn thờ của CHÚA trước tiền đường đền thờ CHÚA. Vua A-sa triệu tập tất cả những người Giu-đa, Bên-gia-min và những người Ép-ra-im, Ma-na-se cùng Si-mê-ôn đương cư ngụ với họ vì có nhiều người Y-sơ-ra-ên đến theo vua khi họ thấy CHÚA, Đức Chúa Trời của vua ở cùng người. Tháng ba năm thứ mười lăm đời vua A-sa, họ tụ họp tại Giê-ru-sa-lem; lúc bấy giờ họ lấy 700 con bò và 7.000 con chiên từ chiến lợi phẩm để dâng tế lễ cho CHÚA. Họ hết lòng, hết linh hồn lập giao ước thờ phượng CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ mình. Bất cứ ai không thờ phượng CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên sẽ bị xử tử, bất luận lớn hay nhỏ, đàn ông hay đàn bà. Họ hô to tuyên thệ cùng CHÚA, reo hò, thổi kèn và thổi tù và. Cả nước Giu-đa vui mừng về lời thề ấy vì họ hết lòng tuyên thệ và hết sức tìm kiếm CHÚA nên Ngài cho họ gặp được và ban cho họ bình an mọi bề. Vua A-sa cũng cách chức thái hậu của bà nội ông, bà Ma-a-ca, vì bà đã làm trụ thờ A-sê-ra ghê tởm. Vua hạ cây trụ thờ ghê tởm ấy xuống, đập nát và đốt trong thung lũng Xết-rôn. Dù các nơi cao để thờ tự trong Y-sơ-ra-ên không bị phá bỏ, vua A-sa vẫn trọn lòng với Chúa suốt đời mình. Vua đem những vật thánh vua cha và chính vua đã tận hiến: bạc, vàng và các vật dụng, vào đền thờ Đức Chúa Trời. Bấy giờ không có chiến tranh cho đến năm thứ ba mươi lăm dưới triều vua A-sa. Năm thứ ba mươi sáu thời vua A-sa, vua Ba-ê-sa của Y-sơ-ra-ên lên tấn công Giu-đa. Vua củng cố thành Ra-ma để ngăn chận người ta ra vào lãnh thổ Giu-đa của vua A-sa. Bấy giờ vua A-sa lấy bạc, vàng trong kho đền thờ CHÚA và trong cung vua đem nộp cho Bên Ha-đát, vua A-ram đang trị vì tại Đa-mách, nói rằng: “Xin hãy kết ước với tôi như thân phụ vua và thân phụ tôi đã làm. Đây, tôi xin gởi bạc vàng đến vua. Xin vua hãy hủy bỏ giao ước với Ba-ê-sa, vua Y-sơ-ra-ên để người rút khỏi xứ tôi.” Vua Bên Ha-đát chấp thuận lời vua A-sa, sai các tướng chỉ huy lực lượng tấn công các thành của Y-sơ-ra-ên và chiếm đoạt thành Y-giôn, Đan, A-bên-ma-im cùng các nhà kho trong các thành thuộc Nép-ta-li. Khi nghe tin ấy, vua Ba-ê-sa ngưng và bãi bỏ công việc xây cất thành Ra-ma. Bấy giờ vua A-sa đem toàn lực người Giu-đa đến lấy gỗ và đá mà vua Ba-ê-sa dùng để xây thành Ra-ma; vua dùng đồ đó xây cất thành Ghê-ba và Mích-ba. Ngay khi ấy vị tiên kiến Ha-na-nia đến nói với A-sa, vua Giu-đa rằng: “Vì vua đã nương cậy vào vua Sy-ri, chứ không nương cậy nơi CHÚA, Đức Chúa Trời của vua cho nên lực lượng của vua Sy-ri đã thoát khỏi tay vua. Quân Ê-thi-ô-bi và Li-by không hùng hậu sao? Các xe chiến mã và kỵ binh của chúng chẳng phải rất đông đảo sao? Dù vậy vua đã nương cậy nơi CHÚA và Ngài đã phó chúng vào tay vua. Vì mắt CHÚA soi xét khắp quả đất để tăng cường sức lực cho những người giữ lòng trung thành với Ngài. Thật vậy, trong việc này, vua đã hành động dại dột, nên từ nay vua sẽ luôn luôn phải đối diện với chiến tranh.” Vua A-sa nổi giận với vị tiên kiến; vì tức giận, vua cùm và bỏ tù người; trong lúc ấy vua cũng đàn áp một số người. Này, các công việc của vua A-sa, từ đầu đến cuối, đều được chép trong sách của các vua Giu-đa và Y-sơ-ra-ên. Năm thứ ba mươi chín dưới triều mình, vua A-sa bị đau bàn chân, bệnh trở nên rất nặng nhưng vua không tìm kiếm CHÚA, chỉ tìm các thầy thuốc chữa trị. Vào năm thứ bốn mươi mốt dưới triều vua, vua A-sa băng hà và an giấc cùng tổ phụ mình. Người ta chôn cất vua trong mộ mà vua đã đục cho mình tại thành Đa-vít. Vua được đặt trên sàng phủ đầy hương liệu, các loại hương liệu khác nhau được pha chế theo kỷ thuật làm dầu thơm. Người ta cũng đốt lửa rất lớn để tôn kính vua. Thái tử Giê-hô-sa-phát lên ngôi kế vị; người củng cố đất nước mình để đối đầu với Y-sơ-ra-ên. Vua đóng quân tại khắp các thành kiên cố của Giu-đa, lập đồn trong vùng Giu-đa và tại các thành của Ép-ra-im mà vua cha A-sa đã chiếm được. CHÚA ở cùng vua Giê-hô-sa-phát vì vua đi theo con đường vua Đa-vít, tổ phụ người đã đi trước đây và không tìm kiếm thần Ba-anh, nhưng tìm kiếm Đức Chúa Trời của thân phụ mình và tuân theo các điều răn của Ngài chứ không như nước Y-sơ-ra-ên đã làm. Vì thế CHÚA củng cố vương quốc trong tay vua. Toàn thể Giu-đa đem cống phẩm dâng cho vua Giê-hô-sa-phát cho nên vua trở nên rất giàu có và vinh hiển. Vua được phấn khởi trong các đường lối của CHÚA và tiếp tục phá bỏ các nơi cao cũng như những trụ thờ trong Giu-đa. Năm thứ ba dưới triều vua, vua sai các quan Bên-hai, Ô-ba-đia, Xa-cha-ri, Na-tha-na-ên, và Mi-ca-gia đi dạy dỗ tại các thành của Giu-đa. Cùng đi với họ có những người Lê-vi sau đây: Sê-ma-gia, Nê-tha-nia, Xê-ba-đia, A-sa-ên, Sê-mi-ra-mốt, Giô-na-than, A-đô-ni-gia, Tô-bi-gia và Tô-ba-đô-ni-gia; ngoài ra cũng có các thầy tế lễ Ê-li-sa-ma và Giô-ram. Họ đem theo Kinh Luật của CHÚA và dạy dỗ dân chúng trong khắp các thành của Giu-đa. CHÚA giáng kinh hoàng xuống các nước chung quanh Giu-đa khiến chúng không dám gây chiến với vua Giê-hô-sa-phát. Người Phi-li-tin đem lễ vật và bạc triều cống vua Giê-hô-sa-phát; còn người Ả-rập cũng đem dâng vua các bầy súc vật: 7.700 con chiên đực và 7.700 con dê đực. Vua Giê-hô-sa-phát trở nên ngày càng cường thịnh; vua xây cất đồn lũy và các thành có nhà kho trong Giu-đa. Vua cũng có nhiều nguồn dự trữ tại các thành trong Giu-đa và những binh sĩ thiện chiến tại Giê-ru-sa-lem. Danh sách của những người này theo gia tộc như sau:Từ Giu-đa, các tướng chỉ huy 1.000 quân gồm có:Át-na, tướng chỉ huy 300.000 dũng sĩ. Kế người là Giô-ha-nan, tướng chỉ huy 280.000 quân; rồi đến A-ma-sia, con trai Xiếc-ri, người tình nguyện phục vụ CHÚA, người chỉ huy 200.000 dũng sĩ. Từ Bên-gia-mincó Ê-li-a-đa, một dũng sĩ, người chỉ huy 200.000 binh sĩ cầm khiên và bắn cung; kế người là Giê-hô-gia-bát, người chỉ huy 180.000 binh sĩ vũ trang sẵn sàng để chiến đấu. Đây là những người phục vụ vua, ngoài ra vua cũng đặt những người khác tại các thành kiên cố khắp Giu-đa. Vua Giê-hô-sa-phát trở nên rất giàu có và vinh hiển, vua kết thông gia với vua A-háp. Sau đó vài năm vua đi xuống thăm vua A-háp tại Sa-ma-ri. Vua A-háp giết thịt nhiều chiên và bò thết đãi vua và đoàn tùy tùng; người cũng thuyết phục vua tấn công Ra-mốt Ga-la-át. A-háp, vua Y-sơ-ra-ên nói với Giê-hô-sa-phát, vua Giu-đa rằng: “Ngài có muốn cùng tôi đi đánh Ra-mốt Ga-la-át không?” Người trả lời: “Tôi cũng như ngài, dân tôi cũng như dân ngài, chúng tôi sẽ tham chiến với ngài.” Vua Giê-hô-sa-phát cũng nói với vua Y-sơ-ra-ên: “Nhưng hãy thỉnh cầu lời chỉ dẫn của CHÚA trước đã.” Bấy giờ vua Y-sơ-ra-ên triệu tập các tiên tri, khoảng 400 người. Vua hỏi họ: “Chúng ta có nên đi đánh Ra-mốt Ga-la-át không, hay nên đình hoãn lại?” Họ trả lời: “Vua hãy đi, Đức Chúa Trời sẽ trao thành ấy vào tay vua.” Nhưng vua Giê-hô-sa-phát hỏi: “Ở đây không còn một tiên tri nào khác của CHÚA để chúng ta hỏi người sao?” Vua Y-sơ-ra-ên đáp lời vua Giê-hô-sa-phát: “Còn một người chúng ta có thể nhờ để thỉnh cầu CHÚA, tên ông ta là Mai-ca, con trai Giêm-la, nhưng tôi ghét ông ấy, ông ta không bao giờ nói tiên tri tốt về tôi nhưng chỉ toàn là xấu mà thôi.” Vua Giê-hô-sa-phát đáp: “Vua không nên nói như thế.” Vua Y-sơ-ra-ên gọi một vị quan và bảo: “Hãy truyền cho Mai-ca, con trai Giêm-la đến đây ngay.” Vua Y-sơ-ra-ên và vua Giu-đa, Giê-hô-sa-phát, mỗi người mặc hoàng bào, ngồi trên ngai mình tại sân đạp lúa nơi cổng thành Sa-ma-ri; tất cả các tiên tri đang nói tiên tri trước mặt các vua. Bấy giờ Sê-đê-kia, con trai Kê-na-nia, làm những sừng bằng sắt, tuyên bố, “CHÚA phán như vầy, Ngươi sẽ dùng các sừng nầy húc Sy-ri cho đến khi hủy diệt chúng.” Tất cả các tiên tri đều nói tiên tri như vậy: “Hãy tấn công Ra-mốt Ga-la-át, vua sẽ thành công; CHÚA sẽ trao thành ấy vào tay vua.” Sứ giả đi mời Mai-ca và nói với người: “Kìa, các tiên tri đều nói cùng một điều rằng vua sẽ thành công, vậy lời của ông nên hợp với họ, ông nên nói điều lành.” Nhưng Mai-ca đáp: “CHÚA là Đấng hằng sống, ta chỉ có thể nói với vua điều gì Đức Chúa Trời của ta phán.” Khi người đến, vua hỏi: “Mai-ca, chúng ta có nên đi đánh Ra-mốt Ga-la-át không, hay nên đình hoãn lại?” Người đáp: “Cứ đánh đi, vua sẽ chiến thắng mà, thành sẽ lọt vào tay vua.” Vua nói với người: “Đã bao lần ta phải buộc ngươi thề rằng nhân danh CHÚA ngươi chỉ nói sự thật với ta?” Người đáp: “Tôi thấy toàn thể Y-sơ-ra-ên chạy tán loạn trên các đồi như bầy chiên không có người chăn; và CHÚA phán: ‘Những người này không có chủ, hãy để mỗi người trở về nhà bình an.’” Vua Y-sơ-ra-ên nói với vua Giê-hô-sa-phát: “Tôi đã chẳng nói với ngài sao, ông ta không bao giờ nói tiên tri lành về tôi, chỉ toàn điều dữ.” Mai-ca tiếp: “Vậy, hãy nghe lời CHÚA, tôi thấy CHÚA ngồi trên ngai và toàn thể đạo thiên binh đứng chầu bên phải và bên trái. CHÚA hỏi: ‘Ai sẽ dụ A-háp, vua Y-sơ-ra-ên đi lên và ngã gục tại Ra-mốt Ga-la-át?’ Người nói thế này, kẻ nói thế nọ. Bấy giờ một thần tiến lên, đứng trước mặt CHÚA và thưa: ‘Tôi sẽ dụ người.’ CHÚA hỏi: ‘Bằng cách nào?’ Thần đáp: ‘Tôi sẽ đi và làm thần nói láo trong miệng của tất cả các tiên tri của người.’ Chúa bảo: ‘Ngươi sẽ dụ được người và thành công, hãy đi và làm như vậy.’ Như vậy CHÚA đặt thần nói láo vào miệng các tiên tri của vua; CHÚA đã định tai họa cho vua.” Bấy giờ Sê-đê-kia, con trai Kê-na-nia, đến gần, vả vào má Mai-ca và hỏi: “Thần của CHÚA từ ta đã đi đường nào đến để nói cùng ngươi?” Mai-ca trả lời: “Này, vào ngày ấy ngươi sẽ thấy, khi ngươi phải chạy vào phòng trong để trốn.” Vua Y-sơ-ra-ên liền ra lệnh: “Hãy bắt Mai-ca, đem trả cho A-môn, quan cai trị thành và cho hoàng tử Giô-ách. Các ngươi hãy nói với họ, vua truyền: Hãy giam tên này vào tù, cho ăn uống tối thiểu thôi cho đến khi ta trở về bình an.” Mai-ca tuyên bố: “Nếu vua trở về bình an, CHÚA đã không dùng tôi để phán; ông nói tiếp: ‘Hỡi toàn dân, các người hãy nghe ta.’” Bấy giờ vua Y-sơ-ra-ên và Giê-hô-sa-phát, vua Giu-đa đi lên Ra-mốt Ga-la-át. Vua Y-sơ-ra-ên nói với vua Giê-hô-sa-phát: “Tôi sẽ ngụy trang để ra trận, còn ngài cứ mặc áo của ngài.” Thế là vua Y-sơ-ra-ên ngụy trang và ra trận. Vua Sy-ri đã ra lệnh cho các tướng chỉ huy các xe chiến mã của mình rằng: “Các ngươi đừng tấn công ai, dù nhỏ hay lớn, chỉ tấn công một mình vua Y-sơ-ra-ên mà thôi.” Khi các tướng chỉ huy xe chiến mã thấy Giê-hô-sa-phát, họ tưởng đó là vua Y-sơ-ra-ên nên kéo quân tấn công người. Vua Giê-hô-sa-phát kêu cứu và CHÚA giải cứu người; Đức Chúa Trời làm cho chúng tránh xa vua. Khi các tướng chỉ huy xe chiến mã nhận thấy đó không phải là vua Y-sơ-ra-ên, họ quay lại, không rượt theo vua nữa. Bấy giờ tình cờ một người giương cung bắn đại; mũi tên trúng vào giữa vành áo giáp của vua Y-sơ-ra-ên; vua bảo người đánh xe: “Hãy quay cương lại, đem ta ra khỏi chiến trận vì ta bị thương rồi.” Trận chiến trở nên dữ dội suốt ngày hôm ấy; còn vua Y-sơ-ra-ên đứng dựa vào xe, đối diện với quân Sy-ri cho đến chiều tối. Vua từ trần lúc mặt trời lặn. Giê-hô-sa-phát, vua Giu-đa trở về cung mình bình an tại Giê-ru-sa-lem. Bấy giờ Giê-hu, vị tiên kiến, con trai Ha-na-nia đến gặp và nói với vua Giê-hô-sa-phát: “Ngài có nên giúp kẻ ác và yêu kẻ ghét CHÚA không? Vì ngài đã làm điều này nên cơn thịnh nộ từ CHÚA sẽ giáng xuống ngài. Tuy nhiên ngài cũng có những điều tốt khi phá hủy các trụ thờ khỏi đất nước và quyết tâm tìm kiếm Đức Chúa Trời.” Vua Giê-hô-sa-phát cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem. Sau đó vua lại ra đi thăm dân từ Bê-e-sê-ba cho đến vùng đồi núi Ép-ra-im và đem họ trở về cùng CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ họ. Vua lập thẩm phán cho xứ sở, cử đến mọi thành kiên cố của Giu-đa, thành nào cũng có. Vua nói với các thẩm phán: “Hãy cẩn thận trong công việc của mình vì các ngươi không phải nhân danh người phàm để xét xử nhưng nhân danh CHÚA và Ngài sẽ ở cùng các ngươi khi các ngươi định án. Vậy, phải kính sợ CHÚA, hãy cẩn thận trong công việc xét xử vì đối với CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta, sẽ không có bất công, thiên vị hay nhận của hối lộ.” Vua Giê-hô-sa-phát cũng lập tại Giê-ru-sa-lem một số người Lê-vi, thầy tế lễ và gia trưởng trong Y-sơ-ra-ên để thi hành luật của CHÚA và giải quyết các vụ tranh tụng; họ cư trú tại Giê-ru-sa-lem. Vua truyền cho họ rằng: “Các ngươi phải làm thế này, phải kính sợ CHÚA, phải trung tín và hết lòng. Trong mỗi vụ kiện anh em các ngươi trong các thành đem đến để xét xử, dù là chuyện đổ máu, về kinh luật, điều răn, qui luật hay sắc lệnh thì các ngươi phải dạy bảo chúng đừng phạm tội cùng CHÚA kẻo cơn thịnh nộ của Ngài giáng xuống trên các ngươi và chúng nó. Nếu các ngươi làm như thế các ngươi sẽ không mắc tội. Nầy, thầy trưởng tế A-ma-ria sẽ quản trị các vấn đề thuộc về CHÚA; Xê-ba-đia, con trai Ích-ma-ên, lãnh đạo chi tộc Giu-đa, quản trị những việc thuộc về vua; một số người Lê-vi cũng sẽ là nhân viên phục vụ các ngươi. Hãy can đảm lên và làm việc, CHÚA sẽ ở cùng người thiện.” Sau đó, người Mô-áp, Am-môn cùng với người Mao-nít gây chiến cùng vua Giê-hô-sa-phát. Người ta đến báo cho vua Giê-hô-sa-phát rằng, có đạo quân lớn từ Ê-đôm, từ bên kia biển kéo đến, kìa, chúng đang ở tại Hát-sát-son Tha-ma, tức là Ên-ghê-đi. Vua Giê-hô-sa-phát sợ hãi; vua để lòng tìm kiếm CHÚA. Vua kêu gọi toàn thể Giu-đa kiêng ăn. Người Giu-đa tập họp lại tìm kiếm CHÚA; thật vậy, người Giu-đa từ khắp các thành đến tìm kiếm CHÚA. Vua Giê-hô-sa-phát đứng giữa cộng đồng Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, phía trước sân mới của đền thờ CHÚA; vua cầu nguyện: “Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ chúng con, chẳng phải Ngài là Đức Chúa Trời trên trời, Ngài cai trị mọi vương quốc, mọi quốc gia sao? Quyền năng và sức mạnh ở trong tay Ngài, không ai địch nổi. Lạy Đức Chúa Trời của chúng con, chẳng phải Ngài đã đánh đuổi cư dân xứ này khỏi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên của Ngài và ban lãnh thổ cho dòng dõi Áp-ra-ham, bạn Ngài, đời đời sao? Họ đã sống trong xứ, xây một đền thánh cho danh Ngài. Họ nói: ‘Nếu chúng con gặp tai họa, gươm giáo, hình phạt, dịch lệ hay đói kém, chúng con sẽ đứng trước đền thờ này, trước sự hiện diện của Ngài vì danh Ngài ngự trong đền thờ này. Trong cơn khốn khổ chúng con sẽ cầu khẩn Ngài thì Ngài sẽ nghe và giải cứu chúng con.’ Giờ đây, kìa, người Am-môn, người Mô-áp và người vùng núi Sê-i-rơ là những dân mà khi người Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập Ngài đã không cho họ tấn công chúng nó nên họ đã tránh không hủy diệt chúng. Nhưng kìa, chúng báo trả chúng con như thế đó; chúng đến để đuổi chúng con ra khỏi sản nghiệp mà Ngài đã ban cho chúng con. Lạy Đức Chúa Trời của chúng con, Ngài không trừng phạt chúng nó sao? Thật, chúng con không đủ sức chống lại đoàn quân đông đảo này đương tấn công chúng con và chúng con cũng không biết phải làm sao, nhưng mắt chúng con ngưỡng trông nơi Ngài.” Toàn thể người Giu-đa cùng vợ và con cái họ đều đứng trước mặt CHÚA. Bấy giờ, tại giữa cộng đồng, thần của CHÚA đến trên Gia-ha-xi-ên, con trai Xa-cha-ri, cháu Bê-na-gia, chắt Giê-hi-ên, chít Ma-tha-nia, là người Lê-vi thuộc dòng dõi A-sáp. Người nói: “Tâu vua Giê-hô-sa-phát, toàn thể người Giu-đa, cư dân Giê-ru-sa-lem, hãy nghe đây, CHÚA phán như vầy: ‘Chính các ngươi chớ sợ hãi và hốt hoảng trước đám quân đông đảo này vì trận chiến này không phải của các ngươi nhưng của Đức Chúa Trời.’ Ngày mai hãy tiến lên tấn công chúng nó. Kìa, chúng đang leo lên đèo Xít, các ngươi sẽ thấy chúng nó ở cuối thung lũng, đối diện với sa mạc Giê-ru-ên. Các ngươi không phải chiến đấu trận này; hãy dàn quân và đứng yên, xem CHÚA, Đấng ở cùng các ngươi, sẽ giải cứu các ngươi. Hỡi Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, chớ sợ hãi và hốt hoảng. Ngày mai, hãy đi ra, đối diện chúng nó, CHÚA ở cùng các ngươi.” Vua Giê-hô-sa-phát cúi mặt sát đất; toàn thể Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem quì xuống trước mặt CHÚA và thờ phượng CHÚA. Bấy giờ những người Lê-vi thuộc họ Kê-hát và Cô-rê đều đứng dậy và cất tiếng lớn ca ngợi CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Sáng sớm hôm sau, họ thức dậy và tiến ra sa mạc Thê-cô-a. Đang khi họ ra đi, vua Giê-hô-sa-phát đứng tại đó và nói: “Hãy nghe ta, hỡi Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem, hãy tin tưởng CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi thì các ngươi sẽ đứng vững, hãy tin các tiên tri của Ngài thì các ngươi sẽ thành công.” Sau khi hội ý dân, vua lập những người ca ngợi CHÚA để ca ngợi sự uy nghi thánh khiết của CHÚA. Những người này đi trước đoàn quân, hô:“Hãy cảm tạ CHÚAVì tình yêu thương Ngài còn đến đời đời.” Khi họ bắt đầu hát và ca ngợi, CHÚA đặt phục binh đánh quân Am-môn, Mô-áp và người miền núi Sê-i-rơ đang tiến đánh Giu-đa; như vậy, chúng bị đánh bại. Quân Am-môn và Mô-áp nổi lên đánh cư dân vùng núi Sê-i-rơ để hủy diệt chúng, sau khi hủy diệt và quét sạch dân vùng núi Sê-i-rơ, chúng lại hủy diệt lẫn nhau. Khi người Giu-đa đến tháp canh nơi sa mạc; họ nhìn về phía đoàn quân đông đảo. Kìa, họ thấy xác chết nằm trên đất, không ai sống sót. Vua Giê-hô-sa-phát và đoàn quân tiến đến lấy chiến lợi phẩm. Người ta thấy rất nhiều khí cụ, xác chết và đồ vật quí giá; nhiều đến nỗi lấy không hết; người ta thu nhặt chiến lợi phẩm trong ba ngày vì rất nhiều. Đến ngày thứ tư họ tập họp tại thung lũng Bê-ra-ca; tại đó họ ca ngợi CHÚA. Vì thế chỗ này được gọi là thung lũng Bê-ra-ca cho đến ngày nay. Sau đó vua Giê-hô-sa-phát dẫn đầu cả đoàn quân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem vui mừng trở về Giê-ru-sa-lem. CHÚA ban cho họ niềm vui mừng vì thắng được quân thù. Đoàn quân vào Giê-ru-sa-lem, tiến đến đền thờ CHÚA trong tiếng đàn hạc, đàn lia và tiếng kèn. Khi tất cả các vương quốc và các nước nghe thể nào CHÚA đã chiến đấu chống lại kẻ thù của Y-sơ-ra-ên thì đều khiếp sợ Đức Chúa Trời. Vậy vương quốc của vua Giê-hô-sa-phát được hòa bình vì Đức Chúa Trời của vua ban cho vua bình an bốn bề. Như thế vua Giê-hô-sa-phát trị vì Giu-đa; vua lên ngôi lúc ba mươi lăm tuổi và trị vì tại Giê-ru-sa-lem trong hai mươi lăm năm; mẹ vua tên là A-xu-ba, con gái của Si-li. Vua đi theo đường lối của vua cha A-sa và không lầm lạc; vua hành động ngay thẳng trước mắt CHÚA. Tuy nhiên những nơi cao chưa được dẹp sạch và dân chúng chưa để lòng theo Đức Chúa Trời của tổ phụ họ. Những chuyện khác của vua Giê-hô-sa-phát, từ đầu đến cuối, đều được chép trong truyện của Giê-hu, con trai Ha-na-nia và truyện ấy cũng được ghi chép trong sách các vua Y-sơ-ra-ên. Sau đó, Giê-hô-sa-phát, vua Giu-đa liên kết với A-cha-xia, vua Y-sơ-ra-ên, một vị vua gian ác. Hai vua liên kết với nhau đóng thương thuyền tại Ê-xi-ôn Ghê-be để đi Ta-rê-si. Bấy giờ, Ê-li-ê-se, con trai Đô-đa-va ở Ma-rê-xa, nói tiên tri chống lại vua Giê-hô-sa-phát rằng: “Vì vua đã liên kết với vua A-cha-xia nên CHÚA sẽ hủy phá công việc của vua.” Thật vậy, các tàu bị bể nát, không thể đi Ta-rê-si được. Vua Giê-hô-sa-phát an giấc cùng tổ phụ và được chôn cất bên cạnh các tổ phụ trong thành Đa-vít. Giô-ram lên ngôi làm vua kế vị cha mình. Các con trai của vua Giê-hô-sa-phát, em vua Giô-ram là A-xa-ria, Giê-hi-ên, Xa-cha-ri, A-xa-ri-u, Mi-ca-ên, và Sê-pha-tia; tất cả những người này là con trai của Giê-hô-sa-phát, vua Y-sơ-ra-ên. Vua cha đã ban cho các hoàng tử nhiều vàng, bạc, tài sản quí giá và các thành kiên cố trong Giu-đa nhưng trao vương quốc cho Giô-ram vì người là con trưởng nam. Nhưng khi vua Giô-ram nắm vững quyền hành trong vương quốc của cha mình rồi, vua dùng gươm giết tất cả các hoàng tử em mình và một số thủ lãnh Y-sơ-ra-ên. Vua Giô-ram lên ngôi lúc ba mươi hai tuổi và trị vì tại Giê-ru-sa-lem tám năm. Người đi theo đường lối của các vua Y-sơ-ra-ên, giống như nhà A-háp đã làm, vì vua cưới con gái của vua A-háp làm vợ và làm điều ác trước mắt CHÚA. Dù vậy CHÚA không muốn hủy diệt nhà Đa-vít vì Ngài đã lập giao ước với vua Đa-vít; Ngài hứa rằng sẽ duy trì một ngọn đèn cho dòng dõi người đến muôn đời. Trong thời Giô-ram, xứ Ê-đôm nổi lên chống lại sự cai trị của Giu-đa và lập một vua cho mình. Vì thế vua Giô-ram cùng các người chỉ huy và tất cả xe chiến mã xuất quân ra trận. Ban đêm vua tiến lên và tấn công quân Ê-đôm đang bao vây vua và các người chỉ huy xe chiến mã. Vậy, người Ê-đôm nổi lên chống lại sự cai trị của Giu-đa cho đến ngày nay. Trong thời gian đó người Líp-na cũng nổi lên chống lại sự cai trị của vua Giô-ram vì vua đã từ bỏ CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ mình. Vua cũng lập các nơi cao trên các đồi núi Giu-đa, xui khiến dân cư Giê-ru-sa-lem thờ lạy tà thần và làm cho Giu-đa lầm lạc. Bấy giờ Tiên tri Ê-li gởi một lá thư cho vua nói rằng: “CHÚA, Đức Chúa Trời của vua cha Đa-vít, phán như vầy: ‘Vì ngươi đã không đi theo đường lối của vua cha Giê-hô-sa-phát, cũng không theo đường lối của A-sa, vua Giu-đa, nhưng đi theo đường lối của các vua Y-sơ-ra-ên, xui cho Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem thờ tà thần như nhà A-háp đã làm. Ngươi cũng đã giết các em trong nhà cha ngươi, là những người tốt hơn ngươi. Này, CHÚA sẽ giáng họa lớn xuống dân ngươi, các vợ, con cái ngươi và mọi tài sản ngươi. Còn chính ngươi sẽ bị đau ruột nặng và dai dẳng cho đến khi bị sổ ruột ra.’” CHÚA cũng thúc đẩy người Phi-li-tin và người Ả-rập ở cạnh biên giới người Ê-thi-ô-bi, nổi lên chống lại vua Giô-ram. Chúng tấn công và chiếm Giu-đa; cướp lấy tất cả tài sản trong cung vua, bắt đi các hoàng tử cùng vương phi ngoại trừ Giô-a-cha, con trai út của vua. Sau các việc này, CHÚA làm cho vua bị bệnh nan y trong ruột. Trong suốt một thời gian, đến cuối năm thứ hai, vua bị sổ ruột vì bệnh và chết rất đau đớn. Dân chúng không đốt lửa cho vua như họ đã làm cho vua cha. Vua Giô-ram lên ngôi lúc ba mươi hai tuổi, cai trị tại Giê-ru-sa-lem tám năm rồi qua đời nhưng không ai thương tiếc. Người được chôn trong thành Đa-vít nhưng không được chôn nơi lăng tẩm của các vua. Dân cư Giê-ru-sa-lem lập A-cha-xia, con trai út của vua Giô-ram lên ngôi kế vị vì các con trai lớn của vua đã bị quân xâm lược cùng với những người Ả-rập vào trại quân giết sạch. Như vậy A-cha-xia, con trai vua Giô-ram lên ngôi vua cai trị Giu-đa. A-cha-xia được bốn mươi hai tuổi khi lên ngôi vua; người cai trị một năm tại Giê-ru-sa-lem; mẹ vua tên là A-tha-li, con gái của Om-ri. Vua cũng đi theo đường lối nhà A-háp vì mẹ vua xúi dục vua làm điều ác. Vua làm điều ác trước mắt CHÚA như nhà A-háp đã làm, vì sau khi vua cha qua đời, họ làm cố vấn cho vua khiến vua phải bị hủy diệt. Vua cũng nghe theo lời họ đi cùng với vua Giê-hô-ram, con trai A-háp, vua Y-sơ-ra-ên, tham chiến tại Ra-mốt Ga-la-át chống lại Ha-xa-ên, vua Sy-ri. Quân Sy-ri làm cho vua Giô-ram bị thương. Người trở về Gít-rê-ên để chữa trị vết thương mà vua đã mang trong trận chiến với Ha-xa-ên, vua Sy-ri tại Ra-ma. Vua A-cha-xia, con trai Giô-ram, vua Giu-đa đi xuống Gít-rê-ên thăm vua Giê-hô-ram, con trai A-háp vì người bị thương. Việc vua A-cha-xia đi thăm Giô-ram và bị hủy diệt là do ý Đức Chúa Trời. Khi đến nơi, vua A-cha-xia cùng vua Giê-hô-ram đi ra đánh Giê-hu, con trai Nim-si, là người CHÚA đã xức dầu để hủy diệt nhà A-háp. Đang khi tiêu diệt nhà A-háp, Giê-hu gặp những viên chức Giu-đa và những người họ hàng tháp tùng vua A-cha-xia; người cũng giết họ luôn. Người cũng cho truy nã vua A-cha-xia và bắt được vua A-cha-xia đang ẩn trốn tại Sa-ma-ri. Người ta đem vua đến cho Giê-hu và người giết vua đi nhưng người ta chôn cất vua vì cho rằng vua là con cháu vua Giê-hô-sa-phát, người hết lòng tìm kiếm CHÚA. Thế là nhà A-cha-xia không còn ai cầm quyền trong nước. Bấy giờ, A-tha-li, mẹ vua A-cha-xia, thấy con trai mình đã chết; bà ra tay tiêu diệt tất cả dòng dõi hoàng gia Giu-đa. Nhưng công chúa Giô-sa-bát bồng Giô-ách, con trai vua A-cha-xia, đem trốn khỏi các hoàng tử sắp bị giết; bà giấu cậu bé và người vú nuôi trong phòng ngủ. Như thế vì Giô-sa-bát, con gái vua Giô-ram, em gái vua A-cha-xia, vợ thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa, giấu cậu bé nên bà A-tha-li không giết được. Hoàng tử trốn với họ sáu năm trong đền thờ Đức Chúa Trời trong khi bà A-tha-li cai trị đất nước. Vào năm thứ bảy Giê-hô-gia-đa lấy can đảm kết ước với những vị chỉ huy trăm quân sau đây: A-xa-ria, con trai Giê-rô-ham, Ích-ma-ên, con trai Giô-ha-nan, A-xa-ria, con trai Ô-bết, Ma-a-xê-gia, con trai A-đa-gia, và Ê-li-sa-phát, con trai Xiếc-ri. Những người này đi vòng khắp Giu-đa, tụ họp người Lê-vi từ khắp các thành trong Giu-đa và gia trưởng Y-sơ-ra-ên, rồi họ đến Giê-ru-sa-lem. Cả hội chúng kết ước với vua tại đền thờ Đức Chúa Trời. Bấy giờ Giê-hô-gia-đa nói với họ: “Kìa, con của vua sẽ cai trị như CHÚA đã hứa cùng dòng dõi vua Đa-vít. Bây giờ đây là điều các ngươi phải làm, một phần ba các ngươi, là các thầy tế lễ và người Lê-vi có nhiệm vụ vào ngày Sa-bát, sẽ canh gác các cửa. Một phần ba canh gác cung vua; một phần ba tại cổng Nền Móng, còn tất cả dân chúng ở tại sân đền thờ CHÚA. Không ai được vào đền thờ CHÚA ngoài các thầy tế lễ và người Lê-vi đang có phận sự, họ được vào vì họ đã được thánh hiến, còn tất cả dân chúng phải tuân theo qui định của CHÚA. Những người Lê-vi sẽ đứng quanh vua, mỗi người tay cầm vũ khí; ai vào đền thờ sẽ bị giết; hãy theo bảo vệ vua khi người đi ra, đi vào.” Những người Lê-vi và tất cả Giu-đa đều thi hành đúng như thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa truyền. Mỗi người giữ người của mình lại, dù là người đang có phận sự vào ngày Sa-bát hay hết phận sự, vì thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa không cho các ban mãn phận sự ra về. Thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa phát cho các vị chỉ huy trăm quân những giáo, khiên lớn và nhỏ của vua Đa-vít để trong đền thờ Đức Chúa Trời. Ông đặt toàn thể lực lượng, mỗi người tay cầm vũ khí, đứng chung quanh vua, từ phía nam đến phía bắc đền thờ, gần nơi bàn thờ và đền thờ. Người ta đem hoàng tử ra, đội vương miện và trao cho người tờ giao ước. Bấy giờ thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa và các con trai người xức dầu phong vương cho hoàng tử và hô to: Đức vua vạn tuế. Khi A-tha-li nghe tiếng dân chúng chạy và chúc tụng vua bà đi đến chỗ dân chúng tại đền thờ CHÚA. Bà nhìn, kìa, vua đứng trên bục tại cổng vào; các vị chỉ huy và những người thổi kèn đứng bên cạnh vua. Cả dân chúng trong xứ đều vui mừng, thổi kèn; những ca sĩ có nhạc cụ phụ họa hướng dẫn ca ngợi. Bà A-tha-li xé áo mình và la lên: “Phản tặc, phản tặc.” Thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa phái những người chỉ huy trăm quân, là những người đang chỉ huy đoàn quân, đem bà ta ra khỏi khuôn viên, ai theo bà ấy sẽ bị giết bằng gươm; vì thầy tế lễ nói rằng không nên giết bà trong đền thờ CHÚA. Thế là họ bắt được bà khi bà đến cổng Ngựa của hoàng cung và người ta giết bà tại đó. Bấy giờ Giê-hô-gia-đa lập giao ước giữa người với cả dân chúng và với vua để họ làm dân của CHÚA. Cả dân chúng kéo đến đền thờ Ba-anh; họ phá hủy đền thờ và bàn thờ; đập nát tượng thần và giết Ma-than, thầy tế lễ của Ba-anh, ngay trước bàn thờ. Giê-hô-gia-đa cũng giao việc coi sóc đền thờ CHÚA trong tay các thầy tế lễ, tức là những người Lê-vi mà vua Đa-vít đã ủy nhiệm lo việc đền thờ CHÚA để dâng tế lễ thiêu cho CHÚA như đã chép trong Kinh Luật Môi-se cùng với sự vui mừng ca hát như vua Đa-vít đã định. Người cũng đặt người giữ các cổng đền thờ CHÚA, không cho người bị ô uế bất cứ vì lý do gì vào đền. Thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa cùng những người chỉ huy trăm quân, những thân hào, các nhà lãnh đạo dân và toàn dân trong xứ rước vua ra khỏi đền thờ CHÚA, đi qua cửa Thượng vào hoàng cung và đặt vua ngồi lên ngai. Như thế toàn dân trong nước đều vui mừng, thành đô yên tĩnh vì bà A-tha-li đã bị giết bằng gươm. Giô-ách được bảy tuổi khi lên ngôi làm vua, người cai trị tại Giê-ru-sa-lem bốn mươi năm; mẹ vua tên là Xi-bia, quê ở Bê-e-sê-ba. Vua Giô-ách làm điều ngay thẳng trước mắt CHÚA trong suốt thời thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa. Giê-hô-gia-đa cưới cho vua hai vợ và người được các con trai con gái. Sau đó vua Giô-ách định tu bổ đền thờ CHÚA. Vua triệu tập tất cả những thầy tế lễ và người Lê-vi, bảo họ: “Hãy đi đến mọi người Y-sơ-ra-ên tại các thành Giu-đa đặng thu tiền thuế hằng năm để tu sữa đền thờ Đức Chúa Trời. Các ngươi phải thi hành việc này ngay.” Nhưng những người Lê-vi không thi hành ngay. Vua mời thầy thượng tế Giê-hô-gia-đa đến và bảo người: “Tại sao ngươi không đòi hỏi người Lê-vi đem tiền thuế từ Giu-đa và Giê-ru-sa-lem nộp cho Trại Chứng Cớ như Môi-se, tôi tớ của CHÚA và hội chúng Y-sơ-ra-ên đã qui định?” Vì các con cái của bà A-tha-li gian ác kia đã vào cướp đền thờ Đức Chúa Trời, lại còn lấy tất cả những vật thánh trong đền thờ CHÚA dâng cho thần Ba-anh. Vua ra lệnh làm một cái rương, đặt tại phía ngoài cổng vào đền thờ CHÚA. Bấy giờ người ta kêu gọi cả Giu-đa và Giê-ru-sa-lem hãy đem dâng tiền thuế cho CHÚA như Môi-se, tôi tớ Đức Chúa Trời, đã ấn định cho Y-sơ-ra-ên trong sa mạc. Tất cả những người lãnh đạo và toàn dân đều vui vẻ đem tiền dâng bỏ vào rương đến nỗi đầy rương. Mỗi khi người Lê-vi đem rương vào cho nhân viên của vua và họ thấy có nhiều tiền thì thư ký của vua và nhân viên của thầy thượng tế sẽ đến đổ tiền trong rương ra và đem rương để lại chỗ cũ. Mỗi ngày họ đều làm như vậy và thu được rất nhiều tiền. Vua và thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa giao tiền cho người phụ trách công việc đền thờ CHÚA. Người ta mướn thợ nề, thợ mộc để tân trang đền thờ CHÚA và cũng mướn thợ sắt, thợ đồng sửa chữa đền thờ CHÚA. Những người phụ trách bắt đầu làm việc và công việc tiến triển tốt đẹp dưới sự điều khiển của họ. Người ta trùng tu đền thờ CHÚA theo kiểu mẫu nguyên thủy và làm cho vững chắc hơn. Sau khi hoàn thành, người ta đem số bạc còn lại cho vua và thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa. Số bạc ấy được dùng làm các vật dụng cho đền thờ CHÚA, tức là những vật dụng cho việc phụng vụ, cho tế lễ thiêu, những vá múc và vật dụng bằng vàng bằng bạc. Suốt đời thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa, người ta luôn luôn dâng tế lễ thiêu trong đền thờ CHÚA. Thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa sống đến già, tuổi cao; người qua đời lúc 130 tuổi. Người ta chôn người trong thành Đa-vít, cùng với các vua vì người đã làm việc tốt lành cho Y-sơ-ra-ên, cho Đức Chúa Trời và đền thờ Ngài. Sau khi Giê-hô-gia-đa qua đời, các người lãnh đạo Giu-đa đến chầu vua; bấy giờ vua nghe theo lời họ. Chúng từ bỏ đền thờ CHÚA, là Đức Chúa Trời của tổ phụ họ, đi phụng vụ trụ A-sê-ra và các thần tượng. Vì tội này cơn thịnh nộ của Chúa đổ xuống Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. Ngài sai các tiên tri đến để đem họ trở về với CHÚA và cảnh cáo họ nhưng họ không chịu nghe. Thần của Đức Chúa Trời đến với Xa-cha-ri, con trai thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa, người đứng trước dân chúng và nói: “Đức Chúa Trời phán như vầy: ‘Tại sao các ngươi không vâng theo các điều răn của CHÚA, vì thế các ngươi sẽ không thịnh vượng được. Vì các ngươi đã từ bỏ CHÚA nên Ngài cũng từ bỏ các ngươi.’” Nhưng họ âm mưu chống lại ông và do lệnh vua họ ném đá giết ông tại sân đền thờ CHÚA. Vậy, vua Giô-ách không nhớ đến sự nhân từ của Giê-hô-gia-đa, cha của Xa-cha-ri, đối với vua mà giết con trai người đi. Khi Xa-cha-ri sắp chết đã nói: “Xin CHÚA thấy điều này và báo trả.” Vào khoảng cuối năm, quân Sy-ri kéo đến tấn công vua Giô-ách. Chúng xâm chiếm Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, tàn sát tất cả những người lãnh đạo trong dân, chuyên chở mọi chiến lợi phẩm về cho vua của họ ở Đa-mách. Mặc dù quân Sy-ri chỉ có ít người kéo đến, nhưng CHÚA đã trao đoàn quân rất đông đảo vào tay chúng vì họ đã từ bỏ CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ mình. Quân Sy-ri đã trừng trị Giô-ách. Khi quân Sy-ri rút lui, chúng bỏ vua lại, đang bị thương nặng; các thuộc hạ âm mưu chống vua vì nợ máu của các con trai thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa; họ giết vua tại trên giường. Vua chết và được chôn cất trong thành Đa-vít nhưng không được chôn tại các lăng tẩm của các vua. Những người âm mưu chống lại vua là Xa-bát, con trai bà Si-mê-át, người Am-môn, và Giô-xa-bát, con trai Sim-rít, một phụ nữ Mô-áp. Câu chuyện về các con của vua, nhiều lời công bố chống lại vua và việc trùng tu đền thờ Đức Chúa Trời đều được ghi trong các phần chú thích trong các sách của các vua. A-ma-xia, con trai vua lên ngôi kế vị. Khi lên ngôi, vua A-ma-xia được hai mươi lăm tuổi; vua trị vì hai mươi chín năm tại Giê-ru-sa-lem; mẹ người tên Giô-a-đan, quê ở Giê-ru-sa-lem. Người làm việc thiện trước mắt CHÚA nhưng không hết lòng. Khi đã nắm vững vương quốc, vua hành quyết những viên chức đã mưu sát vua cha. Nhưng vua không giết các con trai của họ theo như Kinh Luật Môi-se đã ghi. Trong Kinh Luật CHÚA phán: “Chớ giết cha vì tội của con cũng đừng giết con vì tội của cha; nhưng mỗi người sẽ chết vì tội của mình.” Vua A-ma-xia triệu tập người Giu-đa lại và lập những người chỉ huy ngàn quân và trăm quân theo gia đình cho cả Giu-đa và Bên-gia-min. Vua cũng kiểm kê được 300.000 người từ hai mươi tuổi trở lên, biết sử dụng khiên và giáo, sẵn sàng nhập ngũ. Vua thuê 100.000 quân thiện chiến từ Y-sơ-ra-ên với giá 3.400 ký bạc. Nhưng một người của Đức Chúa Trời đến nói với vua: “Tâu đức vua, xin đừng để đoàn quân Y-sơ-ra-ên đi với vua vì CHÚA không ở cùng quân Y-sơ-ra-ên và cũng không ở với tất cả những người Ép-ra-im này. Nhưng nếu vua cứ đi và dù chiến đấu anh dũng nơi trận mạc thì Đức Chúa Trời cũng để cho vua thất bại trước quân thù vì Đức Chúa Trời có quyền giúp sức hay đánh bại.” Vua A-ma-xia hỏi người của Đức Chúa Trời, “Còn 3.400 ký bạc của ta trả cho quân Y-sơ-ra-ên thì sao?” Người của Đức Chúa Trời trả lời: “CHÚA có thể cho vua nhiều hơn thế nữa.” Bấy giờ vua A-ma-xia giải tán đoàn quân đã đến với vua từ Ép-ra-im và cho họ ra về. Họ rất tức giận Giu-đa và trở về xứ lòng đầy phẫn nộ. Vua A-ma-xia lấy can đảm dẫn quân mình tiến ra thung lũng Muối; tại đó vua giết một vạn quân Sê-i-rơ. Quân Giu-đa cũng bắt sống một vạn người; họ đem chúng lên trên đỉnh núi đá và ném chúng xuống hố sâu; tất cả đều chết tan xác. Nhưng đoàn quân mà vua A-ma-xia trả về, không cho tham chiến với vua, đánh phá các thành Giu-đa từ Sa-ma-ri đến Bết Hô-rôn; chúng giết ba ngàn người trong các thành ấy và cướp đi rất nhiều đồ vật. Sau khi tàn sát người Ê-đôm, vua A-ma-xia trở về, mang theo các thần của người Sê-i-rơ và lập làm thần của mình. Vua thờ lạy các thần này và dâng tế lễ cho chúng. CHÚA nổi giận cùng vua A-ma-xia; Ngài sai một tiên tri đến nói với vua: “Tại sao ngươi cầu khẩn các thần của dân này, là những thần không cứu nổi họ khỏi tay ngươi?” Khi tiên tri đang nói, vua bảo: “Chúng ta có cử ngươi làm cố vấn cho vua không? Đừng nói nữa, ngươi muốn bị đánh chết sao?” Tiên tri không nói nữa nhưng lại bảo: “Tôi biết rằng Đức Chúa Trời định hủy diệt vua vì vua đã làm như vậy và không nghe lời khuyên của tôi.” Sau khi thảo luận, A-ma-xia, vua Giu-đa sai sứ đến vua Giô-ách, con trai Giô-a-cha, cháu Giê-hu, vua Y-sơ-ra-ên, nói rằng: “Hãy đến đây, chúng ta hãy đối diện nhau.” Giô-ách vua Y-sơ-ra-ên trả lời A-ma-xia, vua Giu-đa: “Bụi gai ở Li-ban sai người đến nói với cây bá hương Li-ban rằng: ‘Xin gả con gái ngài cho con trai tôi;’ thế rồi một thú dữ ngoài đồng ở Li-ban đi ngang qua chà đạp bụi gai. Ngươi tự bảo, kìa ta đã đánh bại Ê-đôm, rồi ngươi tự cao tự đại. Này, hãy ở nhà đi, sao ngươi muốn chuốc lấy tai họa để ngươi và cả Giu-đa phải sụp đổ?” Nhưng vua A-ma-xia không chịu nghe vì việc này đến từ Đức Chúa Trời, Ngài muốn trao vua vào tay chúng vì vua đã cầu khẩn các thần của Ê-đôm. Sau đó Giô-ách, vua Y-sơ-ra-ên tiến lên; vua và A-ma-xia, vua Giu-đa giao chiến với nhau tại Bết Sê-mết thuộc Giu-đa. Quân Giu-đa bị quân Y-sơ-ra-ên đánh bại và bỏ chạy, mỗi người bỏ chạy về nhà. Giô-ách, vua Y-sơ-ra-ên bắt sống được A-ma-xia, vua Giu-đa, con trai Giô-ách, cháu Giô-a-cha, tại Bết Sê-mết và điệu về Giê-ru-sa-lem. Vua cũng phá vách thành Giê-ru-sa-lem từ cổng Ép-ra-im đến cổng Góc, một khoảng chừng 180m. Vua cướp lấy tất cả vàng, bạc, các vật dụng trong đền thờ Đức Chúa Trời do Ô-bết Ê-đôm coi giữ cùng kho châu báu trong cung vua và một số tù binh rồi trở về Sa-ma-ri. A-ma-xia, con trai Giô-ách, vua Giu-đa sống thêm được mười lăm năm sau khi Giô-ách, con trai Giô-a-cha, vua Y-sơ-ra-ên qua đời. Các công việc khác của vua A-ma-xia, từ đầu đến cuối, đã không được chép trong sách các vua Giu-đa và Y-sơ-ra-ên đó sao? Từ khi vua A-ma-xia từ bỏ không theo CHÚA, người ta cũng âm mưu chống lại vua tại Giê-ru-sa-lem. Sau đó vua phải trốn qua La-ki nhưng người ta đuổi theo đến La-ki và giết vua tại đó. Người ta cho ngựa chở vua về và chôn cất vua bên cạnh tổ tiên trong thành Giu-đa. Toàn dân Giu-đa tôn Ô-xia, lúc ấy mới mười sáu tuổi, lên ngôi kế vị vua cha A-ma-xia. Vua tái thiết Ê-lốt và khôi phục thành này cho Giu-đa sau khi vua cha an giấc với các tổ phụ. Khi lên ngôi vua Ô-xia mới mười sáu tuổi, người trị vì năm mươi hai năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là Giê-cô-lia, quê ở Giê-ru-sa-lem. Vua làm điều thiện trước mắt CHÚA như mọi điều thiện vua cha đã làm. Vua tìm kiếm Đức Chúa Trời suốt thời Xa-cha-ri, người dạy vua kính sợ Đức Chúa Trời. Bao lâu vua tìm kiếm CHÚA, Đức Chúa Trời ban cho vua thành công. Vua đi ra giao chiến với người Phi-li-tin, phá đổ tường thành Gát, tường thành Giáp-nê và tường thành Ách-đốt; vua tái thiết thành Ách-đốt và các thành giữa vòng người Phi-li-tin. Đức Chúa Trời giúp đỡ họ chống lại người Phi-li-tin, người Ả-rập sống ở Gu-rơ Ba-anh và người Ma-ôn. Người A-môn dâng cống lễ cho vua Ô-xia; danh tiếng người đồn đến tận biên giới Ai-cập vì vua trở nên rất hùng cường. Vua Ô-xia cũng xây các tháp canh trong Giê-ru-sa-lem tại cổng Góc, cổng Thung Lũng và góc thành; vua củng cố cho kiên cố hơn. Vua xây các tháp canh trong sa mạc, đào nhiều hồ chứa nước vì vua có nhiều đàn súc vật trên các đồi, dưới đồng bằng; vua cũng có nhiều nông dân và người làm vườn nho trên các vùng đồi núi và vùng đất phì nhiêu vì vua thích đất đai. Vua Ô-xia có một quân đội thiện chiến, sẵn sàng chiến đấu, được chia thành đoàn theo sự tu bộ của quan thơ ký Giê-hi-ên và Ma-a-xê-gia; đặt dưới sự chỉ huy của Ha-na-nia, một trong các tướng lãnh của vua. Tổng số các trưởng tộc, tức những dũng sĩ là hai ngàn sáu trăm người. Họ lãnh đạo một quân đội 307.500 người thiện chiến, một lực lượng hùng mạnh để giúp vua chống lại mọi kẻ thù. Vua Ô-xia trang bị cho tất cả quân đội những khiên, giáo, mũ chiến, áo giáp, cung và dàn phóng đá. Tại Giê-ru-sa-lem vua làm những máy tinh xảo, đặt trên các tháp canh và góc thành để bắn tên và bắn các tảng đá lớn. Danh tiếng người vang ra rất xa vì người được Chúa giúp đỡ cách lạ lùng cho đến khi trở nên cường thịnh. Nhưng khi cường thịnh, vua trở nên kiêu ngạo đến nỗi làm điều bại hoại. Vua xúc phạm đến CHÚA, Đức Chúa Trời mình vì vua vào đền thờ CHÚA, dâng hương trên bàn thờ dâng hương. Thầy tế lễ A-xa-ria và tám mươi thầy tế lễ can đảm của CHÚA theo sau vua. Họ đối diện vua Ô-xia và nói: “Vua không được phép dâng hương cho CHÚA vì chỉ có những thầy tế lễ dòng dõi A-rôn, là những người được thánh hiến để dâng hương; xin vua hãy rời khỏi thánh điện vì vua đã vi phạm, vua sẽ không được vinh dự gì từ CHÚA, là Đức Chúa Trời đâu.” Vua Ô-xia, tay cầm lư hương sẵn sàng để dâng hương, trở nên tức giận. Đang khi vua nổi giận cùng các thầy tế lễ, phung xuất hiện trên trán vua ngay trước mặt các thầy tế lễ, bên cạnh bàn thờ dâng hương trong đền thờ CHÚA. Khi thượng tế A-xa-ria và tất cả các thầy tế lễ nhìn và thấy phung trên trán vua, họ vội vàng đưa vua ra khỏi nơi đó; chính vua cũng muốn rời khỏi đó vì CHÚA đã phạt vua. Vua Ô-xia bị phung cho đến ngày vua qua đời; vua sống trong nhà riêng dành cho người phung và bị cấm vào đền thờ CHÚA. Thái tử Giô-tham coi sóc hoàng cung và cai trị dân trong nước. Những công việc khác của vua Ô-xia, từ đầu đến cuối, được tiên tri I-sa, con trai A-mốt ghi chép. Vua Ô-xia an giấc cùng tổ phụ và được chôn cất tại cánh đồng lăng tẩm các vua gần các tổ phụ vì người ta nói rằng vua bị phung. Thái tử Giô-tham lên ngôi kế vị vua. Giô-tham lên ngôi khi được hai mươi lăm tuổi; người cai trị mười sáu năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ người tên là Giê-ru-sa, con gái của Xa-đốc. Vua làm điều thiện trước mắt CHÚA như mọi điều vua cha Ô-xia đã làm nhưng không vào đền thờ CHÚA, còn dân chúng vẫn bại hoại. Vua xây dựng cổng trên của đền thờ CHÚA và có nhiều công trình xây cất trên tường thành Ô-phên. Vua xây dựng các thành trong miền đồi núi Giu-đa và các đồn, tháp canh trong vùng rừng rậm. Vua giao chiến với vua dân A-môn và chiến thắng nên họ phải triều cống vua trong năm đó 3.4 tấn bạc, 10.000 thùng lúa mì và 10.000 thùng lúa mạch; năm thứ hai và thứ ba cũng vậy. Vua Giô-tham trở nên hùng mạnh vì vua trung tín trong đường lối mình trước mặt CHÚA, Đức Chúa Trời mình. Các công việc khác, những cuộc chiến tranh và đường lối của vua Giô-tham đều được chép trong sách các vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa. Vua lên ngôi vào năm hai mươi lăm tuổi và cai trị tại Giê-ru-sa-lem mười sáu năm. Vua Giô-tham an giấc cùng tổ phụ và được chôn cất trong thành Đa-vít. Thái tử A-cha lên ngôi kế vị. A-cha được hai mươi tuổi khi người lên ngôi vua; người trị vì mười sáu năm tại Giê-ru-sa-lem nhưng vua không làm điều thiện trước mắt CHÚA như Đa-vít, tổ phụ người. Vua đi theo đường lối của các vua Y-sơ-ra-ên và cũng đúc tượng cho thần Ba-anh. Vua dâng hương trong thung lũng Ben Hi-nôm, dâng con cái mình để thiêu trong lửa theo những cách thức ghê tởm của các nước mà CHÚA đã trục xuất khỏi trước mắt con cái Y-sơ-ra-ên. Vua dâng tế lễ, dâng hương tại những nơi cao, trên các đỉnh đồi và dưới mọi tàng cây xanh. Vì thế CHÚA, Đức Chúa Trời đã trao vua vào tay vua Sy-ri; quân Sy-ri đánh bại vua và bắt rất nhiều tù binh đem về Đa-mách. Vua cũng bị thất bại dưới tay vua Y-sơ-ra-ên và vua này gây cho vua tổn thất nặng nề. Trong một ngày Phê-ca, con trai Rê-ma-lia đã giết chết 120.000 quân, toàn là quân thiện chiến tại Giu-đa; vì họ đã từ bỏ CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ chúng. Xiếc-ri, một dũng sĩ của Ép-ra-im cũng giết hoàng tử Ma-a-xê-gia, A-ri-kham, quan nội cung và Ên-ca-na, quan tể tướng. Quân Y-sơ-ra-ên bắt 200.000 người trong số các anh chị em họ làm tù binh, cả đàn bà, con trai, con gái; họ cũng lấy rất nhiều chiến lợi phẩm đem về Sa-ma-ri. Có một tiên tri của CHÚA tên Ô-đết tại đó; người đi ra đón đoàn quân trở về Sa-ma-ri và nói: “Này, vì CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ các ngươi đã giận Giu-đa nên Ngài trao chúng vào tay các ngươi, nhưng các ngươi đã sát hại họ trong cơn hận thù thấu đến trời. Giờ đây các ngươi định bắt những người Giu-đa và Giê-ru-sa-lem làm tôi trai, tớ gái cho các ngươi sao? Còn chính các ngươi, các ngươi không phạm tội cùng CHÚA, Đức Chúa Trời mình sao? Bây giờ, hãy nghe tôi, thả tất cả những tù binh mà các ngươi đã bắt từ anh chị em mình vì cơn thịnh nộ dữ dội của CHÚA đang ở trên các ngươi.” Lúc ấy, một số người lãnh đạo Ép-ra-im, A-xa-ria, con trai Giô-ha-nan, Bê-rê-kia, con trai Mê-xi-lê-mốt, Ê-xê-chia, con trai Sa-lum và A-ma-sa, con trai Hát-lai, đối diện với những người từ chiến trận trở về. Những người này nói với họ: “Anh em không được đem các tù binh về đây vì chúng ta sẽ mắc tội với CHÚA; anh em định thêm tội lỗi cho chúng ta sao? Chúng ta đã mắc nhiều tội lỗi và cơn thịnh nộ dữ dội đang ở trên Y-sơ-ra-ên.” Như thế quân lính trả lại tù binh và chiến lợi phẩm họ cướp được tại trước mặt các quan và toàn thể hội chúng. Bấy giờ những người kể trên đứng dậy, tiếp nhận những tù binh; lấy y phục từ các chiến lợi phẩm mặc cho những người trần truồng, cung cấp giày dép, đồ ăn, thức uống và dầu xức cho họ; những người yếu đuối được để trên lưng lừa. Như thế những người này dẫn chúng về với anh em mình tại Giê-ri-cô, thành cây chà là; còn họ thì trở về Sa-ma-ri. Trong lúc đó vua A-cha sai sứ cầu viện vua A-si-ri. Quân Ê-đôm lại đến tấn công Giu-đa và bắt tù binh đi. Quân Phi-li-tin đánh phá các thành thuộc vùng Shơ-phê-la và Nê-ghép của Giu-đa; chúng chiếm các thành Bết-sê-mết, A-gia-lôn, Ghê-đê-rốt, Sô-cô và các vùng phụ cận, Tim-na và các vùng phụ cận, Ghim-sô và các vùng phụ cận; rồi chúng cư ngụ tại đó. CHÚA đã hạ Giu-đa xuống vì cớ vua A-cha, vua của người Y-sơ-ra-ên vì vua hành động gian ác trong Giu-đa và vô cùng bất trung với CHÚA. Tiếc-lác Phi-nê-se, vua A-si-ri kéo đến áp bức vua thay vì giúp đỡ người. Vua A-cha lấy đồ trong đền thờ CHÚA, trong hoàng cung và của các hoàng tử dâng cho vua A-si-ri nhưng cũng chẳng ích gì. Trong lúc hoạn nạn, chính vua A-cha lại càng thêm bất trung với CHÚA. Vua dâng tế lễ cho các thần của thành Đa-mách, là dân đã đánh bại vua vì vua nghĩ rằng các thần này đã giúp các vua Sy-ri tất nhiên cũng sẽ phù hộ vua khi vua dâng tế lễ cho chúng. Nhưng chính các thần ấy là duyên cớ làm cho vua và cả Y-sơ-ra-ên sa ngã. Vua A-cha thu các vật dụng trong đền thờ Đức Chúa Trời, đập nát các đồ ấy và đóng cửa đền thờ CHÚA. Rồi vua lập các bàn thờ khắp mọi ngõ ngách của Giê-ru-sa-lem. Vua lập các nơi cao trong mỗi thành của Giu-đa và dâng hương tại đó cho các thần khác; như thế vua chọc giận CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ người. Những công việc khác của vua cũng như các đường lối người từ đầu đến cuối đều được chép trong sách các vua Giu-đa và Y-sơ-ra-ên. Vua A-cha an giấc cùng tổ phụ và được chôn cất trong thành Giê-ru-sa-lem nhưng không được chôn trong các lăng tẩm của các vua Y-sơ-ra-ên. Thái tử Ê-xê-chia lên ngôi kế vị. Vua Ê-xê-chia lên ngôi lúc hai mươi lăm tuổi và trị vì tại Giê-ru-sa-lem hai mươi chín năm; mẹ vua tên A-bi-gia, con gái của Xa-cha-ri. Vua làm điều thiện trước mắt CHÚA như vua Đa-vít, tổ phụ người đã làm. Tháng đầu tiên của năm thứ nhất dưới triều vua Ê-xê-chia, vua cho mở các cửa đền thờ CHÚA và sửa chữa chúng. Vua triệu tập các thầy tế lễ và người Lê-vi, tập họp họ lại tại quảng trường phía đông. Vua nói với họ: “Hỡi những người Lê-vi, hãy nghe ta. Các ngươi hãy thánh hóa chính mình để thánh hiến đền thờ CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ các ngươi. Hãy thanh tẩy mọi điều dơ bẩn khỏi thánh điện. Vì cha ông chúng ta đã bất trung, đã làm điều ác trước mắt CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta; họ đã từ bỏ Ngài, ngoảnh mặt khỏi nơi ngự của Ngài và xây lưng lại cùng Ngài. Họ cũng đóng các cửa hành lang, tắt các đèn, không đốt hương, không dâng tế lễ thiêu nơi thánh điện Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Cho nên CHÚA đã nổi giận cùng Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. Ngài làm cho họ thành mối sợ hãi, kinh hoàng và mục tiêu chế nhạo như chính mắt các ngươi đã thấy. Nầy, vì thế mà cha ông chúng ta đã ngã quị vì gươm; vợ, con trai, con gái chúng ta bị bắt làm tù binh. Giờ đây, ta quyết tâm lập giao ước với CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên để Ngài nguôi cơn thịnh nộ đối với chúng ta. Hỡi các con, bây giờ, chớ chểnh mảng nhiệm vụ nữa vì CHÚA đã chọn các con để đứng trước mặt Ngài, để phục vụ Ngài, làm tôi tớ Ngài và dâng hương cho Ngài.” Những người Lê-vi đứng lên hành động;trong tông Kê-át cóMa-hát, con trai của A-ma-sai; Giô-ên, con trai của A-sa-ria;trong tông Mê-ra-ri cóKích, con trai của Áp-đi, A-xa-ria, con trai của Giê-ha-lê-le;trong tông Ghẹt-sôn cóGiô-a, con trai của Xim-ma, Ê-đen, con trai của Giô-a; trong tông Ê-lít-sa-phan cóSim-ri và Giê-i-ên;trong tông A-sáp cóXa-cha-ri và Ma-tha-nia; trong tông Hê-man cóGiê-hi-ên và Si-mê-i;trong tông Giê-đu-thun cóSe-ma-gia và U-xi-ên. Những người này triệu tập anh em của mình lại, thánh hóa chính họ, rồi theo lời CHÚA và theo lệnh vua, tiến hành việc thanh tẩy đền thờ CHÚA. Các thầy tế lễ vào thánh điện của đền thờ CHÚA để thanh tẩy; họ lấy tất cả những gì ô uế trong đền thờ CHÚA, đem ra sân ngoài đền thờ, rồi người Lê-vi đem bỏ ngoài thung lũng Kít-rôn. Ngày một tháng Giêng họ bắt đầu thanh tẩy đền CHÚA, đến ngày thứ tám họ thanh tẩy đến hành lang đền CHÚA. Họ làm thêm tám ngày nữa, đến ngày thứ mười sáu thì hoàn thành. Các thầy tế lễ vào cung và trình vua Ê-xê-chia: “Chúng tôi đã thanh tẩy toàn thể đền thờ CHÚA, bàn thờ dâng tế lễ thiêu và tất cả vật dụng phụ, bàn dâng bánh thánh và tất cả vật dụng phụ; cũng như tất cả các vật dụng mà dưới thời vua A-cha, khi người bất trung, đã bỏ đi thì nay chúng tôi đã sửa soạn lại và thánh hiến. Kìa, tất cả đều sẵn sàng trước bàn thờ CHÚA.” Vua Ê-xê-chia thức dậy sớm, triệu tập các quan trong thành và đi lên đền thờ CHÚA. Họ đem theo bảy con bò đực, bảy con chiên đực, bảy con chiên con và bảy con dê làm tế lễ chuộc tội cho vương quốc, cho đền thánh và cho Giu-đa. Vua truyền cho con cháu A-rôn, các thầy tế lễ dâng tế lễ trên bàn thờ CHÚA. Người ta giết các con bò đực rồi các thầy tế lễ lấy máu rảy trên bàn thờ; các con chiên đực được giết và rảy máu trên bàn thờ; các con chiên con cũng được giết và rảy máu trên bàn thờ. Các con dê đực làm tế lễ chuộc tội được đem đến trước mặt vua và hội chúng; họ đặt tay trên chúng; rồi các thầy tế lễ giết các con dê đực ấy làm tế lễ chuộc tội; họ dùng máu làm lễ trên bàn thờ để chuộc tội cho toàn thể Y-sơ-ra-ên vì vua truyền rằng phải dâng tế lễ thiêu và tế lễ chuộc tội cho toàn dân Y-sơ-ra-ên. Vua truyền đặt người Lê-vi nơi đền thờ CHÚA, trang bị chập chỏa, đàn hạc, đàn lia theo như vua Đa-vít, Gát, vị tiên kiến của vua và tiên tri Na-than đã qui định bởi vì CHÚA qua các tiên tri đã truyền lệnh như thế. Những người Lê-vi đứng cầm nhạc khí Đa-vít và các thầy tế lễ cầm kèn. Bấy giờ vua Ê-xê-chia truyền lệnh dâng tế lễ thiêu lên bàn thờ; khi bắt đầu dâng tế lễ thiêu, bài hát ca ngợi CHÚA cũng bắt đầu, có kèn và các nhạc cụ của Đa-vít, vua Y-sơ-ra-ên, phụ họa. Cả hội chúng quì lạy trong khi ban hát và kèn vẫn hòa nhạc cho đến khi cuộc tế lễ thiêu chấm dứt. Khi dâng tế lễ thiêu vừa xong, vua và các quan tháp tùng quì xuống thờ phượng. Vua Ê-xê-chia và các quan truyền lệnh cho những người Lê-vi ca ngợi CHÚA với những bài ca của vua Đa-vít và vị tiên kiến A-sáp; họ hân hoan ca ngợi và cúi đầu thờ phượng. Vua Ê-xê-chia bảo: “Bây giờ các ngươi đã thánh hiến chính mình cho CHÚA, hãy đến, đem sinh tế và tế lễ tạ ơn vào đền thờ CHÚA.” Hội chúng đem sinh tế và tế lễ tạ ơn; còn tất cả những người có hảo tâm thì dâng tế lễ thiêu. Số tế lễ thiêu hội chúng đem đến dâng cho CHÚA gồm có bảy mươi con bò đực, một trăm con chiên và hai trăm con chiên con. Số lễ vật thánh là 600 con bò và 3.000 chiên dê. Nhưng số thầy tế lễ quá ít không đủ để lột da các con vật cho tất cả tế lễ thiêu nên trong khi những thầy tế lễ khác thánh hóa mình, những anh em của họ là người Lê-vi phụ giúp cho đến khi hoàn tất. Như thế người Lê-vi hết lòng tận hiến mình hơn các thầy tế lễ. Cũng có nhiều tế lễ thiêu cùng với mỡ của tế lễ cầu an và lễ tưới kèm theo với tế lễ thiêu. Vậy việc tế lễ được tái lập trong đền thờ CHÚA. Vua Ê-xê-chia và toàn thể dân chúng vui mừng về điều Đức Chúa Trời đã đem lại cho họ vì công việc diễn ra nhanh chóng. Vua Ê-xê-chia sai sứ giả đi khắp Y-sơ-ra-ên và Giu-đa; vua cũng viết thư kêu gọi Ép-ra-im và Ma-na-se đến đền thờ của CHÚA tại Giê-ru-sa-lem để cử hành lễ Vượt Qua cho CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Vua, các quan và toàn thể hội chúng tại Giê-ru-sa-lem quyết định cử hành lễ Vượt Qua vào tháng thứ hai. Lúc ấy họ không thể cử hành lễ đúng theo thời gian qui định vì số thầy tế lễ đã thánh hóa mình chưa đủ số và dân chúng chưa tập họp lại tại Giê-ru-sa-lem. Vua và toàn dân thấy chương trình ấy là phải. Họ ban sắc lệnh thông báo cho toàn thể Y-sơ-ra-ên, từ Bê-e-sê-ba đến Đan về Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua cho CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, vì trước đó nhiều người không cử hành lễ như đã ghi chép. Những người đưa thư theo lệnh vua cầm thư đi khắp Y-sơ-ra-ên và Giu-đa. Vua truyền bảo dân chúng: “Hỡi con dân Y-sơ-ra-ên, hãy trở lại cùng CHÚA, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Y-sác và Y-sơ-ra-ên để Ngài cũng trở lại cùng những người sống sót giữa các ngươi, là những người thoát khỏi tay các vua A-si-ri. Chớ như cha ông và anh em các ngươi, những người bất trung với CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ tiên họ nên Ngài đã để cho họ bị nạn khủng khiếp như các ngươi thấy. Giờ đây, chớ cứng cổ như cha ông các ngươi, hãy quy phục CHÚA, hãy đến đền thờ Chúa là nơi Ngài đã thánh hóa đời đời, hãy phục vụ CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi thì các ngươi sẽ tránh được cơn thịnh nộ dữ dội của Ngài. Nếu các ngươi trở lại cùng CHÚA thì anh em, con cái các ngươi sẽ được những kẻ bắt chúng thương xót và cho trở về quê hương này vì CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi là Đấng ân huệ và nhân từ; Ngài sẽ không quay mặt khỏi các ngươi nếu các ngươi trở lại cùng Ngài.” Những người đưa thư đi từ thành này đến thành khác trong xứ Ép-ra-im, Ma-na-se đến tận Sa-bu-luân nhưng người ta chê cười, chế nhạo họ. Tuy nhiên một số người từ A-se, Ma-na-se và Sa-bu-luân hạ mình xuống đi đến Giê-ru-sa-lem. Tay Đức Chúa Trời cũng phù hộ những người Giu-đa, ban cho họ có lòng đoàn kết để thi hành mạng lệnh của vua và các quan theo như lời CHÚA dạy. Vào tháng hai, nhiều người tập trung về Giê-ru-sa-lem cử hành lễ Bánh Không Men, một hội chúng thật đông đảo. Họ đứng lên phá bỏ các bàn thờ ở Giê-ru-sa-lem và dẹp sạch tất cả những bàn thờ dâng hương, ném chúng xuống hố Xết-rôn. Vào ngày mười bốn tháng hai người ta giết con chiên lễ Vượt Qua. Những thầy tế lễ và người Lê-vi thấy hổ thẹn nên thánh hóa chính mình rồi đem tế lễ thiêu vào đền thờ CHÚA. Họ đứng vào vị trí của mình như kinh luật của Môi-se, người của Đức Chúa Trời qui định; những người Lê-vi trao máu cho những thầy tế lễ và họ rẩy. Vì có nhiều người trong hội chúng chưa được thánh hóa nên những người Lê-vi phải giết các con chiên lễ Vượt Qua cho họ để thánh hiến cho CHÚA. Mặc dù một số đông người, phần lớn từ Ép-ra-im, Ma-na-se, Y-sa-ca và Sa-bu-luân chưa được thanh sạch nhưng vẫn ăn lễ Vượt Qua trái với qui lệ đã chép, nhưng vua Ê-xê-chia cầu nguyện cho họ rằng: “Nguyện xin CHÚA, đấng nhân từ, xin tha thứ cho tất cả những người hết lòng tìm kiếm CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ họ, dù họ chưa được thanh sạch theo như qui lệ của đền thánh.” CHÚA nghe lời cầu nguyện của vua Ê-xê-chia và chữa lành dân chúng. Các con dân Y-sơ-ra-ên tại Giê-ru-sa-lem vô cùng vui mừng cử hành lễ Bánh Không Men trong bảy ngày. Hàng ngày những thầy tế lễ và người Lê-vi hát ca ngợi CHÚA với nhạc cụ phụ họa. Vua Ê-xê-chia khuyến khích lòng của tất cả những người Lê-vi hiểu biết việc phục vụ Chúa. Họ ăn mừng lễ trọn bảy ngày, dâng tế lễ cầu an và cảm tạ CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ họ. Toàn thể hội chúng đồng ý cử hành lễ thêm bảy ngày nữa; thế là họ vui vẻ ăn mừng lễ bảy ngày nữa. Vua Ê-xê-chia của Giu-đa cung cấp cho hội chúng 1.000 con bò và 7.000 chiên, dê; các quan cung cấp 1.000 con bò và 10.000 chiên, dê. Nhiều thầy tế lễ thánh hóa mình cho Chúa. Toàn thể hội chúng người Giu-đa, các thầy tế lễ, người Lê-vi và hội chúng đến từ Y-sơ-ra-ên cùng những người ngoại kiều đến từ Y-sơ-ra-ên và Giu-đa đều vui mừng. Có sự vui mừng lớn tại Giê-ru-sa-lem vì từ thời vua Sa-lô-môn, con vua Đa-vít, vua Y-sơ-ra-ên, Giê-ru-sa-lem chưa bao giờ vui vẻ như thế. Bấy giờ những thầy Lê-vi tế lễ đứng lên chúc phước cho dân chúng. Lời chúc phước của họ được nhậm và lời cầu nguyện của họ thấu đến nơi ngự thánh của Chúa, đến tận trời. Khi mọi việc đã hoàn tất, tất cả những người Y-sơ-ra-ên có mặt tại đó đi ra các thành trong Giu-đa, đập phá các trụ thờ, chặt bỏ các cột thờ, phá các nơi cao và bàn thờ trong khắp Giu-đa, Bên-gia-min, Ép-ra-im và Ma-na-se cho đến khi phá hủy tất cả. Sau đó mỗi người Y-sơ-ra-ên, ai nấy trở về nhà trong thành của mình. Vua Ê-xê-chia lập lại các ban cho thầy tế lễ và người Lê-vi, mỗi thầy tế lễ hay người Lê-vi tùy theo nhiệm vụ của mình, để dâng tế lễ thiêu, tế lễ cầu an; để phục vụ, cảm tạ và ca ngợi nơi cổng đền thờ CHÚA. Vua lấy tài sản của mình dâng lên làm tế lễ thiêu buổi sáng, buổi chiều, ngày Sa-bát, ngày trăng mới và các ngày lễ theo như đã chép trong Kinh Luật của CHÚA. Vua cũng truyền cho dân chúng sống tại Giê-ru-sa-lem cung cấp các phần phẩm vật dành cho các thầy tế lễ và người Lê-vi để họ chuyên tâm lo việc kinh luật của CHÚA. Khi lệnh vua vừa truyền ra, con dân Y-sơ-ra-ên đem dâng rất nhiều sản vật đầu mùa gồm có lúa mì, rượu, dầu, mật ong cùng mọi loại nông phẩm; họ cũng dâng một phần mười trong mọi thứ, số lượng thật nhiều. Người Y-sơ-ra-ên và Giu-đa sống tại các thành trong nước Giu-đa cũng dâng một phần mười các bầy súc vật và chiên dê, một phần mười mọi vật thánh hiến kính CHÚA, Đức Chúa Trời của họ; số phẩm vật dâng hiến chất thành từng đống. Người ta bắt đầu dâng các lễ vật chất thành đống vào tháng ba và đến tháng bảy thì chấm dứt. Khi vua Ê-xê-chia và các quan đến thấy những đống phẩm vật, họ ca ngợi CHÚA và dân Y-sơ-ra-ên. Vua Ê-xê-chia hỏi các thầy tế lễ và người Lê-vi về các đống phẩm vật. A-xa-ria, thầy thượng tế thuộc dòng họ Xa-đốc thưa cùng vua rằng: “Từ khi dân chúng đem lễ vật dâng hiến đến đền thờ CHÚA, chúng tôi có đủ ăn và còn dư nhiều để dành; vì CHÚA ban phước cho dân Ngài nên mới dư nhiều thế này.” Vua Ê-xê-chia truyền sửa soạn lại các nhà kho trong đền thờ CHÚA; người ta sửa soạn các nhà ấy; và trung tín đem các lễ vật dâng hiến, các lễ vật phần mười và những đồ vật thánh vào. Cô-na-nia, người Lê-vi coi sóc những đồ vật ấy; Si-mê-i, em người làm phụ tá. Vua Ê-xê-chia và A-xa-ria, người quản đốc đền thờ CHÚA lập Giê-hi-ên, A-xa-xia, Na-hát, A-sa-ên, Giê-ri-mốt, Giô-sa-bát, Ê-li-ên, Gít-ma-kia, Ma-hát và Bê-na-gia coi sóc dưới quyền Cô-na-nia và Si-mê-i. Cô-rê, con trai Dim-ra, người Lê-vi giữ Cổng Đông, đặc trách các lễ vật tự nguyện dâng cho Đức Chúa Trời, phân phối các lễ vật dâng CHÚA và những đồ vật chí thánh. Dưới quyền người có Ê-đen, Min-gia-min, Giê-sua, Sê-ma-gia, A-ma-ria và Sê-ca-nia từ các thành của thầy tế lễ trung tín phân phối các phần lễ vật cho anh em mình, lớn cũng như nhỏ tùy theo ban. Ngoài những người có ghi trong gia phả, họ cũng phân phát cho những người nam từ ba tuổi trở lên cho mọi người vào đền thờ CHÚA hàng ngày để thi hành nhiệm vụ theo ban mình. Họ cũng phân phát cho các thầy tế lễ có tên trong gia phả theo tông tộc và người Lê-vi từ hai mươi tuổi trở lên tùy theo nhiệm vụ và ban của họ. Những người này đã ghi tên trong gia phả tất cả gia đình, con nhỏ, vợ, con trai, con gái, mọi người trong cộng đồng vì họ trung tín thánh hóa mình. Còn đối với những thầy tế lễ dòng dõi A-rôn ở nơi đồng ruộng phụ cận các thành của họ hay bất cứ thành nào khác, thì những người đặc trách trên cũng phân phát phần lễ vật cho mọi người nam trong số các thầy tế lễ và những người Lê-vi đã ghi tên vào gia phả. Vua Ê-xê-chia đã làm như vậy trong khắp Giu-đa. Vua làm điều thiện, ngay chính và trung tín trước mặt CHÚA, Đức Chúa Trời mình. Trong mọi hoạt động, trong việc phục vụ đền thờ CHÚA, việc tuân giữ kinh luật và điều răn, việc tìm kiếm Đức Chúa Trời mình, vua đều hết lòng mà làm nên vua được thịnh vượng. Sau những việc này và những hành động trung tín của vua Ê-xê-chia thì San-chê-ríp, vua A-si-ri kéo đến xâm chiếm Giu-đa; người bao vây các thành kiên cố và định chiếm lấy chúng. Khi vua Ê-xê-chia thấy vua San-chê-ríp đến và định đánh Giê-ru-sa-lem; vua bàn mưu với các quan và tướng của mình để chận nước từ các suối ở ngoài thành; họ đều ủng hộ vua. Một lực lượng đông đảo dân chúng tập họp lại và chận tất cả suối và mạch nước chảy qua vùng đất ấy. Họ bảo: “Tại sao chúng ta lại để các vua A-si-ri đến và tìm được nhiều nước.” Vua cương quyết hành động, sửa chữa tất cả các vách thành hư hỏng, xây tháp canh trên thành và xây một vách thành khác phía ngoài thành ấy. Vua cũng củng cố Mi-lô, thành Đa-vít và chế tạo nhiều vũ khí cùng thuẫn. Vua lập các tướng chỉ huy dân chúng, triệu tập họ đến quảng trường tại cổng thành và khích lệ họ rằng: “Hãy mạnh mẽ và can đảm lên, đừng sợ hãi và kinh hoàng vì vua A-si-ri và đám quân của người, bởi vì Đấng ở với chúng ta vĩ đại hơn những kẻ đi với vua ấy; với vua ấy chỉ là cánh tay người phàm, còn CHÚA ở với chúng ta, Đức Chúa Trời chúng ta sẽ phù hộ và chiến đấu cho chúng ta.” Dân chúng trở nên can đảm nhờ lời của Ê-xê-chia, vua Giu-đa. Sau đó, trong khi San-chê-ríp, vua A-si-ri và toàn quân của mình đang tấn công La-ki; vua sai thuộc hạ đến gặp Ê-xê-chia, vua Giu-đa và toàn dân Giu-đa tại Giê-ru-sa-lem, nói rằng: “San-chê-ríp, vua A-si-ri tuyên bố: ‘Các ngươi tin tưởng gì mà còn ở trong thành Giê-ru-sa-lem bị vây hãm? Chẳng phải Ê-xê-chia đã gạt các ngươi, để các ngươi chết đói, chết khát khi nói rằng CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta sẽ giải cứu chúng ta khỏi tay vua A-si-ri sao? Chẳng phải chính Ê-xê-chia đã dẹp bỏ các nơi cao và bàn thờ Ngài sao? Người truyền cho Giu-đa và Giê-ru-sa-lem phải thờ phượng và dâng hương tại một bàn thờ thôi. Các ngươi chưa biết điều ta và tổ phụ ta đã làm cho các dân thiên hạ sao? Các thần của những nước ấy có thể giải cứu lãnh thổ của họ khỏi tay ta chăng? Trong tất cả các thần của những nước mà tổ phụ ta đã hủy diệt, thần nào có thể cứu dân mình khỏi tay ta? Làm thế nào Đức Chúa Trời của các ngươi có thể cứu các ngươi khỏi tay ta? Vậy, bây giờ, đừng để Ê-xê-chia lừa dối và gạt các ngươi như thế. Chớ tin tưởng người, vì nếu chưa có thần của nước nào hay vương quốc nào có thể giải cứu dân mình khỏi tay ta và tay của tổ phụ ta, thì làm thế nào Đức Chúa Trời của các ngươi có thể giải cứu các ngươi khỏi tay ta được.’” Thuộc hạ của vua A-si-ri cũng nói phạm đến CHÚA, Đức Chúa Trời và phạm đến vua Ê-xê-chia, tôi tớ Ngài. Người cũng viết thư nhục mạ CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên và nói thế này: “Những thần của các dân thiên hạ đã không thể cứu dân mình khỏi tay ta thì Đức Chúa Trời của Ê-xê-chia cũng không thể cứu dân mình khỏi tay ta.” Chúng cũng dùng tiếng Hy-bá nói lớn cho dân Giê-ru-sa-lem trên thành nghe, làm cho họ sợ hãi và khiếp đảm để chiếm lấy thành. Chúng nói về Đức Chúa Trời của Giê-ru-sa-lem y như những thần của các dân thiên hạ, là sản phẩm của tay người làm ra. Bấy giờ vua Ê-xê-chia và tiên tri I-sa, con trai A-mốt cầu nguyện về việc này; họ cầu khẩn đến tận trời. CHÚA sai một thiên sứ tiêu diệt tất cả binh sĩ, những người lãnh đạo, chỉ huy trong trại quân vua A-si-ri khiến người phải rút lui một cách nhục nhã về xứ mình. Thế rồi khi vua vào đền thờ thần mình, một vài người con vua đã giết vua bằng gươm. Như vậy CHÚA đã giải cứu vua Ê-xê-chia và cư dân Giê-ru-sa-lem khỏi tay San-chê-ríp, vua A-si-ri và khỏi tay mọi kẻ thù khác; Ngài ban cho họ bình an mọi bề. Nhiều người đem lễ vật đến Giê-ru-sa-lem dâng cho CHÚA và các tặng phẩm quí báu dâng cho Ê-xê-chia, vua Giu-đa. Từ đó về sau vua Ê-xê-chia được mọi nước kính trọng. Vào lúc ấy, vua Ê-xê-chia bị bệnh nặng gần chết; vua cầu nguyện cùng CHÚA; Ngài đáp lời và ban cho vua một dấu lạ. Nhưng vua Ê-xê-chia không đền đáp ơn phước Chúa đã ban vì lòng vua kiêu ngạo; vì thế cơn thịnh nộ đổ xuống trên vua, trên Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. Bấy giờ vua Ê-xê-chia hạ mình xuống, không còn tự cao nữa và dân Giê-ru-sa-lem cũng vậy; nhờ thế trong đời vua Ê-xê-chia cơn thịnh nộ của CHÚA không giáng xuống nữa. Vua Ê-xê-chia rất giàu có và được tôn trọng; vua xây các nhà kho để chứa bạc, vàng, đá quí, hương liệu, thuẫn và mọi vật quí giá. Vua xây các kho để chứa lúa, rượu mới, dầu; chuồng cho mọi đàn súc vật và bầy chiên, dê. Vua cũng xây cất các thành, tậu nhiều đàn súc vật và bầy chiên, dê, vì Đức Chúa Trời đã ban cho vua rất nhiều tài sản. Chính vua Ê-xê-chia là người đã lấp thượng nguồn của suối Ghi-hôn rồi dẫn nước xuống phía tây thành Đa-vít; trong mọi việc mình làm, vua Ê-xê-chia đều thành công. Cũng vậy, khi các sứ giả do những người lãnh đạo Ba-by-lôn sai đến hỏi vua về các dấu lạ xảy ra trong xứ, Đức Chúa Trời đã lìa bỏ vua để thử vua, để biết những điều trong lòng vua. Kìa, các công việc khác của vua Ê-xê-chia, lòng tận trung của người, đều được ghi chép trong khải tượng của tiên tri I-sa, con trai A-mốt và trong sách các vua Giu-đa và Y-sơ-ra-ên. Vua Ê-xê-chia an giấc cùng tổ phụ và được chôn cất tại trên đồi trong khu lăng tẩm của dòng dõi vua Đa-vít. Khi vua qua đời, toàn thể Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem long trọng an táng vua. Thái tử Ma-na-se lên ngôi kế vị vua. Vua Ma-na-se lên ngôi lúc mười hai tuổi; vua trị vì năm mươi lăm năm tại Giê-ru-sa-lem. Vua làm điều ác trước mắt CHÚA; theo những thói tục ghê tởm của các dân mà CHÚA đã đánh đuổi đi khỏi trước mặt con dân Y-sơ-ra-ên. Vua xây dựng trở lại những nơi cao mà vua cha Ê-xê-chia đã phá hủy; lập bàn thờ cho thần Ba-anh, xây các trụ thờ; vua thờ lạy các tinh tú trên trời và phục vụ chúng. Vua xây các bàn thờ trong đền thờ CHÚA, là nơi CHÚA phán rằng: “Danh Ta sẽ ở tại Giê-ru-sa-lem đời đời.” Người cũng xây các bàn thờ cho các tinh tú trên trời ngay trong hai sân đền thờ CHÚA. Vua dâng con qua lửa tại thung lũng Ben Hi-nôm, thực hành chiêm tinh, bói khoa, phù thủy, lên đồng, cầu hồn; người làm nhiều điều ác trước mắt CHÚA để trêu giận Ngài. Vua đặt một tượng mà vua đã tạc trong đền thờ CHÚA, nơi Đức Chúa Trời đã phán với vua Đa-vít và vua Sa-lô-môn rằng: “Trong đền thờ này và tại Giê-ru-sa-lem, nơi Ta đã chọn giữa các chi tộc Y-sơ-ra-ên để đặt Danh Ta đời đời. Ta sẽ không bao giờ lại cất đi bàn chân của người Y-sơ-ra-ên khỏi mảnh đất mà Ta đã ban cho tổ phụ họ nếu họ cẩn thận làm theo mọi kinh luật, qui định và sắc luật mà Ta đã nhờ Môi-se truyền cho.” Nhưng vua Ma-na-se đã hướng dẫn dân Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem lầm lạc, làm điều ác còn hơn cả những nước mà CHÚA đã hủy diệt trước mắt con dân Y-sơ-ra-ên. CHÚA phán cùng vua Ma-na-se và dân chúng nhưng họ không để ý. Vì vậy, CHÚA cho các tướng của đạo quân vua A-si-ri đến tấn công chúng; họ bắt vua Ma-na-se làm tù binh, cột vua bằng xích đồng và móc mũi vua dẫn về Ba-by-lôn. Trong khi hoạn nạn vua cầu khẩn CHÚA, Đức Chúa Trời mình và hạ mình xuống thật thấp trước mặt Đức Chúa Trời của tổ phụ người. Vua cầu nguyện cùng Chúa; Ngài động lòng và nghe lời cầu xin của vua; Ngài đem vua trở về Giê-ru-sa-lem và ban vương quốc lại cho vua. Bấy giờ vua Ma-na-se biết rằng CHÚA là Đức Chúa Trời của người. Sau đó vua tái thiết bức tường phía ngoài thành Đa-vít, về phía tây Ghi-hôn, trong thung lũng, đến tận cổng Cá, vòng quanh Ô-phên. Vua xây nó cao hơn, cử các tướng trấn giữ tại tất cả các thành kiên cố của Giu-đa. Vua dẹp bỏ hết các thần ngoại quốc, các hình tượng trong đền thờ CHÚA cũng như các bàn thờ mà vua đã xây trên đồi đền thờ CHÚA và tại Giê-ru-sa-lem; vua ném bỏ hết ra ngoài thành. Vua tái thiết bàn thờ CHÚA, dâng sinh tế, tế lễ cầu an và cảm tạ cho Ngài. Vua truyền cho Giu-đa phải phục vụ CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Tuy nhiên dân chúng vẫn dâng sinh tế tại các nơi cao, nhưng chỉ dâng cho CHÚA, Đức Chúa Trời của họ. Những công việc khác của vua Ma-na-se, lời cầu nguyện của người với Đức Chúa Trời; những lời đấng tiên kiến nhân danh CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên nói với vua đều được chép trong sách sử ký của các vua Y-sơ-ra-ên. Lời cầu nguyện của vua và thể nào Chúa đã nhậm lời cũng như mọi tội lỗi vua phạm, sự bất trung, những nơi cao người xây, các trụ thờ và hình tượng trước khi vua hạ mình xuống; những việc này đều được ghi chép trong sách của Hô-sai. Vua Ma-na-se an nghỉ cùng tổ phụ và được chôn trong cung vua. Thái tử A-môn lên ngôi kế vị. Vua A-môn lên ngôi lúc hai mươi hai tuổi; người trị vì tại Giê-ru-sa-lem hai năm. Vua làm điều ác trước mắt CHÚA như vua cha Ma-na-se đã làm; vua A-môn dâng tế lễ cho tất cả những thần tượng mà vua cha Ma-na-se đã làm ra và phục vụ chúng. Nhưng vua không hạ mình xuống trước mặt CHÚA như vua cha Ma-na-se đã làm, trái lại còn phạm tội nhiều hơn nữa. Bấy giờ các thuộc hạ của vua âm mưu chống nghịch vua; họ ám sát vua trong hoàng cung. Nhưng dân chúng trong xứ giết tất cả những kẻ âm mưu chống nghịch vua A-môn và tôn thái tử Giô-si-a lên ngôi kế vị. Vua Giô-si-a lên ngôi làm vua lúc tám tuổi; người trị vì ba mươi mốt năm tại Giê-ru-sa-lem. Vua làm điều thiện trước mắt CHÚA, sống theo đường lối của vua Đa-vít, tổ phụ mình, không xoay qua bên phải hay bên trái. Vào năm thứ tám đương thời vua trị vì, dù còn trẻ vua bắt đầu tìm kiếm Đức Chúa Trời của vua Đa-vít, tổ phụ mình. Đến năm thứ mười hai, vua bắt đầu thanh tẩy Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, loại bỏ những nơi cao, các trụ thờ, những tượng chạm khắc và hình tượng đúc. Trước sự chứng kiến của vua, người ta phá hủy các bàn thờ thần Ba-anh và những bàn thờ dâng hương phía trên các bàn thờ ấy. Người đập tan các trụ thờ, tượng chạm và hình tượng đúc rồi nghiền nát chúng và rải trên mồ mả những kẻ đã cúng tế chúng. Vua đốt xương cốt của các thầy cúng của các thần trên những bàn thờ của chúng; như vậy, vua thanh tẩy Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. Tại các thành thuộc những chi tộc Ma-na-se, Ép-ra-im, Si-mê-ôn, đến tận Nép-ta-li và những nơi hoang tàn chung quanh, vua phá hủy các bàn thờ, trụ thờ và hình tượng rồi nghiền nát chúng thành tro bụi; vua cũng đập tan tất cả các bàn thờ dâng hương trên khắp lãnh thổ Y-sơ-ra-ên; sau đó vua trở về Giê-ru-sa-lem. Năm thứ mười tám dưới thời vua trị vì, sau khi đã thanh tẩy lãnh thổ và đền thờ, vua sai Sa-phan, con trai A-sa-lia, Ma-a-xê-gia, tổng đốc thành đô cùng ông Giô-a, con trai Giô-a-cha, quan ký lục, sửa chữa đền thờ CHÚA, Đức Chúa Trời của vua. Họ đến giao tiền bạc để tu bổ đền thờ Đức Chúa Trời cho thầy thượng tế Hinh-kia, tức là tiền những người Lê-vi giữ cổng đã thâu nơi người Ma-na-se, Ép-ra-im, toàn thể những người còn lại của Y-sơ-ra-ên, tất cả những người Giu-đa, Bên-gia-min cùng dân cư thành Giê-ru-sa-lem. Họ giao tiền cho những người coi sóc công việc trong đền thờ CHÚA; những người này trả công cho những người sửa chữa và trùng tu đền thờ CHÚA. Chúng cũng giao tiền cho thợ mộc và thợ xây nhà mua đá đẽo, gỗ để làm kèo, cột cho các ngôi nhà mà các vua Giu-đa đã để cho hư hỏng. Những người này trung tín làm việc. Những người Lê-vi được cử để hướng dẫn họ gồm có Gia-hát và Ô-ba-đia thuộc dòng dõi Mê-ra-ri; Xa-cha-ri và Mê-su-lam thuộc dòng dõi Kê-hát cùng những người Lê-vi khác, tất cả đều có khả năng sử dụng nhạc khí. Những người này coi sóc công nhân và quản trị mọi công việc; có người Lê-vi làm thư ký, người làm nhân viên, người thì giữ cổng. Trong khi lấy bạc đã dâng vào đền thờ CHÚA ra, thầy tế lễ Hinh-kia tìm thấy cuốn Kinh Luật của CHÚA do Môi-se truyền lại. Thầy tế lễ Hinh-kia nói với viên thư ký Sa-phan: “Ta tìm thấy cuốn Kinh Luật trong đền thờ CHÚA” và đưa cuốn sách cho Sa-phan. Sa-phan đem cuốn sách vào cho vua và tâu rằng: “Mọi việc vua ủy nhiệm cho các tôi tớ ngài, họ đang thi hành. Họ đã lấy bạc trong đền thờ CHÚA trả cho những người coi sóc công việc và cho những người làm việc.” Thư ký Sa-phan cũng tâu với vua: “Thầy tế lễ Hinh-kia cũng trao cho tôi một cuốn sách” rồi ông đọc sách ấy trước mặt vua. Sau khi nghe những lời của Kinh Luật vua xé áo mình, truyền lịnh cho Hinh-kia, A-hi-cam, con trai của Sa-phan, Áp-đôn, con trai của Mi-ca, Sa-phan, thư ký và A-sa-gia, quan cận thần của vua rằng: “Hãy đi cầu vấn CHÚA cho ta, cho những người còn lại của Y-sơ-ra-ên và Giu-đa về các lời trong cuốn sách mới tìm lại được. Vì cơn thịnh nộ của CHÚA đang giáng xuống chúng ta thật là lớn; bởi vì tổ tiên chúng ta đã không tuân giữ lời CHÚA và cũng không làm theo mọi điều đã chép trong sách này.” Hinh-kia và những người vua sai đến gặp nữ tiên tri Hun-đa, vợ của Sa-lum, người giữ áo lễ, con trai của Tô-cát, cháu Hát-ra; bà đang ở tại quận hai, Giê-ru-sa-lem. Họ nói cho bà những lời vua phán. Bà nói với họ: “CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: ‘Hãy nói với người sai các ông đến cùng ta rằng: CHÚA phán như vầy: Ta sẽ giáng tai họa xuống nơi này và cư dân ở nơi này, giáng tất cả những lời rủa sả đã chép trong sách mà người ta đã đọc trước mặt vua Giu-đa. Vì chúng nó đã từ bỏ Ta, dâng hương cho các thần khác để chọc giận Ta và cũng vì mọi việc tay chúng đã làm ra; Ta sẽ đổ cơn giận ta xuống nơi này và sẽ không nguôi.’ Còn về vua của Giu-đa, người đã sai các ngươi đến cầu vấn CHÚA, hãy nói với người những lời các ngươi đã nghe rằng, CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: ‘Vì ngươi đã mềm lòng, hạ mình xuống trước mặt Đức Chúa Trời khi nghe những lời Ngài phán nghịch lại chỗ này và cư dân ở đây; ngươi đã hạ mình xuống trước mặt Ta, xé áo mình và khóc lóc trước mặt ta, nên Ta cũng đã nghe,’ CHÚA tuyên bố. ‘Này, Ta sẽ đem ngươi về cùng tổ tiên, ngươi sẽ được chôn cất bình an và mắt ngươi sẽ không thấy tất cả những tai họa mà ta sẽ giáng xuống chỗ này và cư dân ở đây.’” Họ tâu lại cho vua những lời ấy. Vua truyền triệu tập tất cả những trưởng lão của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. Vua đi lên đền thờ CHÚA; tất cả những người Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem, thầy tế lễ, người Lê-vi, người lớn, kẻ nhỏ cùng đi theo. Vua đọc cho họ nghe mọi lời chép trong sách giao ước đã tìm thấy trong đền thờ CHÚA. Vua đứng tại chỗ mình, tái kết ước trước mặt CHÚA, hứa theo CHÚA, tuân giữ các điều răn, sắc luật và qui luật cùng hết lòng, hết linh hồn thi hành những lời giao ước đã chép trong sách này. Vua truyền cho tất cả những người có mặt tại Giê-ru-sa-lem và Bên-gia-min cũng cam kết như thế; dân cư Giê-ru-sa-lem đã làm theo giao ước của Đức Chúa Trời, tức là Đức Chúa Trời của tổ phụ họ. Vua Giô-si-a dẹp sạch mọi hình tượng ghê tởm khỏi lãnh thổ Y-sơ-ra-ên và bắt mọi người Y-sơ-ra-ên phải phục vụ CHÚA, Đức Chúa Trời của họ. Trọn đời vua dân chúng không từ bỏ CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ họ. Vua Giô-si-a cử hành lễ Vượt Qua mừng CHÚA tại Giê-ru-sa-lem. Vào ngày 1 tháng thứ Nhất, người ta giết con chiên của Lễ Vượt Qua. Vua lập các thầy tế lễ theo nhiệm vụ và khuyến khích họ phục vụ trong đền thờ CHÚA. Vua phán với những người Lê-vi, là những người đã thánh hóa cho CHÚA và vẫn dạy dỗ toàn dân Y-sơ-ra-ên, rằng: “Hãy đặt rương thánh trong đền thờ mà vua Sa-lô-môn, con vua Đa-vít, vua Y-sơ-ra-ên đã xây cất; các ngươi không cần phải khiêng nó đi trên vai nữa; hãy phục vụ CHÚA, Đức Chúa trời các ngươi và dân Y-sơ-ra-ên của Ngài. Các ngươi hãy chuẩn bị sẵn sàng tùy tông tộc và ban của mình theo qui luật mà Đa-vít, vua Y-sơ-ra-ên và vua Sa-lô-môn, con người đã ghi chép. Hãy theo thứ tự ban, đứng tại nơi thánh, dại diện cho dân chúng theo như các ban trong tông tộc người Lê-vi. Hãy thánh hóa cho mình, giết con chiên của lễ Vượt Qua, chuẩn bị chiên con cho đồng bào theo như lời CHÚA đã truyền dạy Môi-se.” Vua Giô-si-a lấy từ sản vật của mình cung cấp 30.000 chiên và dê cùng 3.000 bò để làm sinh tế cho những người dự lễ Vượt Qua tại đó. Các quan cũng tự nguyện tặng vật sinh tế cho dân chúng, cho các thầy tế lễ và người Lê-vi. Các ông Hinh-kia, Xa-cha-ri và Giê-hi-ên, là các quản đốc đền thờ Đức Chúa Trời, tặng cho các thầy tế lễ để dâng tế trong lễ Vượt Qua 2.600 chiên, dê và 300 con bò. Các ông Cô-na-nia, Sê-ma-gia, Na-tha-na-ên và anh em người, Ha-sa-bia, Giê-i-ên và Giô-sa-bát, là những thủ lãnh của người Lê-vi, cung cấp 5.000 chiên, dê và 500 bò cho người Lê-vi dự lễ Vượt Qua. Lễ đã được chuẩn bị sẵn sàng, các thầy tế lễ đứng theo vị trí của mình, những người Lê-vi đứng theo ban mình như vua đã truyền. Họ giết các chiên con của lễ Vượt Qua; các thầy tế lễ nhận huyết từ họ và rảy; những người Lê-vi khác lột da sinh tế. Người ta để riêng các của lễ toàn thiêu để phân phát cho các nhóm tùy theo tông tộc trong dân chúng để dâng kính CHÚA đúng như sách Môi-se đã ghi chép. Họ cũng làm như vậy đối với bò. Họ nướng các con chiên lễ Vượt Qua theo qui định, nấu các phần dâng thánh trong nồi, vạc, chảo rồi phân phát ngay cho mọi người dân. Sau đó những người Lê-vi chuẩn bị phần thịt cho mình và cho các thầy tế lễ vì các thầy tế lễ, dòng dõi thầy tế lễ A-rôn, bận dâng tế lễ toàn thiêu và các phần mỡ cho đến tối. Như thế những người Lê-vi chuẩn bị cho mình và cho các thầy tế lễ, con cháu thầy tế lễ A-rôn. Những người ca hát, con cháu A-sáp, đứng trong vị trí mình theo như Đa-vít, A-sáp, Hê-man và Giê-đu-thun, vị tiên kiến của vua đã qui định. Những người giữ cổng vẫn làm nhiệm vụ, không phải rời vị trí của mình vì những người Lê-vi anh em đã chuẩn bị phần cho họ. Như thế, hôm ấy, toàn buổi lễ thờ phượng CHÚA được chuẩn bị chu đáo để cử hành lễ Vượt Qua và dâng tế lễ toàn thiêu trên bàn thờ CHÚA theo lệnh vua Giô-si-a. Con dân Y-sơ-ra-ên hiện diện tại đó cử hành lễ Vượt Qua và giữ lễ Bánh Không Men trong bảy ngày. Từ thời tiên tri Sa-mu-ên, chưa có lễ Vượt Qua nào được cử hành như thế trong Y-sơ-ra-ên; cũng chưa có vua Y-sơ-ra-ên nào đã cử hành lễ Vượt Qua như vua Giô-si-a cùng các thầy tế lễ, người Lê-vi, toàn thể người Giu-đa, người Y-sơ-ra-ên có mặt tại đó và dân cư thành Giê-ru-sa-lem đã làm. Lễ Vượt Qua này được cử hành vào năm thứ mười tám dưới triều vua Giô-si-a. Sau khi vua Giô-si-a làm mọi việc trùng tu đền thờ CHÚA, thì Nê-cô, vua Ai-cập kéo lên đánh Kạt-kê-mít bên bờ sông Ơ-phơ-rát. Vua Giô-si-a kéo ra đón người. Vua Ai-cập sai sứ giả đến nói với vua Giô-si-a: “Vua Giu-đa, Ta và ngài có chuyện gì đâu? Hôm nay ta tiến quân không phải để tấn công ngài, nhưng tấn công nhà thù nghịch với ta; Đức Chúa Trời bảo ta hãy làm việc này nhanh lên, vậy đừng chống lại Đức Chúa Trời, Đấng đang ở với ta, nếu không Ngài sẽ hủy diệt ngươi.” Nhưng vua Giô-si-a không chịu rút lui, vua ngụy trang và cứ tiến quân tấn công vua Ai-cập. Vua không chịu nghe lời Đức Chúa Trời cậy miệng vua Nê-cô nói, cứ tiến quân nghênh chiến tại đồng bằng Mê-ghi-đô. Vua Giô-si-a bị tên bắn trúng; vua bảo những người hầu cận: “Hãy đem ta ra ngoài vì ta bị thương nặng.” Những người hầu cận đem vua ra khỏi xe chiến mã, đặt trên một xe chiến mã khác rồi chở vua về Giê-ru-sa-lem và vua chết tại đó. Vua được chôn cất trong lăng cùng với tổ tiên mình. Toàn thể Giu-đa và Giê-ru-sa-lem đều khóc thương vua Giô-si-a. Giê-rê-mi đã sáng tác một bài ai ca khóc vua Giô-si-a. Ngày nay những người ca hát nam lẫn nữ đều hát bài ai ca khóc vua Giô-si-a và nó trở thành một truyền thống trong Y-sơ-ra-ên; này, nó cũng được ghi chép trong các bài ai ca. Những công việc khác của vua Giô-si-a, sự sùng kính của vua theo như Kinh Luật của CHÚA; kìa, những công việc của vua từ đầu đến cuối đều được chép trong sách các vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa. Dân trong xứ tôn Giô-a-cha, con trai vua Giô-si-a lên làm vua kế vị vua cha tại Giê-ru-sa-lem. Vua Giô-a-cha được hai mươi ba tuổi khi lên ngôi; vua trị vì ba tháng tại Giê-ru-sa-lem. Bấy giờ vua Ai-cập truất ngôi vua Giô-a-cha ở Giê-ru-sa-lem và bắt nước Giu-đa triều cống 3.4 tấn bạc và 34kg vàng. Vua Ai-cập lập Ê-li-a-kim, anh vua Giô-a-cha lên làm vua Giu-đa tại Giê-ru-sa-lem và đổi tên người thành Giê-hô-gia-kim; vua Nê-cô cũng bắt vua Giô-a-cha đem về Ai-cập. Vua Giê-hô-gia-kim lên ngôi lúc hai mươi lăm tuổi; người trị vì tại Giê-ru-sa-lem mười một năm; người làm điều ác trước mắt CHÚA, Đức Chúa Trời người. Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn tấn công vua, bắt vua trói lại bằng xích đồng và dẫn về Ba-by-lôn. Vua Nê-bu-cát-nết-sa của Ba-by-lôn cũng lấy các vật dụng trong đền thờ CHÚA đem về để trong cung mình ở Ba-by-lôn. Những việc khác của vua Giê-hô-gia-kim, những việc ghê tởm người đã làm cùng những việc khác về người, kìa chúng đều được chép trong sách các vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa. Giê-hô-gia-kin, con trai vua lên ngôi kế vị. Giê-hô-gia-kin lên ngôi làm vua khi được mười tám tuổi; vua trị vì tại Giê-ru-sa-lem ba tháng mười ngày; vua làm điều ác trước mắt CHÚA. Vào đầu năm sau, vua Nê-bu-cát-nết-sa sai người đến bắt, điệu vua về Ba-by-lôn cùng với những vật dụng quí giá trong đền thờ CHÚA. Vua cũng lập Sê-đê-kia, chú người lên làm vua Giu-đa tại Giê-ru-sa-lem. Vua Sê-đê-kia lên ngôi khi được hai mươi mốt tuổi; vua trị vì tại Giê-ru-sa-lem mười một năm. Vua làm điều ác trước mắt CHÚA, Đức Chúa Trời mình và không khiêm nhường trước mặt tiên tri Giê-rê-mi, là người phán lời CHÚA. Vua cũng phản nghịch chống lại vua Nê-bu-cát-nết-sa, người đã buộc vua nhân danh CHÚA tuyên thệ. Vua trở nên cứng cổ, lòng dạ chai đá, không chịu quay lại với CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Hơn thế nữa, những thầy tế lễ lãnh đạo và dân chúng ngày càng trở nên bất trung, làm mọi điều ghê tởm như các nước chung quanh; họ làm ô uế đền thờ CHÚA, là đền thờ Ngài đã để riêng ra thánh tại Giê-ru-sa-lem. CHÚA, Đức Chúa trời của tổ phụ họ đã nhiều lần sai các sứ giả Ngài đến với chúng vì Ngài thương xót dân Ngài và nơi Ngài ngự. Nhưng chúng nhạo báng các sứ giả của Đức Chúa Trời, khinh thường lời Chúa, chế giễu các tiên tri của Ngài, vì thế cơn thịnh nộ của CHÚA nổi lên trừng phạt dân chúng, không còn phương cứu chữa. CHÚA cho vua Ba-by-lôn đến trừng phạt chúng; vua này dùng gươm giết những thanh niên trong nơi thánh; người không tha mạng thanh niên, thiếu nữ, người già, kẻ yếu ớt; Ngài trao tất cả chúng nó vào tay vua. Vua lấy tất cả vật dụng lớn nhỏ trong đền thờ Đức Chúa Trời, các kho báu của đền thờ CHÚA, các kho báu của vua và của các quan, đem hết về Ba-by-lôn. Quân Ba-by-lôn đốt đền thờ Đức Chúa Trời; phá hủy tường thành Giê-ru-sa-lem; thiêu đốt mọi cung điện và báu vật trong thành. Những kẻ sống sót thoát nạn gươm đao, thì bị vua bắt đem qua Ba-by-lôn làm nô lệ cho vua và cho con cháu vua cho đến thời vương quốc Ba-tư tể trị. Điều này xảy ra để ứng nghiệm lời CHÚA cậy tiên tri Giê-rê-mi phán rằng, xứ được hưởng bù những ngày Sa-bát, tức là trọn những ngày xứ sở bị hoang tàn, nó được nghỉ ngơi đến bảy mươi năm trọn. Vào năm thứ nhất dưới triều Si-ru, vua Ba-tư; lời CHÚA cậy tiên tri Giê-rê-mi phán được ứng nghiệm. CHÚA tác động tâm trí Si-ru, vua Ba-tư, để vua công bố trên toàn vương quốc và bằng sắc chỉ rằng: Vua Si-ru nước Ba-tư tuyên bố như vầy: “CHÚA, Đức Chúa Trời trên trời đã ban cho ta mọi vương quốc dưới đất và Ngài lập ta để xây cho Ngài một đền thờ tại Giê-ru-sa-lem trong xứ Giu-đa. Vậy ai trong vòng các ngươi là dân của Ngài, nguyện xin CHÚA, Đức Chúa Trời ngươi ở cùng ngươi, hãy tiến lên.” Năm thứ nhất đời Si-ru vua Ba-tư, để ứng nghiệm lời Đức Chúa Trời phán qua Giê-rê-mi, Đức Chúa Trời cảm động lòng Si-ru vua Ba-tư ra sắc chỉ rao truyền khắp đế quốc như sau: “Si-ru vua Ba-tư tuyên cáo: Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời trên trời cao, đã ban cho ta tất cả các vương quốc trên đất này. Nay Ngài truyền ta xây đền thờ cho Ngài tại Giê-ru-sa-lem, trong xứ Giu-đa. Giữa vòng các ngươi, bất cứ người nào thuộc về toàn thể dân sự Ngài, cầu xin Đức Chúa Trời người ở cùng ngươi, đều được phép trở về Giê-ru-sa-lem trong xứ Giu-đa, xây lại đền thờ Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Đức Chúa Trời ngự tại Giê-ru-sa-lem. Dân bản xứ nơi tất cả những người Giu-đa còn sống sót cư trú, bất cứ nơi nào, phải tiếp tế bạc, vàng, của cải, và gia súc cho họ, cùng với những của lễ tự nguyện dâng hiến cho đền thờ Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem.” Bây giờ, các trưởng tộc của Giu-đa và Bên-gia-min, các thầy tế lễ và người Lê-vi, hết thảy những người nào được Đức Chúa Trời cảm động, đều chuẩn bị đi về Giê-ru-sa-lem xây đền thờ Đức Chúa Trời. Tất cả những người lân cận đều tiếp trợ cho họ về mọi mặt, nào bạc, vàng, của cải, gia súc, và vô số những báu vật, chưa kể tất cả những lễ vật tự nguyện hiến dâng. Vua Si-ru cũng trả lại những dụng cụ trong đền thờ Đức Chúa Trời mà vua Nê-bu-cát-nết-sa đã đem ra khỏi Giê-ru-sa-lem về đặt trong miếu thần của vua. Si-ru vua Ba-tư truyền cho Mít-rê-đat, giám đốc ngân khố, đem các dụng cụ ấy ra kiểm kê và trao lại cho Bết-ba-xa, lãnh tụ Giu-đa. Đây là bảng kiểm kê các dụng cụ ấy:đĩa vàng \tcr2 30đĩa bạc1.000đĩa bạc pha, \tcr2 29 chén vàng chén bạc loại hạng nhì, Tổng cộng số dụng cụ vàng và bạc là 5.400 món. Sết-ba-xa mang theo tất cả những dụng cụ ấy khi cùng đoàn người lưu đày từ Ba-by-lôn trở về Giê-ru-sa-lem. Đây là những người trong tỉnh đã trở về từ giữa vòng những người phu tù lưu đày mà Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, đã đày qua Ba-by-lôn. Họ trở về Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, ai nấy về thành mình. Họ trở về cùng với Xô-rô-ba-bên, Giê-sua, Nê-hê-mi, Sê-ra-gia, Rê-ê-la-gia, Mạc-đô-chê, Binh-san, Biệt-vai, Rê-hum, và Ba-a-na.Đây là số những người nam trong Y-sơ-ra-ên. Con cháu Pha-rốt con cháu Sê-pha-tia con cháu A-ra con cháu Pha-hát Mô-áp, nghĩa là con cháu của Giê-sua và Giô-áp con cháu Ê-lam con cháu Xát-tu con cháu Xác-cai con cháu Ba-ni con cháu Bê-bai con cháu A-gát con cháu A-đô-ni-cam con cháu Biệt-vai con cháu A-đin con cháu A-te, nghĩa là con cháu Ê-xê-chia con cháu Bết-sai con cháu Giô-ra con cháu Ha-sum con cháu Ghi-ba người Bết-lê-hem người Nê-tô-pha người A-na-tốt người Ách-ma-vết người Ki-ri-át A-rim, Kê-phi-ra, và Bê-ê-rốt người Ra-ma và Ghê-ba người Mích-ma người Bê-tên và A-hi người Nê-bô người Mạc-bích con cháu Ê-lam khác con cháu Ha-rim người Lô-đô, Ha-đi và Ô-nô người Giê-ri-cô người Sê-na Thầy tế lễcon cháu Giê-đa-gia, thuộc gia tộc Giê-sua973 con cháu Y-mê con cháu Phát-hua con cháu Ha-rim Người Lê-vi:con cháu Giê-sua và Cát-mi-ên,nghĩa là con cháu Hô-đa-via74 Ca nhạc sĩ:con cháu A-sáp128 Người gác cổng:con cháuSa-lum, A-te, Tanh-môn,A-cúp, Ha-ti-ta, Sô-bai139 Người phục dịch đền thờ:con cháuXi-ha, Ha-su-pha, Ta-ba-ốt, Kê-rốt, Sia-ha, Pha-đôn, Lê-ba-na, Ha-ga-ba, A-cúp, Ha-gáp, Sâm-lai, Ha-nan, Ghi-đên, Ga-ha-rơ, Rê-a-gia, Rê-xin, Nê-cô-đa, Ga-xam, U-xa, Pha-sê-a, Bê-sai, A-sê-na, Mê-u-nim, Nê-phu-sim, Bạc-búc, Ha-khu-pha, Hát-hưa, Bạt-lút, Mê-hi-đa, Hát-sa, Bạt-cốt, Si-sê-ra, Tha-mác, Nê-xia, Ha-ti-pha. Con cháu những người nô lệ từ đời Sa-lô-môn:con cháuSô-tai, Hạt-sô-phê-rết, Phê-ru-đa, Gia-a-la, Đạt-côn, Ghi-đên, Sê-pha-tia, Hát-tinh, Bô-kê-rết Ha-xê-ba-im, A-mi. Tổng cộng những người phục dịch đền thờ và con cháu những người nô lệ từ đời Sa-lô-môn Những người sau đây trở về từ Tên Mê-la, Tên Hát-sa, Kê-rúp, A-đan, và Y-mê, nhưng họ không thể chứng minh qua gia tộc hoặc dòng dõi rằng họ thuộc về dân sự Y-sơ-ra-ên; con cháu Đê-la-gia, Tô-bi-gia, Nê-cô-đa Về phía những thầy tế lễ:con cháuHô-bai-gia, Ha-cốt, Bát-xi-lai (ông này cưới một trong những cô con gái của Bát-xi-lai, người Ga-la-át, nên người ta gọi ông theo tên cha vợ). Những người này tìm tên họ trong danh sách những người đăng ký theo gia phả, nhưng không tìm được, nên bị kể là ô uế và truất khỏi chức tế lễ. Quan tổng đốc cấm họ dùng thức ăn chí thánh cho đến khi nào có thầy tế lễ dùng U-rim và Thu-mim cầu hỏi Đức Chúa Trời. Toàn thể hội chúng tổng cộng là 42.360 người. Ngoài ra, có 7.337 nam nữ gia nhân và 200 nam nữ ca sĩ, 736 con ngựa, 245 con la, 435 con lạc đà, và 6.720 con lừa. Khi về đến đền thờ Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem, một số các trưởng tộc tự nguyện dâng hiến tài vật vào đền Đức Chúa Trời để dựng lại đền thờ trên nền cũ. Tùy theo khả năng, họ dâng vào quỹ xây cất 500kg vàng, 3 tấn bạc, và 100 bộ lễ phục cho các thầy tế lễ. Các thầy tế lễ, người Lê-vi, và một số thường dân định cư tại Giê-ru-sa-lem, còn những ca nhạc sĩ, những người gác cổng, và những người phục dịch đền thờ định cư trong thành mình. Vậy toàn thể dân Y-sơ-ra-ên định cư trong thành mình. Đến tháng bảy, sau khi dân Y-sơ-ra-ên đã định cư trong thành mình, toàn dân họp lại như một người tại Giê-ru-sa-lem. Bấy giờ, Giê-sua, con trai Giô-xa-đác, cùng với các thầy tế lễ khác, và Xô-rô-ba-bên, con trai Sa-anh-thi-ên, cùng anh em ông, khởi sự xây cất bàn thờ cho Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên để dâng tế lễ thiêu trên ấy, theo như đã chép trong Kinh Luật Môi-se, người của Đức Chúa Trời. Họ dựng bàn thờ trên vị trí cũ, vì họ sợ dân trong vùng, và họ dâng tế lễ thiêu cho CHÚA trên bàn thờ ấy, dâng tế lễ thiêu buổi sáng và buổi chiều. Họ cử hành lễ lều tạm, y như đã chép, và mỗi ngày, dâng tế lễ thiêu theo số quy định cho ngày ấy; kế đến, họ dâng tế lễ thiêu thường lệ, tế lễ thiêu ngày trăng non, tế lễ thiêu trong tất cả những dịp lễ thánh của Đức Chúa Trời, và tế lễ thiêu của mỗi người tự nguyện dâng hiến cho Đức Chúa Trời. Họ khởi sự dâng tế lễ thiêu cho Đức Chúa Trời từ ngày mồng một tháng bảy, mặc dù lúc ấy nền đền thờ Đức Chúa Trời chưa đặt. Vậy họ trao bạc cho thợ đẽo đá và thợ thủ công, và cung cấp thức ăn, thức uống và dầu cho dân Si-đôn và dân Ty-rơ để cho gỗ bách hương từ Li-ban về cảng Gióp-bê bằng đường biển, theo chiếu chỉ Si-ru vua Ba-tư cấp cho họ. Năm thứ hai sau khi họ về đến đền thờ Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem, vào tháng hai, Xô-rô-ba-bên, con trai Sa-anh-thi-ên, và Giê-sua, con trai Giô-xa-đác, cùng với hết thảy anh em còn lại, những thầy tế lễ, người Lê-vi, và tất cả những người phu tù trở về Giê-ru-sa-lem khởi sự xây cất. Họ lập người Lê-vi từ hai mươi tuổi trở lên giám sát công việc xây cất đền thờ CHÚA. Giê-sua, các con trai và anh em ông, với Cát-mi-ên, Bin-nui, con trai Hê-na-đát, cùng con cháu và anh em họ, người Lê-vi, họp lại như một người giám sát những người làm công tác xây cất đền thờ Đức Chúa Trời. Khi thợ xây cất đặt nền đền thờ Đức Chúa Trời, những thầy tế lễ mặc lễ phục đứng thổi kèn, và những người Lê-vi, con cháu A-sáp, đánh chập chỏa, tôn vinh CHÚA, theo nghi thức Đa-vít vua Y-sơ-ra-ên quy định. Họ hát đối đáp, tôn vinh và cảm tạ Đức Chúa Trời:“Thật Chúa thiện mỹ,Tình yêu Ngài đối với Y-sơ-ra-ên bền vững muôn đời.”Rồi toàn dân reo lớn tiếng tôn vinh Đức Chúa Trời vì đền thờ Đức Chúa Trời đã đặt xong nền. Nhưng có nhiều thầy tế lễ, người Lê-vi, và trưởng tộc, những bậc lão thành đã từng thấy đền thờ trước kia trên nền cũ, đó chính thật là đền thờ theo mắt họ, khóc lớn tiếng, trong khi nhiều người khác reo lớn tiếng vui mừng, cho nên người ta không thể phân biệt tiếng reo vui với tiếng khóc, vì dân sự kêu lớn tiếng, từ xa vẫn nghe được. Khi kẻ thù của Giu-đa và Bên-gia-min nghe tin những người lưu đày trở về đang xây cất đền thờ CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, họ đến thưa với Xô-rô-ba-bên và các trưởng tộc: “Xin cho chúng tôi xây cất chung với các ông, vì chúng tôi cũng tìm cầu Đức Chúa Trời các ông y như các ông, và chúng tôi vẫn dâng lễ vật cho Ngài từ ngày Ê-sa-ha-đôn vua A-si-ri đem chúng tôi đến đây.” Nhưng Xô-rô-ba-bên, Giê-sua, và các trưởng tộc khác của Y-sơ-ra-ên đáp lời chúng: “Các ông không được dự phần với chúng tôi trong việc xây cất đền thờ Đức Chúa Trời chúng tôi, chỉ riêng chúng tôi có trách nhiệm xây cất đền thờ CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, theo như Si-ru vua Ba-tư ra lệnh cho chúng tôi.” Vậy, dân trong vùng làm cho dân Giu-đa ngã lòng, nhát sợ không dám xây cất nữa; họ mua chuộc chính quyền chống đối và phá hoại dự án xây cất của dân Giu-đa suốt thời gian còn lại dưới triều Si-ru vua Ba-tư cho đến thời Đa-ri-út làm vua Ba-tư. Đến đời vua A-suê-ru, khi vua khởi sự trị vì, họ viết một bản cáo trạng tố dân cư Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. Dưới đời Át-ta-xét-xe, Bích-lam, Mít-rê-đát, Ta-bê-ên, và các cộng sự viên khác của ông viết sớ tâu lên Át-ta-xét-xe, vua Ba-tư. Sớ viết bằng tiếng A-ram, và dịch ra cho vua. Sau đây, đại biểu triều đình Rê-hum và bí thư Sim-sai viết sớ chống đối Giê-ru-sa-lem tâu lên vua Át-ta-xét-xe, như sau: đại biểu triều đình Rê-hum, bí thư Sim-sai, và các cộng sự viên khác, các vị thẩm phán và cộng sự giữa vòng người Tạt-bên, người Ba-tư, người Ê-rết, người Ba-by-lôn, người Su-sa, tức là người Ê-lam, và những sắc dân khác mà vua Ô-náp-ba vĩ đại và cao trọng đưa đến lập nghiệp tại thành Sa-ma-ri và các nơi khác trong tỉnh phía tây sông. Đây là bản sao tờ sớ họ trình lên vua:“Tôi tớ vua, trong tỉnh phía tây sông, kính tâu vua Át-ta-xét-xe. Giờ đây, chúng tôi xin tâu bệ hạ rõ những người Do Thái từ nơi bệ hạ đi lên về hướng chúng tôi đã đến thành Giê-ru-sa-lem. Chúng đang xây lại thành phản loạn và độc ác này, và sắp sửa hoàn tất vách thành, còn nền móng đã xây xong. Do đó, chúng tôi xin tâu bệ hạ rõ, nếu thành này xây xong, và vách thành hoàn tất, chúng sẽ không nạp cống, đóng thuế quan, thuế đất cho bệ hạ nữa, và hậu quả là thiệt hại cho ngân khố triều đình. Vì chúng tôi hưởng lộc triều đình, chúng tôi không thể bàng quan chứng kiến cảnh bệ hạ bị xúc phạm như thế, nên chúng tôi dâng sớ tâu bệ hạ rõ, xin bệ hạ cho truy cứu sách sử đời các vua cha. Trong sách sử, bệ hạ sẽ khám phá được và xác minh rằng thành này là một thành hay phản nghịch, chuyên gây thiệt hại cho các vua và các tỉnh. Dân thành đã từng dấy loạn từ xưa. Vì cớ đó mà thành này bị phá đổ hoang tàn. Chúng tôi xin tâu bệ hạ rõ, nếu thành này xây xong, và vách thành hoàn tất, bấy giờ bệ hạ sẽ không còn phần đất nào bên phía tây sông nữa.” Vua giáng chiếu phúc đáp:“Gởi đại biểu triều đình Rê-hum, bí thư Sim-sai và các cộng sự viên khác đang sống tại Sa-ma-ri và các nơi khác trong tỉnh phía tây sông.Chúc các khanh bình an. Tờ sớ các khanh dâng lên đã đọc ra đúng nguyên văn trước mặt ta. Ta đã ra lệnh truy cứu và khám phá được rằng thành này từ xưa đã từng nổi dậy chống nghịch các vua. Phản nghịch và dấy loạn thường xuyên xảy ra trong thành. Có những vua hùng mạnh cai trị Giê-ru-sa-lem và khắp cả vùng phía tây sông, và người ta đã từng nạp cống và đóng thuế quan, thuế đất cho các vua ấy. Vì thế các khanh hãy ra lệnh cho các người đó ngưng việc xây cất thành này cho đến khi ta ban lệnh mới. Các khanh hãy thận trọng, đừng chểnh mảng trong công tác này, kẻo việc rủi ro này gây thiệt hại cho triều đình.” Rê-hum, bí thư Sim-sai, và những cộng sự viên vừa nghe đọc xong bản sao tờ chiếu của vua Át-ta-xét-xe, liền hối hả đến Giê-ru-sa-lem, dùng cường quyền cưỡng bức người Do Thái đình chỉ việc xây cất. Thế là công tác xây cất đền thờ Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem đình lại, và đình trệ luôn cho đến năm thư hai đời Đa-ri-út vua Ba-tư. Bây giờ, tiên tri Ha-gai và tiên tri Xa-cha-ri, con trai Y-đô, rao truyền lời Chúa cho người Do Thái ở Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, trong danh Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Đấng cầm quyền trên họ. Ngày sau đó, Xô-rô-ba-bên, con trai Sa-anh-thi-ên, và Giê-sua, con trai Giô-xa-đác, khởi sự xây lại đền thờ Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem. Các tiên tri của Đức Chúa Trời ở cùng họ và ủng hộ họ. Lúc ấy, Tạc-tê-nai, thống đốc tỉnh phía tây sông, và Sê-ta-bô-xê-nai, cùng các cộng sự viên đến tra vấn họ như sau: “Ai cho phép các ông xây đền này và hoàn tất công việc lắp ráp vật liệu này?” Chúng cũng hỏi thêm: “Những người xây cất đền này tên gì?” Nhưng Đức Chúa Trời che chở các trưởng lão dân Do Thái, nên chúng buộc họ đình việc trong khi chúng báo cáo lên vua Đa-ri-út và sau đó, nhận chiếu vua gọi xuống về vấn đề này. Đây là bản sao tờ sớ mà Tạc-tê-nai, thống đốc tỉnh phía tây sông, và Sê-ta-bô-xê-nai, cùng các cộng sự viên, các thanh tra trong tỉnh phía tây sông, tâu lên vua Đa-ri-út. Họ tâu lên vua bản báo cáo, trong đó có viết như sau: “Tâu vua Đa-ri-út, kính chúc vạn sự bình an! Chúng tôi xin tâu bệ hạ rõ, chúng tôi có đến tỉnh Giu-đa, đến đền thờ của Đức Chúa Trời vĩ đại. Chúng tôi thấy các trưởng lão dân Do Thái đang xây lại đền bằng đá đẽo và lắp gỗ vào tường. Công tác thi hành cách nghiêm túc và đang xúc tiến tốt đẹp. Kế đến, chúng tôi tra hỏi các trưởng lão này, chúng tôi hỏi họ như sau: ‘Ai cho phép các ông xây đền này, và hoàn tất công việc lắp ráp vật liệu này?’ Chúng tôi cũng hỏi tên họ nhằm mục đích trình lên bệ hạ rõ tên những người lãnh đạo họ. Và đây là lời họ đáp lại chúng tôi: ‘Chúng tôi là tôi tớ của Đức Chúa Trời, Chủ Tể trời và đất. Chúng tôi đang xây lại đền thờ đã được xây cất cách đây nhiều năm lắm rồi. Một vị vua vĩ đại của Y-sơ-ra-ên đã xây và hoàn tất đền thờ. Những vị tổ tiên chúng tôi chọc giận Đức Chúa Trời trên trời, nên Ngài giao họ vào tay Nê-bu-cát-nết-sa, người Canh-đê, vua Ba-by-lôn. Vua phá hủy đền thờ này và đày dân sự qua Ba-by-lôn. Tuy nhiên, vào năm thứ nhất đời Si-ru, vua Ba-by-lôn, vua Si-ru ban chiếu chỉ xây lại đền thờ này của Đức Chúa Trời. Ngoài ra, vua Si-ru cũng đem ra khỏi miếu ở Ba-by-lôn những dụng cụ bằng vàng và bạc trong đền thờ Đức Chúa Trời, mà Nê-bu-cát-nết-sa đã đem ra khỏi đền thờ tại Giê-ru-sa-lem và đem về miếu ở Ba-by-lôn. Vua Si-ru giao trả những dụng cụ ấy cho một người tên Sết-ba-xa mà vua lập lên làm tổng trấn.’ Vua truyền bảo ông: ‘Hãy đem các dụng cụ này về đặt trong đền thờ tại Giê-ru-sa-lem, và xây lại đền thờ Đức Chúa Trời tại vị trí cũ.’ Chính ông Sết-ba-xa ấy đến đặt nền đền thờ Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem. Từ đấy đến nay, đền thờ vẫn được xây cất, nhưng chưa hoàn tất. Vậy bây giờ, nếu bệ hạ đẹp lòng, kính xin bệ hạ cho truy cứu trong văn khố tại triều đình, tại đây, ở Ba-by-lôn, xem vua Si-ru có ban chiếu chỉ xây cất đền thờ này của Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem không. Kính xin bệ hạ cho chúng tôi biết tôn ý trong vấn đề này.” Bấy giờ, vua Đa-ri-út ra lệnh truy cứu trong văn khố, nơi lưu trữ các văn kiện quý, tại Ba-by-lôn. Nhưng chính tại trong thành lũy Éc-ba-tan, thuộc tỉnh Mê-đi, người ta mới tìm thấy một cuốn da, trong đó có ghi chép như sau: “Điều cần nhớ. Năm thứ nhất đời vua Si-ru, vua Si-ru ban sắc lệnh về đền Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem. Phải xây lại đền ngay tại nơi người ta thường dâng lễ vật, và phải đắp cho vững chắc nền cũ của đền. Chiều cao đền là 27m, chiều rộng 27m, với ba dẫy đá đẽo và một dẫy xà gỗ. Phí tổn do ngân khố triều đình đài thọ. Ngoài ra, phải trả lại các dụng cụ bằng vàng và bạc trong đền thờ Đức Chúa Trời mà Nê-bu-cát-nết-sa đã đem ra khỏi đền tại Giê-ru-sa-lem và mang về Ba-by-lôn. Phải đem các dụng cụ ấy về đền tại Giê-ru-sa-lem, đặt mỗi dụng cụ vào chổ riêng của nó trong đền Đức Chúa Trời.” “Vậy, bây giờ, Tạc-tê-nai, thống đốc tỉnh phía tây sông, Sê-ta-bô-xê-nai, và các thanh tra cộng sự viên của các người trong tỉnh phía tây sông, hãy tránh xa nơi đó. Hãy để yên công tác xây cất đền này của Đức Chúa Trời. Hãy để tổng trấn dân Do Thái và các trưởng lão dân Do Thái xây lại đền của Đức Chúa Trời tại vị trí cũ. Ta cũng ban hành sắc lệnh về điều các ngươi cần phải làm cho các trưởng lão của dân Do Thái đối với công tác xây cất đền của Đức Chúa Trời: Phải dùng số thu nhập của triều đình từ các phần công thuế trong tỉnh phía tây sông mà trả đầy đủ mọi chi phí cho các người này, để công việc khỏi bị đình trệ. Bất cứ điều chi họ cần, như là bò tơ đực, cừu đực, hoặc cừu con, dê dâng tế lễ thiêu cho Đức Chúa Trời trên trời, hoặc lúa mì, muối, rượu, và dầu, thể theo lời yêu cầu của các thầy tế lễ tại Giê-ru-sa-lem, các ngươi phải cung cấp cho họ hằng ngày, không thiếu chi hết, để họ dâng lễ vật vừa ý Đức Chúa Trời trên trời, và cầu nguyện cho vua và các hoàng tử được sống lâu. Ta cũng ban lệnh, nếu ai vi phạm chiếu chỉ này, phải rút một cây đòn tay từ nhà hắn ra, đâm thẳng đứng vào người hắn, và nhà hắn sẽ bị tịch thu vì cớ tội ấy. Cầu xin Đức Chúa Trời, là Đấng khiến danh Ngài ngự tại đây, lật đổ vua nào hoặc dân tộc nào liều lĩnh vi phạm sắc lệnh hoặc phá hủy đền thờ này của Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem. Ta, Đa-ri-út, ban hành sắc lệnh này. Mỗi người phải chấp hành triệt để.” Tạc-tê-nai, thống đốc tỉnh phía tây sông, Sê-ta-bô-xê-nai, và các cộng sự viên triệt để thi hành sắc lệnh vua Đa-ri-út ban xuống. Vậy các trưởng lão dân Do Thái tiếp tục xây cất. Công việc tiến triển tốt đẹp nhờ sự rao truyền lời Chúa của tiên tri Ha-gai và tiên tri Xa-cha-ri, con trai Y-đô. Họ hoàn tất công việc xây cất theo mệnh lệnh Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, và theo chiếu chỉ của Si-ru, Đa-ri-út, và Át-ta-xét-xe, vua Ba-tư. Đền thờ cất xong vào ngày 23 tháng A-đa, trong năm thứ sáu đời vua Đa-ri-út. Dân Y-sơ-ra-ên, các thầy tế lễ, những người Lê-vi, và hết thảy những người lưu đày khác hồi hương vui mừng tổ chức lễ khánh thành đền thờ Đức Chúa Trời. Trong dịp lễ khánh thành đền thờ của Đức Chúa Trời, họ dâng 100 bò đực, 200 cừu đực, 400 cừu con, và, tùy theo số các chi tộc Y-sơ-ra-ên, mười hai dê đực làm tế lễ chuộc tội cho toàn dân Y-sơ-ra-ên. Họ lập các thầy tế lễ theo từng ban, và những người Lê-vi theo từng ngành để phục vụ đền thờ Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem, y như có chép trong Kinh Luật Môi-se. Ngày 14 tháng giêng, những người lưu đày hồi hương giữ lễ Vượt Qua, vì các thầy tế lễ đã dọn mình thánh sạch, và toàn thể những người Lê-vi cũng đồng lòng dọn mình thánh sạch. Họ giết cừu con lễ Vượt Qua cho tất cả những người lưu đày hồi hương, cho anh em họ là thầy tế lễ, và cho chính họ. Những người ăn lễ Vượt Qua là dân Y-sơ-ra-ên lưu đày hồi hương cùng với hết thảy những người nào đã biệt mình riêng ra khỏi sự ô uế của dân địa phương để tìm cầu CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Họ cũng vui mừng giữ lễ bánh không men trong bảy ngày, vì Đức Chúa Trời ban niềm vui cho họ, Ngài đổi lòng vua A-si-ri đối với họ, khiến vua giúp đỡ họ trong công tác xây cất đền thờ CHÚA, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Sau các việc ấy, nhằm đời Át-ta-xét-xe, vua Ba-tư, có Ê-xơ-ra, là con trai Sê-ra-gia, Sê-ra-gia con trai A-xa-ria, A-xa-ria con trai Hinh-kia, Hinh-kia con trai Sa-lum, Sa-lum con trai Xa-đốc, Xa-đốc con trai A-hi-túp, A-hi-túp con trai A-ma-ria, A-ma-ria con trai A-xa-ria, A-xa-ria con trai Mê-ra-giốt, Mê-ra-giốt con trai Xê-ra-hi-gia, Xê-ra-hi-gia con trai U-xi, U-xi con trai Bu-ki, Bu-ki con trai A-bi-sua, A-bi-sua con trai Phi-nê-a, Phi-nê-a con trai Ê-lê-a-sa, Ê-lê-a-sa con trai A-rôn, thầy tế lễ đầu tiên. Chính Ê-xơ-ra này trở về từ Ba-by-lôn. Ông là một học giả, thông thạo Kinh Luật Môi-se do CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên ban truyền. Nhờ CHÚA, là Đức Chúa Trời của ông, phù hộ, nên vua ban cho ông mọi điều ông thỉnh cầu. Một số thường dân Y-sơ-ra-ên, một số thầy tế lễ, người Lê-vi, ca nhạc sĩ, người gác cổng, và người phục dịch đền thờ cùng trở lên Giê-ru-sa-lem trong năm thứ bảy đời vua Át-ta-xét-xe. Ê-xơ-ra về đến Giê-ru-sa-lem vào tháng năm, trong năm thứ bảy triều vua, vì ông đã ấn định chuyến đi khởi hành từ Ba-by-lôn vào ngày mồng một tháng giêng, và ông về đến Giê-ru-sa-lem vào ngày mồng một tháng năm, nhờ Đức Chúa Trời nhân từ của ông phù hộ. Thật vậy, Ê-xơ-ra chuyên tâm nghiên cứu và thực hành luật pháp Đức Chúa Trời, cũng như dạy dỗ đạo luật và quy chế Ngài cho dân Y-sơ-ra-ên. Đây là bản sao chiếu chỉ vua Át-ta-xét-xe ban cho Ê-xơ-ra, thầy tế lễ và học giả thông thạo những vấn đề liên quan đến điều răn và đạo luật Đức Chúa Trời truyền cho Y-sơ-ra-ên. Át-ta-xét-xe, vua các vua, gởi cho Ê-xơ-ra, thầy tế lễ và học giả thông thạo luật pháp của Đức Chúa Trời trên trời, Chúa bình an. Và giờ đây, ta ban hành sắc lệnh, bất kỳ ai trong vương quốc ta, dù là thường dân Y-sơ-ra-ên, hoặc thầy tế lễ, hoặc người Lê-vi, tình nguyện trở về Giê-ru-sa-lem với người, đều được phép trở về, vì vua và bảy vị quân sư sai người đi điều tra về tình hình Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, dựa theo luật pháp của Đức Chúa Trời mà người thông thạo. Người phải đem theo bạc và vàng mà vua và các quân sư tình nguyện hiến dâng cho Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Đấng lập nơi ngự Ngài tại Giê-ru-sa-lem, cùng với hết thảy bạc vàng mà người thu thập được trong cả tỉnh Ba-by-lôn, luôn cả lễ vật mà dân sự và thầy tế lễ tình nguyện dâng hiến cho đền thờ Đức Chúa Trời họ tại Giê-ru-sa-lem. Kế đến, ngươi hãy dùng tiền ấy mua đầy đủ bò đực, cừu đực và cừu con, cùng lễ vật bằng ngũ cốc và rượu tương xứng đem dâng trên bàn thờ trong đền thờ Đức Chúa Trời các ngươi tại Giê-ru-sa-lem. Bạc vàng còn lại, ngươi và anh em ngươi được phép sử dụng theo ý các ngươi cho là tốt nhất, hợp với ý Đức Chúa Trời các ngươi. Về phần các dụng cụ đã giao cho ngươi để dùng vào sự thờ phượng trong đền thờ Đức Chúa Trời ngươi, ngươi hãy hoàn lại đầy đủ trước mặt Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem. Còn những gì cần thiết khác cho đền thờ Đức Chúa Trời ngươi, mà ngươi có trách nhiệm cung cấp, ngươi được phép sử dụng ngân khố triều đình để cung cấp. Ta, vua Át-ta-xét-xe, ra sắc lệnh truyền cho các giám đốc ngân khố tỉnh phía tây sông: Bất kỳ điều gì Ê-xơ-ra, thầy tế lễ và học giả thông thạo luật của Đức Chúa Trời trên trời, cần nơi các ngươi, các ngươi hãy cung cấp đầy đủ, cho đến tối đa 3.50 tấn bạc, 22.000l lúa mì, 2.100l rượu, 2.100l dầu, còn muối, không hạn chế. Bất cứ điều gì Đức Chúa Trời trên trời truyền dạy, các ngươi hãy thực hiện chu đáo cho đền của Đức Chúa Trời trên trời, e tai họa giáng xuống vương quốc của vua và các hoàng tử. Ta cũng truyền cho các ngươi biết rõ, các ngươi không được phép buộc bất cứ thầy tế lễ hoặc người Lê-vi, ca nhạc sĩ, người gác cổng, người phục dịch đền thờ, hoặc những người khác phục vụ trong đền thờ này của Đức Chúa Trời, nạp công hoặc đóng thuế quan, thuế đất gì cả. Còn ngươi, Ê-xơ-ra, theo sự khôn ngoan Đức Chúa Trời ban cho ngươi, hãy chỉ định thẩm phán, và viên chức để xét xử toàn dân trong tỉnh phía tây sông, nghĩa là toàn thể những người nào biết luật lệ của Đức Chúa Trời ngươi, còn những người nào không biết thì các ngươi phải dạy cho họ. Có ai bất tuân luật Đức Chúa Trời và luật vua, phải xử trị nghiêm khắc, bằng án tử hình, nhục hình, tịch biên tài sản, hoặc giam cầm. Ngợi khen Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời của tổ tiên ta, Ngài đã đặt vào lòng vua ý muốn sửa sang cho đẹp đền thờ Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem, và cho tôi được lòng vua, các quân sư, và hết thảy các quan chức quyền thế của vua. Về phần tôi, nhờ CHÚA, Đức Chúa Trời tôi, phù hộ, nên tôi thu hết can đảm triệu tập những người lãnh đạo giữa vòng dân Y-sơ-ra-ên để cùng tôi hồi hương. Đây là tên và gia phả các trưởng tộc cùng trở về với tôi từ Ba-by-lôn, dưới đời vua Át-ta-xét-xe: Ghẹt-sôn, thuộc con cháu Phi-nê-a; Đa-ni-ên, thuộc con cháu Y-tha-ma; Hát-túc, con trai Sê-ca-nia, thuộc con cháu Đa-vít; Xa-cha-ri, thuộc con cháu Pha-rốt; có 150 người nam ghi danh cùng với Xa-cha-ri; Ê-li-ô-ê-nai, con trai Xê-ra-hi-gia, thuộc con cháu Pha-hát Mô-áp; cùng với Ê-li-ô-ê-nai có 200 người nam; Sê-ca-nia, con trai Gia-ha-xi-ên, thuộc con cháu Xát-tu; cùng với Sê-ca-nia có 300 người nam; Ê-bết, con trai Giô-na-than, thuộc con cháu A-đin; cùng với Ê-bết có 50 người nam; Giê-sai-gia, con trai A-tha-li, thuộc con cháu Ê-lam; cùng với Giê-sai-gia có 70 người nam; Xê-ba-đia; con trai Mi-ca-ên, thuộc con cháu Sê-pha-tia; cùng với Xê-ba-đia có 80 người nam; Ô-ba-đia, con trai Giê-hi-ên, thuộc con cháu Giô-áp, cùng với Ô-ba-đia có 218 người nam; Sê-lô-mốt, con trai Giô-si-phia, thuộc con cháu Ba-ni; cùng với Sê-lô-mốt có 160 người nam; Xa-cha-ri, con trai Bê-bai, thuộc con cháu Bê-bai; cùng với Xa-cha-ri có 28 người nam; Giô-ha-nan, con trai Ha-ca-tan, thuộc con cháu A-gát; cùng với Giô-ha-nan có 110 người nam; Ê-li-phê-lết, Giê-i-ên, và Sê-ma-gia, những người cuối cùng thuộc con cháu A-đô-ni-cam; cùng với họ có 60 người nam; U-thai, con trai Xáp-bút, thuộc con cháu Biệt-vai; cùng với U-thai có 70 người nam. Tôi tập họp họ bên bờ kinh chảy về A-ha-va; chúng tôi cắm trại tại đây trong ba ngày. Khi tôi kiểm điểm nhân số, thấy chỉ có thường dân và thầy tế lễ, còn người Lê-vi, không thấy ai tại đây cả. Vậy tôi cho mời các nhà lãnh đạo Ê-li-ê-se, A-ri-ên, Sê-ma-gia; En-na-than, Gia-ríp, En-na-than, Na-than, Xa-cha-ri, và Mê-su-lam, và các giáo sư Giô-gia-ríp và Ên-na-than. Tôi cử họ đến gặp Y-đô, một nhà lãnh đạo tại nơi gọi là Ca-si-phia, và tôi dạy họ truyền cho Y-đô, anh em ông, và những người phục dịch đền thờ gửi đến cho chúng tôi những người phục vụ đền thờ Đức Chúa Trời chúng tôi. Nhờ Đức Chúa Trời nhân từ chúng tôi phù hộ, họ gửi đến chúng tôi một người tài giỏi, thuộc con cháu Mách-li, con Lê-vi, cháu Y-sơ-ra-ên, tên là Sê-rê-bia, cùng với các con trai ông và anh em ông; cả thảy 18 người; họ cũng gửi Ha-sa-bia, và cùng với ông, Giê-sa-gia, thuộc con cháu Mê-ra-ri, với anh em ông và các con trai họ, cả thảy 20 người; còn những người phục dịch đền thờ mà Đa-vít và quần thần lập lên phụ tá người Lê-vi, có 220 người phục dịch đền thờ, cả thảy đều có tên ghi trong danh sách. Tại đây, bên kinh A-ha-va, tôi rao truyền kiêng ăn để chúng tôi hạ mình xuống trước mặt Đức Chúa Trời chúng tôi, và cầu xin Ngài cho chúng tôi, con cái chúng tôi, và mọi tài sản chúng tôi đi đường bình an; thật vậy, tôi xấu hổ không dám xin vua cho quân đội và kỵ binh theo hộ tống để bảo vệ chúng tôi khỏi kẻ thù lúc đi đường, vì chúng tôi có tâu với vua: “Đức Chúa Trời chúng tôi phù hộ mọi người tìm cầu Ngài, nhưng cơn phẫn nộ mãnh liệt của Ngài giáng xuống mọi người từ bỏ Ngài.” Vì thế, chúng tôi kiêng ăn và tìm cầu Đức Chúa Trời chúng tôi về điều ấy, và Ngài đáp lời khẩn xin của chúng tôi. Kế đó, trong số các thầy tế lễ lãnh đạo, tôi để riêng mười hai người, cùng với Sê-rê-bia và Ha-sa-bia, và mười người trong vòng các anh em họ. Tôi cân và trao cho họ bạc, vàng, các dụng cụ, là lễ vật mà vua, các quân sư, và quần thần vua, và hết thảy dân Y-sơ-ra-ên hiện diện lúc bấy giờ dâng cho đền thờ Đức Chúa Trời chúng tôi. Tôi cân và trao cho họ cất giữ 22 tấn bạc, 100 dụng cụ bạc nặng... 3.40 tấn vàng, 20 chén vàng trị giá 1.000 đa-riếc, và hai dụng cụ bằng đồng tốt bóng ngời, quý như vàng. Tôi nói với họ: “Các ông là người biệt riêng ra cho Đức Chúa Trời, các dụng cụ cũng được biệt riêng ra, còn bạc vàng là lễ vật tự nguyện dâng hiến cho Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời của tổ phụ chúng ta. Xin các ông cất giữ cẩn thận cho đến khi các ông cân lại các lễ vật này trước mặt các thầy tế lễ lãnh đạo, người Lê-vi, và các trưởng tộc dân Y-sơ-ra-ên tại Giê-ru-sa-lem, trong kho đền thờ Đức Chúa Trời.” Vậy các thầy tế lễ và người Lê-vi nhận số lượng bạc, vàng và dụng cụ để mang về Giê-ru-sa-lem, về đền thờ Đức Chúa Trời chúng tôi. Ngày 12 tháng giêng, chúng tôi khởi hành từ kinh A-ha-va lên đường về Giê-ru-sa-lem. Đức Chúa Trời chúng tôi phù hộ chúng tôi và giải cứu chúng tôi khỏi tay kẻ thù rình rập dọc đường. Chúng tôi về đến Giê-ru-sa-lem, và nghỉ ngơi Qua ngày thứ tư, chúng tôi cân bạc, vàng, và các dụng cụ trong đền thờ Đức Chúa Trời chúng tôi và giao cho Mê-rê-mốt, con trai thầy tế lễ U-ri-gia, cất giữ. Cũng có mặt Ê-lê-a-sa, con trai Phi-nê-a, và những người Lê-vi, Giô-xa-bát, con trai Giê-sua, và Nô-a-đia, con trai Bin-nui. Chúng tôi đếm và cân từng món cho đến hết, và ghi chép tổng số trọng lượng ngay lúc ấy. Những người lưu đày hồi hương dâng tế lễ thiêu cho Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên gồm có 12 bò đực cho toàn dân Y-sơ-ra-ên, 96 cừu đực, 72 cừu con, và 12 dê đực làm lễ vật chuộc tội. Tất cả là tế lễ thiêu dâng lên cho CHÚA. Họ cũng truyền lệnh vua lại cho các viên chức triều đình trong tòa thống đốc và các tổng trấn trong tỉnh phía tây sông; vì thế, những người này hỗ trợ dân chúng và đền thờ Đức Chúa Trời. Khi các việc ấy xong rồi, các nhà lãnh đạo đến nói với tôi: “Dân Y-sơ-ra-ên, các thầy tế lễ, và người Lê-vi không có sống tách biệt khỏi dân địa phương, là dân có những tập tục ghê tởm như tập tục của dân Ca-na-an, Hết, Phê-rết, Giê-bút, Am-môn, Mô-áp, Ai-cập, và A-mô. Họ cưới con gái địa phương cho chính mình hoặc con mình làm vợ, cho nên dòng giống thánh pha trộn với dân địa phương. Hơn nữa, những người đầu tiên phạm tội bất trung này lại là các nhà lãnh đạo và quan chức.” Nghe tin ấy, tôi xé cả áo trong lẫn áo ngoài, Tất cả những người nào run sợ khi nghe lời của Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên từ từ họp lại chung quanh tôi vì cớ tội bất trung của những người lưu đày hồi hương. Tôi tiếp tục ngồi bàng hoàng cho đến giờ dâng tế lễ thiêu buổi chiều. Đến giờ dâng tế lễ thiêu buổi chiều, tôi đứng dậy khỏi nơi tôi ngồi bàng hoàng chịu khổ nhục, người vẫn còn mặc bộ áo xé rách khi trước, tôi quỳ xuống, dang tay hướng về CHÚA, Đức Chúa Trời tôi, và thưa cùng Ngài:“Lạy Đức Chúa Trời, con xấu hổ và nhục nhã quá, không dám ngước mặt lên về phía Ngài, ôi lạy Đức Chúa Trời, vì tội chúng con chất ngập đầu, và lỗi chúng con lên đến tận trời. Từ đời tổ tiên chúng con cho đến ngay chính hôm nay, chúng con đã sống trong tội lỗi đầy dẫy. Vì cớ sự gian ác của chúng con nên chúng con, các vua và thầy tế lễ của chúng con đều bị phó vào tay các vua nước ngoài, phó cho gươm dao; tù đày, cướp bóc, và sỉ nhục, như tình cảnh hiện nay. Nhưng bây giờ, Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời chúng con, ban ơn cho chúng con trong một thời gian ngắn: Ngài chừa lại cho chúng con một số người sống sót hồi hương, và ban cho chúng con một nơi tựa vững chắc trong nơi thánh, nhờ đó, Đức Chúa Trời chúng con khiến chúng con sáng mắt lên và phấn khởi phần nào trong kiếp nô lệ. Thật vậy, chúng con là nô lệ, tuy nhiên Đức Chúa Trời chúng con không bỏ mặc chúng con trong cảnh nô lệ, nhưng Ngài cho chúng con được lòng các vua Ba-tư, khiến chúng con phấn khởi để xây lại đền thờ Đức Chúa Trời chúng con, và dựng lại những nơi đổ nát; Ngài cũng ban cho chúng con một bức tường bao bọc trong Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. Và giờ đây, ôi lạy Đức Chúa Trời chúng con, chúng con biết nói gì đây sau những việc vừa xảy ra? Vì chúng con đã phạm điều răn Ngài, mà Ngài đã ban truyền qua các tiên tri, tôi tớ Ngài. Ngài phán như vầy: ‘Đất các con chiếm hữu là một đất ô uế bởi sự ô uế của dân địa phương gây ra qua các tập tục ghê tởm của họ. Họ đã làm đất đầy dẫy sự bất khiết của họ, từ đầu này cho đến đầu kia. Cho nên đừng gả con gái các con cho con trai họ, cũng đừng cưới con gái họ cho con trai các con. Các con chớ hề tìm cầu sự bình an hoặc thịnh vượng cho họ. Như vậy các con mới được hùng cường, hưởng sản vật của đất, và để đất lại làm di sản cho con cháu các con thừa hưởng mai sau.’ Sau khi tai họa giáng xuống chúng con vì cớ việc làm gian ác và tội trọng của chúng con, tuy nhiên, ôi hỡi Chúa là Đức Chúa Trời của chúng con, Ngài chẳng phạt chúng con đáng như tội chúng con phải chịu, Ngài lại ban cho chúng con một nhóm người sống sót hồi hương như hiện nay, lẽ nào chúng con lại vi phạm điều răn Ngài một lần nữa, kết thông gia với những dân tộc có tập tục ghê tởm kia? Chúa há không giận đến mức tiêu diệt hết thảy chúng con, không để lại một người nào sống sót sao? Ôi, lạy Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Ngài là Đấng công bình. Tuy nhiên Ngài cho một nhóm chúng con còn sống sót như hiện nay. Kìa, chúng con ở trước mặt Ngài, mang tội nặng nề, mặc dù không ai được đứng trước mặt Ngài trong tình trạng như vậy!” Trong khi Ê-xơ-ra phủ phục trước đền thờ Đức Chúa Trời, cầu nguyện, và khóc xưng tội, một đám đông người Y-sơ-ra-ên gồm đàn ông, đàn bà và trẻ con, họp lại chung quanh ông, vì dân chúng khóc thảm thiết lắm. Bấy giờ Sê-ca-nia, con trai Giê-hi-ên, thuộc con cháu Ê-lam, thưa với Ê-xơ-ra: “Chúng tôi có phạm tội bất trung với Đức Chúa Trời chúng ta, cưới vợ ngoại tộc thuộc các dân địa phương. Nhưng bây giờ hãy còn hy vọng cho dân Y-sơ-ra-ên về vấn đề này. Ngày giờ này, chúng tôi xin lập giao ước trước mặt Đức Chúa Trời chúng ta, hứa nguyện bỏ tất cả những người vợ ngoại tộc và con cái do họ sinh ra, theo lời chỉ bảo của Chúa tôi và của những người run sợ khi nghe mạng lịnh của Đức Chúa Trời chúng ta. Xin ông thi hành chiếu theo Kinh Luật. Xin ông bắt tay vào việc, vì đây là trọng trách của ông. Chúng tôi sẽ ủng hộ ông. Xin ông can đảm hành động.” Vậy Ê-xơ-ra đứng lên, xin các thầy thượng tế, người Lê-vi, và toàn dân Y-sơ-ra-ên thề sẽ thi hành theo đề nghị trên; và họ thề. Sau đấy, Ê-xơ-ra rời khỏi nơi phía trước đền thờ Đức Chúa Trời, đi về phòng của Giê-hô-ha-nan, con trai Ê-li-a-síp, và ông nghỉ đêm tại đây, không ăn bánh, cũng không uống nước, vì ông vẫn còn khóc than về tội bất trung của những người lưu đày hồi hương. Có lời truyền rao khắp đất Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, kêu gọi mọi người lưu đày hồi hương tập họp về Giê-ru-sa-lem. Người nào không đến trong vòng ba ngày, sẽ bị tịch thu tất cả tài sản, và chính người sẽ bị khai trừ khỏi cộng đồng lưu đày hồi hương, theo quyết định của các nhà lãnh đạo và trưởng lão. Mọi người nam trong Giu-đa và Bên-gia-min đều tập họp tại Giê-ru-sa-lem trong vòng ba ngày. Lúc ấy nhằm ngày 20 tháng chín. Toàn dân ngồi tại quảng trường trước đền thờ Đức Chúa Trời, run sợ vì vụ này, lại cũng run lạnh vì mưa to. Bây giờ thầy tế lễ Ê-xơ-ra đứng lên tuyên bố: “Anh em phạm tội bất trung vì cưới vợ ngoại tộc, do đó anh em làm cho tội của Y-sơ-ra-ên nặng thêm. Bây giờ anh em hãy thú tội với Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời của tổ tiên anh em, và làm theo ý Ngài, phân ly khỏi dân địa phương và vợ ngoại tộc.” Toàn hội chúng đáp lớn tiếng: “Đúng vậy. Chúng tôi chắc chắn phải làm theo điều ông dạy. Tuy nhiên, chúng tôi đông người lắm, lại vào mùa mưa, chúng tôi không thể tiếp tục đứng ngoài trời như thế này. Hơn nữa, công việc này không thể nào giải quyết xong trong một hoặc hai ngày, vì có rất nhiều người trong vòng chúng tôi phạm tội này. Xin chỉ riêng các nhà lãnh đạo đại diện cho hội chúng ở lại đây. Trong các thành chúng ta, tất cả những người nào có vợ ngoại tộc phải trình diện trước các nhà lãnh đạo vào ngày giờ ấn định, mỗi người trình diện cùng với trưởng lão và thẩm phán của thành mình, cho đến khi cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời chúng ta vì cớ vấn đề này xoay khỏi chúng ta.” Chỉ có Giô-na-than, con trai A-sa-ên, và Gia-xi-gia, con trai Tiệc-va, phản đối đề nghị này. Mê-su-lam và Sáp-bê-tai, người Lê-vi, ủng hộ họ. Vậy những người lưu đày hồi hương thực hành quyết định trên. Thầy tế lễ Ê-xơ-ra biệt riêng các trưởng tộc, chỉ định đích danh từng trưởng tộc cho mỗi gia tộc. Họ họp lại tra xét vấn đề vào ngày mồng một tháng mười, và hoàn tất việc điều tra tất cả những người đàn ông có vợ ngoại tộc vào ngày mồng một tháng giêng. Trong thành phần các thầy tế lễ, họ tìm được những người sau đây có vợ ngoại tộc:Thuộc con cháu Giê-sua, con trai Giô-xa-đác, và anh em ông: Ma-a-xê-gia, Ê-li-ê-se, Gia-ríp, và Ghê-đa-lia, những người này cam kết bỏ vợ và dâng một cừu đực trong bầy làm lễ chuộc lỗi. Thuộc con cháu Y-mê:Ha-na-nia và Xê-ba-đia; Thuộc con cháu Ha-rim:Ma-a-xê-gia, Ê-li, Sê-ma-gia, Giê-hi-ên, và U-xia; Thuộc con cháu Phát-hua:En-giô-ê-nai, Ma-a-xê-gia, Ích-ma-ên, Na-tha-na-ên, Giô-xa-bát, và Ên-a-xa; Thuộc thành phần người Lê-vi:Giô-xa-bát, Si-mê-i, Kê-la-gia (tức Kê-li-ta), Phê-ta-hia, Giu-đa, và Ê-li-ê-se; Thuộc thành phần ca nhạc sĩ:En-gia-sip;thuộc thành phần người gác cổng:Sa-lum, Tê-lem, và U-ri; Thuộc thành phần thường dân Y-sơ-ra-ên:thuộc con cháu Pha-rốt:Ram-gia, I-xi-gia, Manh-ki-gia, Mi-gia-min, Ê-lê-a-sa, Manh-ki-gia, và Bê-na-gia; Thuộc con cháu Ê-lam:Mát-tan-gia, Xa-cha-ri-gia, Giê-hi-ên, Áp-đi, Giê-rê-mốt, và Ê-li-gia; Thuộc con cháu Xát-tu:En-giô-ê-nai, En-gia-síp, Mát-tan-gia, Giê-rê-mốt, Xa-bát, và A-xi-xa; Thuộc con cháu Bê-bai:Giô-ha-nan, Ha-nan-gia, Xáp-bai, và Át-lai; Thuộc con cháu Ba-ni:Mê-su-lam, Ma-lúc, A-đa-gia, Gia-súp, Sê-anh, và Ra-mốt; Thuộc con cháu Pha-hát Mô-áp:Át-na, Kê-lanh, Rê-na-gia, Ma-a-xê-gia, Mát-tan-gia, Bê-xanh-ên, Bin-nui, và Ma-na-se; Thuộc con cháu Ha-rim:Ê-li-ê-se, Ích-si-gia, Manh-ki-gia, Sê-ma-gia, Si-mê-ôn, Bên-gia-min, Ma-lúc, và Sê-ma-ri-gia; Thuộc con cháu Ha-sum:Mát-tê-nai, Mát-ta-ta, Xa-bát, Ê-li-phê-lết, Giê-rê-mi, Ma-na-se, và Si-mê-i; Thuộc con cháu Ba-ni:Ma-a-dai, Am-ram, Giô-ên, Bê-na-gia, Bê-đi-gia, Kê-lu-hu, Van-gia, Mê-rê-mốt, En-gia-síp, Mát-tan-gia, Mát-tê-nai, và Gia-a-su; Thuộc con cháu Bin-nui:Si-mê-i, Sê-lem-gia, Na-than, A-đa-gia, Mác-na-đê-bai, Sa-sai, Sa-rai, A-sa-rên, Sê-lem-gia, Sê-ma-ri-gia, Sa-lum, A-ma-ri-gia, Giô-sép; Thuộc con cháu Nê-bô:Giê-i-ên, Mát-tít-gia, Xa-bát, Xê-bi-na, Giát-đai, Giô-ên, và Bê-na-gia. Tất cả những người ấy đều có vợ ngoại tộc; và một số đã sinh con. Sử liệu về Nê-hê-mi, con Ha-ca-lia.Vào tháng Kít-lêu năm thứ hai mươi, khi tôi đang ở tại thành nội Su-san, có một trong các anh em tôi tên Ha-na-nia cùng vài người từ Giu-đa đến. Tôi hỏi thăm họ về những người Do-thái còn sống sót, tức những người đã thoát khỏi cảnh phu tù, và về thành Giê-ru-sa-lem. Họ nói với tôi: “Những người còn sống sót tại đây, trong tỉnh, tức những người đã thoát khỏi cảnh phu tù, hiện lâm vào tình thế rất bi đát và nhục nhã. Còn tường thành Giê-ru-sa-lem thì đổ nát, cổng thành bị lửa thiêu trụi.” Khi nghe những lời ấy, tôi ngồi mọp xuống đất, khóc than nhiều ngày. Tôi tiếp tục kiêng ăn và cầu nguyện Đức Chúa Trời trên trời. Tôi thưa: “Ôi! Lạy CHÚA, Ngài là Đức Chúa Trời trên trời, Đức Chúa Trời vĩ đại và uy nghi, là Đấng giữ giao ước và tình yêu trung kiên với người nào kính mến và tuân hành điều răn Ngài! Cầu xin Ngài lắng tai và cầu xin Ngài mở mắt ra nghe lời cầu nguyện của con, là tôi tớ Ngài. Con xưng nhận những tội mà chúng con là dân Y-sơ-ra-ên đã phạm cùng Ngài. Thật vậy, chính con và tổ tiên con có phạm tội cùng Ngài. Chúng con cư xử với Ngài thật tồi tệ, chúng con không tuân hành điều răn, qui luật, và phán quyết mà Ngài truyền cho Môi-se, tôi tớ Ngài. Cầu xin Chúa nhớ lại lời Ngài phán dạy qua Môi-se tôi tớ Ngài: ‘Nếu các ngươi bất trung, Ta sẽ phân tán các ngươi giữa các dân; nhưng nếu các ngươi quay về cùng Ta, giữ gìn và tuân hành điều răn Ta, dù cho các ngươi có bị tản mác ở tận các phương trời, từ nơi đó Ta sẽ gom các ngươi lại, và đem các ngươi về nơi Ta đã chọn cho danh Ta ngự tại đó.’ Tổ phụ chúng con là tôi tớ và dân của Ngài; mà Ngài đã giải cứu bằng quyền năng vĩ đại và bàn tay mạnh mẽ của Ngài. Ôi! Lạy Chúa! Cầu xin Ngài lắng tai nghe lời cầu nguyện của con là tôi tớ Ngài, và lời cầu nguyện của các tôi tớ khác của Ngài, là những người vui lòng kính sợ danh Ngài. Cầu xin Chúa cho con là tôi tớ Ngài được toại nguyện hôm nay, cầu xin Chúa đoái thương con trong khi con tiếp xúc với người này.”Lúc ấy tôi là người dâng rượu cho vua. Vào tháng Ni-san năm thứ hai mươi triều Át-ta-xét-xe, khi rượu dọn ra trước mặt vua, tôi cầm rượu dâng lên vua. Trước đây tôi chưa hề lộ vẻ buồn rầu trước mặt vua. Vua hỏi tôi: “Ngươi không có bệnh, sao mặt ngươi sầu não như vậy? Ngươi chắc phải có điều chi buồn phiền trong lòng.” Tôi khiếp sợ, tâu với vua: “Bệ hạ vạn tuế! Làm sao tôi không buồn được khi thành phố, là nơi có mồ mả tổ tiên tôi, đổ nát hoang tàn, và cổng thành bị lửa thiêu trụi?” Vua hỏi tôi: “Ngươi xin điều chi?” Tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời trên trời, rồi tâu với vua: “Nếu bệ hạ đẹp lòng, và nếu tôi tớ bệ hạ được ơn trước mặt bệ hạ, xin bệ hạ sai tôi về Giu-đa xây lại thành có mồ mả tổ tiên tôi.” Lúc ấy có thứ phi ngồi bên cạnh vua. Vua hỏi tôi: “Ngươi đi bao lâu? Và bao giờ ngươi trở về?” Vậy vua bằng lòng sai tôi đi, và tôi định thời hạn cho vua rõ. Tôi lại tâu thêm với vua: “Nếu bệ hạ đẹp lòng, xin bệ hạ truyền giao cho tôi những chiếu thư gửi cho các tổng trấn tỉnh Phía Tây Sông, để họ cho phép tôi đi ngang qua lãnh thổ họ cho đến khi tôi về tới Giu-đa, và một chiếu thư gửi A-sáp, giám đốc sở kiểm lâm hoàng gia, truyền người cho tôi gỗ để dựng lại cổng thành bên đền thờ, để xây lại tường thành, và để xây nhà cho tôi ở.” Nhờ Đức Chúa Trời phù hộ, vua ban cho tôi điều tôi cầu xin. Vậy tôi đến gặp các tổng trấn tỉnh Phía Tây Sông và trao cho họ các chiếu thư của vua. Vua cũng có sai các sĩ quan và kỵ binh đi theo hộ tống tôi. Khi San-ba-lát người Hô-rôn và Tô-bia, là triều thần người Am-môn, nghe tôi đến, họ bực tức lắm vì có người đến tìm cầu sự hưng thịnh cho dân Y-sơ-ra-ên. Sau khi đến Giê-ru-sa-lem và ở đó được ba ngày, ban đêm tôi cùng một vài người chồm dậy đi ra. Tôi chẳng tiết lộ với ai về điều gì Đức Chúa Trời giục lòng tôi thực hiện cho Giê-ru-sa-lem. Tôi cũng không mang theo con thú nào ngoài con thú mà tôi đang cưỡi. Ban đêm tôi ra khỏi cổng Thung Lũng, đi ngang qua Suối Rồng, đi về hướng cổng Phân. Tôi vừa đi vừa quan sát thấy tường thành Giê-ru-sa-lem đổ nát và cổng thành bị lửa thiêu trụi. Tôi đi tiếp đến cổng Suối, rồi đến Ao Vua. Nhưng không đủ chỗ cho con thú tôi cưỡi đi qua được. Do đó, trong ban đêm, tôi đi lên dọc theo lòng suối, và quan sát tường thành. Rồi tôi quay lại, vào cổng Thung Lũng, trở về. Các viên chức không hề biết tôi đi đâu hoặc làm gì. Cho đến bấy giờ, tôi vẫn chưa hề tỏ cho người Do-thái biết, dù là thầy tế lễ, giới quý tộc, các viên chức, hoặc hết thảy những người khác góp phần vào công việc. Sau đó tôi nói với họ: “Anh em thấy rõ hoàn cảnh bi đát của chúng ta hiện nay. Giê-ru-sa-lem đổ nát hoang tàn, và cổng thành bị lửa thiêu trụi. Xin anh em góp sức với tôi, chúng ta cùng nhau xây lại tường thành Giê-ru-sa-lem để khỏi mang tủi nhục.” Tôi cũng thuật lại cho họ thể nào Đức Chúa Trời phù hộ tôi, và những lời vua phán với tôi. Họ liền đáp: “Chúng ta hãy ra tay xây cất!” Và họ khuyến khích nhau bắt tay vào công việc cao đẹp này. San-ba-lát người Hô-rôn, Tô-bia, triều thần người Am-môn, và Ghê-sem người Ả-rập nghe được việc này, liền chế giễu và khinh nhạo chúng tôi. Chúng hỏi: “Các ông định làm gì thế? Định dấy loạn nghịch cùng vua phải không?” Tôi đáp: “Đức Chúa Trời trên trời sẽ cho chúng tôi thành công. Chúng tôi là tôi tớ Ngài, chúng tôi tiến hành việc xây cất. Nhưng các ông không có phần, chẳng có quyền hạn, cũng chẳng có kỷ niệm gì tại Giê-ru-sa-lem.” Thầy thượng tế Ê-li-a-síp cùng các thầy tế lễ khác khởi sự xây lại cổng Chiên. Họ làm lễ cung hiến cổng rồi tra cánh cổng. Họ làm lễ cung hiến từ cổng Chiên cho đến tháp Một Trăm, cho đến ngay cả tháp Ha-na-nê-ên. Bên cạnh Ê-li-a-síp, người thành Giê-ri-cô xây cất. Bên cạnh họ, Xa-cư, con Im-ri, xây cất. Con cháu Hát-sê-na xây lại cổng Cá. Họ dựng xà, tra cánh cổng, luôn cả chốt và then. Bên cạnh họ, Mê-rê-mốt, con U-ri, cháu Ha-cốt, làm công tác tu bổ. Bên cạnh họ, Xa-đốc, con Ba-a-na, làm công tác tu bổ. Bên cạnh họ, người Tê-cô-a lo tu bổ, nhưng giới quý tộc không chịu tham gia công việc của người lãnh đạo họ. Giô-gia-đa, con Pha-sê-a, và Mê-su-lam, con Bê-sô-đia, tu bổ cổng Mít-nê. Họ dựng xà, tra cánh cổng, luôn cả chốt và then. Bên cạnh họ, Mê-la-tia người Ghi-bê-ôn, và Gia-đôn người Mê-rô-nốt cùng với những người ở Ghi-bê-ôn và Mích-ba lo tu bổ. Mích-ba thuộc khu vực quản lý của tổng trấn tỉnh Phía Tây Sông. Bên cạnh Mê-la-tia, U-xi-ên con Hát-ha-gia, thuộc phường hội thợ vàng, tu bổ. Bên cạnh ông, Ha-na-nia, thuộc phường hội thợ chế hương phẩm, tu bổ. Họ tu bổ một khu của thành Giê-ru-sa-lem cho đến vách Rộng. Bên cạnh họ, Rê-pha-gia, con Hu-rô, quan cai trị phân nửa quận Giê-ru-sa-lem, tu bổ. Bên cạnh họ, Giê-đa-gia, con Ha-ru-máp, tu bổ phần tường thành đối ngang nhà ông. Bên cạnh ông, Hát-túc, con Ha-sap-nia, tu bổ. Manh-ki-gia, con Ha-rim, và Ha-súp, con Pha-hát Mô-áp tu bổ phần tường thành kế tiếp và tháp Lò. Bên cạnh họ, Sa-lum, con Ha-lô-hết, quan cai trị phân nửa kia của quận Giê-ru-sa-lem, cùng với các con gái ông tu bổ. Ha-nun và dân cư Xa-nô-a tu bổ cổng Thung Lũng. Họ xây cổng, tra cánh cổng, luôn cả chốt và then. Họ tu bổ một đoạn tường thành dài 450m cho đến cổng Phân. Manh-ki-gia, con Rê-cáp, quận trưởng quận Bết-hạc-kê-rem, tu bổ cổng Phân. Ông xây cổng, tra cánh cổng, luôn cả chốt và then. Sa-lun, con Côn-hô-xe, quận trưởng quận Mích-ba, tu bổ cổng Suối. Ông xây cổng, lợp mái, tra cánh cổng, luôn cả chốt và then. Ông cũng tu bổ vách tường chận ao Sê-la trong vườn vua, cho đến các bậc thang đi xuống từ thành Đa-vít. Sau ông, Nê-hê-mi con A-búc, quan cai trị phân nửa quận Bết-sua, tu bổ cho đến nơi đối ngang các lăng tẩm Đa-vít, cho đến tận Ao Nhân Tạo và Đài Liệt Sĩ. Sau ông, người Lê-vi tu bổ: Rê-hum, con Ba-ni; bên cạnh ông, Ha-sa-bia, quan cai trị phân nửa quận Kê-i-la, tu bổ đại diện cho quận mình. Sau ông, những người Lê-vi khác tu bổ: Bin-nui con Hê-na-đát, quan cai trị phân nửa quận Kê-i-la còn lại; bên cạnh ông, Ê-xe, con Giô-suê, thị trưởng Mích-ba, tu bổ thêm một phân nửa, từ nơi đối ngang dốc dẫn lên Kho Vũ Khí, cạnh trụ tường. Sau ông, Ba-rúc, con Xáp-bai, tu bổ thêm một phần nữa, từ nơi trụ tường cho đến cửa vào nhà thầy thượng tế Ê-li-a-síp. Sau ông, Mê-rê-mốt con U-ri, cháu Ha-cốt, tu bổ thêm một phần nữa, từ cửa vào nhà Ê-li-a-síp cho đến cuối nhà ông. Sau ông, các thầy tế lễ vùng phụ cận tu bổ. Sau họ, Bên-gia-min và Ha-súp tu bổ đối ngang nhà họ; sau họ, A-xa-ria con Ma-a-sê-gia, cháu A-na-nia, tu bổ cạnh nhà ông. Sau ông, Bin-nui con Hê-na-đát, tu bổ thêm một phần nữa, từ nhà A-xa-ria cho đến trụ tường, và cho đến góc thành. Pha-lanh con U-xia tu bổ từ nơi đối ngang trụ tường và tháp trên nhô lên từ cung vua, thuộc về sân vệ binh. Sau ông, Phê-đa-gia, con Pha-rốt, và những người phục dịch đền thờ sống ở Ô-phên, tu bổ cho đến nơi đối ngang cổng Nước phía đông và tháp nhô lên. Sau họ, người Tê-kô-a tu bổ thêm một phần nữa, từ nơi đối ngang tháp to nhô lên cho đến vách Ô-phên. Phía trên cổng Ngựa, các thầy tế lễ tu bổ, mỗi vị đối ngang nhà mình. Sau họ, Xa-đốc, con Y-mê, tu bổ đối ngang nhà ông. Sau ông, Sê-ma-gia, con Sê-ca-nia, người canh giữ cổng Đông, tu bổ. Sau ông, Ha-na-nia, con Sê-lê-mia và Ha-nun, con thứ sáu của Xa-láp, tu bổ thêm một phần nữa. Sau họ, Mê-su-lam, con Bê-rê-kia, tu bổ đối ngang nhà ông. Sau ông, Manh-ki-gia, thuộc phường hội thợ vàng, tu bổ cho đến nhà những người phục dịch đền thờ và các thương gia, đối ngang cổng Duyệt Binh, và cho đến phòng cao nơi góc thành. Những người thợ vàng và các thương gia tu bổ phần tường giữa phòng cao nơi góc thành và cổng Chiên. Khi San-ba-lát nghe tin chúng tôi xây lại tường thành, ông nổi giận và bực tức lắm. Ông chế nhạo người Do-thái. Trước mặt các cộng sự viên và quân nhân Sa-ma-ri, ông nói: “Bọn Do-thái yếu đuối này đang làm gì đây? Chúng định sửa sang lại sao? Chúng định dâng tế lễ sao? Chúng định hoàn tất trong ngày sao? Chúng tưởng có thể dựng lại những hòn đá từ trong đống đổ nát này, mặc dù đã cháy rụi sao? Tô-bia, người Am-môn, bên cạnh San-ba-lát, phụ họa: ‘Đúng vậy, dù họ xây được cái chi đi nữa, một con chồn leo lên cũng đủ phá sập bức tường đá này của họ.’ Ôi! Lạy Đức Chúa Trời của chúng con, cúi xin Ngài nghe chúng con bị khinh miệt dường nào. Xin Ngài đổ lại trên đầu họ những lời chế nhạo của họ. Xin Ngài biến họ như chiến lợi phẩm bị đưa qua vùng đất phu tù. Xin Ngài đừng che lấp sự gian ác của họ, xin Ngài đừng xóa sạch tội lỗi họ trước mặt Ngài, vì họ dám chọc Ngài giận ngay trước mặt những thợ xây cất.” Chúng tôi xây vách thành, và toàn vách nối liền chung quanh thành, đến phân nửa chiều cao, vì dân chúng quyết tâm làm việc. Khi San-ba-lát, Tô-bia, người Ả-rập, người Am-môn, và người Ách-đốt nghe tin việc tu bổ tường thành Giê-ru-sa-lem tiến triển tốt vì các phần tường thủng khởi sự được vá lành, họ liền nổi giận, cùng nhau bàn mưu đến tấn công Giê-ru-sa-lem và gây rối loạn. Chúng tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời chúng tôi, và vì cớ họ, chúng tôi đặt người canh gác ngày đêm. Bây giờ có tiếng than giữa cộng đồng người Giu-đa; “Sức người khuân vác hao mòn, đống đổ nát quá to, chúng ta thật không đủ sức xây lại tường thành này.” Trong khi đó, kẻ thù chúng tôi bàn tính; “Trước khi chúng nó biết hoặc nhận ra điều gì, chúng ta sẽ đột nhập vào ngay giữa bọn chúng, giết chúng nó và ngưng công việc của chúng nó.” Những người Giu-đa sống gần họ đến với chúng tôi từ mọi hướng, và nài nỉ chúng tôi hàng chục lần: “Anh chị em phải trở về với chúng tôi.” Tôi sắp cho dân chúng đứng chỗ thấp nhất phía sau tường, nơi trống trải, đứng theo từng gia đình, vũ trang bằng gươm, giáo và cung. Tôi kiểm điểm xong, liền nói với giới quý tộc, các viên chức, và hết thảy dân chúng; “Anh em đừng sợ họ. Hãy nhớ đến Chúa chúng ta, là Đấng vĩ đại uy nghi, và hãy chiến đấu vì cớ gia đình họ hàng của anh em, con trai và con gái, vợ và nhà cửa của anh em.” Khi kẻ thù chúng tôi nghe tin chúng tôi biết mọi sự, và Đức Chúa Trời đã phá hủy mưu đồ của họ, chúng tôi hết thảy đều quay về nơi tường thành, mỗi người làm công việc mình. Từ ngày ấy trở đi, phân nửa số gia nhân của tôi làm việc, trong khi phân nửa cầm khiên, và giáo, cung và áo giáp. Các vị chỉ huy đứng phía sau toàn thể nhà Giu-đa xây tường thành. Những người khuân vác chuyền gánh nặng một tay, còn tay kia cầm khí giới. Những người xây cất, mỗi người làm việc đeo gươm bên hông mình, còn người thổi kèn đứng ngay bên cạnh tôi. Tôi nói với giới quý tộc, các viên chức, và hết thảy dân chúng: “Công việc nhiều và trải rộng nên chúng ta phải phân tán dọc theo tường thành, người này xa cách người kia. Bất cứ nơi nào anh em nghe tiếng kèn, hãy tụ họp lại nơi đó với chúng tôi. Đức Chúa Trời chúng ta sẽ chiến đấu cho chúng ta.” Thế là chúng tôi tiếp tục làm việc từ rạng đông cho đến khi sao mọc. Cùng lúc ấy, tôi cũng nói thêm với dân chúng: “Mỗi người cùng gia nhân mình phải ngủ đêm lại trong thành Giê-ru-sa-lem, ban đêm làm phận sự canh gác, còn ban ngày làm việc.” Ngay cả tối, anh em tôi, các gia nhân tôi, và những người hộ vệ theo sau tôi, không một ai trong chúng tôi cởi quần áo mình ra; mỗi người giữ khí giới trong tay phải mình. Lúc ấy, một số người thường dân Giu-đa cùng vợ lớn tiếng kêu ca phản đối một số người đồng hương. Có người nói: “Con trai và con gái chúng tôi đông đảo, chúng tôi cần lúa ăn để sống.” Người khác nói: “Chúng tôi phải cầm ruộng nương, vườn nho, và nhà của chúng tôi mới có lúa ăn vì nạn đói.” Người khác nữa lại nói: “Chúng tôi phải cầm ruộng và vườn nho chúng tôi lấy tiền đóng thuế cho vua. Nay chúng tôi cũng đồng máu mủ với anh em chúng tôi, con cái chúng tôi cũng như con cái họ, thế mà chúng tôi sắp sửa phải bắt ép con trai và con gái chúng tôi vào kiếp tôi mọi. Thật vậy, một số con gái chúng tôi đã bị bắt ép rồi. Chúng tôi không thể làm gì hơn được, vì đồng ruộng và vườn nho chúng tôi đã thuộc về người khác.” Tôi rất công phẫn khi nghe tiếng kêu ca của họ và những lời phân trần trên. Sau khi suy nghĩ kỷ càng, tôi khiển trách giới quý tộc và các viên chức: “Anh em nỡ lòng nào xiết nợ anh em mình sao?” Để giải quyết vấn đề, tôi triệu tập đại hội, và nói với họ: “Chúng tôi đã cố gắng hết sức chuộc lại anh em chúng ta là người Do-thái, đã phải bán mình cho người ngoại quốc; mà nay anh em lại bán chính anh em của mình, để rồi họ phải bị bán lại cho chúng tôi sao?” Họ im lặng, không tìm được lời gì đáp lại cả. Tôi nói tiếp: “Việc anh em làm không phải chút nào. Đáng lẽ anh em phải bước đi trong sự kính sợ Đức Chúa Trời của chúng ta để khỏi bị dân ngoại quốc, kẻ thù của chúng ta, sỉ nhục. Chính tôi, anh em tôi, và gia nhân tôi cũng cho anh em chúng ta vay tiền và thóc. Chúng ta hãy từ bỏ thói cầm đồ cho vay này đi! Ngày hôm nay, tôi xin anh em hãy trả lại đồng ruộng, vườn nho, vườn ô-liu, và nhà cửa cho họ, luôn cả một phần trăm lãi bằng tiền, thóc, rượu và dầu mà anh em đã lấy của anh em chúng ta.” Họ đáp: “Chúng tôi sẽ trả lại cho họ, không đòi hỏi gì cả. Chúng tôi sẽ làm y như lời ông nói.” Vậy, tôi gọi các thầy tế lễ đến, và tôi buộc họ thề làm theo như lời họ vừa nói. Tôi cũng giũ áo và nói: “Xin Đức Chúa Trời giũ sạch như thế này khỏi nhà và sản nghiệp người nào không thực hiện lời hứa trên; nguyện xin người ấy bị giũ sạch như thế này và trở thành trắng tay!” Toàn thể hội chúng đáp: “A-men,” và ca tụng CHÚA. Dân chúng làm theo như lời đã hứa. Hơn nữa, từ ngày tôi giữ chức tổng trấn Giu-đa, từ năm thứ hai mươi cho đến năm thứ ba mươi hai triều Át-ta-xét-xe, tổng cộng mười hai năm, tôi và các anh em tôi không hề nhận phần phụ cấp ẩm thực dành cho tổng trấn. Nhưng các vị tổng trấn trước tôi áp bức dân chúng nặng nề, bắt họ cấp dưỡng thức ăn và rượu hàng ngày đến 450gm bạc. Gia nhân của họ cũng ra oai ức hiếp dân chúng. Tuy nhiên tôi không làm như vậy, vì tôi kính sợ Đức Chúa Trời. Trái lại, tôi dồn mọi nỗ lực vào công tác xây dựng tường thành. Chúng tôi không thu thập đất đai, hết thảy những gia nhân của tôi đều tập trung tại đây, vào công tác xây dựng. Có đến một trăm năm mươi người Do-thái và viên chức cũng ăn nơi bàn tôi, chưa kể những người đến với chúng tôi từ những nước láng giềng. Mỗi ngày phải dọn một con bò, sáu con chiên chọn lọc cùng với gà vịt, và cứ cách mười ngày, đủ mọi loại rượu dư dật. Dù vậy, tôi cũng không đòi phần phụ cấp ẩm thực dành cho tổng trấn, vì dân chúng phải gánh thuế má nặng nề rồi. Lạy Đức Chúa Trời, con cầu xin Ngài ghi nhận tất cả những gì con làm cho dân sự này, và xin Ngài làm ơn cho con! Khi San-ba-lát, Tô-bia, Ghê-sem người Ả-rập, và những kẻ thù khác của chúng tôi nghe tin tôi đã xây lại tường thành, và không còn nơi nào hư thủng nữa, mặc dù lúc ấy tôi chưa tra các cánh cổng, San-ba-lát và Ghê-sem sai người đến nói với tôi: “Mời ông đến họp với chúng tôi tại Kê-phi-rim, trong đồng bằng Ô-nô.” Nhưng họ mưu toan hại tôi, cho nên tôi sai người đáp lời họ: “Tôi bận thực hiện một công tác lớn lao. Tôi không thể xuống được, e công việc đình trệ trong khi tôi bỏ việc xuống gặp các ông.” Họ sai người đến mời tôi bốn lần như vậy, và lần nào tôi cũng đáp lời họ y như nhau. Lần thứ năm, San-ba-lát sai gia nhân đến với tôi y như trước, nhưng lần này kèm theo một phong thư không niêm. Thư viết: “Tin đồn lan khắp các nước, và chính Gát-mu cũng xác nhận tin ấy, rằng ông âm mưu cùng người Giu-đa làm phản, vì thế ông mới xây tường thành này. Theo tin đồn, ông sẽ làm vua họ. Ông cũng đã sắp xếp cho các tiên tri rao báo về ông tại Giê-ru-sa-lem rằng ‘Có một vua ở Giu-đa.’ Tất nhiên vua sẽ nghe những tin này. Vậy mời ông đến, chúng ta cùng nhau thảo luận.” Tôi sai người đáp: “Những chuyện ông nói chẳng hề xảy ra. Ông chỉ tưởng tượng trong đầu ông thôi.” Tất cả những người ấy đều tìm cách dọa chúng tôi sợ vì họ nghĩ rằng: “Chúng sẽ nản chí buông xuôi, và công việc sẽ không hoàn thành.” Nhưng tôi lại càng quyết tâm làm việc hơn nữa. Sau đó, tôi đến thăm Sê-ma-gia, con Đê-la-gia, cháu Mê-hê-ta-bên, vì ông sống biệt lập tại nhà. Ông nói:“Chúng ta hãy gặp nhau tại đền thờ Đức Chúa Trời,Ngay bên trong đền thánh,Rồi chúng ta hãy đóng cửa đền thánh lại,Vì họ sẽ đến để giết ông,Họ sẽ đến giết ông trong ban đêm!” Tôi đáp: “Một người trong địa vị tôi lẽ nào lại chạy trốn sao? Hơn nữa, có người nào như tôi vào đền thánh mà được sống đâu? Tôi không vào đâu.” Bấy giờ tôi nhận ra rằng Đức Chúa Trời không có sai ông, nhưng ông đã nói tiên tri nghịch lại tôi vì Tô-bia và San-ba-lát đã mua chuộc ông. Chúng mua chuộc ông để làm cho tôi sợ hoảng rồi hành động theo như lời ông ta đề nghị, vậy tôi sẽ phạm tội, mang tiếng xấu, và chúng sẽ có cớ lăng nhục tôi. Lạy Đức Chúa Trời của con, xin Ngài nhớ lại những điều Tô-bia và San-ba-lát đã làm! Con cũng xin Ngài nhớ lại nữ tiên tri Nê-a-đia và các tiên tri khác, thế nào họ đã tìm cách làm cho con khiếp sợ! Ngày hai mươi lăm tháng Ê-lun, tường thành hoàn tất trong năm mươi hai ngày. Khi hết thảy những kẻ thù của chúng tôi nghe tin ấy, tất cả những dân tộc láng giềng đều khiếp sợ, họ xuống tinh thần nhiều lắm, vì họ biết rằng công trình này thực hiện được là nhờ Đức Chúa Trời chúng tôi giúp đỡ. Cũng trong thời gian ấy, giới quý tộc của Giu-đa gửi nhiều thư cho Tô-bia và Tô-bia cũng gửi thư lại cho họ, vì có nhiều người trong Giu-đa thề giúp Tô-bia, vì hắn là con rễ của Sê-ca-nia, con A-ra, và Giô-ha-nan, con Tô-bia, lại cưới con gái Mê-su-lam, con Bê-rê-kia. Họ thường ca ngợi Tô-bia trước mặt tôi, và học lại cho hắn những lời tôi nói. Còn Tô-bia thì gửi nhiều thư đe dọa tôi. Sau khi tường thành đã xây xong, tôi tra các cánh cổng. Những người gác cổng, ca nhạc sĩ, và người Lê-vi nhận trách nhiệm canh gác. Tôi giao cho Ha-na-nia, em tôi, và Ha-na-ni-ya, sĩ quan chỉ huy thành lũy, nhiệm vụ cai trị Giê-ru-sa-lem. Ha-na-ni-ya là người đáng tin cậy và kính sợ Đức Chúa Trời hơn nhiều người khác. Tôi dặn họ: “Anh em không nên để cổng thành Giê-ru-sa-lem mở trong giờ nắng gắt, và trong khi còn phiên trực, người trực phải đóng cổng cài then cho chắc. Anh em cũng nên cắt phiên gác cho dân cư Giê-ru-sa-lem, người này nơi vọng gác, kẻ kia nơi đối ngang nhà mình.” Thành phố rộng lớn, nhưng dân cư thưa thớt, và nhà cửa xây lại chưa đủ vào đâu. Đức Chúa Trời giục lòng tôi triệu tập các nhà quyền quý, các viên chức, và thường dân để đăng ký hộ tịch.Tôi tìm được gia phả của những người trở về đợt đầu, có ghi như sau: Đây là những người trong tỉnh đã trở về từ giữa vòng những người phu tù mà Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, đã lưu đầy. Họ trở về Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, ai nấy về thành mình. Họ cũng về với Xô-rô-ba-bên, Giê-sua, Nê-hê-mi, A-xa-ria, Ra-a-mia, Na-ha-ma-ni, Mạc-đô-cai, Binh-san, Mích-bê-rết. Biệt-vai, Nê-hum, và Ba-a-na.Tổng số những người nam trong dân Y-sơ-ra-ên: Con cháu Pha-rốt, người, Con cháu Sê-pha-tia, người, Con cháu A-ra, người, Con cháu Pha-hát Mô-áp, nghĩa là con cháu Giê-sua và Giô-áp, người, Con cháu Ê-lam, người, Con cháu Xát-tu, người, Con cháu Xác-cai, người, Con cháu Bin-nui, gười, Con cháu Bê-bai, người, Con cháu A-gát, người, Con cháu A-đô-ni-cam, người, Con cháu Biệt-vai, người, Con cháu A-đin, người, Con cháu A-te, nghĩa là con cháu Ê-xê-chia, người, Con cháu Ha-sum, người, Con cháu Bết-sai, người, Con cháu Ha-ríp, người, Con cháu Ghi-bê-ôn, người, Người Bết-lê-hem và Nê-tô-pha, người, Người A-na-tốt, người, Người Bết-Ách-ma-vết, người, Người Ki-ri-át Giê-a-rim, Kê-phi-ra, và Bê-ê-rốt, người, Người Ra-ma và Ghê-ba, người, Người Mích-ma, người, Người Bê-tên và A-hi, người, Người Nê-bô khác, người, Con cháu Ê-lam khác, người, Con cháu Ha-rim, người, Người Giê-ri-cô, người, Người Lô-đơ, Ha-đi, và Ô-nô, người, Con cháu Sê-na, người, Thầy tế lễ: Con cháu Giê-đa-gia, thuộc gia tộc Giê-sua, người, Con cháu Y-mê, người, Con cháu Phát-hua, người, Con cháu Ha-rim, người, Người Lê-vi: con cháu Giê-sua, thuộc họ Cát-mi-ên, thuộc con cháu Hô-dê-va, người, Ca nhạc sĩ: con cháu A-sáp, người, Người gác cổng: con cháu Sa-lum, con cháu A-te, con cháu Tanh-môn, con cháu A-cúp, con cháu Ha-ti-ta, con cháu Sô-bai, người, Người phục dịch đền thờ: con cháu Xi-ha, con cháu Ha-su-pha, con cháu Ta-ba-ốt, con cháu Kê-rốt, con cháu Sia, con cháu Pha-đôn, con cháu Lê-ba-na, con cháu Ha-ga-ba, con cháu Sanh-mai, con cháu Ha-nan, con cháu Ghi-đên, con cháu Ga-ha-rơ, con cháu Rê-a-gia, con cháu Rê-xin, con cháu Nê-cô-đa, con cháu Ga-xam, con cháu U-xa, con cháu Pha-sê-a, con cháu Bê-sai, con cháu Mê-u-nim, con cháu Nê-phu-sê-sim, con cháu Bạc-búc, con cháu Ha-khu-pha, con cháu Hát-bua, con cháu Bát-lit, con cháu Mê-hi-da, con cháu Hát-sa, con cháu Bạt-cốt, con cháu Si-sê-ra, con cháu Tha-mác, con cháu Nê-xia, con cháu Ha-ti-pha. Con cháu những người nô lệ từ đời vua Sa-lô-môn:con cháu Sô-tai, con cháu Sô-phê-rết, con cháu Phê-ri-da, con cháu Gia-a-la, con cháu Đạt-côn, con cháu Ghi-đên, con cháu Sê-pha-tia, con cháu Hát-tinh, con cháu Bô-kê-rết Ha-xê-ba-im, con cháu A-môn. Tổng cộng những người phục dịch đền thờ và con cháu những người nô lệ từ đời vua Sa-lô-môn là 392 người. Những người sau đây trở về từ Tên Mê-la, Tên Hát-sa, Kê-rúp, A-đôn và Y-mê, nhưng họ không thể chứng minh qua gia tộc hoặc dòng dõi rằng họ thuộc về dân Y-sơ-ra-ên: Con cháu Đê-la-gia, con cháu Tô-bi-gia, con cháu Nê-cô-đa, tổng cộng 642 người. Về phía những thầy tế lễ:con cháu Hô-bai-gia, con cháu Ha-cốt, con cháu Bát-xi-lai, (ông này cưới một trong những cô con gái của Bát-xi-lai, người Ga-la-át, nên người ta gọi ông theo tên cha vợ). Những người này tìm tên mình trong gia phả, nhưng không tìm được, nên bị kể là ô uế và truất khỏi chức tế lễ. Quan tổng trấn cấm họ dùng thức ăn chí thánh cho đến khi nào có thầy tế lễ dùng U-rim và Thu-mim cầu hỏi Đức Chúa Trời. Toàn thể hội chúng tổng cộng là 42.360 người. Ngoài ra, có 7.337 nam nữ gia nhân và 245 nam nữ ca sĩ, 435 con lạc đà, và 6.720 con lừa. Một số các trưởng tộc dâng vào quỹ xây cất. Quan tổng trấn dâng vào quỹ 1.000 đa-riếc 50 cái chậu, và 530 bộ lễ phục cho các thầy tế lễ. Một số các trưởng tộc dâng vào quỹ xây cất 170kg vàng, và 1.2 tấn bạc. Dân chúng còn lại dâng 170kg vàng, 1 tấn bạc, và 67 bộ lễ phục cho các thầy tế lễ. Các thầy tế lễ, những người Lê-vi, người gác cổng, ca nhạc sĩ, một số thường dân, những người phục dịch đền thờ, và toàn thể dân Y-sơ-ra-ên định cư trong thành mình.Khi tháng bảy đến, dân Y-sơ-ra-ên đều ở trong thành mình. Bấy giờ toàn dân nhất trí tụ họp lại tại quảng trường trước cổng Nước. Họ xin thầy tế lễ Ê-xơ-ra thông thạo về Kinh Luật đem ra cuộn da đã chép Kinh Luật Môi-se mà CHÚA đã truyền dạy cho Y-sơ-ra-ên. Ngày mồng một tháng bảy, thầy tế lễ Ê-xơ-ra đem Kinh Luật ra trước hội chúng bao gồm cả nam lẫn nữ cùng hết thảy những người có khả năng thông hiểu những gì họ nghe. Tại quảng trường trước cổng Nước, từ rạng đông cho đến trưa, ông đọc cho cả nam lẫn nữ cùng những người có khả năng hiểu biết nghe. Toàn dân lắng tai nghe đọc Kinh Luật. Thầy tế lễ thông thạo Kinh Luật Ê-xơ-ra đứng trên một bục gỗ cao đóng nhơn dịp này. Đứng bên phải ông có Ma-ti-thia, Sê-ma, A-na-gia, U-ri-gia, Hinh-ki-gia, và Ma-a-xê-gia. Bên trái có Phê-đa-gia, Mi-sa-ên, Manh-ki-gia, Ha-sum, Hạch-ba-đa-na, Xa-cha-ri, và Mê-su-lam. Vì Ê-xơ-ra đứng cao hơn họ, nên khi ông mở cuốn kinh ra, toàn dân đều thấy, và đứng dậy. Ê-xơ-ra ca tụng CHÚA, Đức Chúa Trời vĩ đại. Toàn dân giơ tay lên, đáp lại: “A-men! A-men!” rồi quỳ gối, sấp mặt xuống đất, thờ lạy CHÚA. Những người Lê-vi là Giê-sua, Ba-ni, Sê-rê-bia, Gia-min, A-cúp, Sa-bê-thai, Hô-đi-gia, Ma-a-xê-gia, Kê-li-ta, A-xa-ria, Giô-xa-bát, Ha-nan, và Bê-la-gia giải thích cho dân chúng hiểu rõ Kinh Luật trong khi dân chúng ai nấy đứng nguyên tại chỗ mình. Họ đọc Kinh Luật của Đức Chúa Trời, đọc và giải nghĩa từng phân đoạn cho nên dân chúng hiểu lời họ đọc. Vì cả dân chúng đều khóc khi nghe những lời trong Kinh Luật nên tổng trấn Nê-hê-mi, thầy tế lễ Ê-xơ-ra, và những người Lê-vi đang giải thích cho dân chúng thông hiểu Kinh Luật, nói với họ: “Xin ông bà anh chị chớ buồn rầu, cũng đừng than khóc, vì hôm nay là ngày thánh cho CHÚA.” Ê-xơ-ra nói tiếp: “Ông bà anh chị hãy về ăn của ngon, uống vật ngọt, và hãy san sẻ thức ăn cho những người không có chuẩn bị, vì hôm nay là ngày thánh cho Chúa chúng ta. Xin ông bà anh chị chớ sầu thảm, vì niềm vui trong CHÚA là sức mạnh của ông bà anh chị.” Người Lê-vi cũng khuyên lơn dân chúng: “Xin ông bà anh chị an tâm. Vì hôm nay là ngày thánh, xin ông bà anh chị đừng sầu não nữa.” Toàn thể dân chúng ra về, ăn, uống, và san sẻ cho người không có. Họ ăn mừng trọng thể vì họ hiểu được những lời truyền dạy cho họ. Qua ngày mồng hai, các trưởng tộc trong dân chúng, các thầy tế lễ và người Lê-vi tụ họp chung quanh thầy tế lễ thông thạo Kinh Luật Ê-xơ-ra để học hỏi những lời răn dạy trong Kinh Luật. Họ thấy có ghi chép trong Kinh Luật, CHÚA truyền dạy qua Môi-se rằng dân Y-sơ-ra-ên phải ở trong lều suốt thời gian lễ trong tháng bảy, và phải rao thông báo khắp các thành thị và thành Giê-ru-sa-lem như vầy: “Hãy lên đồi, mang về những nhành lá cây ô-liu, cây thông, cây sim, cây kè, và nhánh những loài cây rậm lá để dựng lều y như đã chép.” Thế là dân chúng lên đồi, mang lá về dựng lều: người thì dựng ngay trên mái nhà mình, kẻ thì dựng trong sân nhà, kẻ khác trong sân đền thờ Đức Chúa Trời, kẻ kia tại quảng trường bên cổng Nước, kẻ nọ tại quảng trường bên cổng Ép-ra-im. Toàn hội chúng những người trở về từ chốn phu tù đều dựng lều và ở trong lều. Từ thời Giô-suê, con trai Nun, cho đến nay, dân Y-sơ-ra-ên chưa từng làm như vậy. Mọi người đều hoan hỉ. Ê-xơ-ra đọc Kinh Luật của Đức Chúa Trời mỗi ngày, từ ngày đầu đến ngày cuối. Họ giữ lễ trong bảy ngày. Đến ngày thứ tám, họ cử hành lễ bế mạc cách trọng thể, và nghỉ mọi công việc, theo như quy định. Ngày hai mươi bốn tháng ấy, dân Y-sơ-ra-ên họp lại, kiêng ăn, quấn vải thô, rải bụi đất lên đầu. Những người thuộc gốc Y-sơ-ra-ên phân rẽ với hết thảy những người ngoại quốc. Họ đứng và xưng nhận tội lỗi của chính mình, và sự gian ác của tổ tiên mình. Họ đứng nguyên tại chỗ, đọc Kinh Luật của CHÚA suốt một phần tư ngày, rồi họ xưng tội và thờ phượng CHÚA thêm một phần tư ngày nữa. Giê-sua, Ba-ni, Cát-mi-ên, Sê-ba-nia, Bun-ni, Sê-rê-bia, Ba-ni, và Kê-na-nia đứng trên bực cao của người Lê-vi, và lớn tiếng kêu cầu CHÚA. Kế đến, những người Lê-vi là Giê-sua, Cát-mi-ên, Ba-ni, Ha-sáp-nia, Sê-rê-bia, Hô-đi-gia, Sê-ba-nia (hoặc Sê-van-gia), và Phê-ta-hia (hoặc Phê-ta-gia) nói:“Xin chúng ta cùng đứng lên ca tụng CHÚA:Từ đời này qua đời kia,Nguyện xin mọi người ca tụng danh vinh hiển của Ngài,Là danh được tôn cao trên cả mọi lời chúc tụng, ngợi khen! Lạy CHÚA, chính Ngài là Đấng duy nhất!Ngài dựng nên các tầng trời,Các tầng trời cao ngất,Cùng với các thiên binh,Đất và mọi vật trên đất,Biển và mọi vật trong biển,Ngài bảo tồn tất cả,Và các thiên binh tôn thờ Ngài. Chính Ngài là CHÚA, là Đức Chúa Trời,Là Đấng chọn Áp-ra-ham,Ngài đem ông ra khỏi U-rơ xứ Canh Đê,Và đặt tên ông là Áp-ra-ham. Khi Chúa thấy lòng ông trung thành với Ngài,Ngài lập giao ước với ông,Và hứa ban đất của dân Ca-na-an,Dân Hê-tít, dân A-mô,Dân Phê-rê, dân Giê-bu, và dân Ghi-rê (hoặc Ghia-gát),Cho dòng dõi ông.Chúa thực hiện lời Ngài hứa,Vì Ngài trung tín. Chúa thấy nổi thống khổ của tổ tiên chúng con tại Ai-cập,Ngài nghe tiếng kêu van của họ bên Biển Đỏ, Chúa thực hiện dấu kỳ phép lạChống lại Pha-ra-ôn, quần thần và toàn dân trong lãnh thổ người,Vì Chúa biết chúng cư xử ngang ngượcVới tổ phụ chúng con,Vậy uy danh Chúa vang lừngCho đến ngày nay, Chúa phân rẽ biển trước mặt họ,Họ đi ngang qua biển như trên đất khô.Nhưng Chúa ném kẻ đuổi theo họ vào biển sâu,Như ném đá vào dòng nước lũ. Ban ngày, Chúa dựng trụ mây dẫn dắt họ,Ban đêm, Ngài dựng trụ lửaSoi sáng nẻo đường họ phải noi theo. Chúa giáng lâm trên núi Si-nai,Từ trời cao Ngài phán với họ,Ngài ban cho họSắc luật ngay thẳng,Sắc lệnh chân thật,Quy luật và điều răn tốt lành. Chúa cho họ biếtVề ngày Sa-bát thánh của Ngài,Chúa truyền dạy họ điều răn, quy luật, và sắc lệnhQua Môi-se, tôi tớ Ngài. Ngài ban bánh từ trời khi họ đói,Ngài cho nước văng ra từ tảng đá khi họ khát,Chúa bảo họ vào chiếm lấy đấtNgài đã giơ tay lên thề ban cho họ. Nhưng tổ tiên chúng con ương ngạnh, cứng cổ,Không tuân giữ điều răn Chúa. Họ không chịu vâng lời,Cũng không nhớ đến các phép lạNgài thực hiện ngay giữa họ,Nhưng lại cứng cổ, lập người lãnh đạoĐưa họ về kiếp sống nô lệ tại Ai-cập.Nhưng Chúa là Đức Chúa Trời rộng lượng tha thứ,Khoan dung và nhân từ,Nhẫn nại và giàu lòng yêu thương,Ngài không từ bỏ họ. Ngay cả khi họ tự đúc cho mìnhMột bê đực bằng kim loại,Rồi tuyên bố: ‘Đây là thần của ngươi,Thần đem ngươi ra khỏi xứ Ai-cập,’Họ khinh thường Chúa quá đổi, Chúa vẫn giàu lòng thương xót,Ngài không bỏ mặc họ trong sa mạc.Trụ mây không rời khỏi họ,Nhưng tiếp tục dẫn đường họ vào ban ngày,Và ban đêm trụ lửaTiếp tục soi sáng lối họ phải đi. Chúa ban Thần Linh chân thiện dạy dỗ họ,Ngài không cất bánh ma-na khỏi miệng họ,Ngài cho họ nước uống trong cơn khát. Chúa nuôi nấng họ suốt bốn mươi năm,Nơi sa mạc họ không thiếu thốn chi,Áo họ không sờn rách,Chân họ không sưng phù. Chúa ban cho họ các vương quốc và các dân tộc,Ngài chia đất làm biên giới cho họ:Họ chiếm hữu đất của Si-hôn, vua Hết-bôn,Và đất của Óc, vua Ba-san. Chúa khiến con cháu họ sinh sôi nẩy nở,Đông như sao trên trời,Ngài đưa họ vào xứMà Ngài có truyền bảo tổ tiên họ vào chiếm hữu. Con cháu họ vào chiếm hữu đất,Ngài bắt phục trước mặt họ;Dân cư trong xứ, người Ca-na-an, Ngài nộp vào tay họ;Các vua chúa và dân cư trong đất,Ngài cho họ tùy ý đối xử. Họ chiếm thành kiên cố,Đất phì nhiêu,Họ chiếm nhà cửa đầy những vật dụng tốt đẹp,Bể chứa nước đục sẵn, vườn nho, vườn ô-liu,Và cây ăn quả rất nhiều.Họ ăn no nê, họ trở nên béo tốt,Họ thỏa thích trong sự nhân từ lớn lao của Chúa. Dù vậy, họ lại bất tuân lệnh Chúa,Phản nghịch Ngài,Họ ném bỏ luật pháp Chúa ra phía sau,Họ giết các tiên tri của Chúa,Là những người cảnh cáo họ để đem họ về với Chúa.Họ khinh thường Chúa quá đổi. Vì thế, Chúa nộp họ vào tay quân thù,Quân thù áp bức họ,Trong cơn gian truân họ kêu xin Chúa,Từ trời cao Chúa nghe họ,Chúa thương xót vô biên, Chúa ban cho họ những vị cứu tinh;Giải cứu họ khỏi tay quân thù. Tuy nhiên, vừa mới hưởng được cảnh an nhàn,Họ lại phạm tội với Chúa,Cho nên Chúa bỏ mặc họ rơi vào tay kẻ thù,Kẻ thù thống trị họ, họ lại kêu xin Chúa,Từ trời cao Chúa nghe và giải cứu họ bao nhiêu lần,Vì Chúa thương xót họ. Chúa cảnh cáo họ, Ngài muốn họ quay về với kinh luật Ngài,Nhưng họ ngang ngược,Không tuân theo điều răn Chúa,Họ vi phạm qui luật Ngài,Là điều lệ mà người nào vâng giữ sẽ được sống,Nhưng họ kênh vai ra,Cứng cổ lại, không chịu tuân theo. Chúa nhẫn nhục chịu đựng họSuốt bao nhiêu năm,Chúa cảnh cáo họ qua Thần Linh của Ngài,Qua các vị tiên tri,Nhưng họ không quan tâm,Chúa đành phải nộp họ vào tay các dân tộc địa phương. Tuy nhiên, vì lòng thương xót vô biên của Chúa,Ngài không tận diệt họ, Ngài cũng không từ bỏ họ,Vì Ngài là Đức Chúa Trời khoan dung và nhân từ. Và giờ đây, ôi lạy Đức Chúa Trời của chúng con,Là Đức Chúa Trời vĩ đại, uy quyền, đáng kính sợ,Là Đấng giữ giao ước và tình yêu trung kiên,Xin Ngài đừng coi nhẹ tất cả những hoạn nạnNgài giáng xuống chúng con, các vua chúa chúng con,Các thầy tế lễ và các vị tiên tri chúng con,Các tổ phụ chúng con, và toàn thể con dân Ngài,Từ thời các vua A-si-ri cho đến ngày nay. Chúa thật công bằngTrong mọi việc xảy ra cho chúng con,Vì Ngài đối xử thành tín,Trong khi chúng con làm điều ác. Thật các vua chúa,Các thầy tế lễ và các tổ phụ chúng conKhông tuân giữ sắc lệnh Ngài,Cũng không quan tâm đến các điều răn và lời cảnh cáoNgài ban truyền cho họ. Ngay cả khi họ còn vương quốc,Và hưởng phước lành đầy dẫy Ngài ban cho.Trong vùng đất rộng rãi phì nhiêuNgài ban cho họ, họ cũng không thờ phượng Chúa,Cũng không từ bỏ công việc gian ác mình. Vì thế ngày nay, chúng con làm nô lệ,Ngay trên mảnh đất Ngài ban cho tổ phụ của chúng con,Để thụ hưởng hoa quả và sự mầu mỡ của đất,Thật vậy, chúng con làm nô lệ trên đất ấy. Hoa mầu của đất này dồn vào tay các vuaNgài đặt lên cai trị chúng con vì tội lỗi chúng con,Các vua này cầm quyền trên thân thể chúng con,Và tự tiện sử dụng súc vật của chúng con.Chúng con khổ nhục vô cùng. Dù vậy, chúng con đồng ý lập giao ước bền chặt. Văn kiện có đóng ấn của các nhà lãnh đạo, người Lê-vi, và các thầy tế lễ của chúng con.” Ấn mang tên tổng trấn Nê-hê-mi, con Ha-ca-lia,Sê-đê-kia; Sê-ra-gia, A-xa-ria, Giê-rê-mi. Phát-hua, A-ma-ria, Manh-ki-gia, Hát-túc, Sê-ba-nia, Ma-lúc, Ha-rim, Mê-rê-mốt, Ô-ba-đia (hoặc Ô-bát-gia), Đa-ni-ên, Ghi-nê-thôn, Ba-rúc, Mê-su-lam, A-bi-gia, Mi-gia-min, Ma-a-xia, Binh-gai, Sê-ma-gia. Những người kể trên là thầy tế lễ. Người Lê-vi: Giê-sua, con A-xa-nia, Bin-nui, con cháu Hê-na-đát, Cát-mi-ên, và các anh em Lê-vi khác, Sê-ba-nia, Hô-đi-gia, Kê-li-ta, Bê-la-gia, Ha-nan, Mi-ca, Rê-hốp, Ha-sa-bia, Xác-cua, Sê-rê-bia, Sê-ba-nia, Hô-đi-gia, Ba-ni, Bê-ni-nu. Các nhà lãnh đạo dân chúng: Pha-rốt, Pha-hát Mô-áp, Ê-lam, Xát-tu, Ba-ni, Bu-ni, A-gát, Bê-bai, A-đô-ni-gia, Biệt-vai, A-đin, A-te, Ê-xê-chia, A-xu-rơ, Hô-đi-gia, Ha-sum, Bê-sai, Ha-ríp, A-na-tốt, Nê-bai, Mạc-bi-ách, Mê-su-lam, Hê-xia, Mê-sê-xa-bên, Xa-đốc, Gia-đua, Phê-la-tia, Ha-nan, A-na-gia, Hô-sê, Ha-na-nia, Ha-súp, Ha-lô-hết, Binh-ha, Sô-bếch, Rê-hum, Ha-sáp-nia, Ma-a-xê-gia, A-ni-gia, Ha-nan, A-nan, Ma-lúc, Ha-rim, Ba-a-na. Những người còn lại, thầy tế lễ, người Lê-vi, người gác cổng, ca nhạc sĩ, người phục dịch đền thờ, và toàn thể những người nào đã tự mình phân rẽ khỏi dân địa phương vì kính sợ luật của Đức Chúa Trời, cùng với vợ, con trai và con gái họ, hết thảy những người có khả năng hiểu biết, cùng họp với các anh em quý tộc của họ, thề nguyện nhận chịu hình phạt nếu họ không sống theo Kinh Luật Đức Chúa Trời ban truyền qua Môi-se, tôi tớ Ngài. Họ hứa cẩn thận vâng giữ mọi điều răn, sắc lệnh và qui luật của CHÚA của họ, đặc biệt là:Chúng con thề không gả con gái chúng con cho dân địa phương, cũng không cưới con gái họ cho con trai chúng con; Nếu dân địa phương mang hàng hóa hoặc các thứ thóc lúa ra bán vào ngày Sa-bát, chúng con thề không mua của họ vào ngày Sa-bát hoặc bất cứ ngày thánh lễ nào khác;Chúng con thề không cày cấy vào năm thứ bảy, và tha hết những món nợ chưa trả; Chúng con hứa mỗi người dâng một phần ba sê-ken hằng năm vào công việc đền thờ, để trang trải các chi phí về bánh trần thiết, về tế lễ chay và tế lễ thiêu dâng thường xuyên, hàng ngày, tế lễ thiêu dâng vào ngày Sa-bát, ngày trăng mới, các ngày lễ khác, về các lễ vật thánh và lễ vật chuộc tội cho dân Y-sơ-ra-ên, cùng mọi công việc khác trong đền thờ Đức Chúa Trời chúng con. Chúng con, thầy tế lễ, người Lê-vi và thường dân, bắt thăm về việc dâng củi, định phiên cho mỗi gia tộc đem củi đến đền thờ đốt trên bàn thờ CHÚA, vào những thời hạn nhất định trong năm, theo Kinh Luật quy định. Chúng con hứa dâng hằng năm vào đền thờ CHÚA hoa lợi đầu mùa của đất đai chúng con và quả đầu mùa của mỗi loại cây ăn quả; luôn cả con trưởng nam và thú vật đầu lòng của chúng con, theo như quy định trong Kinh Luật; chúng con hứa đem bò và chiên sinh đầu lòng dâng vào đền thờ Đức Chúa Trời, trình cho các thầy tế lễ hầu việc tại đền thờ; chúng con hứa nộp vào kho đền thờ cho các thầy tế lễ bột thượng hạng và các lễ vật khác, hoa quả của mỗi loại cây, rượu mới, và dầu; và chúng con hứa nộp một phần mười hoa mầu của đất đai cho người Lê-vi, vì người Lê-vi vẫn thu phần mười trong khắp các thành nơi chúng con làm việc. Một thầy tế lễ thuộc dòng dõi A-rôn sẽ có mặt khi người Lê-vi thu phần mười, và người Lê-vi sẽ dâng lại một phần mười trong số phần thu được vào đền thờ Đức Chúa Trời, vào kho ngân khố. Chúng con, dân Y-sơ-ra-ên và người Lê-vi, sẽ nộp các lễ vật về ngũ cốc, rượu mới và dầu vào kho, là nơi chứa các dụng cụ đền thánh, và là nơi cư ngụ của các thầy tế lễ đang phiên trực, người gác cổng, và các ca nhạc sĩ.Chúng con hứa không dám bỏ bê đền thờ Đức Chúa Trời. Các nhà lãnh đạo quần chúng cư ngụ trong thành Giê-ru-sa-lem, dân chúng còn lại bắt thăm đem một phần mười dân số vào cư ngụ trong thành thánh Giê-ru-sa-lem, trong khi chín phần kia được ở trong các thành khác. Dân chúng đặc biệt biết ơn những người nào tình nguyện vào sống trong thành Giê-ru-sa-lem. Sau đây là danh sách các nhà lãnh đạo cấp tỉnh sống tại Giê-ru-sa-lem, trong khi dân Y-sơ-ra-ên, các thầy tế lễ, người Lê-vi, người phục dịch đền thờ, và con cháu những người nô lệ từ đời vua Sa-lô-môn sống mỗi người trong đất mình và thành mình, trong các thành khác thuộc Giu-đa. Một số người thuộc con cháu Giu-đa và Bên-gia-min sống tại Giê-ru-sa-lem.Dòng dõi Giu-đa có:A-tha-gia, con U-xia, cháu Xa-cha-ri, chắt A-ma-ria, chút Sê-pha-ti-gia, chít Ma-ha-la-ên, thuộc con cháu Phê-rết; và Ma-a-xê-gia, con Ba-rúc, cháu Côn-hô-xe, chắt Ha-xa-gia, chút A-đa-gia, chít Giô-gia-ríp (Giô-gia-ríp là con Xa-cha-ri), thuộc con cháu Sê-la. Tổng cộng có 468 người thuộc dòng Phê-rết sống tại Giê-ru-sa-lem, toàn là người dũng cảm. Sau đây là dòng dõi Bên-gia-min:Sa-lu, con Mê-su-lam, cháu Giô-ết, chắt Phê-đa-gia, chút Cô-la-gia, chít Ma-a-xê-gia (Ma-a-xê-gia là con Y-thi-ên, cháu Ê-sai), cùng với anh em ông, tổng cộng là 928 người dũng cảm; Giô-ên, con Xiếc-ri, chỉ huy họ, và Giu-đa, con Ha-sê-nua, làm phó thị trưởng. Các thầy tế lễ gồm có: Giê-đa-gia, con của Giô-gia-ríp, Gia-kin, Sê-ra-gia, con Hinh-kia, cháu Mê-su-lam, chắt Xa-đốc, chút Mê-ra-giốt, chít A-hi-túp, thầy thượng tế quản lý đền thờ Đức Chúa Trời; cùng với các thầy tế lễ khác phục vụ trong đền thờ, tổng cộng là 822 người;A-đa-gia, con Giê-rô-ham, cháu Phê-la-dia, chắt Am-si, chút Xa-cha-ri, chít Phát-hua, Phát-hua là con Manh-ki-gia, cùng với các thầy tế lễ khác, đều là trưởng tộc, hết thảy là 242 người;A-ma-sai, con A-xa-rên, cháu Ác-xai, chắt Mê-si-lê-mốt, chút Y-mê, cùng với các thầy tế lễ khác, toàn là chiến sĩ dũng cảm, hết thảy là 128 người.Xáp-di-ên, con Hạt-ghê-đô-lim, chỉ huy họ. Những người Lê-vi gồm có:Sê-ma-gia, con Ha-súp, cháu A-ri-kham, chắt Ha-sa-kia, chút Bun-ni; Sa-bê-thai và Giô-xa-bát, thuộc cấp lãnh đạo người Lê-vi, trông coi các việc bên ngoài đền thờ; Mát-tan-gia, con Mi-ca, cháu Xáp-đi, chắt A-sáp, trưởng ban tôn vinh khởi xướng bài ca cảm tạ trong giờ cầu nguyện;Bạc-bu-kia giữ chức phó trưởng ban giữa vòng người Lê-vi;và Áp-đa, con Sa-mua, cháu Ga-la, chắt Giê-đu-thun. Tổng cộng những người Lê-vi sống trong thành thánh là 284 người. Những người gác cổng gồm có A-cúp, Tanh-môn, và các anh em canh giữ cổng, tổng cộng là 172 người. Những người còn lại trong dân Y-sơ-ra-ên, thầy tế lễ, và người Lê-vi, sống trong khắp các thành thuộc Giu-đa, mỗi người trong phần đất thừa hưởng của cha ông. Những người phục dịch đền thờ cư ngụ tại Ô-phên; Xi-ha và Ghít-ba quản lý những người này. Người chỉ huy những người Lê-vi sống tại Giê-ru-sa-lem là U-xi, con Ba-ni, cháu Ha-sa-bia, chắt Mát-tan-gia, chút Mi-ca, thuộc dòng A-sáp, là dòng các ca nhạc sĩ chịu trách nhiệm về sự thờ phượng trong đền thờ Đức Chúa Trời, vì có lệnh vua ban truyền ấn định trọng trách hằng ngày cho các ca nhạc sĩ. Phê-ta-hia, con Mê-sê-xa-bên, thuộc dòng Xê-ra, con Giu-đa, cố vấn cho vua trong mọi công việc liên hệ đến dân chúng. Sau đây là những vùng định cư, kể cả ruộng nương.Một số người Giu-đa định cư ở Ki-ri-át A-ra-ba và các thôn ấp phụ cận, Đi-bôn và các thôn ấp phụ cận, Giê-cáp-xê-ên và các xã phụ cận, Giê-sua, Mô-la-đa, Bết-phê-lê, Hát-sa-su-anh, Bê-e-sê-ba và các thôn ấy phụ cận, Xiếc-lác, Mê-cô-na và các thôn ấp phụ cận, En-rim-môn, Xô-ra, Giát-mút, Xa-nô-a, A-đu-lam và các xã phụ cận, La-kích và đồng ruộng chung quanh, A-xê-ka và các thôn ấp phụ cận. Vậy họ định cư từ Bê-e-sê-ba cho đến thung lũng Hin-nôm. Một số người Bên-gia-min định cư ở Ghê-ba, Mích-ma, A-gia, Bê-tên và các thôn ấp phụ cận, A-na-tốt, Nóp, A-na-nia, Nát-so, Ra-ma, Ghi-tha-im, Ha-đi, Xê-bô-im, Nê-ba-lát, Lô-đơ, Ô-nô, và thung lũng những người thợ thủ công. Một số gia tộc người Lê-vi vốn ở Giu-đa gia nhập địa phận Bên-gia-min. Sau đây là những thầy tế lễ và người Lê-vi cùng hồi hương với Xô-rô-ba-bên, con Sa-anh-thi-ên, và Giê-sua:Sê-ra-gia, Giê-rê-mi, Ê-xơ-ra, A-ma-ria, Ma-lúc, Hát-túc, Sê-ca-nia, Rê-hum, Mê-rê-mốt, Y-đô, Ghi-nê-thôn, A-bi-gia, Mi-gia-min, Ma-a-đia, Binh-ga, Sê-ma-gia, Giô-gia-ríp, Giê-đa-gia, Sa-lu, A-mốc, Hinh-kia, Giê-đa-gia.Đó là các vị trưởng tộc và anh em họ trong vòng các thầy tế lễ vào đời Giê-sua. Người Lê-vi: Giê-sua, Bin-nui, Cát-mi-ên, Sê-rê-bia, Giu-đa, và Mát-tan-gia là người cùng với anh em ông phụ trách các bài ca cảm tạ. Đứng đối ngang họ trong lễ thờ phượng có Bạc-bu-kia, U-ni và những người Lê-vi khác. Giê-sua là cha Giô-gia-kim, Giô-gia-kim là cha Ê-li-a-síp, Ê-li-a-síp là cha Giô-gia-đa, Giô-gia-đa là cha Giô-na-than, và Giô-na-than là cha Gia-đua. Vào đời Giô-gia-kim, những thầy tế lễ sau đây làm trưởng tộc:Mê-ra-gia, trưởng tộc Sê-ra-gia,Ha-na-nia, trưởng tộc Giê-rê-mi, Mê-su-lam, trưởng tộc Ê-xơ-ra,Giê-hô-ha-nan, trưởng tộc A-ma-ria, Giô-na-than, trưởng tộc Ma-lúc,Giô-sép, trưởng tộc Sê-ba-nia, Át-na, trưởng tộc Ha-rim,Hên-cai, trưởng tộc Mê-ra-giốt, Xa-cha-ri, trưởng tộc Y-đô,Mê-su-lam, trưởng tộc Ghi-nê-thôn, Xiếc-ri, trưởng tộc A-bi-gia, trưởng tộc Min-gia-min,Phinh-tai, trưởng tộc Mô-a-đia, Sa-mua, trưởng tộc Binh-ga,Giê-hô-na-than, trưởng tộc Sê-ma-gia, Mát-tê-nai, trưởng tộc Giô-gia-ríp,U-xi, trưởng tộc Giê-đa-gia, Ca-lai, trưởng tộc Sa-lai,Ê-be, trưởng tộc A-mốc, Ha-sa-bia, trưởng tộc Hinh-kia,Nê-tha-nên, trưởng tộc Giê-đa-gia. Người ta đăng ký gia đình các thầy tế lễ theo tên các trưởng tộc vào đời Ê-li-sa-síp, Giô-gia-đa, Giô-ha-nan, và Gia-đua, cho đến triều Đa-ri-út, vua Ba-tư. Con các trưởng tộc người Lê-vi được đăng ký trong sách sử biên niên cho đến đời Giô-ha-nan, con cháu Ê-li-a-síp. Các trưởng tộc người Lê-vi: Ha-sa-bia, Sê-rê-bia, Giê-sua, Bin-nui, và Cát-mi-ên luân phiên ca ngợi và cảm tạ Đức Chúa Trời, theo sắc lệnh của Đa-ít, người của Đức Chúa Trời, cùng với những người Lê-vi khác đứng đối ngang họ, là Mát-tan-gia, Bạc-bu-kia, và Ô-ba-đia.Mê-su-lam, Tanh-môn, và A-cúp là người gác cổng, canh giữ kho bên cổng đền thờ. Những người này phục vụ trong đời của Giô-gia-kim, con Giê-sua, cháu Giô-xa-đác, và đời của tổng trấn Nê-hê-mi và thầy tế lễ thông thạo Kinh Luật Ê-xơ-ra. Vào dịp lễ cung hiến tường thành Giê-ru-sa-lem, người ta tìm người Lê-vi ở khắp nơi nào họ sinh sống và đưa họ về Giê-ru-sa-lem để hân hoan cử hành lễ cung hiến với những bài ca cảm tạ, theo tiếng đệm của chập chỏa, đàn hạc, và đàn lia. Các ca nhạc sĩ cũng tụ về từ các vùng phụ cận Giê-ru-sa-lem và các làng định cư ở Nê-tô-pha, từ Bết-ghinh-ganh và từ vùng thôn quê ở Ghê-ba và Ách-ma-vết, vì các ca nhạc sĩ có lập làng định cư chung quanh Giê-ru-sa-lem. Các thầy tế lễ và người Lê-vi tự thanh tẩy chính mình, xong rồi họ thanh tẩy dân chúng, các cổng và tường thành. Tôi đưa các nhà lãnh đạo Giu-đa lên trên vách thành, và chỉ định hai ca đoàn đông đảo dâng lời cảm tạ. Ca đoàn thứ nhất rẽ bên phải, đi trên vách thành về phía cổng Phân. Theo sau họ có Hô-sa-gia và phân nửa số các nhà lãnh đạo Giu-đa, cùng với A-xa-ria, Ê-xơ-ra, và Mê-su-lam, Giu-đa, Min-gia-min, Sê-ma-gia, và Giê-rê-mi, là những thầy tế lễ thổi kèn đồng; cũng có Xa-cha-ri, con Giô-na-than, cháu Sê-ma-gia, chắt Mát-tan-gia, chút Mi-ca-gia, chít Xác-cua (Xác-cua là con A-sáp), và anh em ông là Sê-ma-gia, A-xa-rên, Mi-la-lai, Ghi-la-lai, Ma-ai, Nê-tha-nên, Giu-đa, và Ha-na-nia. Những người này sử dụng nhạc khí của Đa-vít, người của Đức Chúa Trời. Thầy tế lễ thông thạo Kinh Luật Ê-xơ-ra đi trước họ. Họ đi ngang qua cổng Suối, leo thang lên các bậc thang dẫn lên Thành Đa-vít, họ trở lên tường thành, đi ngang qua dinh Đa-vít, đến cổng Nước ở phía đông. Ca đoàn thứ nhì rẽ bên trái, và tôi theo sau họ, cùng với phân nửa đoàn người còn lại, đi trên vách thành, đi ngang qua Tháp Lò đến Vách Rộng, đi ngang qua cổng Ép-ra-im, cổng Cũ, cổng Cá, Tháp Ha-na-nê-ên, Tháp Một Trăm, đến cổng Chiên, rồi dừng lại tại cổng Gác. Cả hai ca đoàn cảm tạ đều đứng vào vị trí của mình trong đền thờ Đức Chúa Trời; tôi và phân nửa số các viên chức với tôi cũng vậy. Các thầy tế lễ Ê-li-a-kim, Ma-a-sê-gia, Min-gia-min, Mi-ca-gia, Ê-li-ô-ê-nai, Xa-cha-ri, và Ha-na-nia thổi kèn đồng. Các ca nhạc sĩ Ma-a-sê-gia, Sê-ma-gia, Ê-lê-a-sa, U-xi, Giê-hô-gia-nan, Manh-ki-gia, Ê-lam, và Ê-xe đàn hát lớn tiếng theo sự hướng dẫn của Giê-ra-hia. Hôm ấy, người ta dâng rất nhiều sinh tế, mọi người đều vui mừng vì Đức Chúa Trời ban cho họ niềm vui tràn đầy. Phụ nữ trẻ em cùng vui mừng hớn hở. Tiếng reo vui từ Giê-ru-sa-lem vang ra đến tận nơi xa. Trong ngày ấy, một số người được cử trông coi các phòng dành làm kho chứa các lễ vật dâng hiến, lễ vật đầu mùa và lễ vật phần mười. Những người này có trách nhiệm thu góp về chứa trong kho các phần hoa mầu Kinh Luật quy định cho các thầy tế lễ và người Lê-vi, tùy theo ruộng đất của mỗi thành, vì dân Giu-đa rất thỏa lòng về công việc của các thầy tế lễ và người Lê-vi. Họ lo việc phụng sự Đức Chúa Trời và chu toàn cả lễ nghi thanh tẩy. Các ca nhạc sĩ và người gác cổng cũng phục vụ theo điệu lễ vua Đa-vít và Sa-lô-môn, con vua ấn định. Thật vậy, từ thời xa xưa, từ thời Đa-vít và A-sáp, đã có những người điều khiển ca đoàn và hướng dẫn giờ ca ngợi cảm tạ Đức Chúa Trời. Do đó, vào thời Xê-rô-ba-bên và Nê-hê-mi, toàn dân Y-sơ-ra-ên đều đóng góp phần dành cho các ca nhạc sĩ và người gác cổng theo như quy định hàng ngày. Họ biệt riêng phần của người Lê-vi, và người Lê-vi biệt riêng phần cho các thầy tế lễ, con cháu A-rôn. Hôm ấy, khi dân chúng nghe đọc kinh luật Môi-se, họ thấy có ghi chép rằng người Am-môn và người Mô-áp đời đời không được gia nhập hội chúng của những người tôn thờ Đức Chúa Trời, vì họ chẳng những không mang bánh nước ra tiếp đón, lại còn mướn Ba-la-am nguyền rủa dân Y-sơ-ra-ên, mặc dù Đức Chúa Trời đã đổi lời nguyền rủa thành lời chúc phước. Nghe đến quy luật này, dân Y-sơ-ra-ên liền tách biệt khỏi những người có gốc ngoại lai. Tuy nhiên, trước đây, thầy tế lễ Ê-li-a-síp, người có trách nhiệm quản lý các phòng kho trong đền thờ, lại có họ hàng với Tô-bia, nên dành cho Tô-bia một phòng rộng, là nơi trước kia chứa lễ vật ngũ cốc, nhũ hương, các dụng cụ (của đền thờ), lễ vật phần mười về lúa mì, rượu mới, và dầu theo như quy định cho người Lê-vi, các ca nhạc sĩ, và người gác cổng, cùng với lễ vật dâng lên cho các thầy tế lễ. Trong thời gian đó, tôi không có mặt tại Giê-ru-sa-lem, vì tôi đã về bệ kiến vua vào năm thứ ba mươi hai triều Át-ta-xét-xe, vua Ba-by-lôn. Cách ít lâu, tôi xin phép vua, và trở về Giê-ru-sa-lem. Bây giờ tôi mới khám phá ra việc tệ hại Ê-li-a-síp đã làm, dọn cho Tô-bia một phòng riêng ngay trong khuôn viên đền thờ. Tôi nổi giận, ném tất cả đồ đạc của Tô-bia ra khỏi phòng. Tôi ra lệnh tẩy uế các phòng, rồi đem trở về phòng các dụng cụ của đền thờ, lễ vật ngũ cốc, và nhũ hương. Tôi còn biết người Lê-vi không được cấp phần lương thực theo như Kinh Luật quy định, vì thế họ và các ca nhạc sĩ bỏ chức vụ, trốn về nhà làm ruộng. Tôi khiển trách các viên chức: “Tại sao đền thờ Đức Chúa Trời bị bỏ bê như vậy?” Rồi tôi tập họp những người Lê-vi lại, và phục hồi chức vụ cho họ. Bấy giờ toàn dân Giu-đa mang phần mười lúa mì, rượu mới, và dầu dâng vào kho. Tôi chỉ định thầy tế lễ Sê-lê-mia, thư ký Xa-đốc, Phê-đa-gia, là người Lê-vi, quản lý kho đền thờ, và Ha-nan, con Xác-cua, cháu Mát-tan-gia, làm phụ tá cho họ, vì những người này được tín nhiệm; họ có bổn phận chia phần cho các anh em mình. Cầu xin Đức Chúa Trời ghi nhận cho con việc này, xin Ngài cũng đừng quên những việc lành con đã trung tín làm cho đền thờ Chúa, để phục vụ Ngài. Vào thời ấy, tôi bắt gặp một số người ở Giu-đa đạp bàn ép nho vào ngày Sa-bát. Họ cũng chất cả đống nông sản lên lưng lừa, nào rượu, nho, trái vả, và đủ loại sản vật, mang về Giê-ru-sa-lem vào ngày Sa-bát. Tôi cảnh cáo họ, không cho họ bán các thực phẩm ấy. Ngoài ra, người Ty-rơ sống tại đây, cũng đem cá và đủ loại hàng hóa về bán cho người Giu-đa ở Giê-ru-sa-lem vào ngày Sa-bát. Tôi khiển trách giới quý tộc của Giu-đa: “Anh em làm chuyện gì gian ác vậy? Anh em vi phạm ngày Sa-bát! Có phải tổ tiên chúng ta cũng đã làm y như vậy không, khiến cho Đức Chúa Trời giáng tất cả những tai họa này trên chúng ta và thành này? Bây giờ anh em lại vi phạm ngày Sa-bát, khiến cho cơn giận đổ xuống dân Y-sơ-ra-ên càng tăng thêm!” Khi cổng thành Giê-ru-sa-lem khởi sự yên tĩnh trước ngày Sa-bát, tôi ra lệnh đóng cổng luôn, không được mở cho đến sau ngày Sa-bát. Tôi cũng cắt mấy gia nhân của tôi đứng gác tại cổng, không cho ai đem hàng hóa vào trong ngày Sa-bát. Tuy nhiên, những người buôn bán đủ các mặt hàng ngủ lại bên ngoài thành Giê-ru-sa-lem một đôi lần. Tôi cảnh cáo họ: “Tại sao các anh lại ngủ ngay bên tường thành thế này? Nếu các anh còn tiếp tục làm như vậy, tôi sẽ cho người bắt các anh.” Từ đấy, họ không đến vào ngày Sa-bát nữa. Tôi cũng ra lệnh cho người Lê-vi dọn mình thanh sạch đến gác cổng thành để giữ ngày Sa-bát thánh khiết.Cầu xin Đức Chúa Trời ghi nhận thêm cho con điều này, và cầu xin Ngài bảo toàn mạng sống con tùy theo lòng thương xót lớn lao và trung kiên của Ngài. Cũng vào thời gian ấy, tôi thấy có những người Giu-đa cưới phụ nữ Ách-đốt, Am-môn, và Mô-áp. Phân nửa con cái họ nói tiếng Ách-đốt, hoặc tiếng của dân tộc này dân tộc nọ, chứ không nói được tiếng của người Giu-đa. Tôi quở trách, nguyền rủa họ, thậm chí đánh một vài người và bứt tóc họ. Tôi buộc họ thề nhân danh Đức Chúa Trời: “Anh em không được gả con gái mình cho con trai họ, cũng không được cưới con gái họ cho mình hoặc con trai mình. Có phải Sa-lô-môn, vua Y-sơ-ra-ên, cũng phạm tội vì cớ những người đàn bà ấy không? Trong biết bao nhiêu dân tộc, không có vua nào như vua Sa-lô-môn. Vua được Đức Chúa Trời yêu, được Ngài lập lên làm vua cả nước Y-sơ-ra-ên. Thế mà, ngay cả vua cũng bị vợ ngoại tộc xui cho phạm tội. Lẽ nào chúng tôi nghe theo anh em, để cho anh em phạm tội ác lớn lao này, cư xử bất trung với Đức Chúa Trời, cưới vợ ngoại tộc sao?” Một người con của Giô-gia-đa, con thầy thượng tế Ê-li-a-síp, cưới con gái San-ba-lát, người Hô-rôn, nên tôi đuổi người ấy đi. Xin Đức Chúa Trời nhớ cho, họ đã làm ô uế chức tế lễ, và làm ô uế giao ước Ngài lập với các thầy tế lễ và người Lê-vi. Tôi thanh lọc khỏi họ mọi điều gì dính dáng đến nước ngoài. Tôi quy định trách nhiệm riêng cho từng người, cho các thầy tế lễ và người Lê-vi. Tôi cũng sắp xếp việc dâng củi vào ngày giờ nhất định, và việc dâng hoa quả đầu mùa.Cầu xin Đức Chúa Trời nhớ đến con và ban ơn cho con! Chuyện xảy ra vào đời vua A-suê-ru, vua A-suê-ru này thống trị một trăm hai mươi bảy tỉnh, từ Ấn-độ đến Ê-thi-ô-bi. Vào thời ấy, khi vua A-suê-ru ngự tại thành nội Su-san, vào năm thứ ba triều vua, vua mở yến tiệc thết đãi tất cả các thượng quan và triều thần, lực lượng chỉ huy của Ba-tư và Mê-đi, các nhà quý tộc, và các tổng trấn. Vua phô trương sự giầu có vinh quang của đế quốc cùng sự sang trọng huy hoàng vĩ đại của chính mình vua trong nhiều ngày, cả thảy là một trăm tám mươi ngày. Những ngày đó vừa qua đi, vua mở tiệc suốt bảy ngày khoản đãi toàn thể dân chúng sống tại thành nội Su-san, từ người sang đến kẻ hèn, tại sân vườn thượng uyển. Ôi chao! Nào là những bức màn trắng và tím bằng lụa mịn, buộc với những vải lanh đỏ tía vào những cây cần bạc đính vào các trụ cẩm thạch! Nào là những chiếc trường kỷ mạ vàng, mạ bạc đặt trên nền lát đá đỏ, đá cẩm thạch, xa cừ, và ngọc quý! Rượu dọn ra trong những chiếc ly bằng vàng, đủ kiểu, vua thết đãi rượu dồi dào, hiệp với tính sang trọng của nhà vua. Theo lệnh vua, rượu uống không hạn chế, vì vua đã ra lệnh cho triều thần tại hoàng cung dọn rượu theo sở thích của từng người. Hoàng hậu Vả-thi cũng mở tiệc thết đãi các phụ nữ trong cung điện vua A-suê-ru. Ngày thứ bảy, khi rượu đã ngà ngà, vua A-suê-ru truyền lệnh cho bảy quan thái giám hầu vua là Mê-hu-man, Bích-tha, Hạc-bô-na, Biếc-tha, A-bạc-tha, Xê-tha, và Cát-ca, đưa hoàng hậu Vả-thi, đầu đội vương miện, đến ra mắt vua, để phô bầy sắc đẹp của hoàng hậu ra trước mắt dân chúng và quan chức, vì hoàng hậu đẹp lắm. Nhưng hoàng hậu Vả-thi từ chối, không chịu đến theo lệnh vua truyền qua các thái giám. Vua tức giận vô cùng. Cơn giận như thiêu như đốt trong lòng vua. Vua hội ý với các nhà thông thái hiểu biết thời vận, vì vua có lệ tham khảo ý kiến tất cả những người thông thạo luật pháp và vấn đề xét xử; những người thân cận với vua là bảy vị thượng thư của đế quốc Ba-tư và Mê-đi: Cát-sê-na, Sê-tha, Át-ma-tha, Tạt-si, Mê-rết, Mát-sê-na, và Mê-mu-can; họ được quyền yết kiến vua, và nắm chức vụ hàng đầu trong đế quốc; “Hoàng hậu Vả-thi bất tuân lệnh vua A-suê-ru truyền qua các thái giám, vậy chiếu theo luật pháp, ta phải xử lý thế nào?” Trước sự hiện diện của các vị thượng thư, Mê-mu-can tâu với vua: “Hoàng hậu Vả-thi chẳng những có lỗi với bệ hạ, mà lại còn có lỗi với tất cả các quan chức và tất cả các dân tộc trong khắp các tỉnh của bệ hạ nữa. Vì hành động này của hoàng hậu sẽ đồn đến tai tất cả các phụ nữ, khiến họ khinh thường chồng, vì họ nói: ‘Vua A-suê-ru có truyền lệnh đưa hoàng hậu Vả-thi đến trước mặt vua, nhưng hoàng hậu không chịu đi.’ Ngay chính hôm nay, các phu nhân trong đế quốc Ba-tư và Mê-đi nghe về hành động của hoàng hậu sẽ thuật lại như vậy với tất cả các vị quan chức của bệ hạ, gây ra lắm chuyện khinh dể và giận dữ. Nếu bệ hạ đẹp ý, xin bệ hạ ra sắc lệnh cấm Vả-thi đến trước mặt bệ hạ, và ban chức hoàng hậu cho người khác xứng đáng hơn. Xin bệ hạ cho ghi chép sắc lệnh này trong đạo luật của đế quốc Ba-tư và Mê-đi, như vậy sắc lệnh này sẽ không hề bị hủy bỏ. Khi sắc lệnh này, mà vua sẽ ký, được công bố ra khắp đế quốc và đế quốc của bệ hạ thật là rộng lớn, mọi bà vợ đều sẽ tôn trọng chồng, bất luận cao sang hay nghèo hèn.” Lời này đẹp ý vua và các thượng thư. Vua cho thực hiện y theo lời Mê-mu-cam. Vua sai gửi chiếu chỉ đến khắp các tỉnh của vua, viết bằng chữ viết của mỗi tỉnh và theo ngôn ngữ của mỗi dân tộc, ra lệnh cho mỗi người nam phải nắm quyền làm chủ gia đình mình, và phải nói ngôn ngữ của dân tộc mình. Cách ít lâu, khi vua A-suê-ru đã nguôi giận, vua nhớ đến Vả-thi, hành động của bà, và sắc lệnh ký truất bỏ bà. Các cận thần hầu vua đề nghị: “Xin bệ hạ truyền lệnh tìm cho bệ hạ những trinh nữ trẻ đẹp. Xin bệ hạ chỉ định những viên chức trong khắp các tỉnh của đế quốc lo tập họp những trinh nữ trẻ đẹp về hậu cung tại thành nội Su-san, giao cho Hê-gai, quan thái giám của vua, là quan canh giữ các cung nữ, coi sóc. Xin bệ hạ truyền phân phối mỹ phẩm cho các cô ấy. Rồi cô nào đẹp lòng vua sẽ làm hoàng hậu thay cho Vả-thi.” Lời đề nghị này đẹp ý vua. Vua ra lệnh thi hành y như lời. Tại thành nội Su-san có một người Do Thái tên Mạc-đô-chê, con trai Giai-rơ, cháu Si-mê-i, chắt của Kích, thuộc chi tộc Bên-gia-min. Kích bị Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, bắt đi lưu đày từ Giê-ru-sa-lem cùng với đoàn người lưu đày, cùng lúc với Giê-cô-nia, vua Giu-đa. Mạc-đô-chê có nuôi dưỡng Ha-đa-sa, cũng gọi là Ê-xơ-tê, con gái của chú mình, vì Ê-xơ-tê mồ côi cha mẹ. Thiếu nữ này dáng người đẹp đẽ, nét mặt xinh tươi. Khi cha mẹ Ê-xơ-tê qua đời, Mạc-đô-chê nhận cô làm con. Khi sắc lệnh vua ban hành, nhiều trinh nữ bị gom về thành nội Su-san, giao cho Hê-gai coi sóc. Ê-xơ-tê cũng bị đưa về hoàng cung giao cho Hê-gai, quan canh giữ các cung nữ. Thiếu nữ này đẹp lòng Hê-gai. Cô chiếm được cảm tình của ông, nên ông vội vàng cung cấp mỹ phẩm và phần ăn cho cô. Ông cũng phân cho cô bảy nữ tỳ chọn lọc từ hoàng cung, rồi dời cô và các nữ tỳ về nơi tốt nhất trong hậu cung. Ê-xơ-tê không tiết lộ cho ai biết về dân tộc và dòng dõi cô, vì Mạc-đô-chê đã căn dặn cô đừng tiết lộ gì cả. Ngày nào Mạc-đô-chê cũng lảng vảng trước sân hậu cung để dò thăm sức khỏe Ê-xơ-tê và việc gì xảy ra cho cô. Các thiếu nữ lần lượt theo phiên mình đến với vua A-suê-ru, sau khi hoàn tất chế độ mười hai tháng ấn định cho phụ nữ, vì đó là thời gian trau dồi sắc đẹp cho các cô: sáu tháng với dầu một dược, và sáu tháng với các hương liệu và mỹ phẩm của phụ nữ. Đây là cách thức thiếu nữ đến cùng vua: bất cứ điều gì cô xin đều ban cho cô để mang theo từ cung phi tần đến cung điện vua. Buổi tối cô đến với vua, và sáng hôm sau, cô trở về hậu cung thứ nhì, dưới quyền quản đốc của Sa-ách-ga, quan thái giám của vua, quan canh giữ các cung phi. Cô không bao giờ vào cùng vua nữa, trừ trường hợp vua ưa thích cô và cho gọi đích danh. Đến phiên Ê-xơ-tê (con gái A-bi-ha-đin, cháu mà Mạc-đô-chê đã nhận làm con) vào cùng vua, cô không xin chi hết ngoại trừ những gì thái giám Hê-gai, quan canh giữ các cung nữ, khuyên cô mang theo. Tuy nhiên mọi người thấy Ê-xơ-tê đều trầm trồ ca ngợi. Ê-xơ-tê được đưa vào cung cùng vua A-suê-ru, trong hoàng cung, vào tháng mười, tức tháng Tê-bết, năm thứ bảy triều vua. Vua yêu thương Ê-xơ-tê hơn tất cả các phụ nữ khác. Cô chiếm được tình cảm và lòng quý chuộng của vua hơn tất cả các trinh nữ khác. Vua đội vương miện lên đầu cô và lập cô làm hoàng hậu thay cho Vả-thi. Vua mở yến tiệc linh đình thết đãi tất cả các thượng quan và triều thần, gọi là “Tiệc của Ê-xơ-tê.” Vua công bố ngày lễ nghỉ trong các tỉnh và ban phát tặng phẩm rộng rãi, xứng hiệp với tư cách nhà vua. Tóm lại, từ khi người ta tập họp các trinh nữ, và Mạc-đô-chê trở thành một quan chức trong triều đình, Ê-xơ-tê vẫn không hề tiết lộ cho ai biết về dòng dõi hoặc dân tộc cô, y như Mạc-đô-chê căn dặn. Ê-xơ-tê vẫn vâng lời Mạc-đô-chê y như lúc cô còn dưới quyền giám hộ của ông. Vào thời ấy, khi Mạc-đô-chê làm việc tại triều đình, Bích-than và Thê-rết, hai thái giám của vua, thuộc đội vệ binh canh gác ngưỡng cửa, oán giận vua A-suê-ru và mưu đồ ám hại vua. Biết được tin này, Mạc-đô-chê báo cho hoàng hậu Ê-xơ-tê, và Ê-xơ-tê lấy danh nghĩa của Mạc-đô-chê tâu lên vua. Sau khi điều tra và thấy đúng như vậy, cả hai thái giám đều bị treo cổ. Biến cố này được ghi vào sách Sử Biên Niên, theo lệnh vua. Cách ít lâu, vua A-suê-ru thăng chức cho Ha-man, con Ha-mê-đa-tha, thuộc dòng dõi A-sát; vua cất nhắc ông lên giữ chức vụ cao hơn tất cả các quan chức trong triều. Hết thảy các triều thần của vua tại triều đình đều quỳ xuống và cúi sấp trước mặt Ha-man, vì vua đã ra lệnh như vậy. Tuy nhiên Mạc-đô-chê không quỳ xuống, cũng không cúi sấp. Vì thế các triều thần của vua tại triều đình hỏi Mạc-đô-chê: “Sao ông bất tuân lệnh vua?” Sau khi họ nhắc ông ngày này qua ngày kia, nhưng ông vẫn không nghe theo họ, họ trình lên Ha-man để xem lý của Mạc-đô-chê có vững hay không, vì ông có tiết lộ cho họ biết ông là người Do-thái. Khi thấy Mạc-đô-chê không chịu quỳ xuống, cũng không cúi sấp trước mặt mình, Ha-man tức giận vô cùng. Nhưng Ha-man khinh thường việc giết hại một mình Mạc-đô-chê, nên ông lập mưu tiêu diệt tất cả những người Do-thái, là dân tộc của Mạc-đô-chê, trên toàn đế quốc vua A-suê-ru. Vào tháng giêng, tức tháng Ni-san, năm thứ mười hai đời vua A-suê-ru, theo lệnh Ha-man, người ta gieo Phu-rơ, nghĩa là gieo thăm, để định ngày và tháng, nhằm hủy diệt dân tộc của Mạc-đô-chê trong một ngày, và thăm trúng ngày mười ba tháng chạp, tức tháng A-đa. Ha-man tâu cùng vua A-suê-ru: “Có một dân tộc sống rải rác, và tách biệt giữa các dân tộc khác trong khắp các tỉnh trong đế quốc của bệ hạ. Dân tộc này chẳng những có luật lệ khác hẳn mọi dân tộc kia, mà chúng lại không tuân hành luật lệ của bệ hạ nữa. Dung tha cho chúng thật không ích lợi gì cho bệ hạ cả. Nếu bệ hạ đẹp lòng, xin bệ hạ ra sắc lệnh tiêu diệt dân tộc đó. Tôi xin đóng ba trăm bốn mươi lăm tấn bạc cho các viên chức phụ trách sung vào ngân khố triều đình.” Bấy giờ vua tháo nhẫn có ấn của vua ra khỏi tay trao cho Ha-man, con Ha-mê-đa-tha, thuộc dòng dõi A-gát, kẻ thù của dân Do-thái. Vua phán với Ha-man: “Ta giao bạc tiền cho khanh, luôn cả dân tộc đó, khanh muốn làm gì tùy ý.” Ngày mười ba tháng giêng, các thư ký của vua được triệu tập lại để thảo công văn y theo mọi chỉ thị của Ha-man, gửi cho các vị thống đốc của vua, các tổng trấn của mỗi tỉnh, các quan chức của từng dân tộc. Công văn viết bằng chữ viết của mỗi tỉnh và ngôn ngữ của mỗi dân tộc, ký tên vua A-suê-ru, và đóng ấn bằng nhẫn vua. Các lính trạm đem văn thư đến khắp các tỉnh của vua, với chỉ thị: phải hủy diệt, tàn sát, tiêu trừ tất cả những người Do-thái, từ trẻ đến già, luôn cả trẻ con và phụ nữ, vào một ngày duy nhất, ngày mười ba tháng chạp, tức tháng A-đa, và cướp đoạt tài sản của họ; phải ban hành một bản sao của văn thư thành đạo luật trong mọi tỉnh, và công bố cho mọi dân tộc, để họ chuẩn bị sẵn sàng cho ngày đó. Lính trạm cấp bách ra đi theo lệnh vua; sắc lệnh cũng được ban hành tại thành nội Su-san. Xong rồi, vua và Ha-man ngồi dự yến, trong khi dân thành Su-san hoang mang. Khi Mạc-đô-chê biết được mọi việc xảy ra, ông liền xé áo, quấn vải thô, và rắc tro lên đầu. Ông đi ra giữa thành, lớn tiếng than khóc đắng cay. Ông dừng lại ngay trước cổng cung điện, vì không ai quấn vải thô được phép vào cổng. Trong khắp các tỉnh, nơi nào sắc lệnh vua truyền tới, người Do-thái kêu la thảm thiết, họ kiêng ăn, khóc lóc, thở than. Nhiều người nằm trên vải thô rắc tro. Khi các nữ tỳ và thái giám của Ê-xơ-tê báo cáo tình hình cho hoàng hậu, hoàng hậu xúc động vô cùng. Hoàng hậu gửi áo quần cho Mạc-đô-chê mặc để ông cởi bỏ lớp vải thô quấn quanh mình, nhưng ông không nhận. Ê-xơ-tê sai gọi Hà-thác, một trong những thái giám của vua, được vua cắt đặt hầu cận hoàng hậu, và sai Hà-thác đến gặp Mạc-đô-chê để tìm hiểu sự tình. Hà-thác đi ra gặp Mạc-đô-chê tại quảng trường của thành phố, đối ngang cổng vào hoàng cung. Mạc-đô-chê kể cho Hà-thác nghe mọi chuyện xảy ra cho ông, ngay cả số lượng bạc chính xác Ha-man hứa đóng vào ngân khố hoàng gia để hủy diệt dân Do-thái. Ông cũng trao cho Hà-thác một bản sao sắc lệnh của vua công bố tại Su-san về việc hủy diệt dân Do-thái. Ông dặn Hà-thác cho Ê-xơ-tê xem sắc lệnh ấy, và trình lại cho bà rõ sự việc. Ông cũng bảo bà phải ra mắt vua, nài khẩn van xin vua cho dân tộc của bà. Hà-thác về tâu lại cho Ê-xơ-tê mọi lời của Mạc-đô-chê. Ê-xơ-tê bảo Hà-thác trở lại thưa với Mạc-đô-chê: “Tất cả các triều thần của vua, và ngay cả dân chúng trong các tỉnh của vua đều biết rằng bất luận đàn ông hay đàn bà, nếu không được vua đòi mà vào sân nội điện ra mắt vua, thì chỉ có một luật thôi: người ấy phải bị xử tử. Chỉ khi vua đưa vương trượng bằng vàng ra cho người thì người mới được sống. Về phần con, đã ba mươi ngày rồi con chưa được lệnh đòi hầu vua.” Khi họ trình lại Mạc-đô-chê sứ điệp của Ê-xơ-tê, Mạc-đô-chê sai đáp lại Ê-xơ-tê: “Con chớ tưởng rằng trong tất cả những người Do-thái, chỉ mình con sẽ thoát chết vì con ở trong cung vua. Nếu con giữ yên lặng trong lúc này, người Do-thái sẽ được giúp đỡ và giải cứu từ nơi khác. Nhưng con và dòng họ con sẽ bị tiêu diệt. Biết đâu con được chức hoàng hậu là vì cớ thời điểm như thế này!” Ê-xơ-tê sai thưa lại với Mạc-đô-chê: “Con xin cha tập họp lại tất cả những người Do-thái tại Su-san. Xin cha và họ vì con mà kiêng ăn, xin đừng ăn uống chi cả suốt ba ngày ba đêm. Con và các nữ tỳ của con cũng sẽ kiêng ăn như vậy. Sau đó con sẽ đến ra mắt vua, dù trái luật. Nếu con phải chết thì con chết!” Mạc-đô-chê ra về, làm theo mọi điều Ê-xơ-tê cầu xin. Ngày thứ ba, Ê-xơ-tê mặc triều phục hoàng hậu, đứng chầu tại sân nội điện, đối ngang phòng ngai. Vua đang ngự trên ngai đối diện cửa ra vào. Ngay khi vua nhìn thấy hoàng hậu Ê-xơ-tê đứng chầu trong sân, hoàng hậu chiếm được cảm tình của vua. Vua đưa vương trượng vàng cầm trong tay ra cho Ê-xơ-tê. Ê-xơ-tê đến gần, sờ đầu vương trượng. Vua hỏi: “Hoàng hậu Ê-xơ-tê, ái khanh có đều chi lo phiền? Ái khanh cầu xin điều chi? Dù đến nửa đế quốc ta cũng ban cho.” Ê-xơ-tê tâu: “Nếu bệ hạ đẹp lòng, xin mời bệ hạ và tướng Ha-man chiều nay đến dự tiệc thiếp dọn cho bệ hạ.” Vua truyền: “Hãy mau gọi Ha-man đến, làm theo lời yêu cầu của hoàng hậu Ê-xơ-tê.” Vậy vua và Ha-man đến dự tiệc Ê-xơ-tê đã dọn sẵn. Giữa tiệc rượu, vua hỏi Ê-xơ-tê: “Ái khanh ước muốn điều chi? Ta sẽ ban cho. Ái khanh cầu xin điều chi? Dù đến nửa đế quốc, ái khanh cũng sẽ được toại nguyện.” Ê-xơ-tê thưa: “Điều thiếp ước muốn, và điều thiếp cầu xin, nếu thiếp được ơn trước mặt bệ hạ, nếu bệ hạ đẹp lòng ban cho thiếp điều thiếp ước muốn, và làm theo điều thiếp cầu xin, thiếp xin mời bệ hạ và Ha-man ngày mai đến dự tiệc thiếp sẽ dọn, sau đó, thiếp xin tuân theo lời bệ hạ truyền.” Hôm ấy Ha-man ra về, tâm hồn vui mừng sảng khoái. Nhưng khi Ha-man thấy Mạc-đô-chê ngồi làm việc tại triều, mà chẳng đứng dậy cũng chẳng khúm núm trước mặt ông, thì ông giận Mạc-đô-chê lắm. Nhưng Ha-man cố nén giận, đi về nhà. Ông sai mời các bạn ông, và Xê-rết, vợ ông, đến. Ha-man thuật lại cho họ nghe về sự vinh hiển giầu sang của ông, về số con cái đông đúc của ông, và về tất cả những gì vua làm để thăng chức và để cất nhắc ông lên địa vị cao hơn các thượng quan và quần thần của vua. Ha-man nói tiếp: “Hơn thế nữa, hoàng hậu Ê-xơ-tê chẳng có mời ai, ngoài tôi ra, đi cùng với vua đến dự tiệc hoàng hậu dọn. Và hoàng hậu cũng mời tôi đi cùng với vua ngày mai nữa. Nhưng tất cả mọi sự này đều chẳng có nghĩa gì đối với tôi mỗi khi tôi nhìn thấy tên Do-thái Mạc-đô-chê ngồi làm việc tại triều.” Xê-rết vợ ông, và hết thảy các bạn ông đều góp ý: “Sao ông không sai dựng một cái giá treo cổ cao độ hai mươi thước, rồi sáng mai xin vua cho treo cổ Mạc-đô-chê lên đó? Vậy ông sẽ vui vẻ đi cùng vua đến dự tiệc.” Lời này đẹp ý Ha-man. Ông sai dựng giá treo cổ. Đêm ấy vua ngủ không được, nên truyền đem sách Sử Biên Niên vào đọc cho vua nghe. Trong sách có nói đến việc Mạc-đô-chê báo cáo về Bích-than và Thê-rết, hai thái giám của vua thuộc đội vệ binh canh gác ngưỡng cửa, âm mưu ám hại vua A-suê-ru. Vua phán hỏi: “Mạc-đô-chê có được vinh dự hay thăng chức gì về thành tích này không?” Các cận thần của vua tâu: “Tâu bệ hạ, chưa có gì cả.” Vua hỏi: “Ai đứng ngoài sân vậy?” Vì Ha-man vừa bước vào sân ngoài của hoàng cung, định tâu xin vua cho treo cổ Mạc-đô-chê lên giá mà ông đã dựng sẵn. Các cận thần vua tâu: “Tâu bệ hạ, tướng Ha-man đứng ngoài sân.” Vua truyền: “Hãy cho vào.” Ha-man vừa bước vào thì vua hỏi: “Theo khanh, phải làm gì cho người mà Ta muốn tôn trọng?” Ha-man nghĩ thầm trong bụng: “Có ai mà vua muốn tôn trọng hơn ta đâu?” Vậy Ha-man tâu với vua: “Đối với người mà bệ hạ muốn tôn trọng, xin bệ hạ sai mang đến vương bào mà chính bệ hạ đã mặc, vương mã đầu có đội vương miện, mà chính bệ hạ đã cưỡi. Xin bệ hạ sai giao vương bào và vương mã cho một trong các vị thượng quan cao cấp nhất của bệ hạ để vị thượng quan ấy mặc cho người mà bệ hạ muốn tôn trọng, rồi nâng người lên lưng ngựa, dẫn đi ngang qua quảng trường của kinh thành, vừa đi vừa hô to: ‘Hãy xem vua ban vinh dự cho người thế này đây!’” Vua phán với Ha-man: “Hãy mau mau lấy vương bào và vương mã y như khanh đã nói, và thi hành như vậy đối với Mạc-đô-chê, người Do-thái làm việc tại triều. Chớ bỏ sót điều chi hết trong mọi điều khanh vừa nói.” Thế là Ha-man đem vương bào và vương mã đến mặc cho Mạc-đô-chê và dẫn ông ngồi trên lưng ngựa đi ngang qua quảng trường của kinh thành, vừa đi vừa hô to: “Hãy xem vua ban vinh dự cho người thế này đây!” Sau đó Mạc-đô-chê trở về triều, còn Ha-man vội vã về nhà, đầu trùm lại như để tang. Ha-man thuật lại cho Xê-rết, vợ ông, và hết thảy bạn ông biết mọi điều xảy ra cho ông. Những người bạn khôn ngoan này và Xê-rết, vợ ông, đều nói: “ông bắt đầu sa cơ thất thế với Mạc-đô-chê rồi. Nếu hắn đúng là dòng giống Do-thái, ông không thể thắng được hắn đâu. Ông chắc chắn sẽ thảm bại.” Trong khi họ còn đang nói với Ha-man, các thái giám của vua đến và hối hả đưa Ha-man đi dự tiệc hoàng hậu Ê-xơ-tê dọn. Vậy vua và Ha-man đến dự tiệc với hoàng hậu Ê-xơ-tê. Vào ngày thứ nhì, đang khi uống rượu, vua cũng hỏi Ê-xơ-tê: “Hoàng hậu Ê-xơ-tê, ái khanh ước muốn điều chi? Ta sẽ ban cho. Ái khanh cầu xin điều chi? Dù đến nửa đế quốc, ái khanh cũng sẽ được toại nguyện.” Hoàng hậu Ê-xơ-tê thưa: “Tâu bệ hạ, nếu thiếp được ơn trước mặt bệ hạ, nếu bệ hạ đẹp lòng, xin bệ hạ ban cho thiếp điều thiếp ước muốn, ấy là mạng sống của thiếp, và điều thiếp cầu xin, ấy là mạng sống của dân tộc thiếp, vì thiếp và dân tộc thiếp đã bị bán để bị giết chết, tàn sát, và hủy diệt. Nếu chỉ bị bán đi làm tôi trai tớ gái thì thiếp đã giữ yên lặng, vì sự khổ cực ấy chẳng đáng quấy rầy bệ hạ.” Vua A-suê-ru hỏi hoàng hậu Ê-xơ-tê: “Người nào dám cả gan làm điều ấy? Hắn ở đâu?” Ê-xơ-tê thưa: “Kẻ thù, địch thủ, ấy là tên Ha-man gian ác này!” Ha-man co rúm người lại vì sợ trước mặt vua và hoàng hậu. Vua giận dữ đứng dậy khỏi tiệc rượu, bước ra ngoài vườn thượng uyển. Ha-man ở lại nài xin hoàng hậu Ê-xơ-tê cứu mạng sống mình, vì ông thấy vua đã quyết định diệt trừ ông. Ha-man vừa phủ phục xuống trường kỷ nơi Ê-xơ-tê đương nằm thì vua từ vườn thượng uyển bước vào phòng tiệc. Vua phán: “Hắn còn định làm nhục hoàng hậu trước mặt ta, ngay trong hoàng cung sao?” Lời vừa ra khỏi miệng vua thì Ha-man bị trùm mặt lại. Hạc-bô-na, một trong các thái giám hầu vua, tâu: “Hơn thế nữa, Ha-man còn sai dựng giá để treo cổ Mạc-đô-chê là người đã nói lời cứu mạng sống vua. Giá dựng tại nhà Ha-man, cao hai mươi hai thước.” Vua truyền: “Hãy treo cổ hắn lên đó!” Vậy Ha-man bị treo cổ lên giá mà ông đã sai dựng cho Mạc-đô-chê. Vua liền nguôi giận. Ngay hôm ấy, vua A-suê-ru ban cho hoàng hậu Ê-xơ-tê tài sản của Ha-man, kẻ thù dân Do-thái. Mạc-đô-chê được ra mắt vua, vì Ê-xơ-tê có tỏ cho vua biết ông liên hệ với bà như thế nào. Vua tháo nhẫn có ấn của vua, mà vua đã lấy lại từ Ha-man, trao cho Mạc-đô-chê, và hoàng hậu Ê-xơ-tê lập Mạc-đô-chê quản lý tài sản của Ha-man. Hoàng hậu Ê-xơ-tê lại tâu cùng vua. Bà phủ phục dưới chân vua, vừa khóc vừa nài xin vua chận đứng âm mưu hiểm độc mà Ha-man, thuộc dòng A-gát, sắp đặt để hại dân Do-thái. Vua đưa vương trượng bằng vàng ra cho hoàng hậu Ê-xơ-tê, bà chổi dậy, đứng trước mặt vua, và tâu: “Nếu bệ hạ đẹp lòng, nếu thiếp được ơn trước mặt bệ hạ, xin bệ hạ ban sắc lệnh hủy bỏ các văn thư do Ha-man, con Ha-mê-đa-tha dòng A-gát, âm mưu viết ra để giết hại dân Do-thái trong khắp các tỉnh của bệ hạ. Vì làm sao thiếp có thể chịu nổi cảnh nhìn thấy thảm họa xảy đến cho dân tộc thiếp? Làm sao thiếp có thể chịu nổi cảnh nhìn thấy dòng họ thiếp bị tiêu diệt?” Vua A-suê-ru phán với hoàng hậu Ê-xơ-tê và Mạc-đô-chê người Do-thái: “Này ta đã ban tài sản của Ha-man cho Ê-xơ-tê, còn Ha-man đã bị treo cổ rồi vì hắn có ý định hại dân Do-thái. Về phần hai khanh, hãy nhân danh ta viết chiếu cho dân Do-thái theo ý các khanh cho là phải, và hãy đóng ấn bằng nhẫn của ta, vì công văn nào ký tên vua và đóng ấn bằng nhẫn vua không thể hủy bỏ được.” Lúc ấy, vào ngày hai mươi ba tháng ba, tức tháng Si-van, các thư ký của vua được triệu tập lại viết công văn y theo mọi chỉ thị của Mạc-đô-chê, gửi cho dân Do-thái, cho các thống đốc, tổng trấn và quan chức các tỉnh từ Ấn-độ đến Ê-thi-ô-bi, cả thảy là một trăm hai mươi bảy tỉnh. Công văn thảo bằng chữ viết của mỗi tỉnh, và theo ngôn ngữ của từng dân tộc, và gửi cho người Do-thái bằng chữ viết và ngôn ngữ của họ. Văn thư ký tên vua A-suê-ru và đóng ấn bằng nhẫn vua, gửi qua các trạm phi ngựa, ngựa của hoàng gia, loại chính gốc. Theo công văn, vua cho phép người Do-thái tập họp lại để tự vệ: họ được quyền hủy diệt, tàn sát, và tiêu trừ mọi lực lượng vũ trang của bất cứ dân tộc nào hoặc tỉnh nào tấn công họ cùng vợ con họ, và cướp đoạt tài sản kẻ thù, vào một ngày duy nhất, trong khắp các tỉnh của vua A-suê-ru, ngày mười ba tháng chạp tức tháng A-đa; phải ban hành một bản sao của văn thư thành đạo luật trong mỗi tỉnh, và công bố cho mọi dân tộc, để người Do-thái sẵn sàng báo trả kẻ thù họ trong ngày ấy. Lính trạm cưỡi ngựa hoàng gia vội vàng cấp bách ra đi theo lệnh vua; sắc lệnh cũng được ban hành tại thành nội Su-san. Mạc-đô-chê rời hoàng cung, mình mặt triều phục mầu tím và trắng, đầu đội mão miện bằng vàng lộng lẫy, với áo khoác dài bằng vải lanh mịn mầu đỏ tía. Thành Su-san reo vang tiếng vui mừng. Dân Do-thái được ánh sáng, niềm vui rộn rã, và vinh dự. Trong khắp các tỉnh và khắp các thành, nơi nào chỉ thị và sắc lệnh của vua được ban hành, người Do-thái đều vui mừng rộn rã, thết tiệc và nghỉ lễ. Nhiều người thuộc các dân tộc bản xứ theo đạo Do-thái, vì họ sợ người Do-thái. Ngày mười ba tháng chạp tức tháng A-đa, là ngày thi hành chỉ thị và sắc lệnh vua ban, cũng là ngày kẻ thù mong áp đảo người Do-thái, nhưng ngày ấy đã đổi ra thành ngày người Do-thái khắc phục những kẻ thù ghét họ. Trong khắp các tỉnh của vua A-suê-ru, dân Do-thái tập họp lại trong các thành của họ, đánh giết những người mưu toan hại họ. Không ai chống đỡ nổi, vì mọi dân tộc đều sợ người Do-thái. Hết thảy các quan chức trong các tỉnh, các thống đốc, các tổng trấn, và các quan viên chức hoàng gia, đều ủng hộ người Do-thái, vì họ kính nể Mạc-đô-chê. Vì Mạc-đô-chê có uy quyền trong hoàng cung, danh tiếng ông đồn khắp các tỉnh, uy quyền ông ngày càng lớn mạnh. Vậy người Do-thái dùng gươm đánh giết và hủy diệt mọi kẻ thù; họ tùy ý đối xử với những người thù ghét mình. Tại thành Su-san, dân Do-thái giết chết năm trăm người. Họ cũng giết chết Phát-san-đa-tha, Đan-phong, Ạt-ba-tha, Phô-ra-tha, A-đan-gia, A-ri-đa-tha, Phát-mát-ta, A-ri-sai, A-ri-đai, và Vai-xa-tha, là mười con trai của Ha-man, con Ha-mê-đa-tha, kẻ thù của dân Do-thái. Nhưng họ không cướp đoạt tài sản. Ngay hôm ấy, số người bị giết chết trong thành nội Su-san được báo cáo lên vua. Vua phán với hoàng hậu Ê-xơ-tê: “Riêng tại thành nội Su-san, dân Do-thái đã giết chết năm trăm người, và mười con trai của Ha-man. Trong các tỉnh còn lại của đế quốc, họ chắc phải làm được bao nhiêu việc nữa! Bây giờ, ái khanh ước muốn điều chi, ta sẽ ban cho. Ái khanh cầu xin điều chi nữa, cũng sẽ được toại nguyện.” Ê-xơ-tê thưa: “Nếu bệ hạ đẹp lòng, cầu xin bệ hạ cho phép người Do-thái tại Su-san ngày mai thi hành sắc lệnh y như họ đã thi hành ngày hôm nay. Và cúi xin bệ hạ sai treo lên giá mười con trai của Ha-man.” Vua truyền lệnh thi hành y như vậy. Sắc lệnh được công bố tại Su-san, và mười con trai của Ha-man bị treo lên giá treo cổ. Vậy ngày mười bốn tháng A-đa, người Do-thái tập họp lại và giết chết ba trăm người tại Su-san. Nhưng họ không cướp đoạt tài sản. Những người Do-thái khác trong các tỉnh của vua cũng tập họp lại để tự vệ. Họ thoát khỏi tay kẻ thù bằng cách giết chết bảy mươi lăm ngàn người thù ghét họ. Nhưng họ không cướp đoạt tài sản. Ngày mười ba tháng A-đa họ đánh giết, nhưng qua ngày mười bốn thì họ nghỉ ngơi, biến ngày ấy thành một ngày tiệc tùng vui vẻ. Nhưng người Do-thái tại Su-san tập họp lại vào ngày mười ba và ngày mười bốn. Họ nghỉ ngơi vào ngày mười lăm, và biến ngày ấy thành ngày tiệc tùng vui vẻ. Vì thế, người Do-thái vùng nông thôn, sống trong các thành nhỏ không có tường rào, giữ ngày mười bốn tháng A-đa làm ngày tiệc tùng vui vẻ, ngày lễ và ngày tặng cho nhau những phần quà thực phẩm. Mạc-đô-chê ghi chép những điều này và gửi văn thư đến tất cả những người Do-thái trong khắp các tỉnh xa gần của vua A-suê-ru, truyền họ hàng năm phải giữ ngày mười bốn và ngày mười lăm tháng A-đa, chính là ngày người Do-thái thoát khỏi tay kẻ thù, và chính tháng ấy đối với họ đã đổi từ sầu khổ thành vui mừng, từ tang thương thành ngày lễ, làm ngày tiệc tùng vui vẻ, trao cho nhau những phần quà thực phẩm và tặng quà cho người nghèo. Vậy người Do-thái nhận trách nhiệm giữ theo điều họ đã khởi sự làm, và cũng là điều Mạc-đô-chê truyền bảo họ. Vì Ha-man, con Ha-mê-đa-tha, thuộc dòng A-gát kẻ thù của mọi người Do-thái, có mưu toan tiêu diệt họ. Ông gieo Phu-rơ, tức gieo thăm, với ý định chà đạp và tuyệt diệt họ. Nhưng khi hoàng hậu Ê-xơ-tê đến xin vua, vua xuống chiếu truyền: “Âm mưu ác độc mà hắn bày ra để toan hại người Do-thái hãy đổ lại trên đầu hắn!” Vậy, Ha-man và các con ông đều bị treo lên giá treo cổ. Do đó, những ngày này gọi là lễ Phu-rim, theo từ Phu-rơ. Vì tất cả những lời truyền dạy trong thư này, và những gì họ phải đối đầu về vấn đề này, cũng như những gì đã xảy ra cho họ, người Do-thái nguyện nhận trách nhiệm cho họ, dòng dõi họ, và tất cả những người nào nhập tịch Do-thái, luôn tuân giữ hai ngày ấy theo như truyền dạy, không hề bỏ qua, và đúng thời hạn mỗi năm. Vậy, từ đời này sang đời khác, mỗi gia đình tại mỗi tỉnh và mỗi thành phố đều tưởng nhớ và tuân giữ những ngày lễ ấy. Người Do-thái bao giờ cũng giữ lễ Phu-rim, và dòng dõi họ không hề quên kỷ niệm lễ ấy. Hoàng hậu Ê-xơ-tê, con gái A-bi-ha-đin, và Mạc-đô-chê người Do-thái viết thêm một công văn thứ nhì với đầy đủ thẩm quyền xác nhận lễ Phu-rim. Công văn gửi cho tất cả những người Do-thái khắp một trăm hai mươi bảy tỉnh trong đế quốc vua A-suê-ru, chúc bình an và trung tín, truyền phải giữ những ngày lễ Phu-rim này theo đúng kỳ hạn, y như Mạc-đô-chê người Do-thái và hoàng hậu Ê-xơ-tê chỉ dạy, và y như họ đã hứa nguyện cho chính họ và dòng dõi họ tuân giữ những ngày kiêng ăn và than khóc. Lệnh của hoàng hậu Ê-xơ-tê xác định những vấn đề này và về lễ Phu-rim được ghi vào sách. Vua A-suê-ru đánh thuế các dân tộc trong lục địa cũng như ngoài hải đảo. Tất cả những công việc uy quyền và vĩ đại của vua, và việc vua thăng quan tiến chức cho Mạc-đô-chê đều được ghi chép trong sách Sử Biên Niên của các vua Mê-đi và Ba-tư. Mạc-đô-chê người Do-thái làm tể tướng dưới triều vua A-suê-ru, có uy quyền giữa người Do-thái, được toàn thể đồng bào ông ngưỡng mộ, vì ông luôn luôn tìm cầu lợi ích cho dân tộc ông, và can thiệp vì hạnh phúc của hết thảy giống nòi ông. Tại xứ Út-xơ có một người tên Gióp. Ông là người trọn lành và ngay thẳng, kính sợ Đức Chúa Trời và xa lánh điều ác. Ông có bảy con trai và ba con gái. Tài sản ông gồm 7.000 cừu, 3.000 lạc đà, 500 cặp bò, và 500 lừa cái. Tôi tớ ông rất đông. Vì thế, ông là người giàu nhất ở phương Đông. Các con trai ông thường thay phiên nhau đãi tiệc tại nhà riêng. Họ cũng sai mời ba chị em gái cùng dự tiệc chung với mình. Sau các ngày tiệc tùng, Gióp thường sai gọi các con về làm lễ tẩy uế. Ông thức dậy sớm, dâng tế lễ thiêu cho mỗi người con, vì ông thầm nghĩ: “Biết đâu con cái tôi phạm tội, biết đâu chúng nguyền rủa Đức Chúa Trời trong lòng!” Gióp vẫn thường làm như vậy. Một ngày kia, các thiên sứ đến chầu CHÚA. Sa-tan cùng đến với chúng. CHÚA hỏi Sa-tan: “Ngươi từ đâu đến?” Sa-tan đáp lời CHÚA: “Tôi đi quan sát đây đó, qua lại khắp nơi trên địa cầu.” CHÚA hỏi Sa-tan: “Ngươi có để ý Gióp, tôi tớ Ta không? Khắp thế giới không ai bằng Gióp, một người trọn lành và ngay thẳng, kính sợ Đức Chúa Trời và xa lánh điều ác.” Sa-tan đáp lời CHÚA: “Lẽ nào Gióp kính sợ Đức Chúa Trời vô cớ sao? Có phải Chúa đã dựng hàng rào bảo vệ chung quanh ông, gia đình ông, và mọi sự thuộc về ông không? Chúa chúc phước cho mọi việc ông làm, và tài sản ông lan tràn khắp đất. Nhưng xin Chúa đưa tay ra hủy diệt mọi sự thuộc về ông, chắc chắn ông sẽ nguyền rủa Chúa ra mặt!” CHÚA phán bảo Sa-tan: “Này, Ta giao cho ngươi mọi sự thuộc về Gióp, nhưng chính mình Gióp, ngươi đừng động đến.” Vậy, Sa-tan lui ra khỏi sự hiện diện của CHÚA. Một hôm, khi các con trai và con gái Gióp đang dự tiệc tại nhà người con trai trưởng, một sứ giả đến báo tin cho Gióp: “Bò đang cày, và lừa cái đang ăn cỏ trong cánh đồng cạnh bên, bỗng quân Sê-ba xông vào, cướp hết bò lừa, và dùng gươm giết sạch các đầy tớ, chỉ một mình con thoát khỏi, về báo tin cho ông.” Người này còn đang nói, người khác đã đến báo tin: “Bầy cừu và bọn chăn bị sét đánh, cháy rụi, chỉ một mình con thoát khỏi, về báo tin cho ông.” Người này còn đang nói, người khác đã đến báo tin: “Ba toán quân Canh-đê xông vào cướp hết lạc đà, và dùng gươm giết sạch các đầy tớ, chỉ một mình con thoát khỏi, về báo tin cho ông.” Người này còn đang nói, người khác đã đến báo tin: “Các cô, các cậu đang dự tiệc trong nhà cậu cả, bỗng một cơn gió lốc từ sa mạc thổi vào, ập xuống bốn góc nhà. Nhà sập, các cô cậu chết hết, chỉ một mình con thoát khỏi, về báo tin cho ông.” Gióp đứng dậy, xé áo, cạo đầu, rồi quì sấp mặt xuống đất thờ phượng Đức Chúa Trời. Ông nói:“Tôi trần truồng lọt khỏi lòng mẹ,Tôi cũng sẽ trần truồng trở về lòng đất.CHÚA đã ban cho, và CHÚA đã lấy lại.Danh CHÚA thật đáng chúc tụng!” Trong mọi sự ấy, Gióp không phạm tội, cũng không nói điều gì xúc phạm đến Đức Chúa Trời. Một ngày kia, các thiên sứ đến chầu CHÚA. Sa-tan cùng đến với chúng chầu CHÚA. CHÚA hỏi Sa-tan: “Ngươi từ đâu đến?” Sa-tan đáp lời CHÚA: “Tôi đi quan sát đây đó, qua lại khắp nơi trên địa cầu.” CHÚA hỏi Sa-tan: “Ngươi có để ý Gióp, tôi tớ Ta không? Khắp thế giới không ai bằng Gióp, một người trọn lành và ngay thẳng, kính sợ Đức Chúa Trời và xa lánh điều ác. Hơn nữa, Gióp vẫn giữ được sự trọn lành, dù ngươi có xin Ta hại người vô cớ.” Sa-tan đáp lời CHÚA: “Da đền da. Người ta sẽ giao mọi sự mình có để đổi lấy mạng sống. Xin Chúa đưa tay ra hại đến chính xương thịt Gióp, chắc chắn ông sẽ nguyền rủa Chúa ra mặt!” Vậy CHÚA bảo Sa-tan: “Này, ngươi được quyền hại Gióp, nhưng ngươi không được đụng đến mạng sống người.” Sa-tan lui ra khỏi sự hiện diện của CHÚA và gây cho Gióp bị ung nhọt nhức nhối từ lòng bàn chân đến đỉnh đầu. Bấy giờ Gióp đang ngồi giữa đống tro. Gióp lượm một miếng sành để gãi mình. Vợ Gióp nói: “Ông vẫn giữ được sự trọn lành sao? Sao ông không nguyền rủa Đức Chúa Trời rồi chết đi?” Nhưng Gióp đáp: “Bà nói như một người đàn bà ngu muội. Ơn phước Đức Chúa Trời ban, chúng ta nhận; còn tai họa, lẽ nào chúng ta không nhận?”Trong mọi việc ấy, Gióp không hề nói phạm đến Đức Chúa Trời. Ba bạn của Gióp nghe tin ông bị tất cả những tai họa ấy. Họ hẹn nhau mỗi người từ quê mình cùng đến chia buồn với Gióp và an ủi ông. Ba bạn đó là Ê-li-pha người Thê-man, Binh-đát người Su-a, và Sô-pha người Na-a-ma. Từ xa, họ ngước mắt lên, nhìn thấy Gióp, nhưng họ không nhận ra ông. Họ liền khóc lớn tiếng, mỗi người xé áo mình, hất bụi đất lên trời, và rải trên đầu mình. Họ ngồi bệt xuống đất với Gióp suốt bảy ngày bảy đêm; không ai nói với ông một lời nào, vì họ thấy ông đau đớn quá nhiều. Sau đó, Gióp phá tan sự im lặng, lên tiếng nguyền rủa ngày sanh của mình. Gióp nói: Ước gì ngày tôi sanh ra tan mất đi,Ước gì đêm loan báo: “một bé trai được thụ thai” không còn nữa! Ước gì ngày ấy là tối tăm,Nguyện Đức Chúa Trời trên cao chẳng kể đến nó,Nguyện ánh sáng đừng soi rọi nó! Nguyện tối tăm và bóng sự chết chuộc ngày ấy lại,Nguyện mây đen bao phủ nó,Nguyện sự đen tối ban ngày làm nó kinh hãi! Nguyện tối tăm dày đặc bắt đêm ấy đi,Nguyện nó không được tính chung với những ngày trong năm,Không được kể vào trong số các tháng! Nguyện đêm ấy không có người thụ thai,Không tiếng reo vui! Nguyện các phù thủy chuyên rủa sả ngày,Và chuyên đánh thức thủy quái rủa sả đêm ấy! Nguyện các vì sao chiếu lúc trời hừng sáng cứ tối tăm mãi,Nguyện đêm ấy trông chờ nhưng không thấy ánh sáng,Cũng không thấy mí rạng đông hé mở! Vì đêm ấy đã không đóng cửa dạ con thai nghén tôi,Cũng không giấu thống khổ khỏi mắt tôi. Tại sao tôi chẳng chết đi khi vừa ra khỏi dạ,Chẳng tắt hơi khi mới lọt lòng? Tại sao lại có đầu gối đỡ lấy tôi,Và vú cho tôi bú? Nếu không, giờ đây tôi đã nằm yên tịnh,Tôi đã ngủ và nghỉ ngơi, Cùng với vua chúa và các cố vấn trần gian,Những người đã xây dựng lại cho mình các thành trì đổ nát; Hoặc cùng với các nhà lãnh đạo có vàng bạcChất đầy ắp nhà. Tại sao tôi lại không bị chôn kín như thai bị sẩy,Như các em bé chết khi vào đời, không hề thấy ánh sáng? Nơi đó, kẻ ác ngừng tác hại,Và nơi đó, kẻ đuối sức được yên nghỉ. Những kẻ tù đày cùng nhau nhàn hạ,Không còn nghe tiếng bọn cai tù quát tháo. Kẻ hèn, người sang đều ở đó như nhau,Và nô lệ được tự do khỏi người chủ hà hiếp. Tại sao kẻ khốn khổ được thấy ánh sáng,Và người có lòng cay đắng lại được sống? Họ ước ao sự chết, nhưng không được,Họ đào xới tìm kiếm sự chết hơn là tìm kho báu; Họ vui mừng hớn hở,Họ sung sướng khi đạt đến nấm mồ. Người bước đi trên con đường bị che khuất,Người bị Đức Chúa Trời rào kín chung quanh,Sao lại được thấy ánh sáng? Thức ăn của tôi là tiếng than ai oán,Tôi khóc gào như nước chảy tràn tuôn. Vì điều tôi sợ đã xảy đến cho tôi,Điều tôi kinh hãi đã đổ ập xuống tôi. Tôi không được thảnh thơi, yên tịnh,Cũng chẳng được nghỉ ngơi, sóng gió ào ào nổi dậy. Ê-li-pha người Thê-man đáp lời Gióp: Nếu chúng tôi nói với anh một vài lời, anh có phiền không?Nhưng ai có thể cầm mình không nói? Kìa, anh đã khuyên dạy nhiều người,Anh làm cho cánh tay yếu đuối nên mạnh mẽ; Lời của anh đỡ người vấp ngã dậy,Anh làm cho vững các đầu gối lỏng lẻo. Nhưng bây giờ, anh mắc nạn, anh không chịu nổi,Anh gặp khó khăn, anh lại kinh hoàng. Anh kính sợ Đức Chúa Trời, sao anh không vững lòng tin?Anh sống trọn vẹn, sao anh không nuôi hy vọng? Anh hãy suy xét lại: Có người nào vô tội phải chết mất?Có nơi nào người ngay thẳng bị diệt vong? Theo như tôi thấy, người nào gây tội ác,Và gieo khổ đau, thì gặt ngay điều họ gieo trồng. Hơi thở của Đức Chúa Trời khiến họ chết mất,Cơn giận của Ngài khiến họ tiêu tan. Sư tử rống, thú dữ gầm, cũng phải im bặt,Nanh của sư tử bị bẻ gẫy! Sư tử mạnh bạo chết vì thiếu mồi,Và đàn sư tử con tản lạc. Một sứ điệp đến với tôi cách huyền bí,Tai tôi thoáng nghe tiếng thì thầm. Khi tư tưởng lộn xộn vì ác mộng ban đêm,Khi loài người say sưa trong giấc ngủ mê man, Sự kinh hãi xâm nhập tôi khiến tôi rùng mình,Toàn thân tôi run lên vì sợ. Một hơi gió lướt ngang qua mặt tôi,Khiến cho lông trên người tôi dựng đứng lên. Có một hình dạng dừng lại,Tôi nhận không ra.Một dáng người lộ ra trước mắt tôi.Giữa cảnh im lặng, tôi nghe một giọng nói: Trước mặt Đức Chúa Trời, có người phàm nào công chính không?Trước mặt Đấng Tạo Hóa, có người nào tinh sạch không? Ngay cả các tôi tớ Ngài, Ngài còn không tin cậy,Các thiên sứ Ngài, Ngài còn buộc lỗi, Huống chi những kẻ vốn ở chòi đất sét,Dựng trên nền đất bụi,Có thể bị chà đạp như mối mọt! Một sớm, một chiều, họ có thể bị nghiền nát,Chết mất đời đời mà không ai biết tới. Nếu dây lều của họ bị nhổ tháo đi,Họ có thể chết mà chẳng hề học được khôn ngoan. Anh hãy kêu xin. Nhưng ai sẽ đáp lời anh?Anh sẽ quay về cầu cứu ai trong các thiên thần? Lòng căm hờn giết chết kẻ ngu muội,Lòng ganh tị giết hại kẻ dại dột. Chính tôi thấy kẻ ngu muội đâm rễ,Nhưng trong khoảnh khắc, nhà cửa nó bị rủa sả. Con cái nó không được an ninh,Chúng bị chèn ép tại cổng thành mà không ai cứu giúp. Kẻ đói ăn mùa màng chúng gặt,Ngay cả phần mọc lên giữa gai góc;Và kẻ khát thèm muốn của cải chúng. Vì hoạn nạn chẳng ra từ cát bụi,Và khổ nhọc cũng không nẩy mầm từ đất đai. Nhưng con người sanh ra để đau khổNhư chớp lửa luôn bay xẹt lên cao. Phần tôi, tôi sẽ cầu cứu Đức Chúa Trời,Tôi sẽ trình lên Ngài trường hợp của tôi. Ngài làm những việc lớn lao không sao dò thấu,Những việc diệu kỳ không ai đếm nổi. Ngài cho mưa rơi xuống đất,Nước thấm nhuần cánh đồng. Ngài nâng cao người hèn hạ,Bảo vệ người tang chế. Ngài phá tan âm mưu kẻ quỷ quyệt,Điều gì tay chúng toan làm cũng không thành. Ngài bắt kẻ khôn ranh sa vào chính mưu chước họ,Và mưu kế kẻ gian giảo bị đánh bại nhanh chóng. Ban ngày chúng gặp phải tối tăm,Giữa trưa chúng mò mẫm như trong đêm tối. Nhưng Ngài cứu người khốn cùng khỏi lưỡi gươm,Khỏi miệng và tay quân cường bạo. Nhờ đó người nghèo khổ có hy vọng,Và kẻ gian ác ngậm miệng lại. Này, phước thay cho người được Đức Chúa Trời răn dạy!Vậy xin anh đừng khinh thuờng sự sửa trị của Đấng Toàn Năng. Ngài gây thương tích, nhưng rồi Ngài sẽ rịt bó vết thương,Ngài đánh đau, nhưng rồi chính Ngài sẽ chữa lành. Anh có gặp nguy nan sáu bảy lần,Ngài vẫn giải cứu anh. Trong cơn đói kém, Ngài cứu anh khỏi chết,Trong chiến tranh, khỏi quyền lực của gươm dao. Anh sẽ được che chở khỏi miệng lưỡi nói hành,Anh sẽ chẳng sợ khi tai vạ đập phá tan hoang. Anh sẽ nhạo cười tai ương và đói kém,Thú rừng anh cũng chẳng sợ chi, Vì anh sẽ kết ước với đá ngoài đồng ruộng,Và thú rừng hoang dã sẽ làm hòa với anh. Anh sẽ biết chắc lều trại anh phát đạt,Anh sẽ kiểm soát bầy súc vật và chẳng thiếu con nào. Anh sẽ thấy dòng dõi anh đông đúc,Con cháu anh như cỏ ngoài đồng. Anh sẽ vào mồ với tuổi thọ sức daiNhư bó lúa đến sân đạp đúng mùa. Đó là điều chúng tôi đã tìm hiểu, và nhận biết là đúng.Anh hãy nghe tôi, rồi chính anh sẽ kinh nghiệm điều ấy. Gióp đáp: Ôi, nếu nỗi đau buồn của tôi được đem lên bàn cân,Mọi tai họa xảy đến cho tôi đặt chung trên dĩa cân, Bấy giờ chúng sẽ nặng hơn cát biển!Do đó tôi không kiềm chế được lời tôi. Vì các mũi tên của Đấng Toàn Năng bắn trúng tôi,Tâm hồn tôi uống lấy nọc độc.Tôi kinh hoàng trước sự dàn trận tấn công của Đức Chúa Trời. Lừa rừng nào hí vang bên đám cỏ xanh?Bò mộng nào rống lên bên đống cỏ khô? Món ăn lạt lẽo sao không nêm thêm muối?Tròng trắng trứng có mùi vị gì chăng? Tôi chẳng màng đụng đến thức ăn,Ăn vào tôi càng thêm bịnh hoạn. Ước gì lời yêu cầu tôi được thỏa nguyện!Ước gì Đức Chúa Trời ban điều tôi mong chờ! Ước gì Đức Chúa Trời bằng lòng nghiền nát tôi,Ước gì Ngài dang tay cắt đứt đời tôi! Sự chết sẽ là niềm an ủi của tôi,Và tôi sẽ nhảy nhót vui mừng trong cơn đau khôn nguôi,Vì tôi không chối bỏ mạng lịnh của Đấng Thánh. Tôi còn sức đâu mà chờ đợi?Cuối cùng đời tôi ra sao mà tôi phải kéo dài cuộc sống? Sức tôi có phải là sức đá?Thân tôi có phải là thân đồng? Thật tôi không thể tự giúp mình được,Và mọi nguồn cứu trợ đã bị đem đi xa khỏi tôi. Người tuyệt vọng cần bạn bè thương xótNgay cả khi người mất đi lòng kính sợ Đấng Toàn Năng. Anh em tôi dối gạt tôi như lòng khe cạn nước,Như dòng sông nước lũ theo mùa. Nước đục ngầu vì băng giá,Nước dâng cao khi tuyết tan. Nước mới vừa chảy đã cạn khô,Khi trời nắng hạn, nước tan biến hết. Đoàn lái buôn rẽ tách khỏi đường cái,Đi lạc sâu vào trong sa mạc và chết mất. Đoàn lái buôn từ Thê-ma nhìn quanh tìm kiếm,Du khách từ Sê-ba hy vọng nơi các dòng sông, Nhưng họ ngỡ ngàng vì đã tin tưởng,Đến bờ khe, họ choáng váng bàng hoàng. Giờ đây, đối với tôi, các anh cũng giống như dòng sông khô hạn,Các anh thấy tai vạ rồi sợ vạ lây. Tôi nào có xin các anh: “Xin bố thí cho tôi!Xin dùng tài sản các anh hối lộ thay cho tôi! Xin giải cứu tôi khỏi quyền lực kẻ thù!Xin cứu chuộc tôi khỏi tay kẻ bạo tàn!” Xin các anh chỉ dạy tôi, tôi sẽ nín lặng.Xin cho tôi biết tôi sai quấy chỗ nào. Lời chỉ trích đúng làm đau lòng thật,Nhưng các anh chê trách tôi điều chi? Các anh tưởng có thể dùng lời để chỉ dạy,Trong khi các anh xem lời nói của người tuyệt vọng như làn gió thoảng qua. Lẽ nào các anh rút thăm giành trẻ mồ côi,Hoặc đem bạn đổi lấy món hàng? Thôi bây giờ, tôi van xin các anh, hãy nhìn thẳng vào mặt tôi,Tôi quyết chắc tôi không nói dối. Xin các anh nghĩ lại, đừng phán đoán bất công;Xin các anh xét lại, tôi vô tội hoàn toàn. Lưỡi tôi có nói điều chi gian dối?Tôi không phân biệt được điều gian manh sao? Đời người trên đất khác nào nghĩa vụ lao động nhọc nhằn,Chuỗi ngày của đời người khác nào những ngày làm công nhật! Người khát khao bóng mát như tên nô lệ,Người mong đợi tiền công như thợ làm công nhật. Cũng vậy, tôi thừa hưởng những tháng ngày vô nghĩa,Những đêm sầu khổ là phần của tôi. Nằm xuống ngủ, tôi tự hỏi: “Bao giờ mới đến lúc thức dậy?”Nhưng đêm tối kéo dài, và tôi trăn trở mãi cho đến rạng đông. Toàn thân tôi bị dòi khoét và ghét đóng vảy như chiếc áo,Da tôi nứt nẻ và chảy mủ. Ngày đời tôi qua mau hơn thoi đưa,Tôi đã đến ngày cuối, thoi đã kéo hết chỉ. Xin Chúa nhớ đời con chỉ là một hơi thở,Mắt con sẽ không còn nhìn thấy phước hạnh nữa. Mắt hiện nhìn con sẽ không thấy con nữa,Mắt Chúa tìm con, nhưng con sẽ không còn. Như áng mây tan ra và biến mất,Người đã xuống âm phủ không thể trở về dương gian; Người không thể trở về nhà mình nữa,Nơi người ở cũng không nhận ra người. Vì thế con sẽ không cầm miệng lại,Con sẽ nói ra vì tâm thần con bực bội,Con sẽ kêu than vì lòng con cay đắng. Con nào phải Biển Cả hoặc Quái vật biển sâuMà Chúa phải đặt người canh gác? Khi con nghĩ: “Giường con sẽ an ủi con,Con nằm ngủ sẽ bớt lời than vãn,” Bấy giờ Chúa khiến con sợ hãi vì chiêm bao,Kinh hoàng vì khải tượng, Đến nỗi con thà bị nghẹt thở,Thà chết còn hơn sống trong bộ xương này! Con chán rồi. Con sẽ không sống mãi,Xin Chúa bỏ mặc con, vì ngày đời con chỉ là một hơi thở. Loài người là gì mà Chúa kể là quan trọng,Mà Chúa quan tâm đến, Và dò xét mỗi buổi sáng,Rèn thử từng lúc một? Bao giờ Chúa mới xây mắt khỏi tôi,Cho tôi thong thả nuốt nước miếng? Hỡi Đấng canh giữ loài người, nếu con có phạm tội,Con có làm gì hại Chúa đâu?Sao Ngài đặt con làm bia tập bắn?Sao con trở thành gánh nặng cho Ngài? Sao Chúa không tha thứ vi phạm con,Bỏ qua tội ác con?Vì chẳng bao lâu con sẽ nằm trong bụi đất;Nếu Chúa tìm con, con sẽ chẳng còn. Binh-đát, người Su-a, đáp lời Gióp: Anh còn nói như vậy cho đến bao giờ?Lời từ miệng anh là cuồng phong bão táp! Có thể nào Đức Chúa Trời bẻ cong lẽ phải?Có thể nào Đấng Toàn Năng bóp méo lẽ công bằng? Con cái anh hẳn đã phạm tội với Ngài,Cho nên Ngài đã giao chúng nó vào quyền lực của tội ác chúng. Phần anh, nếu anh tìm kiếm Đức Chúa Trời,Và cầu khẩn Đấng Toàn Năng, Nếu anh thanh sạch và ngay thẳng,Thì ngay bây giờ, chắc chắn Ngài sẽ giải cứu anhVà khôi phục gia đình tài sản anh, để thưởng sự công bình anh. Tình trạng ban đầu của anh sẽ chẳng đáng kểSo với tương lai anh rạng rỡ bội phần. Tôi xin anh học hỏi thế hệ trước,Nghiên cứu những điều cha ông họ tìm ra, Vì chúng ta mới sanh hôm qua, chẳng biết gì,Ngày đời chúng ta trên đất qua đi như cái bóng. Nhưng các tổ tiên sẽ dạy dỗ và chỉ bảo anh,Nói lên những gì họ hiểu biết. Cây cói giấy có thể nào mọc nơi không đầm lầy?Lau sậy có thể nào sống nơi không có nước? Đang lúc xanh mởn, chưa bị cắt,Chúng sẽ khô héo trước các loài cỏ khác. Đó là số phận của mọi người chối bỏ Đức Chúa Trời;Kẻ vô đạo tiêu tan hy vọng. Lòng tin tưởng của họ bị cắt đứt,Họ trông cậy vào một màng nhện! Họ dựa vào nhà mình, nhà không đứng nổi,Họ bám lấy nhà, cũng không chổi dậy được. Họ giống như cây xanh mướt dưới ánh mặt trời,Đâm chồi nảy tược tràn khắp vườn, Rễ quấn quanh đống đá,Bám chặt từng hòn đá. Nhưng nếu cây bị nhổ lên khỏi chỗ nó mọc,Chỗ ấy sẽ từ bỏ nó: “Ta chưa hề thấy ngươi.” Kìa, niềm vui của những kẻ từ bỏ Đức Chúa Trời chỉ có bấy nhiêu.Từ đất ấy, những cây khác sẽ mọc lên. Nhưng Đức Chúa Trời không ruồng bỏ người trọn vẹn,Cũng không giúp đỡ kẻ ác. Ngài sẽ khiến cho miệng anh đầy tiếng cười,Môi anh đầy tiếng reo vui. Những kẻ thù ghét anh sẽ chuốc lấy hổ thẹn,Lều trại kẻ ác sẽ tiêu tan. Gióp đáp lời: Phải, tôi biết như vậy.Tuy nhiên, loài người làm thể nào được Đức Chúa Trời xét là công bình? Giả sử người có muốn tranh luận với Ngài,Ngài hỏi ngàn câu, người không thể đáp một lời. Đức Chúa Trời khôn ngoan và quyền năng,Nào ai chống cự Ngài mà còn nguyên vẹn? Đức Chúa Trời dời núi, núi chẳng biết trước,Trong cơn giận, Ngài lật đổ núi. Ngài rung chuyển đất khỏi nền nó,Cột chống đỡ đất phải rung rinh. Ngài truyền lệnh cho mặt trời đừng mọc,Ngài đóng ấn niêm phong các vì sao. Một mình Ngài trải các tầng trời ra,Và chà đạp các ngọn sóng biển. Ngài dựng nên sao Bắc Đẩu, sao Xạ thủ,Sao Thất Nữ, và các chòm sao phương nam. Ngài làm những việc lớn lao không sao dò thấu,Những việc diệu kỳ không ai đếm nổi. Nếu Ngài đi cạnh tôi, tôi cũng không nhìn thấy,Nếu Ngài lướt ngang qua, tôi cũng không nhận ra. Nếu Ngài cướp mất điều gì của nguời nào, ai dám ngăn cản Ngài?Ai dám thưa với Ngài: “Chúa làm gì vậy?” Đức Chúa Trời không đè nén cơn giận Ngài,Những kẻ giúp đỡ Ra-háp cúi rạp dưới chân Ngài. Huống gì tôi, làm sao có thể đáp lời Ngài?Tôi biết chọn lời nào đối đáp với Ngài? Dù tôi vô tội, tôi cũng không thể tự biện hộ cho mình,Tôi chỉ có thể van xin lòng thương xót của Đấng phán xét tôi. Dù Ngài có nhận lời tôi yêu cầu, và ra trước tòa,Tôi cũng không dám tin Ngài lắng tai nghe tiếng tôi. Ngài khiến bão tố vùi dập tôi,Gia tăng thương tích tôi vô cớ. Ngài không cho tôi thì giờ lấy lại hơi thở,Nhưng cho tôi nếm đầy cay đắng. Nếu dựa vào sức, kìa, Ngài là Đấng quyền năng,Nếu dựa vào công lý, ai dám kiện Ngài? Dù tôi vô tội, chính miệng tôi sẽ kết án tôi,Dù tôi trọn vẹn, Ngài cũng sẽ chứng minh tôi gian dối. Tôi trọn vẹn.Nhưng tôi không còn thiết gì nữa.Tôi khinh thường mạng sống tôi. Mọi người đều cùng một số phận.Vì thế tôi nói:Ngài hủy diệt cả người trọn vẹn lẫn kẻ ác. Nếu thiên tai giết chết bất ngờ,Ngài nhạo cười nỗi khổ của người vô tội. Khi đất nước rơi vào tay kẻ ác,Ngài bịt mắt các quan tòa.Nếu chẳng phải Ngài, thì còn ai? Ngày đời con trôi qua nhanh hơn người chạy đem tin,Chúng trốn mất, không hề thấy phước hạnh. Chúng lướt nhanh như thuyền nan,Như đại bàng sà xuống vồ mồi. Nếu con tự nhủ: “Ta sẽ quên đi, không than phiền nữa,Lột bỏ nét u sầu, và tươi cười lên,” Con sợ tất cả những nỗi thương đau con sẽ phải gánh chịu,Vì con biết Ngài không kể con vô tội. Nếu con vẫn bị kết tội,Sao còn mệt nhọc bào chữa cho uổng công? Dù con có tắm gội với xà phòng,Rửa tay với nước tro, Ngài cũng vẫn dìm con xuống hố,Đến nỗi quần áo con ghê tởm con. Thật, Ngài không phải là người như tôiĐể tôi có thể đối đáp với Ngài,Để chúng tôi có thể cùng nhau ra tòa. Ước gì có Đấng phân xử giữa chúng tôi,Có quyền trên cả hai chúng tôi! Đấng ấy sẽ dời ngọn roi của Đức Chúa Trời xa khỏi tôi,Để tôi không còn khiếp sợ vì Ngài nữa. Bấy giờ tôi sẽ nói, không sợ hãi,Vì trong thâm tâm, tôi không nhút nhát. Tôi chán ngán cuộc sống;Vì thế tôi sẽ kêu than không ngại ngùng,Tôi sẽ nói lên tự nỗi lòng cay đắng. Tôi sẽ thưa với Đức Chúa Trời:Xin đừng kết án con,Xin cho con biết Ngài buộc con tội gì. Lẽ nào Chúa vui lòng đàn áp,Ruồng bỏ con là công khó tay Ngài làm nên,Nhưng lại chấp nhận mưu đồ kẻ ác? Lẽ nào Chúa có mắt thịt,Nhìn thấy như người trần? Phải chăng Chúa chỉ sống một số ngày như người phàm,Một số năm như loài người, Đến nỗi Chúa phải tìm kiếm tội ác con,Vạch cho ra lỗi lầm con? Vì Chúa biết con vô tội,Không ai cứu con thoát khỏi tay Ngài. Tay Chúa đã nắn và tạo nên con,Nhưng nay Ngài quay lại hủy diệt con! Xin Chúa nhớ rằng Ngài đã nhồi nắn con như đồ gốm.Lẽ nào Ngài bóp nát con thành đất bùn? Có phải Chúa đổ con ra như sữa,Rồi khiến con đông đặc lại như phó mát? Ngài cho con mặc da và thịt,Kết chặt xương gân con. Chúa ban cho con sự sống,Ngài yêu con với tình yêu bền vững,Ngài chăm sóc giữ gìn mạng sống con. Tuy nhiên, Chúa giấu kín những điều này trong lòng,Con biết Ngài có ý định này. Chúa canh chừng xem con có phạm lỗi,Ngài không tha tội ác con. Nếu con làm ác, thì khốn nạn cho con!Nhưng nếu con làm phải, con cũng không dám ngước đầu lên,Vì con no ắp nhục nhã, uống tràn khổ đau. Nếu con được vẻ vang, như sư tử Ngài sẽ săn đuổi con,Ngài sẽ làm dấu kỳ phép lạ để hại con. Ngài luôn có chứng cớ mới chống nghịch con,Cơn giận Ngài gia tăng đối với con,Viện binh tiếp ứng thay phiên nhau tấn công con. Tại sao Chúa cho con lọt lòng mẹ?Ước gì con đã tắt hơi lúc ấy để không mắt nào nhìn thấy con! Ước gì con như chưa hề sống,Từ lòng mẹ xuống ngay mộ phần! Phải chăng con chỉ sống được ít ngày?Vậy xin Chúa ngừng tay,Xin đừng ngó ngàng đến con,Cho con vui thỏa đôi chút, Trước khi con ra đi, không bao giờ trở lại,Ra đi vào cõi tăm tối âm u, Cõi mù mịt như bóng tối,Âm u và hỗn loạn,Nơi đó ánh sáng khác nào bóng tối. Sô-pha, người Na-a-ma, đáp: Phải chăng không ai dám sửa dạy người nói nhiều?Lẽ nào người có lý nhờ già miệng? Anh huênh hoang có làm người ta ngậm miệng,Để không ai khiển trách khi anh nhạo báng? Vì anh thưa với Chúa: “Đạo lý con chính đáng,Và con trong sạch trước mắt Ngài.” Ôi, ước gì Đức Chúa Trời phán dạy,Ước gì Ngài mở miệng nói với anh! Ước gì Ngài tỏ cho anh những bí ẩn của sự khôn ngoan,Vì Ngài hành động cách nhiệm mầu.Bấy giờ anh sẽ biết rằng Đức Chúa Trời bỏ qua một phần tội lỗi của anh. Có thể nào anh dò thấu sự sâu nhiệm của Đức Chúa Trời,Hoặc khám phá được tận cùng sự hiểu biết của Đấng Toàn Năng? Sự khôn ngoan của Ngài cao hơn các tầng trời, anh làm gì được?Sâu hơn âm phủ, anh hiểu sao thấu? Chiều dài hơn cả đất,Chiều rộng hơn cả biển. Nếu Ngài đi ngang qua, bắt giam một người nào, rồi đòi người đó ra tòa,Ai có thể ngăn cản Ngài? Vì Chúa biết người giả dối;Khi Ngài thấy tội ác, lẽ nào Ngài không nhận ra? Người đầu óc trống rỗng sẽ thông hiểuKhi lừa rừng sanh con là người! Vậy, nếu anh hướng lòng về Chúa,Đưa tay lên hướng về Ngài, Nếu có tội lỗi trong tay anh, hãy quăng xa đi,Đừng để tội ác cư ngụ trong lều trại anh, Bấy giờ anh sẽ ngước mặt lên, lương tâm không gợn vết,Sống vững vàng, không sợ hãi chi. Anh sẽ quên cảnh khổ nạn,Chỉ nhớ nó như dòng nước chảy qua. Bấy giờ đời anh sẽ sáng chói hơn ban trưa,Cảnh tối tăm sẽ như trời hừng sáng. Anh sẽ sống an ninh vì anh có hy vọng,Anh sẽ được che chở và nằm ngủ bình an. Anh sẽ nằm nghỉ, và không ai gây cho anh sợ hãi;Nhiều người sẽ tìm anh xin ân huệ. Nhưng kẻ ác sẽ mòn mắt trông đợi,Mọi lối thoát tiêu tan,Họ chỉ hy vọng thở hơi cuối cùng. Gióp đáp: Các anh chắc thật là những người khôn sáng,Khi lìa đời đem theo luôn cả sự khôn ngoan! Nhưng tôi cũng có sự thông sáng như các anh,Chẳng kém các anh đâu;Ai lại không biết những điều các anh nói? Tôi đã trở thành trò cười cho bạn hữu,Dù tôi đã từng kêu cầu Đức Chúa Trời và được Ngài đáp lời!Người công bình trọn vẹn đã trở thành trò cười! Người nhàn hạ khinh người gặp nạn,Người trượt chân bị đánh ngã luôn! Lều trại bọn cướp phát đạt,Những kẻ khiêu khích Đức Chúa Trời sống an toàn,Đức Chúa Trời nắm giữ họ trong tay Ngài. Nhưng anh hãy hỏi loài thú, chúng sẽ chỉ dạy anh,Hỏi loài chim trời, chúng sẽ kể cho anh nghe. Hoặc là anh nói chuyện với đất, đất sẽ chỉ dạy anh,Với loài cá biển, chúng sẽ tỏ cho anh. Có loài nào trong các loài ấy không biếtRằng tay CHÚA làm nên mọi sự này? Ngài nắm trong tay sự sống của mọi sinh vật,Và hơi thở của mọi người. Phải chăng tai biết phân biệt lời nói,Như miệng nếm thức ăn? Sự khôn ngoan tìm thấy nơi người già,Thông sáng nơi người sống lâu. Đức Chúa Trời khôn ngoan và quyền năng,Hiểu biết và thông sáng. Ngài phá hủy, không ai xây dựng được,Ngài giam cầm người nào, chẳng ai có quyền giải thoát. Ngài ngăn nước, sông ngòi khô hạn,Ngài cho mưa, đất đai ngập lụt. Ngài có sức mạnh và sự thông hiểu,Ngài nắm quyền trên cả người lầm lạc lẫn người lừa gạt. Ngài dẫn các nhà cố vấn đi tù đày chân không,Khiến các quan tòa ra ngu dại. Ngài tháo đai các vua,Quấn khố ngang lưng họ. Ngài dẫn các thầy tế lễ đi tù đày chân không,Lật đổ những kẻ cầm quyền lâu đời. Ngài tước lời nói khỏi người đáng tin cậy,Trí phán đoán khỏi các trưởng lão. Ngài đổ sỉ nhục trên hàng quý tộc,Tháo đai người quyền thế. Ngài bày tỏ những điều sâu nhiệm nơi tối tăm,Phơi bóng tối âm u ra ánh sáng. Ngài cho các nước hưng thịnh, rồi Ngài hủy diệt chúng,Cho các dân bành trướng, rồi dẫn đi lưu đày. Ngài cất trí khôn ra khỏi các trưởng tộc trong xứ,Để họ đi lang thang nơi sa mạc không lối thoát; Họ quờ quạng trong tối tăm, không ánh sáng;Ngài khiến họ lảo đảo như người say. Này, chính mắt tôi đã thấy mọi điều ấy,Tai tôi nghe và tôi hiểu. Tôi cũng hiểu biết như các anh,Chẳng thua kém các anh đâu. Nhưng tôi, tôi muốn thưa với Đấng Toàn Năng,Tôi ước ao tự bào chữa với Đức Chúa Trời. Còn các anh, các anh tô phết lời giả dối,Hết thảy các anh là thầy lang vô dụng. Phải chi các anh nín lặng,Để tỏ mình khôn ngoan! Xin các anh nghe lời bào chữa tôi,Xin chú ý nghe lời biện hộ từ miệng tôi. Có phải vì Đức Chúa Trời mà các anh nói điều gian dối?Có phải vì Ngài mà các anh nói điều giả trá? Lẽ nào các anh thiên vị Ngài?Các anh muốn biện hộ cho Đức Chúa Trời sao? Các anh có được khen thưởng khi Ngài dò xét các anh không?Các anh tưởng có thể lừa gạt Ngài như lừa gạt loài người sao? Ngài chắc chắn sẽ trừng phạt các anhNếu các anh thiên vị Ngài, dù trong nơi kín mặc lòng. Các anh không khiếp sợ uy nghiêm Ngài sao?Quyền năng Ngài không làm các anh kinh hoàng sao? Danh ngôn các anh vô dụng như tro,Lời biện hộ các anh dễ bẻ như đất sét. Xin các anh yên lặng, mặc cho tôi nói,Hậu quả ra sao, tôi xin chịu. Sao tôi lấy răng cắn thịt mình,Và nắm mạng sống mình trong tay? Ngài có thể giết tôi, tôi không còn hy vọng gì nữa,Dù vậy, tôi vẫn bênh vực nếp sống tôi trước mặt Ngài. Chính điều ấy cũng là sự giải cứu cho tôi,Vì kẻ vô đạo không dám đến gần Ngài. Xin các anh chú ý nghe lời tôi nói,Xin lắng tai nghe lời tôi giải thích. Tôi đã chuẩn bị xong lý lẽ,Tôi biết chắc tôi sẽ được trắng án. Nếu có ai tranh luận thắng được tôi,Bấy giờ tôi sẽ nín lặng chờ chết. Xin Chúa ban cho con hai điều thôi,Để con khỏi phải trốn tránh Ngài. Xin Chúa rút tay Ngài xa khỏi con,Xin Chúa cho con thôi hoảng hồn vì sợ Ngài. Bấy giờ Chúa gọi, con xin thưa,Hoặc chúa cho con nói trước, và xin Ngài đáp lời con. Con đã phạm bao nhiêu tội ác và lỗi lầm?Xin cho con biết vi phạm và tội lỗi con. Sao Ngài phải ẩn mặt,Xem con như kẻ thù? Lẽ nào Chúa khủng bố một chiếc lá bị gió cuốn đi,Hoặc đuổi bắt một cọng rơm khô? Vì Ngài kết án con phải chịu điều cay đắng,Bắt con gánh hậu quả tội ác phạm thuở ấu thơ, Ngài cùm chân con lại,Canh giữ mọi nẻo đường con đi,Theo dõi các dấu chân con. Trong khi con khác nào bầu da mòn,Khác nào chiếc áo bị mối ăn. Con người vốn yếu đuối mong manhSống một số ngày ngắn ngủi,Nhưng lại đầy phiền muộn. Người nở ra như đóa hoa, rồi lại tàn,Người vụt qua như chiếc bóng, không dừng lại. Lẽ nào Chúa quan tâm đến một người như vậy,Và đem con ra xét xử? Ai có thể khiến người ô uế trở thành trong sạch?Không một ai! Vì Chúa đã định ngày cho người,Chúa biết số tháng trong đời người,Chúa đặt cho người một giới hạn không thể vượt qua, Xin Chúa ngoảnh mặt cho người an phậnVui hưởng ngày mình như kẻ làm thuê. Khi cây bị đốn, ta vẫn còn hy vọngCây sẽ mọc lại, đâm chồi nẩy lộc. Dù rễ bắt đầu cỗi dưới đất,Và gốc khởi sự chết trong bụi, Vừa bắt được hơi nước, cây liền nứt lộc,Đâm nhành như một cây tơ. Nhưng con người, khi chết rồi, mất tất cả năng lực;Người tắt hơi, rồi về đâu? Như nước hồ bốc hơi biến mất,Như sông cạn dần rồi khô hẳn, Con người nằm xuống, không hề chổi dậy;Khi bầu trời còn đó, người không hề thức dậy,Không ai có thể đánh thức người khỏi giấc ngủ say. Ôi, ước gì Chúa giấu con nơi âm phủ,Che kín con cho đến khi cơn giận Chúa nguôi,Định kỳ hạn cho con tại đó,Và nhớ đến con khi mãn kỳ! Người chết rồi có thể nào sống lại?Trọn những ngày nghĩa vụ nhọc nhằn,Con sẽ trông chờ phiên gác thế con. Bấy giờ Chúa gọi, con xin thưa,Chúa sẽ nhớ thương công trình của tay Ngài. Bấy giờ Chúa sẽ đếm từng bước con đi,Nhưng Ngài sẽ không canh chừng tội lỗi con. Vi phạm con sẽ được niêm phong trong túi,Gian ác con, Chúa sẽ che đậy. Tuy nhiên, như núi lở tan ra từng mảnh vụn,Như tảng đá tách rời khỏi sườn núi, Như nước chảy đá mòn,Như mưa lũ cuốn trôi bụi đất,Chúa phá tan hy vọng con người. Chúa đánh bại người một lần đủ cả, và người ra đi,Chúa biến đổi sắc diện người, và xua người đi. Con cái người có vẻ vang, người cũng chẳng biết,Hoặc chúng có thấp hèn, người cũng chẳng hay. Người chỉ cảm biết được nổi đau của chính thân mình,Chỉ sầu khổ vì chính mình mà thôi. Ê-li-pha người Thê-man đáp lời: Lẽ nào người khôn ngoan nói lời tri thức như bão táp,Bụng căng đầy gió đông? Lẽ nào người dùng lập luận vô bổ,Lời vô ích mà tự bào chữa mình sao? Thật vậy, anh gạt bỏ lòng kính sợ Đức Chúa Trời,Anh khinh thường giờ suy gẫm trước mặt Ngài. Tội ác anh hướng dẫn miệng anh,Khiến anh chọn lưỡi gian xảo. Chính miệng anh lên án anh, chớ chẳng phải tôi,Chính môi anh tố cáo anh. Có phải anh là người sanh ra đầu tiên,Có phải anh vào đời trước cả núi non? Anh có được dự nghe trong buổi họp kín của Đức Chúa Trời?Có phải chỉ riêng anh khôn ngoan thôi sao? Có điều chi anh biết mà chúng tôi chẳng biết?Có điều chi anh hiểu mà chúng tôi chẳng hiểu? Giữa chúng ta đây có người tóc bạc tuổi cao,Cao niên hơn cả phụ thân anh. Lời an ủi từ Đức Chúa Trời,Lời Ngài khuyên nhẹ nhàng chưa đủ cho anh sao? Sao trí anh lại nghĩ quẫn,Sao mắt anh mờ đi, không thấy. Đến nỗi anh cả gan giận Đức Chúa Trời,Và miệng anh tuôn ra những lời dường ấy? Loài người là gì mà thanh sạch được?Loài người sanh ra từ người nữ làm sao công chính được? Nếu Đức Chúa Trời không tin cậy ngay cả các thiên thần,Nếu các tầng trời vẫn chưa sạch dưới mắt Ngài, Huống chi loài người gớm ghiếc và hư đốn,Là kẻ phạm tội ác như uống nước lã! Xin anh nghe tôi, tôi sẽ trình bày,Tôi sẽ kể lại điều gì tôi thấy, Điều mà các nhà hiền triết đã dạy,Và không giấu những gì học được từ tổ tiên, Khi Đức Chúa Trời ban đất nước cho riêng họ,Không có người nước ngoài sống giữa họ. Kẻ ác bị dằn vặt suốt đời,Trọn những năm dành cho kẻ hà hiếp; Tiếng kinh hoàng luôn văng vẳng bên tai,Đang bình an, kẻ Hủy Diệt xông vào; Không hy vọng thoát khỏi cảnh tối tăm,Gươm giết hại luôn luôn chực sẵn. Xác kẻ ác bị ném ra ngoài, làm thức ăn cho kên kên,Nó cảm biết ngày tăm tối gần kề. Cảnh khốn khó cùng quẫn làm nó khiếp sợ,Dồn ép nó như ông vua sẵn sàng tấn công. Vì nó đã vung tay lên chống nghịch Đức Chúa Trời,Ra vẻ anh hùng thách thức Đấng Toàn Năng. Nó gân cổ chạy xông vào Ngài,Tay cầm khiên dày có núm, có u. Dù mỡ phủ lấp mặt nó,Căng phồng bụng hông nó, Nó sẽ sống trong những thành sắp bị tàn phá,Nhà cửa bỏ hoangChờ đổ nát thành đống. Nó không giàu có được, của cải nó không bền,Tài sản nó không lan rộng trên đất. Nó không thoát khỏi cảnh tối tăm;Lửa sém khô các chồi nó,Hơi thở của Đức Chúa Trời cuốn nó đi mất. Kẻ ác chớ cậy vào của phù du mà tự dối mình,Vì của phù du sẽ là phần thưởng của nó. Nó sẽ nhận đầy đủ phần mình trước ngày định,Nhành nó sẽ không xanh tươi; Nó giống như cây nho rụng trái non,Như cây ô liu không đậu hoa. Vì phường vô đạo không con cháu,Và lửa thiêu rụi lều trại cả bọn hối lộ và bọn ăn hối lộ. Chúng cưu mang việc gây hấn và sanh ra tội ác,Dạ chúng thai nghén điều gian xảo. Gióp đáp lời: Tôi đã từng nghe những lời như vậy nhiều lần rồi,Hết thảy các anh đều là những kẻ an ủi gây thêm phiền toái! Lời vô nghĩa bao giờ mới dứt?Hoặc giả anh mắc bệnh gì nên phải nói ra? Nếu các anh ở trong hoàn cảnh tôi,Tôi cũng có khả năng nói y như các anh,Tôi có thể nói thao thao bất tuyệt,Và lắc đầu nhìn các anh. Nhưng tôi sẽ dùng môi miệng khích lệ các anh,Xoa dịu nỗi đau khổ của các anh. Còn nỗi đau của riêng tôi không thuyên giảm khi tôi nói,Cũng không xa lìa nếu tôi nín lặng. Nhưng bây giờ Chúa làm tôi mòn mỏi,Ngài hủy diệt cả gia đình tôi. Ngài khiến da tôi nhăn nheo,Thân tôi gầy mòn làm chứng nghịch lại tôi. Cơn giận Chúa xâu xé tôi,Ngài nghiến răng thù ghét tôi,Kẻ thù tôi trừng mắt nhìn tôi. Chúng há hoác miệng nhạo báng tôi,Tát má tôi với lời thô lỗ,Kết bè nhau hãm đánh tôi. Đức Chúa Trời nộp tôi cho bọn vô đạo,Trao tôi vào tay bọn gian ác. Tôi đang sống yên vui, bỗng bị Ngài đập nát,Ngài chụp cổ tôi, ném tôi bể tan tành.Ngài dựng tôi lên làm bia; Bọn bắn cung của Ngài bao vây tôi.Ngài đâm thủng thận tôi, không chút xót thương,Ngài đổ mật tôi ra trên đất. Ngài đánh tôi bị thương, vết này đến vết kia,Xông đánh tôi như chiến sĩ ra trận. Tôi may áo tang mặc phủ lên da,Vùi danh giá tôi trong bụi đất. Mặt tôi sưng đỏ vì khóc,Mắt tôi thâm quầng bóng chết chóc, Dù tay tôi không làm điều bạo ngược,Và lời cầu nguyện tôi trong sạch. Ôi đất, xin đừng lấp máu tôi,Xin đừng ngăn chặn tiếng kêu báo oán! Ngay giờ này, có một đấng làm chứng cho tôi trên trời,Có một đấng biện hộ cho tôi trên nơi cao. Các bạn tôi nhạo báng tôi,Tôi đầm đìa nước mắt cầu khẩn Đức Chúa Trời. Đấng làm chứng trên trời sẽ biện hộ cho tôi trước mặt Đức Chúa Trời,Như loài người biện hộ cho bạn mình. Vì chỉ còn một vài năm nữa thôi,Rồi tôi sẽ ra đi, không bao giờ trở lại. Sức sống con bị chà nát,Ngày đời con lụn tắt,Nghĩa địa đang chờ con. Bọn nhạo báng vây quanh con,Mắt con luôn nhìn thấy họ chống đối con. Xin Chúa nhận lời con bảo đảm,Vì còn ai dám bảo lãnh cho con? Chúa giấu sự hiểu biết khỏi tâm trí họ,Cho nên Chúa không để họ thắng con. Người nào tố cáo bạn bè vì lợi lộc,Con cái người sẽ mòn mắt đợi trông. Chúa khiến tôi trở nên lời đàm tiếu giữa các dân,Chúng khạc nhổ ngay vào mặt tôi. Mắt tôi mờ vì đau buồn,Tay chân tôi thảy đều lỏng khỏng như chiếc bóng. Người ngay thẳng nhìn tôi kinh ngạc,Người vô tội phẫn khích vì kẻ vô đạo. Người công chính giữ vững đường lối mình,Người có tay trong sạch càng thêm mạnh mẽ. Xin tất cả các anh lại đây biện luận cùng tôi một lần nữa,Nhưng rồi tôi cũng sẽ không tìm được một người khôn ngoan giữa các anh! Ngày đời tôi qua đi,Kế hoạch tôi gẫy đổ,Mơ ước lòng tôi tan vỡ. Các bạn tôi nói đêm sẽ biến thành ngày,Ánh sáng đến gần sau cơn tối tăm. Nếu tôi trông đợi Âm phủ làm nhà,Nếu tôi sắp xếp chỗ nằm trong bóng tối, Nếu tôi gọi huyệt mả: “Ngươi là cha tôi,”Và dòi bọ: “mẹ tôi,”“chị tôi,” Vậy thì hy vọng tôi ở đâu?Có ai nhìn thấy chút hy vọng gì cho tôi không? Hy vọng có theo tôi,Chúng tôi có cùng nhau nghỉ yên nơi bụi đất không? Binh-đát người Su-a đáp lời Gióp: Bao giờ anh mới ngừng nói?Anh hãy suy xét lại, rồi chúng ta sẽ bàn tiếp. Sao anh coi chúng tôi như thú vật?Sao anh kể chúng tôi là ngu dại? Anh tự xé xác mình trong cơn giận!Lẽ nào vì anh đất trở nên hoang vu, không người ở,Và núi đá phải dời khỏi chỗ nó? Phải, ngọn đèn kẻ gian ác sẽ bị dập tắt,Và tia lửa nó không còn chiếu sáng. Ánh sáng trong lều trại nó trở nên tối tăm,Ngọn đèn trên đầu nó sẽ bị dập tắt. Bước chân vững vàng trở thành khập khiễng,Nó sẽ ngã nhào trong mưu chước mình. Vì chân nó đẩy nó vào mạng lưới,Nó bước đi trên hố bị cành lá che khuất; Bẫy sập xuống gót chân nó,Nó sa vào tròng; Thòng lọng giấu dưới đất chờ nó,Lưới bủa trên đường nó đi. Nỗi kinh hoàng tứ phía khiến nó hãi hùng,Đuổi sát theo gót chân nó. Sức lực nó suy tàn vì cơn đói,Tai họa chầu chực sẵn cạnh bên. Da nó tiêu hao vì bệnh hoạn,Con trưởng nam của Tử thần ăn nuốt tay chân nó. Nó bị bứng ra khỏi lều trại, là nơi nó được an toàn,Và điệu đến trước Vua Kinh hoàng. Người không thuộc về nó sẽ ở trong lều trại nó,Diêm sinh rải khắp nơi nó từng cư trú. Phía dưới, rễ nó khô cằn,Bên trên, nhành nó héo tàn. Kỷ niệm nó bị xóa mất khỏi xóm làng,Không ai nhắc đến tên nó ngoài đồng hoang. Nó bị đuổi khỏi vùng ánh sáng vào cõi tối tăm,Bị trục xuất khỏi vòng người sống. Trong gia tộc, nó sẽ không con cháu,Không còn ai sống sót nơi nó từng cư ngụ. Trước số phận nó, người phương tây sững sờ,Người phương đông kinh hãi. Thật vậy, đó là nơi kẻ gian ác ở,Là chỗ của người không nhận biết Đức Chúa Trời. Gióp đáp lời: Các anh còn muốn dùng lời lẽDày vò tôi, và nghiền nát tôi cho đến khi nào? Các anh tìm cách nhục mạ tôi cả chục lần rồi,Các anh bạc đãi tôi chẳng chút ngượng ngùng. Dù tôi có thật sự phạm lỗi lầm đi nữa,Lỗi lầm tôi chỉ hại riêng tôi. Nhưng nếu các anh tưởng mình hay hơn tôi,Đem cảnh khổ nhục tôi ra nhiếc mắng, Xin hiểu rằng chính Đức Chúa Trời đã gây thiệt hại cho tôi,Và bủa lưới Ngài vây quanh tôi. Nếu tôi có kêu lên, “Tôi bị ngược đãi!” cũng không ai đáp,Tôi kêu oan, nhưng không ai xét xử công minh. Ngài dựng rào chặn đường, không cho tôi đi tới,Khiến tối tăm bao phủ lối tôi đi. Ngài lột trần danh dự tôi như chiếc áo,Cất bỏ tiếng tăm tôi như mão miện khỏi đầu. Tôi sụp đổ như căn nhà bị Ngài đập phá tứ phía,Hy vọng tôi như cây bị nhổ cả gốc rễ. Cơn thịnh nộ Ngài bừng cháy,Ngài xem tôi như kẻ thù. Các đội quân Ngài ùn ùn kéo tới,Đắp lũy hãm đánh tôi,Đóng trại quanh lều tôi. Ngài khiến cho họ hàng tôi xa cách tôi,Những người quen biết tôi trở nên xa lạ. Các thân bằng quyến thuộc đều lìa bỏ tôi,Khách ngụ trong nhà tôi cũng quên tôi. Các nữ tỳ xem tôi như người lạ,Tôi trở thành ngoại kiều trước mắt chúng. Tôi gọi đầy tớ tôi, nhưng nó không đáp lại,Ngay cả khi tôi mở miệng khẩn nài. Vợ tôi ghê tởm sự sống tôi,Anh em tôi gớm ghiếc tôi. Ngay cả bọn trẻ con cũng khinh bỏ tôi,Quay lưng đi khi tôi đứng dậy. Tất cả những người bạn thân nhất đều ghê tởm tôi,Những người tôi yêu mến đều trở mặt chống lại tôi. Xương tôi bám chặt vào da thịt,Tôi thoát được với da bọc răng! Các anh là bạn tôi, xin thương xót tôi, xin thương xót tôi!Vì tay Đức Chúa Trời đã đánh tôi! Sao các anh tiếp tục bắt bớ tôi như Đức Chúa Trời bắt bớ tôi?Các anh buộc tội tôi chưa đủ sao? Ôi, ước gì các lời tôi được ghi chép,Ước gì chúng được khắc trên bia, Với bút sắt, rồi mạ chì,Khắc trên đá đời đời còn đó! Nhưng tôi biết chắc Đấng Cứu Chuộc tôi vẫn sống,Ngài sẽ chổi dậy sau cùng để bào chữa cho tôi trên đất. Ngay cả sau khi da tôi đã tróc rơi từng mảnh,Tôi vẫn ước ao được chiêm ngưỡng Đức Chúa Trời trong thân xác này. Chính tôi sẽ ngắm xem Ngài,Mắt tôi sẽ nhìn thấy Ngài, và Ngài không còn xa lạ nữa.Tôi trông chờ đến héo cả ruột gan. Khi các anh bàn tính, “Chúng ta phải bắt bớ nó cách nào đây?”Và nói, “Nguyên nhân thảm họa này là chỉ tại nó thôi!” Xin coi chừng lưỡi gươm,Vì cơn giận các anh đáng bị lưỡi gươm đoán phạt,Để các anh biết rằng ngày phán xét gần kề. Sô-pha, người Na-a-ma, đáp: Thật vậy, tư tưởng bối rối trong tôi buộc tôi phải đáp lời,Vì lòng tôi bồi hồi không yên. Tôi phải nghe lời khuyên dạy nhục mạ tôi,Và trí hiểu biết thôi thúc tôi đáp lại. Anh có biết, từ thuở xa xưa,Khi loài người vừa được tạo dựng trên đất, Kẻ ác chỉ reo đắc thắng trong chốc lát,Và kẻ vô đạo vui mừng trong khoảnh khắc? Dù kẻ ác kiêu căng đến tận trời,Đầu nó giáp các tầng mây, Nó cũng sẽ tan biến mất như phân làm chất đốt,Ai từng thấy nó sẽ hỏi: “Nó đâu rồi?” Nó sẽ bay mất như giấc mơ, không ai tìm được,Bị xua đi như ác mộng ban đêm. Mắt từng thấy nó sẽ không thấy nó nữa,Nơi nó ở cũng sẽ không thấy nó. Con cái nó phải xin xỏ người nghèo,Khi tay nó hoàn lại sức sống. Xương cốt nó tuy tràn đầy sinh lực tuổi trẻ,Vẫn phải nằm với nó trong bụi đất. Dù tội ác nếm vào miệng thật ngọt ngào,Nó phải cuốn lưỡi lận tội ác bên dưới, Không chịu nhả ra,Ngậm trong miệng để giữ hương vị, Một khi vào bụng, tội ác biến mùi,Trở thành nọc rắn hổ. Của cải nuốt vào, nó phải mửa ra,Đức Chúa Trời tống của cải ra khỏi bụng nó. Nó mút nọc rắn hổ,Lưỡi rắn độc sẽ giết chết nó. Nó không được hưởng các suối dầu ô-liu,Các dòng sông chảy tràn mật ong và sữa chua. Nó nuốt không vô các lợi lộc kiếm được, nó phải mửa ra,Nó không hưởng được sự giàu có do làm ăn buôn bán. Vì nó bóc lột và bỏ bê người nghèo,Tước đoạt nhà cửa nó không xây. Vì bụng nó không biết no,Không điều gì nó ưa thích thoát khỏi nó, Không ai sống sót sau khi nó ăn,Cho nên sự thịnh vượng nó không bền. Đang dư dật tột đỉnh, nó bỗng sinh túng quẫn,Sự khốn cùng dồn toàn lực áp đảo nó. Xin Chúa khiến nó đầy bụng,Trút cơn thịnh nộ Ngài xuống như mưa,Làm thức ăn cho nó. Dù nó trốn thoát vũ khí sắt,Mũi tên đồng sẽ đâm thủng nó. Khi nó rút mũi tên ra khỏi lưng,Mũi tên sáng quắc ra khỏi mật gan,Nỗi kinh hoàng chụp lấy nó. Tối tăm dày đặc rình chờ các báu vật giấu kín của nó,Lửa không do người thổi thiêu nuốt nó,Nuốt luôn mọi người còn lại trong lều trại nó. Các tầng trời tố cáo tội ác nó,Đất nổi dậy buộc tội nó. Bão lụt cuốn trôi nhà nó,Thác nước chảy cuộn trong ngày Chúa nổi giận. Đó là phần Đức Chúa Trời dành cho kẻ ác,Cơ nghiệp Ngài định cho nó. Gióp đáp lời: Xin các anh lắng nghe lời tôi nói,Đó là cách các anh an ủi tôi. Xin kiên nhẫn cho tôi thổ lộ,Xong rồi, các anh có quyền cười chê. Nào tôi có phiền trách loài người?Tôi không được quyền nóng giận sao? Xin các anh chú ý nghe tôi,Rồi các anh sẽ sững sờ, không thốt nên lời. Khi nghĩ đến, tôi kinh hoàng,Toàn thân run lẩy bẩy. Tại sao bọn gian ác được sống,Lại còn sống lâu và quyền thế? Chúng nhìn thấy dòng dõi chúng ổn định,Con cháu chúng vững vàng. Chúng sống trong nhà, bình an, không lo sợ,Ngọn roi của Đức Chúa Trời không hề giáng xuống chúng. Bò đực chúng truyền giống không thất thoát,Bò cái chúng sinh con không sẩy thai. Chúng cho trẻ thơ mình chạy tung tăng như đàn chiên,Trẻ con mình nhảy múa, Ca hát theo tiếng trống, tiếng đàn lia,Vui đùa theo tiếng sáo. Bọn gian ác tận hưởng ngày đời mình trong cảnh giàu sang,Rồi về cõi chết trong giây lát. Chúng nói với Đức Chúa Trời: “Xin lìa xa chúng tôi,Chúng tôi không muốn học biết đường lối Ngài! Đấng Toàn Năng là gì mà chúng tôi phải phụng thờ?Cầu khẩn Ngài có lợi gì cho chúng tôi?” Chúng có nắm trong tay mình sự giàu sang của chúng không?Tôi tránh xa mưu đồ kẻ ác! Có bao lần đèn kẻ ác bị dập tắt,Tai họa giáng xuống chúng,Đức Chúa Trời nổi giận hình phạt chúng, Chúng tựa như rơm trước ngọn gió,Như trấu bị bão cuốn đi? Các anh nói: “Đức Chúa Trời để dành tội ác chúng cho con cháu.”Xin Ngài báo trả tội nhân để chúng biết thân! Xin cho chính mắt chúng nhìn thấy cảnh diệt vong,Xin cho chúng uống cơn phẫn nộ của Đấng Toàn Năng! Vì chúng chẳng màng điều gì xảy đến cho gia đình,Sau khi chúng qua đời. Ai dám dạy Đức Chúa Trời,Khi chính Ngài xét xử ngay cả các thiên thần? Người nầy sống thảnh thơi, an nhàn,Khỏe mạnh đến khi chết: Thân thể căng tràn nhựa sống,Tủy xương vẫn còn tươi tốt. Người kia chết, cả đời cay đắng,Chưa hề nếm phước hạnh là gì. Cả hai đều nằm trong bụi đất,Bọ dòi bao phủ cả hai. Này, tôi biết rõ ý tưởng các anh,Các anh mưu toan bức hiếp tôi. Các anh hỏi: “Nhà bọn cường hào ở đâu?Lều trại bọn gian ác ở đâu?” Sao các anh không hỏi khách lữ hành?Sao không nhận lời chứng của họ? Rằng kẻ ác được tha trong ngày tai họa,Được thoát trong ngày thịnh nộ? Ai dám buộc tội kẻ ác ngay mặt nó?Ai dám báo trả điều nó làm? Khi kẻ ác được đưa đến nghĩa trang,Phần mộ nó có người canh gác. Các nắm đất trong trũng cũng êm dịu cho nó.Mọi người đều đưa đám nó,Kẻ trước, người sau, nhiều vô số. Vậy, sao các anh tưởng có thể an ủi tôi với chuyện vô lý?Những lời giải đáp của các anh chỉ là dối gạt! Ê-li-pha người Thê-man, đáp lời: Người phàm có ích gì cho Đức Chúa Trời?Người khôn ngoan hẳn nhiên được lợi cho chính mình. Đấng Toàn Năng có vui thích gì nếu anh sống công chính?Có lợi gì cho Ngài nếu đường lối anh trọn vẹn? Có phải vì anh kính sợ Ngài mà Ngài sửa trị anh,Đem anh ra xét xử? Không phải vì anh gian ác quá bội,Tội ác anh nhiều vô số sao? Vì anh bắt anh em mình nộp của cầm vô cớ,Lột trần ngay cả tấm áo che thân; Người mệt lả, anh không cho nước uống,Kẻ đói kiệt, anh không phát bánh ăn; Bọn cường hào anh cho chiếm đất,Kẻ được nể vì ở luôn nơi đó; Người góa bụa, anh đuổi về tay trắng,Kẻ mồ côi, anh chà đạp chốn nương thân; Vì thế, cạm bẫy bao vây anh,Sự kinh hoàng bất thần chụp lấy anh, Ánh sáng tối mờ đến nỗi anh không thấy,Và nước lũ ngập chìm anh. Không phải Đức Chúa Trời ở trên cao, tận trên các tầng trời sao?Anh hãy nhìn xem các vì sao cao nhất, chúng cao biết bao! Vì thế anh nói: “Đức Chúa Trời biết gì?Làm sao Ngài xét xử được xuyên qua đám mây đen kịt? Mây bao phủ Ngài, nên Ngài chẳng thấy,Và Ngài bước đi trên vòm trời.” Anh có muốn tiếp tục đi theo đường cũ,Đường kẻ ác vẫn thường đi? Chúng bị chụp bắt đi trước giờ định,Nền tảng chúng sụp đổ trôi theo dòng sông. Chúng nói với Đức Chúa Trời: “Xin lìa xa chúng tôi.Đấng Toàn Năng có thể làm gì chúng tôi được?” Tuy nhiên, chính Ngài đã ban phước lành đầy nhà chúng.Mưu đồ kẻ ác thật xa tôi lắm. Người công chính vui mừng thấy kẻ ác bị phạt,Người vô tội nhạo cười chúng: “Kẻ thù chúng ta chắc chắn bị tiêu diệt,Lửa thiêu nuốt vật gì chúng để lại.” Hãy làm hòa với Đức Chúa Trời, hãy sống bình an,Nhờ đó, anh sẽ được phước. Hãy nhận lời dạy dỗ từ miệng Ngài,Hãy giữ lời Ngài trong lòng anh. Nếu anh quay về với Đấng Toàn Năng, Ngài sẽ phục hồi anh.Nếu anh đem sự gian ác ra xa khỏi lều trại anh, Nếu anh quăng vàng xuống bụi đất,Nếu anh ném vàng Ô-phia giữa đá sỏi trong lòng khe cạn nước, Nếu anh quí Đấng Toàn Năng như vàng,Như bạc chất cao thành đống, Bấy giờ Đấng Toàn Năng sẽ ban cho anh niềm vui thỏa,Anh sẽ hân hoan ngẩng mặt lên nhìn Đức Chúa Trời. Anh sẽ cầu khẩn Ngài, Ngài sẽ nghe tiếng anh,Và anh sẽ làm trọn điều anh hứa nguyện. Việc gì anh quyết định làm cũng thành công,Và ánh sáng soi rọi các nẻo đường anh. Vì Đức Chúa Trời hạ thấp kẻ kiêu ngạo,Nhưng cứu giúp người hạ mình. Ngài giải cứu người vô tội,Và anh sẽ được cứu nếu tay anh trong sạch. Gióp đáp lời: Ngay bây giờ tôi vẫn còn chống nghịch than van,Tay đè trên tôi vẫn nặng mặc tiếng tôi rên xiết. Ước gì tôi biết nơi nào tìm gặp Chúa,Tôi sẽ đến chầu trước tòa Ngài. Tôi sẽ trình lên Ngài trường hợp tôi,Miệng tôi sẽ thưa cặn kẽ các lý lẽ. Tôi sẽ biết những lời Ngài đáp lại,Tôi sẽ hiểu những điều Ngài dạy. Lẽ nào Ngài đem quyền năng lớn lao ra tranh luận với tôi?Không đâu! Ngài sẽ lắng nghe tôi. Nơi tòa Ngài, người công chính được phép trình bày,Và Đấng xét xử tôi sẽ tuyên bố tôi vĩnh viễn trắng án. Kìa, tôi đi tới trước, nhưng Ngài không có ở đó,Tôi đi lui về phía sau, cũng chẳng thấy Ngài. Ngài làm việc bên tả, tôi cũng không gặp Ngài,Ngài quay sang bên hữu, tôi cũng chẳng thấy được Ngài. Nhưng Chúa biết con đường tôi đi,Khi Ngài rèn luyện tôi, tôi sẽ ra như vàng. Chân tôi bám sát theo bước Ngài,Tôi giữ theo đường Ngài, không rẽ lối. Tôi không rời bỏ mạng lịnh từ môi Ngài,Lời từ miệng Ngài, tôi giấu kín trong lòng. Nhưng Ngài một dạ chẳng dời, ai dám lay chuyển Ngài?Ngài đã quyết thi hành. Vì Ngài sẽ làm trọn ý Ngài định cho tôi,Và nhiều ý định tương tự. Do đó, tôi kinh hãi trước mặt Ngài,Càng nghĩ đến, tôi càng khiếp sợ. Đức Chúa Trời làm tôi bủn rủn,Đấng Toàn Năng khiến tôi hãi hùng. Vì tôi bị tối tăm bao phủ,Bóng đêm dày đặc phủ kín mặt tôi. Tại sao Đấng Toàn Năng không định giờ phán xét?Sao những kẻ biết Chúa không thấy ngày đoán phạt? Bọn gian dời mốc phân ranh,Cướp bầy súc vật đem về chăn nuôi; Lùa theo mình lừa của đứa con côi,Cầm làm tin bò của người mẹ góa; Đuổi người nghèo khó ra khỏi đường cái,Mọi kẻ khốn cùng trong xứ phải ẩn tránh; Kìa, người nghèo làm lụng vất vả,Khác nào lừa rừng trong sa mạc,Họ kiếm thức ăn cho con cái,Khác nào lừa rừng tìm mồi trong đồng hoang; Họ lượm lặt rơm rạ trong đồng ruộng,Họ mót nho trong vườn kẻ ác; Họ nằm ngủ mình trần, không manh áo,Không mền đắp trong đêm giá lạnh; Họ ướt đẫm mưa lạnh miền núi,Không nơi đụt, họ nép mình trong hóc đá. Bọn gian ác giật đứa con côi khỏi vú mẹ,Cầm giữ con thơ kẻ nghèo làm tin. Người khốn khổ đi mình trần, không manh áo,Vác bó lúa mà bụng đói meo. Họ ép dầu giữa các hàng cây ô-liu,Họ đạp nho trong bồn mà cổ khát khô. Từ trong thành vang lên tiếng người rên xiết,Kẻ bị thương hấp hối kêu van,Nhưng Đức Chúa Trời không kể đó là tội kẻ ác! Có những người chống nghịch ánh sáng,Không quen thuộc đường sáng,Không đi trên các nẻo sáng. Vừa mờ sáng, tên sát nhân nhổm dậy,Giết kẻ nghèo khổ và khốn cùng.Ban đêm, nó biến thành kẻ trộm. Mắt kẻ ngoại tình chờ lúc trời chạng vạng,Nó tự nhủ: “Không mắt nào thấy được ta,”Rồi nó trùm mặt lại. Bọn trộm khoét vách nhà trong đêm tối,Ban ngày chúng trốn kín mít,Không hề biết ánh sáng. Đối với tất cả bọn chúng, đêm tối mịt là ban ngày,Vì chúng quen thuộc nỗi hãi hùng trong đêm tối mịt. Ước gì bọn ác như bọt bèo trôi dạt trên mặt nước,Phần đất của chúng bị rủa sả,Không ai đi về hướng vườn nho chúng! Ước gì cơn nắng hạn và trời nóng bức cướp mất nước tuyết tan,Và âm phủ cướp mất kẻ phạm tội! Ước gì dạ mang chúng quên chúng đi,Thây chúng ngọt ngào cho dòi bọ,Không ai nhớ đến chúng nữa,Và tội ác gẫy đổ như cây cối! Chúng ngược đãi các bà vợ không sinh đẻ,Đối xử tàn nhẫn với các bà góa chồng. Nhưng Đức Chúa Trời dùng quyền năng hủy diệt kẻ mạnh bạo,Ngài ra tay, chúng mất hy vọng sống. Tuy Ngài để chúng sống bình an vô sự,Mắt Ngài theo dõi mọi đường đi nước bước. Chúng được tôn cao trong chốc lát, rồi biến mất,Chúng khô héo, rũ xuống như cỏ dại,Như gié lúa cắt rời khỏi thân. Nếu không phải vậy, ai có thể chứng minh là tôi dối gạt,Lời tôi chẳng đúng vào đâu? Binh-đát, người Su-a, đáp: Ngài cầm quyền thống trị, và đáng kính sợ,Thiết lập hòa bình trên trời cao. Đội quân Ngài, nào ai đếm được?Nào ai thoát khỏi ánh sáng Ngài? Thế thì người phàm làm sao được Đức Chúa Trời kể là công chính?Con người sinh ra từ người nữ làm sao được Ngài kể là trong sạch? Nếu ngay cả mặt trăng cũng không sáng đủ,Các ngôi sao cũng không tinh đủ dưới mắt Ngài, Huống chi người phàm, loài dòi bọ,Và con cái người, chỉ là giống côn trùng? Gióp đáp lời: Anh thật khéo nâng đỡ người cô thế,Cứu giúp người yếu đuối! Anh thật khéo khuyên dạy người kém khôn ngoan,Tỏ bày bao nhiêu điều thông sáng! Nhờ ai mà anh thốt ra những lời ấy?Thần khí nào phát ra từ anh? Hồn người chết oằn oạiBên dưới nước và các động vật trong nước. Âm phủ lộ trần trước mắt Ngài,Cõi diệt vong không màn che khuất. Ngài giăng trời bắc trên khoảng không,Treo địa cầu trong không gian. Ngài dồn chứa nước mưa trong đám mây dày đặc,Nhưng nước nhiều cũng không xé rách mây. Ngài bao phủ ngai Ngài,Trải mây che khuất ngai. Ngài vẽ một vòm tròn trên mặt nước,Tận chân trời, nơi ánh sáng gặp tối tăm. Cột trụ đỡ các tầng trời rung chuyển,Kinh sợ khi Ngài quở trách. Ngài dùng quyền năng dẹp yên biển cả,Dùng sự khôn ngoan đánh ngã Ra-háp. Hơi thở Ngài làm bầu trời tươi sáng,Tay Ngài đâm thủng rắn đang trốn chạy. Nhưng đó chỉ là một cái nhìn thoáng qua về công việc Ngài;Tiếng thì thầm chúng ta nghe về Ngài thật nhỏ làm sao!Ai hiểu thấu tiếng sấm vang rền quyền năng Ngài? Gióp tiếp tục biện luận: Đức Chúa Trời hằng sống chứng cho tôi,Ngài từ chối xét lẽ công bình cho tôi,Đấng Toàn Năng làm đời tôi cay đắng, Bao lâu tôi còn hơi thở,Còn sinh khí của Đức Chúa Trời nơi mũi tôi, Môi tôi sẽ không nói lời độc địa,Lưỡi tôi sẽ không dối gạt. Chắc chắn tôi không thể nào cho các anh là phải,Cho đến chết, tôi vẫn quả quyết tôi trọn lành. Tôi quyết chắc tôi công chính, tôi không hề đổi ý,Trọn đời tôi, tôi không hề bị lương tâm cắn rứt. Ước gì kẻ thù tôi bị phạt như kẻ ác,Kẻ chống đối tôi bị xử như kẻ gian! Kẻ vô đạo có hy vọng gì khi cuộc đời đứt quãng,Khi Đức Chúa Trời đòi mạng sống lại? Đức Chúa Trời có nghe tiếng nó kêu than,Khi tai họa giáng xuống? Nó có tìm nguồn vui thỏa trong Đấng Toàn Năng,Có thường xuyên cầu khẩn Đức Chúa Trời không? Tôi sẽ chỉ dạy các anh về quyền năng của Đức Chúa Trời,Không giấu điều chi về ý định của Đấng Toàn Năng. Nhưng hết thảy các anh đều hiểu thấy hết rồi,Vậy sao các anh còn nói lời vô nghĩa? Đây là phần Đức Chúa Trời dành cho kẻ ác,Là gia tài kẻ hung bạo nhận lãnh từ Đấng Toàn Năng. Con cái chúng có đông đảo, cũng sẽ ngã vì gươm giáo,Dòng dõi chúng ăn không đủ no. Những kẻ sống sót sẽ bị bệnh dịch chôn vùi,Mà không được vợ góa than khóc. Dù kẻ ác chứa bạc như cát bụi,Chồng chất áo quần thành đống như đất sét, Áo quần chúng chồng chất, nhưng người công chính sẽ mặc,Còn bạc, người vô tội sẽ chia nhau. Nhà chúng xây giống như mạng nhện,Như chòi canh người giữ vườn dựng lên. Chúng nằm ngủ, giàu có, nhà cửa còn nguyên vẹn,Chúng mở mắt, nhà cửa tiêu tan. Kinh hoàng ập xuống chúng như lũ lụt,Bão tố ban đêm cuốn chúng đi. Trận gió đông bốc chúng đi mất,Đùa chúng ra khỏi chỗ ở, Thổi xoáy vào chúng, không thương xót;Chúng cố gắng chạy trốn luồng gió mạnh. Gió vẫn thổi tạt vào chúng như tiếng vỗ tay ngạo nghễ,Rít từng cơn đuổi theo chúng như tiếng huýt gió nhạo cười. Bạc tất nhiên phải có mỏ,Vàng phải có lò luyện. Sắt đào lên từ lòng đất,Quặng nấu chảy ra đồng. Công nhân hầm mỏ rọi ánh sáng vào nơi tối tăm,Đào cuốc đến tận hang cùng ngõ hẻm,Tìm quặng trong bóng tối âm u. Họ khai thông đường hầm cách xa nơi người ở,Họ bị quên lãng vì không ai đặt chân tới đó,Họ buộc mình lủng lẳng vào sợi dây, làm việc nơi hoang vắng. Hoa màu mọc lên từ đất,Nhưng lòng đất dường như bị lửa xáo trộn. Lẫn trong đá có ngọc lam xanh biếc,Lóng lánh những chấm vàng. Con đường này, chim săn mồi không hề biết,Mắt chim ưng cũng chẳng thấy, Thú rừng chưa hề giẫm chân lên,Sư tử cũng chẳng đi ngang qua. Con người đập vỡ đá lửa,Đào sập chân núi. Khi họ đục đá mở đường hầm,Mắt họ xem xét mọi vật quý. Họ xây đập ngăn sông tận nguồn,Để phơi ra ánh sáng những vật giấu kín. Nhưng tìm đâu ra khôn ngoan?Đâu là nguồn của thông sáng? Người phàm không biết đường dẫn đến khôn ngoan,Không thể tìm được khôn ngoan trên trần gian. Vực sâu nói: “Nó không có trong tôi,”Biển cả nói: “Nó không ở cùng tôi.” Không thể trao vàng khối đổi lấy nó,Cũng không cân bạc mua được nó. Không thể đánh giá nó bằng vàng Ô-phia,Mã não quý hoặc ngọc lam xanh biếc. Vàng hoặc pha lê cũng không so được với nó,Dụng cụ bằng vàng ròng cũng không đổi được nó. San hô và thủy tinh chẳng đáng nói đến,Khôn ngoan quý giá hơn hồng ngọc. Hoàng ngọc xứ Ê-thi-ô-bi không sánh được với nó,Cũng không thể đánh giá nó bằng vàng ròng. Vậy, khôn ngoan đến từ đâu?Đâu là nguồn của thông sáng? Khôn ngoan giấu kín khỏi mắt kẻ sống,Ngay cả chim trời cũng không thấy. Cõi diệt vong và sự chết nói:“Tai chúng tôi có nghe đồn về nó.” Chỉ một mình Đức Chúa Trời biết đường dẫn đến khôn ngoan,Chỉ mình Ngài biết nơi nào tìm được nó, Vì Ngài nhìn thấy tận chân trời góc biển,Và nhìn thấy mọi sự dưới bầu trời. Khi Ngài ban sức mạnh cho gió,Đo lường mức độ nước, Khi Ngài ấn định luật cho mưa,Vạch đường cho sấm sét, Bấy giờ Ngài nhìn thấy khôn ngoan, và công bố ra,Ngài khảo sát và lập nó vững vàng. Ngài phán với loài người:“Kính sợ Chúa, chính đó là khôn ngoan,Lìa bỏ điều ác, chính đó là thông sáng.” Gióp nói tiếp: Ước gì tôi được sống trở lại những ngày tháng xa xưa,Khi Đức Chúa Trời còn chăm sóc tôi! Lúc ấy, ngọn đèn Chúa chiếu sáng trên đầu tôi,Nhờ ánh sáng Ngài tôi bước đi trong đêm tối. Tôi phát đạt như hoa màu chín rộ trong mùa thu,Khi Đức Chúa Trời là bạn thiết che chở gia đình tôi. Bấy giờ Đấng Toàn Năng còn ở cùng tôi,Con cái quây quần chung quanh tôi, Bước chân tôi đẫm mỡ sữa,Và dầu tuôn ra như suối từ bồn đá ép. Thuở ấy, khi tôi ra cổng thành,Chuẩn bị ngồi họp tại quảng trường, Các thanh niên thấy tôi đều rút lui,Các phụ lão đứng dậy chào tôi. Các bậc lãnh đạo ngừng nói,Lấy tay che miệng, Các vị quyền thế im bặt,Lưỡi dính chặt vào vòm miệng. Tai nào nghe đến tôi đều khen tôi có phước,Mắt nào nhìn thấy tôi đều đồng ý tán thành, Vì tôi giải cứu người nghèo khó kêu than,Và kẻ mồ côi không ai giúp đỡ. Người cùng khổ hấp hối chúc phước tôi,Nhờ tôi, lòng người góa phụ reo vui. Tôi mặc sự công chính vào như chiếc áo,Choàng sự công bình vào như áo dài khăn đóng. Tôi là mắt của người mù,Chân của người què. Tôi là cha kẻ khốn cùng,Tôi cứu xét đơn kiện tụng của người không quen biết. Tôi bẻ gẫy nanh vuốt bọn vô đạo,Khiến chúng nhả mồi ra khỏi miệng. Thuở ấy, tôi tự nhủ: “Ta sẽ qua đời trong tổ ấm,Ngày đời ta tăng nhiều như cát biển.” Rễ tôi bò lan dài ra mé nước,Nhành lá tôi đọng sương đêm. Tôi luôn nhận được vinh dự mới,Sức mạnh tôi dồi dào như cung mới lên dây. Người người lắng tai, chờ đợi,Im lặng nghe tôi góp ý. Tôi nói xong, không ai bàn thêm nữa,Lời tôi thấm từ từ như nước nhỏ giọt. Họ trông đợi tôi như trông đợi mưa,Họ há hốc miệng như chờ hứng mưa xuân. Tôi mỉm cười khi họ nản lòng,Nét mặt tươi sáng của tôi nâng đỡ họ. Tôi chọn đường đi cho họ, tôi chỉ huy họ,Tôi sống giữa họ như vua giữa quân đội,Như người an ủi kẻ tang chế. Nhưng bây giờ chúng nhạo cười tôi,Bọn nhãi ranh nhỏ tuổi hơn tôi,Cha bọn chúng, tôi đã từ chối,Không cho chăn bầy chung với chó tôi. Sức mạnh tay họ có lợi gì cho tôi,Khi sức lực họ đã tiêu tan? Gầy mòn vì thiếu thốn và đói kém,Họ trốn vào đồng khô âm u,Hoang vắng, tiêu điều. Họ hái lá cẩm quỳ, và các bụi cây dại,Ngay cả rễ cây đậu chổi cũng làm thức ăn cho họ. Họ bị đuổi ra khỏi khu dân cư,Bị la mắng như tên trộm. Họ phải sống nơi vách khe, dọc theo sườn núi,Trong hang động dưới đất, hoặc trong hốc đá. Họ hí rú lên giữa bụi rậm,Họ nằm chen chúc dưới lùm gai. Vốn dốt nát, không tên tuổi,Họ bị đánh đập, đuổi ra khỏi xứ. Nhưng bây giờ, con cái họ đặt vè nhạo tôi,Đem tôi ra bàn tán chê cười. Chúng ghê tởm tôi, tránh xa tôi,Không ngại khạc nhổ vào mặt tôi. Vì Đức Chúa Trời đã tháo dây cung tôi và hạ nhục tôi,Nên chúng không kiêng nể gì tôi. Bên phải tôi, một lũ hỗn tạp nổi dậy,Đánh tôi phải bỏ chạy,Đắp mô đắp lũy hại tôi. Chúng phá vỡ đường tôi đi,Tôi càng bị thiệt, chúng càng được lợi,Chúng không cần ai giúp. Chúng ùa đến như qua khe thủng rộng trên tường,Chúng tràn vào giữa cảnh vách đổ đá rơi. Nỗi kinh hoàng xâm chiếm tôi,Vinh dự tôi bị gió đuổi bay xa,Sự giải cứu tôi trôi theo làn mây. Bây giờ lòng tôi tan vỡ,Những ngày khốn khổ bám chặt tôi. Ban đêm xương cốt tôi bị đâm chích rã rời,Cơn đau gặm nhấm tôi không ngừng. Đức Chúa Trời níu chặt áo tôi,Túm tôi ngang hông như thể túm cổ áo dài. Ngài quăng tôi xuống đống bùn,Tôi khác nào bụi tro. Con kêu xin, nhưng Ngài không đáp lại,Con khẩn cầu nhưng Ngài chẳng đoái hoài. Ngài trở thành độc ác với con,Dùng toàn sức Ngài hãm bức con. Ngài khiến gió bốc con lên, thổi bay xa,Ngài sai bão tố dồi dập con. Phải, con biết Ngài sẽ đưa con về cõi chết,Nơi họp mặt của mọi người sống. Con không hề đưa tay hại người lâm nạn,Khi người kêu cứu giữa cảnh đổ nát tang thương. Con đã chẳng từng khóc với người gặp khó khăn,Lòng con chẳng từng sầu não với người nghèo khổ sao? Thế mà khi con trông đợi phước hạnh, tai họa xảy đến,Khi con trông chờ ánh sáng, tối tăm lại kéo về. Tôi lo buồn héo cả ruột gan, lòng dạ bất an,Những ngày gian truân ùn ùn kéo đến. Tôi bước đi trong chiếc áo đen tang tóc, không mặt trời sưởi ấm,Tôi đứng lên kêu cứu giữa hội chúng. Tiếng tôi kêu than khiếnTôi trở thành anh em với chó rừng,Bạn bè với đà điểu. Da tôi xám xịt,Toàn thân tôi nóng ran vì cơn sốt. Đàn lia tôi gẩy nhạc sầu tang chế,Sáo tôi thổi lên tiếng khóc than. Tôi đã lập giao ước với mắt tôi,Tôi không hề nhìn cô gái đồng trinh. Vậy, Đức Chúa Trời trên cao ban phần gì cho tôi?Gia nghiệp tôi là gì từ Đấng Toàn Năng trên các tầng trời? Phải chăng kẻ vô đạo gặp tai họa?Và kẻ làm ác gặp gian truân? Phải chăng Ngài nhìn thấy các nẻo đường tôi,Và đếm từng bước đi của tôi? Nếu tôi có đi chung đường với phường gian dối,Nếu chân tôi vội vàng lường gạt, Xin Đức Chúa Trời đặt tôi trên bàn cân chính xác,Rồi Ngài sẽ biết tôi trọn lành. Nếu chân tôi rẽ bước khỏi đường ngay,Nếu lòng tôi ham muốn điều mắt mình thấy,Nếu tay tôi dính vết bùn nhơ, Xin cho người khác ăn những gì tôi gieo,Và cho họ nhổ những gì tôi trồng. Nếu lòng tôi say mê vợ người hàng xóm,Nếu tôi rình rập nơi cửa nhà người, Xin để vợ tôi xay cối cho người khác,Và để kẻ khác ăn nằm với vợ tôi. Lấy vợ người khác là một tội ác gớm ghiếc,Đáng bị tòa án hình phạt, Là một tội thiêu nuốt như lửa địa ngục,Đốt cháy tận gốc mọi hoa lợi tôi. Nếu tôi khinh dể quyền lợi của tôi trai tớ gái tôi,Khi họ kêu ca than phiền, Tôi biết làm gì đây khi Đức Chúa Trời chổi dậy phán xét?Khi Ngài tra hỏi, tôi biết thưa lại thế nào? Phải chăng Đấng tạo dựng tôi trong lòng mẹ cũng đã tạo dựng họ?Phải chăng chỉ một Đấng dựng nên cả chủ lẫn tớ? Nếu tôi từ chối không đáp ứng nhu cầu của kẻ nghèo,Nếu tôi để cho góa phụ trông chờ đến mòn cả mắt, Nếu tôi ăn riêng phần mình,Không chia sẻ với cô nhi, Thật từ lúc cô nhi còn thơ ấu, tôi đã nuôi dưỡng nó như một người cha,Chỉ dẫn nó từ lúc lọt lòng mẹ, Nếu tôi thấy người nào sắp chết vì thiếu quần áo,Hoặc người nghèo không chăn mền, Nếu họ không hết lòng chúc phước tôi,Khi họ được ấm nhờ lông của bầy chiên tôi, Nếu tôi có giơ tay hăm dọa cô nhi,Vì tôi biết có người hỗ trợ tôi tại cổng thành, Xin cho vai tôi lìa khỏi thân,Và cánh tay tôi gẫy đứt nơi cùi chỏ! Vì tôi sợ tai họa từ Đức Chúa Trời,Tôi sợ uy nghi Ngài nên không hề làm những việc ấy. Nếu tôi tin cậy nơi vàng,Gọi vàng ròng là nơi an toàn của tôi, Nếu tôi vui mừng vì lắm của cải,Hoặc vì tay tôi đã thu góp được nhiều, Nếu tôi ngắm nhìn mặt trời chiếu sáng,Hoặc mặt trăng nhô lên lộng lẫy, Mà lòng tôi thầm bị mê hoặc,Và miệng tôi hôn, tay tôi sùng bái chúng, Thì điều ấy chính là tội đáng bị tòa xử tử,Vì tôi đã chối bỏ Đức Chúa Trời trên cao. Tôi không hề vui mừng khi kẻ thù tôi lâm nạn,Hoặc hớn hở khi chúng gặp tai họa, Tôi không hề để miệng tôi phạm tộiTrù cho chúng chết đi. Những người trong nhà tôi đã chẳng nói:“Có ai mà Gióp chẳng cho ăn thịt no nê?” Khách lạ không hề ngủ đêm ngoài đường phố,Tôi mở cửa đón tiếp khách đường xa. Tôi không hề che đậy tội mình như A-đam,Chôn giấu gian ác trong lòng, Để phải sợ hãi đám đông,Sợ họ hàng chê bai,Đến nỗi nín lặng, không dám ra khỏi cửa. Ước gì có người lắng nghe tôi!Đây là chữ ký tôi. Xin Đấng Toàn Năng đáp lời tôi!Xin Đấng kiện tôi viết cáo trạng nêu tội tôi! Tôi chắc hẳn sẽ mang cáo trạng trên vai,Ngay cả đội trên đầu như cái mão. Tôi sẽ xin khai trình lên Chúa mọi điều tôi làm,Tôi sẽ đến chầu Ngài, hiên ngang như một vị hoàng. Nếu đất ruộng tôi kêu gào tố tôi,Các luống cày cùng nhau than khóc, Nếu tôi hưởng hoa lợi mà không trả tiền,Khiến cho tá điền phải chết đói, Xin cho gai góc mọc lên thay lúa mì,Và cỏ dại hôi tanh thay lúa mạch.Đến đây, Gióp dứt lời. Ba người nầy cũng ngưng, không đáp lời Gióp, vì ông tự cho mình là người công chính. Nhưng Ê-li-hu, con trai Ba-ra-kê-ên, người Bu-xi, dòng họ Ram, nổi giận. Ông giận Gióp vì Gióp tự cho mình công chính thay vì tôn Đức Chúa Trời công chính. Ông cũng giận ba bạn của Gióp vì họ không thể đáp lời, chỉ buộc tội Gióp thôi. Vì ba bạn kia đều cao tuổi hơn ông, nên Ê-li-hu chờ dịp đáp lời Gióp. Nhưng khi thấy ba bạn không ai đáp lời chi nữa, Ê-li-hu nổi giận. Bấy giờ Ê-li-hu, con trai Ba-ra-kê-ên, người Bu-xi, lên tiếng:Tôi còn trẻ,Các anh cao tuổi hơn tôi,Nên tôi rụt rè sợ sệt,Không dám tỏ bày thiển ý. Tôi tự nghĩ: “Những người cao tuổi cần phải nói,Các bậc lão thành cần chia sẻ khôn ngoan.” Nhưng chính Thần linh của Đức Chúa Trời ở trong người,Chính hơi thở của Đấng Toàn Năng ban cho người sự khôn sáng. Sống nhiều năm chưa chắc đã khôn,Các bậc lão thành chưa hẳn biết điều phải. Vậy nên, xin các anh lắng nghe tôi,Chính tôi đây xin tỏ bày thiển ý. Này, tôi chờ đợi lời các anh phát biểu,Lắng tai nghe các anh tỏ điều thông sáng,Trong khi các anh cân nhắc từng lời. Tôi chú tâm nghe các anh trình bày,Nhưng không một ai trong các anh bác bỏ được luận điệu của Gióp,Không một ai tranh luận nổi với ông. Xin các anh thận trọng, đừng vội nói: “Chúng tôi tìm được sự khôn ngoan!”Chính Đức Chúa Trời sẽ bài bác luận điệu của Gióp, loài người không làm nổi. Gióp lý luận không nhắm thẳng vào tôi,Nên tôi cũng không dùng lý lẽ các anh mà đáp lại. Họ sững người, không đáp nên lời,Mọi lý lẽ cao bay xa chạy. Lẽ nào tôi phải đợi chờ, khi họ đã ngưng nói,Khi họ đứng sững, không đáp nên lời? Tôi đây cũng sẽ dự phần đáp lời Gióp,Tôi cũng xin tỏ bày thiển ý. Tôi đầy ắp những lờiTâm linh tôi giục tôi phải nói ra. Lòng tôi như rượu lên men, không ngõ thoát hơi,Sẵn sàng vỡ tung như bầu rượu mới. Xin cho tôi nói để lòng vơi nhẹ,Xin cho tôi mở miệng đáp lời. Tôi sẽ không thiên vị,Không tâng bốc người nào. Vì tôi không hề biết tâng bốc;Nếu có, Đấng Tạo dựng tôi ắt sẽ diệt tôi ngay! Bây giờ, xin anh Gióp nghe tôi nói,Xin lắng tai nghe các lời tôi. Này, tôi sắp sửa mở miệng,Lưỡi tôi đã uốn chữ sẵn sàng. Lời tôi nói lên sự chánh trực của lòng tôi,Môi tôi phát ra sự khôn ngoan cách ngay thật. Thần linh của Đức Chúa Trời đã dựng nên tôi,Hơi thở của Đấng Toàn Năng ban cho tôi sự sống. Nếu có thể được, xin anh cùng tôi biện luận,Xin anh đứng ngay trước mặt tôi và trình bày lý lẽ. Trước mặt Đức Chúa Trời, tôi nào khác chi anh,Ngài cũng ngắt mảnh đất sét và nắn nên tôi. Vậy xin anh đừng ngại ngùng sợ sệt,Tôi nào có gây áp lực nặng nề đâu. Thật chính tai tôi có nghe anh phát biểu,Tôi có nghe lời anh thốt ra: “Tôi trong sạch, chẳng hề vi phạm,Tôi vô tội, chẳng hề phạm lỗi. Vậy mà Đức Chúa Trời tìm dịp hại tôi,Đối xử với tôi như kẻ thù. Ngài cùm chân tôi lại,Canh giữ mọi nẻo đường tôi đi.” Tôi xin thưa, anh nói vậy là sai,Đức Chúa Trời vĩ đại, người phàm sao dám bắt bẻ Ngài! Sao anh dám tranh luận với Ngài,Trách Ngài sao không đáp lời anh? Vì Đức Chúa Trời phán dạy nhiều lần nhiều cách,Nhưng loài người không để tâm nghe. Trong chiêm bao, trong sự hiện thấy ban đêm,Khi loài người say ngủ,Nằm thiếp trên giường, Ngài mở tai cho họ nghe,Ngài đóng ấn lời cảnh cáo, Để loài người từ bỏ việc ác họ toan làm,Để họ dẹp bỏ thói kiêu căng, Để cứu linh hồn họ khỏi sa vực thẳm,Để giữ mạng sống họ khỏi qua dòng tử hà. Chúa sửa trị loài người, khiến họ đau đớn trên giường bệnh,Xương cốt run rẩy triền miên, Đến độ thức ăn cũng gớm ghê,Cao lương mỹ vị cũng phát ngấy. Thân thể họ tiêu hao,Chỉ còn thấy bộ xương xưa bị da thịt che lấp. Linh hồn đã đến bờ vực thẳm,Mạng sống chờ tử thần rước đi. Nếu lúc này có thiên thần xuất hiện,Chỉ một Đấng giữa muôn ngàn thiên sứ,Làm trung gian dạy bảo người điều phải, Thương xót người, và nài xin Đức Chúa Trời:“Xin cứu người khỏi sa vực thẳm,Tôi đã tìm được giá chuộc người.” Da thịt người tươi mát hơn thời niên thiếu,Người phục hồi sức mạnh thuở xuân xanh. Người cầu khẩn Đức Chúa Trời, và được Ngài chấp nhận,Người thờ phượng Ngài với tiếng reo mừng,Vì Ngài cứu chuộc người. Người ca hát và tuyên bố trước mọi người:“Tôi đã phạm tội, đi cong vẹo khỏi đường ngay, lẽ phải,Nhưng Ngài tha thứ, không phạt tôi xứng với tội tôi, Ngài giải cứu linh hồn tôi khỏi sa vực thẳm,Cho mạng sống tôi vui hưởng ánh sáng.” Thật Đức Chúa Trời thực hiện mọi điều ấyCho loài người, biết bao nhiêu lần, Để đem linh hồn người lên khỏi vực thẳm,Cho người chói rạng ánh sáng sự sống. Xin anh Gióp chú ý nghe tôi,Xin anh yên lặng nghe tôi trình bày. Nếu anh có điều chi đáp lại,Xin nói lên, vì tôi ao ước thấy anh vô tội. Nếu không, xin anh lắng nghe,Xin anh yên lặng nghe tôi dạy điều khôn ngoan. Ê-li-hu nói tiếp: Các anh tự cho mình là khôn ngoan, xin nghe lời tôi,Các anh tưởng mình hiểu biết nhiều, xin lắng tai nghe tôi nói. Vì tai biết phân biệt lời nói,Như miệng nếm thức ăn. Chúng ta hãy cùng nhau nghiên cứu trường hợp của Gióp,Chọn điều gì phải, quyết định điều gì tốt. Vì Gióp nói: “Tôi vô tội,Nhưng Đức Chúa Trời từ chối xét lẽ công bình cho tôi. Tôi sẽ nói dối nếu tôi chấp nhận mình có lỗi,Vết thương tôi vô phương cứu chữa, dù tôi vô tội.” Có ai giống như Gióp,Buông lời nhạo báng như thể uống nước lã, Nhập bọn với phường lưu manh,Đồng hành với bọn gian ác? Vì Gióp nói: “Loài người chẳng được lợi gìKhi tìm vui thỏa trong Đức Chúa Trời.” Nhưng các anh là người thông sáng, hãy nghe tôi:Đức Chúa Trời không thể làm điều ác,Đấng Toàn Năng không thể làm điều bất công. Ngài báo trả loài người tùy việc họ làm,Đối xử với mọi người tùy cách ăn nết ở. Thật Đức Chúa Trời không hề làm điều ác,Đấng Toàn Năng không hề bẻ cong lẽ phải. Ai ủy thác cho Ngài việc cai quản địa cầu?Ai giao cho Ngài trọng trách điều khiển cả thế giới? Nếu Ngài quyết định làm,Nếu Ngài thu hồi thần linh và sinh khí của Ngài, Mọi loài xác thịt sẽ chết ngay tức khắc,Và loài người trở về với đất bụi. Nếu anh thông sáng, xin anh nghe điều này,Xin lắng tai nghe lời tôi nói. Người ghét sự công bình làm sao cai trị được?Anh dám lên án Đấng công chính quyền năng sao? Đức Chúa Trời nghiêm trách vua: “Đồ vô dụng!”Và các nhà lãnh đạo: “Phường gian ác!” Ngài không thiên vị hàng vương giả,Cũng không trọng người giàu hơn kẻ nghèo,Vì tất cả đều do tay Ngài tạo dựng. Bất ngờ họ chết giữa đêm khuya,Họ co giật rồi qua đời,Các kẻ quyền thế cũng bị cất đi, không do tay người. Mắt Ngài xem xét đường lối loài người,Ngài nhìn thấy mọi bước họ đi. Tối tăm mù mịt hoặc bóng đêm dày đặcCũng không cho bọn làm ác ẩn náu. Đức Chúa Trời không cần định thời hạnCho loài người chịu phán xét trước mặt Ngài. Ngài đập tan bọn quyền thế không cần điều tra,Rồi lập người khác thế vào. Vì Ngài biết rõ công việc chúng làm,Ban đêm qua đi, và chúng bị chà nát. Ngài đánh chúng cùng với phường gian ác,Nơi mọi người xem thấy, Vì chúng quay đi, không theo Ngài,Không quan tâm đến đường lối Ngài, Làm cho kẻ nghèo kêu than đến Chúa,Và Ngài nghe kẻ khốn cùng kêu van. Khi Ngài im lặng, ai dám chỉ trích Ngài?Khi Ngài ẩn mặt, ai có thể nhìn thấy Ngài?Ngài chăm sóc từng dân tộc, từng người, Không cho kẻ vô đạo cầm quyền,Không cho bọn gài bẫy dân thống trị. Có ai từng thưa với Đức Chúa Trời:“Con đã chịu hình phạt, không dám phạm tội nữa. Xin Chúa chỉ dạy con điều gì con chưa thấy.Nếu con có làm ác, con xin từ, không làm nữa?” Theo ý anh, Ngài có nên báo trả người đó không?Nhưng anh đã chống đối điều Ngài làm!Chính anh phải quyết định, chẳng phải tôi.Điều gì anh biết, xin anh nói ra. Những người thông sáng sẽ nói với tôi,Người khôn ngoan nghe tôi cũng sẽ nói: “Gióp nói thiếu hiểu biết,Lời nói người vô nghĩa.” Ước gì Gióp bị xét xử tường tận,Vì anh đối đáp như phường gian ác. Anh đã phạm tội lại thêm nổi loạn,Nhạo báng Đức Chúa Trời ngay giữa chúng ta,Nói quá nhiều những lời phạm thượng. Ê-li-hu nói tiếp: Anh tưởng anh nói đúng sao,Khi anh tuyên bố: “Tôi vô tội trước mặt Đức Chúa Trời?” Anh lại hỏi: “Chúa được ích lợi gì?Còn tôi được ích lợi gì, nếu tôi không phạm tội?” Tôi xin thưa với anh,Và các bạn hữu của anh nữa. Hãy ngước mắt lên xem các tầng trời!Hãy ngắm nhìn các tầng mây cao vợi hơn anh! Nếu anh phạm tội, việc ấy can hệ gì đến Đức Chúa Trời?Nếu anh gia tăng vi phạm, anh làm gì được Ngài? Nếu anh công chính, anh cho Ngài điều gì?Ngài nhận được gì từ tay anh? Sự gian ác của anh chỉ hại người đồng loại,Sự công chính của anh chỉ giúp loài người thôi. Loài người bị áp bức nặng nề kêu than,Họ kêu cứu khỏi tay kẻ quyền thế. Nhưng không ai hỏi: “Đức Chúa Trời, Đấng tạo dựng tôi, ở đâu?Chính Ngài khiến bài ca trổi lên trong đêm tối, Ngài ban cho chúng ta tri thức nhiều hơn thú rừng,Khiến chúng ta khôn ngoan hơn chim trời.” Họ kêu cứu, nhưng Ngài không đáp lại,Vì họ kiêu căng và gian ác. Thật lời kêu cứu trống không, Đức Chúa Trời chẳng màng nghe,Đấng Toàn Năng chẳng màng đoái đến. Huống chi anh, làm sao Đức Chúa Trời nghe anh được,Khi anh nói anh không thấy Ngài,Vụ kiện tụng của anh đã đến trước mặt Ngài,Và anh đang chờ Ngài xét xử? Và bây giờ, vì Ngài không đoán phạt theo cơn thịnh nộ,Không quan tâm nhiều đến các vi phạm, Anh Gióp mở miệng nói lời trống rỗng,Nói quá nhiều những lời vô nghĩa. Ê-li-hu nói tiếp: Xin anh kiên nhẫn nghe tôi thêm chút nữa, tôi sẽ giải thích cho anh,Vì tôi còn lời biện hộ cho Đức Chúa Trời. Tôi thu nhặt tri thức từ nhiều nơiĐể chứng minh Đấng tạo dựng tôi công chính. Thật tôi không nói lời giả dối,Một người hiểu biết trọn vẹn đang ở bên anh. Đức Chúa Trời quyền năng, không khinh bỉ một ai,Ngài hiểu biết siêu việt. Ngài không để cho kẻ ác sống hoài,Ngài xét lẽ công bình cho người khốn cùng. Ngài chăm sóc người công chính,Đặt họ lên ngai cai trị như vua chúa,Cho họ được tôn trọng mãi mãi. Nếu có kẻ mắc vòng xiềng xích,Vướng dây khổ ải, Ngài tỏ cho biết việc họ làm,Tội vi phạm do lòng kiêu căng. Ngài mở tai họ nghe lời cảnh cáo,Truyền dạy họ xây bỏ tội ác. Nếu họ vâng lời phụng sự Ngài,Họ sẽ hưởng suốt đời những ngày hạnh phúc,Những năm an lạc. Còn nếu không vâng lời,Họ sẽ qua dòng tử hà,Họ sẽ chết vì thiếu hiểu biết. Bọn vô đạo ấp ủ cơn giận,Bị Ngài hình phạt vẫn không cầu cứu. Chúng chết trong tuổi thanh xuân,Lìa đời giữa bọn mại dâm tại các đền miếu. Nhưng Đức Chúa Trời dùng hoạn nạn cứu người gặp nạn,Mở tai họ ra trong cảnh gian nan. Đức Chúa Trời cũng đưa anh ra khỏi cảnh gian khổ,Đến nơi thanh thản, không gò bó,Bàn anh đầy cao lương mỹ vị. Nhưng anh đầy thắc mắc về trường hợp kẻ ác,Kẻ ác sẽ được xét xử công minh. Đừng để sự giận vì kẻ ác giàu dẫn anh đi lầm đường,Đừng để của hối lộ nhiều đưa anh lạc lối. Bấy giờ anh kêu cứu cũng chẳng thoát khỏi gian truân,Tất cả sức mạnh quyền thế của anh cũng chẳng giúp được gì. Đừng mong đợi đêm tối,Khi các dân thình lình biến mất. Hãy cẩn thận, đừng quay sang tội ác,Anh được gian nan tôi luyện để giữ anh khỏi phạm tội. Này, Đức Chúa Trời cao cả, quyền năng tuyệt đối.Giáo sư nào dạy dỗ được như Ngài? Ai dám chỉ dẫn Ngài con đường phải đi?Ai dám trách: “Ngài làm sai?” Anh nhớ tôn vinh chúc tụng công việc NgàiMà loài người hằng ca ngợi, Mọi người đều chiêm ngưỡng,Nhưng chỉ nhìn thấy được từ xa. Này, Đức Chúa Trời vĩ đại, chúng ta không hiểu thấu,Số năm đời Ngài, chúng ta không thể dò. Ngài hút các giọt nước lên,Lọc thành hơi nước làm mưa; Các tầng mây đổ mưa xuống,Nhuần thấm đất đai cho người. Thật ai hiểu nổi thể nào mây giăng bủa,Tiếng sấm vang rền lều Ngài ngự? Kìa, Ngài sai chớp nhoáng tủa khắp bầu trời,Nhưng Ngài phủ kín đáy biển sâu. Ngài dùng các việc ấy điều khiển các dân,Ban thức ăn nhiều dư dả. Ngài giấu sấm sét trong tay,Truyền lệnh sét đánh trúng đích. Tiếng sấm sét báo hiệu cơn dông,Súc vật cũng hiểu bão tố sắp đến. Nghe dông bão lòng tôi cũng run sợ,Tim đập loạn xạ như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Xin các anh lắng nghe tiếng Ngài như tiếng sấm,Rền vang từ miệng Ngài. Ngài thả chớp nhoáng vút qua cả gầm trời,Đến tận cùng mặt đất. Ngay sau đó, tiếng Ngài gầm lên,Tiếng sấm oai nghi rền vang.Ngài không kiềm chế, cho chớp nhoáng tự do loé lênKhi tiếng Ngài vang ầm. Đức Chúa Trời khiến tiếng sấm rền vang kỳ diệu,Ngài thực hiện những việc vĩ đại chúng ta không hiểu nổi. Ngài truyền cho tuyết: “Hãy sa xuống đất!”Và bảo mưa dầm: “Hãy rơi tầm tã!” Ngài niêm phong bàn tay mọi người,Để mọi người biết công việc Ngài. Bấy giờ thú rừng rút vô hang,Nằm yên trong động. Dông bão kéo đến từ phương nam,Giá buốt từ phương bắc. Hơi thở Đức Chúa Trời tạo ra băng giá,Sông nước mênh mông đóng băng đá cứng. Ngài chất mây nặng đầy hơi ẩm,Rải mây ra cùng với chớp nhoáng. Mây xoay vòng theo ý Ngài,Làm trọn mọi điều Ngài truyền,Khắp mọi nơi trên đất. Ngài làm thành ý Ngài trên đất,Khi dùng roi sửa phạt, khi ban phát phước lành. Xin anh Gióp lắng tai nghe điều này,Xin đứng yên, suy gẫm công việc diệu kỳ của Đức Chúa Trời. Anh có biết Đức Chúa Trời ban lệnh thế nàoKhi chớp nhoáng loé sáng đám mây? Anh có biết thể nào mây bay lơ lửng trên không,Một kỳ công của Đấng toàn tri? Tại sao áo quần anh nóng ngột,Khi đất im lìm vì gió nam oi bức? Anh có thể giúp Ngài trải các tầng trời ra,Nện chặt cứng như gương soi đúc bằng kim khí? Xin anh dạy chúng tôi biết điều gì phải thưa với Chúa,Chúng tôi u tối, không biết trình bày sự việc. Tôi không dám thưa chuyện với Ngài;Có ai ước muốn bị tiêu diệt không? Này, không ai dám nhìn ánh sángChói lòa trên bầu trời,Khi gió thổi sạch mây. Đức Chúa Trời đến từ phương bắc, chói rực ánh vàng,Loài người kinh sợ trước uy nghi Ngài. Đấng Toàn Năng, chúng ta không thể đến gần,Quyền năng Ngài vĩ đại, công bình Ngài tuyệt đối,Ngài công chính dồi dào, không hề áp bức ai. Vì thế, loài người kính sợ Ngài,Ngài không quan tâm đến kẻ nào tưởng mình khôn ngoan. Sau đó, giữa cơn bão tố, CHÚA phán với Gióp: Con là ai mà dám nghi ngờ ý định ta,Nói ra những lời thiếu hiểu biết? Hãy chuẩn bị khí phách nam nhi,Ta sẽ hỏi,Và con sẽ đáp lời Ta. Con ở đâu khi Ta đặt nền móng trái đất?Nếu con thông sáng, hãy cho Ta biết! Ai đã định kích thước địa cầu? Con có biết không?Hoặc ai đã giăng dây đo trái đất? Đế cột chống đỡ nó nằm tựa trên gì?Ai đặt hòn đá góc hoàn tất móng nền, Khi các sao mai hợp ca,Và các thiên thần reo mừng? Ai đóng chặt hai cánh cửa, ngăn giữ biển lại,Khi nó trào ra khỏi lòng mẹ? Chính Ta ban mây làm áo quần cho biển,Dùng mây đen dày đặc làm tã quấn cho nó. Ta định ranh giới cho biển,Đóng cửa, cài then, Và phán bảo: “Ngươi chỉ vô tới đây, không xa hơn nữa.Sóng biển ngang tàng phải dừng lại nơi đây.” Từ khi sinh ra, có bao giờ con ra lệnh cho ban mai,Dạy cho hừng đông biết chỗ của nó, Bảo nó nắm chặt các góc đất,Giũ mạnh cho kẻ ác ra khỏi? Địa cầu đổi dạng như đất sét có ấn dấu,Núi đồi hiện rõ như lằn xếp trên chiếc áo. Hừng đông đánh tan ánh sáng của kẻ ác,Tay chúng giương cao làm điều bạo ngược bị bẻ gẫy. Có bao giờ con dò đến tận nguồn biển cả?Hoặc bước đi nơi sâu thẳm của đại dương? Có ai chỉ con xem cổng Tử thần?Con có nhìn thấy cổng dẫn đến nơi tăm tối âm u? Con có mường tượng nổi địa cầu dài rộng bao la dường nào?Nếu con biết tất cả những điều ấy, hãy nói đi. Đâu là đường dẫn đến nơi ánh sáng cư trú?Còn bóng tối cư ngụ nơi nào? Con có thể nào đưa chúng đến lãnh vực hoạt động mình,Hoặc nhận ra các nẻo đường về nhà chúng? Chắc hẳn con biết, vì con sinh ra từ thuở ấy!Số ngày đời con hẳn thật nhiều! Con có vào xem các kho dự trữ tuyết?Con có thấy các kho chứa mưa đá? Ta để dành chúng cho thời hoạn nạn,Thời chiến tranh giặc giã lầm than. Đâu là đường dẫn đến nơi tung ra chớp nhoáng?Nơi gió đông thổi tản mát trên đất? Ai vạch lối cho mưa lũ,Chỉ đường cho sấm chớp, Cho mưa rơi xuống đất hoang vu,Nơi sa mạc không người ở, Tưới nhuần đất khô cằn hiu quạnh,Cho cỏ mọc xanh um? Mưa có cha không?Ai sinh ra các giọt sương móc? Tuyết đá ra từ lòng ai?Ai sinh ra sương muối từ trời? Nước đông cứng như đá,Mặt vực sâu cũng đóng băng. Con có thể nào buộc dây trói sao “Thất nữ”,Hoặc tháo dây buông thả sao “Xạ thủ?” Con có thể nào chỉ bảo các vì sao mọc theo thì,Hướng dẫn sao Bắc Đẩu và con cái nó không? Con có biết các luật lệ chỉ đạo các vì sao trên trời,Dùng các luật ấy điều khiển cõi trần? Con có thể nào cất to tiếng ra lệnh cho mâyTuôn mưa lũ ướt sũng thân con? Con có quyền sai chớp nhoáng đi,Và chúng thưa với con: “Xin tuân lệnh?” Ai ban sự khôn ngoan cho mây,Hoặc thông sáng cho sương móc? Ai có tài đếm các cụm mây,Nghiêng đổ các bầu nước trên trời, Cho mưa xuống kết dính đất bụi,Kết chặt đất hòn? Con có săn mồi cho sư tử,Cho sư tử con no nê thỏa dạ, Khi chúng co mình trong hang động,Hoặc rình mồi trong bụi rậm? Ai nuôi sống chim quạ,Khi quạ con kêu cầu Đức Chúa Trời,Bay lảo đảo vì thiếu ăn? Con có biết mùa nào dê rừng sinh nở?Có ghi nhớ mùa nai cái đẻ con? Con có đếm chúng mang thai mấy tháng,Có biết giờ chúng chuyển bụng hạ sinh, Khòm mình ngồi gập trên hai chân sau,Cho con nhỏ chui ra giữa cơn đau quặn thắt? Đàn con khỏe lớn lên trong đồng vắng,Rồi lìa mẹ ra đi không trở lại. Ai cho lừa rừng tự do chạy nhảy,Ai tháo dây cột chú lừa nhanh nhẹn kia? Ta ban cho nó đồng hoang làm nhà,Đất mặn làm chỗ ở. Nó chê cười đô thị ồn ào,Không hề nghe tiếng người chăn lừa hò hét bắt lừa làm việc. Đồi núi là đồng cỏ của nó,Nó rảo khắp tìm cỏ cây xanh. Bò rừng có chịu phục vụ con,Ngủ suốt đêm bên cạnh máng cỏ trong chuồng? Con có thể nào dùng dây cột bò rừng vào luống cày?Nó có chịu theo sau con bừa các trũng? Con có nhờ sức bò rừng rất mạnh,Và giao nó bao công việc nhọc nhằn? Con tin nó sẽ mang lúa về,Và gom nhặt thóc từ sân đạp lúa? Đà điểu đập cánh vui mừng,Nhưng lông cánh nó không bằng lông cánh chim cò, Vì đà điểu bỏ mặc trứng mình dưới đất,Giao cho cát nóng ấp trứng, Không biết rằng một bàn chân có thể giẫm lên,Và thú rừng vô tình đạp nát trứng. Đà điểu đối xử tàn nhẫn với con, dường như chẳng phải con mình,Không lo sợ công đẻ trứng khó nhọc ra vô ích. Vì Ta không ban khôn ngoan cho nó,Cũng không chia thông sáng cho nó. Nhưng khi vươn chân phóng chạy,Nó chê cười cả ngựa lẫn kỵ mã! Con có ban sức mạnh cho ngựa,Khoác bờm phất phơ lên cổ nó, Khiến nó nhảy như châu chấu,Gây kinh hoàng với tiếng hí oai phong? Ngựa hí hửng xoáy mạnh vó xuống trũng,Xông thẳng vào chiến trận đón binh đao. Nó khinh thường sợ hãi, không hề khiếp đảm,Không bỏ chạy trước lưỡi gươm. Phía trên nó, bao tên kêu lách tách,Giáo và lao sáng ngời dưới ánh nắng. Nó hứng thú run bấn lên, phóng nhanh như nuốt không gian,Nó không thể đứng yên khi kèn thổi vang rền. Nó hí lên mỗi khi tù và rúc,Từ xa nó đánh hơi chiến trận,Nó nghe các tướng lãnh thét lệnh như sấm dậy. Có phải nhờ con khôn ngoan nên chim ưng bay bổng,Sải cánh bay về phương nam? Có phải con truyền lệnh cho đại bàng bay vút lên,Làm tổ trên nơi cao? Nó xây tổ làm nhà nơi hóc đá,Dùng vách núi đá lởm chởm làm thành trì kiên cố. Từ nơi cao đó nó rình mồi,Mắt nó quan sát nhìn thật xa. Đàn con nó hút máu,Vì đâu có xác chết là có nó ngay. CHÚA phán bảo Gióp: Kẻ đáng bị sửa trị dám kiện tụng Đấng Toàn Năng sao?Kẻ nào dám tranh luận với Đức Chúa Trời, hãy đáp lời đi! Gióp thưa với CHÚA: Con không ra chi, biết thưa lại cùng Chúa thể nào?Con lấy tay che miệng, không dám nói. Con đã lỡ phát biểu một hai lần rồi,Nay xin thôi, không dám nói thêm. Sau đó, giữa cơn bão tố, CHÚA phán với Gióp: Hãy chuẩn bị khí phách nam nhi,Ta sẽ hỏi,Và con sẽ đáp lời Ta. Con dám phế bỏ việc xét xử của Ta,Lên án Ta sai để con được phần phải? Con có quyền bằng Ta không?Có thể phát ra tiếng sấm như Ta không? Hãy bày tỏ uy quyền và uy nghi của con,Hãy khoác vào mình vinh quang rực rỡ như chiếc áo. Hãy rải cơn giận dữ con xuống khắp nơi,Hãy nhìn thấy mọi kẻ kiêu ngạo và hạ nhục chúng. Phải, hãy nhận ra mọi kẻ vênh vang, hạ chúng xuống,Cũng hãy chà đạp bọn ác nhân tại chỗ. Hãy chôn vùi chúng trong bụi đất,Hãy nhốt kín chúng nơi tối tăm. Bấy giờ, chính Ta sẽ khen con,Và nhận rằng con đủ sức thắng cuộc. Hãy nhìn con quái vật biểnTa dựng nên nó như Ta đã dựng nên con;Nó ăn cỏ như bò. Kìa, xem vai nó mạnh dường nào,Bắp thịt bụng nó rắn chắc làm sao! Đuôi nó cứng đơ như cây bách,Gân đùi nó đan chằng chịt vào nhau. Xương nó cứng như ống đồng,Chân nó như thanh sắt. Nó là tạo vật hàng đầu của Đức Chúa Trời.Chỉ có Đấng dựng nên nó mới có quyền giết hại nó thôi! Nó ăn cỏ cây trên núi đồi,Nơi mọi thú rừng chơi đùa. Nó nằm ngủ dưới bụi gai,Núp mình giữa lau sậy, nơi đầm lầy. Bụi gai phủ bóng che nó,Cây liễu dọc theo bờ khe bao quanh nó. Nó không sợ dù nước sông chảy xiết như thác,Nó vẫn bình thản dù sông Giô-đanh chảy tràn qua mõm nó. Có ai bịt mắt nó mà bắt nó được?Có ai bẫy được nó rồi xoi mũi dẫn đi? Con có dùng lưỡi câu mà câu thủy quái,Hoặc dùng dây buộc chặt hàm nó lại? Con có xỏ dây thừng qua mũi nó,Dùng móc xoi thủng hàm nó được? Liệu nó có tha thiết van xin con,Nói với con những lời ngọt ngào? Hoặc xin lập giao ước với con,Hứa phục vụ con trọn đời? Con có dám chơi với nó như với loài chim,Cột nó lại cho các cô gái vui đùa? Dân đánh cá có tranh giành nhau vì nó,Xả thịt nó bán cho bạn hàng cá? Con có thể đâm chỉa đầy da nó,Phóng lao cắm đầy đầu nó? Nếu con thử đụng đến nó,Con sẽ nhớ mãi trận chiến, không dám tái phạm. Mọi hy vọng bắt được nó tiêu tan;Chỉ nhìn thấy nó, người ta đã ngã lăn ra đất. Không ai đủ gan dạ trêu chọc nó.Vậy, ai dám đứng trước mặt Ta? Ai cho Ta trước điều chi mà Ta phải trả lại?Vạn vật dưới cả bầu trời đều thuộc về Ta. Ta sẽ không giữ im lặng về các chân nó,Sức mạnh và cơ thể cân đối của nó. Ai dám lột áo choàng nó?Ai dám đâm thủng áo giáp kép của nó? Ai dám mở hàm nó,Đầy những răng đáng khiếp sợ? Lớp vẩy trên lưng nóGiống những hàng thuẫn san sát nhau, niêm phong chặt chẽ. Thuẫn này gắn liền thuẫn kia,Đến nỗi làn gió cũng không lọt qua được. Chúng kết dính vào nhau, bám sát lấy nhau,Không thể tách rời được. Nó nhảy mũi, chớp lên tia sáng,Mắt nó rực lên như rạng đông ló dạng. Lửa ngọn trào ra từ miệng nó,Tia lửa văng ra tứ phía. Khói bốc ra từ mũi nóNhư một nồi đun nóng, sôi sùng sục. Hơi thở nó đốt cháy than,Miệng nó phun ra lửa. Cổ nó chứa sức mạnh;Mọi người kinh hoàng chạy tán loạn trước mặt nó. Các lớp thịt trên mình nó dính chặt vào nhau,Săn cứng như kim khí đúc, không hề lay chuyển. Tim nó rắn chắc như đá,Cứng như thớt dưới của cối xay. Khi nó chổi dậy, ngay cả các thần cũng run rẩy,Chúng rủn người, trốn chạy. Gươm có đâm nó cũng không thủng,Giáo, tên, lao cũng không thấm vào đâu. Nó coi sắt khác nào rơm rạ,Đồng chẳng kém gì gỗ mục. Nó không bỏ chạy trước mũi tên,Nỏ đá ném vào, nó coi nhẹ như trấu. Nó coi dùi cui tựa như trấu,Nó cười nhạo tiếng lao phóng veo veo. Bụng nó có vẩy nhọn bén như miểng sành,Để lại dấu sâu trên bùn lầy khi nó bò qua,Khác nào dấu đinh đóng vào tấm gỗ bò kéo trên sân đập lúa. Khi nó lội trong nước,Vực sâu nổi sóng như nước sôi trong nồi,Biển cả sôi động như dầu thơm nấu trong niêu, Nó bỏ lại phía sau một luồng bọt sáng chói,Vực sâu trắng xóa tưởng chừng như mái tóc bạc phơ. Trên đất này, không sinh vật nào sánh kịp nó,Nó là một tạo vật không hề biết sợ; Nó khinh dể mọi thú vật kiêu căng,Nó là vua trên cả loài thú rừng. Gióp thưa với CHÚA: Con biết Chúa là Đấng Toàn Năng,Ý định Ngài không ai cản trở được. Chúa hỏi con là ai, không hiểu biết gì, sao dám nghi ngờ ý định Chúa.Thật con đã nói những điều con không hiểu,Những việc diệu kỳ quá, con không sao hiểu thấu. Chúa bảo con lắng nghe Chúa phán dạyVà trình lên Chúa những điều Chúa hỏi con. Trước kia con chỉ nghe đồn về Chúa,Nhưng bây giờ, chính mắt con đã thấy Ngài. Vì vậy, con xấu hổ về mọi điều con nóiVà xin ăn năn giữa đống tro bụi. Sau khi phán dạy Gióp, CHÚA bảo Ê-li-pha, người Thê-man: “Ta giận con và hai bạn con, vì các con không nói sự thật về Ta như Gióp, tôi tớ Ta, đã nói. Vậy bây giờ, hãy bắt bảy con bò đực và bảy con chiên đực, đem đến Gióp, tôi tớ Ta, và dâng tế lễ thiêu cho chính các con. Gióp, tôi tớ Ta, sẽ cầu thay cho các con. Ta sẽ nhậm lời Gióp và không phạt các con theo sự dại dột của các con, vì các con không nói sự thật về Ta như Gióp, tôi tớ Ta, đã nói.” Ê-li-pha, người Thê-man, Binh-đát, người Su-a, và Sô-pha, người Na-a-ma, vâng lời, làm mọi điều y như CHÚA phán dạy. CHÚA nhậm lời cầu xin của Gióp. Sau khi Gióp cầu thay cho các bạn, CHÚA phục hồi Gióp và ban cho Gióp gấp đôi những gì Gióp có xưa kia. Tất cả các anh chị em và những người từng quen biết Gióp trước đây đều đến thăm và ăn mừng với Gióp tại nhà ông. Họ chia buồn và an ủi Gióp về mọi điều bất hạnh CHÚA đã đem lại. Mỗi người tặng Gióp một nén bạc và một chiếc vòng bằng vàng. CHÚA ban phước cho Gióp trong những năm sau của đời ông nhiều hơn những năm trước. Ông có mười bốn ngàn cừu, sáu ngàn lạc đà, một ngàn đôi bò, và một ngàn lừa cái. Ông cũng có bảy con trai và ba con gái. Ông đặt tên cho cô lớn nhất là Giê-mi-ma, cô thứ nhì là Kê-xia, và cô thứ ba là Kê-ren-Ha-búc. Khắp cả vùng đó, không tìm được một người nữ nào đẹp bằng ba cô con gái của Gióp. Ba cô đều được cha mình chia gia tài như các anh em trai. Sau đó, Gióp sống thêm một trăm bốn mươi năm nữa, nhìn thấy con cháu đến đời thứ tư. Rồi Gióp qua đời, tuổi thọ cao và thỏa lòng. Phước cho người nàoKhông đi theo mưu kế kẻ ác,Không đứng trong đường tội nhân,Không ngồi chung với kẻ nhạo báng. Nhưng vui thích trong thánh luật của CHÚA,Ngày đêm suy ngẫm thánh luật ấy. Người ấy sẽ như cây trồng bên dòng nước,Sinh hoa quả đúng mùa,Lá không tàn héo.Mọi việc người làm đều thịnh vượng. Kẻ ác không được như vậy,Nhưng chúng nó giống như rơm rác,Gió cuốn bay đi. Nên kẻ ác sẽ không đứng nổi trong ngày phán xử,Tội nhân sẽ không được ở trong hội người công chính. Vì CHÚA biết đường lối người công chính,Nhưng đường lối kẻ ác sẽ bị diệt vong. Tại sao các nước náo loạn?Các dân mưu phản hư không? Các vua trần gian nổi dậy,Các lãnh tụ cùng nhau hội nghị chống CHÚAVà Đấng xức dầu của Ngài.(Họ bảo:) “Chúng ta hãy bẻ ách,Tháo cùm của họ khỏi chúng ta.” Đấng ngự trên trời cười,Chúa chế nhạo chúng nó. Bấy giờ, trong cơn thịnh nộ, Ngài khiển trách chúng nó.Trong cơn giận dữ, Ngài làm chúng nó kinh hoàng. Thật vậy, chính Ta đã lập vua Ta trên Si-ôn,Là núi thánh Ta. Ta sẽ truyền sắc chỉ của CHÚA.Ngài phán cùng Ta: “Con là con Ta,Ngày nay, chính Ta đã sinh con.” Hãy cầu xin Ta,Ta sẽ ban cho con các nước làm cơ nghiệp,Và toàn thể quả đất làm tài sản. Con sẽ cai trị chúng nó bằng cây gậy sắt,Đập tan chúng nó như đồ gốm. Vì vậy, hỡi các vua, hãy khôn ngoan.Hỡi các lãnh tụ trần gian, hãy nhận lời khuyên bảo. Hãy kính sợ mà phục vụ CHÚA.Hãy run rẩy mà vui mừng. Hãy hôn con, e người nổi giận,Và ngươi phải bị diệt vong trên đường.Vì cơn thịnh nộ Ngài bừng lên tức khắc.Phước cho người nào trú ẩn nơi Ngài. CHÚA ơi!Biết bao nhiêu người là kẻ thù tôi.Biết bao nhiêu người nổi dậy chống tôi. Biết bao nhiêu người nói với linh hồn tôi:Đức Chúa Trời không giải cứu nó đâu! Nhưng lạy CHÚA, Chính Ngài là thuẫn che chở tôi,Là vinh quang của tôi,Là đấng nâng đầu tôi ngước lên. Tôi cất tiếng kêu cầu CHÚA!Từ núi thánh Ngài đáp lời tôi. Tôi nằm xuống và ngủ yên;Tôi thức dậy, vì CHÚA chống đỡ cho tôi. Tôi sẽ không sợ muôn vạn quân,Dàn trận vây tôi khắp bốn bên. CHÚA ôi! Xin hãy đứng dậy.Đức Chúa Trời của tôi ôi! Xin hãy giải cứu tôi.Vì Ngài đã vả má mọi kẻ thù tôi,Bẻ gẫy răng những kẻ ác. Sự giải cứu đến từ CHÚA.Nguyện Ngài ban phước trên con dân Ngài.Sê la. Lạy Đức Chúa Trời công chính của tôi.Xin đáp lời tôi, khi tôi kêu cầu.Trong lúc hoạn nạn, Ngài giải cứu tôi.Xin thương xót tôi và lắng nghe lời cầu nguyện của tôi. Hỡi các người, các người biến vinh quang ta thành sỉ nhục cho đến khi nào?Các người vẫn yêu lời hư không, vẫn tìm điều giả dối cho đến bao giờ? Hãy biết rằng CHÚA đã để riêng cho mình người kính sợ Ngài.CHÚA sẽ nghe khi ta kêu cầu Ngài. Hãy run sợ và chớ phạm tội.Khi nằm trên giường,Hãy suy gẫm trong lòng và im lặng.Sê la. Hãy dâng các sinh tế công chínhVà tin cậy CHÚA. Nhiều người nói: Làm sao chúng tôi thấy phước lành?Lạy CHÚA, xin soi sáng mặt Ngài trên chúng tôi. Ngài đã ban cho lòng tôi tràn đầy niềm vuiNhiều hơn niềm vui của chúng khi chúng được lúa, rượu tràn đầy. Tôi sẽ nằm và ngủ bình an.Vì chính Ngài, lạy CHÚA,Chỉ một mình Ngài khiến cho tôi ở an toàn. Lạy CHÚA, xin lắng nghe lời tôi,Xin chú ý đến điều tôi than thở. Hỡi vua và Đức Chúa Trời tôi,Xin hãy nghe tiếng kêu van của tôi,Vì tôi cầu nguyện cùng Ngài. Lạy CHÚA, mỗi buổi sáng Ngài nghe tiếng tôi,Mỗi buổi sáng tôi dâng lời khẩn nguyện và trông đợi. Vì Ngài không phải là Đức Chúa Trời thích điều dữ.Kẻ ác sẽ không được ở cùng Ngài. Kẻ kiêu ngạo không thể đứng nổi trước mắt Ngài.Ngài ghét tất cả kẻ làm ác. Ngài hủy diệt những kẻ dối trá,CHÚA ghê tởm kẻ khát máu và gian hùng. Còn tôi, nhờ tình thương bao la của NgàiTôi sẽ vào nhà Ngài;Với lòng kính sợ,Tôi sẽ hướng về điện thánh Ngài mà thờ phượng. Lạy CHÚA, vì cớ các kẻ thù tôi,Xin hướng dẫn tôi bằng sự công chính của Ngài,Xin san bằng đường lối Ngài trước mặt tôi. Vì nơi môi miệng chúng thiếu điều chân thật.Lòng chúng nó bại hoại,Cổ họng chúng nó như mồ mả mở toang,Lưỡi chúng nó đầy lời nịnh hót. Lạy Đức Chúa Trời, xin trừng trị chúng nó,Hãy để chúng ngã trong mưu chước mình.Xin đuổi chúng đi, vì chúng phạm nhiều tội ác;Vì chúng đã phản nghịch cùng Ngài. Nhưng tất cả những ai trú ẩn nơi Ngài sẽ mừng rỡ, ca hát mãi mãi.Xin bảo vệ họ để những người yêu mến danh Ngài được hân hoan trong Ngài. Lạy CHÚA, vì chính Ngài ban phước cho người công chính;Lấy ơn bao phủ họ như cái khiên. Lạy CHÚA, trong cơn giận, xin Ngài đừng quở trách tôi,Trong cơn thịnh nộ, xin Ngài chớ trừng phạt tôi. Lạy CHÚA, xin thương xót tôi vì tôi suy tàn,Lạy CHÚA, xin chữa lành tôi vì xương cốt tôi run rẩy. Linh hồn tôi vô cùng run sợ!Lạy CHÚA, còn Ngài, cho đến bao giờ? Lạy CHÚA, xin hãy trở lại và giải cứu linh hồn tôi,Xin cứu rỗi tôi vì tình yêu thương của Chúa. Vì trong sự chết người ta không còn nhớ đến Ngài.Nơi Âm Phủ ai sẽ ca ngợi Ngài? Tôi kiệt sức vì than thở.Đêm đêm giường tôi ngập tràn dòng lệ,Chõng tôi ướt đẫm nước mắt. Mắt tôi mờ yếu vì sầu khổ,Trở nên mòn mỏi vì những kẻ thù địch tôi. Hãy lìa xa ta, hết thảy kẻ làm ác.Vì CHÚA đã nghe tiếng khóc ta. CHÚA đã nghe lời cầu xin ta.CHÚA nhận lời ta cầu nguyện. Tất cả kẻ thù tôi sẽ hổ thẹn và khiếp sợ lắm,Chúng sẽ vội vàng tháo lui trong hổ thẹn. Lạy CHÚA, là Đức Chúa Trời tôi, tôi ẩn náu nơi Ngài.Xin cứu tôi khỏi mọi kẻ săn đuổi tôi và giải cứu tôi. Kẻo như sư tử,Chúng cắn xé tôi. Lạy CHÚA, là Đức Chúa Trời tôi,Nếu tôi đã làm điều ấy, nếu tay tôi đã làm điều ác. Nếu tôi đã lấy ác trả cho bạn tôi,Và cướp của kẻ thù tôi vô cớ. Thì hãy để kẻ thù săn đuổi và bắt lấy tôi,Giày đạp mạng sống tôi dưới đất,Và chôn vùi vinh dự tôi nơi bụi cát. Lạy CHÚA, trong cơn giận xin hãy đứng dậy,Xin hãy đứng lên nghịch cùng cơn giận của kẻ thù tôi.Lạy Đức Chúa Trời tôi, xin thức dậy và truyền sự đoán xét. Hỡi hội các dân, hãy tụ họp quanh Ngài.Từ nơi cao, xin Ngài sẽ trở lại trên chúng. CHÚA đoán xét các dân.Lạy CHÚA, xin xét xử tôi theo sự công chính tôi,Và theo sự liêm chính trong lòng tôi. Nguyện sự gian ác của kẻ dữ chấm dứt,Nhưng Ngài vững lập người công chính.Lạy Đức Chúa Trời công chính, Ngài là Đấng dò xét lòng dạ con người. Đức Chúa Trời là thuẫn của tôi.Ngài cứu rỗi người có lòng ngay thẳng. Đức Chúa Trời là Đấng phán xét chí công.Nhưng Đức Chúa Trời cũng đe dọa mỗi ngày. Nếu một người không ăn năn,Thì Ngài sẽ mài gươm,Giương cung sẵn sàng. Ngài chuẩn bị sẵn vũ khí chết người cho hắn.Ngài châm các mũi tên lửa cháy phừng. Kìa, nó thai nghén điều dữ,Cưu mang điều ác và sinh ra gian dối. Nó đào hố rồi khoét cho sâu.Nhưng lại té xuống hố mà nó đã đào. Điều ác nó làm lại đổ trên đầu nó.Bạo lực của nó cũng giáng xuống đầu nó. Tôi sẽ cảm tạ CHÚA vì đức công chính Ngài.Tôi sẽ ca ngợi danh CHÚA, là Đấng Chí Cao. Lạy CHÚA, Chúa chúng tôi.Danh Ngài uy nghiêm biết bao trên khắp cả trái đất.Sự huy hoàng NgàiVượt cả các tầng trời. Từ môi miệng trẻ thơ và trẻ con đương bú,Ngài xây dựng thành lũy. Vì cớ kẻ thù mình,Ngài làm cho kẻ thù nghịchVà người báo thù phải im lặng. Khi tôi nhìn các tầng trời,Là công việc của ngón tay Ngài;Mặt trăng và các ngôi sao mà Ngài đã lập. Loài người là gì mà Ngài nhớ đến?Con loài người là chi mà Ngài chăm sóc nó? Ngài làm cho con người kém hơn Đức Chúa Trời một chút.Ban cho con người vinh quang và tôn trọng. Ngài khiến con người cai trị trên các vật do tay Ngài tạo nên,Đặt tất cả mọi vật phục dưới chân con người. Cả loài chiên lẫn bòCùng tất cả dã thú, Chim trời, cá biểnVà những vật bơi lội trong các thủy lộ. Lạy CHÚA, Chúa chúng tôi.Danh Ngài uy nghiêm biết bao trên khắp cả trái đất. Lạy CHÚA, tôi sẽ hết lòng cảm tạ Ngài.Tôi sẽ kể lại mọi việc diệu kỳ Ngài đã làm. Tôi sẽ hân hoan và vui vẻ trong Ngài,Tôi sẽ ca ngợi danh Ngài, lạy Đấng Chí Cao. Khi kẻ thù tôi quay lưng bỏ chạy,Chúng sẽ vấp ngã và bị hủy diệt trước mặt Ngài. Vì Ngài bênh vực quyền lợi và duyên cớ tôi.Ngài ngự trên ngôi đoán xét công minh. Ngài đã quở trách các nước, hủy diệt kẻ ác.Ngài xóa bỏ tên chúng nó đời đời, Kẻ thù đã bị tuyệt diệt, điêu tàn mãi mãi,Ngài đã phá đổ tận móng các thành,Hủy diệt ngay cả kỷ niệm chúng nó. Nhưng CHÚA ngự trị đời đời.Ngài đã thiết lập ngai mình để đoán xét. Ngài đoán xét thế gian theo lẽ công chính,Ngài cai trị các dân trong sự công bình. CHÚA là thành trì cho kẻ bị áp bức,Là thành lũy trong lúc hoạn nạn. Những ai biết danh Ngài sẽ tin cậy nơi Ngài.Vì Ngài không từ bỏ kẻ tìm kiếm Ngài. Hãy ca ngợi CHÚA, là Đấng ngự tại Si-ôn.Hãy rao truyền công việc của Ngài giữa các dân. Vì Đấng báo thù huyết đã nhớ đến kẻ khốn cùng,Ngài không quên tiếng kêu của họ. Lạy CHÚA, xin thương xót tôi.Hãy xem hoạn nạn tôi phải chịu vì kẻ ghét tôi.Ngài là Đấng nâng tôi lên khỏi cổng sự chết. Để tôi kể lại mọi lời ca tụng NgàiTại cổng con gái Si-ôn.Tôi vui mừng vì được Ngài giải cứu. Các nước đã rơi xuống hố mà chúng đã đào.Chân chúng nó mắc vào lưới mà chúng đã giăng. CHÚA đã bày tỏ chính mình Ngài qua việc đoán xét.Kẻ ác mắc bẫy trong chính công việc tay chúng đã làm.Hi-gai-ôn. Sê la Kẻ ác sẽ đi xuống Âm Phủ,Cùng tất cả các nước quên Đức Chúa Trời. Vì người nghèo sẽ không bị lãng quên mãi mãi,Kẻ khốn cùng sẽ không bị tuyệt vọng luôn luôn. Lạy CHÚA, xin hãy đứng dậy.Xin chớ để phàm nhân đắc thắng.Nguyện các nước bị đoán xét trước mặt Ngài. Lạy CHÚA, xin làm cho chúng nó kinh hoàng,Nguyện các nước biết mình chỉ là phàm nhân. CHÚA ôi! Sao Ngài vẫn đứng xa?Ngài vẫn lánh mặt trong lúc chúng tôi gặp hoạn nạn? Kẻ ác, với lòng kiêu căng, săn đuổi người khốn cùng.Họ mắc phải mưu mà chúng đã bày. Vì kẻ ác khoe khoang về dục vọng trong lòng chúng.Và kẻ tham phỉ báng và khinh dể CHÚA. Kẻ ác lên mặt kiêu ngạo, không tìm kiếm Ngài.Không có Đức Chúa Trời trong mọi suy tư của hắn. Đường lối hắn luôn luôn thịnh vượng.Sự đoán xét của Ngài cao quá, vượt khỏi tầm mắt hắn.Nó chê cười tất cả kẻ thù. Nó nghĩ trong lòng rằng: Ta sẽ không bị lay chuyển.Đời đời ta sẽ không bao giờ bị tai họa gì. Miệng nó đầy những nguyền rủa, lừa gạt và đe doạ.Dưới lưỡi nó là hiểm độc và gian ác. Nó ngồi mai phục nơi thôn làng.Từ nơi ẩn núp nó giết người vô tội.Mắt nó rình rập kẻ cô thế. Từ nơi ẩn núp, nó như sư tử lén lút rình mò.Nó rình mò để bắt người cùng khốn.Nó bắt lấy người cùng khốn, kéo vào trong lưới. Kẻ cô thế bị đè bẹp, ngã quỵ,Và rơi vào mãnh lực của hắn. Nó nghĩ trong lòng rằng: Đức Chúa Trời đã quên.Ngài đã ẩn mặt, không bao giờ nhìn thấy. Lạy CHÚA, xin Ngài đứng dậy,Lạy Đức Chúa Trời, xin Ngài đưa tay ra.Xin Ngài chớ quên kẻ khốn cùng. Tại sao kẻ ác khinh dể Đức Chúa Trời,Hắn nghĩ trong lòng rằng:Ngài không tìm thấy đâu. Nhưng Ngài thấy, Ngài ghi nhận sự hoạn nạn, điều đau khổ.Để báo trả bằng chính tay mình.Người cô thế phó thác mình cho Ngài.Ngài vẫn là Đấng giúp đỡ kẻ mồ côi. Xin bẻ gãy cánh tay kẻ ác,Tra xét điều gian ác của kẻ dữ,Cho đến khi không thấy gì nữa. CHÚA là vua đời đời,Các nước sẽ bị hủy diệt khỏi đất Ngài. CHÚA ôi, Ngài lắng nghe nguyện vọng của kẻ nhu mì.Ngài làm cho họ vững lòng, nghiêng tai nghe họ. Để phán xét công bình cho kẻ mồ côi, người bị áp bức.Để người phàm không còn gieo kinh hoàng nữa. Tôi ẩn náu mình nơi CHÚA.Sao các người nói cùng linh hồn ta:Hãy trốn lên núi ngươi như chim. Vì kìa kẻ ác giương cung,Tra tên vào dây cung.Từ trong bóng tối,Bắn người ngay thẳng. Nếu nền móng bị phá hủy,Thì người công chính sẽ làm sao? CHÚA ở trong đền thánh Ngài;CHÚA ngự trên trời.Mắt Ngài quan sát,Mí mắt Ngài dò xét loài người. CHÚA thử người công chính,Nhưng lòng Ngài ghét kẻ ácVà kẻ ưa điều hung bạo. Ngài sẽ đổ than hồng và diêm sinh trên kẻ ác.Ngọn gió nóng bỏng sẽ là phần chúng nó. Vì CHÚA là công chính.Ngài yêu điều công chính.Người ngay thẳng sẽ nhìn xem mặt Ngài. Lạy CHÚA, xin giải cứu chúng tôi.Vì người kính sợ Chúa không còn nữa,Và kẻ trung tín biến mất giữa vòng loài người. Người ta nói dối lẫn nhau.Chúng là người hai lòng, nói bằng môi dua nịnh. Nguyện CHÚA cắt hết môi dua nịnh,Lưỡi khoe khoang. Tức là kẻ nói rằng: chúng ta sẽ thắng nhờ miệng lưỡi.Môi miệng là của chúng ta, ai sẽ là Chúa chúng ta? Vì kẻ khốn cùng bị bóc lột,Người thiếu thốn rên siết.Chính Ta sẽ đứng dậy, CHÚA phán:Ta sẽ đặt người nơi an toàn, là nơi người mong muốn. Lời CHÚA là lời trong sạch.Như bạc luyện trong lò nung bằng đất,Tinh luyện đến bảy lần. Lạy CHÚA, chính Ngài canh giữ người khốn cùng.Ngài bảo vệ người khỏi thế hệ này cho đến đời đời. Kẻ ác dạo quanh bốn phíaKhi điều ác được tôn cao giữa vòng loài người. Lạy CHÚA, Ngài hằng quên tôi cho đến bao giờ?Ngài lánh mặt tôi cho đến chừng nào? Linh hồn tôi vẫn đau đớn cho đến bao giờ?Lòng tôi vẫn buồn rầu mỗi ngày?Kẻ thù vẫn được tôn cao hơn tôi cho đến chừng nào? Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời của tôi.Xin hãy xem xét, xin đáp lời tôi.Xin ban ánh sáng cho mắt tôi,Kẻo tôi phải ngủ đi trong sự chết. Kẻo kẻ thù tôi sẽ nói: ta đã thắng nó!Và kẻ địch sẽ vui mừng vì tôi nghiêng ngả. Nhưng tôi tin cậy nơi tình thương của Ngài.Lòng tôi vui mừng trong sự giải cứu của Ngài. Tôi sẽ ca ngợi CHÚA,Vì Ngài đã ban phước dồi dào cho tôi. Kẻ ngu dại nói trong lòng rằng:Không có Đức Chúa Trời.Chúng nó đều thối nát, làm những điều ghê tởm.Không có ai làm điều thiện. CHÚA từ trên trờiNhìn xuống loài người.Để xem thử có ai khôn ngoan,Có ai tìm kiếm Đức Chúa Trời không? Tất cả đều lầm lạc;Chúng nó cùng nhau đều bại hoại.Không có ai làm điều thiện,Dù một người cũng không. Phải chăng tất cả kẻ làm ác đều thiếu hiểu biết?Chúng ăn nuốt dân ta như ăn bánh,Cũng chẳng cầu khẩn CHÚA. Kìa, chúng sẽ bị kinh hoàng.Vì Đức Chúa Trời ở cùng hội người công chính. Các người làm hỏng chương trình kẻ khốn cùng.Nhưng CHÚA là nơi họ trú ẩn. Ôi, ước gì sự giải cứu Y-sơ-ra-ên từ Si-ôn đã đến.Khi CHÚA đem phu tù của dân Ngài trở về.Thì Gia-cốp sẽ hân hoan, Y-sơ-ra-ên sẽ mừng rỡ. Lạy CHÚA,Ai sẽ trú trong đền tạm Ngài?Ai sẽ ngụ trên núi thánh Ngài? Ấy là người bước đi ngay thẳng,Làm điều công chínhVà nói sự thật từ trong lòng. Là người có lưỡi không nói hành,Không làm điều ác hại bạn hữu,Và không lăng nhục người lân cận. Mắt người khinh bỉ kẻ gian ácNhưng tôn trọng người kính sợ CHÚA.Người đã thề nguyện,Dù có tổn hại cũng không thay đổi. Người không cho vay tiền lấy lời,Không nhận của hối lộ để hại người vô tội.Người nào làm những điều ấySẽ không bao giờ bị rúng động. Lạy Đức Chúa Trời, xin gìn giữ tôiVì tôi trú ẩn nơi Ngài. Tôi đã thưa cùng CHÚA, chính Ngài là Chúa tôi.Ngoài Ngài ra, tôi không có ân phúc nào khác. Còn đối với các thánh trên đất và các người cao quý.Tôi đặt tất cả niềm vui của tôi nơi họ. Sự đau đớn của những kẻ theo thần khácSẽ gia tăng gấp bội.Tôi sẽ không dâng tế lễ huyết chúng nó.Môi tôi sẽ không xưng tên chúng nó. CHÚA là phần cơ nghiệp và là chén của tôi.Chính Ngài là Đấng nắm giữ cơ nghiệp cho tôi. Ranh giới của tôi nằm nơi tốt lành.Thật vậy, cơ nghiệp dành cho tôi là tốt đẹp. Tôi ca ngợi CHÚA, là Đấng khuyên bảo tôi.Thật vậy, trong đêm trường lòng tôi nhắc nhở tôi. Tôi hằng để CHÚA ở trước mặt tôi.Vì Ngài ở bên phải tôiNên tôi sẽ không bị rúng động. Bởi thế, lòng dạ tôi vui vẻ, tâm linh tôi mừng rỡ,Thật vậy, thân thể tôi được ở an toàn. Vì Ngài sẽ không bỏ linh hồn tôi nơi Âm Phủ.Ngài cũng không để kẻ yêu dấu Ngài thấy mồ mả. Ngài cho tôi biết con đường sự sống.Trước mặt Ngài có hạnh phúc tràn đầy,Bên phải Ngài có niềm vui muôn thuở. Lạy CHÚA, xin nghe điều công chính,Xin chú ý lời tôi kêu van,Xin lắng tai nghe lời tôi cầu nguyện,Từ môi miệng không gian dối. Nguyện chính Ngài xét xử cho tôi,Xin mắt Ngài xem xét sự ngay thẳng. Ngài đã dò thử lòng tôi, Ngài đã xem xét tôi lúc ban đêm,Ngài đã thử luyện tôi và không thấy gì.Tôi đã quyết định miệng tôi sẽ không phạm tội. Còn về công việc loài người.Nhờ lời Ngài,Chính tôi tránh khỏiCon đường kẻ hung bạo. Tôi bước đi vững chắc trong đường lối Ngài,Chân tôi không trượt ngã. Lạy Đức Chúa Trời, tôi kêu cầu Ngài vì Ngài đáp lời tôi.Xin nghiêng tai nghe lời tôi. Lạy Đấng giải cứu, xin bày tỏ tình thương diệu kỳ của NgàiCho những kẻ ẩn náu mình nơi tay hữu NgàiThoát khỏi kẻ thù họ. Xin gìn giữ tôi như con ngươi của mắt Chúa,Xin che dấu tôi dưới bóng cánh Ngài. Cho khỏi những kẻ ác bóc lột tôi,Khỏi những kẻ tử thù đang bao vây tôi. Lòng chúng nó trở nên phản loạn,Miệng chúng nó nói những lời kiêu căng. Chúng vây phủ chúng tôi từng bước.Mắt chúng chăm chú đặng quật tôi ngã xuống đất. Nó giống như sư tử hăm hở cấu xé,Như sư tử tơ ngồi rình trong nơi kín đáo. Lạy CHÚA, xin hãy đứng dậy, đối diện và đánh quỵ chúng.Xin hãy dùng gươm Ngài cứu linh hồn tôi khỏi kẻ ác. Lạy CHÚA, cánh tay Ngài cứu chúng tôi khỏi người phàm,Là người mà phần chúng nó chỉ có trong đời sống trần gian.Nguyện Ngài dành sẵn nhiều án phạt cho chúng,Nhiều cho con cái chúng,Lại còn thừa đến cháu chắt nữa. Còn tôi, tôi sẽ chiêm ngưỡng mặt Chúa trong sự công chính,Khi tôi thức dậy, tôi sẽ thỏa nguyện trông thấy hình dạng Ngài. Lạy CHÚA, tôi yêu mến Ngài,Ngài là sức mạnh của tôi. CHÚA là vách đá, là thành lũy, là Đấng giải cứu tôi.Đức Chúa Trời của tôi là núi đá, nơi tôi trú ẩn,Là thuẫn đỡ, là sừng cứu rỗi, là thành trì của tôi. Tôi cầu khẩn CHÚA, Đấng đáng được ca ngợi,Thì tôi được giải cứu khỏi kẻ thù. Những sợi dây tử thần quấn lấy tôi.Các làn sóng hủy diệt tràn ngập tôi. Những sợi dây Âm Phủ vây quanh tôi,Các bẫy lưới tử thần giăng trước tôi. Trong cảnh hiểm nghèo, tôi cầu khẩn CHÚA.Tôi kêu cứu Đức Chúa Trời của tôi.Từ đền Ngài, Ngài nghe tiếng tôi,Và tiếng kêu nài của tôi trước mặt Ngài thấu đến tai Ngài. Bấy giờ đất rung chuyển và rúng động.Nền móng các núi cũng lay độngVà run rẩy vì Ngài nổi giận. Khói phun ra từ mũi Ngài,Lửa thiêu đốt từ miệng Ngài,Từ Ngài than cháy rực bùng lên. Ngài vén các từng trời và ngự xuống,Dưới chân Ngài là mây đen dày đặc. Ngài cưỡi trên Chê-ru-bim và bay,Ngài lượn trên cánh gió. Ngài lấy bóng tối làm màn che chung quanh.Lấy nước tối đen, mây dày đặc làm trướng phủ. Từ hào quang trước mặt Ngài,Các đám mây của Ngài đi qua, có mưa đá và than lửa hồng. CHÚA làm sấm xét trên trời,Đấng Chí Cao cất tiếng nói, có mưa đá và than lửa hồng. Ngài bắn tên ra, làm chúng phân tán.Ngài làm chớp nhoáng, khiến chúng chạy tán loạn. Lạy CHÚA, do lời quở trách của Ngài,Bởi hơi thở phát ra từ mũi Ngài,Các vực sâu dưới nước phải lộ ra,Nền móng thế giới phải phơi bầy. Từ trên cao, Ngài đưa tay ra nắm lấy tôi,Ngài kéo tôi ra khỏi chỗ nước sâu. Ngài giải cứu tôi khỏi kẻ thù hùng mạnh,Cùng những kẻ ghét tôi vì chúng nó mạnh hơn tôi. Chúng xông đến trong ngày tôi gặp hoạn nạn,Nhưng CHÚA là Đấng bảo vệ tôi. Ngài đem tôi đến nơi rộng rãi,Ngài giải cứu tôi vì Ngài vui lòng về tôi. CHÚA thưởng cho tôi tùy theo sự công chính của tôi.Ngài bồi thường cho tôi tùy theo tay trong sạch của tôi. Vì tôi đã tuân giữ đường lối của CHÚA,Không làm điều ác xa cách Đức Chúa Trời của tôi. Vì tất cả mạng lệnh của Ngài đều ở trước mặt tôi,Tôi không bỏ qua quy luật nào của Ngài. Tôi không có gì đáng trách trước mặt Ngài.Tôi đã giữ mình cho khỏi phạm tội. CHÚA bồi thường cho tôi tùy theo sự công chính của tôi,Tùy theo tay trong sạch của tôi trước mắt Ngài. Với người trung tín, Ngài là Đấng thành tín.Với người trọn đạo, Ngài là Đấng trọn lành. Với người trong sạch, Ngài là Đấng trong sạch.Với người xảo quyệt, Ngài sẽ đối xử nghiêm minh. Vì Ngài giải cứu người khiêm nhường,Nhưng hạ những kẻ có mắt tự cao xuống. Vì chính Ngài thắp ngọn đèn của tôi lên.Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời của tôi,Ngài soi sáng cảnh tối tăm của tôi. Vì nhờ Ngài, tôi có thể dẹp tan một đoàn quân thù,Nhờ Đức Chúa Trời của tôi, tôi có thể vượt qua thành lũy. Còn Đức Chúa Trời, đường lối Ngài là toàn hảo.Lời của CHÚA đã được tinh luyện,Ngài là thuẫn đỡCho mọi kẻ trú ẩn nơi Ngài. Vì ai là Đức Chúa Trời ngoại trừ CHÚA,Ai là núi đá ngoài Đức Chúa Trời chúng ta. Đức Chúa Trời là Đấng nai nịt tôi bằng sức mạnh,Và làm cho đường lối tôi toàn hảo. Ngài làm cho chân tôi lanh lẹ như nai,Và đặt tôi đứng vững vàng tại nơi cao của tôi. Ngài luyện tay tôi để chiến đấu,Nhờ thế cánh tay tôi giương nổi cung đồng. Ngài ban cho tôi thuẫn cứu rỗi,Tay phải Ngài nâng đỡ tôi,Sự giúp đỡ của Ngài làm cho tôi vĩ đại. Ngài mở rộng bước đường tôi đi,Để chân tôi khỏi bị trật khớp. Tôi đuổi theo kẻ thù và đuổi kịp chúng.Tôi sẽ không quay về cho đến khi chúng bị hủy diệt. Tôi đâm thủng chúng nó, đến nỗi chúng không thể dậy nổi.Chúng ngã quỵ dưới chân tôi. Ngài nai nịt cho tôi bằng sức mạnh để chiến đấu,Làm cho kẻ chống đối phải hạ mình quy phục. Ngài làm kẻ thù quay lưng bỏ chạy khỏi tôi.Và tôi hủy diệt những kẻ ghét tôi. Chúng nó kêu cầu nhưng không ai giải cứu.Chúng nó cầu khẩn cả CHÚA nhưng Ngài không trả lời. Và tôi đánh tan chúng nó như bụi tung trước gió.Tôi chà nát chúng nó như bùn ngoài đường. Ngài đã giải cứu tôi khỏi tranh chấp với dân chúng,Ngài lập tôi làm đầu các nước,Một dân tôi không biết sẽ phục vụ tôi. Ngay khi nghe nói về tôi chúng liền vâng phục,Những người ngoại quốc phải khúm núm trước tôi. Những người ngoại quốc kinh hoàng,Run rẩy ra khỏi thành trì của chúng. CHÚA hằng sống! Vầng đá của tôi đáng đuợc ca tụng!Đức Chúa Trời, Đấng cứu rỗi tôi đáng được tôn vinh! Đức Chúa Trời, Đấng báo thù hộ tôi,Làm các dân tộc quy phục tôi. Ngài giải cứu tôi khỏi quân thù,Thật vậy, Ngài nâng tôi lên cao hơn kẻ chống đối tôi.Ngài cứu tôi khỏi kẻ bạo tàn. Vì vậy, lạy CHÚA, tôi sẽ tôn vinh Ngài giữa các nướcVà ca ngợi danh Ngài. Ngài ban cho vua Ngài chiến thắng lớn lao.Ngài ban tình thương cho Đấng được xức dầu của Ngài,Cho Đa-vít và cho dòng dõi người đến đời đời. Các từng trời loan truyền vinh quang của Đức Chúa Trời,Cõi không gian tuyên bố công việc của tay Ngài. Ngày này qua ngày khác, truyền rao sứ điệp,Đêm nọ đến đêm kia bầy tỏ sự hiểu biết. Không diễn văn, không ngôn ngữ,Không ai nghe tiếng nói của chúng. Tiếng của chúng vang ra khắp đất,Lời nói chúng nó đến tận cùng thế giới,Ngài đã dựng lều cho mặt trời trên không gian. Mặt trời như tân lang ra khỏi loan phòng,Như dũng sĩ hân hoan đi vào trận đấu. Mặt trời mọc từ đầu chân trời này,Chạy vòng đến cuối chân trời kia,Không gì thoát khỏi sức nóng mặt trời. Kinh Luật của CHÚA là toàn hảo,Hồi sinh linh hồn.Lời chứng của CHÚA là chắc chắn,Khiến người trẻ dại trở thành khôn ngoan. Giới luật của CHÚA là ngay thẳng,Làm lòng người vui vẻ.Điều răn của CHÚA là trong sáng,Soi sáng con mắt. Sự kính sợ CHÚA là trong sạch,Hằng còn mãi mãi.Phán quyết của CHÚA là chân thật,Tất cả đều công chính. Các điều ấy quý hơn vàng,Hơn cả vàng ròng,Ngọt hơn mật,Hơn cả mật chảy từ tàng ong. Hơn thế nữa, tôi tớ Ngài được các điều ấy giáo huấn,Người nào tuân giữ lấy, được phần thưởng lớn. Ai nhận thức được lầm lỗi mình?Xin Ngài tha thứ tội lỗi tôi không biết. Xin gìn giữ tôi tớ Ngài khỏi cố ý phạm tội,Xin chớ để tội lỗi cai trị tôi,Thì tôi sẽ không có gì đáng trách,Và không phạm trọng tội. Nguyện lời nói của miệng tôi và sự suy gẫm của lòng tôiĐẹp ý Ngài.Lạy CHÚA, là vầng đá và Đấng cứu chuộc tôi. Cầu xin CHÚA đáp lời ngươi trong ngày gian nguy.Xin danh Đức Chúa Trời của Gia-cốp bảo vệ ngươi. Từ nơi thánh, xin sai ơn giúp đỡ ngươi,Từ Si-ôn, xin ban cho ngươi sự hỗ trợ. Xin Chúa ghi nhớ tất cả những lễ vật ngươi dâng,Và tiếp nhận những tế lễ toàn thiêu ngươi hiến. Xin Chúa ban cho ngươi điều lòng ngươi mơ ước,Và hoàn thành mọi kế hoạch của ngươi. Chúng tôi reo mừng trong cuộc chiến thắng của người.Và nhân danh Đức Chúa Trời chúng ta giương cao ngọn cờ.Cầu xin CHÚA hoàn thành mọi điều người thỉnh nguyện. Bây giờ tôi biết CHÚA giúp đỡ Đấng được xức dầu của Ngài.Từ trên trời thánh Ngài đáp lời người,Ngài giải cứu người bằng những việc quyền năng của tay phải Ngài. Kẻ này nhờ cậy xe cộ, kẻ khác nhờ cậy ngựa chiến.Nhưng chúng tôi nhờ cậy danh CHÚA, Đức Chúa Trời chúng tôi. Chúng nó bị ngã quỵ và té nhào,Nhưng chúng tôi vươn lên và đứng vững. Lạy CHÚA, xin hãy giải cứu Đức Vua.Xin hãy đáp lời khi chúng tôi cầu khẩn. Lạy CHÚA, nhờ năng lực Ngài, vua vui mừng,Nhờ sự cứu rỗi Ngài vua vô cùng hân hoan. Ngài ban cho người điều lòng người ao ước,Ngài không từ chối điều miệng người cầu xin.Sê-la. Vì Ngài tiếp đón người bằng phước lành,Ngài đội trên đầu người mão triều vàng. Người xin Ngài sự sống, Ngài ban cho người,Ngài ban cho người những ngày vĩnh cửu. Nhờ sự cứu rỗi Ngài, người được vinh quang vĩ đại.Ngài ban cho người uy nghi, lộng lẫy. Vì Ngài ban cho người phước lành vĩnh cửu,Ngài ban cho người niềm vui trước mặt Ngài. Vì vua tin cậy CHÚA,Và nhờ tình thương của Đấng Chí CaoNên người sẽ không bị rúng động. Cánh tay vua sẽ bắt được mọi kẻ thù người.Cánh tay phải vua sẽ nắm được mọi kẻ ghét người. Khi CHÚA xuất hiện,Người sẽ làm cho chúng như ngọn lửa hừng,Trong cơn thịnh nộ, người sẽ nuốt chúng nó.Và lửa sẽ thiêu đốt chúng nó đi. Người sẽ hủy diệt con cháu chúng khỏi mặt đất,Và dòng dõi họ giữa vòng loài người. Dù chúng bày mưu ác, lập kế dữ chống người,Thì chúng cũng không thể thành công. Vì người sẽ làm cho chúng quay lưng bỏ chạy,Người sẽ giương cung nhắm vào mặt chúng. Lạy CHÚA, Ngài sẽ đuợc tôn cao trong năng lực Ngài.Chúng tôi sẽ hát và ca ngợi quyền năng Ngài. Đức Chúa Trời tôi ôi! Đức Chúa Trời tôi ôi!Sao Ngài lìa bỏ tôi?Sao Ngài cách xa, không giải cứu tôi,Không nghe tiếng kêu gào của tôi? Lạy Đức Chúa Trời của tôi, suốt ngày tôi kêu cầu nhưng Ngài không đáp lời,Ban đêm tôi cũng không yên nghỉ. Nhưng Ngài là Đấng thánh,Ngự trị giữa sự khen ngợi của Y-sơ-ra-ên. Tổ phụ chúng tôi đã tin cậy nơi Ngài,Họ đã tin cậy, nên Ngài giải cứu họ. Họ đã cầu khẩn Ngài và được giải cứu,Họ đã tin cậy nơi Ngài và không bị hổ thẹn. Nhưng tôi chỉ là con sâu, không phải người,Bị loài người chế nhạo, bị người ta khinh bỉ. Tất cả những người thấy tôi đều chế nhạo,Họ trề môi, họ lắc đầu: Nó nhờ cậy CHÚA,Để Ngài giải cứu nó.Vì Ngài vui lòng vì nó,Hãy để Ngài cứu nó. Nhưng chính Ngài là Đấng đem tôi ra khỏi lòng mẹ,Khiến tôi an toàn ở trên vú mẹ tôi. Từ lòng mẹ, tôi đã được giao cho Ngài,Ra khỏi lòng mẹ, Ngài là Đức Chúa Trời của tôi. Xin đừng ở xa tôi,Vì hoạn nạn đang ở gần,Không ai giúp đỡ. Có nhiều bò tót bao quanh tôi,Những con bò tót Ba-san mạnh mẽ vây lấy tôi. Họ hả miệng lớn cùng tôi,Như sư tử cắn xé, gầm thét. Tôi bị đổ ra như nước,Xương cốt tôi đều rã rời,Tim tôi như sáp,Tan chảy trong ngực tôi. Sức tôi khô cạn như mảnh sành,Lưỡi tôi dính vào cổ họng,Ngài để tôi nơi tro bụi của sự chết. Vì đàn chó bao quanh tôi,Lũ người hung dữ vây phủ tôi,Chúng đâm thủng chân tay tôi. Tôi có thể đếm hết xương cốt tôi,Chúng nhìn chòng chọc, chúng nhìn tôi hau háu. Chúng chia nhau áo xống tôi,Bắt thăm để lấy y phục tôi. Nhưng Ngài, lạy CHÚA, xin đừng ở xa tôi,Ngài là sức mạnh của tôi, xin mau mau tiếp cứu tôi. Xin cứu linh hồn tôi khỏi gươm,Mạng sống tôi khỏi móng vuốt loài chó. Xin giải cứu tôi khỏi miệng sư tử, và khỏi sừng bò rừng.Ngài đã đáp lời tôi. Tôi sẽ loan báo danh Ngài cho anh em tôi,Tôi sẽ ca ngợi Ngài giữa hội chúng. Hỡi những người tôn kính CHÚA, hãy ca ngợi Ngài.Hỡi tất cả con cháu Gia-cốp, hãy tôn vinh Ngài.Hỡi tất cả dòng dõi Y-sơ-ra-ên, hãy kính sợ Ngài. Vì Ngài đã không khinh bỉ, cũng chẳng ghê tởmNỗi đau đớn của người khốn khổ.Ngài cũng không tránh mặt người,Nhưng khi người kêu cầu với Ngài thì Ngài đáp lời. Lời ca ngợi của tôi giữa hội chúng lớn đến từ Ngài,Tôi sẽ làm trọn những lời khấn nguyện của tôi trước mặt những người kính sợ Chúa. Người nghèo sẽ ăn và thỏa lòng,Người tìm kiếm CHÚA sẽ ca ngợi Ngài.Nguyện lòng các ngươi được sống mãi mãi. Khắp cả trái đấtSẽ ghi nhớ và trở lại cùng CHÚA,Tất cả gia tộc các nướcSẽ thờ phượng trước mặt Ngài. Vì quyền cai trị thuộc về CHÚA,Ngài thống trị trên các nước. Tất cả những người giầu có trên đất sẽ ăn uống và thờ phượng.Mọi kẻ đi vào bụi đất sẽ quỳ lạy trước mặt Ngài,Những linh hồn không thể bảo tồn mạng sống mình. Một dòng dõi sẽ phục vụ Ngài,Người ta sẽ truyền bá về Chúa cho hậu thế. Họ sẽ đến và rao truyền sự công chính của NgàiCho thế hệ hậu sinhRằng Ngài đã làm việc ấy. CHÚA là Đấng chăn giữ tôi,Tôi sẽ không thiếu thốn gì. Ngài giúp tôi an nghỉ nơi đồng cỏ xanh tươi,Dẫn tôi đến bên bờ suối yên tịnh. Ngài phục hồi linh hồn tôi,Dẫn tôi vào đường lối công bìnhVì cớ danh Ngài. Dù khi tôi đi quaThung lũng bóng chết,Tôi sẽ không sợ tai họa gì.Vì Ngài ở cùng tôi,Cây trượng và cây gậy của NgàiAn ủi tôi. Ngài bầy tiệc đãi tôiTrước mặt kẻ thù nghịch tôi,Ngài xức dầu trên đầu tôi,Chén tôi đầy tràn. Thật vậy, trọn đời tôi,Phúc lành và tình yêu thương sẽ theo tôi.Tôi sẽ ở trong nhà CHÚAĐến muôn đời. Quả đất và mọi vật trên đất,Thế giới và những người sống trên nó,Đều thuộc về CHÚA. Vì Ngài đã lập nền quả đất trên biển,Và thiết lập nó trên các sông. Ai sẽ lên núi của CHÚA?Ai sẽ đứng trong nơi thánh Ngài? Ấy là người có tay trong sạch và lòng thanh khiết,Không hướng linh hồn mình vào điều sai lầm,Không thề nguyện giả dối. Người ấy sẽ nhận được phước từ CHÚA,Và sự công chính từ Đức Chúa Trời, là Đấng cứu rỗi người. Ấy là dòng dõi những người tìm kiếm Ngài,Tức là những người tìm kiếm mặt Đức Chúa Trời của Gia-cốp.Sê-la. Hỡi các cổng, hãy nhấc đầu lên,Hỡi các cửa đời đời, hãy nâng cao lên,Để vua vinh hiển ngự vào. Vua vinh hiển này là ai?Ấy là CHÚA dũng lực và quyền năng,CHÚA quyền năng nơi chiến trận. Hỡi các cổng, hãy nhấc đầu lên,Hỡi các cửa đời đời, hãy nâng cao lên.Để vua vinh hiển ngự vào. Vua vinh hiển này là ai?Ấy là CHÚA Vạn Quân.Chính Ngài là vua vinh hiển.Sê-la. Lạy CHÚA, linh hồn tôi hướng lên Ngài. Đức Chúa Trời của tôi ôi! Tôi tin cậy nơi Ngài.Xin chớ để tôi bị hổ thẹn,Cũng đừng để kẻ thù reo mừng chiến thắng trên tôi. Thật vậy, tất cả những người trông cậy nơi NgàiSẽ không bị hổ thẹn.Xin hãy để những kẻ bội tínBị hổ thẹn. Lạy CHÚA, xin cho tôi biết đường lối Ngài,Xin dạy tôi các nẻo đường Ngài. Xin hướng dẫn tôi trong chân lý Ngài và dạy dỗ tôi.Vì Ngài là Đức Chúa Trời của tôi, Đấng cứu rỗi tôi.Hằng ngày tôi trông cậy nơi Ngài. Lạy CHÚA, xin nhớ lại lòng thương xót và tình yêu thương Ngài,Vì hai điều ấy hằng có từ ngàn xưa. Xin đừng nhớ những lỗi lầm tôi trong thời niên thiếu,Cũng đừng nhớ những vi phạm tôi.Lạy CHÚA, xin Ngài nhớ đến tôi theo tình yêu thương Ngài,Vì bản tính tốt lành của Ngài. CHÚA là tốt lành và ngay thẳng,Vì thế Ngài sẽ chỉ dẫn con đường cho người tội lỗi. Hướng dẫn người nhu mì trong sự công minh.Ngài cũng dạy người nhu mì con đường của Ngài. Tất cả đường lối của CHÚA đều là yêu thương và chân thậtCho những người gìn giữ giao ước và lời chứng của Ngài. Lạy CHÚA, vì danh Ngài,Xin tha thứ tội lỗi tôi, dù tội ấy lớn. Ai là người kính sợ CHÚA?Ngài sẽ chỉ dẫn họ con đường mình phải chọn. Linh hồn người sẽ ở trong phúc lành,Và con cháu người sẽ chiếm hữu đất đai. Bí quyết của CHÚA dành cho người kính sợ Ngài.Ngài tỏ cho họ biết giao ước Ngài. Mắt tôi hằng ngưỡng vọng CHÚA,Vì chính Ngài sẽ gỡ chân tôi ra khỏi bẫy lưới. Xin hãy đoái xem tôi và thương xót tôi,Vì tôi cô đơn và khốn khổ. Xin cho lòng tôi thư thả khỏi bối rối,Và đem tôi ra khỏi cảnh đau khổ. Xin xem xét nỗi khốn khổ và bối rối của tôi,Và cất đi tất cả tội lỗi tôi. Xin hãy xem những kẻ thù tôi vì chúng nó nhiều;Chúng nó thù ghét tôi mãnh liệt. Xin bảo vệ mạng sống tôi và giải cứu tôi.Chớ để tôi bị hổ thẹnVì tôi trú ẩn nơi Ngài. Nguyện sự thanh liêm và ngay thẳng gìn giữ tôi,Vì tôi trông cậy nơi Ngài. Lạy Đức Chúa Trời, xin cứu chuộc Y-sơ-ra-ênRa khỏi mọi gian truân. Lạy CHÚA, xin xét cho tôiVì tôi sống liêm khiết,Tôi đã tin cậy nơi CHÚA,Không hề lay chuyển. Lạy CHÚA, xin xem xét và thử thách tôi,Xin rèn luyện lòng dạ, tâm trí tôi. Vì tình yêu thương Ngài ở trước mặt tôi,Tôi bước đi trong chân lý của Ngài. Tôi không ngồi chung với người gian trá,Cũng không giao thiệp với kẻ đạo đức giả. Tôi ghét bọn người gian ác,Và không ngồi chung với những kẻ dữ. Lạy CHÚA, tôi rửa tay tôi trong sự vô tội,Và đi quanh bàn thờ Ngài. Tôi cất tiếng cảm tạ,Và loan truyền mọi công việc diệu kỳ của Ngài. Lạy CHÚA, tôi yêu mến đền Ngài ở và nơi vinh quang Ngài ngự. Xin chớ cất linh hồn tôi đi cùng với những người tội lỗi,Cũng đừng cất mạng sống tôi chung với những kẻ khát máu. Là những kẻ có tay gian ác,Tay phải chúng đầy của hối lộ. Còn tôi, tôi sống liêm khiết.Xin cứu chuộc và thương xót tôi. Chân tôi đứng vững trên đất bằng,Tôi sẽ ca tụng CHÚA trong các hội chúng. CHÚA là ánh sáng và sự cứu rỗi của tôi,Tôi sẽ sợ ai?CHÚA là thành lũy của mạng sống tôi,Tôi sẽ khiếp đảm ai? Khi những kẻ ác xông đếnĐịnh ăn thịt tôi,Những kẻ đàn áp và thù nghịch tấn công tôi,Chúng nó sẽ vấp ngã và té nhào. Dù một đạo quân bao vây tôi,Lòng tôi sẽ không sợ.Dù chiến tranh nổi dậy chống tôi,Tôi vẫn vững lòng. Tôi đã xin CHÚA một điều,Là điều tôi sẽ tìm kiếm.Ấy là tôi đuợc ở trong nhà CHÚAĐến suốt đời,Để chiêm ngưỡng sự tốt đẹp của CHÚAVà cầu hỏi trong đền thờ Ngài. Vì trong ngày hoạn nạn,Ngài sẽ giấu tôi trong lều Ngài,Ngài sẽ che giấu tôi trong nơi kín đáo của trại Ngài.Ngài đặt tôi lên trên vầng đá. Bây giờ, đầu tôi sẽ ngước caoLên trên những kẻ thù vây quanh tôi.Tôi sẽ dâng tế lễ trong trại Ngài, là tế lễ bằng lời reo hò vui vẻ.Tôi sẽ hát và ca ngợi CHÚA. Lạy CHÚA, xin nghe tiếng tôi kêu cầu,Xin thương xót tôi và đáp lời tôi. Lòng tôi thưa với Ngài: Hãy tìm kiếm mặt Ngài.Lạy CHÚA, tôi tìm kiếm mặt Ngài. Xin đừng lánh mặt khỏi tôi!Trong khi giận, xin chớ xua đuổi tôi tớ Ngài,Ngài vẫn giúp đỡ tôi.Xin đừng xua đuổi, cũng chớ ruồng bỏ tôi!Lạy Đức Chúa Trời là Đấng cứu rỗi tôi. Dù cha mẹ bỏ tôi,Nhưng CHÚA sẽ tiếp nhận tôi. Lạy CHÚA, xin dạy tôi đường lối Ngài.Xin dẫn tôi trên con đường bằng phẳngVì những kẻ rình rập tôi. Xin chớ bỏ mặc tôi cho ý đồ của kẻ thù tôi,Vì những lời chứng dối và những kẻ ngăm đeHung bạo đã nổi lên chống tôi. Tôi tin chắc rằngTôi sẽ thấy phúc lành của CHÚATrên đất người sống. Hãy trông cậy nơi CHÚA,Hãy vững lòng và can đảm lên.Phải, hãy trông cậy nơi CHÚA. Lạy CHÚA, tôi kêu cầu Ngài,Hỡi vầng đá của tôi, xin chớ bịt tai cùng tôi.Nếu Ngài im lặng với tôi,Thì tôi sẽ giống như người đi xuống huyệt mả. Xin hãy nghe lời cầu nguyện của tôi,Khi tôi cầu khẩn cùng Ngài,Khi tôi giơ tay lênHướng về đền chí thánh của Ngài. Xin chớ cất tôi đi với kẻ ác,Hoặc với những người làm điều dữ;Là những kẻ miệng nói hòa bình cùng người lân cậnNhưng lòng thì gian trá. Xin báo trả chúng tùy theo công việcVà hành vi gian ác của chúng.Xin báo trả chúng tùy theo công việc tay chúng đã làm.Hãy bắt chúng trả hình phạt xứng đáng. Vì chúng không quan tâm đến công việc của CHÚA,Cùng các công trình của tay Ngài,Ngài sẽ đập tan chúng nóVà không xây dựng chúng nó lên. Chúc tụng CHÚA, vì Ngài đã nghe lời cầu nguyện của tôi. CHÚA là sức mạnh và thuẫn đỡ cho tôi,Lòng tôi tin cậy nơi Ngài và được giúp đỡ.Lòng tôi cũng hân hoanVà ca hát cảm tạ Ngài. CHÚA là sức mạnh cho dân Ngài.Ngài là thành lũy cứu rỗi cho Đấng được xức dầu của Ngài. Xin hãy cứu dân Ngài và ban phước cho cơ nghiệp Ngài.Cũng hãy chăn dắt và nâng đỡ họ muôn đời. Hỡi các con Đức Chúa Trời, hãy dâng cho CHÚA,Hãy dâng cho CHÚA vinh quang và quyền năng. Hãy dâng cho CHÚA vinh quang của danh Ngài,Hãy trang sức thánh mà thờ phượng CHÚA. Tiếng của CHÚA vang rền trên sông nước,Đức Chúa Trời vinh quang sấm sét.CHÚA ở trên các đại dương. Tiếng của CHÚA hùng mạnh,Tiếng của CHÚA oai nghiêm. Tiếng của CHÚA bẻ gãy những cây bá hương,CHÚA bẻ gãy các cây bá hương Li-ban. Ngài làm Li-ban nhảy như con bê,Và Si-ri-ôn như bò tót tơ. Tiếng của CHÚA phát ra ngọn lửa. Tiếng của CHÚA làm rung chuyển đồng hoang,CHÚA làm rung chuyển đồng hoang Ca-đê. Tiếng của CHÚA làm nai cái đẻ con,Làm cho rừng cây trụi lá.Nhưng trong đền thờ Ngài mọi người đều tung hô:Vinh quang thay! CHÚA ngự trị trên nước lụt.CHÚA ngự trị làm vua muôn đời. CHÚA ban năng lực cho dân Ngài,CHÚA chúc phúc bình an cho dân Ngài. Lạy CHÚA, tôi ca ngợi Ngài,Vì Ngài đã kéo tôi lên.Không để cho kẻ thù vui mừng vì cớ tôi. Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời của tôi.Tôi đã kêu cứu Ngài và Ngài chữa lành tôi. Lạy CHÚA, Ngài đã đem linh hồn tôi lên khỏi Âm Phủ.Ngài đã phục hồi mạng sống tôi từ những người đi xuống huyệt sâu. Hỡi những người trung tín của Ngài,Hãy ca ngợi CHÚA và cảm tạ danh thánh Ngài. Vì cơn giận của Ngài chỉ trong chốc lát,Còn ơn của Ngài thì suốt cả một đời.Than khóc có thể kéo dài trong đêm.Nhưng vui mừng khi rạng đông ló dạng. Còn tôi, trong khi thịnh vượng tôi đã nói:Tôi sẽ không bao giờ bị rung chuyển. Lạy CHÚA, nhờ ơn Ngài,Ngài lập tôi như ngọn núi vững chắc.Ngài lánh mặt đi,Tôi bị bối rối. Lạy CHÚA, tôi kêu cầu cùng Ngài.Lạy Chúa tôi, tôi khẩn nguyện với Ngài. Lợi ích gì khi tôi bị đổ huyết mất mạng,Bị đi xuống huyệt sâu?Cát bụi sẽ ca ngợi Ngài chăng?Sẽ rao truyền chân lý của Ngài không? Lạy CHÚA, xin hãy nghe,Lạy CHÚA, xin thương xót tôi, xin giúp đỡ tôi. Ngài đã đổi lời than khóc của tôi ra nhảy múa,Ngài cởi bỏ áo tang chế của tôi và mặc cho tôi vui mừng. Để linh hồn tôi ca ngợi Ngài và không im lặng.Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời của tôi. Tôi cảm tạ Ngài đời đời. Lạy CHÚA, tôi ẩn náu nơi Ngài.Xin chớ để tôi bị hổ thẹn muôn đời,Xin giải cứu tôi bằng sự công chính của Ngài. Xin Ngài hãy nghiêng tai nghe tôi,Xin mau mau giải cứu tôi.Xin Ngài hãy làm vầng đá trú ẩn cho tôi,Làm thành lũy kiên cố để giải cứu tôi. Thật chính Ngài là vầng đá và thành lũy của tôi,Vì danh Ngài xin dẫn đường và hướng dẫn tôi. Xin gỡ tôi khỏi bẫy lưới chúng giăng,Vì Ngài là nơi trú ẩn cho tôi. Tôi giao phó linh hồn tôi trong tay Ngài,Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời chân thật, Ngài đã cứu chuộc tôi. Tôi ghét những kẻ thờ thần tượng hư không,Nhưng tôi tin cậy nơi CHÚA. Tôi sẽ hân hoan vui mừng trong tình yêu thương Ngài.Vì Ngài đã thấy nỗi khốn khổ của tôi,Biết niềm đau đớn của linh hồn tôi. Ngài không trao tôi vào tay kẻ thù,Ngài đặt chân tôi trong nơi rộng rãi. Lạy CHÚA, xin thương xót tôi vì tôi đang đau khổ.Mắt tôi mòn mỏi vì sầu khổ,Linh hồn và thân thể tôi cũng vậy. Vì cuộc đời tôi tiêu hao trong buồn thảm,Năm tháng tôi trong tiếng thở than,Sức lực tôi suy giảm đi vì tội lỗi tôi,Và xương cốt tôi hao mòn. Đối với tất cả kẻ thù, tôi là một sự khinh bỉ.Những người lân cận lại càng khinh bỉ tôi hơn.Đối với những người quen biết, tôi là vật đáng sợ.Những kẻ thấy tôi ngoài đường đều tránh mặt. Tôi bị người ta loại ra khỏi tâm trí như một người chết.Tôi giống như một cái bình bể nát. Vì tôi nghe nhiều người thì thào bàn tán,Bốn phía đều kinh hoàng.Trong khi chúng bàn nhau nghịch tôi,Chúng mưu toan để lấy mạng sống tôi. Nhưng lạy CHÚA, tôi tin cậy nơi Ngài.Tôi nói: chính Ngài là Đức Chúa Trời tôi. Cuộc đời tôi ở trong tay Ngài.Xin giải cứu tôi khỏi tay những kẻ thù nghịchVà kẻ bắt bớ tôi. Xin soi sáng mặt Ngài trên tôi tớ Ngài.Vì tình yêu thương Ngài, xin cứu rỗi tôi. Lạy CHÚA, xin chớ để tôi bị hổ thẹn,Vì tôi đã kêu cầu Ngài.Xin để những kẻ ác bị hổ thẹn,Nguyện chúng nó câm miệng đi xuống Âm Phủ. Nguyện môi miệng dối trá phải câm đi.Là miệng hay nói những lời xấc xược, kiêu căngVà khinh bỉ chống người công chính. Lớn lao thay là phúc lành,Ngài dành cho những người kính sợ Ngài,Và thi ân cho những kẻ trú ẩn nơi NgàiTrước mặt con cái loài người. Trong nơi kín đáo trước mặt Ngài,Ngài che giấu họ thoát khỏi mưu kế loài người.Trong trại Ngài, Ngài bảo vệ họThoát khỏi miệng lưỡi tấn công. Chúc tụng CHÚA,Vì trong thành kiên cố của Ngài,Ngài đã bầy tỏ tình yêu thương Ngài cho tôi một cách diệu kỳ. Còn tôi, trong cơn hoảng hốt, tôi nói rằng:“Tôi đã bị truất khỏi trước mặt Ngài,Nhưng Ngài nghe tiếng kêu cầu của tôiKhi tôi cầu cứu Ngài.” Hỡi tất cả các thánh của Ngài, hãy yêu mến CHÚA.CHÚA gìn giữ những người trung tín.Nhưng báo trả nặng nề những kẻ hành động kiêu căng. Hỡi tất cả những người trông cậy nơi CHÚA,Hãy vững lòng, mạnh mẽ. Phước cho người nàoCó sự vi phạm được tha thứ,Tội lỗi mình được khỏa lấp. Phước cho người nàoCHÚA không quy tội ác cho,Và trong tâm linh không có sự gian dối. Khi tôi nín lặng,Xương cốt tôi tiêu mònVà rên siết suốt ngày. Vì ngày đêm,Tay Ngài đè nặng trên tôi,Sinh lực tôi tiêu hao Như sương gặp nắng hạ. Tôi đã thú tội cùng Ngài,Không giấu tội ác tôi.Tôi nói: “Tôi sẽ xưngCác sự vi phạm tôi cùng CHÚA,Và Ngài đã tha thứTội lỗi gian ác tôi.” Vì vậy, hết thảy những người trung tín,Hãy cầu nguyện cùng Ngài đang khi có thể gặp được.Dù khi có nước lụt lớn dâng lênCũng không đụng đến người. Ngài là nơi trú ẩn cho tôi,Ngài gìn giữ tôi khỏi hoạn nạn,Ngài bao phủ tôi bằng những bài ca giải cứu. Ta sẽ dạy dỗ ngươi, chỉ cho ngươi con đường phải đi.Mắt Ta hằng chăm nom, cố vấn ngươi. Đừng như con ngựa, con la,Là vật vô tri;Phải dùng hàm thiếc, dây cương để kiềm chế miệng nó.Nếu không, chúng sẽ không đến gần ngươi. Kẻ ác có nhiều nỗi đau đớn,Nhưng người tin cậy CHÚAĐược tình yêu thương bao phủ họ. Hỡi những người trung tín,Hãy vui mừng và hân hoan trong CHÚA.Hỡi những người có lòng ngay thẳng,Hãy reo mừng. Hỡi những người trung tín, hãy reo mừng trong CHÚA.Ca ngợi Ngài là điều thích đáng cho người ngay thẳng. Hãy dùng đàn hạc ca ngợi CHÚA,Hãy ca tụng Ngài với đàn lia mười dây. Hãy hát cho Ngài một bài ca mới.Hãy gẩy đàn dây thật hay với tiếng reo vang. Vì lời CHÚA là ngay thẳng,Mọi công việc của Ngài đều thành tín. CHÚA yêu công bình và chính trực,Đất đầy dẫy tình yêu thương của Ngài. Các tầng trời do lời CHÚA làm nên,Tất cả các thiên thể nhờ hơi thở của miệng Ngài mà có. Ngài dồn nước biển thành từng khối,Ngài chứa nước các vực sâu trong kho. Cả trái đất hãy kính sợ CHÚA,Cả nhân loại hãy khiếp sợ Ngài. Vì chính Ngài phán, mọi vật liền có,Ngài truyền, mọi vật được lập vững bền. CHÚA phá tan mưu kế của các nước,Làm hỏng chương trình của các dân. Mưu của CHÚA đứng vững muôn đời,Chương trình của Ngài còn từ đời này đến đời kia. Phước cho nước nào có CHÚA làm Đức Chúa Trời mình,Dân tộc nào được Ngài chọn làm cơ nghiệp. Từ trên trời CHÚA nhìn xuống,Ngài thấy tất cả con cái loài người. Từ nơi Ngài ngự, Ngài xem xét tất cả cư dân trên đất. Ngài là Đấng nắn ra lòng dạ mọi người,Ngài quan sát mọi hành động của họ. Vua không được giải cứu nhờ binh đông,Dũng sĩ không được giải thoát nhờ sức mạnh mình. Nhờ ngựa chiến để giải cứu là hão huyền,Dù nó có nhiều sức mạnh nhưng không cứu thoát được. Kìa, mắt CHÚA đoái xem người kính sợ Ngài,Và kẻ trông cậy nơi tình yêu thương của Ngài. Để cứu linh hồn họ khỏi chết,Và bảo tồn mạng sống họ trong cơn đói kém. Linh hồn chúng tôi trông cậy nơi CHÚA,Ngài là sự tiếp trợ và thuẫn đỡ cho chúng tôi. Vì trong Ngài lòng chúng tôi vui mừng,Vì chúng tôi tin cậy nơi danh thánh Ngài. Lạy CHÚA, nguyện tình yêu thương Ngài giáng trên chúng tôi,Vì chúng tôi hy vọng nơi Ngài. Tôi luôn luôn cảm tạ CHÚA,Miệng tôi hằng ca ngợi Ngài. Linh hồn tôi hãnh diện trong CHÚA,Những kẻ khốn cùng sẽ nghe và vui mừng. Hãy cùng tôi tán dương CHÚA,Hãy cùng nhau ca ngợi danh Ngài. Tôi đã cầu khẩn CHÚA và Ngài đáp lời tôi,Ngài cũng giải cứu tôi khỏi mọi điều lo sợ. Những người ngưỡng trông Ngài được chiếu sáng,Và mặt họ chẳng hề hổ thẹn. Kẻ khốn cùng này kêu cầu, CHÚA nghe lời người,Và giải cứu người khỏi mọi điều khốn khổ. Thiên sứ CHÚA đóng trại chung quanh những kẻ kính sợ NgàiVà giải cứu họ. Hãy nếm và xem CHÚA tốt lành dường bao!Phước cho người nào trú ẩn nơi Ngài. Hỡi các thánh, hãy kính sợ CHÚA.Vì người nào kính sợ Ngài chẳng thiếu thốn gì. Sư tử tơ còn thiếu thốn đói khát,Nhưng những người cầu khẩn CHÚA không thiếu một điều tốt lành nào. Hỡi các con, hãy đến nghe ta,Ta sẽ dạy các con sự kính sợ CHÚA. Ai là người khao khát sống,Thích được trường thọ để thấy phước lành. Hãy giữ lưỡi mình khỏi lời độc ác,Và môi mình khỏi lời gian dối. Hãy lánh điều dữ và làm điều lành,Hãy tìm kiếm và theo đuổi hòa bình. Mắt CHÚA chăm nom người công chính,Tai Ngài nghe tiếng kêu cầu của họ. Mặt CHÚA nghịch cùng kẻ làm ác,Để chặt bỏ kỷ niệm chúng khỏi mặt đất. Người công chính kêu cứu, CHÚA đã nghe,Và giải cứu họ khỏi mọi điều khốn khổ. CHÚA ở gần những người có tấm lòng đau thương,Và cứu những người có tâm linh thống hối. Người công chính gặp nhiều hoạn nạn,Nhưng CHÚA giải cứu người thoát cả. Ngài gìn giữ tất cả xương cốt người,Không một cái nào bị gãy. Sự dữ sẽ giết kẻ ác,Và những kẻ ghét người công chính sẽ bị định tội. CHÚA cứu chuộc linh hồn tôi tớ Ngài,Và tất cả những ai trú ẩn nơi Ngài sẽ không bị định tội. Lạy CHÚA, xin tranh luận với kẻ tranh luận cùng tôi,Chiến đấu với kẻ chiến đấu nghịch tôi. Xin hãy cầm khiên và mộc,Hãy đứng dậy giúp tôi. Xin hãy rút lao và giáoChống lại kẻ săn đuổi tôi.Hãy nói với linh hồn tôi,Ta là sự cứu rỗi ngươi. Nguyện kẻ tìm kiếm mạng sống tôiBị hổ thẹn và nhục nhã.Nguyện kẻ âm mưu điều ác hại tôiPhải tháo lui và bối rối. Nguyện chúng nó như trấu trước gió,Bị thiên sứ CHÚA đánh đuổi đi. Nguyện đường chúng nó tối tăm trơn trợt,Và thiên sứ CHÚA săn đuổi chúng. Bởi vì vô cớ chúng gài lưới hại tôi,Vô cớ chúng đào hố cho tôi sập ngã. Nguyện sự hủy hoại bất ngờ đến với chúng,Và chúng mắc vào bẫy lưới mình đã giăng.Nguyện chúng rơi vào đó và bị hủy hoại. Linh hồn tôi sẽ vui mừng trong CHÚA,Hân hoan trong sự cứu rỗi Ngài. Các xương cốt tôi đều nói:Lạy CHÚA, ai giống như Ngài?Ngài giải cứu người yếu đuối khỏi kẻ mạnh bạo,Cứu người yếu kém và cùng khốn khỏi kẻ bóc lột họ. Những người chứng gian nổi lên,Chúng tra hỏi tôi những điều tôi không biết. Chúng lấy dữ trả lành,Làm linh hồn tôi tuyệt vọng. Còn tôi, khi chúng đau, tôi mặc bao gai,Tôi đau đớn, tôi kiêng ăn,Khi lời cầu nguyện của tôi không được đáp lại. Tôi coi họ như bạn hữu, như anh em.Tôi đi than khóc như than khóc mẹ yêu,Đầu cúi trong bộ đồ tang chế. Nhưng khi tôi vấp ngã, chúng họp nhau vui mừng.Tôi không hề biết, chúng họp lại chống tôi,Chúng cấu xé tôi không ngừng. Như kẻ vô đạo, chúng cứ nhạo báng tôi.Chúng nghiến răng nghịch cùng tôi. Lạy Chúa, Ngài cứ nhìn xem chúng cho đến bao giờ?Xin cứu linh hồn tôi khỏi sự tàn phá của chúng,Xin cứu mạng sống tôi khỏi bầy sư tử. Tôi sẽ cảm tạ Ngài trong hội lớn.Tôi sẽ ca ngợi Ngài giữa đám dân đông. Xin chớ để những kẻ vô cớ thù tôi vui mừng.Và kẻ vô cớ ghét tôi nheo mắt hân hoan. Vì chúng không nói lời hòa bình,Nhưng nói lời gian dốiChống người hiền hòa trên đất. Miệng chúng khoác lác chống tôi,Rằng: Ha! Ha! mắt chúng ta đã thấy rồi. Lạy CHÚA, Ngài đã thấy rõ, xin chớ im lặng.Lạy Chúa tôi, xin đừng lìa xa tôi. Xin hãy thức dậy, xin hãy đứng lên bênh vực tôi.Lạy Đức Chúa Trời, Chúa tôi, xin bênh vực tôi. Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời của tôi. Xin xét xử tôi tùy sự công chính Ngài,Xin chớ để chúng vui mừng vì tôi. Xin chớ để chúng nói trong lòng: A ha! Đó là điều chúng ta mong muốn.Hoặc nói: chúng ta đã ăn nuốt nó rồi. Nguyện những kẻ vui mừng trên tai họa của tôiPhải cùng nhau bị hổ thẹn và bối rối.Nguyện những kẻ tự tôn nghịch tôiSẽ hổ thẹn và nhục nhã tràn đầy. Nguyện những kẻ vui mừng cho sự công chính của tôiSẽ reo hò vui vẻ.Nguyện họ luôn luôn tung hô: CHÚA vĩ đại thay!Ngài vui thích ban sự hưng thịnh cho tôi tớ Ngài. Lưỡi tôi sẽ rao truyền sự công chính của NgàiVà ca ngợi Chúa suốt ngày. Sự vi phạm của kẻ ác nói nơi sâu kín lòng tôi rằng:Không có sự kính sợ Đức Chúa Trời trước mắt nó. Trong ánh mắt nó có sự khoe khoang rằngTội lỗi mình không bị lộ và chẳng bị ai ghét bỏ. Những lời nói từ miệng nó đều gian ác và lừa gạt.Nó không còn hành động khôn ngoan và lương thiện. Khi còn ở trên giường nó mưu toan điều gian ác,Đi theo con đường không lương thiện,Không từ bỏ điều dữ. Lạy CHÚA, tình yêu thương của Ngài cao tận trời xanh,Sự thành tín của Ngài đến tận các tầng mây. Sự công chính của Ngài như ngọn núi hùng vĩ,Sự công bình của Ngài như vực thẳm thâm sâu.Lạy CHÚA, Ngài bảo tồn cả loài người lẫn thú vật. Lạy Đức Chúa Trời, tình yêu thương của Ngài quý báu biết bao!Nhân loại trú ẩn dưới bóng cánh Ngài. Trong sự sung mãn của nhà Chúa họ dự yến tiệc,Ngài cho họ uống nước từ dòng sông vui thỏa. Vì nguồn sự sống ở nơi Ngài,Nhờ ánh sáng Ngài chúng tôi thấy ánh sáng. Xin tiếp tục ban tình yêu thương Ngài cho những người biết Chúa,Và sự công chính Ngài cho những người có lòng ngay thẳng. Xin chớ để chân kẻ kiêu ngạo đạp trên tôi,Và tay những kẻ ác xua đuổi tôi. Kìa, những kẻ gian ác sa ngã,Chúng bị xô ngã và không thể nào đứng dậy nổi. Chớ phiền lòng vì kẻ ác,Đừng ganh tị với người làm điều dữ. Vì như cỏ, chúng sẽ sớm tàn.Và như cỏ xanh chúng sẽ héo. Hãy tin cậy CHÚA và làm điều lành.Hãy ở trong xứ và hưởng sự thành tín của Ngài. Hãy vui mừng trong CHÚA,Ngài sẽ ban cho ngươi điều lòng mình mong muốn. Hãy giao phó đường lối mình cho CHÚA,Và tin cậy nơi Ngài, thì chính Ngài sẽ làm thành tựu. Ngài sẽ khiến sự công chính ngươi chiếu ra như ánh sáng,Và sự phán đoán ngươi như giữa trưa. Hãy yên lặng trước mặt CHÚA và chờ đợi Ngài.Chớ phiền lòng vì kẻ phát đạt theo đường lối mình,Hoặc vì người thực hiện những mưu ác. Hãy nguôi cơn giận và từ bỏ thịnh nộ.Chớ phiền lòng vì điều đó chỉ đưa đến việc ác. Vì những kẻ ác sẽ bị diệt,Nhưng những người trông cậy CHÚA, chính họ sẽ thừa hưởng đất. Chỉ trong ít lâu nữa sẽ không còn kẻ ác,Dù ngươi tìm xem chỗ nó, cũng không còn nữa. Nhưng những người nhu mì sẽ thừa hưởng đất,Và vui mừng trong bình an thịnh vượng. Kẻ ác âm mưu nghịch người công chính,Và nghiến răng cùng người. Chúa cười kẻ ácVì Ngài thấy ngày tàn nó đã đến gần. Kẻ ác rút gươmVà giương cungĐể hạ sát kẻ khốn cùng và người thiếu thốn,Để giết hại người đi theo đường ngay thẳng. Gươm chúng sẽ đâm vào lòng chúng,Và cung chúng nó sẽ bị gẫy. Tiền của người công chính tuy ít,Nhưng tốt hơn sự giầu có của nhiều người gian ác. Vì cánh tay kẻ ác sẽ bị gẫy,Nhưng CHÚA chống đỡ cho người công chính. CHÚA biết các ngày của người trọn vẹn,Cơ nghiệp của họ sẽ tồn tại đời đời. Gặp lúc hoạn nạn họ sẽ không bị xấu hổ,Trong ngày đói kém họ sẽ được no nê. Nhưng kẻ ác sẽ bị diệt vong,Kẻ thù của CHÚA như đồng cỏ tốt tươi,Chúng sẽ biến mất, chúng sẽ tiêu tan như mây khói. Kẻ ác vay mượn và không trả nổi.Còn người công chính ban ơn rộng rãi. Vì những người được Chúa ban phước sẽ thừa hưởng đất,Còn những kẻ bị Ngài rủa sả sẽ bị diệt đi. CHÚA làm cho vững bền các bước đường của người,Và Ngài vui lòng về đường lối người. Dù người vấp té cũng không ngã nhào,Vì CHÚA nâng đỡ tay người. Từ khi còn trẻ, đến nay tôi đã già,Tôi chưa từng thấy người công chính bị bỏ,Và con cháu người phải đi ăn mày. Hằng ngày người rộng rãi và cho mượn,Con cháu người trở thành nguồn phước. Hãy tránh điều dữ và làm điều lành,Thì ngươi sẽ an cư mãi mãi. Vì CHÚA yêu người công bình,Ngài không từ bỏ những người thánh của Ngài,Nhưng sẽ gìn giữ họ đời đời.Còn con cháu của kẻ ác sẽ bị diệt đi. Người công chính sẽ thừa hưởng đất,Và họ sẽ an cư mãi mãi. Miệng người công chính thốt ra sự khôn ngoan,Lưỡi người nói ra sự công bình. Giáo huấn của Đức Chúa Trời ở trong lòng người.Bước chân người không nghiêng ngả. Kẻ ác rình rập người công chính,Và tìm cách giết hại người. CHÚA sẽ không bỏ mặc họ trong tay kẻ ác,Ngài cũng không để họ bị kết án trong khi xét xử. Hãy trông đợi CHÚAVà gìn giữ đường lối Ngài.Ngài sẽ tôn ngươi lên để thừa hưởng đất.Ngươi sẽ thấy khi kẻ ác bị diệt vong. Tôi đã thấy thế lực của kẻ ác,Nó lớn mạnh như cây tùng xứ Li-ban Rồi có người đi qua, kìa nó không còn nữa.Tôi tìm kiếm nó nhưng không gặp. Hãy xem người trọn vẹn, hãy nhìn người ngay thẳng,Vì kết cuộc người sẽ nhận đuợc bình an. Còn những kẻ vi phạm sẽ cùng nhau bị hủy hoại,Con cháu kẻ ác sẻ bị diệt đi. Nhưng sự cứu rỗi người công chính đến từ CHÚA,Ngài là thành lũy của họ trong lúc gian nguy. CHÚA giúp đỡ và giải cứu họ,Ngài giải cứu họ khỏi kẻ ác và cứu rỗi cho,Vì họ đã trú ẩn nơi Ngài. Lạy CHÚA, trong cơn giận, xin Ngài đừng quở trách tôi,Trong cơn thịnh nộ, xin Ngài chớ trừng phạt tôi. Vì các mũi tên Ngài găm vào mình tôi,Và cánh tay Ngài đè nặng trên tôi. Vì cơn phẫn nộ của Ngài, thân thể tôi không được lành mạnh.Vì tội lỗi tôi, xương cốt tôi không được bình an. Vì tội ác tôi vượt quá đầu tôi,Như một gánh nặng, nặng quá cho tôi. Vì sự ngu dại của tôi,Các vết thương tôi hôi thối và mưng mủ. Tôi quỵ xuống, gục đầu rất thấp,Suốt ngày tôi đi lang thang buồn thảm. Vì tâm can tôi nóng như thiêu đốt.Thân thể tôi không được lành mạnh. Tôi mòn mỏi và hoàn toàn bị kiệt lực.Tôi than thở vì lòng bối rối. Lạy Chúa, Ngài biết tất cả lòng mong ước của tôi,Tiếng rên xiết của tôi cũng không giấu được Ngài. Lòng tôi hồi hộp, sức lực tôi suy yếu.Ngay cả ánh sáng mắt tôi cũng không còn. Những người yêu thương tôi và bè bạn đều tránh xa khi tôi bị hoạn nạn,Và những người bà con thì xa lánh. Những kẻ tìm giết mạng sống tôi gài bẫy sập tôi,Những kẻ muốn hại tôi nói điều phá hoại,Và suốt ngày suy tính chuyện lừa gạt. Còn tôi như kẻ điếc không nghe,Như người câm không mở miệng. Phải, tôi như người không nghe,Miệng không có lời đối đáp. Vì, lạy CHÚA, tôi trông cậy nơi Ngài,Lạy Chúa, là Đức Chúa Trời tôi, chính Ngài sẽ đáp lời. Tôi nói: xin đừng để chúng vui mừng vì tôi,Đừng để chúng tự tôn nghịch cùng tôi khi chân tôi vấp ngã. Vì tôi sắp ngã,Nỗi đau đớn hằng ở trước mặt tôi. Tôi xưng nhận tội ác của tôi,Tôi buồn rầu vì tội lỗi tôi. Nhưng những kẻ thù nghịch tôi vẫn sống và mạnh mẽ,Còn những kẻ ghét tôi vô cớ thật nhiều. Những kẻ lấy ác trả thiện,Chúng vu cáo tôi vì tôi theo điều thiện. Lạy CHÚA, xin đừng từ bỏ tôi.Lạy Đức Chúa Trời tôi, xin chớ xa cách tôi. Lạy Chúa, là Đấng cứu rỗi tôi,Xin hãy mau mau giúp đỡ tôi. Tôi nói: tôi sẽ gìn giữ đường lối tôiĐể miệng lưỡi tôi không phạm tội.Bao lâu kẻ ác còn ở trước mặt,Tôi sẽ dùng khớp gìn giữ miệng mình. Tôi câm miệng, nín lặng,Lời lành cũng không nói ra.Nhưng nỗi đau đớn của tôi dâng lên. Lòng dạ tôi nóng nảy trong tôi,Đương khi tôi suy gẫm, lửa bùng cháy lên,Lưỡi tôi phải than rằng. Lạy CHÚA, xin cho tôi biết sự cuối cùng của tôi,Và số các ngày của tôi là thể nào.Xin cho tôi biết đời tôi mỏng manh là dường bao! Kìa, các ngày Ngài ban cho tôi chỉ vài gang tấc,Và đời tôi như không trước mặt Ngài,Phải, dù tất cả những người vững mạnh cũng chỉ là hư không. Thật vậy, mỗi người bước đi như chiếc bóng,Phải, người ta bôn ba chẳng qua như hơi thở.Người chất chứa của cải nhưng không biết ai sẽ thừa hưởng. Giờ đây, lạy Chúa, tôi trông đợi ai?Niềm hy vọng của tôi ở nơi Chúa. Xin hãy giải cứu tôi khỏi mọi vi phạm.Xin chớ làm cho tôi thành vật đáng khinh bỉ cho kẻ khờ dại. Tôi nín lặng, tôi không mở miệng,Vì Ngài đã làm điều này. Xin cất tôi khỏi roi vọt của Ngài,Tôi bị kiệt quệ vì tay Ngài đánh phạt. Ngài khiển trách, trừng phạt loài người vì tội ác họ.Ngài làm điều họ mơ ước hao mòn như bị mục nát.Phải, cả loài người chỉ như hơi thở. Lạy CHÚA, xin nghe lời cầu nguyện tôi,Xin lắng tai nghe tiếng kêu cứu của tôi.Xin chớ bịt tai trước giọt nước mắt than khóc của tôi.Vì với Ngài, tôi là khách lạ,Là kiều dân như tất cả tổ phụ tôi. Xin Ngài tha thứ cho tôi thì tôi sẽ vui vẻ,Trước khi tôi ra đi và không còn nữa. Tôi kiên nhẫn trông đợi CHÚA,Ngài nghiêng qua nghe tiếng kêu cứu của tôi. Ngài kéo tôi lên khỏi hố khủng khiếp,Khỏi vũng bùn lầy.Ngài đặt chân tôi trên tảng đá,Làm cho bước chân tôi vững vàng. Ngài ban cho miệng tôi một bài ca mới,Bài hát ca ngợi Đức Chúa Trời chúng ta.Nhiều người sẽ thấy, kính sợVà tin cậy nơi CHÚA. Phước cho người nào tin cậy nơi CHÚA,Không hướng về kẻ kiêu ngạo, cũng không xoay qua thần giả dối. Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời của tôi.Chính Ngài đã làm nhiều việc diệu kỳVà suy nghĩ nhiều về chúng tôi.Không ai có thể so sánh với Ngài.Nếu tôi phải nói ra hoặc công bốThì nhiều quá, không thể đếm được. Ngài không mong muốn tế lễ hy sinh hay tế lễ chay,Ngài đã mở tai cho tôi,Ngài không đòi hỏi tế lễ thiêu hay tế lễ chuộc tội. Bấy giờ tôi nói: đây, tôi đến.Trong quyển sách có chép về tôi. Lạy Đức Chúa Trời tôi, Tôi mong muốn làm theo ý Ngài,Kinh Luật của Ngài ở trong lòng tôi. Tôi đã truyền tin mừng công chính giữa đại hội.Kìa, môi miệng tôi không nín lặng.Lạy CHÚA, Ngài biết điều này. Tôi không giấu sự công chính của Ngài trong lòng tôi,Tôi công bố sự công chính và sự cứu rỗi của Ngài,Tôi không giấu tình yêu thương và chân lý của NgàiGiữa đại hội. Lạy CHÚA, xin chớ khép kín lòng thương xót đối với tôi,Nguyện tình yêu thương và chân lý của Ngài hằng gìn giữ tôi. Vì vô số tai họa vây quanh tôi,Tội ác tôi bắt kịp tôi, tôi không thể thấy được,Chúng nhiều hơn tóc trên đầu tôi,Lòng gan dạ của tôi cũng tiêu tan. Lạy CHÚA, xin vui lòng giải cứu tôi.Lạy CHÚA, xin mau mau giúp đỡ tôi. Nguyện những kẻ tìm giết mạng sống tôiĐều bị hổ thẹn và bối rối.Nguyện những kẻ muốn hại tôiPhải rút lui và nhục nhã. Nguyện những kẻ nói với tôi: Ha! Ha!Bị kinh hoàng trước sự sỉ nhục mình. Nguyện tất cả những người tìm kiếm NgàiĐược hân hoan và vui mừng trong Ngài.Những người yêu mến sự cứu rỗi Ngài sẽ luôn luôn tung hô:CHÚA vĩ đại thay! Còn tôi, dù yếu kém và cùng khốn,Chúa nghĩ đến tôi.Ngài là Đấng giúp đỡ và giải cứu tôi.Lạy Đức Chúa Trời tôi, xin chớ chậm trễ. Phước cho người nào nghĩ đến kẻ yếu hèn,Trong ngày gian truân CHÚA sẽ giải cứu người. CHÚA sẽ gìn giữ người và bảo tồn sinh mạng người.Trên đất Ngài sẽ ban phước cho ngườiVà Ngài sẽ không ruồng bỏ người theo ý muốn của kẻ thù người. CHÚA nâng đỡ người khi người nằm trên giường bệnh.Trong lúc người đau yếu, Ngài chữa lành cả bệnh tật người. Còn tôi, tôi thưa: Lạy CHÚA, xin thương xót tôi.Xin chữa lành tôi, vì tôi phạm tội cùng Ngài. Các kẻ thù nguyền rủa tôi:Khi nào nó sẽ chết? Và dòng họ nó sẽ bị hủy diệt? Còn kẻ đến thăm tôiNói những lời giả dối.Lòng nó chất chứa điều gian xảo;Nó đi ra ngoài rêu rao. Tất cả những người ghét tôi thì thầm với nhau về tôi.Chúng âm mưu điều ác hại tôi. Chúng nói: “Nó đã mắc phải một tai ách.”Nó sẽ không dậy nổi khỏi chỗ nó nằm. Ngay cả người bạn thân mà tôi tin tưởng,Người từng ăn bánh của tôi,Cũng trở mặt chống nghịch tôi. Nhưng Ngài, lạy CHÚA, xin thương xót tôi.Xin đỡ tôi dậy để tôi báo trả chúng nó. Vì kẻ thù không thắng được tôi,Nên tôi biết rằng Ngài đẹp lòng về tôi. Còn tôi, vì tôi chân thật nên Ngài nâng đỡ tôi.Chúa đặt tôi trước mặt Ngài đời đời. Đáng ca ngợi CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên,Từ nay cho đến đời đời.A-men! A-men! Đức Chúa Trời ôi! Linh hồn tôi mong đợi ChúaNhư con nai thèm khát suối nước. Linh hồn tôi khao khát Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời hằng sống.Khi nào tôi mới được đến trình diện trước mặt Đức Chúa Trời? Khi người ta còn hỏi Đức Chúa Trời ngươi đâu?Thì suốt ngày đêm nước mắt làm đồ ăn cho tôi. Tôi nhớ lại những điều nàyVà linh hồn tôi tan vỡ.Thể nào tôi đã đến,Dẫn đoàn người vào nhà Đức Chúa Trời,Trong tiếng reo hò vui vẻ cảm tạCủa đoàn người dự lễ. Hỡi linh hồn ta, tại sao ngươi chán nảnVà lo lắng trong mình ta?Hãy hy vọng nơi Đức Chúa Trời.Vì ta sẽ còn ca ngợi Ngài,Ngài là Đấng cứu rỗiVà Đức Chúa Trời hằng giúp đỡ ta. Linh hồn tôi chán nản trong tôi,Nên tôi nhớ đến Ngài.Từ vùng đất Giô-đanh,Từ rặng núi Hẹt-môn và đồi Mít-sê-a. Vực sâu này đến vực sâu khác,Tiếng ầm ầm của các thác nước;Tất cả sóng gió ba đào của NgàiĐã tràn ngập tôi. Ban ngày CHÚA truyền ban tình yêu thương Ngài,Ban đêm bài hát Ngài ở cùng tôi,Tức là lời cầu nguyện dâng lên Đức Chúa Trời của đời tôi. Tôi sẽ thưa cùng Đức Chúa Trời, là vầng đá của tôi;Tại sao Ngài quên tôi?Vì sao tôi bước đi buồn thảm?Trong sự đàn áp của kẻ thù? Xương cốt tôi như gẫy nátKhi kẻ thù chế giễu,Suốt ngày chúng hỏi tôi:Đức Chúa Trời ngươi đâu? Hỡi linh hồn ta, tại sao ngươi chán nản?Vì sao ngươi lo lắng trong mình ta?Hãy hy vọng nơi Đức Chúa Trời,Vì ta sẽ còn ca ngợi Ngài,Là Đấng Cứu Rỗi và Đức Chúa Trời hằng giúp đỡ ta. Lạy Đức Chúa Trời, xin xét xử cho tôi.Xin bênh vực trường hợp tôi chống lại một dân vô đạo. Xin giải cứu tôi khỏi người lừa dối và bất công. Vì chính Ngài là Đức Chúa Trời tôi, Đấng bảo vệ tôi.Tại sao Ngài từ bỏ tôi?Vì sao tôi bước đi buồn thảmTrong sự đàn áp của kẻ thù? Xin ban ánh sáng và chân lý của NgàiHướng dẫn tôi,Đưa tôi đến núi thánh của Ngài,Là nơi Ngài ngự. Bấy giờ tôi sẽ đến bàn thờ Đức Chúa Trời,Tức là đến với Đức Chúa Trời, sự vui mừng và sung sướng của tôi.Lạy Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời tôi,Tôi sẽ gẩy đàn hạc ca ngợi Ngài, Hỡi linh hồn ta, tại sao ngươi chán nảnVì sao ngươi lo lắng trong mình ta?Hãy hy vọng nơi Đức Chúa Trời.Vì ta sẽ còn ca ngợi Ngài,Là Đấng cứu rỗi và Đức Chúa Trời hằng giúp đỡ ta. Lạy Đức Chúa Trời, tai chúng tôi có nghe,Tổ phụ chúng tôi đã thuật lại,Công việc Ngài làm trong đời họVào thời xưa. Chính Ngài dùng tay mình đánh đuổi các nước đi,Nhưng Ngài trồng tổ phụ chúng tôi.Ngài đổ tai họa cho các dân,Nhưng làm tổ phụ chúng tôi thịnh vượng. Vì không phải nhờ gươm mà họ chiếm được xứ,Cũng không phải bởi cánh tay mình mà họ chiến thắng.Nhưng nhờ tay phải Ngài, bởi cánh tay Ngài,Nhờ ánh sáng của mặt Ngài, vì Ngài quý mến họ. Chính Ngài là vua của tôi, Đức Chúa Trời tôi.Xin Ngài ra lệnh cứu Gia-cốp. Nhờ Ngài chúng tôi đẩy lui kẻ thù,Nhân danh Ngài chúng tôi chà đạp những kẻ tấn công chúng tôi. Vì tôi không nhờ cậy vào cây cung tôi,Gươm tôi cũng không cứu tôi được. Nhưng Ngài giải cứu chúng tôi khỏi các kẻ thù,Và làm cho những kẻ ghét chúng tôi phải hổ thẹn. Hằng ngày chúng tôi ca ngợi trong Đức Chúa Trời,Và cảm tạ danh Ngài mãi mãi. Nhưng nay Ngài đã từ bỏ chúng tôi, làm chúng tôi bị nhục nhã.Ngài không còn xông pha cùng quân đội chúng tôi nữa. Ngài khiến chúng tôi tháo lui trước quân thù,Và những kẻ ghét chúng tôi cướp bóc chúng tôi. Ngài phó chúng tôi như chiên bị đem đi làm thịt,Ngài làm chúng tôi tản lạc giữa các nước, Ngài đã bán dân Ngài với giá không đáng gì,Ngài không đòi giá cao về họ. Ngài làm chúng tôi nên cớ chế giễu cho kẻ lân cận,Như lời chế nhạo, như vật đáng khinh đối với những người chung quanh. Ngài làm chúng tôi như câu tục ngữ giữa các nước,Là cớ cho dân lắc đầu. Hằng ngày sự nhục nhã ở trước mặt tôi,Mặt tôi tràn đầy hổ thẹn. Vì lời chế giễu và mắng nhiếc,Vì sự hiện diện của kẻ thù và người muốn trả thù. Mọi điều ấy đã xảy đến cho chúng tôi,Nhưng chúng tôi vẫn không quên Ngài,Cũng không phản bội giao ước Ngài. Lòng chúng tôi không thối lui,Bước chân chúng tôi không đi lệch đường lối Ngài. Nhưng Ngài đã nghiền nát chúng tôi tại nơi chó rừng ở.Bao phủ chúng tôi trong bóng chết. Nếu chúng tôi không quên danh Đức Chúa Trời chúng tôi,Và đưa tay hướng về một thần lạ. Đức Chúa Trời không khám phá ra sao?Vì Ngài biết những điều bí ẩn trong lòng. Chính vì Ngài chúng tôi bị giết hại suốt ngày,Chúng tôi bị coi như chiên bị đem đi làm thịt. Lạy Chúa, xin thức dậy, sao Ngài vẫn ngủ?Xin hãy tỉnh thức, chớ từ bỏ chúng tôi mãi mãi. Tại sao Ngài giấu mặt điMà quên nỗi khổ và áp bức của chúng tôi? Vì linh hồn chúng tôi phủ phục dưới bụi tro,Thân thể chúng tôi nằm bẹp dưới đất. Xin Ngài hãy đứng dậy giúp đỡ chúng tôi,Vì tình yêu thương của Ngài, xin cứu chuộc chúng tôi. Lòng tôi cảm tác một chủ đề hay.Tôi sẽ ngâm những vần thơ cho vua.Lưỡi tôi là ngòi bút của văn sĩ đại tài. Ngài đẹp hơn tất cả con trai loài người.Môi miệng Ngài đầy ân sủng,Vì vậy, Đức Chúa Trời ban phước cho Ngài đời đời. Hỡi dũng sĩ, hãy đeo gươm vào hông,Là sự vinh quang và uy nghi của Ngài. Trong sự uy nghi của Ngài, hãy nhân danh chân lý,Nhu mì và công chính mà tiến lên đắc thắng.Hãy để cánh tay hữu Ngài bày tỏ những việc kinh hoàng. Các mũi tên Ngài bén nhọn, bắn vào tim những kẻ thù của vua.Các dân ngã quỵ dưới chân Ngài. Lạy Đức Chúa Trời, ngôi Ngài tồn tại đời đời.Vương trượng của Ngài là trượng công bình. Ngài yêu sự công chính và ghét điều gian tà.Vì vậy Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời của Ngài,Đã xức dầu vui vẻ cho Ngài trội hơn đồng bạn Y phục Ngài đượm mùi trầm hương, một dược và nhục quế.Tiếng đàn hạc từ cung điện bằng ngà làm Ngài vui vẻ. Các công chúa là những thiếu nữ quý phái của Ngài,Bên phải Ngài là hoàng hậu trang sức vàng Ô-phia. Hỡi con gái, hãy nghe, suy xét và lắng tai:Hãy quên dân tộc và nhà cha con, hãy tôn kính Ngài. Thì vua sẽ ái mộ nhan sắc con,Vì Ngài là Chúa của con, hãy tôn kính Ngài. Con gái thành Ty-rơ sẽ đem tặng phẩm đến,Những người giầu có nhất trong dân sẽ tìm kiếm ơn nơi con. Công chúa tiến vào hoàng cung đầy vinh hiển.Y phục nàng thêu dệt bằng vàng. Trang sức lộng lẫy, nàng được ra mắt vua.Các nữ đồng trinh theo sau nàngVà bạn hữu nàng cũng được đưa đến Ngài. Trong niềm hân hoan vui mừng họ được dẫn vào cung vua. Các con trai Ngài sẽ nối dòng tổ phụ,Ngài sẽ lập chúng làm vương, hầu trên khắp trái đất. Ta sẽ làm danh ngươi được ghi nhớ mãi mãi.Vì vậy các dân sẽ ca ngợi ngươi đời đời. Đức Chúa Trời là nơi trú ẩn và sức lực chúng ta.Ngài sẵn sàng giúp đỡ lúc gian truân. Vì vậy, chúng ta sẽ không sợ dù quả đất biến đổi,Núi đồi rung chuyển và đổ xuống lòng biển. Dù đại dương gầm thét và sôi bọt,Dù núi đồi lay chuyển và náo động.Sê-la Có một con sông, các dòng nước nó làm vui thành Đức Chúa Trời,Là nơi ngự thánh của Đấng Chí Cao. Đức Chúa Trời ở giữa thành ấy, thành sẽ không bị lay chuyển.Vừa hừng đông Đức Chúa Trời sẽ giúp đỡ thành. Các nước náo động, các vương quốc ngả nghiêng.Đức Chúa Trời lên tiếng, quả đất liền tan chảy. CHÚA Vạn Quân ở cùng chúng ta.Đức Chúa Trời của Gia-cốp là thành lũy chúng ta.Sê-la Hãy đến xem các công việc của CHÚA,Đấng làm cho đất hoang tàn. Ngài dẹp yên chiến tranh đến tận cùng trái đất.Ngài bẻ gẫy cung, đập nát giáoVà đốt xe trong lửa. Hãy yên lặng và biết rằng chính Ta là Đức Chúa Trời.Ta sẽ được tán dương giữa các nướcVà được tôn cao trên đất. CHÚA Vạn Quân ở cùng chúng ta.Đức Chúa Trời của Gia-cốp là thành lũy của chúng ta.Sê-la Hỡi các dân, hãy vỗ tay.Hãy reo mừng chiến thắng cho Đức Chúa Trời. Vì CHÚA Chí Cao thật đáng kính sợ,Là Vua lớn trên toàn trái đất. Ngài khiến các dân quy phục chúng tôi,Làm các nước phục dưới chân chúng tôi. Ngài chọn cơ nghiệp cho chúng tôi,Là niềm kiêu hãnh của Gia-cốp người Ngài yêu mến.Sê-la Đức Chúa Trời ngự lên trong tiếng reo hò chiến thắng,CHÚA đi lên giữa tiếng kèn vang dậy. Hãy hát lên ca ngợi Đức Chúa Trời, hãy hát lên.Hãy hát lên ca ngợi Vua chúng ta, hãy hát lên. Vì Đức Chúa Trời là vua của cả trái đất.Hãy hát thánh thi mà ca ngợi Ngài. Đức Chúa Trời cai trị các nước,Đức Chúa Trời ngự trên ngôi thánh Ngài. Hoàng tử của thế gian nhóm họp lạiLàm dân Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham.Vì các bậc quyền thế trên đất đều thuộc về Đức Chúa Trời.Ngài được tôn rất cao. CHÚA thật vĩ đại, rất đáng được ca ngợiTrong thành của Đức Chúa Trời chúng ta và trên núi thánh Ngài. Núi thánh Ngài cao vút đẹp đẽ,Là niềm vui cho toàn trái đất.Núi Si-ôn, đỉnh cao của Sa-phan,Là thành đô của vua lớn. Từ giữa các đền đài của thành ấy,Đức Chúa Trời chứng tỏ Ngài là nơi trú ẩn vững vàng. Vì kìa, các vua tụ họp lại,Cùng nhau tiến lên đánh thành. Họ thấy thành nên kinh hoàngVà hoảng sợ tháo chạy. Tại đó, họ run rẩy rụng rời,Đau đớn như đàn bà sinh đẻ. Như các tàu Ta-rê-siBị gió đông đánh tan nát. Những gì chúng tôi đã nghe,Thì chúng tôi đã thấyTrong thành của CHÚA Vạn Quân,Tức là thành của Đức Chúa Trời chúng ta.Đức Chúa Trời vững lập thành muôn đời. Lạy Đức Chúa Trời, tại giữa đền thờ Ngài,Chúng tôi suy gẫm về tình yêu thương của Ngài. Lạy Đức Chúa Trời, danh Ngài thể nào,Thì lời ca ngợi Ngài cũng vang ra tận cùng trái đất thể ấy.Tay hữu Ngài đầy sự công bình. Núi Si-ôn hân hoan,Các con gái Giu-đa mừng rỡVì sự đoán xét của Ngài. Hãy đi khắp Si-ôn, đi vòng quanh thành,Đếm các ngọn tháp nó. Hãy chú ý đến các chỗ kiên cố,Xem xét các thành lũy,Để thuật lại cho thế hệ tương lai Rằng: Ngài là Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời của chúng ta.Chính Ngài sẽ hướng dẫn chúng ta mãi mãi. Hỡi các dân, hãy nghe điều này,Hỡi toàn thể dân cư trên thế giới, hãy lắng tai nghe. Cả người bình dân hay quyền thế. Cả người giầu sang lẫn nghèo hèn. Miệng tôi sẽ nói những lời khôn ngoan.Sự suy tư trong lòng tôi là những điều thông sáng. Tôi sẽ lắng tai nghe lời châm ngôn,Tôi sẽ giải câu đố với đàn hạc phụ họa. Tại sao tôi phải sợ trong ngày tai họa?Khi kẻ thù gian ác bao vây tôi? Là những kẻ tin cậy nơi tiền của mình,Khoe khoang về giầu sang dư dật của họ. Không ai có thể chuộc mạng cho anh em mình,Cũng không thể đóng tiền chuộc nơi Đức Chúa Trời cho người. Vì giá cứu chuộc mạng sống họ quá mắc,Người sẽ chẳng bao giờ trả nổi, Để được sự sống đời đời,Không phải thấy vực sâu. Vì người thấy kẻ khôn ngoan chết,Người khờ dại cùng kẻ ngu ngốc cũng bị diệt vong,Để lại tiền của cho kẻ khác. Chúng thầm nghĩ rằng: nhà mình sẽ còn mãi mãi.Chỗ ở mình sẽ tồn tại từ đời nọ sang đời kia.Chúng lấy tên mình đặt tên cho ruộng đất mình. Loài người dù giầu sang cũng không còn mãi.Nó giống như loài thú phải diệt vong. Đây là con đường của những kẻ tin vào ngu dại,Cùng những kẻ theo sau cũng tin môi miệng chúng.Sê-la. Chúng nó như đàn chiên bị định xuống Âm Phủ,Sự chết sẽ chăn giữ chúng nó.Ban mai người ngay thẳng sẽ cai trị chúng nó.Hình thể chúng nó sẽ bị tiêu diệt nơi Âm Phủ,Xa cách nơi mình ở. Nhưng Đức Chúa Trời sẽ chuộc linh hồn tôi, cứu tôi khỏi móng vuốt Âm Phủ.Vì Ngài sẽ tiếp nhận tôi.Sê-la Đừng sợ khi một người trở nên giầu có,Hoặc khi nhà người ấy sang trọng hơn. Vì khi chết người không mang được gì cả,Sự sang trọng cũng không xuống Âm Phủ theo người. Dù khi còn sống người được kể là hạnh phúc.Và người ta ca ngợi vì sự thành công của người. Người sẽ trở về thế hệ tổ tiên mình,Họ sẽ không bao giờ thấy ánh sáng nữa. Loài người dù giầu sang nhưng không hiểu biết,Nó giống như loài thú phải diệt vong. Đấng Quyền Năng, Đức Chúa Trời, là CHÚA phán:Ngài triệu tập khắp cả trái đất,Từ đông sang tây. Từ Si-ôn tốt đẹp, tuyệt mỹ,Đức Chúa Trời đã chiếu sáng ra. Đức Chúa Trời của chúng ta đến, Ngài không im lặng.Trước mặt Ngài là đám lửa thiêu đốt,Xung quanh Ngài có bão tố dữ dội. Ngài triệu tập các tầng trời trên caoLẫn đất thấp để phán xét dân Ngài. Hãy tụ họp dân thánh lại cùng ta,Là những người đã lập giao ước với ta bằng tế lễ. Các tầng trời tuyên bố sự công chính Ngài.Vì chính Đức Chúa Trời là đấng phán xét.Sê-la Hỡi dân ta, hãy nghe, ta sẽ phán:Hỡi Y-sơ-ra-ên, Ta sẽ làm chứng nghịch ngươi.Chính Ta là Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời ngươi. Ta không trách ngươi vì các tế lễ,Hoặc tế lễ thiêu ngươi vẫn dâng trước mặt ta. Ta không cần bò đực nơi nhà ngươi,Hay dê đực trong bầy ngươi. Vì tất cả thú rừng đều là của ta.Súc vật trên ngàn đồi cũng vậy. Ta biết mọi loài chim trên núi,Những sinh vật ngoài đồng đều thuộc về ta. Nếu ta đói, ta đã không nói cho ngươi biết sao?Vì thế giới và mọi vật trong đó đều thuộc về ta. Ta có ăn thịt bò đựcHay uống máu dê không? Hãy dâng tế lễ cho Đức Chúa Trời bằng lời cảm tạ,Hãy hoàn tất lời khấn nguyện cho Đấng Chí Cao. Trong ngày gian truân, hãy kêu cầu Ta.Ta sẽ giải cứu ngươi và ngươi sẽ tôn vinh Ta. Nhưng đối với kẻ ác,Đức Chúa Trời phán: Tại sao ngươi đọc lên luật lệ Ta?Vì sao ngươi nhận giao ước Ta bằng môi miệng? Vì người ghét sự rèn luyện,Gạt bỏ sau lưng lời dạy dỗ Ta. Khi ngươi thấy kẻ trộm thì thỏa thuận với nó.Ngươi đồng lõa với những kẻ ngoại tình. Miệng ngươi nói ra những điều ác,Lưỡi ngươi thêu dệt điều lừa dối. Ngươi ngồi nói xấu anh em mình,Chê trách con trai của mẹ ngươi. Ngươi đã làm những điều này nhưng Ta im lặng.Ngươi tưởng Ta giống như ngươi,Nhưng Ta sẽ quở trách ngươi,Buộc tội ngươi ngay trước mặt ngươi. Vậy, hỡi những kẻ quên Đức Chúa Trời, hãy suy xét điều đó.Kẻo Ta sẽ xé nát ngươi và không ai giải cứu. Người nào dâng tế lễ bằng lời cảm tạ tôn vinh Ta.Ai theo đường lối Ta,Ta sẽ chỉ cho thấy sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Lạy Đức Chúa Trời, xin thương xót tôiTùy theo tình yêu thương Chúa.Vì lòng thương xót dư dật của Ngài,Xin xóa bỏ các vi phạm tôi. Xin rửa sạch mọi gian ác tôi,Và luyện sạch các tội lỗi tôi. Vì tôi nhận biết các vi phạm tôi,Tội lỗi tôi hằng ở trước mặt tôi. Tôi đã phạm tội cùng Ngài, chỉ một mình Ngài thôi.Tôi đã làm điều ác trước mặt Ngài,Cho nên Ngài là công bình khi tuyên án,Ngài là chính đáng khi phán xét. Thật vậy, tôi vốn gian ác từ khi sinh ra, Tôi vốn tội lỗi từ khi được hoài thai trong bụng mẹ. Nầy, Ngài muốn sự chân thật nơi bề trong cũng như nơi sâu kín của lòng tôi.Xin Ngài dạy tôi sự khôn ngoan. Xin Ngài dùng nhánh bài hương tẩy sạch tôi, thì tôi sẽ tinh sạch.Xin Ngài rửa tôi thì tôi sẽ trắng hơn tuyết. Xin cho tôi nghe tiếng vui vẻ và mừng rỡ,Nguyện xương cốt mà Ngài đã đánh gẫy được vui mừng. Xin Ngài ngoảnh mặt đừng để ý đến các tội lỗi tôi,Và xóa bỏ mọi gian ác tôi. Đức Chúa Trời ôi, xin tạo nên trong tôi một tấm lòng trong sạchVà làm mới lại trong tôi một tâm linh chân chính. Xin chớ xua đuổi tôi khỏi trước mặt Ngài,Cũng đừng cất thánh linh Ngài khỏi tôi. Xin phục hồi cho tôi niềm vui của sự cứu rỗi Ngài.Xin ban cho tôi một tinh thần sẳn sàng để giữ vững tôi. Tôi sẽ dạy các đường lối Ngài cho những kẻ vi phạm,Và những kẻ tội lỗi sẽ quay về cùng Ngài. Lạy Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời cứu rỗi tôi,Xin giải cứu tôi khỏi tội đổ huyếtThì lưỡi tôi sẽ lớn tiếng ca ngợi sự công chính Ngài. Lạy Chúa, xin mở môi tôi,Thì miệng tôi sẽ ca ngợi Ngài. Vì Ngài không vui lòng về tế lễ hy sinh,Bằng không tôi đã dâng. Tế lễ thiêu Ngài cũng không thích. Tế lễ hy sinh đẹp lòng Đức Chúa Trời là tâm thần tan vỡ.Đức Chúa Trời ôi, tấm lòng ăn năn tan vỡNgài không khinh bỉ đâu. Theo lòng nhân từ Ngài, xin ban phúc lành cho Si-ôn.Xin xây dựng các tường thành Giê-ru-sa-lem. Bấy giờ, Ngài sẽ vui lòng về các tế lễ công chính,Tế lễ thiêu và tế lễ toàn thiêu.Bấy giờ, bò đực sẽ được dâng trên bàn thờ Ngài. Hỡi người mạnh bạo,Tại sao ngươi khoe khoang về điều ác?Tình yêu thương của Đức Chúa Trời tồn tại mãi mãi. Ngươi mưu toan hủy diệt,Lưỡi ngươi như dao cạo bénNói điều lừa dối. Ngươi chuộng điều ác hơn điều thiện,Thích gian dối hơn lời ngay thẳng.Sê-la Hỡi lưỡi lừa dối,Ngươi thích tất cả những lời độc hại. Cho nên, Đức Chúa Trời sẽ phá hủy ngươi hoàn toàn. Ngài sẽ bắt ngươi, kéo ngươi ra khỏi trạiVà nhổ ngươi khỏi đất người sống.Sê-la Nhưng những người công chính sẽ thấy và sợ.Họ sẽ cười ngươi rằng: Kìa, là người không cậy Đức Chúa TrờiLàm thành lũy mình,Nhưng tin cậy nơi sự giầu có dư dật của mình,Trở nên mạnh mẽ trong sự gian ác mình. Nhưng tôi thì giống như cây ô-liuXanh tươi trong nhà Đức Chúa Trời.Tôi hằng tin cậy nơi tình yêu thương của Đức Chúa TrờiĐến đời đời. Tôi ca ngợi Ngài đời đời vì những điều Ngài đã làm.Tôi sẽ trông cậy nơi danh Ngài trước mặt những người trung tín của NgàiVì danh ấy là tốt lành. Kẻ ngu dại nói trong lòng rằngKhông có Đức Chúa Trời.Chúng nó đều tồi bại và làm những điều gian ác ghê tởm.Không có ai làm điều thiện. Đức Chúa Trời từ trên trờiNhìn xuống loài người,Để xem thử có ai khôn ngoan,Tìm kiếm Đức Chúa Trời không? Chúng nó hết thảy đều lui trở lại,Đều suy đồi như nhau.Không có ai làm điều thiện,Dù một người cũng không. Phải chăng những kẻ làm ác thiếu hiểu biết?Chúng ăn nuốt dân ta như ăn bánh,Cũng chẳng cầu khẩn Đức Chúa Trời. Kìa, chúng nó bị kinh hoàng lớnDù không có gì đáng kinh hoàng.Vì Đức Chúa Trời vung vãi xương cốt những kẻ dàn quân tấn công ngươi.Ngươi sẽ làm cho chúng hổ thẹn vì Đức Chúa Trời đã từ bỏ chúng nó. Ôi, ước gì sự giải cứu Y-sơ-ra-ên từ Si-ôn đã đến.Khi Đức Chúa Trời phục hồi cơ đồ cho dân Ngài,Thì Gia-cốp sẽ hân hoan, Y-sơ-ra-ên sẽ mừng rỡ. Lạy Đức Chúa Trời, nhờ danh Ngài, xin giải cứu tôi,Xin dùng năng lực Ngài minh oan cho tôi. Lạy Đức Chúa Trời, xin nghe lời cầu nguyện tôi,Xin lắng tai nghe tiếng nói của miệng tôi. Vì những kẻ xa lạ nổi lên chống tôi,Những người tàn ác tìm hại mạng sống tôi.Chúng không để Đức Chúa Trời trước mặt mình. Kìa, Đức Chúa Trời là Đấng giúp đỡ tôi,Chúa là Đấng gìn giữ linh hồn tôi. Ngài sẽ lấy ác báo trả các kẻ thù tôi,Vì sự thành tín của Ngài, xin hãy hủy diệt chúng nó. Lạy CHÚA, tôi sẽ dâng cho Ngài tế lễ tự nguyện,Tôi sẽ ca ngợi danh NgàiVì danh ấy là tốt lành. Vì Ngài giải cứu tôi khỏi mọi gian nguyVà mắt tôi nhìn đắc thắng trên các kẻ thù tôi. Đức Chúa Trời ôi, xin lắng tai nghe lời cầu nguyện tôi,Xin chớ lánh mặt không nghe lời cầu khẩn của tôi. Xin hãy chú ý và đáp lời tôi.Tôi bồn chồn trong lo âu và bối rối. Vì tiếng la hét của kẻ thù,Vì sự áp bức của kẻ ác,Bởi vì chúng thêm khốn khổ cho tôi, làm tôi lảo đảo.Chúng căm giận nuôi dưỡng hận thù nghịch tôi. Tôi đau đớn trong lòng mình,Mối kinh hãi vì chết chóc giáng xuống trên tôi. Tôi sợ sệt và run rẩy,Nỗi kinh khiếp tràn ngập. Tôi tự nhủ: ôi, ước gì tôi có cánh như chim bồ câu,Tôi sẽ bay đi xa và ở yên ổn. Này, tôi sẽ trốn đi xaVà ở trong sa mạc.Sê-la Tôi vội vàng tìm nơi ẩn núpTránh cơn cuồng phong bão tố. Lạy Chúa, xin hãy làm rối loạn, làm lẫn lộn tiếng nói chúng nó.Vì tôi thấy bạo lực và xung đột trong thành. Ngày đêm chúng đi vòng quanh trên tường thành,Sự độc ác và xấu xa ở trong thành. Sự hủy hoại ở trong đó,Áp bức và lừa gạt không lìa khỏi phố chợ. Vì không phải kẻ thù là người chế giễu tôi,Nếu thế, tôi sẽ chịu đựng nổi.Cũng không phải kẻ ghét tôi tự tôn nghịch tôi,Nếu thế, tôi sẽ lẩn tránh nó. Nhưng chính ngươi, là người bình đẳng với tôi,Là bạn bè, thân hữu của tôi. Chúng tôi thường trò chuyện thân mật với nhau,Cùng đi với đoàn người trong nhà Đức Chúa Trời. Nguyện sự chết thình lình giáng trên chúng.Nguyện chúng phải xuống Âm Phủ khi còn sống.Vì điều ác ở trong nhà, ở trong lòng chúng nó. Còn tôi, tôi kêu cầu Đức Chúa TrờiVà CHÚA giải cứu tôi. Buổi sáng, trưa và chiềuTôi than thở và rên xiết;Ngài sẽ nghe tiếng tôi. Ngài giải cứu linh hồn tôi an toàn ra khỏi chiến trận;Vì nhiều người chiến đấu chống nghịch tôi. Đức Chúa Trời là Đấng hằng ngự trị từ ngàn xưa,Ngài sẽ nghe và báo trả chúng nó.Là những kẻ không thay đổi đường lối mìnhVà không kính sợ Đức Chúa Trời.Sê-la Kẻ ấy giơ tay hại người sống hòa bình với mìnhVà bội lời cam kết. Môi miệng nó trơn hơn mỡNhưng lòng thì gây chiến tranh.Lời nói nó dịu hơn dầuNhưng thật như lưỡi gươm tuốt trần. Hãy trao gánh nặng mình cho CHÚA,Chính Ngài sẽ nâng đỡ ngươi.Ngài sẽ không bao giờ để người công chính bị rúng động. Nhưng lạy Đức Chúa Trời,Ngài sẽ ném kẻ khát máu và gian hùng xuống huyệt sâu.Chúng sẽ không sống được nửa đời người.Còn tôi, tôi sẽ tin cậy nơi Ngài. Lạy Đức Chúa Trời, xin thương xót tôi. Vì người ta chà đạp tôi,Hằng ngày kẻ thù áp bức tôi. Hằng ngày kẻ thù chà đạp tôi,Vì nhiều người kiêu căng chiến đấu chống tôi. Trong ngày sợ hãi,Tôi sẽ tin cậy Ngài. Nhờ Đức Chúa Trời tôi sẽ ca ngợi Ngài.Tôi sẽ tin cậy nơi Đức Chúa Trời và không sợ hãi,Người phàm sẽ làm chi tôi? Hằng ngày chúng xuyên tạc các lời tôi nói.Tư tưởng gian ác của chúng toan hại tôi. Chúng âm mưu phục kích, Chúng theo dõi các bước chân tôi,Chờ hại mạng sống tôi. Gian ác như thế mà chúng sẽ thoát khỏi sao?Lạy Đức Chúa Trời, trong cơn thịnh nộ Ngài, hãy đánh đổ các dân. Ngài ghi chép các đoạn đường đi lại của tôi.Xin Ngài đựng nước mắt tôi trong bình của Chúa.Nước mắt tôi không được ghi trong sách Ngài sao? Ngày nào tôi cầu khẩn thì các kẻ thù tôi sẽ tháo lui,Vì tôi biết điều này:Đức Chúa Trời ở cùng tôi. Nhờ Đức Chúa Trời, tôi sẽ ca ngợi lời Ngài,Nhờ CHÚA, tôi sẽ ca ngợi lời Ngài. Tôi sẽ tin cậy nơi Đức Chúa Trời và không sợ hãi.Loài người sẽ làm chi tôi? Lạy Đức Chúa Trời, tôi vẫn giữ lời khấn nguyện cùng Ngài.Tôi sẽ dâng tế lễ tạ ơn Ngài. Vì Ngài đã giải cứu linh hồn tôi khỏi chết,Không để chân tôi vấp ngã.Tôi sẽ bước đi trước sự hiện diện của Đức Chúa TrờiTrong ánh sáng của sự sống. Lạy Đức Chúa Trời, xin thương xót tôi, xin thương xót tôi,Vì linh hồn tôi trú ẩn nơi Ngài.Tôi sẽ trú ẩn dưới bóng cánh NgàiCho đến khi cơn hủy diệt đã qua. Tôi sẽ cầu khẩn Đức Chúa Trời Chí Cao,Là Đức Chúa Trời sẽ hoàn thành cho tôi. Từ trời Ngài sẽ ban ơn cứu rỗi tôi;Ngài quở trách kẻ chà đạp tôi.Sê-laĐức Chúa Trời sẽ ban tình yêu thương và sự thành tín Ngài. Linh Hồn tôi ở giữa những sư tử,Tôi nằm giữa loài thú ăn thịt người.Răng chúng nó như giáo và tên,Lưỡi chúng nó như gươm sắc bén. Lạy Đức Chúa Trời, nguyện Ngài được tôn cao hơn các tầng trời,Nguyện vinh quang Ngài tỏa khắp trái đất. Chúng nó gài lưới cho chân tôi,Linh hồn tôi nao sờn.Chúng đào hố trước mặt tôiNhưng chính chúng nó lại sa xuống đó.Sê-la Lạy Đức Chúa Trời, lòng tôi kiên định,Lòng tôi kiên định.Tôi sẽ hát và ca ngợi Ngài. Hỡi vinh quang Ta, hãy tỉnh thức,Hỡi đàn hạc, đàn lia hãy tỉnh thức,Ta sẽ đánh thức hừng đông dậy. Lạy Chúa, tôi sẽ cảm tạ Ngài trong các dân,Tôi sẽ ca ngợi Ngài giữa các nước. Vì tình yêu thương Ngài lớn hơn các tầng trời,Sự thành tín Ngài cao vút tận các tầng mây. Lạy Đức Chúa Trời, nguyện Ngài được tôn cao hơn các tầng trời,Nguyện vinh quang Ngài tỏa khắp trái đất. Hỡi các lãnh chúa quyền thế, khi im lặng các người thật sự nói công bình sao?Các ngươi có phán xét loài người một cách ngay thẳng không? Không, các người phạm các điều ác trong lòng,Tay các người thi hành bạo lực trên đất. Kẻ ác lầm lạc từ trong lòng mẹ,Chúng sai quấy, nói dối từ lúc mới sanh. Nọc độc chúng nó như nọc độc loài rắn,Chúng như rắn hổ mang bị điếc, bị bịt tai lại, Không nghe tiếng người dụ rắnHay lời thần chú của thầy bùa cao tay. Lạy Đức Chúa Trời, xin đập bể răng trong miệng chúng nó,Lạy CHÚA, xin bẻ gẫy nanh sư tử tơ. Nguyện chúng nó bị đùa đi như nước chảy,Khi nó nạp tên nhắm bắn thì tên bị chặt đứt. Nguyện chúng nó như con ốc sên tiêu tan khi bò đi,Như thai của người đàn bà bị sẩy, không hề thấy mặt trời. Trước khi nơi các ngươi nhận thấy gai góc,Nguyện Ngài quét sạch chúng nó đi, dù còn xanh hay cháy. Người công chính sẽ vui mừng khi thấy sự báo thù,Người sẽ rửa chân mình trong máu kẻ ác. Người ta sẽ nói rằng:Chắc hẳn người công chính sẽ được thưởng,Chắc hẳn là có Đức Chúa Trời, Đấng phán xét trên đất. Lạy Đức Chúa Trời tôi, xin giải cứu tôi khỏi các kẻ thù tôi,Xin bảo vệ tôi khỏi những kẻ nổi dậy chống tôi. Xin giải cứu tôi khỏi các kẻ làm ác,Xin cứu tôi khỏi những kẻ làm đổ máu. Vì kìa, lạy CHÚA chúng rình hại mạng sống tôi,Những kẻ hung dữ họp lại chống tôi,Không phải vì sự vi phạm hay tội lỗi tôi. Tôi cũng không có tội ác gì, nhưng chúng xông đến định tấn công tôi.Xin hãy xem, xin Ngài thức dậy để giúp đỡ tôi. Chính Ngài là CHÚA, là Đức Chúa Trời Vạn Quân, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.Xin hãy thức dậy và trừng phạt hết thảy các nước,Xin chớ thương xót kẻ nào phản bội làm điều gian ác.Sê-la Tối đến, chúng trở lại,Tru như chóVà đi rình mò quanh thành. Kìa, miệng chúng nó buông lời rủa sả,Môi như những thanh gươm.Vì chúng nghĩ rằng: có ai sẽ nghe đâu? Nhưng lạy CHÚA, chính Ngài sẽ cười chúng nó,Sẽ chế nhạo tất cả. Hỡi sức lực của tôi, các nước trông nơi Ngài,Vì Đức Chúa Trời là thành lũy của tôi. Đức Chúa Trời yêu thương của tôi sẽ đến giúp tôi,Đức Chúa Trời sẽ cho tôi nhìn đắc thắng trên các kẻ thù tôi. Xin đừng giết chúng nó,E dân tộc tôi quên đi chăng,Nhưng lạy Chúa, là thuẫn đỡ cho chúng tôi,Bởi quyền năng Ngài, xin làm tản lạc và đánh bại chúng nó. Vì tội lỗi từ miệng chúng nó,Lời từ môi chúng nóVà vì lời nguyền rủa và láo khoét chúng nói ra,Nguyện chúng bị mắc bẫy trong sự kiêu căng của chúng. Xin tiêu diệt chúng nó bằng sự thịnh nộ Ngài,Xin hoàn toàn tiêu diệt chúng nó.Để người ta biết rằng lời Đức Chúa Trời cai trị nơi Gia-cốpCho đến tận cùng trái đất.Sê-la Tối đến, chúng trở lại,Tru như chóVà đi rình mò quanh thành. Chúng đi lang thang kiếm ăn,Nếu không no chúng sẽ ở lại thâu đêm. Còn tôi, tôi sẽ hát về sức lực Ngài,Và mỗi sáng tôi sẽ ca ngợi tình yêu thương Ngài,Vì Ngài là thành lũy của tôi,Và nơi tôi trú ẩn trong lúc gian truân. Hỡi sức lực của tôi, tôi ca ngợi Ngài,Vì Đức Chúa Trời là thành lũy của tôi, là Đức Chúa Trời yêu thương tôi. Đức Chúa Trời ôi, Ngài đã từ bỏ chúng tôi, Ngài đã phá vỡ chúng tôi.Ngài đã nổi giận, xin trở lại cùng chúng tôi. Ngài đã làm đất lay chuyển và nứt ra,Xin sửa lại những nơi đổ vỡ vì nó bị rung chuyển. Ngài đã làm dân Ngài thấy sự lầm than,Ngài khiến chúng tôi uống rượu nên bị choáng váng. Ngài đã ban cho những người kính sợ Ngài cờ hiệu,Để họ trương lên vì chân lý. Để giải cứu những người yêu dấu của Ngài.Xin lấy tay phải Ngài cứu rỗi chúng tôi và đáp lời chúng tôi. Từ nơi thánh của Ngài, Đức Chúa Trời phán:Ta sẽ hân hoan chia cắt Si-chemVà phân phối thung lũng Su-cốt. Ga-la-át thuộc về Ta, Ma-na-se cũng vậy,Ép-ra-im là mũ bảo vệ đầu Ta,Giu-đa là gậy uy quyền của Ta. Mô-áp là bồn tắm rửa của Ta,Ta sẽ cởi dép ra trên Ê-đôm.Ta sẽ reo hò chiến thắng trên Phi-li-tin. Ai sẽ đưa tôi vào thành kiên cố?Ai sẽ dẫn tôi đến Ê-đôm? Lạy Đức Chúa Trời, không phải Ngài là Đấng đã từ bỏ chúng tôi sao?Hỡi Đức Chúa Trời, sao Ngài không còn xông pha cùng quân đội chúng tôi nữa? Xin giúp chúng tôi chống lại kẻ thù.Vì sự cứu giúp của người phàm là vô ích. Nhờ Đức Chúa Trời, chúng tôi sẽ hành động dũng cảm,Vì Ngài sẽ chà đạp các kẻ thù chúng tôi. Lạy Đức Chúa Trời, xin nghe tiếng kêu van của tôi,Xin lắng nghe lời cầu nguyện của tôi. Từ nơi tận cùng quả đấtTôi sẽ kêu cầu Ngài khi tôi ngã lòng.Xin dẫn tôi đến núi đá cao hơn tôi. Vì Ngài là nơi trú ẩn cho tôi,Là ngọn tháp kiên cố chống lại kẻ thù. Xin cho tôi ở trong trại Ngài mãi mãi,Và trú ẩn an toàn dưới cánh Ngài.Sê-la Lạy Đức Chúa Trời, vì Ngài đã nghe lời hứa nguyện của tôi.Ngài đã ban cho tôi sản nghiệp của những người kính sợ danh Ngài. Xin gia tăng tuổi thọ cho vua,Thêm các năm người đến nhiều đời. Nguyện người cai trị đời đời trước mặt Đức Chúa Trời.Xin Ngài truyền tình yêu thương và chân lý gìn giữ người. Như vậy, tôi sẽ ca ngợi danh Ngài mãi mãi,Và hằng ngày làm trọn lời hứa nguyện tôi. Linh hồn tôi được an bình nơi một mình Đức Chúa Trời;Sự cứu rỗi tôi đến từ Ngài. Chỉ một mình Ngài là vầng đá,Là sự cứu rỗi và thành lũy của tôi,Tôi sẽ không bị lay chuyển nhiều. Các ngươi tấn công một người cho đến bao giờ?Tất cả các ngươi định sát hại ngườiNhư bức tường nghiêng, như hàng rào sắp ngã sao? Thật vậy, chúng chỉ bàn mưu phá đổ địa vị cao của người,Chúng thích giả dối;Miệng thì chúc phúc nhưng lòng lại nguyền rủa.Sê-la Linh hồn tôi được an bình nơi một mình Đức Chúa Trời,Vì tôi hy vọng nơi Ngài. Chỉ một mình Ngài là núi đá,Là sự cứu rỗi và thành lũy của tôi, tôi sẽ không bị lay chuyển. Sự cứu rỗi và vinh hiển của tôi ở nơi Đức Chúa Trời;Núi đá uy lực và nơi trú ẩn của tôi đều ở nơi Đức Chúa Trời. Hỡi dân ta, hãy luôn luôn tin cậy nơi Ngài.Hãy dốc đổ lòng mình ra trước mặt Ngài.Đức Chúa Trời là nơi trú ẩn của chúng ta.Sê-la Thật vậy, kẻ hạ lưu chỉ như hơi thở,Người thượng lưu chỉ là ảo tưởng. Đặt trên cân, chúng nhẹ bổng,Tất cả chúng nó đều nhẹ hơn hơi thở. Chớ tin cậy vào bạo lực,Cũng đừng hy vọng hão huyền nơi trộm cướp,Dù sự giầu có gia tăng,Đừng để lòng vào đó. Đức Chúa Trời có phán một lần,Tôi đã nghe điều này hai lần,Rằng: Quyền năng thuộc về Đức Chúa Trời Và lạy Chúa, tình yêu thương thuộc về Chúa.Vì chính Ngài sẽ báo trả cho mỗi ngườiTùy việc họ làm. Lạy Đức Chúa Trời, chính Ngài là Đức Chúa Trời của tôi,Tôi tha thiết tìm kiếm Ngài.Linh hồn tôi khát khao Chúa,Thể xác tôi mong ước NgàiNhư mảnh đất khô khan,Nứt nẻ, không có nước. Như tôi đã thấy Ngài trong nơi thánh,Để chiêm ngưỡng quyền năng và vinh quang Ngài. Vì tình yêu thương của Ngài quý hơn mạng sống,Môi tôi sẽ ca ngợi Ngài. Như vậy, tôi sẽ ca tụng Ngài trọn đời,Tôi sẽ nhân danh Ngài đưa tay lên cầu khẩn. Linh hồn tôi được thết tiệc như ăn vật béo bổ,Môi miệng tôi sẽ hân hoan ca ngợi Ngài. Khi nằm trên giường, tôi nhớ đến Ngài,Tôi suy gẫm về Ngài suốt canh khuya. Vì Ngài đã giúp đỡ tôi,Nên dưới bóng cánh Ngài tôi sẽ ca hát vui vẻ. Linh hồn tôi bám chặt lấy Ngài,Tay phải Ngài nâng đỡ tôi. Nhưng những kẻ tìm hại mạng sống tôi,Sẽ sa xuống vực sâu dưới đất. Chúng sẽ bị phó cho gươm giáo,Làm mồi cho chồn sói. Nhưng vua sẽ vui mừng trong Đức Chúa Trời.Tất cả những người nhân danh Ngài mà hứa nguyện sẽ tôn vinh Ngài.Vì Ngài sẽ làm câm miệng những kẻ nói dối. Lạy Đức Chúa Trời, xin nghe tiếng tôi than thở,Xin bảo vệ tôi khỏi khiếp sợ kẻ thù. Xin Ngài giấu tôi khỏi âm mưu của kẻ ác,Khỏi đám đông làm điều dữ. Chúng mài lưỡi mình như gươm,Nhắm bắn mũi tên, tức là lời độc ác. Từ nơi ẩn núp, chúng bắn người vô tội,Chúng bắn thình lình và không sợ hãi gì. Chúng khuyến khích nhau trong mưu ác mình,Bàn tính để gài bẫy bí mật,Chúng tự nghĩ ai sẽ thấy chúng ta? Chúng tìm kiếm mưu ác, và nghĩ:Chúng ta đã lập xong mưu hay.Tâm trí và lòng dạ con người thật nham hiểm. Nhưng Đức Chúa Trời sẽ bắn tên vào chúng nó,Thình lình chúng nó bị thương. Ngài sẽ hủy diệt chúng vì lưỡi chúng nó nghịch lại chúng nó.Tất cả những ai thấy chúng đều lắc đầu. Và tất cả mọi người đều sẽ sợ,Chúng sẽ rao truyền các công việc của Đức Chúa TrờiVà suy nghĩ về điều Ngài đã làm. Người công chính sẽ vui mừng trong CHÚAVà trú ẩn nơi Ngài.Tất cả những người có lòng ngay thẳng sẽ ca ngợi Ngài. Lạy Đức Chúa Trời tại Si-ôn,Thật đáng ca ngợi Ngài và giữ trọn lời hứa nguyện với Ngài. Lạy Đấng nghe lời cầu nguyện,Cả nhân loại sẽ đến cùng Ngài. Về vấn đề gian ác, các sự vi phạm đã thắng hơn tôi,Nhưng Ngài tha thứ cho. Phước cho người Ngài đã chọnVà khiến đến gần để ở nơi hành lang Ngài.Chúng tôi sẽ thỏa nguyện với phúc lành của nhà Ngài,Tức là đền thánh Ngài. Lạy Đức Chúa Trời cứu rỗi của chúng tôi,Ngài sẽ đáp lời chúng tôi bằng sự công chính qua những việc diệu kỳ.Ngài là sự tin cậy của mọi người ở tận cùng trái đấtCũng như ở vùng biển cả xa xăm. Ngài dùng quyền năng thiết lập núi non,Vì Ngài nai nịt bằng sức mạnh. Ngài dẹp yên biển động,Sóng gió ầm ầmCùng các dân xáo động. Những người ở nơi xa xôi cùng tận trái đất thấy dấu lạ của Ngài đều sợ hãi.Ngài làm rạng đông và hoàng hôn cho những vùng ở chân trời, góc bểĐều reo hò vui vẻ. Ngài chăm sóc đất,Làm cho đất mầu mỡ và rất phì nhiêu.Dòng suối Đức Chúa Trời đầy nước,Ngài cung cấp thóc lúa.Ngài chuẩn bị đất bằng cách: Tưới nước các luống cầy,Ban bằng những mô đất.Ngài ban mưa rào thấm nhuần đất đai,Chúc lành cho hoa quả lớn lên. Ngài đội mão triều phúc lành cho năm,Các lối Ngài đi qua đượm nhuần mầu mỡ. Các đồng cỏ nơi sa mạc được xanh tươi,Và các đồi núi đầy dẫy sự vui mừng. Các bầy chiên tràn ngập đồng cỏ,Thóc lúa bao phủ các thung lũng,Chúng cùng nhau reo hò, ca hát. Hỡi cả trái đất, hãy hân hoan reo hò cho Đức Chúa Trời. Hãy ca ngợi sự vinh quang của danh Ngài,Hãy hát lên lời ca ngợi tôn vinh Ngài. Hãy thưa cùng Đức Chúa Trời rằng: công việc của Ngài thật đáng sợ thay.Vì quyền năng vĩ đại của Ngài,Các kẻ thù đều quy phục Ngài. Cả trái đất thờ phượng Ngài,Ca ngợi Ngài;Họ ca ngợi danh Ngài.Sê-la Hãy đến, xem các công việc của Đức Chúa Trời,Công việc của Ngài giữa loài người thật đáng sợ thay. Ngài biến biển thành đất khô,Người ta đi bộ vượt qua sông.Vì thế, hãy vui mừng trong Ngài. Ngài cai trị đời đời bằng quyền năng mình,Mắt Ngài xem xét các nước.Hỡi những kẻ phản nghịch, chớ tự cao.Sê-la Hỡi các dân, hãy chúc tụng Đức Chúa Trời chúng ta,Hãy làm cho tiếng ca ngợi Ngài vang dội. Ngài đã bảo tồn mạng sống chúng ta,Không để chân chúng ta trượt ngã. Vì, lạy Đức Chúa Trời, Ngài đã thử chúng tôi,Ngài đã luyện chúng tôi như luyện bạc. Ngài đã đem chúng tôi vào bẫy lưới,Chất gánh nặng trên lưng chúng tôi. Ngài để người ta cỡi trên đầu chúng tôi,Chúng tôi phải băng qua lửa, qua nước.Nhưng Ngài đã đem chúng tôi đến chỗ thịnh vượng. Tôi sẽ đem tế lễ thiêu vào nhà Ngài,Giữ trọn lời hứa nguyện tôi với Ngài. Lời hứa nguyện môi tôi đã hứa và mừng,Miệng tôi đã nói lúc gian nguy. Tôi sẽ dâng con sinh tế mập làm tế lễ thiêuCùng với tế lễ thiêu chiên đực có mùi thơm lên Ngài.Tôi sẽ dâng tế lễ những bò đực và dê đực.Sê-la Hỡi tất cả những người kính sợ Đức Chúa Trời,Hãy đến và nghe.Tôi sẽ thuật điều Ngài đã làm cho linh hồn tôi. Miệng tôi kêu cầu NgàiVà lưỡi tôi tôn cao Ngài. Nếu tôi giữ điều ác trong lòng,Ắt Chúa đã chẳng nghe tôi. Thật vậy, Đức Chúa Trời đã nghe,Ngài đã lắng nghe lời cầu nguyện của tôi. Chúc tụng Đức Chúa Trời,Vì Ngài không khước từ lời cầu nguyện của tôi,Cũng không từ bỏ tình yêu thương Ngài đối với tôi. Lạy Đức Chúa Trời, xin thương xót chúng tôi,Xin ban phước cho chúng tôi và soi sáng mặt Ngài trên chúng tôi.Sê-la Để đường lối Ngài được thông biết trên đất,Và sự cứu rỗi Ngài được thông hiểu trên khắp các quốc gia. Lạy Đức Chúa Trời, nguyện các dân ca ngợi Ngài,Nguyện muôn dân ca ngợi Ngài. Hỡi các nước, hãy vui mừng và ca hát,Vì Ngài phán xét công bình các dânVà hướng dẫn các nước trên đất. Lạy Đức Chúa Trời, nguyện các dân ca ngợi Ngài,Nguyện muôn dân ca ngợi Ngài. Nguyện đất sinh sản hoa mầu,Nguyện Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời chúng tôi ban phước cho chúng tôi. Lạy Đức Chúa Trời, xin ban phước cho chúng tôi,Nguyện các dân trên khắp trái đất hãy kính sợ Ngài. Lạy Đức Chúa Trời, xin hãy đứng dậy, khiến kẻ thù Ngài chạy tan tác,Đuổi những kẻ ghét Ngài trốn khỏi trước mặt Ngài. Như khói tan đi thể nào,Xin Ngài đánh tan chúng nó thể ấy,Như sáp tan chảy trong lửa thể nào,Những kẻ ác cũng sẽ bị hủy diệt trước mặt Đức Chúa Trời thể ấy. Nhưng người công chính sẽ vui mừng,Hân hoan trước mặt Đức Chúa Trời.Họ sẽ vô cùng vui mừng. Hãy hát mừng Đức Chúa Trời, hãy ca ngợi danh Ngài.Hãy cất tiếng hát cho Đấng cưỡi trên các tầng mây.Danh Ngài là CHÚA,Hãy vui mừng trước mặt Ngài. Đức Chúa Trời ở trong nơi thánh, Ngài là cha của những trẻ mồ côiVà là Đấng bảo vệ những người góa bụa. Đức Chúa Trời làm cho kẻ cô đơn có gia đình để ở,Dẫn kẻ bị cầm tù ra chỗ thịnh vượng.Nhưng những kẻ phản nghịch phải ở nơi đồng hoang cỏ cháy. Lạy Đức Chúa Trời, khi Ngài đi ra trước dân Ngài,Khi Ngài đi băng qua sa mạc,Sê-la Thì đất rung chuyển,Các tầng trời đổ mưa xuống trước mặt Đức Chúa Trời,Núi Si-nai rúng động, trước mặt Đức Chúa Trời,Là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Lạy Đức Chúa Trời, Ngài ban mưa dồi dào,Ngài phục hồi sản nghiệp Ngài khi đã điêu tàn. Dân Ngài sinh sống tại đó.Lạy Đức Chúa Trời, vì lòng nhân từ, Ngài cung cấp cho kẻ khốn cùng. Chúa truyền lịnh,Thì ngay cả đàn bà cũng loan tin như một đạo binh đông đảo. Các vua và các đạo binh bỏ chạy, họ chạy trốn.Những người đàn bà tại nhà chia của cướp được. Dù các người ở lại giữa chuồng chiên,Thì cũng có cánh bồ câu bọc bạcVà lông nó mạ vàng xanh. Đấng toàn năng đánh các vua ở đóChạy tan tác như tuyết đổ tại Sanh-môn. Hỡi núi hùng vĩ,Hỡi núi của các thần, núi Ba-san,Hỡi núi có nhiều đỉnh, núi Ba-san. Hỡi núi có nhiều đỉnh, tại sao ngươi nhìn một cách ghen tịNúi mà Đức Chúa Trời đã chọn để ngự.Phải, CHÚA sẽ ở tại đó đời đời. Các xe chiến mã của Đức Chúa Trời đôngHàng ngàn hàng vạn,Chúa ở giữa chúng, Đức Chúa Trời từ núi Si-nai vào nơi thánh. Ngài đã ngự lên núi cao,Đem theo tù binh;Ngài nhận lễ vật từ nhiều người,Ngay cả những kẻ phản nghịch.CHÚA, Đức Chúa Trời sẽ ngự tại đó. Hãy ca ngợi Chúa, Ngài mang gánh nặng cho chúng ta hằng ngày,Tức là Đức Chúa Trời cứu rỗi chúng ta. Đức Chúa Trời của chúng ta là Đức Chúa Trời cứu rỗi.Nhờ CHÚA là Chúa mà chúng ta thoát khỏi sự chết. Thật vậy, Đức Chúa Trời sẽ đập nát đầu của các kẻ thù nghịch,Là những kẻ đầu tóc xõa cứ miệt mài phạm tội. Chúa đã phán: từ Ba-san Ta sẽ đem chúng nó về,Ta sẽ đem chúng nó về từ các vực sâu biển cả. Để chân các ngươi dẫm lên máu kẻ thù nghịch,Và lưỡi của chó nhà ngươi cũng được phần nơi kẻ thù. Lạy Đức Chúa Trời, người ta đã thấy lễ nghinh rước Ngài,Đám rước của Đức Chúa Trời tôi, vua của tôi đi vào nơi thánh. Những người ca hát đi trước, các kẻ khảy đờn theo sau,Ở giữa là các cô gái đánh trống cơm. Hỡi những người có nguồn gốc Y-sơ-ra-ên,Từ giữa hội chúng lớn, hãy ca ngợi Đức Chúa Trời, là CHÚA. Kìa, Bên-gia-min, chi tộc nhỏ nhất dẫn đầu,Những người lãnh đạo Giu-đa và đoàn tùy tùng,Những người lãnh đạo Sa-bu-luân và những người lãnh đạo Nép-ta-li. Đức Chúa Trời ngươi đã truyền sức lực cho người,Lạy Đức Chúa Trời, hãy bày tỏ quyền năng Ngài như Ngài đã làm cho chúng tôi. Từ đền thờ Ngài tại Giê-ru-sa-lem,Các vua sẽ đem lễ vật đến dâng Ngài. Xin hãy trách những dã thú nơi lau sậy,Hãy mắng đàn bò đực cùng các con bê, tức là các dân,Là những kẻ dẫm chân lên những miếng bạc.Xin hãy làm tản lạc các dân tộc thích chiến tranh. Các sứ giả từ Ai-cập sẽ đến,Người Ê-thi-ô-bi sẽ vội vàng đưa tay cầu khẩn Đức Chúa Trời. Hỡi các vương quốc trên đất, hãy hát mừng Đức Chúa Trời,Hãy ca ngợi Chúa.Sê-la Tức là Đấng cưỡi trên các tầng trời, các tầng trời thái cổ.Kìa, Ngài lên tiếng, tiếng đầy uy lực. Hãy tuyên dương uy lực cho Đức Chúa Trời,Là sự uy nghiêm Ngài trên Y-sơ-ra-ênVà uy lực Ngài trên các tầng trời. Lạy Đức Chúa Trời, từ nơi thánh, Ngài thật đáng sợ.Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên là Đấng ban uy lực và sức mạnh cho dân Ngài.Hãy ca ngợi Đức Chúa Trời. Lạy Đức Chúa Trời, xin Ngài cứu vớt tôi,Vì các dòng nước đã tràn đến linh hồn tôi. Tôi bị lún trong bùn sâu,Không nơi tựa chân.Tôi đã đến chỗ nước sâuVà dòng nước lũ tràn ngập tôi. Tôi kêu cứu đến kiệt sức,Cổ họng tôi đau rát.Mắt tôi mòn mỏiVì trông đợi Đức Chúa Trời tôi. Những kẻ ghét tôi vô cớNhiều hơn tóc trên đầu tôi.Những kẻ thù ghét tôi vô cớ,Những kẻ muốn hủy diệt tôi thật là mạnh thay.Tôi buộc phải bồi thường,Vật tôi không ăn cắp. Lạy Đức Chúa Trời, Ngài biết sự dại dột của tôi,Những tội lỗi tôi đã phạm không giấu được Ngài. Lạy Chúa là CHÚA Vạn Quân, xin đừng để những người trông cậy NgàiPhải hổ thẹn vì tôi.Lạy Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên,Xin chớ để những người tìm kiếm NgàiPhải nhục nhã vì tôi. Ấy là vì Ngài mà tôi mang điều nhục nhã,Mặt tôi bị phủ đầy sự khinh bỉ. Tôi đã trở nên một người xa lạ đối với anh em tôi,Một người ngoại quốc đối với anh em cùng một mẹ. Vì lòng nhiệt thành về nhà Chúa đã ăn nuốt tôi,Những lời sỉ nhục mà người ta lăng nhục Ngài đã đổ xuống trên tôi. Dù khi linh hồn tôi khóc lócVà kiêng ăn thì điều đó cũng trở thành cớ để tôi bị lăng nhục. Dù khi tôi mặc vải thô tang chếThì tôi cũng trở nên trò cười cho chúng. Những người ngồi nơi cổng thành chế giễu tôi,Tôi thành đề tài câu hát của kẻ say sưa. Lạy CHÚA, còn tôi, vào lúc Ngài gia ân,Tôi cầu nguyện cùng Ngài.Lạy Đức Chúa Trời, vì tình yêu thương lớn lao, và sự giải cứu chắc chắn của Ngài,Xin đáp lời tôi. Xin cứu tôi khỏi vũng bùn,Xin đừng để tôi bị lún,Xin giải cứu tôi khỏi những kẻ ghét tôiVà khỏi vùng nước sâu. Xin chớ để dòng nước lũ tràn ngập tôi,Vực sâu không nuốt sống tôiVà miệng huyệt mả không lấp lại trên tôi. Lạy CHÚA, vì tình yêu thương tốt lành của Ngài, xin đáp lời tôi,Vì lòng thương xót dồi dào của Ngài, xin quay lại cùng tôi. Xin chớ lánh mặt cùng tôi tớ Ngài, vì tôi đang lâm cảnh hoạn nạn,Xin mau mau đáp lời tôi. Xin hãy lại gần tôi, cứu chuộc linh hồn tôi.Xin giải phóng tôi khỏi kẻ thù nghịch. Chính Ngài biết những điều nhục nhã, sự hổ thẹn và sự sỉ nhục của tôi.Tất cả các kẻ thù tôi đều ở trước mặt Chúa. Tôi thật đau khổ,Lòng tôi tan nát vì nhục nhã.Tôi mong được cảm thông nhưng không có,Tôi tìm người an ủi nhưng không gặp. Chúng nó cho tôi cỏ đắng làm thức ănVà khi tôi khát chúng cho tôi uống giấm. Nguyện bàn tiệc trước mặt chúng nó trở thành bẫy tròng,Bữa ăn bình an của chúng trở thành lưới sập. Nguyện mắt chúng nó bị mờ tối, không thấy được nữa,Lưng chúng nó bị run rẩy luôn luôn. Xin cơn phẫn nộ Ngài đổ trên chúng,Nguyện cơn giận dữ Ngài bắt lấy chúng. Nguyện chỗ ở của chúng bị hoang phế,Không ai ở trong trại chúng. Vì chúng nó ngược đãi những người Ngài đã đánhVà thuật lại nỗi đau đớn của những người Ngài làm cho bị thương. Xin buộc tội chúng, hết tội này đến tội khác,Xin đừng cho chúng hưởng sự công chính của Ngài. Nguyện chúng bị xóa tên khỏi sách sự sốngVà không được ghi tên với người công chính. Còn tôi thì bị khốn khổ và đau đớn. Lạy Đức Chúa Trời,Nguyện sự cứu rỗi của Ngài đặt tôi lên nơi cao. Tôi sẽ ca ngợi danh Đức Chúa Trời bằng bài caVà dùng lời cảm tạ tán dương Ngài. Điều ấy đẹp lòng CHÚA hơn là dâng hiến bò,Dù là bò đực có sừng và móng rẽ. Những kẻ khốn cùng sẽ trông thấy và vui mừng.Hỡi những người tìm kiếm Đức Chúa Trời, lòng các ngươi sẽ được khuyến khích. Vì CHÚA nghe kẻ nghèo khóVà không khinh bỉ những người của Ngài đang bị tù. Hỡi trời, đất, biển và tất cả sinh vật trong đó,Hãy ca ngợi Ngài. Vì Đức Chúa Trời sẽ giải cứu Si-ônVà xây lại các thành Giu-đa.Rồi dân Ngài sẽ ở đó và chiếm hữu nó. Dòng dõi của tôi tớ Ngài sẽ thừa hưởng đất ấyVà những người yêu mến danh Ngài sẽ cư ngụ tại đó. Lạy Đức Chúa Trời, xin giải cứu tôi.Lạy CHÚA, xin mau mau giúp đỡ tôi. Nguyện những kẻ tìm hại mạng sống tôiBị hổ thẹn và bối rối.Nguyện những kẻ muốn tàn hại tôiPhải rút lui và nhục nhã. Nguyện những kẻ cười nhạo: ha! ha!Phải thối lui vì sự hổ thẹn của chúng. Nguyện tất cả những người tìm kiếm NgàiĐược hân hoan và vui mừng trong Ngài.Những người yêu mến sự cứu rỗi Ngài luôn luôn tung hô:Đức Chúa Trời vĩ đại thay. Còn tôi thì yếu kém và cùng khốn,Lạy Đức Chúa Trời, xin mau mau đến cùng tôi.Ngài là Đấng giúp đỡ và giải cứu tôi.Lạy CHÚA, xin chớ chậm trễ. Lạy CHÚA, tôi ẩn náu nơi Ngài,Xin chớ để tôi bị hổ thẹn muôn đời, Xin giải cứu và giải nguy cho tôi bằng sự công chính của Ngài.Xin hãy nghiêng tai nghe tôi và cứu rỗi tôi. Xin Ngài hãy làm núi đá trú ẩn cho tôiĐể tôi luôn luôn đến đó.Xin ra lệnh cứu tôiVì Ngài là tảng đá và thành lũy của tôi. Lạy Đức Chúa Trời tôi, xin giải cứu tôi khỏi bàn tay kẻ ác,Khỏi sự nắm giữ của kẻ bất chính và người tàn bạo. Vì, lạy Chúa, Ngài là hy vọng của tôi;Lạy CHÚA, Ngài là niềm tin cậy của tôi từ khi niên thiếu. Tôi nương tựa nơi Ngài từ khi sinh ra,Ngài là Đấng đem tôi ra khỏi lòng mẹ tôi.Tôi sẽ luôn luôn ca ngợi Ngài. Tôi như một điềm lạ cho nhiều người,Nhưng chính Ngài là nơi trú ẩn kiên cố của tôi. Hằng ngày miệng tôi đầy lời ca ngợiVà tôn vinh Ngài. Xin chớ xua đuổi tôi trong lúc già nua,Xin đừng từ bỏ tôi khi sức lực tôi suy yếu. Vì các kẻ thù nói nghịch tôi,Những kẻ rình hại mạng sống tôi cùng nhau bàn mưu. Chúng nói: Đức Chúa Trời đã từ bỏ nó,Hãy đuổi theo và bắt lấyVì không ai giải cứu nó đâu. Lạy Đức Chúa Trời, xin chớ ở xa tôi,Đức Chúa Trời tôi ôi, xin mau mau giúp đỡ tôi. Nguyện những kẻ tố cáo tôiPhải bị hổ thẹn và tiêu diệt.Nguyện những kẻ tìm hại tôi phải bị phủ đầy nhục nhã và khinh bỉ. Còn tôi, tôi sẽ luôn luôn hy vọngVà tăng thêm lời ca ngợi Ngài càng hơn. Hằng ngày miệng tôi sẽ thuật lại sự công chínhVà cứu rỗi của NgàiDù tôi không biết số lượng. Tôi sẽ đến trong quyền năng của CHÚA,Tôi sẽ làm cho người ta ghi nhớ sự công chính của Ngài, chỉ một mình Ngài mà thôi. Lạy Đức Chúa Trời, từ khi niên thiếu Ngài đã dạy tôi,Và cho đến nay tôi vẫn công bố những việc diệu kỳ của Ngài. Lạy Đức Chúa Trời, dù khi tôi già nua, tóc bạc,Xin đừng từ bỏ tôi,Cho đến khi tôi công bố năng lực của Ngài cho thế hệ mai sauVà quyền năng của Ngài cho mọi người sẽ đến. Lạy Đức Chúa Trời, sự công chính của Ngài cao đến tận trời,Ngài đã làm những việc vĩ đại.Lạy Đức Chúa Trời, ai giống như Ngài? Ngài đã cho tôi kinh nghiệm nhiều gian lao cay đắng.Ngài sẽ phục hồi đời sống tôi,Ngài sẽ đem tôi lên khỏi vực sâu lòng đất. Ngài sẽ tăng thêm vinh dự cho tôi,Ngài sẽ trở lại an ủi tôi. Lạy Đức Chúa Trời tôi, tôi cũng sẽ dùng đàn hạc ca ngợi NgàiChúc tôn sự chân thật của Ngài,Lạy Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên,Tôi sẽ lấy đàn lia ca tụng Ngài. Môi miệng tôi và cả linh hồn tôiMà Ngài đã cứu chuộc sẽ reo hò vui vẻKhi tôi ca tụng Ngài. Hằng ngày lưỡi tôi cũng sẽ nói lên sự công chính của Ngài,Vì những kẻ tìm hại tôi đã bị hổ thẹn và nhục nhã rồi. Lạy Đức Chúa Trời, xin ban cho vua quyền phán quyết,Và cho thế tử sự công chính của Ngài. Để vua cai trị dân Ngài trong sự công chínhVà xét xử người nghèo khó một cách công bằng. Nguyện các núi sẽ đem thái bình,Và các đồi đem sự công chính đến cho dân. Nguyện người bênh vực những kẻ nghèo khó trong dân chúng,Giải cứu những người cùng khốnVà dẹp tan những kẻ áp bức. Hễ bao lâu mặt trời, mặt trăng vẫn cònThì bấy lâu người ta sẽ kính sợ Ngài cho đến muôn đời. Nguyện vua đến như mưa trên đồng ruộng,Như mưa rào tưới đất. Nguyện người công chính được hưng thịnh trong thời đại ngườiVà thái bình kéo dài cho đến mãi mãi. Nguyện người cai trị từ đại dương này đến đại dương kia,Từ sông cái cho đến tận cùng trái đất. Nguyện những dân du mục trong sa mạc sẽ quy phục trước mặt ngườiVà những kẻ thù người phải liếm bụi đất. Nguyện các vua ở Ta-rê-si và ở những hải đảoSẽ triều cống cho người,Các vua Sa-ba và Sê-baPhải dâng lễ vật cho người. Nguyện tất cả các vua sẽ quy phục người,Tất cả các nước sẽ phục vụ người. Vì người giải cứu kẻ cùng khốn khi họ kêu cứuVà cứu người nghèo khó không ai giúp đỡ. Người thương xót người yếu hèn, và cùng khốn,Người giải cứu mạng sống người cùng khốn. Người cứu chuộc mạng sống họ khỏi áp bức và bạo lực,Máu họ là quý báu trước mặt người. Nguyện người được sống lâu,Được người ta dâng vàng Sa-ba cho người,Nguyện người ta luôn luôn cầu nguyện cho ngườiVà hằng ngày chúc phước cho người. Nguyện thóc lúa được dồi dào trên đất,Phủ đầy các đỉnh núi.Hoa quả dẫy đầy như rừng Li-ban,Nguyện dân cư từ các thành phố phát đạt như cỏ ngoài đồng. Nguyện danh người còn lại mãi mãi,Hễ mặt trời còn tồn tại bao lâu thì danh người tồn tại bấy lâu.Người ta sẽ nhờ người mà được phước,Nguyện mọi nước chúc phước cho người hạnh phúc. Đáng ca ngợi CHÚA, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên,Chỉ một mình Ngài làm những việc diệu kỳ. Đáng ca ngợi danh vinh hiển Ngài đời đời,Nguyện cả trái đất đầy vinh quang của Ngài,A-men, A-men. Các bài cầu nguyện của Đa-vít, con trai Y-sai chấm dứt. Đức Chúa Trời thật là tốt lành đối với Y-sơ-ra-ênVà đối với những người có lòng trong sạch. Còn tôi, khi chân tôi gần muốn vấp,Các bước tôi suýt trượt ngã. Vì khi tôi thấy kẻ ác thịnh vượngThì ganh tị với kẻ kiêu ngạo. Vì chúng nó không bị đau đớn khi qua đời,Thân thể chúng mập mạnh. Chúng nó không gặp gian nan như người ta,Cũng không bị tai họa như người khác. Cho nên chúng lấy sự kiêu ngạo làm dây chuyền vàng đeo nơi cổVà lấy bạo lực làm áo dài mặc che thân. Mắt chúng nó híp lại vì mập phì,Lòng chúng nó tràn đầy sự ngu dại. Chúng nhạo báng, ăn nói độc ác,Chúng huênh hoang đe dọa đàn áp người ta. Miệng nói nghịch thiên thượng,Lưỡi nói hành thế nhân. Cho nên dân chúng quay lại theo chúng nó,Chấp nhận nhiều điều chúng đề ra. Chúng nói rằng: “Làm sao Đức Chúa Trời hiểu nổi,Thể nào Đấng Chí Cao biết được?” Những kẻ ác là như thế;Chúng luôn luôn yên ổn, giầu có càng thêm lên. Thật uổng công cho tôi cứ giữ lòng trong sạch,Rửa tay trong sự vô tội. Vì hằng ngày tôi bị tai họa,Mỗi buổi sáng tôi bị trừng phạt. Nếu tôi nói rằng: Tôi sẽ tuyên bố như thế,Thì tôi đã phạm tội bất trung với thế hệ con dân Ngài. Nhưng khi tôi suy gẫm để hiểu thấu điều ấy,Thì nó là nan đề khó giải cho tôi. Cho đến khi tôi vào trong nơi thánh của Đức Chúa Trời,Thì tôi nhận ra kết cuộc của chúng. Thật vậy, Ngài đặt chúng tại nơi trơn trợt,Ngài làm chúng sụp ngã xuống chỗ diệt vong. Thể nào chúng bị hủy diệt trong giây phút,Chúng nó bị càn quét trong sự kinh hoàng. Lạy Chúa, như cơn mộng sau khi tỉnh giấc thế nào,Thì Ngài sẽ quên hình bóng chúngKhi Ngài thức dậy thể ấy. Vì khi tâm hồn tôi cay đắng,Lòng dạ tôi đớn đau, Thì tôi ngu dại, thiếu hiểu biết,Tôi như thú vật trước mặt Ngài. Tuy vậy, tôi vẫn tiếp tục khắng khít với Ngài,Và Ngài nắm lấy tay phải tôi. Ngài dùng sự giáo huấn để hướng dẫn tôi,Và sau đó tiếp nhận tôi trong vinh quang. Trên trời, tôi có ai trừ ra Chúa.Dưới đất, tôi cũng không ước ao ai ngoài Ngài. Tâm hồn và thể xác tôi có thể tàn tạ,Nhưng Đức Chúa Trời là sức lực của lòng tôiVà là phần cơ nghiệp của tôi muôn đời. Vì kìa, những kẻ xa cách Ngài sẽ bị hư vong,Ngài sẽ hủy diệt tất cả những kẻ bất trung với Ngài. Còn tôi, thật là phúc lành cho tôi được ở gần Đức Chúa Trời,Tôi đã nhờ CHÚA làm nơi trú ẩn của tôiĐể tôi công bố mọi công việc Ngài. Lạy Đức Chúa Trời, sao Ngài từ bỏ chúng tôi mãi mãi,Sao Ngài nổi giận cùng đàn chiên của đồng cỏ Ngài? Xin nhớ lại dân Ngài, là dân Ngài đã mua chuộc từ ngàn xưa,Chi tộc đã được Ngài cứu chuộc, để làm cơ nghiệp của Ngài.Xin nhớ lại núi Si-ôn này, nơi Ngài đã ngự. Xin hãy bước chân đến chỗ đổ nát hoàn toàn,Mà kẻ thù đã hủy phá tất cả trong đền thánh. Các kẻ thù đã gầm thét giữa nơi thờ phượng Ngài,Chúng đã dựng cờ lên làm dấu hiệu. Chúng nó giống như kẻGiơ rìu lên chặt cây. Rồi chúng dùng dao và búa đập bểCác trần gỗ chạm khắc. Chúng lấy lửa thiêu hủy đền thánh Ngài đến tận đất,Chúng làm cho nơi danh Ngài ngự thành ô uế. Chúng tự bảo trong lòng rằng: “Chúng ta sẽ đè bẹp.”Chúng thiêu đốt mọi nơi thờ phượng Đức Chúa Trời trên đất. Chúng tôi không thấy dấu hiệu,Cũng không còn tiên tri nào;Không ai trong chúng tôi biết việc này kéo dài bao lâu nữa. Lạy Đức Chúa Trời, kẻ thù sẽ chế giễu cho đến bao giờ?Kẻ nghịch sẽ nhục mạ danh Ngài mãi sao? Sao Ngài rút tay lại, tức là tay phải Ngài?Xin hãy giang tay ra khỏi lòng và hủy diệt chúng. Nhưng Đức Chúa Trời là vua của tôi từ ngàn xưa,Ngài thực hiện các sự giải cứu khắp trên đất. Chính Ngài bởi quyền năng mình phân rẽ biển cả,Đập bể đầu quái vật dưới nước. Chính Ngài chà nát đầu Lê-vi-a-than,Ban chúng làm đồ ăn cho dân trong sa mạc. Chính Ngài khai nguồn, mở suối nước,Ngài làm khô cạn dòng sông đang chảy. Ban ngày thuộc về Ngài, ban đêm cũng thuộc về Ngài.Ngài đã thiết lập mặt trời và các tinh tú. Ngài phân định tất cả bờ cõi trên đất,Lập ra mùa hè, mùa đông. Lạy CHÚA, xin nhớ điều này:Kẻ thù chế giễu, dân ngu dại sỉ vả danh Ngài. Xin đừng trao mạng sống chim bồ câu của Chúa cho thú dữ;Xin đừng quên mạng sống những kẻ cùng khốn của Chúa đời đời. Xin nhớ đến giao ước NgàiVì những nơi tối tăm trong xứ đầy những sự bạo tàn. Xin chớ để kẻ bị đàn áp chịu xấu hổ;Nguyện những kẻ khốn cùng và nghèo khổ ca tụng danh Ngài. Lạy Đức Chúa Trời, xin hãy đứng lên, bênh vực cho lý do của Ngài.Xin nhớ rằng những kẻ ngu dại xúc phạm đến Ngài mỗi ngày. Xin đừng quên tiếng của các kẻ thù Ngài,Là tiếng gầm thét không ngừng nổi lên chống lại Ngài. Lạy Đức Chúa Trời, chúng tôi cảm tạ Ngài, chúng tôi cảm tạ Chúa.Vì danh Ngài thật gần chúng tôi,Mọi người tường thuật những việc diệu kỳ Ngài làm. Khi đến thời điểm Ta đã định,Thì Ta sẽ phán xét công bình. Khi trái đất và cả dân cư trên ấy run rẩy rúng động,Thì chính Ta sẽ giữ vững nền móng nó.Sê-la Ta phán cùng kẻ kiêu ngạo rằng: Chớ kiêu ngạo,Cùng kẻ ác rằng: Chớ khoe khoang sức mạnh. Chớ khoa trương sức mạnh nghịch trời cao,Cũng đừng giương cổ tranh cãi. Vì không phải từ phương đông hay phương tây,Cũng không phải từ sa mạc mà có sự tôn trọng. Nhưng Đức Chúa Trời là Đấng phán xét,Ngài hạ kẻ này xuống, nhắc kẻ kia lên. Vì CHÚA cầm chén trong tay,Chén đầy rượu pha, sủi bọt.Ngài đổ rượu ra, tất cả những kẻ ác trên đất sẽ uống rượu ấy,Thật vậy, chúng sẽ phải uống cạn cả cặn. Còn tôi, tôi sẽ luôn luôn công bố điều ấy,Tôi sẽ ca ngợi Đức Chúa Trời của Gia-cốp. Và Chúa sẽ hủy diệt hết sức mạnh của kẻ ác,Còn sức mạnh của người công chính sẽ được thêm lên. Nơi Giu-đa người ta biết rõ Đức Chúa Trời;Danh Ngài thật vĩ đại trong Y-sơ-ra-ên. Đền tạm của Ngài ở Sa-lem;Nơi ở của Ngài là Si-ôn. Tại đó Ngài bẻ gãy cung tên lửa,Khiên, gươm giáo và vũ khí chiến tranh.Sê-la. Ngài rực rỡ uy nghiTrên núi chiến thắng. Những kẻ gan dạ đã bị tước đoạt khí giới;Chúng chìm vào giấc ngủ đời đời;Mọi kẻ mạnh mẽ của chúngĐều không nhấc nổi tay mình lên. Lạy Đức Chúa Trời của Gia-cốp, khi Ngài quở trách,Ngựa và xe chiến mã đều ngã chết. Lạy Chúa, chính Ngài thật đáng sợ!Ai có thể đứng nổi trước mặt Ngài khi Ngài nổi giận? Từ trời cao Ngài tuyên bố phán quyết;Đất run sợ và im lặng, Khi Đức Chúa Trời đứng dậy phán xétĐể giải cứu tất cả những kẻ khốn cùng trên đất.Sê-la Thật vậy, ngay cả cơn giận của loài người cũng làm Chúa được ca ngợi;Những kẻ sống sót qua cơn giận sẽ hành hương dự lễ. Hãy khấn nguyện và hoàn thành lời khấn nguyện với CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi.Hỡi mọi dân tộc chung quanh Ngài,Hãy dâng cống lễ cho Đấng đáng kính sợ. Ngài vứt bỏ sự kiêu căng của những kẻ cai trị;Khiến các vua trên đất đều kính sợ Ngài. Tôi lớn tiếng cầu khẩn Đức Chúa Trời;Tôi cầu khẩn Đức Chúa Trời và Ngài lắng tai nghe tôi. Trong ngày gian truân tôi tìm kiếm Chúa;Ban đêm tôi giơ tay cầu khẩn Ngài không mệt mỏi;Tâm hồn tôi không chịu ai an ủi. Tôi nhớ đến Đức Chúa Trời và than vãn;Tôi suy tư và tâm linh tôi kiệt quệ.Sê-la Ngài giữ cho mí mắt tôi cứ mở ra;Tôi quá bối rối không thể nói nên lời. Tôi nghĩ đến những ngày thời đại trước,Vào những năm xa xưa. Ban đêm tôi nhớ lại bài ca của tôi;Tôi suy tư trong lòng và tâm linh tự vấn. Lẽ nào Chúa sẽ từ bỏ chúng ta đời đờiVà không bao giờ ban ơn cho chúng ta nữa? Lẽ nào tình thương của Ngài đã chấm dứt mãi mãi,Những lời hứa của Ngài đã không còn đời đời? Lẽ nào Đức Chúa Trời đã quên ban ơn?Hay trong cơn giận Ngài đã khép lòng thương xót?Sê-la Và tôi nói: Điều đau đớn cho tôi là:Cánh tay phải của Đấng Chí Cao đã thay đổi! Tôi sẽ nhắc lại những công việc của CHÚAVà tôi nhớ đến những phép lạ của Ngài thuở xưa. Tôi sẽ suy gẫm về tất cả những phép lạ của NgàiVà suy tư về những công việc Ngài đã làm. Lạy Đức Chúa Trời, đường lối của Ngài là thánh khiết;Có Thần nào vĩ đại như Đức Chúa Trời chăng? Ngài là Đức Chúa Trời, Đấng làm phép lạ;Ngài bày tỏ quyền năng Ngài giữa các dân. Ngài đã đưa tay cứu chuộc con dân Ngài,Tức là dòng dõi Gia-cốp và Giô-sép.Sê-la Lạy Đức Chúa Trời,Dòng nước thấy Ngài thì sợ hãi;Vực thẳm thấy Ngài thì run rẩy. Các tầng mây làm đổ cơn mưa,Bầu trời phát ra tiếng sấm;Những chớp nhoáng của Ngài loé lên. Tiếng sấm của Ngài ở trong cơn gió lốc;Chớp nhoáng chiếu sáng thế gian;Quả đất rung chuyển và lay động. Con đường của Ngài xuyên qua biển cả;Các lối đi của Ngài vượt qua biển sâu;Nhưng không ai tìm thấy được vết chân Ngài. Ngài dùng tay Môi-se và A-rônDẫn dắt dân Ngài như một đàn chiên. Hỡi dân ta, hãy lắng tai nghe lời dạy dỗ của ta;Hãy nghiêng tai nghe lời từ miệng ta. Ta sẽ mở miệng nói lời châm ngôn,Giải câu đố của thời cổ xưa, Là điều chúng ta đã nghe, đã biếtVà tổ tiên chúng ta đã thuật lại cho chúng ta. Chúng ta sẽ không giấu diếm những điều này với con cháu chúng ta,Nhưng thuật lại cho hậu thếNhững điều đáng ca ngợi của CHÚA,Quyền năng của Ngài cùng những phép lạ Ngài đã làm. Ngài lập luật lệ của Ngài nơi Gia-cốpVà định Kinh Luật của Ngài trong Y-sơ-ra-ên.Ngài truyền tổ tiên chúng taPhải dạy Kinh Luật cho con cháu họ, Để hậu thế, tức là những con cháu sẽ sinh ra, biết Kinh Luật,Rồi đến phiên chúng tiếp tụcThuật lại cho con cháu mình. Hầu cho chúng nó để lòng trông cậy Đức Chúa Trời,Không quên những công việc Ngài đã làmVà gìn giữ các điều răn Ngài. Để chúng sẽ không như tổ tiên mình,Là thế hệ cứng đầu, phản loạn;Một thế hệ có lòng không kiên định,Tâm thần không trung tín cùng Đức Chúa Trời. Con cháu Ép-ra-im vũ trang cung tênNhưng bỏ chạy trong ngày lâm trận. Chúng không giữ giao ước của Đức Chúa Trời,Từ chối sống theo Kinh Luật. Chúng quên đi những công việc Ngài đã làmVà những phép lạ Ngài đã bày tỏ cho chúng. Ngài đã làm phép lạ trước mắt tổ tiên họ tại nước Ai-cập,Nơi đồng bằng Xô-an. Ngài rẽ nước biển cho họ đi xuyên quaVà làm cho nước đứng lại như bức tường. Ban ngày Ngài hướng dẫn họ bằng đám mây;Suốt đêm Ngài hướng dẫn họ qua ánh sáng của lửa. Ngài chẻ đá trong sa mạcVà cho họ uống nước thỏa thích như từ vực sâu. Ngài làm suối tuôn ra từ tảng đáVà nước chảy ra như dòng sông. Nhưng chúng cứ tiếp tục phạm tội với Ngài,Phản loạn cùng Đấng Chí Cao trong sa mạc. Chúng cố ý thử Đức Chúa Trời,Đòi thức ăn mà họ thích. Chúng nói nghịch cùng Đức Chúa Trời rằng:“Đức Chúa Trời có thể đãi tiệc trong sa mạc được không? Kìa, Ngài đã đập tảng đá cho nước phun raVà suối nước tuôn tràn;Nhưng Ngài có thể cũng ban bánhHay cung cấp thịt cho dân Ngài chăng?” Cho nên khi CHÚA nghe như thế Ngài rất tức giận;Lửa bốc lên thiêu Gia-cốp;Ngài cũng nổi giận cùng Y-sơ-ra-ên; Vì chúng không tin tưởng nơi Đức Chúa Trời,Cũng không tin cậy vào sự giải cứu của Ngài. Dầu vậy, Ngài ra lệnh cho các tầng trời trên cao;Ngài mở cửa trời; Đổ mưa ma-na xuống cho họ ăn,Ban thóc từ trời cho họ. Mỗi người đều ăn bánh của thiên sứ;Ngài gởi thức ăn cho chúng đầy đủ. Ngài tạo gió đông từ trờiVà bởi quyền năng mình dẫn gió nam đến. Ngài làm mưa thịt rơi trên chúng như bụi đấtVà ban chim có cánh như cát bãi biển; Ngài cho chim rơi vào giữa trại,Xung quanh lều họ ở. Nên họ ăn thịt chim no nêVì Ngài đem cho họ vật họ thích. Nhưng trước khi chán chê vật họ thích;Khi thịt vẫn còn trong miệng; Đức Chúa Trời nổi giận cùng họ;Ngài giết những kẽ mạnh mẽ nhất của chúng;Ngài hạ sát những thanh niên của Y-sơ-ra-ên. Mặc dù như thế họ vẫn phạm tội,Vẫn không tin các phép lạ Ngài làm. Cho nên Ngài làm cho ngày tháng chúng nó tiêu tan như hơi thở,Cho năm tháng chúng nó tận cùng trong kinh hoàng. Khi Ngài sát hại chúng, chúng mới tìm kiếm Ngài,Ăn năn và cầu khẩn Đức Chúa Trời. Chúng nhớ lại rằng Đức Chúa Trời là vầng đá của mình,Đức Chúa Trời Chí Cao là Đấng Cứu Chuộc họ. Nhưng chúng chỉ đãi bôi ngoài miệng với Ngài,Lưỡi chúng nó dối trá cùng Ngài. Lòng chúng nó không kiên định cùng Ngài,Cũng không trung tín với giao ước Ngài. Nhưng Ngài vì lòng thương xót,Tha thứ sự gian ác,Không hủy diệt họ.Nhiều lần Ngài kiềm chế cơn giận mình,Không tỏ hết cơn thịnh nộ Ngài, Vì Ngài nhớ lại rằng chúng nó chỉ là người phàm,Là cơn gió thoáng qua và không trở lại. Đã bao nhiêu lần chúng phản loạn cùng Ngài trong sa mạc,Làm buồn lòng Ngài nơi đồng hoang. Rồi chúng lại thử Đức Chúa TrờiVà khiêu khích Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên. Chúng nó không nhớ đến quyền năng Ngài,Hay ngày Ngài giải cứu chúng khỏi kẻ áp bức; Thể nào Ngài đã tỏ các dấu lạ tại Ai-cập,Làm những phép mầu nơi đồng bằng Xô-an. Ngài biến các sông của người Ai-cập thành máuNên họ không thể uống từ các nguồn nước mình. Ngài sai bầy sâu bọ đến cắn phá chúngVà ếch nhái đến phá hại chúng. Ngài ban mùa màng họ cho châu chấuVà hoa quả của họ cho cào cào. Ngài phá hủy vườn nho của họ bằng mưa đáVà cây vả bằng tuyết giá. Ngài phó súc vật của họ cho mưa đáVà chiên của họ cho sấm sét. Ngài đổ xuống trên họ cơn giận dữ, thịnh nộ,Căm phẫn và khốn khổ,Tức là một đoàn sứ giả hủy diệt. Ngài mở đường cho cơn giận Ngài,Không dung thứ linh hồn họ khỏi chếtNhưng phó mạng sống họ cho nạn dịch. Ngài đánh chết tất cả con đầu lòng trong Ai-cập,Tức là sinh lực đầu tiên trong các trại của Cham. Ngài dẫn dân Ngài ra như đàn chiên,Ngài hướng dẫn họ trong sa mạc như dẫn đàn súc vật. Ngài hướng dẫn họ an toàn, họ không sợ hãi;Nhưng biển tràn ngập kẻ thù họ. Ngài đem họ vào vùng đất thánh,Đến núi mà cánh tay phải Ngài đã chiếm được. Ngài đánh đuổi các nước khỏi trước mặt họ;Bắt thăm phân chia ruộng đất của chúng làm sản nghiệp;Ngài cho các chi tộc Y-sơ-ra-ên định cư trong nhà cửa của các dân ấy. Nhưng họ đã thử,Đã phản loạn cùng Đức Chúa Trời Chí CaoVà không tuân giữ các luật lệ của Ngài. Họ trở mặt, bội bạc như tổ tiên mình;Họ có hành động không đáng tin cậy như cây cung gãy. Chúng khiêu khích Ngài tức giận vì những miếu thờ;Chúng làm Ngài bực mình vì những tượng thần của chúng. Khi Đức Chúa Trời nghe như thế, Ngài rất tức giận;Ngài hoàn toàn từ bỏ Y-sơ-ra-ên; Ngài rời bỏ nơi ngự của Ngài ở Si-lô,Tức là đền tạm nơi Ngài ngự giữa loài người. Ngài để uy lực của Ngài bị bắt cầm tùVà giao huy hoàng của Ngài vào tay kẻ thù nghịch. Ngài bỏ dân Ngài cho gươm giáoVà vô cùng tức giận cùng họ; Các thanh niên bị binh lửa ăn nuốtCho nên những thiếu nữ không còn người cưới mình; Những thầy tế lễ gục ngã vì gươm giáoNhưng các quả phụ của họ không thể khóc than. Thế rồi Chúa thức dậy như từ giấc ngủ,Như dũng sĩ hăng say vì rượu. Ngài đẩy lui quân thù,Làm cho họ nhục nhã đời đời. Ngài từ bỏ giòng họ Giô-sép,Không chọn chi tộc Ép-ra-im. Nhưng Ngài chọn chi tộc Giu-đaVà núi Si-ôn là nơi Ngài chuộng. Ngài xây đền thánh của Ngài như trời cao,Như quả đất mà Ngài đã lập đời đời. Ngài chọn Đa-vít làm tôi tớ mình;Ngài rút ông ra khỏi chuồng chiên; Từ việc chăm sóc đàn chiên,Ngài cất ông lên chăn giữ nhà Gia-cốp, dân NgàiVà chăn giữ Y-sơ-ra-ên, cơ nghiệp Ngài. Đa-vít đã lấy lòng thành thật chăn dắt họVà dùng tài năng khéo léo lãnh đạo họ. Lạy Đức Chúa Trời, các nước đã xâm phạm cơ nghiệp Ngài;Làm cho đền thánh Ngài thành ô uế;Và gây cho Giê-ru-sa-lem đổ nát. Chúng vứt thây các tôi tớ Ngài cho chim trời ăn thịt;Và bỏ xác những người trung tín của NgàiCho thú rừng trên đất. Chúng làm đổ máu họ như nước chảyQuanh khắp Giê-ru-sa-lem,Nhưng không có ai chôn cất. Chúng tôi trở thành cớ chế giễu cho các dân láng giềng;Là lời chế nhạo, vật đáng khinh cho những nước chung quanh. Lạy CHÚA, cho đến bao giờ? Ngài sẽ giận đến đời đời ư?Cơn thịnh nộ ghen tức của Ngài vẫn cháy như lửa chăng? Xin hãy đổ cơn giận Ngài trên các nướcKhông nhận biết Ngài;Và trên các vương quốcKhông cầu khẩn danh Ngài; Vì chúng đã ăn nuốt Gia-cốp,Và phá hủy quê hương người. Xin chớ ghi nhớ tội lỗi trước kia của chúng tôi;Xin lòng thương xót Ngài mau mau đến giúp chúng tôiVì chúng tôi mòn mỏi vô cùng. Lạy Đức Chúa Trời, Đấng Cứu Rỗi chúng tôi,Xin giúp đỡ chúng tôi vì vinh quang của Danh Ngài;Xin cứu chuộc và tha thứ tội lỗi chúng tôiVì cớ Danh Ngài. Tại sao các nước dám hỏi:Đức Chúa Trời của chúng nó ở đâu?Ngay trước mắt chúng tôi, nguyện các nước nếm biếtSự báo thù huyết mà các tôi tớ Ngài đã đổ ra. Nguyện tiếng than thở của những kẻ tù đày thấu đến trước mặt Ngài;Tùy quyền năng vĩ đại của Ngài,Xin hãy cứu thoát những kẻ bị đầy đọa cho chết. Lạy Chúa, xin hãy báo trả gấp bảy lần vào lòng những nước láng giềngVề lời chế giễu mà họ đã chế giễu Ngài. Còn chúng tôi là dân của Ngài,Là đàn chiên của đồng cỏ Ngài;Chúng tôi sẽ cảm tạ Ngài mãi mãi,Sẽ tiếp tục ca ngợi Ngài đời đời. Lạy Đấng chăn giữ Y-sơ-ra-ên,Đấng hướng dẫn dòng dõi Giô-sép như đàn chiên,Xin hãy lắng tai nghe.Lạy Đấng ngự trên Chê-ru-bim, xin hãy chiếu sáng Trước mặt Ép-ra-im, Bên-gia-min và Ma-na-se.Xin hãy tỏ quyền năng của Ngài raVà đến giải cứu chúng tôi. Lạy Đức Chúa Trời,Xin hãy phục hồi chúng tôi lại;Xin ân sủng Ngài tỏa sáng thì chúng tôi sẽ được cứu rỗi. Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời Vạn Quân,Ngài giận dữ, không nghe lời cầu nguyện của dân Ngài cho đến bao giờ? Ngài đã cho họ ăn bánh giọt lệ,Và uống đầy nước mắt. Ngài làm chúng tôi thành vật tranh giành giữa các nước láng giềng;Các kẻ thù cùng nhau cười nhạo chúng tôi. Lạy Đức Chúa Trời Vạn Quân,Xin hãy phục hồi chúng tôi trở lại;Xin ân sủng Ngài toả sáng thì chúng tôi sẽ được cứu rỗi. Ngài đã đem cây nho ra khỏi Ai-cập;Ngài đánh đuổi các nước đi và trồng nó. Ngài sửa soạn đất sạch sẽ cho cây nho;Nó đâm rễ và mọc đầy trên đất; Bóng cây che các núi đồiVà cành nó che phủ các cây tùng của Đức Chúa Trời. Các cành nho vươn ra tận biển,Chồi nó lan rộng đến tận sông. Sao Ngài lại phá đổ tường rào nó?Để mọi kẻ qua lại hái trộm nho? Để heo rừng cắn phá,Và thú đồng phá hại? Lạy Đức Chúa Trời Vạn Quân, xin hãy trở lại;Từ trên trời xin Ngài nhìn xuống,Đoái xem và chăm sóc cây nho này, Là cây mà tay Ngài đã trồng,Là con trai mà Ngài đã nuôi dưỡng cho mình. Cây nho bị lửa đốt và bị chặt đi.Họ bị hủy diệt vì nét mặt trách mắng của Ngài. Nguyện tay Ngài phù hộ người ngồi bên tay phải Ngài,Là con người mà Ngài đã nuôi dưỡng cho mình. Chúng tôi sẽ không từ bỏ Ngài nữa.Xin Ngài cho chúng tôi sống, thì chúng tôi sẽ cầu khẩn danh Ngài. Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời Vạn Quân,Xin hãy làm cho chúng tôi quay trở lại.Xin ân sủng Ngài tỏa sáng, thì chúng tôi sẽ được cứu rỗi. Hãy lớn tiếng ca ngợi Đức Chúa Trời, là sức lực chúng ta;Hãy reo hò vui vẻ cho Đức Chúa Trời của Gia-cốp. Hãy bắt đầu âm nhạc, hãy đánh trống cơm,Hãy khảy đàn hạc du dương hòa cùng đàn lia. Hãy thổi tù và vào ngày trăng mới,Và ngày trăng tròn để báo hiệu các ngày lễ của chúng ta. Vì ấy là một quy luật cho Y-sơ-ra-ên,Luật của Đức Chúa Trời của Gia-cốp; Một sắc luật Ngài lập với Giô-sépKhi Ngài đi ra đánh nước Ai-cập;Nơi mà tiếng nói tôi nghe nhưng không hiểu. Ta đã cất đi gánh nặng khỏi vai ngươiVà tay ngươi khỏi xách giỏ. Khi gian truân, ngươi cầu khẩn và Ta giải cứu ngươi;Ta đã đáp lời ngươi từ nơi bí ẩn của sấm sét;Ta đã thử ngươi nơi mạch nước Mê-ri-ba.Sê-la Hỡi dân Ta, hãy lắng tai nghe lời Ta khuyên;Hỡi Y-sơ-ra-ên, ước gì ngươi lắng tai nghe Ta. Chớ có một thần lạ nào giữa vòng các ngươi,Cũng không được thờ lạy một thần ngoại quốc nào. Chính Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời ngươi;Ta đã đem ngươi ra khỏi đất Ai-cập.Hãy há to miệng ra, Ta sẽ đút đầy. Nhưng dân Ta không nghe lời Ta;Y-sơ-ra-ên không muốn vâng phục Ta. Nên Ta để chúng nó đi theo tấm lòng ương ngạnh của chúng nó;Theo mưu ý riêng của mình. Ước gì dân Ta nghe Ta;Ước gì Y-sơ-ra-ên đi theo đường lối Ta; Thì Ta sẽ sớm chinh phục kẻ thù của chúngVà đưa tay chống lại địch thủ của chúng nó. Những kẻ ghét CHÚA sẽ phải quy phục NgàiChúng sẽ phải quy phục Ngài đời đời. Nhưng Ngài sẽ lấy lúa mì tốt nhất để nuôi Y-sơ-ra-ên,Và lấy mật từ đá làm chúng thỏa dạ. Đức Chúa Trời ngự trong hội đồng Ngài;Ngài phán xét giữa các thần. Các ngươi sẽ xét xử bất côngVà thiên vị kẻ ác cho đến bao giờ?Sê-la Hãy xét xử ngay thẳng cho những người yếu kém và kẻ mồ côi;Hãy giữ lẽ công bình cho kẻ khốn cùng và người nghèo khó. Hãy cứu vớt kẻ yếu kém và nghèo khổ;Giải cứu họ khỏi tay những kẻ ác. Các ngươi không biết cũng không hiểu;Các ngươi đi lại trong tối tăm;Mọi nền tảng của quả đất đều xiêu vẹo. Ta bảo: “Các ngươi là thần;Tất cả các ngươi đều là con của Đấng Chí Cao; Nhưng các ngươi sẽ chết như người phàm,Sẽ ngã quỵ như một trong những vua chúa cai trị.” Lạy Đức Chúa Trời, xin hãy đứng dậy và phán xét thế gianVì tất cả các dân tộc đều là cơ nghiệp của Ngài. Lạy Đức Chúa Trời, xin chớ im lặng!Lạy Đức Chúa Trời, xin đừng nín lặng, xin chớ điềm nhiên. Vì kìa, những kẻ thù của Ngài náo động,Những kẻ ghét Ngài nghếch mặt lên. Chúng lập mưu thâm hiểm chống dân Chúa,Chúng bàn kế hại những kẻ Ngài bảo vệ. Chúng bảo: “Chúng ta hãy đến, tiêu diệt dân tộc chúng nó,Để không ai còn nhớ đến tên Y-sơ-ra-ên nữa.” Vì chúng đồng âm mưu,Chúng kết ước chống lại Ngài: Các dân Ê-đôm và Ích-ma-ên,Mô-áp và Ha-ga-rít, Ghê-banh, A-môn, A-ma-léc,Phi-li-tin và dân Ty-rơ; Dân A-si-ri cũng hiệp với chúng nóMà hỗ trợ cho con cháu Lót. Xin hãy làm cho chúng nó như Ngài đã làm cho Ma-đi-an,Cho Si-sê-ra, cho Gia-bin tại sông Ki-sôn; Chúng nó bị tiêu diệt tại Ên-đô-rơ,Bị làm phân bón đất. Hãy làm cho những người quyền quý chúng nó giống như Ô-rếp và Xê-ép;Cùng tất cả hoàng tử chúng nó giống như Xê-bách và Xanh-mu-na; Vì chúng nó nói rằng chúng ta hãy chiếm lấy cho mìnhĐất đai của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời tôi ôi! Xin hãy làm cho chúng nóNhư bụi trong cơn gió lốc; như trấu trước cơn gió. Như lửa thiêu hủy rừng,Như ngọn lửa đốt cháy các núi thể nào; Xin Ngài dùng bão táp đuổi bắt chúng nó,Và lấy dông tố làm chúng kinh hoàng thể ấy. Lạy CHÚA, xin Ngài làm cho mặt chúng đầy dẫy nhuốc nhơ;Để chúng nó tìm cầu danh Ngài. Nguyện chúng nó bị hổ thẹn và kinh hoàng đời đời,Nguyện chúng nó bị nhục nhã và hủy diệt; Nguyện chúng nó biết rằng chỉ một mình Ngài, danh là CHÚA,Là Đấng Tối Cao tể trị trên cả thế gian. Lạy CHÚA Vạn Quân,Nơi ngự của Ngài đáng yêu quý biết bao! Linh hồn tôi tha thiết mong ướcĐể được ở trong sân đền CHÚA;Tâm hồn lẫn thể xác tôi ca hát vui mừngCho Đức Chúa Trời hằng sống. Lạy CHÚA Vạn Quân, là Vua của tôi, là Đức Chúa Trời tôi;Ngay cả con chim sẻ cũng tìm được một nơi ở,Và con én cũng tìm được một tổ cho bầy con ở gần bàn thờ Chúa. Phước cho người nào được ở trong nhà Ngài,Họ sẽ ca ngợi Ngài mãi mãi.Sê-la Phước cho người được sức mạnh nơi Ngài,Và hướng lòng về con đường hành hương đến Si-ôn. Khi đi ngang qua thung lũng khóc than,Họ biến nó thành nơi có suối nước tuôn trào;Mưa thu cũng giáng phước lành tràn ngập nơi ấy. Họ cứ tiến bước, sức lực càng gia tăngCho đến khi trình diện trước mặt Đức Chúa Trời tại Si-ôn. Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời Vạn Quân, xin hãy nghe lời cầu nguyện của tôi;Lạy Đức Chúa Trời của Gia-cốp, xin lắng tai nghe.Sê-la Lạy Đức Chúa Trời, là cái khiên che chở chúng tôi,Xin hãy xem, hãy đoái thương kẻ xức dầu của Ngài. Vì một ngày trong sân đền của NgàiQuý hơn cả ngàn ngày ở nơi khác;Tôi thà làm người gác cổng nhà Đức Chúa TrờiHơn là ở trong nhà kẻ ác. Vì CHÚA, Đức chúa Trời là mặt trời, là cái khiên;Ngài ban ân huệ và vinh quang;CHÚA không từ chối điều tốt lành nàoCho những kẻ sống ngay thẳng. Lạy CHÚA Vạn Quân,Phước thay cho người tin cậy nơi Ngài. Lạy CHÚA, Ngài đã ban ơn cho đất nước Ngài;Ngài đã đem lại cơ đồ cho Gia-cốp. Ngài đã tha thứ gian ác con dân Ngài;Đã che lấp tất cả tội lỗi của họ.Sê-la Ngài đã bỏ đi tất cả các cơn thịnh nộ Ngài;Ngài đã thâu hồi cơn nóng giận mình. Lạy Đức Chúa Trời, là Đấng Cứu Rỗi chúng tôi, xin phục hồi chúng tôi;Xin ngừng cơn phẫn nộ đối với chúng tôi. Ngài sẽ giận chúng tôi mãi mãi ư?Ngài sẽ kéo dài cơn thịnh nộ đời đời sao? Ngài không phục hồi sinh lực cho chúng tôiĐể dân Ngài vui mừng trong Ngài sao? Lạy CHÚA, xin cho chúng tôi thấy tình yêu thương của Chúa,Và ban cho chúng tôi sự cứu rỗi Ngài. Xin cho tôi nghe lời Đức Chúa Trời, là lời CHÚA phán;Vì Ngài sẽ phán bình an cho dân Ngài, cho những người kính sợ Ngài;Nguyện chúng tôi không quay trở lại những điều ngu dại nữa. Thật vậy, sự cứu rỗi của Chúa ở gần những kẻ kính sợ Ngài,Để vinh quang vẫn ở với đất nước chúng ta; Để tình yêu thương và trung tín gặp nhau,Để công chính và bình an hôn nhau. Sự trung tín từ đất mọc vươn lên;Sự công chính từ trời nhìn xuống. Thật vậy, CHÚA sẽ ban phúc lànhVà đất sẽ sinh sản hoa lợi. Sự công chính sẽ đi trước mặt ChúaVà chuẩn bị con đường cho bước chân Ngài. Lạy CHÚA, xin hãy lắng tai nghe và đáp lời tôi;Vì tôi khốn cùng và thiếu thốn. Xin bảo vệ mạng sống tôi vì tôi trung tín;Ngài là Đức Chúa Trời tôi, tôi tin cậy Ngài,Xin giải cứu tôi tớ Ngài. Lạy Chúa, xin thương xót tôiVì tôi cầu khẩn Ngài suốt ngày. Xin cho tâm hồn tôi tớ Ngài được vui vẻ;Vì lạy Chúa,Linh hồn tôi ngưỡng vọng Chúa. Vì Chúa ôi, Ngài là thiện, sẵn lòng tha thứVà dồi dào tình yêu thương cho tất cả những người cầu khẩn Ngài. Lạy CHÚA, xin lắng tai nghe lời cầu nguyện của tôi;Xin nghe lời cầu khẩn của tôi. Trong ngày gian truân, tôi cầu khẩn NgàiVì Ngài đáp lời tôi. Lạy Chúa, không có ai giống như Ngài giữa vòng các thần;Cũng không có công việc nào giống như công việc của Ngài. Lạy Chúa, mọi nước mà Ngài đã tạo nên,Sẽ đến quỳ lạy trước mặt Ngài;Và tôn vinh danh Ngài. Vì Ngài vĩ đại, làm những việc diệu kỳ;Chỉ một mình Ngài là Đức Chúa Trời. Lạy CHÚA, xin dạy tôi đường lối Ngài,Tôi sẽ đi theo chân lý Ngài;Xin cho tôi một lòng kính sợ danh Ngài. Lạy Chúa, Đức Chúa Trời tôi, tôi hết lòng cảm tạ Ngài;Tôi tôn vinh danh Ngài mãi mãi. Vì tình yêu thương lớn lao Ngài dành cho tôi,Ngài giải cứu linh hồn tôi khỏi Âm Phủ sâu thẳm. Lạy Đức Chúa Trời, những người kiêu căng nổi lên hại tôi;Bọn người tàn ác tìm hại mạng sống tôi;Chúng nó chẳng kính nể Ngài. Nhưng lạy Chúa, chính Ngài là Đức Chúa Trời có lòng thương xót và hay ban ơn;Chậm nóng giận, đầy tình yêu thương và thành tín. Xin Chúa đoái xem và thương xót tôi,Xin ban sức lực Ngài cho tôi tớ Chúa;Xin cứu giúp con trai của đầy tớ gái Ngài. Xin ban cho tôi một dấu hiệu về ơn lành của ChúaĐể những kẻ ghét tôi nhìn thấy và hổ thẹn.Vì Lạy CHÚA, chính Ngài đã giúp đỡ và an ủi tôi. Ngài đã đặt nền móng của Ngài trên các núi thánh; CHÚA yêu mến các cổng của Si-ônHơn mọi nơi cư trú của Gia-cốp. Hỡi thành của Đức Chúa Trời,Những điều vinh quang về ngươi đã được nói đến.Sê-la Ta sẽ nhắc đến Ra-háp, Ba-by-lônLà những nước nhận biết ta;Kìa, Phi-li-tin, Ty-rơ cùng Ê-thi-ô-bi;Chúng nói rằng: người này sinh ở Si-ôn. Người ta sẽ nói về Si-ôn rằng:Người này, kẻ kia sinh trưởng tại đây;Và chính Đấng Chí Cao sẽ thiết lập Si-ôn. CHÚA sẽ ghi tên các dân vào sổ:“Người này sinh tại Si-ôn.”Sê-la Những ca sĩ cũng như vũ công đều nói:“Mọi nguồn cảm hứng của tôi đều ở trong ngươi.” Kính lạy CHÚA, Đức Chúa Trời, Đấng Cứu Rỗi tôi;Suốt ngày đêm, tôi cầu khẩn trước mặt Ngài. Nguyện lời cầu nguyện tôi đến trước mặt Chúa;Xin Ngài nghiêng tai nghe lời cầu khẩn của tôi. Vì linh hồn tôi đầy những hoạn nạn;Mạng sống tôi bị đưa xuống gần Âm Phủ. Tôi bị xem như những người sắp đi xuống huyệt mả;Tôi như người không còn sức lực; Như người bị bỏ riêng giữa những người chết,Như người bị giết nằm trong mộ phần,Kẻ mà Chúa không còn nhớ đến nữa;Là người bị dứt bỏ khỏi bàn tay chăm sóc của Ngài. Ngài đã đặt tôi tận đáy vực sâu,Nơi tối tăm và sâu thẳm. Cơn thịnh nộ Ngài đè nặng trên tôi;Những cơn sóng của Ngài tràn ngập tôi.Sê-la Ngài làm những kẻ quen biết tôi xa lánh tôi;Ngài làm tôi thành vật ghê tởm cho họ.Tôi bị vây kín, không lối thoát ra. Mắt tôi mòn mỏi vì sầu khổ;Lạy CHÚA, suốt ngày tôi cầu khẩn Ngài,Tôi giơ tay cầu xin Ngài. Ngài há có làm phép lạ cho người chết ư?Há bóng ma nào đứng dậy ca ngợi Ngài sao?Sê-la. Tình yêu thương của Ngài nào có được công bố nơi mồ mả,Sự thành tín Ngài nào ở chỗ hủy diệt chăng? Các phép lạ của Ngài có được biết đến ở nơi âm giới tối tăm sao?Và những việc công chính của Ngài có được biết đến ở vùng đất bị quên lãng chăng? Còn tôi, lạy CHÚA, tôi kêu cầu Ngài;Mỗi buổi sáng lời cầu nguyện tôi đến trước mặt Ngài. Lạy CHÚA, sao Ngài từ bỏ tôi?Sao Ngài lánh mặt Ngài cùng tôi? Từ thời niên thiếu tôi đã bị đau khổ và hòng chết;Tôi bị kinh hoàng và tuyệt vọng. Cơn thịnh nộ Ngài tràn ngập tôi,Cơn kinh hoàng của Ngài hủy diệt tôi. Suốt ngày những điều ấy vây quanh tôi như nước lũ,Chúng bao phủ tôi mọi bề. Chúa khiến bè bạn và người thân yêu xa lánh tôi;Bóng tối tăm trở thành bạn hữu thân cận. Tôi sẽ ca ngợi tình yêu thương của CHÚA mãi mãi;Miệng tôi sẽ công bố sự thành tín của Ngài đời đời. Vì tôi nói rằng tình yêu thương của Ngài được thiết lập đời đời;Sự thành tín của Ngài vững chắc như các tầng trời. Ta đã lập giao ước với người được chọn;Ta đã thề với Đa-vít, tôi tớ ta rằng: Ta sẽ lập dòng dõi ngươi làm vua mãi mãi;Ta sẽ xây dựng ngôi ngươi vững chắc đời đời.Sê-la Lạy CHÚA, các tầng trời ca ngợi các phép lạ của Ngài;Sự thành tín của Ngài cũng được ca ngợi giữa hội các thánh. Vì ai ở trên trời có thể so sánh cùng CHÚA?Có ai trong vòng các thần giống như CHÚA? Là Đức Chúa Trời đáng kính sợ giữa hội đồng các thánh;Là Đấng vĩ đại và kinh hoàng hơn tất cả những kẻ chung quanh Ngài. Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời Vạn Quân, ai quyền năng giống như Chúa?Sự thành tín của Ngài bao quanh Ngài. Chính Ngài thống trị cả biển động;Khi sóng lớn dâng lên, Ngài làm cho lặng xuống. Chính Ngài chà đạp Ra-háp như một xác chết;Ngài dùng cánh tay quyền năng của mình đánh tan các kẻ thù Ngài. Các tầng trời thuộc về Ngài, đất cũng thuộc về Ngài;Ngài đã sáng lập thế giới và mọi vật trong ấy. Ngài đã sáng tạo phương bắc, phương nam;Núi Tha-bô và núi Hẹt-môn đều hân hoan ca ngợi danh Ngài. Ngài có cánh tay quyền năng, bàn tay Ngài có sức mạnh;Tay phải Ngài giương cao. Đức công chính và lẽ công bình là nền tảng của ngôi Ngài;Tình yêu thương và lòng thành tín đi trước mặt Ngài. Phước cho dân tộc nào biết được tiếng reo hò trong lễ hội ca ngợi Ngài;Lạy CHÚA, họ sẽ bước đi trong ánh sáng của sự hiện diện Ngài. Hằng ngày họ vui mừng trong danh NgàiVà nhờ sự công chính của Ngài họ được nâng cao lên. Vì Ngài là sự vinh hiển và sức mạnh của họ;Nhờ ơn Ngài, sừng chúng tôi được giương cao. Vì CHÚA là cái khiên bảo vệ chúng tôi;Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên là vua chúng tôi. Từ xưa, trong một khải tượng Ngài đã phán cùng các tôi tớ thánh Ngài; Ngài phán:Ta đã giúp sức cho một dũng sĩ,Ta đã tôn cao người ta chọn từ trong dân. Ta đã tìm thấy Đa-vít, tôi tớ Ta;Ta đã xức dầu thánh Ta cho người. Tay ta sẽ nâng đỡ người;Cánh tay Ta sẽ thêm sức cho người. Kẻ thù sẽ không thể áp bức người;Kẻ ác cũng không thể làm người nhục nhã đau khổ. Ta sẽ đập tan kẻ thù trước mặt người,Và đánh ngã những kẻ ghét người. Lòng thành tín và yêu thương của Ta sẽ ở cùng ngườiVà nhờ danh Ta sừng người sẽ được giương cao. Ta sẽ cho tay người kiểm soát biển cảVà tay phải người kiểm soát các sông. Người sẽ gọi ta: Ngài là cha tôi,Đức Chúa Trời tôi và là tảng đá cứu rỗi của tôi. Ta sẽ cử người làm con trưởng nam,Vị vua vĩ đại hơn tất cả các vua trên đất. Ta sẽ giữ tình yêu thương ta cho người mãi mãiVà giao ước Ta với người sẽ vững bền. Ta sẽ lập dòng dõi người làm vua đời đời,Và ngôi người sẽ như các ngày của trời. Nếu con cháu người từ bỏ Kinh Luật của TaVà không đi theo sắc lệnh của Ta; Nếu chúng nó vi phạm các quy luật TaVà không giữ những điều răn Ta; Thì Ta sẽ lấy trượng phạt đòn sự vi phạm của chúng nóVà dùng roi mà phạt sự gian ác của chúng. Nhưng Ta sẽ không bỏ tình yêu thương Ta đối với người,Và không phản bội sự thành tín Ta cùng người. Ta sẽ không vi phạm giao ước TaVà không thay đổi lời môi miệng Ta đã phán. Ta đã thề một lần đầy đủ cả, nhân danh sự thánh khiết của Ta,Và không nói dối cùng Đa-vít. Dòng dõi người sẽ tồn tại mãi mãi;Ngôi người sẽ lâu dài như mặt trời trước mặt Ta; Như mặt trăng được thiết lập đời đời,Như bằng chứng trung tín trên bầu trời.Sê-la Nhưng Ngài đã khước từ, đã ruồng bỏ;Ngài đã tức giận cùng người được xức dầu của Ngài. Ngài ghê tởm giao ước với tôi tớ Ngài;Ngài ném mão triều người xuống đất bùn ô uế. Ngài phá đổ mọi bức tường của ngườiVà làm thành trì người đổ nát. Mọi kẻ qua lại trên đường cướp giật người;Những người xung quanh khinh bỉ người. Ngài nâng tay phải kẻ thù người lên;Ngài làm mọi kẻ thù nghịch người vui vẻ. Thật vậy, Ngài đã xoay ngược lưỡi gươm của người,Không giúp người đứng vững trong trận chiến. Ngài loại bỏ sự huy hoàng của ngườiNém ngôi người xuống đất. Ngài đã cắt ngắn những ngày tuổi trẻ của ngườiVà bao phủ người bằng nhục nhã.Sê-la Lạy CHÚA, cho đến bao giờ? Ngài sẽ lánh mặt đời đời ư?Cơn thịnh nộ ghen tức của Ngài vẫn cháy như lửa đến bao giờ? Xin hãy nhớ đời sống tôi ngắn ngủi là bao!Ngài đã tạo nên tất cả loài người là hư ảo sao? Ai là người sống mãi mà không thấy sự chết?Ai sẽ giải cứu mạng sống mình khỏi tay tử thần?Sê-la Lạy Chúa, tình yêu thương của Ngài từ xưaMà Ngài đã lấy lòng thành tín thề cùng Đa-vít ở đâu rồi? Lạy Chúa, xin hãy nhớ sự sỉ nhục tôi tớ Chúa phải chịu;Tôi đã mang trong lòng tất cả sự sỉ nhục từ nhiều dân tộc; Là sỉ nhục, lạy CHÚA, mà kẻ thù Ngài đã dùng để nhục mạ;Chúng đã nhục mạ những bước chân của người được Chúa xức dầu. Lạy CHÚA, đáng ca ngợi Ngài đời đời!A-men! A-men! Lạy Chúa, Ngài là nơi cư trú của chúng tôi đời đời. Trước khi núi non được sinh ra;Trái đất và thế gian được tạo nên;Từ trước vô cùng cho đến đời đời, Ngài là Đức Chúa Trời. Chúa khiến con người trở về với bụi đất;Ngài phán: Hỡi loài người, hãy trở về bụi đất. Vì một ngàn năm trước mắt ChúaGiống như một ngày hôm trước đã trôi qua,Như một canh trong đêm. Ngài khiến chúng nó trôi đi như dòng nước lũ;Đời chúng nó như một giấc ngủ;Như cỏ mọc xanh tươi lúc ban mai; Buổi sáng cỏ nảy nở và tốt tươi;Đến chiều chúng tàn phai và khô héo. Thật vậy, chúng tôi bị hủy diệt vì cơn giận Chúa;Bị kinh hoàng vì cơn thịnh nộ của Ngài. Ngài đặt sự gian ác chúng tôi trước mặt Ngài;Để những tội lỗi bí mật của chúng tôi trong ánh sáng trước mặt Ngài. Bởi cơn thịnh nộ của Ngài mọi ngày chúng tôi đều qua đi;Các năm chúng tôi kết thúc như tiếng thở dài. Tuổi tác chúng tôi thọ được bảy mươi,Nếu mạnh khỏe thì tám mươi,Nhưng sự kiêu căng của chúng chỉ là lao khổ và buồn thảm;Vì đời sống thoáng qua, rồi chúng tôi bay mất đi. Ai biết được năng lực của cơn giận Chúa?Ai hiểu được hậu quả của cơn thịnh nộ Ngài? Vậy, xin dạy chúng tôi biết đếm các ngày chúng tôi,Để chúng tôi được lòng khôn ngoan. Lạy CHÚA, xin hãy trở lại, Ngài còn giận đến bao giờ?Xin thương xót các tôi tớ Ngài. Mỗi buổi sáng xin cho chúng tôi được thỏa lòng trong tình yêu thương của Ngài;Để chúng tôi được hân hoan ca hát và vui mừng suốt đời. Xin cho chúng tôi được vui mừng tương ứng với số ngày mà chúng tôi chịu hoạn nạn;Tương ứng với số năm mà chúng tôi bị tai họa. Xin cho các tôi tớ Chúa thấy những công việc Ngài,Và con cháu họ thấy quyền năng vinh quang Ngài. Nguyện xin ân huệ của Đức Chúa Trời chúng tôi ở trên chúng tôi.Xin Ngài thiết lập vững vàng công việc tay chúng tôi.Vâng, xin Ngài thiết lập vững vàng công việc tay chúng tôi làm. Người nào ở trong nơi trú ẩn của Đấng Chí CaoSẽ được che chở dưới bóng của Đấng Toàn Năng. Tôi nói về CHÚA rằng: Ngài là Đức Chúa Trời tôi, là nơi trú ẩn và thành lũy của tôi,Tôi tin cậy nơi Ngài. Vì Ngài sẽ giải cứu ngươi thoát khỏi bẫy chim,Thoát khỏi dịch lệ hủy diệt. Ngài sẽ lấy lông Ngài mà che chở ngươiVà dưới cánh Ngài ngươi sẽ tìm được nơi trú ẩn.Lòng thành tín Ngài là cái khiên, cái mộc bảo vệ ngươi. Ngươi sẽ không sợ sự kinh hoàng vào ban đêmHay tên bắn lúc ban ngày; Hoặc dịch lệ lan đến trong tối tămHay sự hủy diệt tàn phá lúc giữa trưa. Hàng ngàn người sẽ gục ngã bên cạnh ngươi,Hàng vạn người ngã bên phải ngươi,Nhưng tai họa sẽ không đến gần ngươi. Ngươi chỉ lấy mắt nhìn xemVà sẽ thấy kẻ ác bị báo trả. Lạy Chúa, vì Ngài là nơi trú ẩn của tôi,Lạy Đấng Chí Cao, Ngài đã lập nơi cư trú của Ngài; Nên sẽ chẳng có tai họa gì xảy đến ngươiVà tai họa sẽ không đến gần nhà ngươi. Vì Ngài sẽ truyền lệnh cho thiên sứ coi sóc ngươi,Bảo vệ ngươi trong mọi đường lối ngươi. Thiên sứ sẽ nâng đỡ ngươi trên tayĐể chân ngươi không vấp phải hòn đá. Ngươi sẽ bước đi trên sư tử và rắn hổ mang;Còn sư tử tơ và rắn độc ngươi sẽ giày đạp dưới chân. Vì người yêu mến Ta nên ta giải cứu người;Vì người biết danh Ta nên ta bảo vệ người. Người sẽ cầu khẩn Ta, Ta sẽ trả lời người;Gặp lúc gian truân Ta sẽ ở cùng người,Giải cứu người và làm vinh hiển người. Ta sẽ cho người thỏa dạ sống lâuVà chỉ cho người thấy sự cứu rỗi Ta. Cảm tạ CHÚA là một điều tốt lành;Lạy Đấng Chí Cao, ca tụng Danh Ngài là điều tốt đẹp; Buổi sáng rao truyền tình yêu thương của Chúa,Buổi tối ca ngợi đức thành tín của Ngài; Bằng nhạc khí mười dây cùng đàn lia,Hợp với giai điệu và đàn hạc. Vì, lạy CHÚA, việc quyền năng của Ngài làm tôi vui mừng;Các việc của tay Ngài làm tôi hớn hở hoan ca. Lạy CHÚA, công việc của Ngài vĩ đại biết bao!Tư tưởng Ngài sâu sắc biết dường nào! Kẻ u mê không biết đượcVà người ngu dại cũng không hiểu nổi. Dù cho kẻ ác mọc lên như cỏ;Mọi kẻ bất lương phát đạt;Ấy là để chúng bị hủy diệt đời đời. Nhưng lạy CHÚA, chính Ngài là Đấng Tối Cao đời đời. Lạy CHÚA, vì kìa, những kẻ thù Ngài;Vì kìa, những kẻ thù Ngài sẽ bị hủy diệt;Mọi kẻ làm ác sẽ chạy tán loạn. Ngài đã làm cho sừng tôi giương cao như sừng con bò rừng;Tôi được xức bằng dầu mới. Mắt tôi thấy kẻ thù tôi bị thất bại,Tai tôi đã nghe tiếng than khóc của kẻ ác chống nghịch tôi. Người công chính sẽ lớn mạnh như cây chà là,Sẽ mọc lên như cây tùng ở Li-ban; Họ được trồng trong nhà CHÚA,Lớn mạnh trong sân của Đức Chúa Trời chúng ta. Dù đến tuổi già vẫn sinh bông trái,Được mạnh khỏe và xanh tươi, Để chứng tỏ CHÚA là ngay thẳng,Ngài là tảng đá của tôi và trong Ngài không có sự bất công. CHÚA trị vì; Ngài trang phục bằng sự uy nghi;CHÚA uy nghi;Ngài nai nịt bằng sức mạnh.Phải, thế giới được lập vững vàng,Không thể rúng động. Ngôi Ngài được lập vững vàng từ thời cổ;Ngài hằng hữu từ trước vô cùng. Lạy CHÚA, các sông đã dâng lên;Các sông đã dâng lên cùng tiếng động;Các sông đã dâng lên ầm ầm. CHÚA trị vì trên cao,Quyền năng hơn sấm động của nước lớn,Quyền năng hơn sóng to của biển cả. Lạy CHÚA, các sắc luật của Ngài thật chắc chắn;Đền thờ Ngài thật là thánh khiếtĐến đời đời. Lạy CHÚA, Ngài là Đức Chúa Trời báo trả;Ngài là Đức Chúa Trời báo trả, xin bày tỏ thiên quang Ngài. Lạy Đấng phán xét thế giới, xin đứng lên,Xin báo trả xứng đáng cho những kẻ kiêu ngạo. Lạy CHÚA, cho đến bao giờ?Kẻ ác sẽ đắc chí cho đến bao giờ? Chúng tuôn đổ lời kiêu ngạo;Mọi kẻ làm ác đều khoe khoang. Lạy CHÚA, chúng nó chà đạp dân Ngài;Chúng nó làm con dân Ngài khốn khổ. Chúng giết kẻ góa bụa và người kiều dân;Chúng tàn sát kẻ mồ côi. Chúng bảo rằng CHÚA sẽ không nhìn thấy,Đức Chúa Trời của Gia-cốp sẽ không nhận thấy. Hỡi những kẻ u mê nhất trong dân, hãy hiểu biết;Hỡi những kẻ ngu dại, bao giờ các người mới khôn ngoan? Đấng đã tạo ra tai, lại không nghe được?Đấng đã nắn nên mắt, lại không thấy sao? Đấng đã trừng phạt các nước, lại không quở trách sao?Ngài là Đấng dạy dỗ loài người tri thức. CHÚA biết tư tưởng loài người;Chúng chỉ là hư không. Lạy CHÚA, phước cho người nào Ngài rèn luyệnVà dạy dỗ Kinh Luật cho; Và ban cho họ yên lành khỏi những ngày hoạn nạn,Cho đến khi nào hố sâu đã đào cho những kẻ ác. Vì CHÚA không ruồng bỏ dân NgàiCũng chẳng từ bỏ cơ nghiệp Ngài. Vì sự xét xử công bình sẽ trở về với người công chính;Và mọi người có lòng ngay thẳng sẽ noi theo. Ai sẽ nổi lên chống lại những kẻ ác cho tôi;Ai sẽ đứng lên chống lại những kẻ làm điều gian ác giúp tôi? Nếu CHÚA đã không giúp đỡ tôiThì linh hồn tôi đã sớm ở nơi Âm Phủ. Lạy CHÚA, khi tôi nghĩ: chân tôi trượt ngãThì tình yêu thương kiên trì của Ngài nâng đỡ tôi. Khi có nhiều mối lo nghĩ trong lòng tôi,Thì sự an ủi của Ngài khích lệ tâm hồn tôi. Cậy quyền năng dùng luật hại người,Thế nào Ngài lại kết ước đồng minh? Chúng hiệp nhau hại mạng sống của người công chínhVà kết án tử hình kẻ vô tội. Nhưng CHÚA là thành lũy bảo vệ tôi;Đức Chúa Trời tôi là vầng đá nơi tôi trú ẩn. Ngài sẽ báo trả chúng nó vì tội lỗi chúng nó;Ngài sẽ tiêu diệt chúng nó vì sự gian ác chúng nó;CHÚA, Đức Chúa Trời sẽ tiêu diệt chúng nó. Hãy đến ca hát tán dương CHÚA;Hãy hân hoan reo hò cho Chúa là vầng đá cứu rỗi chúng ta. Hãy đến trước mặt Ngài với lời cảm tạ;Hãy hân hoan reo hò bằng lời ca tụng Ngài. Vì CHÚA là Đức Chúa Trời vĩ đại;Ngài là vua vĩ đại hơn tất cả các thần. Ngài nắm trong tay các vực sâu của quả đất;Những đỉnh cao của núi non cũng thuộc về Ngài. Biển cả thuộc về Ngài vì Ngài làm ra chúng;Lục địa cũng do tay Ngài tạo nên. Hãy đến, cúi đầu và thờ phượng Ngài;Hãy quỳ gối trước mặt CHÚA, Đấng Tạo Hóa chúng ta. Vì Ngài là Đức Chúa Trời chúng ta;Chúng ta là con dân mà ngài chăn giữ,Là đàn chiên mà tay Ngài bảo vệ.Ngày nay, ước gì các ngươi nghe tiếng Ngài! Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mê-ri-ba,Như ngày ấy tại Ma-sa trong sa mạc; Khi tổ tiên các ngươi thử Ta; chúng thách thức TaDù đã thấy công việc Ta làm. Trong bốn mươi năm Ta chán ghét thế hệ ấy;Ta bảo: Chúng nó là một dân có lòng lầm lạc;Chúng nó không biết đường lối Ta. Vì thế, trong cơn giận Ta thề rằng:Chúng nó sẽ chẳng bao giờ vào nơi an lạc của Ta. Hãy hát một bài ca mới cho CHÚA;Hỡi cả thế giới, hãy ca hát cho CHÚA. Hãy ca hát cho CHÚA, hãy ca tụng Danh Ngài.Hằng ngày hãy công bố sự cứu rỗi của Ngài. Hãy thuật sự vinh quang của Ngài giữa các nước;Hãy tuyên bố những việc diệu kỳ của Ngài cho tất cả các dân. Vì CHÚA thật vĩ đại! Rất đáng được ca ngợi;Ngài đáng được kính sợ hơn tất cả các thần. Vì tất cả các thần của các dân chỉ là hình tượng;Nhưng CHÚA đã tạo nên các tầng trời. Trước mặt Ngài là vinh quang và uy nghi;Nơi đền thánh Ngài là năng lực và hoa mỹ. Hỡi các tông tộc của muôn dân, hãy dâng cho CHÚA;Hãy dâng cho CHÚA vinh quang năng lực. Hãy dâng cho CHÚA vinh quang xứng đáng với Danh Ngài;Hãy mang lễ vật mà vào sân đền thờ Ngài. Hãy mặc trang phục thánh mà thờ phượng CHÚA;Hỡi cả trái đất, hãy run sợ trước mặt Ngài. Hãy tuyên bố giữa các nước: CHÚA cai trị;Phải, thế giới được lập vững vàng, không rung chuyển.Ngài xét xử công bình cho muôn dân. Hỡi các tầng trời, hãy vui mừng; hỡi trái đất, hãy vui vẻ;Hỡi biển cả và mọi vật trong đó, hãy hân hoan reo hò. Hỡi cánh đồng và mọi vật trong đó hãy hân hoan;Bấy giờ mọi cây cối trong rừng đều sẽ vui mừng ca hát trước mặt CHÚA. Vì Ngài đến;Vì Ngài đến để xét xử thế gian.Ngài sẽ xét xử thế giới bằng sự công chínhVà lấy sự chân thật mà xét xử muôn dân. CHÚA cai trị. Hỡi trái đất, hãy hân hoan;Hỡi các hải đảo, hãy vui mừng. Mây và bóng tối dày đặc bao quanh Ngài;Công chính và công bình là nền móng của ngôi Ngài. Lửa đi trước mặt NgàiVà thiêu đốt những kẻ thù chung quanh. Những tia chớp của Ngài thắp sáng thế giới;Trái đất thấy và run rẩy. Núi non tan chảy như sáp trước mặt CHÚA,Trước mặt Chúa của cả trái đất. Các tầng trời công bố sự công chính của Ngài;Tất cả các dân thấy sự vinh quang Ngài. Tất cả những kẻ thờ lạy các tượng,Là kẻ huênh hoang về hình tượng mình thờ, sẽ bị hổ thẹn;Tất cả các thần hãy quỳ lạy Ngài. Lạy CHÚA, thành Si-ôn nghe và vui mừng;Các thành ở Giu-đa hoan hỉVì các phán xét của Ngài. Lạy CHÚA, vì chính Ngài là Đấng Chí Cao trên cả trái đất,Ngài được tôn cao hơn tất cả mọi thần. Hỡi những kẻ yêu mến CHÚA, hãy ghét điều ác.CHÚA bảo vệ mạng sống những kẻ trung tín với Ngài,Giải cứu họ khỏi tay những kẻ ác. Ánh sáng chiếu ra trên người công chính,Và niềm vui tỏa ra trên kẻ có lòng ngay thẳng. Hỡi những người công chính, hãy vui mừng trong CHÚA;Và cảm tạ Danh Thánh Ngài. Hãy hát cho CHÚA một bài ca mớiVì những việc diệu kỳ Ngài đã làm.Tay phải và cánh tay thánh NgàiĐã đem lại chiến thắng cho Ngài. CHÚA đã bày tỏ sự cứu rỗi của Ngài;Ngài đã trình bày sự công chính của Ngài trước mắt các dân. Ngài nhớ đến tình yêu thươngVà sự thành tín của Ngài đối với nhà Y-sơ-ra-ên.Mọi đầu cùng trái đất đều thấySự cứu rỗi của Đức Chúa Trời chúng ta. Hỡi cả trái đất, hãy hân hoan reo hò cho CHÚA;Hãy cất lên tiếng hát và tiếng nhạc ca tụng Ngài. Ca ngợi CHÚA với đàn hạc;Hãy dùng đàn hạc và giọng ca mà ca ngợi. Hãy hân hoan thổi kèn và thổi tù vàTrước mặt Vua, tức là CHÚA. Biển cả và những vật trong đó,Thế giới và những người cư ngụ trên ấy,Hãy hân hoan reo hò. Các sông, hãy vỗ tay;Các núi, hãy cùng nhau hân hoan ca hát trước mặt CHÚA; Vì Ngài đến để phán xét trái đất.Ngài sẽ dùng công chính để phán xét thế gianVà công bình để xét xử các dân tộc. CHÚA cai trị,Muôn dân hãy run sợ;Ngài ngự trên các Chê-ru-bim,Trái đất rung chuyển. CHÚA tại Si-ôn thật vĩ đại;Ngài được tôn cao trên tất cả mọi dân tộc. Nguyện chúng nó ca tụng danh vĩ đại và đáng sợ của Ngài;Ngài là thánh. Vị vua thật quyền năng, Ngài yêu chuộng công bình,Thiết lập sự bình đẳng;Ngài thi hành công bìnhVà công chính trong Gia-cốp. Hãy tôn cao CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta;Hãy thờ phượng dưới bệ chân Ngài.Ngài là thánh. Môi-se và A-rôn là các thầy trong số những thầy tế lễ của Ngài;Sa-mu-ên là một người trong số những người cầu khẩn danh Ngài;Họ cầu khẩn CHÚAVà Ngài đáp lời họ. Từ trong cột mây Ngài phán với họ;Ngài ban cho họ luật lệ cùng quy luật và họ gìn giữ chúng. Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời chúng tôi,Chính Ngài đã đáp lời họ.Ngài là Đức Chúa Trời tha thứ cho họ,Nhưng Ngài cũng báo trả những hành vi sai trái của họ. Hãy tôn cao CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta;Hãy thờ phượng tại núi thánh NgàiVì CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta là thánh. Hỡi cả trái đất, hãy hân hoan reo hò cho CHÚA. Hãy vui vẻ phụng sự CHÚA;Hãy hân hoan ca hát mà đến trước mặt Ngài. Hãy biết rằng CHÚA, chính Ngài là Đức Chúa Trời.Ngài làm nên chúng ta, chúng ta thuộc về Ngài;Chúng ta là dân của Ngài, là đàn chiên nơi đồng cỏ Ngài Hãy cảm tạ mà vào các cổng Ngài;Hãy ca ngợi mà vào sân Ngài;Hãy cảm tạ Ngài, hãy ca ngợi danh Ngài. Vì CHÚA là thiện; tình yêu thương Ngài vẫn còn mãi mãi;Lòng thành tín Ngài còn đến đời đời. Tôi sẽ ca hát về tình yêu thương và về sự công bình của Chúa.Lạy CHÚA, tôi sẽ ca tụng Ngài. Tôi sẽ cư xử khôn ngoan,Theo đường toàn vẹn.Ôi! Khi nào Ngài mới đến với tôi?Tôi sẽ lấy lòng thành thật mà sống trong nhà tôi; Tôi sẽ không để điều gì xấu xaTrước mặt tôi;Tôi ghét hành động của những kẻ từ bỏ Chúa;Tôi không để việc ác dính dấp đến tôi. Tôi sẽ lánh xa tâm trí đồi trụy,Tôi sẽ không biết đến điều ác. Tôi sẽ làm nín lặng kẻ lén lút nói xấuNgười lân cận mình;Còn người có mắt tự cao, có lòng kiêu ngạo,Tôi sẽ không dung tha. Mắt tôi đoái xem những người trung tín trong xứ;Họ sẽ được ở với tôi;Kẻ sống theo đường toàn vẹnSẽ được phục vụ tôi. Người lừa đảoSẽ không được ở trong nhà tôi;Kẻ nói dốiSẽ không được đứng trước mặt tôi. Mỗi buổi sáng tôi sẽ diệt bỏTất cả những kẻ ác trong xứ;Loại trừ mọi kẻ gian tàKhỏi thành của CHÚA. Lạy CHÚA, xin nghe lời cầu nguyện của tôi;Nguyện tiếng kêu cứu của tôi thấu đến Ngài. Xin chớ lánh mặt cùng tôiKhi tôi bị khốn khó;Xin lắng tai ngheVà mau mau đáp lời khi tôi cầu khẩn. Vì các ngày tháng đời tôi tiêu tan như mây khói;Xương cốt tôi đốt cháy như than lửa đỏ. Lòng tôi như cỏ xanh bị giập nátVà khô héo vì tôi quên cả ăn uống; Tôi chỉ còn xương bọc daVì than khóc nhiều. Tôi giống như diều hâu trong sa mạc,Như chim cú ở những nơi hoang tàn. Tôi thao thức; tôi giống nhưChim sẻ cô đơn trên mái nhà. Suốt ngày những kẻ thù nhục mạ tôi;Những kẻ chế nhạo tôi dùng tên tôi để nguyền rủa. Tôi đã ăn tro bụi thay cho bánh;Thức uống tôi hòa lẫn với nước mắt, Vì cơn phẫn nộ và giận dữ của Ngài;Vì Ngài đưa tôi lên và ném tôi ra xa. Ngày tháng đời tôi như bóng hoàng hôn kéo dài;Tôi khô héo như cỏ. Nhưng lạy CHÚA, chính Ngài vẫn ngự trên ngai mãi mãi;Danh Ngài còn đến đời đời. Ngài sẽ đứng lên và thương xót Si-ôn;Vì đây là lúc Ngài ban ân huệ cho Si-ôn;Vì thời điểm ấn định đã đến. Vì các tôi tớ Ngài vẫn yêu quý những viên đá thành Si-ônVà thương xót cả đến bụi đất của nó nữa. Bấy giờ các nước sẽ kính sợ danh CHÚAVà mọi vua trên đất sẽ kính trọng vinh quang Ngài. Vì CHÚA sẽ xây dựng lại thành Si-ôn;Ngài sẽ xuất hiện trong vinh quang. Đức Chúa Trời nghe lời cầu nguyện của những kẻ khốn cùngVà không khinh thường lời nài xin của họ. Hãy ghi chép điều này cho thế hệ mai sau;Một dân sẽ được tạo nên sẽ ca ngợi CHÚA. Vì từ nơi cao cả thánh khiết CHÚA nhìn xuống;Từ trời Ngài nhìn xuống trái đất; Để nghe lời than khóc của kẻ bị tùVà giải phóng những người bị định phải chết; Hầu cho danh của CHÚA được công bố ở Si-ônVà lời ca ngợi Ngài tại Giê-ru-sa-lem; Khi các dân, các vương quốcHọp nhau lại để phụng vụ CHÚA. Ngài làm cho sức lực tôi suy yếu ngay giữa đường đời;Ngài cắt ngắn ngày tháng đời tôi. Tôi thưa:“Lạy Đức Chúa Trời tôi, các năm Ngài tồn tại đời đời;Xin chớ cắt ngắn các ngày của đời tôi. Từ xưa, Ngài lập nên trái đất;Tay Ngài làm ra các tầng trời. Trời đất sẽ bị hủy hoại nhưng Ngài vẫn trường tồn;Chúng nó tất cả như chiếc áo cũ sờn;Ngài sẽ thay thế chúng như thay y phục;Chúng sẽ bị bỏ đi. Nhưng Ngài vẫn y nguyên;Các năm của Ngài không bao giờ cùng. Con cháu các tôi tớ Ngài sẽ được lưu truyềnVà dòng dõi họ sẽ được thiết lập trước mặt Ngài.” Hỡi linh hồn ta, hãy ca tụng CHÚA;Hãy hết lòng ca tụng Danh Thánh Ngài. Hỡi linh hồn ta, hãy ca tụng CHÚA;Chớ quên tất cả các ân huệ Ngài. Ngài tha thứ hết tội lỗi tôi,Chữa lành mọi bệnh tật tôi. Ngài cứu chuộc mạng sống tôi khỏi mồ sâu;Lấy tình yêu thương và thương xót làm mão triều đội cho tôi. Năm tháng tôi được thỏa mãn với vật ngon;Tuổi trẻ của tôi được tăng thêm sức mới như chim phượng hoàng. CHÚA hành động công chínhVà xét xử công bình cho mọi kẻ bị áp bức. Ngài cho Môi-se biết đường lối NgàiVà cho con dân Y-sơ-ra-ên biết các việc quyền năng Ngài. CHÚA có lòng thương xót và ban ân huệ;Ngài chậm nóng giận và nhiều tình yêu thương. Ngài không quở trách chúng ta luôn luôn,Cũng không tức giận chúng ta mãi mãi. Ngài không đối xử với chúng ta theo như tội lỗi chúng ta vi phạm;Ngài không báo trả chúng ta theo như gian ác chúng ta đã làm. Vì trời cao hơn đất bao nhiêuThì tình yêu thương của Ngài cũng lớn bấy nhiêuCho những người kính sợ Ngài. Phương đông xa cách phương tây thể nàoThì Ngài cũng loại bỏ các vi phạm của chúng ta xa thể ấy. Như cha thương xót con cái thể nàoThì CHÚA cũng thương xót những người kính sợ Ngài thể ấy. Vì Ngài biết chúng ta đã được tạo nên cách nào;Ngài nhớ rằng chúng ta chỉ là bụi đất. Đời người như cây cỏ;Như hoa ngoài đồng trổ hoa; Khi gió thổi qua, hoa kia biến mất;Người ta không còn nhìn thấy nó nữa. Nhưng tình yêu thương của CHÚA hằng còn đời đờiCho những người kính sợ Ngài;Và sự công chính của Ngài cho con cháu họ; Là những người gìn giữ giao ước NgàiVà ghi nhớ tuân hành các mạng lệnh Ngài. CHÚA lập ngôi Ngài trên trời;Quyền cai trị Ngài trên khắp mọi vật. Hỡi các thiên sứ Ngài,Là các vị quyền năng dũng mãnh làm theo đường lối NgàiVà nghe theo tiếng phán Ngài; hãy ca tụng CHÚA. Hỡi cả thiên binh Ngài, là các tôi tớ làm theo ý Ngài;Hãy ca tụng CHÚA. Hỡi cả tạo vật ở trong khắp mọi nơi trong vương quốc Ngài, hãy ca tụng CHÚA.Hỡi linh hồn ta, hãy ca tụng CHÚA. Hỡi linh hồn ta, hãy ca tụng CHÚA.Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời tôi, Ngài thật vĩ đại thay!Ngài trang phục bằng vinh quang và oai nghiêm. Ngài choàng mình bằng chiếc áo ánh sáng;Ngài căng các tầng trời ra như căng lều trại; Ngài dựng cột xây cung điện trên các lớp nước;Ngài lấy mây làm xeVà bước đi trên cánh gió. Ngài sai gió làm sứ giảVà lấy ngọn lửa làm tôi tớ. Ngài lập đất trên các nền,Cho nên đời đời nó sẽ không lay chuyển. Ngài dùng vực sâu bao bọc nó như chiếc áo;Nước được dâng cao hơn các núi. Ngài quở trách, chúng phải bỏ trốn;Nghe tiếng sấm của Ngài chúng vội bỏ chạy. Núi non nâng cao;Thung lũng hạ thấp,Nước chạy đến chỗ Ngài đã định cho chúng. Ngài định giới hạn để nước không vượt qua,Không tràn ngập trái đất nữa. Ngài làm các suối phun lên nơi thung lũng,Chảy qua giữa các đồi; Chúng cung cấp nước cho tất cả thú rừng;Những con lừa hoang cũng được giải khát. Chim chóc làm tổ bên các giòng suốiVà cất tiếng hót trên những cành cây. Từ cung điện trên cao Ngài tưới núi non;Đất đai tràn ngập hoa quả nhờ công việc Ngài. Ngài làm cỏ xanh mọc lên cho súc vật,Cây cối mà loài người trồng trọtTừ đất, nơi cung cấp thực phẩm; Rượu nho làm lòng người vui vẻ;Dầu ô-liu làm cho da mặt tươi sángVà thực phẩm để tâm thần người ta mạnh mẽ. Cây cối của CHÚA được tưới đầy đủ;Ấy là các cây tùng mà Ngài đã trồng tại Li-ban; Trên ấy chim chóc làm tổ;Còn cò thì lấy cây thông làm chỗ ở; Các núi cao là nơi ở của dê rừng;Những vách đá là chỗ trú ẩn của chuột đồng. Ngài đã làm nên mặt trăng để phân định mùa;Mặt trời biết giờ nó lặn. Ngài tạo nên bóng tối, ấy là đêm;Lúc ấy tất cả thú rừng đi ra. Các sư tử tơ gầm thét tìm mồi;Chúng đi kiếm mồi do Đức Chúa Trời cung cấp; Khi mặt trời mọc lên,Chúng nó rút về nằm trong hang; Còn loài người đi ra làm việc,Họ lao động cho đến chiều tối. Lạy CHÚA, công việc của Ngài nhiều biết bao!Ngài đã dùng khôn ngoan làm nên tất cả,Trái đất đầy dẫy tạo vật của Ngài. Kìa là biển cả vĩ đại bao la;Đầy những vật ở trong đó,Là những sinh vật nhỏ và lớn không thể đếm được; Ở đó tàu thuyền đi lại;Lê-vi-a-than mà Ngài đã tạo ra cũng đùa giỡn nơi đó. Tất cả đều ngưỡng trông NgàiĐể Ngài ban cho đồ ăn đúng thì. Chúa ban cho chúng,Chúng nhận lấy;Ngài mở bàn tay ra,Chúng được no nê vật ngon. Khi Ngài lánh mặt đi,Chúng kinh hoàng;Khi Ngài cất sinh khí đi,Chúng chết và trở về bụi đất. Khi Ngài ban Thần của Ngài đến,Sinh vật được tạo nênVà Ngài làm mới lại mặt đất. Nguyện vinh quang của CHÚA còn mãi mãi;Nguyện CHÚA vui vẻ về công việc Ngài. Ngài nhìn trái đất, đất run rẩy;Ngài sờ đến núi non, núi bốc khói. Trọn đời, tôi sẽ ca hát cho CHÚA;Suốt đời, tôi sẽ ca tụng Đức Chúa Trời tôi. Nguyện sự suy tư của tôi đẹp lòng NgàiVì tôi vui mừng trong CHÚA. Nguyện kẻ tội lỗi bị diệt khỏi đấtVà kẻ gian ác không còn nữa.Hỡi linh hồn ta, hãy ca tụng CHÚA!Ha-lê-lu-gia! Hãy cảm tạ CHÚA, hãy cầu khẩn Danh Ngài;Hãy truyền cho muôn dân biết các việc quyền năng Ngài. Hãy ca hát cho Chúa, hãy ca ngợi Ngài;Hãy công bố tất cả những việc diệu kỳ của Ngài. Thật vinh hạnh ở trong danh thánh Ngài;Nguyện lòng những người tìm kiếm CHÚA được vui vẻ. Hãy tìm kiếm CHÚA và sức lực Ngài;Hãy luôn luôn tìm kiếm sự hiện diện Ngài. Hãy ghi nhớ những việc diệu kỳ Ngài đã làm;Những phép lạ và những phán xét miệng Ngài đã phán. Hỡi dòng dõi Áp-ra-ham, tôi tớ Ngài;Hỡi con cái Gia-cốp, những người Ngài chọn. Chính Ngài, CHÚA là Đức Chúa Trời chúng ta;Các phán xét của Ngài là cho toàn trái đất. Ngài nhớ giao ước Ngài mãi mãi,Và nhớ lời Ngài đã truyền đến ngàn đời; Giao ước mà Ngài đã lập với Áp-ra-ham,Lời thề mà Ngài đã thề cùng Y-sác; Ngài cũng xác nhận nó với Gia-cốp như một quy luật;Với Y-sơ-ra-ên như một giao ước đời đời. Ngài phán: Ta sẽ ban cho ngươi vùng đất Ca-na-an,Là sản nghiệp của các ngươi. Lúc ấy họ là một nhóm nhỏ,Ít người, là kiều dân tạm trú trong xứ; Đi từ nước này sang nước nọ;Từ vương quốc này đến dân tộc khác. Ngài không để ai áp bức họ;Vì cớ họ, Ngài quở trách các vua; Rằng: “Chớ đụng đến những người được ta xức dầu,Đừng làm hại các tiên tri của ta.” Ngài đem đói kém đến trong xứ;Ngài hủy hoại nguồn lương thực của chúng. Ngài sai một người đi trước họ,Là Giô-sép bị bán làm nô lệ. Chân người bị cùm đau đớn;Cổ người phải đeo xiềng sắt, Cho đến khi lời tiên đoán của người được ứng nghiệm.Lời của CHÚA chứng nghiệm người là đúng. Vua sai tha Giô-sép;Đấng cai trị các dân phóng thích người. Vua đặt người cai quản cung vua,Lập người quản trị mọi tài sản mình; Để giáo huấn các quan theo ý mìnhVà dạy dỗ các trưởng lão của vua khôn ngoan. Bấy giờ ông Y-sơ-ra-ên xuống Ai-cập,Tức là Gia-cốp kiều ngụ trong xứ Cham. Chúa làm cho dân Ngài tăng thêm nhiềuVà mạnh hơn kẻ thù họ. Ngài làm người Ai-cập trở lòng ghét dân Ngài;Chúng đối xử xảo trá với các tôi tớ Ngài. Ngài sai Môi-se, tôi tớ NgàiVà A-rôn, người Ngài đã chọn. Họ thực hiện những dấu lạ ở giữa chúng;Làm những phép lạ tại đất Cham. Ngài sai tối tăm đến khiến xứ mù mịt;Để chúng không chống nghịch Ngài. Ngài biến nước của chúng thành máu;Làm cho cá chết hết. Đất đai chúng nó tràn ngập ếch nhái,Đầy cả trong cung thất của vua. Ngài phán, hàng loạt ruồi mòng bay đến,Muỗi đến trên khắp bờ cõi chúng nó. Thay vì mưa Ngài giáng mưa đá xuống trên chúng,Làm lửa cháy khắp trên đất. Ngài phá hủy vườn nho lẫn cây vả;Bẻ gãy cây cối trong bờ cõi chúng. Ngài phán bảo châu chấu kéo đến,Cào cào nhiều vô số kể; Chúng ăn hết cây cỏ trên đất;Chúng ăn sạch mùa màng nơi đồng ruộng. Ngài diệt tất cả các con trưởng nam tại Ai-cập,Là trái đầu mùa của nguồn sinh lực chúng. Bấy giờ Ngài dẫn dân Ngài ra đi với đầy vàng lẫn bạc;Không một ai trong các chi tộc yếu đuối. Ai-cập vui vẻ khi dân Ngài ra điVì chúng nó kinh hoàng về họ. Ngài trải mây ra để che chở;Lửa để soi sáng ban đêm. Dân Ngài cầu xin,Ngài ban cho họ chim cút và bánh từ trời ăn no nê. Ngài chẻ đá, nước phun ra,Chảy trong sa mạc như dòng sông. Vì Ngài nhớ lại lời hứa thánhNgài đã ban cho Áp-ra-ham, tôi tớ Ngài; Nên Ngài dẫn dân Ngài ra đi với sự vui mừng,Tức là những người Ngài đã chọn ra đi trong tiếng ca hát khải hoàn. Ngài ban cho họ đất đai của các nước,Thừa hưởng công lao của các dân. Để cuối cùng họ vâng theo các quy luậtVà gìn giữ kinh luật Ngài.Ha-lê-lu-gia! Ha-lê-lu-gia!Hãy cảm tạ CHÚA vì Ngài là thiện;Tình yêu thương kiên trì của Ngài còn mãi mãi. Ai có thể kể lại các việc quyền năng của CHÚA?Công bố hết những lời ca ngợi Ngài? Phước cho người nào giữ sự công bình,Luôn luôn làm điều công chính. Lạy CHÚA, Xin nhớ đến tôi khi Ngài ban ơn cho dân Ngài;Xin thăm viếng tôi khi Ngài giải cứu họ; Để tôi thấy sự tốt lành giữa những người được Ngài chọn;Để chia sẻ niềm vui của đất nước NgàiVà cùng ca ngợi với cơ nghiệp Ngài. Chúng tôi cùng tổ tiên chúng tôi đã phạm tội;Chúng tôi đã làm điều sai; đã hành động gian ác. Tại Ai-cập tổ tiên chúng tôiĐã không nhận thấy các phép lạ của Ngài;Không nhớ đến tình yêu thương dồi dào của Ngài,Nhưng họ đã nổi loạn bên bờ biển, tức là biển Đỏ. Nhưng Ngài đã vì danh Ngài giải cứu họĐể bày tỏ quyền năng Ngài. Ngài quở trách Biển Đỏ và nó khô cạn;Ngài dẫn họ đi qua biển sâu như đi trên sa mạc. Ngài giải cứu họ khỏi tay kẻ thùVà cứu chuộc họ khỏi tay thù nghịch. Nước tràn ngập các kẻ thù của họ,Không một người thoát khỏi. Bấy giờ họ tin lời ChúaVà hát ca ngợi Ngài. Nhưng họ vội quên những việc làm của Chúa;Không chờ đợi kế hoạch của Ngài. Tại sa mạc họ sinh lòng thèm khátVà thử Đức Chúa Trời nơi đồng hoang. Ngài ban cho họ điều họ cầu xinNhưng sai bệnh tật tổn hại đến với đời sống họ. Tại nơi đóng trại họ ghen ghét Môi-seVà A-rôn, là người được biệt riêng ra cho CHÚA. Đất nứt ra nuốt Đa-thanVà lấp nhóm A-bi-ram. Lửa bùng cháy giữa nhóm họ;Ngọn lửa thiêu đốt những kẻ ác. Họ làm một con bò con tại Hô-rếpRồi thờ lạy tượng đúc. Họ thay thế Đấng Vinh Quang của họBằng tượng một con bò ăn cỏ. Họ quên Đức Chúa Trời là Đấng cứu rỗi họ;Là Đấng đã làm những việc vĩ đại tại Ai-cập; Đấng đã làm những phép lạ tại đất Cham;Những việc kinh hoàng tại Biển Đỏ. Nên Ngài phán rằng Ngài sẽ hủy diệt họ,Nếu không nhờ Môi-se, người Ngài chọn,Đứng lên trước mặt Chúa can giánĐể Ngài từ bỏ cơn thịnh nộ hủy diệt họ. Thế rồi họ khinh bỉ miền đất ước mơ;Họ không tin lời hứa của Ngài. Họ cằn nhằn trong trại mình,Không nghe theo lời của CHÚA. Nên Chúa đưa tay thề rằngNgài sẽ làm chúng ngã chết trong sa mạc; Làm dòng dõi chúng chạy tán loạn giữa các nước;Bị tản mác trong các xứ. Tổ tiên chúng tôi đã thờ thần Ba-anh tại Phê-ô,Ăn đồ cúng tế cho kẻ chết. Những hành động của họ làm Chúa giậnVà một cơn dịch phát ra ở giữa họ. Bấy giờ Phi-nê-a đứng lên can thiệpVà cơn dịch ngừng lại. Từ đời nọ đến đời kia,Việc này được kể là hành động công chính mãi mãi của người. Tổ tiên chúng tôi làm Chúa giận vì vụ nước uống tại Mê-ri-ba;Vì cớ họ Môi-se cũng mang lụy vào thân. Vì họ làm tinh thần người cay đắngNên môi miệng người nói những lời thiếu suy nghĩ. Họ không hủy diệt các dânNhư CHÚA đã ra lệnh; Nhưng thông gia với các nướcVà học làm theo những điều chúng làm. Họ phụng vụ các tượng thần của chúngVà điều này trở thành cái bẫy hủy hoại họ. Họ dâng con trai,Con gái họ làm sinh tế cho ma quỷ. Họ đã làm đổ máu vô tội,Là máu của những con trai, con gái mìnhMà họ đã dâng tế cho các thần tượng tại Ca-na-an;Nên đất đã bị ô uế vì máu đó. Vì thế họ đã trở thành ô uế vì công việc mìnhVà thành đĩ điếm vì hành động mình. CHÚA nổi giận cùng dân mình;Ngài ghê tởm cơ nghiệp Ngài. Ngài trao họ vào tay các nướcVà cho những kẻ ghét chúng cai trị trên chúng. Những kẻ thù áp bức họVà họ bị khuất phục dưới tay chúng. Nhiều lần Ngài đã giải cứu họNhưng họ vẫn cố ý phản loạnVà càng chìm sâu trong tội lỗi mình. Dù vậy khi nghe tiếng kêu van,Ngài chú tâm đến sự khốn khổ của họ. Vì cớ họ Ngài nhớ lại giao ước mình;Vì tình yêu thương dồi dào, Ngài thương xót họ. Ngài làm cho họ được ơn trước mặtTất cả những kẻ bắt họ đi lưu đày. Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời chúng tôi, xin giải cứu chúng tôi;Xin tập trung chúng tôi lại từ các nước,Để chúng tôi cảm tạ danh thánh NgàiVà được vinh hạnh trong lời ca ngợi Ngài. CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ênĐáng được ca ngợi đến đời đời, vô cùng.Tất cả toàn dân hãy nói: A-men!Ha-lê-lu-gia! Hãy cảm tạ CHÚA vì Ngài là thiện;Vì tình yêu thương kiên trì của Ngài còn mãi mãi. Nguyện những người được cứu chuộc của CHÚA,Những người được cứu chuộc khỏi tay kẻ thù, hãy nói như vậy; Những người được tập trung từ các xứ,Từ phương đông, phương tây, phương bắc, phương nam. Những người lưu lạc trong sa mạc, nơi đồng hoang;Họ không tìm thấy đường vào thành cư trú. Họ bị đói khát,Tinh thần tuyệt vọng. Trong cơn gian truân họ cầu khẩn CHÚAVà Ngài giải cứu họ khỏi cảnh khốn cùng. Ngài dẫn họ bằng một con đường thẳng,Họ đến được thành cư trú. Nguyện họ cảm tạ CHÚA vì tình yêu thương kiên trì của Ngài,Vì các việc diệu kỳ Ngài đã làm cho con cái loài người; Vì Ngài cho người khát được giải khátVà người đói được no với những vật ngon. Những kẻ ở trong tối tăm và trong bóng sự chết;Những tù nhân trong đau khổ và xiềng xích; Vì họ đã chống lại các lời của Đức Chúa TrờiVà khinh bỉ sự cố vấn của Đấng Chí Cao. Ngài làm cho lòng họ tan nát vì lao động nhọc nhằn;Họ ngã quỵ nhưng không ai cứu giúp. Trong cơn gian truân họ cầu khẩn CHÚAVà Ngài giải cứu họ khỏi cảnh khốn cùng. Ngài đem họ ra khỏi tối tăm và bóng sự chết,Đập tan xiềng xích cho họ. Nguyện họ cảm tạ CHÚA vì tình yêu thương kiên trì của Ngài,Vì các việc diệu kỳ Ngài đã làm cho con cái loài người; Vì Ngài đã đập tan cửa đồngVà chặt đôi các song sắt. Một số người ngu dại bị đau khổVì theo đường tội lỗi và gian ác. Linh hồn họ ghê tởm mọi thức ăn,Nên họ đi đến gần cổng sự chết; Trong cơn gian truân họ cầu khẩn CHÚAVà Ngài giải cứu họ khỏi cảnh khốn cùng. Ngài ban lời của Ngài đến và chữa lành cho họ;Ngài giải cứu họ khỏi huyệt sâu. Nguyện họ cảm tạ CHÚA vì tình yêu thương kiên trì của Ngài,Vì các việc diệu kỳ Ngài đã làm cho con cái loài người. Nguyện họ dâng tế lễ tạ ơnVà công bố những công việc của Ngài qua những bài ca vui vẻ. Có người đi trên biển bằng tàu;Họ làm việc trên biển cả. Họ thấy công việc của CHÚA,Những việc diệu kỳ nơi vực sâu. Ngài phán, bão tố nổi lên,Sóng biển dâng cao. Họ bị đưa lên tận trời cao rồi kéo xuống vực thẳm;Tâm hồn tan vỡ vì khốn khổ. Họ lảo đảo, ngả nghiêng như người say rượu;Mọi sự khôn ngoan của họ đều tiêu mất. Trong cơn gian truân họ cầu khẩn CHÚAVà Ngài giải cứu họ khỏi cảnh khốn cùng. Ngài làm cho bảo tố yênVà sóng gió lặng. Họ vui mừng vì biển yên lặng;Ngài đưa họ đến bến họ mơ ước. Nguyện họ cảm tạ CHÚA vì tình yêu thương kiên trì của Ngài,Vì các việc diệu kỳ Ngài đã làm cho con cái loài người. Nguyện họ tán dương Ngài giữa hội dânVà ca tụng Ngài trong hội đồng trưởng lão. Ngài biến các sông thành sa mạc;Ngài đổi các suối nước thành đất khô; Đất đai màu mỡ thành vùng hoang vu đất mặn,Vì sự gian ác của dân cư tại đó. Ngài biến sa mạc thành những hồ ao,Đất khô thành các suối nước; Ngài cho những người đói khát định cư tại đóĐể họ thiết lập thành phố để cư trú. Họ gieo hạt nơi đồng ruộng,Trồng các vườn nho và vụ mùa tươi tốt. Ngài ban phước cho, họ sinh sản thêm nhiều;Số súc vật của họ cũng không bị sút kém. Khi họ bị giảm sút, bị chà đạpVì áp bức, hoạn nạn và đau khổ; Ngài đổ sự khinh bỉ trên những người quyền quý của họ,Khiến họ lưu lạc trong sa mạc không đường hướng. Nhưng Ngài nâng đỡ kẻ khốn khó ra khỏi cảnh gian truânVà làm cho gia đình họ đông đúc như đàn chiên. Những người ngay thẳng thấy và vui mừng;Còn mọi kẻ ác phải câm miệng. Ai là người khôn ngoan, hãy chú tâm đến những điều nàyVà suy gẫm đến tình yêu thương kiên trì của CHÚA. Lạy Đức Chúa Trời, lòng tôi kiên định.Tôi sẽ hát, phải, linh hồn tôi sẽ ca ngợi Ngài. Hỡi đàn hạc và đàn lia, hãy tỉnh thức;Ta sẽ đánh thức hừng đông dậy. Lạy CHÚA, Tôi sẽ cảm tạ Ngài trong các dân;Tôi sẽ ca ngợi Ngài giữa các nước. Vì tình yêu thương của Ngài lớn hơn các tầng trời;Sự thành tín của Ngài cao đến tận các tầng mây. Lạy Đức Chúa Trời, nguyện Ngài được tôn cao hơn các tầng trời,Nguyện vinh quang Ngài tỏa khắp trái đất. Để những người yêu dấu của Ngài được giải cứu;Nguyện Ngài dùng tay phải Ngài cứu rỗi chúng tôi và đáp lời chúng tôi. Từ nơi thánh của Ngài Đức Chúa Trời phán:Ta sẽ hân hoan chia cắt Si-chemVà phân phối thung lũng Su-cốt. Ga-la-át thuộc về ta, Ma-na-se cũng thuộc về ta;Ép-ra-im là mũ miện bảo vệ đầu taGiu-đa là gậy uy quyền của ta. Mô-áp là bồn tắm rửa của ta,Ta sẽ cởi dép ra trên Ê-đôm;Ta sẽ reo hò chiến thắng trên Phi-li-tin. Ai sẽ đưa tôi vào thành kiên cố?Ai sẽ dẫn tôi đến Ê-đôm? Lạy Đức Chúa Trời, không lẽ Ngài là đấng đã từ bỏ chúng tôi sao?Hỡi Đức Chúa Trời, sao Ngài không còn xông pha chiến trận cùng quân đội chúng tôi nữa? Xin Chúa giúp chúng tôi chống lại kẻ thù;Vì sự cứu giúp của người phàm là vô vọng. Nhờ Đức Chúa Trời chúng tôi sẽ chiến thắngVì Ngài sẽ chà đạp các kẻ thù chúng tôi. Lạy Đức Chúa Trời, tôi ca ngợi Ngài,Xin chớ im lặng. Vì miệng độc ác và gian dốiĐã mở ra chống lại tôi;Chúng nói nghịch tôi bằng lưỡi dối trá. Chúng bao vây tôi bằng những lời thù ghét;Chúng tấn công tôi vô cớ. Chúng đã buộc tội tôi dù tôi yêu thương chúngVà cầu nguyện cho chúng. Chúng lấy điều dữ để báo đáp điều lành cho tôi;Chúng lấy thù ghét để báo đáp tình thương. Nguyện xin một kẻ ác sẽ xử nó,Kẻ tố cáo sẽ đứng bên phải nó. Khi bị xét xử, nguyện nó bị định tội;Nguyện lời cầu nguyện của nó bị kể như tội lỗi. Nguyện ngày tháng đời nó sẽ ngắn đi,Nguyện kẻ khác sẽ chiếm chỗ của nó. Nguyện con cái nó thành trẻ mồ côi,Vợ nó sẽ thành người góa bụa. Nguyện con cái nó phải đi lang thang và ăn xin;Chúng nó phải đi kiếm ăn từ nơi ở đổ nát của chúng. Nguyện chủ nợ tịch thu tất cả tài sản nó;Nguyện người ngoại quốc cướp mất công lao của nó. Nguyện không ai thương hại nó;Chẳng ai thương xót con cái mồ côi của nó. Nguyện con cháu nó bị diệt đi;Tên nó sẽ bị xóa bỏ vào thế hệ thứ hai. Nguyện sự gian ác của tổ tiên nó vẫn còn ghi nhớ trước mặt CHÚA,Tội lỗi của mẹ nó cũng không được xóa đi. Nguyện các tội lỗi ấy hằng ở trước mặt CHÚA;Nhưng Ngài xóa bỏ tên họ khỏi mặt đất. Vì nó đã không nhớ làm điều nhân từNhưng cứ săn đuổi và giết chếtKẻ nghèo khổ, khốn khó và đau khổ. Nó ưa thích nguyền rủa,Nguyện nó bị rủa sả;Nó không thích chúc phúc lành,Nguyện điều phúc lành cách xa nó. Nó trang phục bằng lời nguyền rủa như chiếc áo khoác;Nguyện sự nguyền rủa thấm vào người nó như nước,Ngấm vào xương nó như dầu. Nguyện sự nguyền rủa như chiếc áo quấn quanh người nó,Như cái nịt lưng nó luôn luôn thắt quanh hông. Nguyện CHÚA báo trả như vậy cho những kẻ buộc tội tôi,Và cho những kẻ nói điều ác hại mạng sống tôi. Nhưng chính Ngài, lạy CHÚA, là Đấng Chủ Tể.Xin vì danh Ngài hành động bênh vực tôi.Vì tình yêu thương của Ngài là tốt lành, xin giải cứu tôi. Vì tôi nghèo khổ và khốn khó;Lòng tôi đau đớn trong tôi. Tôi sắp qua đi như bóng hoàng hôn;Tôi bị giũ sạch như sâu bọ. Đầu gối tôi yếu mỏn đi vì kiêng ăn;Thân thể tôi gầy còm và hốc hác. Tôi trở thành vật chúng khinh bỉ;Khi thấy tôi chúng lắc đầu. Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời tôi, xin giúp đỡ tôi;Vì tình yêu thương của Ngài xin cứu rỗi tôi; Xin cho chúng biết rằng tay Ngài đã cứu rỗi tôi;Chính CHÚA đã làm điều đó. Hãy để chúng nguyền rủa nhưng chính Ngài lại chúc phước;Hãy để chúng nổi lên nhưng chúng sẽ bị hổ thẹn;Còn tôi tớ Ngài sẽ vui mừng. Kẻ buộc tội tôi sẽ mặc lấy sự nhục nhã;Sự hổ thẹn sẽ bao phủ chúng như áo choàng. Miệng tôi sẽ vô cùng cảm tạ CHÚA;Tôi sẽ ca ngợi Ngài giữa công chúng; Vì Ngài đã đứng bên cạnh bênh vực người nghèo khóVà cứu rỗi mạng sống người khỏi những kẻ kết tội người. CHÚA phán với Chúa tôi:“Hãy ngồi bên phải ta,Cho đến khi ta đặt các kẻ thù ngươiLàm bệ dưới chân ngươi.” Từ Si-ôn CHÚA sẽ mở rộng vương quyền của ngươi.Hãy cai trị giữa các kẻ thù ngươi. Trong ngày lâm chiếnDân ngươi sẽ hiến mình tình nguyện;Từ lúc sáng sớm rạng đông,Những thanh niên tuấn túĐược trang sức thánh sẽ đến với ngươi. CHÚA đã thềVà sẽ không đổi ý rằng:“Ngươi là thầy tế lễ đời đời,Theo ban Mên-chi-xê-đéc.” Chúa ở bên phải ngươi;Trong ngày thịnh nộ, Ngài sẽ đập tan các vua. Ngài sẽ phán xét các nước, làm thây người chất đống;Ngài đập tan các lãnh tụ trên khắp trái đất. Vua sẽ uống nước từ con suối bên đường,Nhờ đó người sẽ ngước đầu lên. Ha-lê-lu-gia!Tôi sẽ hết lòng cảm tạ CHÚAGiữa hội của những người ngay thẳng. Các việc của CHÚA đều vĩ đại;Tất cả những ai yêu thích những việc ấy đều nên suy gẫm. Công việc của Ngài vinh hiển và uy nghi,Đức công chính của Ngài còn đến muôn đời. Ngài làm những việc diệu kỳ đáng ghi nhớ.CHÚA ban ân huệ và có lòng thương xót. Ngài ban thực phẩm cho những người kính sợ Ngài;Ngài luôn luôn ghi nhớ giao ước Ngài. Ngài đã bày tỏ cho dân Ngài những công việc quyền năngBằng cách ban cho họ những sản nghiệp của các nước. Công việc của tay Ngài là trung tín và công bình;Mọi mạng lệnh của Ngài đều đáng tin cậy, Được vững lập đời đời để thi hànhTrong sự chân thật và ngay thẳng. Ngài ban cho dân Ngài sự cứu chuộc;Ngài truyền lập giao ước Ngài đến đời đời.Danh Ngài là thánh và đáng kính sợ. Kính sợ CHÚA là khởi đầu của sự khôn ngoan.Tất cả những ai làm theo các mạng lệnh Ngài được nhiều sáng suốt.Nguyện lời ca ngợi Ngài còn đến đời đời. Ha-lê-lu-gia!Phước cho người nào kính sợ CHÚA;Rất thích làm theo các điều răn của Ngài. Con cháu người sẽ cường thịnh trong xứ;Dòng dõi người ngay thẳng sẽ được phước. Của cải và giàu có ở trong nhà người;Phước công chính của người sẽ còn mãi mãi. Ánh sáng chiếu vào nơi tối tăm cho người ngay thẳng,Tức là người ban ân huệ, có lòng thương xót và công chính. Phúc lành cho người hay ban ơn và cho mượn,Là người điều hành công việc mình một cách công bình. Vì người công chính sẽ chẳng bao giờ bị lay chuyển,Người sẽ được ghi nhớ đến muôn đời. Người sẽ không sợ hãi vì các tin dữ;Lòng người kiên định; người tin cậy nơi CHÚA. Người vững tâm, không sợ hãi;Cho đến khi nhìn đắc thắng trên các kẻ thù. Người bố thí rộng rãi cho người nghèo khó;Sự công chính của người sẽ còn mãi mãi;Uy lực người sẽ được nâng cao trong vinh hiển. Kẻ ác sẽ thấy và tức giận;Nghiến răng và chết mất.Tham vọng của những kẻ ác sẽ tiêu tan. Ha-lê-lu-gia!Hỡi các tôi tớ CHÚA, hãy ca ngợi,Hãy ca ngợi danh CHÚA. Danh của CHÚA đáng được ca tụngTừ nay cho đến đời đời. Từ đông sang tây,Danh CHÚA đáng được ca ngợi. CHÚA cao cả hơn tất cả các nước;Vinh quang của Ngài cao hơn các tầng trời. Ai giống như CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta?Đấng ngự trên cao. Ngài cúi xuống xem xét trời và đất. Ngài nâng đỡ kẻ nghèo khổ lên khỏi bụi tro;Ngài nhấc người khốn khó lên khỏi rác rến. Ngài đặt họ ngồi chung với các hoàng tử,Cùng các hoàng tử của dân Ngài. Ngài làm người đàn bà hiếm muộn trong nhàThành bà mẹ vui vẻ với đàn con.Ha-lê-lu-gia! Khi Y-sơ-ra-ên ra đi từ Ai-cập,Khi nhà Gia-cốp rời khỏi một dân nói tiếng ngoại quốc. Giu-đa trở nên đền thánh của Ngài,Y-sơ-ra-ên trở nên dân Ngài cai trị. Biển thấy và chạy trốn;Sông Giô-đanh chảy ngược trở lui. Các núi nhảy lên như chiên đực;Các đồi nhảy vọt như chiên con. Hỡi biển, tại sao ngươi chạy trốn?Hỡi sông Giô-đanh, sao ngươi chảy ngược trở lui? Hỡi các núi, sao các ngươi nhảy lên như chiên đực;Hỡi các đồi, sao các ngươi nhảy vọt như chiên con? Hỡi đất, hãy run rẩy trước mặt Chúa;Tức là trước mặt Đức Chúa Trời của Gia-cốp; Đấng biến tảng đá thành ao nước;Đá cứng thành suối nước. Không phải chúng tôi, lạy CHÚA, không phải chúng tôi;Nhưng vinh quang xứng đáng thuộc về danh Chúa,Vì tình yêu thương và lòng thành tín của Ngài. Tại sao các nước dám hỏi rằng:Đức Chúa Trời của chúng nó ở đâu? Đức Chúa Trời chúng ta ở trên trời,Ngài làm bất cứ điều gì Ngài muốn. Các tượng thần của chúng nó là bạc và vàng;Là sản phẩm do tay người làm ra. Các tượng ấy có miệng nhưng không nói được,Có mắt nhưng không thấy; Có tai nhưng không nghe được,Có mũi nhưng không ngửi; Có tay nhưng không cảm thấy gì,Có chân nhưng không đi;Và cuống họng không có tiếng thở. Những kẻ tạc các tượng thần sẽ trở nên giống như các tượng ấy;Và tất cả những kẻ tin cậy các tượng ấy cũng như vậy. Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy tin cậy nơi CHÚA;Vì chính Ngài là sự giúp đỡ và thuẫn che chở các ngươi. Hỡi nhà A-rôn, hãy tin cậy nơi CHÚA;Vì chính Ngài là sự giúp đỡ và thuẫn che chở các ngươi. Hỡi những người kính sợ CHÚA, hãy tin cậy nơi CHÚA;Vì chính Ngài là sự giúp đỡ và thuẫn che chở các ngươi. CHÚA lưu tâm đến chúng ta và sẽ chúc phước cho chúng ta.Ngài sẽ chúc phước cho nhà Y-sơ-ra-ên;Ngài sẽ chúc phước cho nhà A-rôn. Ngài sẽ chúc phước cho những người kính sợ CHÚA,Cả lớn lẫn nhỏ. Nguyện CHÚA làm các ngươi gia tăng,Cả các ngươi và con cháu các ngươi. Nguyện các ngươi được CHÚA ban phước,Là Đấng làm nên trời và đất. Các tầng trời cao nhất thuộc về CHÚANhưng Ngài ban đất cho loài người. Những kẻ chết không ca ngợi CHÚA;Mọi kẻ đi xuống Âm Phủ cũng không. Nhưng chúng tôi sẽ ca tụng CHÚATừ nay cho đến đời đời.Ha-lê-lu-gia! Tôi yêu mến CHÚAVì Ngài nghe lời cầu xin của tôi. Suốt đời, tôi cầu khẩn ChúaVì Ngài lắng tai nghe tôi. Dây Tử Thần buộc quanh tôi,Sự đau đớn của Âm Phủ nắm lấy tôi;Tôi đau khổ và sầu não; Nên tôi cầu khẩn danh CHÚA:Lạy CHÚA, xin giải cứu linh hồn tôi. CHÚA công chính và ban ân huệ;Đức Chúa Trời chúng ta có lòng thương xót. CHÚA gìn giữ người chân thật;Khi tôi bị nguy khốn Ngài giải cứu tôi. Hỡi linh hồn ta, hãy an tâm trở lại,Vì CHÚA đối xử rộng rãi cùng ngươi. Vì Ngài đã giải cứu linh hồn tôi khỏi chết,Mắt tôi khỏi giọt lệVà chân tôi khỏi vấp ngã. Tôi sẽ bước đi trước mặt CHÚATrong đất người sống. Tôi vẫn tin dù tôi nói:Tôi đau khổ vô cùng. Trong khi lo sợ tôi nói:Mọi người phàm đều không đáng tin cậy. Tôi sẽ lấy gì đền đáp CHÚAVề mọi ơn lành Ngài ban cho tôi? Tôi sẽ nâng chén cứu rỗi lên,Và cầu khẩn danh CHÚA. Tôi sẽ hoàn thành các lời tôi hứa nguyệnCho CHÚA trước mặt toàn dân Ngài. Sự chết của các thánh NgàiLà quý báu trước mặt CHÚA. Lạy CHÚA, chính tôi là tôi tớ Chúa,Tôi là tôi tớ Ngài, con trai của đầy tớ gái Ngài.Ngài đã giải phóng tôi khỏi gông cùm. Tôi sẽ dâng sinh tế tạ ơn NgàiVà cầu khẩn danh CHÚA. Tôi sẽ hoàn thành các lời tôi hứa nguyện cho CHÚA Trước mặt toàn dân Ngài; Trong sân đền CHÚAỞ giữa Giê-ru-sa-lem.Ha-lê-lu-gia! Hỡi tất cả các nước, hãy ca ngợi CHÚA.Hỡi tất cả các dân, hãy chúc tụng Ngài. Vì tình yêu thương của Ngài đối với chúng ta thật lớn lao;Và sự thành tín của CHÚA còn mãi mãi.Ha-lê-lu-gia! Hãy cảm tạ CHÚA vì Ngài là thiện;Vì tình yêu thương của Ngài còn đến đời đời. Nguyện Y-sơ-ra-ên nói rằng:Tình yêu thương của Chúa còn đến đời đời. Nguyện gia tộc thầy tế lễ A-rôn nói rằng:Tình yêu thương của Chúa còn đến đời đời. Nguyện những người thờ kính CHÚA nói rằng:Tình yêu thương của Chúa còn đến đời đời. Trong lúc hoạn nạn tôi cầu khẩn CHÚA,CHÚA đáp lời tôi và cho tôi được thung dung. CHÚA ở cùng tôi, tôi sẽ không sợ.Người phàm sẽ làm chi tôi? CHÚA ở cùng và giúp đỡ tôi,Tôi sẽ nhìn đắc thắng trên những kẻ ghét tôi. Nương náu mình nơi CHÚATốt hơn là tin cậy loài người. Nương náu mình nơi CHÚATốt hơn là tin cậy vua chúa. Mọi nước đều bao vây tôi,Nhờ danh CHÚA tôi diệt chúng nó. Chúng bao phủ tôi mọi phía,Phải, chúng bao vây tôi,Nhờ danh CHÚA tôi diệt chúng nó. Chúng bao phủ tôi như đàn ong;Chúng sẽ tàn lụi như lửa cháy bụi gai,Nhờ danh CHÚA tôi diệt chúng nó. Ngươi xô ta thật mạnh đặng ta ngãNhưng CHÚA giúp đỡ ta. CHÚA là sức mạnh và bài ca của ta;Ngài là sự cứu rỗi ta. Hãy nghe tiếng hát vui mừng đắc thắng trong trại người công chính.Tay phải CHÚA đã tạo nên chiến thắng. Tay phải CHÚA đã giương cao;Tay phải CHÚA đã tạo nên chiến thắng. Tôi sẽ không chết nhưng sẽ sốngVà công bố những công việc của CHÚA. CHÚA đã trừng phạt tôi nặng nềNhưng không để tôi chết. Hãy mở cho tôi các cổng công chính,Tôi sẽ vào và cảm tạ CHÚA. Đây là cổng của CHÚA,Những người công chính sẽ vào đó. Tôi cảm tạ CHÚA vì Ngài đáp lời tôi;Ngài là Đấng cứu rỗi tôi. Tảng đá người thợ xây nhà loại bỏĐã trở thành đá nền tảng. Đây là việc CHÚA đã làm,Là việc diệu kỳ trước mắt chúng ta. Đây là ngày CHÚA đã hành động,Hãy hân hoan và vui mừng trong ngày ấy. Lạy CHÚA, tôi nài xin Ngài, xin hãy cứu rỗi chúng tôi.Lạy CHÚA, tôi nài xin Ngài, xin cho chúng tôi được thành công. Phước cho đấng nhân danh CHÚA mà đến,Từ đền CHÚA chúng tôi chúc tụng. CHÚA là Đức Chúa Trời,Ngài ban cho chúng ta ánh sáng.Hãy lấy dây cột con sinh tếVào sừng bàn thờ. Ngài là Đức Chúa Trời tôi, tôi cảm tạ Chúa;Ngài là Đức Chúa Trời tôi, tôi tôn cao Ngài. Hãy cảm tạ CHÚA vì Ngài là thiện;Vì tình yêu thương Ngài còn đến đời đời. Phước cho những người đường lối mình không có gì đáng trách;Sống theo kinh luật của CHÚA. Phước cho những người gìn giữ lời chứng của Chúa;Hết lòng tìm kiếm Ngài. Họ không làm điều gì sai trái,Nhưng sống theo đường lối của Chúa. Chúa đã truyền các mạng lệnh của NgàiĐể chúng tôi tuân theo. Ước gì đường lối tôi được vững vàngĐể tôi tuân theo các quy luật của Chúa; Bấy giờ tôi sẽ không bị hổ thẹnVì tôi chú tâm vào mọi điều răn của Chúa. Tôi sẽ lấy lòng ngay thẳng ca ngợi ChúaKhi tôi học hỏi các phán quyết công chính của Ngài. Tôi sẽ tuân theo các quy luật của Chúa;Xin chớ hoàn toàn từ bỏ tôi. Người trẻ tuổi phải làm thế nào để giữ đời sống mình trong sạch?Phải tuân giữ lời Chúa. Tôi hết lòng tìm kiếm Chúa,Xin chớ để tôi lạc xa các điều răn Ngài. Tôi đã giấu lời Chúa trong lòng tôiĐể tôi không phạm tội cùng Ngài. Lạy CHÚA, tôi ca tụng Ngài,Xin dạy tôi các quy luật Ngài. Môi tôi sẽ công bố mọi phán quyết từ miệng Ngài phán ra. Tôi vui mừng theo lời chứng của Chúa nhưVui vì giàu có. Tôi sẽ suy gẫm về các mạng lệnh của ChúaVà chú tâm vào đường lối Ngài. Tôi vui thích trong quy luật của ChúaVà không quên lời Ngài. Xin rộng lượng cùng tôi, là tôi tớ Chúa, để tôi được sốngVà tuân giữ lời Ngài. Xin Chúa mở mắt tôi để tôi nhìn thấyNhững điều diệu kỳ trong kinh luật của Ngài. Tôi là lữ khách trên đất,Xin chớ giấu tôi các điều răn Chúa. Tâm hồn tôi luôn mòn mỏi khao khát các phán quyết của Chúa. Ngài quở trách những kẻ kiêu ngạo, là kẻ đáng bị rủa sả,Kẻ đi lạc xa các điều răn Chúa. Xin cất khỏi tôi sự sỉ nhục và khinh bỉVì tôi gìn giữ lời chứng của Chúa. Các vua chúa ngồi cùng nhau bàn định nghịch tôi,Nhưng tôi tớ Chúa sẽ suy gẫm các quy luật Ngài. Các lời chứng của Chúa là niềm vui cho tôi,Là những vị cố vấn của tôi. Linh hồn tôi phủ phục dưới bụi đất;Xin phục hồi sức sống cho tôi theo như lời Chúa. Tôi tỏ bày đường lối tôi cùng Chúa và Ngài đáp lời tôi.Xin dạy tôi các quy luật của Chúa. Xin cho tôi hiểu ý nghĩa các mạng lệnh của Chúa,Và tôi sẽ suy gẫm những việc diệu kỳ của Ngài. Tôi đổ nước mắt than khóc vì sầu thảm.Xin thêm sức cho tôi theo như lời Chúa. Xin đẩy xa khỏi tôi đường lối sai lầm,Xin ban ơn dạy dỗ tôi kinh luật của Chúa. Tôi đã chọn con đường trung tín,Tôi đã đặt trước mặt tôi các phán quyết của Ngài. Lạy CHÚA, tôi nắm chắc lấy lời chứng của Ngài,Xin đừng để tôi bị hổ thẹn. Tôi chạy theo đường lối mạng lệnh của ChúaVì Ngài giúp tôi hiểu biết thêm. Lạy CHÚA, xin dạy tôi đường lối mạng lệnh của Ngài;Tôi sẽ gìn giữ chúng cho đến cùng. Xin ban cho tôi sự hiểu biết thì tôi sẽ gìn giữ kinh luật của ChúaVà hết lòng tuân giữ chúng. Xin hướng dẫn tôi trong đường lối theo điều răn ChúaVì tôi vui mừng trong đường ấy. Xin hướng lòng tôi về lời chứng của ChúaChứ không phải về lợi lộc riêng. Xin xoay mắt tôi để khỏi nhìn những điều vô giá trị;Xin ban cho tôi sức sống trong đường lối Chúa. Xin hoàn thành lời hứa Ngài cho tôi tớ Chúa,Là lời hứa dành cho những người kính sợ Ngài. Xin cất khỏi tôi sự sỉ nhục mà tôi sợ hãiVì các phán quyết của Ngài là tốt lành. Kìa, tôi mong ước các mạng lệnh của Chúa,Xin ban cho tôi sức sống trong sự công chính Ngài. Lạy CHÚA, nguyện tình yêu thương Ngài đến cùng tôi;Sự cứu rỗi Chúa như lời Ngài đã hứa. Tôi sẽ có câu trả lời cho những kẻ sỉ nhục tôiVì tôi tin cậy nơi lời Chúa. Xin chớ lấy hết lời chân thật khỏi miệng tôiVì tôi đặt hy vọng nơi các phán quyết của Chúa. Tôi luôn luôn gìn giữ kinh luật của ChúaĐến đời đời vô cùng. Tôi sẽ bước đi tự doVì tôi tìm kiếm các mạng lệnh của Chúa. Tôi sẽ nói về lời chứng của Chúa trước mặt các vuaMà không hổ thẹn. Tôi vui thích trong điều răn của ChúaLà điều tôi yêu mến. Tôi đưa tay hướng về điều răn của Chúa là điều tôi yêu mến,Và tôi suy gẫm các quy luật của Ngài. Xin Chúa nhớ lời hứa cùng tôi tớ Chúa;Nhờ lời hứa đó mà tôi hy vọng. Đây là niềm an ủi của tôi trong khi hoạn nạnVì lời hứa của Chúa ban sức sống cho tôi. Những kẻ kiêu ngạo nhạo báng tôi rất nhiềuNhưng tôi không từ bỏ kinh luật của Chúa. Lạy CHÚA, tôi ghi nhớ các phán quyết của Ngài từ xưaVà được an ủi. Tôi trở nên nóng giậnKhi thấy kẻ ác từ bỏ kinh luật Chúa. Các quy luật của Chúa trở nên những bài caCho cuộc đời lữ khách của tôi. Lạy CHÚA, ban đêm tôi nhớ đến danh ChúaVà gìn giữ kinh luật của Ngài. Đây là phần của tôiVì tôi gìn giữ các mạng lệnh của Chúa. CHÚA là phần cơ nghiệp của tôi,Tôi đã hứa gìn giữ lời Chúa. Tôi đã hết lòng cầu khẩn ơn Chúa,Xin ban ơn cho tôi tùy theo lời Ngài hứa. Tôi đã suy gẫm về đường lối của tôiVà trở gót quay về lời chứng của Chúa. Tôi vội vàng, không chậm trễGìn giữ các điều răn của Chúa. Dù kẻ ác giăng dây chung quanh tôi,Nhưng tôi không quên kinh luật Chúa. Tôi thức dậy vào lúc nửa đêm để cảm tạ ChúaVì các phán quyết công chính của Ngài. Tôi là bạn của tất cả những người kính sợ Chúa,Là những người gìn giữ mạng lệnh Ngài. Lạy CHÚA, tình yêu thương của Ngài đầy dẫy đất,Xin dạy tôi các quy luật chúa. Lạy CHÚA, Ngài đã hậu đãi tôi tớ ChúaTheo như lời Chúa. Xin dạy tôi tri thức và biết quyết định đúngVì tôi tin cậy nơi các điều răn của Ngài. Trước khi bị hoạn nạn, tôi thường đi sai lạcNhưng bây giờ tôi gìn giữ lời Chúa. Ngài là thiện và là Đấng làm điều thiện;Xin dạy tôi các quy luật của Ngài. Dù những kẻ kiêu ngạo dùng lời láo khoét nói xấu tôi,Nhưng tôi hết lòng gìn giữ các mạng lệnh Chúa. Lòng chúng nó chai lì như mỡ,Nhưng tôi vui thích kinh luật của Chúa. Ấy là điều tốt cho tôi khi tôi bị hoạn nạnĐể tôi học các quy luật của Chúa. Kinh luật từ miệng Chúa là tốt lành cho tôiHơn hàng ngàn lạng vàng và bạc. Tay Chúa đã làm và nắn nên tôi,Xin ban cho tôi trí hiểu biết để tôi học hỏi các điều răn Chúa. Những người kính sợ Chúa sẽ thấy tôi và vui mừngVì tôi đặt hy vọng nơi lời Chúa. Lạy CHÚA, tôi biết các phán quyết của Ngài là công chính,Ấy là từ lòng thành tín mà Ngài làm cho tôi bị hoạn nạn. Nguyện tình yêu thương Chúa an ủi tôiNhư lời Ngài đã hứa cùng tôi tớ Chúa. Nguyện Chúa thương xót tôi thì tôi sẽ sốngVì tôi vui thích trong kinh luật Chúa. Nguyện những kẻ kiêu ngạo bị hổ thẹn vì đã dùng điều giả dối hại tôi,Còn tôi sẽ suy gẫm các mạng lệnh của Chúa. Nguyện những người kính sợ Chúa, là những người biết lời chứng của Ngài,Quay trở lại cùng tôi. Nguyện lòng tôi không có gì đáng trách theo quy luật của ChúaĐể tôi không bị hổ thẹn. Linh hồn tôi mòn mỏi mong ước sự cứu rỗi của Chúa;Tôi hy vọng nơi lời Chúa. Mắt tôi mòn mỏi trông chờ lời hứa của Chúa;Tôi nói: “Khi nào Chúa sẽ an ủi tôi? Vì tôi như cái bình da vô dụngNhưng tôi không quên các quy luật của Chúa. Tôi tớ Chúa phải chờ bao lâu nữa?Khi nào Ngài mới đoán xét những kẻ bắt bớ tôi?” Những kẻ kiêu ngạo đào hố hại tôi,Là những kẻ không làm theo kinh luật Chúa. Tất cả các điều răn của Chúa đều đáng tin cậy;Người ta dùng điều giả dối để bắt bớ tôi.Xin giúp đỡ tôi. Dù chúng nó gần như diệt tôi khỏi mặt đất,Nhưng tôi không từ bỏ mạng lệnh của Chúa. Xin ban sức sống cho tôi theo như tình yêu thương của ChúaĐể tôi gìn giữ lời chứng từ miệng Ngài. Lạy CHÚA, lời Ngài đứng vững đời đời trên trời. Lòng thành tín Chúa tồn tại từ đời nọ đến đời kia;Ngài đã lập quả đất và nó đứng vững vàng. Mọi sự đứng vững cho đến ngày nay là do phán quyết của Chúa;Vì chúng đều là tôi tớ Ngài. Nếu kinh luật Chúa không phải là niềm vui của tôiThì tôi đã bị tiêu diệt trong cơn hoạn nạn. Tôi không bao giờ quên các mạng lệnh ChúaVì nhờ chúng mà tôi được sức sống. Tôi thuộc về Chúa, xin cứu rỗi tôiVì tôi tìm kiếm các mạng lệnh Chúa. Những kẻ ác rình để diệt tôiNhưng tôi suy gẫm các lời chứng của Chúa. Tôi thấy mọi sự dù toàn hảo đều có giới hạnNhưng các điều răn của Chúa thì vô hạn. Tôi yêu kinh luật Chúa biết bao,Suốt ngày tôi suy gẫm luật ấy. Các điều răn Chúa giúp tôi khôn ngoan hơn các kẻ thù tôi,Vì các điều răn ấy luôn luôn ở cùng tôi. Tôi sáng suốt hơn tất cả các thầy dạy tôi,Vì tôi suy gẫm các lời chứng của Chúa. Tôi hiểu biết hơn các bậc bô lãoVì tôi gìn giữ các mạng lệnh của Chúa. Tôi giữ chân tôi tránh mọi đường tà để gìn giữ lời Chúa. Tôi không từ bỏ các phán quyết của ChúaVì chính Ngài đã dạy dỗ tôi. Lời Chúa ngọt ngào cho khẩu vị tôi biết bao,Ngọt hơn mật ong trong miệng. Nhờ các mạng lệnh của Chúa tôi được sáng suốt,Vì thế tôi ghét mọi đường lối giả dối. Lời Chúa là ngọn đèn cho chân tôi,Là ánh sáng cho đường lối tôi. Tôi đã thề và sẽ giữ lời thề rằngTôi sẽ giữ các phán quyết công chính của Chúa. Lạy CHÚA, tôi đau khổ rất nhiều,Xin ban sức sống cho tôi theo như lời Chúa. Lạy CHÚA, xin nhận tế lễ tình nguyện từ môi miệng tôiVà dạy tôi các phán quyết của Chúa. Mạng sống tôi thường bị nguy hiểmNhưng tôi không quên kinh luật Chúa. Những kẻ ác đặt bẫy hại tôiNhưng tôi không lìa bỏ các mạng lệnh của Chúa. Lời chứng của Chúa là cơ nghiệp đời đời của tôi,Vì chúng là niềm vui cho lòng tôi. Tôi luôn chuyên tâm làm theo các quy luật của ChúaĐến tận cùng. Tôi ghét những kẻ hai lòngNhưng yêu mến kinh luật của Chúa. Chính Ngài là nơi trú ẩn và là cái khiên bảo vệ tôi,Tôi hy vọng nơi lời Chúa. Hỡi những kẻ ác, hãy tránh xa taĐể ta gìn giữ các điều răn của Đức Chúa Trời ta. Xin nâng đỡ tôi như lời Chúa đã hứa để tôi được sốngVà không bị hổ thẹn về điều tôi hy vọng. Xin hỗ trợ tôi để tôi được an toànVà luôn luôn làm theo quy luật của Chúa. Ngài từ bỏ tất cả những kẻ đi xa lạc các quy luật ChúaVì sự giả dối của họ là vô ích. Ngài coi mọi kẻ ác trên đất như cặn bã,Vì thế tôi yêu mến các lời chứng của Chúa. Thân thể tôi run rẩy vì sợ hãi Chúa,Tôi cũng sợ sự phán xét của Ngài. Tôi đã hành động công bình và chính trực,Xin đừng bỏ tôi cho những kẻ áp bức tôi. Xin bảo đảm cho tôi tớ Chúa được phúc lành;Chớ để những kẻ kiêu ngạo áp bức tôi. Mắt tôi mòn mỏi trông đợi sự cứu rỗiVà lời hứa công chính của Chúa. Xin đối xử với tôi tớ Chúa theo như tình yêu thương của Chúa;Xin dạy tôi các quy luật của Ngài. Tôi là tôi tớ Chúa, xin ban cho tôi sự hiểu biết,Để tôi hiểu các lời chứng của Chúa. Đây là lúc để CHÚA hành độngVì người ta vi phạm kinh luật Chúa. Thật vậy, tôi yêu mến các điều răn của ChúaHơn vàng, hơn cả vàng ròng. Vì thế tôi thấy mọi mạng lệnh của Chúa đều đúng,Và tôi ghét mọi đường lối giả dối. Lời chứng của Chúa là diệu kỳCho nên tâm hồn tôi gìn giữ chúng. Sự giải thích lời Chúa đem lại ánh sáng;Nó đem sự hiểu biết cho người chân thật. Tôi há miệng khao khátVì tôi mong ước các điều răn của Chúa. Xin đoái nhìn và ban ơn cho tôiNhư cách Chúa vẫn làm đối với những người yêu mến danh Ngài. Xin giữ các bước chân tôi vững vàng trong lời Chúa;Xin đừng để điều ác nào cai trị tôi. Xin cứu chuộc tôi khỏi sự áp bức của loài người,Để tôi gìn giữ các mạng lệnh của Chúa. Xin mặt Ngài tỏa sáng trên tôi tớ ChúaVà dạy tôi các quy luật Ngài. Mắt tôi tuôn tràn suối lệVì người ta không giữ kinh luật của Chúa. Lạy CHÚA, Ngài là công chínhVà các phán quyết của Ngài là công bình. Ngài đã truyền các lời chứng công chínhVà rất đáng tin cậy. Sự nhiệt thành thiêu hủy tôiVì các kẻ thù tôi quên lời Chúa. Lời chúa đã được tinh luyện kỹVà tôi tớ Chúa yêu mến nó. Dù tôi bé nhỏ và bị khinh thườngNhưng tôi không quên các mạng lệnh Chúa. Sự công chính của Chúa là công chính đời đời,Và kinh luật của Chúa là chân thật. Hoạn nạn và khổ não đến với tôiNhưng các điều răn của Chúa là niềm vui cho tôi. Các lời chứng của Chúa là công chính đời đời;Xin ban cho tôi sự hiểu biết để tôi được sống. Lạy CHÚA, tôi hết lòng cầu khẩn, xin đáp lời tôi,Tôi sẽ gìn giữ quy luật của Chúa. Tôi cầu khẩn Ngài, xin cứu tôi,Tôi sẽ giữ các lời chứng của Chúa. Tôi thức dậy lúc rạng đông và cầu xin;Tôi hy vọng nơi lời Chúa. Mắt tôi thức tỉnh suốt canh khuyaĐể suy gẫm lời Chúa. Lạy CHÚA, xin nghe lời cầu xin của tôi theo như tình yêu thương Ngài;Xin phục hồi cho tôi sức sống theo như các phán quyết Chúa. Những kẻ gian ác áp bức tôi đã đến gần,Chúng là kẻ xa cách kinh luật Chúa. Lạy CHÚA, chính Ngài đang ở gầnVà tất cả các điều răn của Ngài đều chân thật. Từ xa xưa, do các lời chứng của Chúa tôi biết rằngNgài đã lập chúng đến đời đời. Xin hãy xem sự đau khổ tôi chịu và giải cứu tôiVì tôi không quên kinh luật của Chúa. Xin bênh vực trường hợp tôi và cứu chuộc tôi;Xin ban sức sống cho tôi theo như lời Chúa hứa. Sự cứu rỗi ở xa những kẻ gian ácVì chúng không tìm kiếm các quy luật Chúa. Lạy CHÚA, sự thương xót của Ngài thật lớn lao;Xin ban cho tôi sức sống theo như các phán quyết của Chúa. Nhiều kẻ thù ghét và áp bức tôiNhưng tôi không từ bỏ các lời chứng của Chúa. Tôi thấy những kẻ bội tín và ghê tởm chúngVì chúng nó không giữ lời Chúa. Nguyện Chúa thấy rằng tôi yêu mến các mạng lệnh Chúa.Lạy CHÚA, xin ban cho tôi sức sống theo như tình yêu thương của Ngài. Bản chất của lời Chúa là chân lý;Tất cả các phán quyết công chính của Chúa là đời đời. Các vua chúa đã bắt bớ tôi vô cớNhưng lòng tôi run sợ trước lời Chúa. Tôi vui mừng vì lời Chúa hứaNhư người chiếm được chiến lợi phẩm lớn. Tôi ghét và ghê tởm sự dối tráNhưng tôi yêu mến kinh luật Chúa. Mỗi ngày tôi ca ngợi Chúa bảy lầnVì các phán quyết công chính của Ngài. Những người yêu mến kinh luật Chúa được bình an lớnVà không có gì làm cho họ vấp ngã. Lạy CHÚA, tôi hy vọng nơi sự cứu rỗi của NgàiVà thi hành các điều răn Chúa. Linh hồn tôi gìn giữVà yêu mến các lời chứng của Chúa vô cùng. Tôi gìn giữ các mạng lệnh và lời chứng của Chúa,Vì mọi đường lối tôi đều ở trước mặt Ngài. Lạy CHÚA, nguyện lời cầu xin của tôi đến gần trước mặt Ngài;Xin ban cho tôi sự hiểu biết theo như lời Chúa. Nguyện lời cầu khẩn của tôi đến trước mặt Ngài,Xin Chúa giải cứu tôi như lời Ngài hứa. Môi miệng tôi sẽ tuôn tràn lời ca ngợiVì Chúa đã dạy tôi các quy luật Ngài. Lưỡi tôi sẽ ca hát lời ChúaVì mọi điều răn Chúa đều công chính. Nguyện tay Chúa sẵn sàng giúp đỡ tôiVì tôi đã chọn các mạng lệnh Chúa. Lạy CHÚA, tôi mong ước sự cứu rỗi của Chúa,Kinh luật Chúa là niềm vui của tôi. Xin cho tôi sống để linh hồn tôi ca tụng Chúa;Nguyện các phán quyết của Chúa giúp đỡ tôi. Tôi lạc lối như con chiên đi lạc;Xin tìm kiếm tôi tớ Chúa,Vì tôi không quên các điều răn của Chúa. Trong lúc khốn khổ tôi cầu khẩn CHÚAVà Ngài đã đáp lời tôi. Lạy CHÚA, xin giải cứu tôi khỏi môi giả dối,Khỏi lưỡi lừa gạt. Hỡi lưỡi lừa gạt, Ngài sẽ giáng gì cho ngươi?Và thêm hình phạt gì cho ngươi? Ấy là các mũi tên nhọn của binh sĩVới than củi đỏ rực. Khốn nạn cho tôi, tôi như sống với người Mê-siếc,Như ngụ trong trại của người Kê-đa. Tôi đã cư ngụ quá lâuVới những kẻ ghét hòa bình. Tôi muốn hòa bìnhNhưng khi tôi nói lên thì chúng muốn chiến tranh. Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi,Sự giúp đỡ tôi đến từ đâu? Sự giúp đỡ tôi đến từ CHÚA,Đấng sáng tạo nên trời và đất. Ngài không để chân ngươi trượt ngã;Đấng bảo vệ ngươi sẽ không buồn ngủ. Phải, Đấng bảo vệ Y-sơ-ra-ênSẽ không buồn ngủ cũng không cần ngủ. CHÚA là Đấng bảo vệ ngươi;CHÚA là bóng che chở ở bên phải ngươi. Ban ngày mặt trời sẽ không thiêu đốt ngươi;Ban đêm mặt trăng cũng không hại ngươi. CHÚA bảo vệ ngươi khỏi mọi tai họa;Ngài sẽ bảo vệ sinh mạng ngươi. CHÚA sẽ bảo vệ ngươi khi đi ra, lúc đi vàoTừ nay cho đến đời đời. Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi rằng:Chúng ta hãy đi đến nhà CHÚA. Hỡi Giê-ru-sa-lem, chân chúng ta đang đứngTrong các cổng thành ngươi. Giê-ru-sa-lem được xây cất như một cái thành,Nối kết nhau vững chắc. Ấy là nơi các chi tộc,Tức là các chi tộc của CHÚAĐi hành hương, theo như quy luật truyền cho Y-sơ-ra-ên,Để cảm tạ danh CHÚA. Vì tại đó các ngôi phán xét,Tức là các ngôi thuộc nhà Đa-vít được lập. Hãy cầu hòa bình cho Giê-ru-sa-lem,Nguyện những người yêu mến ngươi được thịnh vượng. Nguyện bình an ở trong các tường thành ngươi,An ninh ở giữa các đồn lũy ngươi. Vì cớ anh em, bè bạn ta, ta cầu rằng:Nguyện ngươi được bình an. Vì cớ đền thờ CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta,Ta cầu phúc lành cho ngươi. Lạy Đấng ngự trên các tầng trời,Tôi ngước mắt hướng về Ngài. Kìa, như mắt của các tôi trai hướng về tay ông chủ,Như mắt của các tớ gái hướng về tay bà chủ mình thế nào,Mắt chúng tôi cũng hướng về CHÚA, Đức Chúa Trời chúng tôi thể ấy,Cho đến khi nào Ngài thương xót chúng tôi. Xin thương xót chúng tôi,Lạy CHÚA, xin thương xót chúng tôi;Vì chúng tôi đã chịu nhiều khinh bỉ. Linh hồn chúng tôi đã chịu nhiều chế nhạo từ những kẻ tự mãn;Nhiều khinh bỉ từ những kẻ kiêu căng. Y-sơ-ra-ên hãy tuyên bố:Nếu CHÚA không ở cùng chúng ta; Nếu CHÚA không ở phía chúng taKhi phàm nhân nổi lên chống nghịch chúng ta, Thì chúng ắt đã nuốt sống chúng taKhi chúng nổi giận cùng chúng ta rồi; Thì nước lụt ắt đã cuốn trôi chúng ta;Nước lũ đã tràn ngập linh hồn chúng ta; Và dòng nước cuồng bạoĐã tràn ngập linh hồn chúng ta rồi. Cảm tạ CHÚA,Ngài không phó chúng ta làm mồi cho răng chúng nó. Linh hồn chúng ta như con chimThoát khỏi bẫy sập của kẻ bẫy chim;Bẫy đã gãyVà chúng ta thoát khỏi. Sự giúp đỡ của chúng ta ở trong danh CHÚA;Là Đấng tạo nên trời và đất. Những người tin cậy nơi CHÚA như núi Si-ôn,Sẽ không lay chuyển nhưng vẫn tồn tại đời đời. Các núi bao quanh Giê-ru-sa-lem thể nàoThì CHÚA cũng bao phủ dân Ngài thể ấyTừ nay cho đến đời đời. Vì cây gậy của kẻ ác sẽ không còn cai trịTrên phần sản nghiệp của người công chính;Để người công chính cũng sẽ khôngĐưa tay ra làm điều ác. Lạy CHÚA, xin hãy ban phúc lànhCho người lành và người có lòng ngay thẳng. Nhưng những kẻ trở gót theo đường cong quẹo,CHÚA sẽ đày ải chúng cùng với những kẻ làm ác.Nguyện Y-sơ-ra-ên được bình an. Khi CHÚA phục hồi cơ đồ cho Si-ônChúng tôi như những người nằm mơ. Bấy giờ miệng chúng tôi đầy tiếng cười,Lưỡi chúng tôi đầy tiếng hát;Bấy giờ người ta sẽ nói giữa các nước rằng:“CHÚA đã làm những việc vĩ đại cho họ.” CHÚA đã làm những việc vĩ đại cho chúng tôi,Chúng tôi vui mừng. Lạy CHÚA, xin phục hồi cơ đồ cho chúng tôiNhư những dòng suối trong sa mạc Miền Nam. Những người gieo giống trong nước mắt,Sẽ gặt hái trong hân hoan. Người nào vừa đi vừa khóc, mang giống ra gieo;Sẽ trở về, vác bó lúa mình trong tiếng hát vui vẻ. Nếu CHÚA không xây cất nhà,Thì người ta có lao khổ để xây cất cũng vô ích.Nếu CHÚA không giữ thành,Thì người lính canh có thức canh cũng vô ích. Thật vô ích cho tất cả các ngươiLà người dậy sớm, thức khuya,Lao khổ để kiếm miếng ăn.Vì Chúa cũng ban giấc ngủ cho những người Ngài yêu mến như vậy. Kìa con cái là cơ nghiệp từ CHÚA ban;Bông trái từ lòng dạ là phần thưởng. Các con trai sinh trong thời tuổi trẻKhác nào các mũi tên trong tay dũng sĩ. Phước cho người nàoCó đầy chúng trong bao đựng tên mình.Người sẽ không bị hổ thẹnKhi đối đáp với kẻ thù tại cổng thành. Phước cho người nào kính sợ CHÚAVà sống theo đường lối Ngài. Ngươi sẽ được hưởng công lao của tay mình;Ngươi sẽ được phước lành và thịnh vượng. Vợ ngươi sẽ như cây nho nhiều tráiTrong nhà ngươi;Con cái ngươi sẽ như các chồi cây ô-liuChung quanh bàn ngươi. Kìa, người nào kính sợ CHÚASẽ được phước như thế. Nguyện CHÚA từ Si-ôn ban phước cho ngươi.Nguyện ngươi sẽ thấy sự thịnh vượng của Giê-ru-sa-lem suốt đời mình. Nguyện ngươi được thấy con cháu mình.Nguyện Y-sơ-ra-ên được bình an. Y-sơ-ra-ên hãy nói:Từ khi tôi còn trẻ chúng nó thường áp bức tôi; Từ khi tôi còn trẻ chúng nó thường áp bức tôi;Nhưng chúng nó không thắng tôi được. Những kẻ đi cày đã cày trên lưng tôi,Xẻ thành những luống cày dài. CHÚA là công chính,Ngài cắt đứt dây trói của kẻ ác. Nguyện mọi kẻ ghét Si-ônĐều bị hổ thẹn và quay lui. Nguyện chúng nó như cỏ mọc trên mái nhàBị khô héo trước khi mọc lên; Nên người gặt không nắm được đầy tay,Người bó cũng không ôm được đầy lòng. Những người qua lại cũng không chúc nhau rằng:“Nguyện CHÚA ban phước cho anh chị em;Chúng tôi nhân danh CHÚA chúc phước cho anh chị em.” Lạy CHÚA, từ nơi sâu thẳm tôi cầu khẩn Ngài. Lạy Chúa, xin nghe tiếng cầu xin của tôi,Nguyện Chúa lắng ngheLời khẩn nguyện của tôi. Chúa ôi, nếu Ngài ghi nhớ các tội ác chúng tôi;Thì lạy Chúa, còn ai sống nổi. Nhưng Chúa có lòng tha thứĐể người ta kính sợ Chúa. Tôi trông đợi, linh hồn tôi trông đợi CHÚA;Tôi trông cậy nơi lời Chúa. Linh hồn tôi trông đợi ChúaHơn những lính canh trông đợi sáng.Hơn những lính canh trông đợi sáng. Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy trông cậy CHÚA,Vì Ngài có lòng yêu thươngVà ban ơn cứu chuộc dồi dào. Chính Ngài sẽ cứu chuộc Y-sơ-ra-ênKhỏi mọi tội ác họ. Lạy CHÚA, lòng tôi không tự cao,Mắt tôi không tự đắc.Tôi cũng không theo đuổi những việc quá vĩ đạiHay quá diệu kỳ cho tôi. Nhưng tâm hồn tôi yên tĩnh và bình thảnNhư đứa bé đã dứt sữa ở bên cạnh mẹ mình.Tâm hồn tôi bình thản ở trong tôi như đứa bé đã dứt sữa. Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy trông cậy nơi CHÚATừ nay cho đến đời đời. Lạy CHÚA, xin nhớ đến Đa-vítCùng tất cả những khổ nạn người chịu. Thể nào người đã thề cùng CHÚA,Đã hứa cùng Đấng Quyền Năng của Gia-cốp. “Tôi sẽ không vào nhà ở,Sẽ không lên giường ngủ; Tôi sẽ không chợp mắt ngủ nghỉ,Không để cho mí mắt nghỉ ngơi; Cho đến khi tôi tìm được một địa điểm cho CHÚA,Một nơi cư trú cho Đấng Quyền Năng của Gia-cốp.” Kìa chúng tôi nghe về rương giao ước tại Ê-pha-rát,Tìm thấy rương ấy tại cánh đồng Gia-a. Chúng ta hãy đến nơi Ngài cư ngụ,Thờ phượng dưới bệ chân Ngài. Lạy CHÚA, xin hãy đứng lên và vào nơi nghỉ ngơi của Ngài,Ngài đi cùng rương giao ước quyền năng của Ngài. Nguyện các thầy tế lễ của Chúa trang phục bằng sự công chính;Các thánh của Ngài hân hoan reo hò. Vì cớ Đa-vít, tôi tớ Chúa,Xin đừng quay mặt từ khước đấng được xức dầu của Chúa. CHÚA đã thề cùng Đa-vít,Một lời thề chắc chắn Ngài sẽ không rút lại,Ta sẽ đặt một người từ dòng dõi ngươiNối ngôi cho ngươi. Nếu các con ngươi gìn giữ giao ước taVà những lời chứng ta sẽ dạy chúng nóThì các con chúng nó cũng sẽ đượcNối ngôi ngươi đời đời. Vì CHÚA đã chọn Si-ôn,Ngài muốn tại đó là nơi Ngài ngự. Đây là nơi nghỉ ngơi của Ta đời đời;Ta sẽ ngự nơi đây vì Ta muốn như thế. Ta sẽ ban lương thực dồi dào cho Si-ôn,Thực phẩm đầy đủ cho kẻ nghèo ở nơi ấy. Ta sẽ trang phục các thầy tế lễ của thành ấy bằng sự cứu rỗiVà các thánh của nó sẽ hân hoan reo hò. Ở đó Ta sẽ khiến một cái sừng mọc lên cho Đa-vít,Chuẩn bị một cây đèn cho đấng được xức dầu của Ta. Ta sẽ lấy nhục nhã mặc cho các kẻ thù ngườiNhưng vương miện trên đầu người sẽ chiếu sáng rực rỡ. Kìa, thật tốt đẹp và vui vẻ biết baoKhi anh em sống hòa thuận với nhau. Như dầu quý giá rót trên đầu thầy tế lễ A-rôn, dầu chảy xuống râuVà xuống vạt áo dài người. Như sương móc từ núi Hẹt-mônSa xuống núi đồi Si-ôn;Vì tại đó CHÚA đã ban phước lành,Tức là sự sống đời đời. Hỡi tất cả các tôi tớ của CHÚA,Là những người phụng sự ban đêm trong đền CHÚA,Hãy đến ca tụng Ngài. Hãy giơ tay cầu nguyện trong đền thánh,Hãy ca tụng CHÚA. Nguyện CHÚA, là Đấng dựng nên trời và đất,Từ Si-ôn sẽ ban phước cho ngươi. Ha-lê-lu-gia!Hãy ca ngợi danh CHÚA,Hỡi các tôi tớ của CHÚA, hãy ca ngợi. Các ngươi là người phụng sự trong đền CHÚA,Trong sân Đức Chúa Trời chúng ta, Hãy ca tụng CHÚA vì Ngài là thiện.Hãy hát lên ca Ngợi Danh Ngài vì Danh Ngài êm dịu. Vì CHÚA đã chọn Gia-cốp cho NgàiVà chọn Y-sơ-ra-ên làm tài sản của mình. Vì tôi biết rằng CHÚA là vĩ đạiVà Chúa chúng ta lớn hơn tất cả các thần. CHÚA làm tất cả những gì đẹp lòng Ngài,Ngài làm những việc ở trên trời, dưới đất,Trên biển và trong tất cả vực sâu. Ngài làm mây bay lên từ tận cùng quả đất;Ngài làm chớp nhoáng trong cơn mưa;Ngài khiến gió đến từ trong kho mình. Đánh chết các con đầu lòng của người Ai-cập,Từ con loài người đến con loài thú. Hỡi Ai-cập, Ngài đã làm dấu lạ, phép mầu ở giữa ngươiĐể phạt Pha-ra-ôn cùng cả quần thần người. Ngài đánh bại nhiều nướcVà giết nhiều vua mạnh mẽ; Như Si-hôn vua của người A-mô-rít,Óc, vua của Ba-sanCùng tất cả các vương quốc vùng Ca-na-an; Và Ngài ban đất ấy cho Y-sơ-ra-ên, dân của Ngài,Làm sản nghiệp. Lạy CHÚA, Danh Ngài tồn tại đời đời;Lạy Chúa, Danh tiếng Ngài sẽ được ghi nhớ từ đời nọ đến đời kia. Vì CHÚA sẽ bào chữa cho dân NgàiVà tỏ lòng thương xót các tôi tớ Chúa. Những tượng thần của các nước làm bằng bạc và vàng;Là sản phẩm của tay người; Chúng có miệng nhưng không nói được;Có mắt nhưng không thấy; Có tai nhưng không ngheVà cũng chẳng có hơi thở trong miệng. Những kẻ tạo nên các tượng thầnCùng tất cả những kẻ tin cậy các tượng ấy đều sẽ giống như chúng. Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, hãy ca tụng CHÚA,Hỡi nhà A-rôn, hãy ca tụng CHÚA; Hỡi nhà Lê-vi, hãy ca tụng CHÚA,Hỡi những người kính sợ CHÚA, hãy ca tụng Ngài. Hãy ca tụng CHÚA, Đấng từ Si-ôn,Đấng ngự tại Giê-ru-sa-lem.Ha-lê-lu-gia! Hãy cảm tạ CHÚA vì Ngài là thiện;Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời. Hãy cảm tạ Đức Chúa Trời của các thần;Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời. Hãy cảm tạ Chúa của các chúa;Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời. Chỉ một mình Ngài đã làm những phép lạ lớn lao;Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời. Bởi sự hiểu biết, Ngài đã tạo ra các tầng trời;Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời. Ngài trải đất ra trên nước;Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời. Ngài tạo ra các nguồn sáng lớn;Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời. Mặt trời cai trị ban ngày;Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời. Mặt trăng và các ngôi sao cai trị ban đêm;Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời. Ngài đã đánh chết các con đầu lòng của người Ai-cập;Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời. Và đem người Y-sơ-ra-ên ra khỏi vòng dân ấy;Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời. Với bàn tay mạnh mẽ và cánh tay giương ra;Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời. Ngài rẽ đôi Biển Đỏ;Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời. Đem Y-sơ-ra-ên đi ngang qua biển ấy;Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời. Nhưng Ngài đánh đổ Pha-ra-ôn và đạo binh người xuống Biển Đỏ;Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời. Ngài đã dẫn dân Ngài đi qua sa mạc;Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời. Ngài đã đánh bại các vua lớn;Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời. Ngài giết chết các vua danh tiếng;Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời. Như Si-hôn, vua của người A-mô-rít;Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời. Óc, vua của Ba-san;Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời. Ngài ban đất của chúng nó cho dân Ngài làm sản nghiệp;Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời. Tức là sản nghiệp cho Y-sơ-ra-ên, tôi tớ Ngài;Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời. Ngài nhớ đến sự thấp hèn của chúng tôi;Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời. Ngài giải cứu chúng tôi khỏi các kẻ thù;Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời. Ngài ban thực phẩm cho mọi sinh vật;Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời. Hãy cảm tạ Đức Chúa Trời trên trời;Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời. Chúng tôi ngồi bên các bờ sông tại Ba-by-lôn và khócKhi nhớ đến Si-ôn. Chúng tôi treo đàn hạc mìnhTrên các cành liễu ở đó. Vì tại đó những kẻ bắt chúng tôi làm tù binh đòi chúng tôi phải hát;Những kẻ áp bức chúng tôi muốn chúng tôi phải vui vẻ;Chúng bảo: “Hãy hát cho chúng ta một trong những bài ca của Si-ôn.” Làm sao chúng tôi có thể hát lên bài ca của CHÚAỞ trên đất ngoại quốc? Hỡi Giê-ru-sa-lem, nếu ta quên ngươi,Nguyện tay phải ta quên tài năng nó đi; Nguyện lưỡi ta mắc cứng nơi vòm miệngNếu ta không nhớ đến Giê-ru-sa-lem;Không đặt Giê-ru-sa-lemLàm niềm vui tuyệt đỉnh của ta. Lạy CHÚA, xin nhớ rằngTrong ngày Giê-ru-sa-lem bị thất thủ,Dân Ê-đôm đã nói: Hãy phá hủy,Hãy phá hủy đến tận nền móng nó. Này dân Ba-by-lôn là dân sẽ bị hủy diệt,Phước cho người báo oán ngươiBằng chính điều ngươi đã hại chúng ta; Phước cho người bắt các con nhỏ của ngươiVà đập chúng vào tảng đá. Tôi hết lòng cảm tạ Chúa và hát ca ngợi NgàiTrước mặt các thần. Tôi cúi đầu hướng về đền thánh ChúaVà cảm tạ danh NgàiVì tình yêu thương và lòng thành tín của Ngài;Vì Chúa đã làm Danh NgàiVà lời Ngài vĩ đại hơn mọi sự. Trong ngày tôi cầu khẩn Chúa, Ngài đáp lời tôi;Ngài thêm sức cho tâm hồn tôi. Lạy CHÚA, mọi vua trên đất sẽ cảm tạ NgàiVì đã nghe những lời từ miệng Ngài. Họ sẽ ca hát về đường lối của CHÚA,Vì vinh quang của CHÚA vĩ đại thay. Dù CHÚA là cao cả, Ngài quan tâm đến kẻ thấp hèn;Nhưng kẻ kiêu căng, Ngài nhận biết từ xa. Dù tôi đi giữa gian lao,Ngài ban cho tôi sức sống;Ngài đưa tay chống đỡ cơn giận của các kẻ thù tôi;Cánh tay phải Ngài cứu rỗi tôi. CHÚA sẽ hoàn thành điều Ngài hứa cho tôi.Lạy CHÚA, Tình yêu thương của Chúa tồn tại đời đời;Xin chớ từ bỏ công việc của tay Ngài. Lạy CHÚA, Ngài đã xem xétVà biết tôi. Ngài biết khi tôi ngồi, lúc tôi đứng dậy;Từ xa Ngài đã nhận thấy tư tưởng tôi. Ngài thấy rõ con đường tôi đi, lúc tôi nằm nghỉ;Mọi đường lối tôi Ngài đều quen thuộc. Vì trước khi lưỡi tôi nói ra một tiếng,Kìa, CHÚA đã biết tất cả rồi. Ngài bao phủ tôi phía trước lẫn phía sau,Ngài đặt tay bảo vệ tôi. Sự hiểu biết của Ngài thật quá diệu kỳ cho tôi;Cao quá để tôi đạt đến được. Tôi sẽ đi đâu xa khỏi thần Chúa?Tôi sẽ trốn đâu khỏi mặt Ngài? Nếu tôi lên trời, Ngài đang ở đó;Nếu tôi nằm dưới Âm Phủ, kìa, Ngài cũng có ở đó. Nếu tôi cất cánh bay về phía hừng đôngHay ở nơi cực tây của biển cả; Tại đó, tay Ngài cũng dẫn dắt tôi;Cánh tay phải của Ngài sẽ nắm giữ tôi. Nếu tôi nói, chắc chắn bóng tối sẽ che giấu tôi,Ánh sáng sẽ trở nên đêm tối chung quanh tôi; Nhưng chính bóng tối sẽ không tối đối với Ngài;Ban đêm cũng sáng như ban ngày;Bóng tối như ánh sáng đối với Ngài. Vì chính Chúa tạo nên tạng phủ tôi;Ngài dệt thành tôi trong lòng mẹ tôi. Tôi cảm tạ Chúa vì tôi đã được tạo nên một cách đáng sợ và diệu kỳ;Các công việc của Chúa thật diệu kỳ,Linh hồn tôi biết rõ lắm. Xương cốt tôi không giấu được ChúaKhi tôi được tạo nên trong nơi bí ẩn;Được kết thành một cách tinh vi ở nơi sâu của đất. Mắt Chúa thấy thể chất vô hình của tôi;Tất cả các ngày định cho tôiĐã được ghi vào sổ của ChúaTrước khi chưa có một ngày nào trong số các ngày ấy. Lạy Đức Chúa Trời, các tư tưởng Chúa thật quý báu cho tôi thay;Số lượng chúng lớn biết bao! Nếu tôi đếm các tư tưởng ấy,Thì chúng nhiều hơn cát.Khi tôi thức dậyTôi vẫn còn ở cùng Ngài. Lạy Đức Chúa Trời, ước gì Ngài diệt kẻ ác,Và những kẻ khát máu lìa xa tôi; Là kẻ nói điều ác nghịch Chúa;Những kẻ thù nói xấu danh Ngài. Lạy CHÚA, tôi há chẳng ghét những kẻ ghét Chúa ư?Và chẳng ghê tởm những kẻ chống nghịch Ngài sao? Tôi hoàn toàn ghét chúng;Coi chúng như kẻ thù. Lạy Đức Chúa Trời, xin xem xét tôi và biết lòng tôi;Xin thử tôi và biết tư tưởng tôi. Xin Chúa nhìn xem tôi có đường lối ác nào chăng;Và xin hướng dẫn tôi trong đường đời đời. Lạy CHÚA, xin giải cứu tôi khỏi kẻ ác,Bảo vệ tôi khỏi người hung dữ; Chúng âm mưu điều ác trong lòng;Suốt ngày gây chiến. Chúng mài lưỡi mình nhọn như lưỡi rắn;Dưới môi chúng là nọc độc rắn hổ mang.Sê-la Lạy CHÚA, xin gìn giữ tôi khỏi tay kẻ ác,Bảo vệ tôi khỏi người hung dữ;Là kẻ âm mưu gây cho tôi vấp ngã. Những kẻ kiêu ngạo đã gài bẫy hại tôi;Chúng giăng dây, bủa lưới dọc bên đường;Chúng đặt bẫy hại tôi.Sê-la Tôi thưa cùng CHÚA rằng chính Ngài là Đức Chúa Trời tôi;Lạy CHÚA, xin lắng nghe lời cầu xin của tôi. Lạy CHÚA, là Chúa tôi, Đấng giải cứu đầy dũng lực của tôi;Chúa che phủ đầu tôi trong ngày chiến trận. Lạy CHÚA, xin đừng ban cho kẻ ác điều chúng ao ước;Xin chớ để âm mưu của chúng được thành;E chúng tự cao chăng.Sê-la Nguyện những điều gian ác từ môi miệng những kẻ bao vây tôiTràn ngập đầu chúng nó. Nguyện than lửa đỏ đổ trên chúng nó;Nguyện chúng nó bị ném xuống vực sâuKhông lên được. Nguyện những kẻ miệng lưỡi hay vu cáo không được vững lập trên đất;Nguyện tai họa dồn dập săn đuổi kẻ hung dữ. Tôi biết rằng CHÚA sẽ bênh vực quyền lợi cho những kẻ khốn cùngVà thi hành công bình cho những kẻ nghèo khó. Chắc chắn những người công chính sẽ cảm tạ danh Chúa,Những người ngay thẳng sẽ ở trước sự hiện diện của Ngài. Lạy CHÚA, tôi cầu khẩn Ngài, xin mau mau đến cùng tôi;Xin lắng tai nghe lời cầu xin của tôi khi tôi cầu khẩn Chúa. Nguyện lời cầu nguyện của tôi như hương dâng lên trước mặt Chúa,Nguyện sự khẩn cầu của tôi giống như vật tế lễ buổi chiều. Lạy CHÚA, xin cử người canh gác miệng tôi;Xin gìn giữ môi tôi. Xin chớ để lòng tôi hướng về điều ác,Làm những việc gian tà,Tham gia với những kẻ làm điều tội lỗi;Xin chớ để tôi ăn tiệc với chúng. Xin để người công chính đánhVà mắng tôi trong tình yêu thương;Nhưng kẻ ác sẽ chẳng bao giờ xức dầu cho đầu tôi;Vì tôi luôn luôn cầu nguyện chống lại các việc ác của họ. Khi những kẻ cai trị chúng bị ném xuống từ bờ đá,Chúng sẽ biết rằng những lời tôi nói là sự thật. Như người ta cày và vỡ đất,Xương cốt chúng nó sẽ bị rải ra trước cửa mộ phần. Lạy CHÚA, là Chúa tôi, mắt tôi ngưỡng vọng Chúa;Tôi trú ẩn nơi Ngài, xin chớ để linh hồn tôi không phương tự vệ. Nguyện Chúa gìn giữ tôi khỏi bẫy chúng gài hại tôiVà khỏi lưới của những kẻ làm ác. Nguyện những kẻ ác cùng nhau sa vào lưới chúng đã gài,Còn tôi thì thoát khỏi. Tôi cất tiếng kêu nài cùng CHÚA;Tôi cất tiếng xin CHÚA thương xót. Trước mặt Chúa tôi dốc lòng than thở;Tôi bày tỏ nỗi gian nan trước mặt Ngài. Khi tâm thần tôi kiệt quệ,Chúa biết đường lối tôi;Trên con đường tôi đi,Chúng nó gài bẫy hại tôi. Xin Chúa nhìn qua bên phải và xem,Không ai để ý đến tôi;Tôi không còn nơi trú ẩn;Chẳng ai quan tâm đến sinh mạng tôi. Lạy CHÚA, tôi kêu nài cùng Chúa;Tôi nói rằng, chính Ngài là nơi trú ẩn của tôi,Là phần sản nghiệp của tôi trên đất người sống. Xin Chúa lắng nghe lời cầu xin của tôiVì tôi quá thất vọng;Xin giải cứu tôi khỏi những kẻ áp bức tôiVì chúng mạnh hơn tôi. Xin giải cứu linh hồn tôi ra khỏi ngục tùĐể tôi cảm tạ danh Chúa;Những người công chính sẽ vây quanh tôiVì Chúa sẽ hậu đãi tôi. Lạy CHÚA, xin nghe lời cầu nguyện của tôi;Vì lòng thành tín Chúa,Xin lắng nghe lời cầu xin của tôi;Trong sự công chính Ngài, xin đáp lời tôi. Xin chớ đoán xét tôi tớ ChúaVì không có người sống nào là công chính trước mặt Chúa. Vì kẻ thù săn đuổi linh hồn tôi;Chà đạp mạng sống tôi dưới đất;Bắt tôi ngồi trong bóng tốiNhư kẻ chết từ lâu. Vì thế tinh thần tôi nao núng,Lòng dạ tôi sầu não. Tôi nhớ lại những ngày xưa,Tôi suy gẫm tất cả những phép lạ của Chúa;Tôi suy tư về những công việc tay Ngài đã làm. Tôi giơ tay hướng về Chúa cầu nguyện,Linh hồn tôi khao khát Chúa như vùng đất khô khan.Sê-la Lạy CHÚA, xin mau mau đáp lời tôi;Tinh thần tôi bị nao núng;Xin đừng lánh mặt khỏi tôi,E rằng tôi sẽ như người đi xuống huyệt sâu. Buổi sáng xin cho tôi nghe thấy tình yêu thương ChúaVì tôi tin cậy nơi Ngài;Xin dạy tôi con đường tôi nên theoVì linh hồn tôi ngưỡng vọng Chúa. Lạy CHÚA, xin giải cứu tôi khỏi kẻ thù;Tôi trú ẩn nơi Chúa. Xin dạy tôi làm theo ý ChúaVì Ngài là Đức Chúa Trời tôi;Xin thần linh tốt lành của ChúaHướng dẫn tôi vào vùng đất bằng phẳng. Lạy CHÚA, vì cớ danh Ngài, xin ban sức sống cho tôi;Vì sự công chính của Chúa xin giải cứu tôi khỏi cơn hoạn nạn. Vì lòng nhân từ của Ngài, xin diệt kẻ thù tôi;Xin hủy diệt tất cả những kẻ áp bức tôi,Vì tôi là tôi tớ Chúa. Hãy ca tụng CHÚA, vầng đá của tôi;Ngài huấn luyện tay tôi cho chiến tranh,Luyện ngón tay tôi để chiến đấu. Chúa là Đấng yêu thương tôi và thành lũy của tôi;Là thành trì và Đấng giải cứu tôi;Là thuẫn đỡ và nơi trú ẩn cho tôi;Ngài khiến các dân quy phục tôi. Lạy CHÚA, loài người là gì mà Chúa quan tâm đến,Con người là chi mà Chúa nghĩ đến. Người phàm giống như hơi thở,Đời người như bóng lướt qua. Lạy CHÚA, xin Ngài hạ các tầng trời và ngự xuống;Xin Ngài đụng đến các núi và núi sẽ bốc khói. Xin Ngài làm chớp phát ra, kẻ thù chạy tán loạn;Xin Ngài bắn tên ra, đuổi chúng chạy. Xin Ngài từ trên caoĐưa tay cứu tôi,Vớt tôi ra khỏi nước sâu;Cứu tôi thoát khỏi tay người ngoại quốc; Là người có miệng giả dối,Có tay phải thề dối. Lạy Đức Chúa Trời, tôi sẽ hát một bài ca mới cho Chúa,Đánh đàn hạc mười dây cho Ngài. Đấng ban chiến thắng cho các vua,Giải cứu Đa-vít, tôi tớ Ngài; Cứu tôi thoát khỏi lưỡi gươm độc ác;Giải cứu tôi khỏi tay người ngoại quốc;Là người có miệng giả dối;Có tay phải thề dối. Nguyện các con trai chúng tôiNhư những cây cao lớn xanh tươi;Các con gái chúng tôi như những cây cộtChạm trổ để trang trí đền thờ. Nguyện các kho của chúng tôi đầy tràn,Cung cấp đủ thứ;Nguyện đàn chiên của chúng tôi ở nơi đồng cỏ sinh sản hàng ngàn,Hàng vạn. Nguyện đàn bò chúng tôi sinh sản nhiều,Không sẩy thai,Không mất mát;Nguyện không có tiếng khóc đau khổ nơi đường phố chúng tôi. Phước cho dân tộc nào được như vậy;Phước cho dân tộc nào có CHÚA là Đức Chúa Trời mình. Lạy Đức Chúa Trời tôi, cũng là vua tôi,Tôi sẽ tôn cao Chúa và ca tụng danh Ngài mãi mãi vô cùng. Mỗi ngày tôi sẽ ca tụng ChúaVà ca ngợi danh Ngài mãi mãi vô cùng. CHÚA là vĩ đại và rất đáng ca ngợi;Sự vĩ đại của Ngài vượt quá sự hiểu biết của con người. Đời này sẽ truyền tụng công việc của Chúa cho đời sau;Họ sẽ công bố những việc quyền năng của Ngài. Họ sẽ nói về uy nghi, vinh quang và huy hoàng của Chúa;Còn tôi sẽ suy gẫm các phép lạ của Ngài. Người ta sẽ nói về quyền năng của các công việc đáng sợ của Chúa;Còn tôi sẽ công bố sự vĩ đại của Ngài. Người ta sẽ làm lễ kỷ niệm phúc lành lớn của ChúaVà hân hoan ca hát về sự công chính của Ngài. CHÚA hay ban ơn và có lòng thương xót;Chậm nóng giận và đầy tình yêu thương. CHÚA là phúc lành cho tất cả mọi người;Ngài thương xót mọi tạo vật Ngài làm nên. Lạy CHÚA, mọi tạo vật của Chúa đều sẽ cảm tạ NgàiVà những người kính sợ Chúa sẽ ca tụng Ngài. Họ sẽ nói về vinh quang nước ChúaVà kể lại quyền năng của Ngài; Để loài người biết các việc quyền năng ChúaVà sự vinh quang huy hoàng của nước Ngài. Nước Chúa còn mãi vô cùng; quyền cai trị của Ngài đến đời đời.CHÚA thành tín trong mọi lời hứa của Ngài và yêu thương đối với mọi công việc Ngài. CHÚA nâng đỡ mọi người bị ngã;Ngài đỡ tất cả những người phải cúi đầu đứng dậy. Mắt của mọi vật đều ngưỡng trông Chúa,Ngài ban cho chúng đồ ăn đúng thì. Chúa xòe bàn tay Ngài ra,Thỏa mãn nhu cầu của mọi sinh vật. CHÚA công chính trong mọi đường lối NgàiVà yêu thương đối với mọi công việc Ngài. CHÚA ở gần mọi người cầu khẩn Ngài,Tức là những người cầu khẩn Ngài với lòng thành thật. Chúa thỏa mãn nhu cầu của những kẻ kính sợ Ngài;Nghe tiếng khóc của họ và giải cứu cho. CHÚA bảo vệ mọi người yêu mến NgàiNhưng sẽ hủy diệt mọi kẻ ghét Ngài. Miệng tôi sẽ dâng lời ca ngợi CHÚA,Hỡi mọi loài, hãy ca tụng danh thánh của Ngài muôn đời. Ha-lê-lu-gia!Hỡi linh hồn ta, hãy ca ngợi CHÚA. Suốt đời, tôi sẽ ca ngợi CHÚA;Hễ tôi còn sống bao lâu, tôi sẽ hát ca ngợi Đức Chúa Trời tôi bấy lâu. Chớ tin cậy vua chúa hay người phàm;Ở nơi họ không có sự cứu rỗi. Khi tâm linh lìa khỏi thân xác thì nó trở về bụi đất;Ngay chính ngày ấy, các kế hoạch của nó đều tiêu tan. Phước cho người nào có Đức Chúa Trời của Gia-cốp giúp đỡVà biết trông cậy nơi CHÚA, Đức Chúa Trời mình; Là Đấng tạo nên trời, đất, biểnVà muôn vật trong biển;Ngài gìn giữ sự chân thật đời đời. Ngài xét xử công bình cho người bị áp bức,Ban bánh cho kẻ đói,CHÚA trả tự do cho người bị tù đày. CHÚA mở mắt những kẻ mù;CHÚA nâng những kẻ phải cúi đầu đứng dậy;CHÚA yêu mến những người công chính. CHÚA bảo vệ kiều dân;Nâng đỡ những cô nhi và quả phụNhưng bẻ gẫy đường lối những kẻ ác. CHÚA sẽ cai trị muôn đời;Hỡi Si-ôn, Đức Chúa Trời ngươi sẽ cai trị đời đời.Ha-lê-lu-gia! Ha-lê-lu-gia!Thật là tốt đẹp khi ca tụng Đức Chúa Trời chúng ta;Thật là thích thú và hợp lý khi ca ngợi Ngài. CHÚA xây dựng Giê-ru-sa-lem;Ngài tập họp lại những kẻ tha hương lưu lạc của Y-sơ-ra-ên. Ngài chữa lành những tấm lòng tan vỡ,Băng bó những vết thương của họ. Ngài định số lượng các tinh tú,Đặt tên cho tất cả các ngôi sao. Chúa của chúng ta vĩ đại và đầy quyền năng;Sự hiểu biết của Ngài thật vô hạn. CHÚA nâng đỡ những kẻ khốn cùng,Nhưng đánh đổ những kẻ ác xuống đất. Hãy ca hát cảm tạ CHÚA,Hãy gẩy đàn hạc và ca ngợi Đức Chúa Trời chúng ta. Ngài che phủ các tầng trời bằng mây,Cung cấp mưa trên đấtVà làm cỏ mọc trên các đồi; Ngài ban thực phẩm cho thú vật,Ngay cả cho các chim quạ con khi chúng kêu la. Chúa không vui vì sức mạnh của ngựa,Cũng không thích vì đôi chân mạnh của một người; Nhưng CHÚA vui lòng về người kính sợ Ngài,Là người trông cậy nơi tình yêu thương của Ngài. Hỡi Giê-ru-sa-lem, hãy ca tụng CHÚA;Hỡi Si-ôn, hãy ca ngợi Đức Chúa Trời ngươi. Vì Ngài làm cho then cổng ngươi vững chắc;Chúc phước cho con cái ở giữa ngươi. Ngài cho biên giới ngươi được bình an;Đổ đầy cho ngươi thóc lúa tốt nhất. Ngài truyền lệnh ra trên đất;Lệnh Ngài được thi hành tức khắc. Ngài cho tuyết phủ như tấm lông chiên;Ngài rải sương mai như tro bụi. Ngài đổ băng giá xuống như đá sỏi;Ai có thể chịu nổi cơn giá lạnh của Ngài? Ngài truyền lệnh tuyết liền tan ra;Ngài làm gió thổi, nước bèn chảy. Ngài truyền lời Ngài cho Gia-cốp,Các quy luật và phán quyết cho Y-sơ-ra-ên. Ngài không làm như vậy với một nước nào khác;Chúng không hề biết các phán quyết của Ngài.Ha-lê-lu-gia! Ha-lê-lu-gia!Từ các tầng trời, hãy ca ngợi CHÚA;Hãy ca ngợi Ngài trên các nơi cao. Hỡi tất cả thiên sứ, hãy ca ngợi Ngài;Hỡi cả thiên binh, hãy ca ngợi Ngài. Hỡi mặt trời, mặt trăng, hãy ca ngợi Ngài;Hỡi tất cả ngôi sao sáng, hãy ca ngợi Ngài. Hỡi các tầng trời cao nhất,Và nước trên các tầng trời, hãy ca ngợi Ngài; Nguyện tất cả đều ca ngợi danh CHÚAVì cớ Ngài ra lệnh, chúng liền được tạo nên. Ngài thiết lập chúng đến mãi mãi vô cùng;Ngài đã ban quy luật thì không thể bị bãi bỏ được. Hãy ca ngợi CHÚA;Từ quả đất, các quái vật của biển và mọi vực sâu, Lửa và mưa đá, tuyết và mây,Bão tố vâng theo lệnh Ngài. Các núi và mọi đồi,Cây ăn trái và mọi cây tùng, Thú rừng và mọi loài súc vật,Loài bò sát và chim, Các vua trên đất và tất cả các dân,Các hoàng tử cùng tất cả những người lãnh đạo trên đất, Các thanh niên cùng thiếu nữ,Những cụ già và trẻ con; Nguyện tất cả đều ca ngợi danh CHÚA,Vì chỉ một mình danh Ngài được tôn cao;Sự vinh hiển Ngài trổi cao hơn cả trời đất. Ngài đã nâng chiếc sừng của dân Ngài lên;Là sự ca ngợi của tất cả những người kính sợ Ngài;Tức là dân Y-sơ-ra-ên, một dân thân mật với Ngài.Ha-lê-lu-gia! Ha-lê-lu-gia!Hãy hát một bài ca mới cho CHÚA;Hãy hát ca ngợi Chúa giữa hội những người kính sợ Ngài. Nguyện Y-sơ-ra-ên vui vẻ trong Đấng Tạo Hóa mình;Nguyện con dân Si-ôn vui mừng nơi Vua mình. Nguyện chúng nó nhảy múa để ca ngợi danh Chúa;Đánh trống cơm, khảy đờn hạc, hát ca ngợi Ngài. Vì CHÚA vui lòng nơi con dân Ngài;Ngài lấy sự cứu rỗi trang sức cho những kẻ khiêm nhường. Nguyện những người kính sợ Chúa vui mừng trong vinh hạnh này;Họ sẽ ca hát vui vẻ ngay trên giường mình Nguyện lời tung hô Đức Chúa Trời nơi miệng họ;Một thanh gươm hai lưỡi nơi tay họ; Để trả thù các nướcVà trừng phạt các dân; Để trói các vua chúng nó bằng xiềngVà cột những kẻ quý tộc của họ bằng xích sắt; Để thi hành án phạt đã ghi cho chúng.Đây là sự vinh quang cho tất cả những người kính sợ Chúa.Ha-lê-lu-gia! Ha-lê-lu-gia!Hãy ca ngợi Đức Chúa Trời trong đền thánh Ngài;Hãy ca ngợi Chúa quyền năng trong nơi cao cả Ngài. Hãy ca ngợi Chúa vì những việc quyền năng Ngài;Hãy ca ngợi Chúa vì Ngài vô cùng vĩ đại. Hãy dùng kèn để ca ngợi Chúa;Hãy dùng đàn hạc, đàn lia mà ca ngợi Ngài. Hãy đánh trống cơm, nhảy múa để ca ngợi Chúa;Hãy khảy đàn, thổi sáo mà ca ngợi Ngài. Hãy khua chiêng vang dội để ca ngợi Chúa;Hãy đánh phèn la lớn tiếng mà ca ngợi Ngài. Hỡi mọi loài sinh vật hãy ca ngợi CHÚA.Ha-lê-lu-gia! Châm Ngôn của Sa-lô-môn, Con Trai Đa-vít, Vua của Y-sơ-ra-ên; Để biết sự khôn ngoan và lời giáo huấn;Để hiểu những lời sáng suốt; Để nhận lấy lời giáo huấn cho đời sống khôn ngoan,Công chính, công bình và bình đẳng; Để ban cho người dại dột sự khôn khéo;Cho người trẻ tuổi sự hiểu biết và suy xét. Nguyện người khôn ngoan sẽ nghe và tăng thêm sự học vấn;Người sáng suốt sẽ nhận được sự hướng dẫn; Để hiểu châm ngôn và ngụ ngôn;Những lời của người khôn ngoan và câu đố của họ. Kính sợ CHÚA là khởi đầu sự hiểu biết;Kẻ ngu dại khinh bỉ sự khôn ngoan và lời giáo huấn. Hỡi con ta, hãy nghe lời giáo huấn của cha conVà chớ bỏ lời dạy dỗ của mẹ con. Vì ấy là vòng hoa xinh đẹp trên đầu con,Dây chuyền trang sức trên cổ con. Hỡi con ta, nếu kẻ tội lỗi quyến rũ con,Chớ theo. Nếu chúng nói: “Hãy đến cùng chúng ta,Hãy mai phục để làm đổ máu;Hãy rình rập để hại người vô tội cách vô cớ. Như Âm Phủ, chúng ta hãy nuốt sống chúng nó,Nuốt nguyên vẹn như những kẻ xuống huyệt sâu. Chúng ta sẽ lấy hết đồ quý giá,Và nhà chúng ta sẽ đầy của cướp. Hãy rút thăm chia phần với chúng ta;Chúng ta sẽ có một bao tiền chung.” Hỡi con ta, đừng đi theo con đường của họ;Chân con hãy tránh các lối chúng nó. Vì chân chúng nó chạy theo điều ác;Chúng nó vội vàng làm đổ máu. Vì giăng lưới trước mắt cả bầy chimLà điều vô ích thay; Nhưng chúng nó mai phục để làm đổ máu chính chúng nó;Rình để hại chính mạng sống mình. Đó là kết cuộc của tất cả những kẻ tham lợi phi nghĩa;Sự cướp bóc sẽ tước đoạt mạng sống của kẻ sở hữu nó. Sự khôn ngoan kêu lớn trên đường phố;Lên tiếng giữa quảng trường; Sự khôn ngoan kêu gọi nơi phố chợ nhộn nhịp;Diễn thuyết tại cổng vào trong thành phố. Hỡi những kẻ dại dột, các ngươi yêu mến sự dại dột cho đến bao giờ?Những kẻ nhạo báng vui thích trong việc nhạo bángVà những kẻ ngu dại ghét sự hiểu biết cho đến khi nào? Hãy trở lại khi ta quở trách;Này ta sẽ đổ thần ta trên các ngươi;Sẽ cho các ngươi biết những lời ta. Vì ta đã kêu gọi nhưng các ngươi từ chối;Ta đã đưa tay ra nhưng không ai chú ý; Vì các ngươi đã bỏ mọi lời khuyên của ta;Không nhận sự quở trách của ta; Nên ta sẽ chê cười khi các ngươi bị tai họa;Ta sẽ chế nhạo khi sự kinh hoàng ập đến. Sự kinh hoàng sẽ kéo đến như bãoVà tai họa như gió lốc;Đau đớn và thống khổ ập đến trên các ngươi. Bấy giờ chúng nó sẽ cầu khẩn ta nhưng ta không đáp lời;Chúng nó sẽ cố gắng tìm kiếm ta nhưng không tìm được. Vì chúng nó ghét sự hiểu biết;Không chọn sự kính sợ CHÚA; Không theo lời ta khuyên;Khinh bỉ mọi điều quở trách của ta; Cho nên chúng sẽ phải ăn nuốt hậu quả của đường lối chúng;Và no nê với những mưu chước mình. Vì sự lầm lạc giết kẻ ngây ngô;Còn sự vô tâm của kẻ ngu dại hủy diệt chính chúng nó. Nhưng ai nghe ta sẽ sống an toànVà an tâm không sợ tai họa. Hỡi con ta, nếu con tiếp nhận những lời taVà trân trọng giữ gìn các điều răn ta trong lòng. Nếu tai con lắng nghe sự khôn ngoan;Và lòng con hướng về sự hiểu biết; Phải, nếu con kêu nài sự sáng suốt;Nếu con cất tiếng xin sự hiểu biết; Nếu con tìm nó như tìm bạc,Và kiếm nó như kiếm châu báu ẩn giấu; Bấy giờ con sẽ hiểu sự kính sợ CHÚAVà tìm thấy sự hiểu biết Đức Chúa Trời. Vì CHÚA ban cho sự khôn ngoan;Sự hiểu biết và sáng suốt đến từ miệng Ngài. Ngài tích lũy sự khôn ngoan cho người ngay thẳng;Ngài là thuẫn đỡ cho những kẻ sống chính trực. Ngài giữ gìn lối đi của người công bình;Bảo vệ đường lối của kẻ kính sợ Ngài. Bấy giờ con sẽ hiểu sự công chính,Công bình và bình đẳng cùng mọi đường lối tốt đẹp. Vì sự khôn ngoan sẽ vào lòng con;Sự hiểu biết sẽ làm linh hồn con thích thú. Sự khôn khéo sẽ giữ gìn conVà sự sáng suốt sẽ bảo vệ con; Giải cứu con khỏi con đường tà,Khỏi kẻ nói lời tai ác; Khỏi kẻ từ bỏ con đường ngay thẳng,Không đi theo đường lối tối tăm. Là kẻ vui vẻ để làm việc dữ;Thích thú trong hành động tai ác gian tà; Kẻ có lối đi quanh co,Có đường lối xảo quyệt; Giải cứu con khỏi người đàn bà dâm loạn;Là người đàn bà xa lạ có lời nói ngọt ngào; Nàng đã lìa bỏ bạn đời của tuổi thanh xuân;Quên giao ước của Đức Chúa Trời mình. Vì nhà nàng chìm xuống cõi chết;Đường lối nàng dẫn tới Âm Ty. Mọi kẻ đến với nàng đều không trở lại,Và cũng không đạt được con đường sự sống. Vậy, con hãy đi theo con đường của người thiệnVà giữ lấy đường lối của người công chính. Vì những người ngay thẳng sẽ được ở trong đất hứaVà những người trọn vẹn vẫn còn ở tại đó luôn. Nhưng những kẻ ác sẽ bị diệt trừ khỏi đấtVà những người xảo trá sẽ bị bứng khỏi vùng đất ấy. Hỡi con ta, chớ quên lời dạy dỗ của ta,Nhưng hãy giữ các điều răn ta trong lòng. Vì chúng sẽ thêm cho con tuổi thọ trong đời,Và an khang thịnh vượng. Chớ quên tình yêu thương và lòng trung tín,Hãy đeo chúng trên cổ con,Hãy ghi chúng vào lòng con. Nhờ đó con sẽ tìm được ơn lành và tiếng tốtTrước mắt Đức Chúa Trời lẫn người ta. Hãy hết lòng tin cậy CHÚA,Chớ nương cậy nơi sự sáng suốt của con. Hãy nhận biết Ngài trong mọi đường lối mình,Ngài sẽ làm cho đường lối của con bằng thẳng. Chớ khôn ngoan theo mắt mình,Nhưng hãy kính sợ CHÚA và tránh điều ác. Ấy sẽ là sự chữa bệnh cho thân thể con,Và bổ dưỡng cho xương cốt con. Hãy lấy tài sản và hoa quả đầu mùa của conMà tôn vinh CHÚA. Bấy giờ kho vựa của con sẽ đầy thóc lúa,Và thùng chứa của con sẽ đầy tràn rượu mới. Hỡi con ta, chớ khinh thường sự rèn luyện của CHÚA,Cũng đừng nản lòng vì lời quở trách của Ngài. Vì CHÚA khiển trách người Ngài thương,Như cha đối với con thân yêu của mình. Phước cho người nào tìm được sự khôn ngoan,Và nhận được sự sáng suốt. Vì giá trị của nó quý hơn bạc;Lợi ích từ nó tốt hơn vàng. Sự khôn ngoan quý hơn hồng ngọc;Tất cả mọi vật con ao ước đều không thể sánh được. Tay phải nó nắm trường thọ;Tay trái cầm sự giàu sang và vinh hiển. Những con đường của nó là đường dễ chịu;Mọi lối đi của nó đều bình an. Sự khôn ngoan là cây sự sống cho ai nắm được nó;Người nào giữ chặt lấy nó được gọi là người có phước. CHÚA dùng sự khôn ngoan đặt nền cho quả đất,Bởi sự sáng suốt thiết lập các tầng trời. Do sự hiểu biết của Ngài các vực sâu tuôn nước,Các đám mây kết tụ thành sương; Hỡi con ta, hãy giữ lấy sự khôn ngoan và suy xét;Mắt con chớ rời xa những điều ấy. Chúng sẽ là sự sống cho linh hồn con,Và đồ trang sức cho cổ con. Bấy giờ con sẽ đi an toàn trên đường,Và chân con không vấp ngã. Khi nằm con sẽ không sợ,Lúc con nằm ngủ, con sẽ ngủ ngon. Chớ sợ điều kinh khủng bất ngờ,Cũng đừng sợ khi bão táp ập xuống trên kẻ ác. Vì CHÚA sẽ là sự tin cậy của con;Ngài sẽ gìn giữ chân con khỏi mắc bẫy. Đừng từ chối điều tốt đẹp cho người xứng đángKhi tay con có quyền làm điều ấy. Đang khi có sẵn thì đừng nói với người láng giềng con rằng:“Hãy đi rồi trở lại, ngày mai tôi sẽ cho anh.” Chớ âm mưu hại người láng giềngKhi người sống an toàn bên cạnh con. Đừng tranh chấp vô cớ với aiKhi người ta không làm gì hại con. Chớ ganh tị với người hung dữ,Cũng đừng chọn đường lối nào của nó. Vì CHÚA ghê tởm kẻ gian tà,Nhưng Ngài thân cận với người ngay thẳng. Sự rủa sả của CHÚA ở trong nhà kẻ ác,Nhưng Ngài ban phước cho chỗ ở của người công chính. Đối với người nhạo báng, Ngài chế nhạo chúng;Nhưng Ngài ban ơn cho kẻ khiêm nhu. Người khôn ngoan sẽ thừa hưởng vinh hiển,Nhưng kẻ ngu dại sẽ nhận điều xấu hổ. Hỡi các con, hãy nghe lời giáo huấn của người cha;Và hãy chú ý để các con biết được sự sáng suốt. Vì ta ban cho các con một đạo lý tốt lành;Đừng từ bỏ lời dạy dỗ của ta. Khi thơ ấu ta là con của cha ta,Và là con một của mẹ ta. Người dạy bảo ta rằng:Hãy ghi nhớ các lời ta trong lòng;Hãy gìn giữ những điều răn ta và sống. Hãy thu nhận sự khôn ngoan, hãy thu nhận sự sáng suốt;Chớ quên, cũng đừng từ bỏ lời phán của ta. Đừng từ bỏ sự khôn ngoan thì nó sẽ gìn giữ con;Hãy yêu mến sự khôn ngoan thì nó sẽ bảo vệ con. Sự khôn ngoan là điều tiên quyết, hãy thu nhận sự khôn ngoan;Hãy tận dụng mọi điều con có để nhận được sáng suốt. Hãy đánh giá cao sự khôn ngoan thì nó sẽ tôn con lên cao;Hãy ôm ấp nó thì nó sẽ làm cho con vinh hiển. Sự khôn ngoan sẽ ban cho đầu con một mão hoa ân huệ,Sẽ đội cho đầu con một mão miện vinh hiển. Hỡi con ta, hãy nghe và nhận các lời của ta,Thì các năm của đời con sẽ được thêm nhiều. Ta dẫn con trên con đường khôn ngoan,Dắt con trong các lối ngay thẳng. Khi đi các bước chân con sẽ không bị ngăn trởVà nếu con chạy, con sẽ không bị vấp ngã. Hãy nắm chặt lấy lời giáo huấn, chớ buông ra;Hãy gìn giữ nó vì nó là sự sống của con. Đừng vào trong lối của những kẻ ác,Chớ đi trên đường của những người dữ. Hãy tránh con đường ấy; đừng đi trên đó;Hãy rẽ qua lối khác và cứ đi thẳng luôn. Vì chúng không ngủ được nếu không làm điều ácVà bị mất ngủ nếu không làm cho người ta ngã. Vì chúng ăn bánh gian ác,Uống rượu hung dữ. Nhưng con đường của người công chính như ánh sáng bình minh;Chiếu sáng rạng rỡ cho đến giữa trưa. Còn con đường của kẻ ác giống như tăm tối;Chúng nó không biết vật gì làm mình vấp ngã. Hỡi con ta, hãy chú ý đến các lời ta;Hãy lắng tai nghe những lời ta nói. Mắt con chớ lìa xa các lời ấy;Hãy gìn giữ chúng trong lòng con. Vì những lời ấy là sự sống cho ai tìm được chúng,Là sự chữa bệnh cho toàn thân thể họ. Trên hết mọi sự, hãy gìn giữ tấm lòng của con,Vì các nguồn sự sống xuất phát từ đó. Hãy từ bỏ miệng gian tà;Hãy lìa xa môi xảo quyệt. Mắt con hãy nhìn thẳng trước mặt;Mí mắt con hãy hướng thẳng về phía trước. Hãy làm cho bằng phẳng con đường con đi,Thì mọi đường lối của con sẽ được chắc chắn. Chớ quay sang bên phải hay bên trái;Chân con hãy tránh điều ác. Hỡi con ta, hãy chú ý đến sự khôn ngoan ta,Hãy lắng tai nghe sự sáng suốt của ta; Để con nắm giữ sự thận trọng,Và môi con gìn giữ sự hiểu biết. Vì môi của người đàn bà dâm loạn tiết ra mật ngọt;Miệng nó dịu ngọt hơn dầu. Nhưng rốt cuộc đắng như ngải cứu,Sắc như gươm hai lưỡi. Chân nó đi đến sự chết,Bước nó dẫn xuống Âm Phủ. Nó không cân nhắc con đường sự sống,Đường lối nó lầm lạc mà nó không biết. Hỡi các con ta, giờ đây hãy nghe ta;Chớ từ bỏ những lời của miệng ta. Hãy giữ đường lối con cách xa nó;Chớ đến gần cửa nhà nó. E rằng con sẽ tiêu phí danh dự con cho những kẻ khác,Các năm tháng đời con cho kẻ bạo tàn; E những người lạ sẽ hưởng trọn công sức của con,Và công lao con sẽ vào nhà người ngoại quốc. Rốt cuộc con sẽ rên siết khi xác thịtVà thân thể tiêu mòn. Bấy giờ con sẽ nói: “Sao tôi đã ghét sự giáo huấn;Lòng tôi đã khinh lời quở trách. Tôi đã không vâng lời các thầy giáo;Tôi đã không lắng tai nghe những người dạy dỗ tôi. Tôi gần như hoàn toàn bị hủy hoạiỞ giữa buổi hội và dân chúng.” Hãy uống nước từ hồ chứa của con;Và nước chảy từ giếng của con; Lẽ nào các nguồn nước của con chảy ra ngoài đường,Các dòng suối của con chảy ở nơi phố chợ? Chúng thuộc về riêng con;Không thể chung với những người khác. Nguyện nguồn nước của con được phước;Hãy vui thích với người vợ từ thuở thanh xuân; Như con hươu đáng yêu, như con nai duyên dáng;Nguyện ngực nàng làm con vui thỏa luôn luônVà tình yêu nàng làm con say mê mãi mãi. Hỡi con ta, tại sao con say mê người đàn bà dâm loạn?Tại sao con ôm ấp người đàn bà xa lạ? Vì các đường lối của người ta đều ở trước mắt CHÚAVà Ngài xem xét mọi lối đi của nó. Kẻ ác sẽ bị tội lỗi mình sập bẫy;Và bị các dây tội lỗi mình trói cột. Nó sẽ chết vì thiếu sự giáo huấnVà lầm lạc vì quá ngu dại. Hỡi con ta, nếu con bảo lãnh cho người láng giềng;Nếu con đưa tay hứa với một người lạ. Nếu con bị sập bẫy vì môi miệng;Nếu con bị mắc bẫy vì lời nói mình. Hỡi con ta, hãy làm thế này để giải cứu mình.Vì con đã lọt vào tay kẻ láng giềng con;Hãy đến, cúi đầu nài xin kẻ láng giềng con. Đừng để cho mắt con ngủ;Chớ để cho mí mắt con khép lại. Hãy thoát thân như nai tơ thoát khỏi tay thợ săn;Như chim thoát khỏi tay người đánh bẫy. Hỡi kẻ lười biếng, hãy đến xem con kiến;Hãy xem đường lối nó để trở nên khôn ngoan. Nó không có người lãnh đạo,Giám đốc hay cai trị; Nhưng nó tích trữ lương thực vào mùa hèVà thu nhặt thực phẩm trong mùa gặt. Hỡi kẻ lười biếng, ngươi còn nằm cho đến chừng nào?Bao giờ ngươi mới ngủ thức dậy? Ngủ một chút; chợp mắt một chút;Khoanh tay nằm nghỉ một chút; Thế là sự nghèo khó của ngươi sẽ đến như kẻ cướp bóc,Và sự thiếu thốn của ngươi sẽ đến như người lính nơi chiến trận. Người nào sống với môi miệng gian dốiLà kẻ vô loài, người gian ác. Hắn nháy mắt làm ám hiệu;Khều chân,Chỉ ngón tay làm dấu; Người có lòng gian tà, âm mưu điều ác;Lúc nào cũng gieo điều bất hòa. Cho nên tai họa sẽ thình lình kéo đến,Trong chốc lát nó sẽ bị hủy diệt không phương cứu chữa. Có sáu điều CHÚA ghétVà bảy điều Ngài ghê tởm: Con mắt tự cao;Lưỡi dối trá;Bàn tay đổ máu vô tội; Lòng toan tính những âm mưu gian ác;Chân vội vàng chạy đến điều dữ; Nhân chứng gian thốt ra lời dối trá;Kẻ gieo điều bất hòa giữa vòng anh em. Hỡi con ta, hãy giữ các điều răn của cha conVà chớ từ bỏ lời dạy dỗ của mẹ con. Hãy luôn luôn ghi khắc nó trong lòng;Hãy đeo nó nơi cổ con. Khi con đi, nó sẽ dẫn con;Khi con nằm nó sẽ bảo vệ con;Lúc con thức nó sẽ trò chuyện với con. Vì điều răn là ngọn đèn;Sự dạy dỗ là ánh sángVà lời quở trách để giáo huấnLà con đường sự sống; Để giữ con tránh khỏi người đàn bà gian ác;Khỏi lưỡi ngọt ngào của người đàn bà dâm loạn. Lòng con chớ thèm muốn sắc đẹp nó;Cũng đừng để mí mắt nó chiếm lấy con. Vì gái điếm làm cho con chỉ còn một miếng bánh;Nhưng người đàn bà ngoại tình săn đuổi chính linh hồn quý giá của con. Có thể nào một người mang lửa trên bụngMà quần áo không cháy sao? Hay một người bước đi trên than lửa đỏMà chân không bị phỏng sao? Người nào ngủ với vợ người khác cũng như vậy;Ai đụng đến nàng sẽ không tránh khỏi hình phạt. Một kẻ cắp sẽ không bị khinhNếu nó đánh cắp để ăn khi đói khát. Nhưng nếu nó bị bắt, nó phải đền gấp bảy lần;Nó phải trả bằng tất cả tài sản nhà nó. Người ngoại tình là người mất hết tâm trí;Kẻ làm điều đó sẽ hủy diệt linh hồn mình. Người sẽ bị thương tích và bị sỉ nhục;Sự sỉ nhục của người sẽ không thể nào tẩy xóa được. Vì ghen tuông là cơn thịnh nộ của người chồng;Người sẽ không dung thứ khi báo thù. Người sẽ không chấp nhận bất cứ một sự đền bù nào;Dù con đút lót nhiều quà cáp người cũng không chịu. Hỡi con ta, hãy gìn giữ các lời ta,Hãy cất giữ các điều răn ta trong lòng con. Hãy giữ các điều răn của ta thì con sẽ sống;Hãy giữ sự dạy dỗ của ta như con ngươi của mắt con. Hãy cột chúng trên ngón tay con;Ghi khắc vào tấm lòng con. Hãy nói với sự khôn ngoan: ngươi là chị em ta;Hãy gọi sự sáng suốt là họ hàng con; Để chúng gìn giữ con tránh người đàn bà dâm loạn;Khỏi người đàn bà dâm loạn có lời nói ngọt ngào. Vì tại cửa sổ nhà ta,Ta nhìn qua song cửa; Ta thấy trong số những kẻ ngây ngô,Giữa vòng những người trẻ tuổi,Một thanh niên thiếu mất tâm trí. Nó đi lại trên con đường gần góc nhà người đàn bà ấy;Nó bước vào con đường dẫn đến nhà nàng; Khi chạng vạng buổi tối,Lúc đêm khuya tối tăm. Kìa, người đàn bà ấy đón nó;Ăn mặc như con điếm, lòng dạ xảo quyệt; Ăn nói ồn ào, tính tình bướng bỉnh;Chân chẳng chịu ở trong nhà. Khi thì ở ngoài đường, lúc thì nơi công viên;Nàng rình rập tại mỗi góc đường. Nàng ôm lấy nó và hôn nó;Mặt mày trân tráo, nàng nói: Em có tế lễ cầu an sẵn tại nhà;Hôm nay em đã trả xong lời khấn nguyện; Nên em đi ra đón anh;Em đã tìm kiếm anh và tìm được; Em đã trải giườngBằng khăn vải hoa Ai Cập; Em đã dùng một dược, lô hội và quế hươngXông giường mình. Hãy đến, ái ân say đắm cho đến sáng;Hãy vui thú yêu đương. Vì chồng em không có nhà,Hắn đã đi xa; Đem theo túi bạc,Đến ngày trăng tròn mới trở về nhà. Nàng dụ dỗ nó bằng nhiều lời quyến rũ;Nàng lôi cuốn nó bằng môi miệng ngọt ngào. Lập tức nó theo nàngNhư con bò bị dẫn đến lò sát sinh;Như kẻ ngu dại bị xiềng để chịu hình phạt; Cho đến khi một mũi tên đâm vào gan nó;Như con chim bay sa vào lướiMà không biết rằng nó phải trả bằng mạng sống mình. Giờ đây, hỡi các con ta,Hãy nghe ta và chú ý đến lời ta phán; Lòng con đừng hướng về đường lối của người đàn bà ấy;Chớ lầm lạc vào các ngõ của nó. Vì nhiều nạn nhân đã bị người đàn bà ấy đánh ngã;Và một số lớn đã bị nó giết chết. Nhà người đàn bà ấy là con đường đi đến hỏa ngục;Dẫn xuống Âm phủ. Sự khôn ngoan đã chẳng kêu gọi?Sự sáng suốt đã chẳng lên tiếng sao? Sự khôn ngoan đứng trên các đỉnh cao,Bên cạnh đường; ở các ngã tư; Ở gần cổng; trước cửa thành;Nơi lối vào; nó kêu to: “Hỡi loài người, ta kêu gọi các người;Lời kêu gọi của ta cho nhân loại. Hỡi người đơn sơ, hãy hiểu sự khôn khéo;Hỡi kẻ ngu dại, hãy hiểu biết sáng suốt. Hãy nghe, vì ta sẽ nói điều cao quý;Mở môi miệng phán điều ngay thẳng. Vì miệng ta nói lên chân lý,Môi ta ghê tởm điều gian ác. Tất cả những lời từ miệng ta đều công chính;Không có gì xuyên tạc hay gian tà trong ấy. Tất cả đều rõ ràng cho người hiểu biết,Và đúng đắn cho người tìm thấy tri thức. Hãy nhận lấy lời giáo huấn của ta thay vì bạc,Và sự tri thức hơn là vàng ròng. Vì sự khôn ngoan quý hơn hồng ngọc;Tất cả mọi vật con ao ước đều không thể sánh được. Ta, sự khôn ngoan sống với sự khôn khéo;Ta sở hữu tri thức và sự suy xét. Kính sợ CHÚA là ghét điều ác;Ta ghét kiêu ngạo, tự cao,Đường lối ác và miệng gian tà. Sự cố vấn và khôn ngoan thuộc về ta;Ta có sự hiểu biết và sức mạnh. Nhờ ta các vua trị vì,Và những người lãnh đạo ban hành các luật công bình. Nhờ ta các hoàng tử cai trị,Và các nhà quý phái, tất cả đều xét xử công minh. Ta yêu những người yêu mến taVà những ai tìm kiếm ta sẽ tìm được. Giàu có và vinh dự;Tài sản bền vững và thịnh vượng đều thuộc về ta. Hoa quả của ta tốt hơn vàng, ngay cả vàng ròng;Hoa lợi từ ta quý hơn cả bạc nguyên chất. Ta đi trên con đường công chính;Ở giữa các lối công bình; Để ban cho những người yêu mến ta của cảiVà đổ đầy kho tàng của họ. CHÚA tạo nên ta đầu tiên trong đường lối Ngài;Trước hơn các công việc thái cổ của Ngài. Ta đã được lập nên từ đời đời;Từ thuở ban đầu, trước khi bắt đầu quả đất. Ta đã được sinh ra khi chưa có các vực sâu,Chưa có các nguồn nước dồi dào. Trước khi các núi, trước khi các đồi ổn định ta đã được sinh ra. Trước khi CHÚA tạo nên quả đất, cánh đồngVà bụi đất đầu tiên. Khi Ngài lập các tầng trời,Lúc Ngài định các vòm trên mặt các vực sâu, ta đã ở đó; Khi Ngài làm cho các bầu trời trên cao,Các nguồn vực sâu vững chắc; Khi Ngài định giới hạn cho biển cảĐể nước không vượt qua các mạng lệnh của Ngài;Khi Ngài lập các nền cho quả đất; Ta đã ở bên cạnh Ngài như người thợ cả;Hằng ngày ta là niềm vui của Ngài;Luôn luôn vui mừng trước mặt Ngài; Vui vẻ trong thế gian của NgàiVà thích thú với nhân loại. Giờ đây, hỡi các con ta, hãy nghe ta;Phước cho người nào gìn giữ đường lối ta. Hãy nghe lời giáo huấn và hãy khôn ngoan;Chớ xao lãng. Phước cho người nào nghe ta;Hằng ngày canh chừng ở cổng ta;Chờ đợi bên cửa ta. Vì ai tìm được ta, tìm được sự sốngVà nhận ơn lành từ CHÚA. Nhưng ai thiếu ta linh hồn mình sẽ bị thương tổn;Tất cả những kẻ ghét ta yêu sự chết.” Sự khôn ngoan xây dựng nhà mình;Chạm trổ bảy cột trụ; Nàng làm thịt thú vật;Pha rượu nho và dọn tiệc mình. Nàng sai những tớ gái mình đi;Từ nơi đỉnh cao nhất của thành nàng kêu gọi: “Ai là người dại dột, hãy trở lại đây”;Nàng nói với người thiếu trí hiểu: “Hãy đến ăn bánh của taVà uống rượu ta pha; Hãy từ bỏ sự dại dột và sẽ được sống;Hãy đi theo con đường sáng suốt.” Ai sửa sai người nhạo báng chuốc lấy sỉ nhục cho mình;Ai quở trách người gian ác sẽ bị tổn thương. Đừng quở trách người nhạo báng, nó sẽ ghét con;Trách người khôn ngoan, người sẽ thương con. Hãy giáo huấn người khôn ngoan thì người sẽ khôn ngoan hơn;Hãy dạy dỗ người công chính thì kiến thức của người sẽ gia tăng. Kính sợ CHÚA là khởi đầu sự khôn ngoan;Hiểu biết Đấng Thánh là sự sáng suốt. Vì nhờ ta các ngày của con sẽ được nhiều thêm,Các năm của đời con sẽ được gia tăng. Nếu con khôn ngoan, chính con sẽ được lợi ích;Nếu con nhạo báng, chính con phải chịu hậu quả. Người đàn bà ngu dại hay to tiếng,Ngây ngô và không biết gì. Nàng ngồi trước cửa nhà;Trên ghế nơi đỉnh cao của thành; Để kêu gọi những người qua lại trên đường,Là những người đi thẳng đường mình; “Ai là người dại dột, hãy trở lại đây”;Nàng cũng nói với người thiếu trí hiểu: “Nước ăn cắp thì ngọt;Bánh ăn vụng thì ngon.” Nhưng người không biết rằng đó là nơi chết chóc,Và các khách của nàng đều ở nơi vực sâu của Âm Phủ. Đứa con trai khôn ngoan làm cho cha mình vui vẻ,Nhưng đứa con trai ngu dại gây cho mẹ mình buồn phiền. Của phi nghĩa không sinh lời,Nhưng sự công chính giải cứu khỏi sự chết. CHÚA không để người công chính đói khát,Nhưng Ngài từ khước lòng thèm muốn của kẻ ác. Cánh tay lười biếng gây nên nghèo khổNhưng bàn tay siêng năng làm cho giàu có. Người nào thâu trữ trong mùa hè là đứa con khôn ngoan;Kẻ ngủ trong mùa gặt là đứa con sỉ nhục. Phước lành ở trên đầu người công chính,Nhưng miệng kẻ gian ác che giấu điều hung bạo. Kỷ niệm của người công chính là một phúc lành,Nhưng tên của kẻ gian ác sẽ mục nát. Lòng khôn ngoan chấp nhận mệnh lệnh;Nhưng môi miệng ngu dại sẽ đưa đến hủy hoại. Người sống ngay thẳng sẽ sống an toàn,Nhưng đường lối gian tà sẽ bị phát giác. Người nháy mắt làm hiệu gây nên sầu não,Và môi miệng ngu dại sẽ đưa đến hủy hoại. Miệng người công chính là nguồn sự sống,Nhưng miệng kẻ gian ác che giấu điều hung bạo. Thù ghét gây ra xung đột,Nhưng tình yêu thương che đậy mọi vi phạm. Khôn ngoan được tìm thấy trên môi miệng người hiểu biết,Nhưng roi vọt dành cho lưng kẻ thiếu trí hiểu. Người khôn ngoan tích trữ tri thức,Nhưng môi miệng kẻ ngu dại đem hủy hoại đến gần. Tài sản người giàu có là thành trì kiên cố của người;Sự hủy hoại của kẻ nghèo là sự nghèo khó của họ. Công lao của người công chính dẫn đến sự sống;Lợi lộc của kẻ gian ác dẫn đến tội lỗi. Ai nghe lời giáo huấn ở trên đường dẫn đến sự sống,Nhưng kẻ khước từ sự quở trách sẽ bị lầm lạc. Kẻ che giấu lòng thù ghét là kẻ có môi giả dối,Và người buông ra lời nói hành là người ngu dại. Hễ nhiều lời thì sẽ không thiếu vấp phạm,Nhưng người khôn ngoan gìn giữ môi miệng mình. Lưỡi người công chính là bạc nguyên chất;Lòng người gian ác không có giá trị gì. Môi miệng người công chính nuôi dưỡng nhiều người,Nhưng những kẻ ngu dại chết vì thiếu trí hiểu. Phước lành của CHÚA làm nên giàu có;Ngài cũng không thêm buồn phiền cặp theo. Người ngu dại coi hành động ác là thích thú,Nhưng người sáng suốt vui thích trong sự khôn ngoan. Điều kẻ ác lo sợ sẽ xảy ra cho nó,Nhưng điều người công chính ước ao sẽ được ban cho. Khi giông tố thổi qua, kẻ ác sẽ không còn nữa,Nhưng nền móng của người công chính còn đời đời. Như giấm làm ê răng, như khói làm cay mắt;Kẻ lười biếng đối với người sai phái nó cũng vậy. Kính sợ CHÚA sẽ gia tăng ngày tháng,Nhưng năm thọ của kẻ ác sẽ bị cắt ngắn đi. Hy vọng của người công chính là sự vui vẻ,Nhưng sự trông đợi của kẻ ác sẽ tiêu tan. Đường lối của CHÚA là thành lũy cho người ngay thẳng,Nhưng là sự hủy hoại cho kẻ gian ác. Người công chính sẽ không bao giờ bị rung chuyển,Nhưng kẻ ác sẽ không tồn tại trên đất. Miệng của người công chính đem lại khôn ngoan,Nhưng lưỡi gian tà sẽ bị cắt đứt. Môi người công chính biết điều thích hợp,Còn miệng kẻ gian ác biết sự gian tà. CHÚA ghê tởm cái cân gian trá,Nhưng quả cân đúng làm Ngài hài lòng. Khi kiêu ngạo đến, nhục nhã cũng đến,Nhưng sự khôn ngoan đến với người khiêm nhường. Tính trung thực của người ngay thẳng hướng dẫn họ,Nhưng sự gian tà của kẻ xảo trá sẽ hủy diệt chúng. Giàu có không lợi ích gì trong ngày thịnh nộ,Nhưng sự công chính giải cứu khỏi sự chết. Sự công chính của người chính trực làm bằng phẳng đường lối người,Nhưng kẻ ác sẽ sa ngã bởi chính sự gian ác mình. Sự công chính của người ngay thẳng giải cứu người,Nhưng kẻ xảo trá bị mắc bẫy bởi lòng tham của mình. Khi chết điều mong đợi của kẻ ác tiêu tan,Và niềm hy vọng của kẻ cường bạo bị tiêu hủy. Người công chính được cứu khỏi tai họa,Nhưng kẻ ác đi vào đó thế chỗ cho người. Kẻ vô đạo dùng môi miệng hủy diệt người láng giềng mình,Nhưng người công chính nhờ sự hiểu biết được giải cứu. Khi người công chính thịnh vượng, thành phố vui vẻ,Và khi kẻ ác bị hủy diệt, thành phố reo hò mừng rỡ. Một thành được tôn cao nhờ phước lành của người ngay thẳng,Nhưng vì miệng của kẻ ác nó bị phá hủy. Kẻ khinh miệt người láng giềng mình là người thiếu hiểu biết,Còn người sáng suốt giữ im lặng. Kẻ ngồi lê đôi mách tiết lộ điều bí mật,Nhưng người có lòng đáng tin cậy giữ kín công việc. Một dân tộc sẽ sụp đổ vì thiếu chiến lược, Nhưng nhờ nhiều cố vấn nó sẽ chiến thắng. Kẻ nào bảo lãnh cho người xa lạ sẽ bị thiệt hại,Nhưng người ghét việc bảo lãnh sẽ được an toàn. Một người đàn bà duyên dáng được vinh dự,Nhưng một người đàn ông hung bạo chỉ được của cải. Người nhân từ làm lợi cho linh hồn mình;Kẻ độc ác làm hại cho thân thể nó. Kẻ ác nhận tiền công lừa gạt,Nhưng người gieo sự công chính nhận phần thưởng thật. Người nào kiên trì trong sự công chính dẫn đến sự sống;Còn kẻ theo đuổi điều ác sẽ đưa đến cái chết. CHÚA ghê tởm kẻ có tấm lòng gian tà,Nhưng vui thích người theo đường lối chính trực. Chắc chắn kẻ ác sẽ không tránh khỏi hình phạt,Nhưng dòng dõi người công chính sẽ thoát khỏi. Một người đàn bà đẹp nhưng thiếu thận trọng,Cũng như vòng vàng đeo nơi mũi heo. Điều mong ước của người công chính đều là phước lành;Còn hy vọng của kẻ ác là sự thịnh nộ. Người ban cho rộng rãi lại càng giàu có,Nhưng kẻ quá keo kiệt thì vẫn thiếu thốn. Người rộng rãi sẽ được no đủ; Kẻ cho người uống nước sẽ được nước uống. Kẻ nào đầu cơ tích trữ lúa gạo sẽ bị dân chúng nguyền rủa,Nhưng người bán ra sẽ được chúc phước. Người nào sốt sắng tìm kiếm điều thiện sẽ tìm thấy ân huệ,Nhưng kẻ theo đuổi điều ác, điều ác sẽ đến với nó. Kẻ nào tin cậy nơi sự giàu có của mình sẽ ngã,Nhưng người công chính sẽ phát triển như cành lá xanh tươi. Người nào gây rắc rối cho gia đình mình sẽ chẳng thừa hưởng được gì;Còn kẻ ngu dại sẽ làm đầy tớ cho người có lòng khôn ngoan. Kết quả của người công chính là cây sự sống;Còn người chinh phục được linh hồn người ta là người khôn ngoan. Nếu người công chính được báo đáp ngay trên trần thế,Huống gì kẻ gian ác và người tội lỗi. Người nào yêu sự giáo huấn, yêu tri thức;Ai ghét sự quở trách là kẻ ngu dại. Người lành nhận được ân huệ từ CHÚA;Nhưng Ngài lên án kẻ âm mưu quỷ quyệt. Một người không thể nhờ gian ác mà được thiết lập vững chắc;Nhưng rễ của người công chính sẽ không lay chuyển. Một người vợ đức hạnh là mão triều thiên cho chồng;Còn người vợ đem sỉ nhục khác nào sự mục nát trong xương người. Tư tưởng của người công chính là công bình;Nhưng mưu kế của kẻ ác là xảo quyệt. Lời nói của kẻ ác phục kích làm đổ máu;Nhưng môi miệng người ngay thẳng giải cứu người. Kẻ ác bị lật đổ và nó không còn nữa,Nhưng nhà người công chính vẫn đứng vững. Một người được khen ngợi nhờ khôn ngoan,Nhưng lòng gian tà sẽ bị khinh miệt. Thà làm một người tầm thường mà có đầy tớ,Còn tốt hơn một kẻ tự tôn mà thiếu gạo ăn. Người công chính biết chăm sóc sự sống của súc vật mình;Còn lòng thương xót của kẻ ác chỉ là tàn bạo. Người nào cày bừa ruộng đất mình sẽ được nhiều thực phẩm;Còn kẻ theo đuổi chuyện viển vông là kẻ thiếu trí hiểu. Kẻ ác tham muốn miếng mồi của người tà ác;Nhưng rễ cây người công chính sinh hoa quả. Kẻ ác mắc bẫy vì môi miệng tội lỗi của nó,Nhưng người công chính thoát khỏi tai họa. Nhờ kết quả của môi miệng, một người được đầy đủ điều tốt lành;Người ta sẽ được báo đáp tùy công việc tay mình làm. Đường lối của kẻ ngu dại tự cho là đúng theo mắt nó,Nhưng người khôn ngoan lắng nghe lời cố vấn. Kẻ ngu dại bộc lộ ngay sự tức giận,Còn người khôn khéo bỏ qua điều mình bị xúc phạm. Nhân chứng chân thật, nói lên điều công chính;Nhưng kẻ làm chứng gian nói lên sự lừa dối. Lời nói thiếu suy nghĩ như lưỡi gươm đâm thủng,Nhưng lưỡi người khôn ngoan chữa lành. Môi chân thật bền vững đời đời,Còn lưỡi gian dối chỉ tồn tại trong chốc lát. Lòng của kẻ âm mưu gian ác có sự dối trá,Nhưng lòng của người tạo nên hòa giải có sự vui mừng. Người công chính sẽ không gặp tai hại,Nhưng kẻ ác thì đầy tai họa. CHÚA ghê tởm môi gian dối,Nhưng người hành động chân thật làm hài lòng Ngài. Người khôn khéo giấu điều mình hiểu biết,Còn lòng kẻ ngu dại công bố điều ngu xuẩn. Bàn tay người siêng năng sẽ cai trị,Nhưng kẻ lười biếng sẽ phải lao dịch. Lo lắng làm cho lòng người mệt mỏi,Nhưng lời lành khiến lòng dạ người ta vui mừng. Người công chính là người hướng đạo cho bạn mình,Còn con đường của kẻ ác đưa đến lầm lạc. Kẻ lười biếng không muốn nướng thịt thú mình đã săn được,Nhưng sự siêng năng là gia tài quý báu của một người. Trong con đường công chính có sự sống,Trên lối ấy không có sự chết. Con khôn ngoan nghe lời giáo huấn của cha;Nhưng kẻ nhạo báng không chịu nghe lời quở trách. Nhờ kết quả của môi miệng mình một người hưởng những vật tốt lành;Nhưng tham vọng của người xảo trá là hung bạo. Người nào gìn giữ môi miệng, giữ linh hồn mình;Còn hủy hoại sẽ đến với kẻ hay hở môi. Linh hồn kẻ lười biếng mong muốn nhưng chẳng được gì;Linh hồn người siêng năng được đầy đủ. Người công chính ghét lời gian dối;Còn kẻ ác làm điều đáng hổ thẹn và nhục nhã. Sự công chính gìn giữ người theo đường ngay thẳng,Nhưng sự gian ác đánh đổ kẻ tội lỗi. Có người làm ra vẻ giàu nhưng không có gì cả;Có kẻ làm ra vẻ nghèo nhưng lại có nhiều của cải. Của cải của một người là tiền chuộc mạng cho người ấy;Nhưng người nghèo không lo sợ lời hăm dọa. Ánh sáng của người công chính là niềm vui;Nhưng đèn của kẻ gian ác sẽ tắt. Kiêu ngạo chỉ sinh điều cãi cọ;Còn khôn ngoan thuộc về người chịu nghe lời cố vấn. Của cải phi nghĩa sẽ hao mòn;Nhưng người nào thu góp từng chút sẽ thêm nhiều. Hy vọng bị trì hoãn làm lòng dạ đau đớn;Còn ước vọng thành đạt là cây sự sống. Kẻ nào khinh lời giáo huấn sẽ bị hủy diệt,Nhưng ai kính sợ điều răn sẽ được thưởng. Sự dạy dỗ của người khôn ngoan là nguồn sự sống,Để tránh cạm bẫy sự chết. Sự hiểu biết đúng đem lại sự quý mến,Nhưng đường lối của kẻ vô tín sẽ bị khó khăn. Người khôn ngoan làm theo mọi sự hiểu biết,Còn kẻ ngu dại phô trương sự ngu xuẩn. Sứ giả gian ác sẽ gặp tai họa;Nhưng đại sứ chân chính đem lại sự chữa lành. Kẻ bỏ qua lời giáo huấn sẽ bị nghèo khổ và nhục nhã;Nhưng người chịu nghe lời quở trách sẽ được tôn trọng. Ước vọng được thành đạt là điều ngọt ngào cho linh hồn;Nhưng từ bỏ điều ác lấy làm gớm ghiếc đối với kẻ ngu dại. Người nào đi với người khôn ngoan sẽ khôn ngoan,Nhưng làm bạn với kẻ ngu dại sẽ bị thiệt hại. Bất hạnh theo đuổi kẻ tội lỗi,Nhưng người công chính được thưởng phúc lành. Người lành để gia tài cho con cháu mình,Nhưng của cải của kẻ tội lỗi được tích trữ cho người công chính. Ruộng mới của người nghèo sinh nhiều lương thực,Nhưng nó bị quét sạch vì bất công. Người nào kiêng roi vọt, ghét con cái mình;Nhưng người yêu con cái mình chăm lo giáo huấn chúng. Người công chính ăn uống thỏa thuê;Nhưng bụng kẻ ác sẽ đói. Người đàn bà khôn ngoan xây dựng nhà mình,Nhưng phụ nữ ngu dại lấy tay phá hủy nó. Người nào sống ngay thẳng kính sợ CHÚA,Người nào theo đường lối quỷ quyệt khinh bỉ Ngài. Trong miệng kẻ ngu dại có cây roi dành cho kẻ kiêu ngạo,Nhưng môi người khôn ngoan gìn giữ người. Nơi nào không có trâu bò thì máng cỏ cũng trống không;Nhưng sức bò đực đem hoa lợi đến. Nhân chứng thành thật không gian dối,Nhưng nhân chứng giả thốt ra sự dối trá. Kẻ nhạo báng tìm kiếm khôn ngoan nhưng không thấy;Còn sự hiểu biết đến dễ dàng với người sáng suốt. Hãy tránh mặt người ngu dại,Vì con sẽ không học được lời tri thức. Sự khôn ngoan của người khôn khéo là hiểu biết đường lối mình;Sự ngu xuẩn của kẻ ngu dại là sự lừa gạt. Kẻ ngu dại chế nhạo tế lễ chuộc lỗi,Nhưng giữa vòng người ngay thẳng có ơn Đức Chúa Trời. Chỉ có lòng mình hiểu được sự cay đắng của linh hồn mình,Và người ngoài không thể chia sẻ niềm vui của nó. Nhà của kẻ ác sẽ bị phá hủy,Nhưng trại người ngay thẳng sẽ phát đạt. Có một con đường dường như chính đáng cho loài người,Nhưng cuối cùng là con đường sự chết. Dù trong lúc cười lòng vẫn có thể buồn,Và cuối cùng của cuộc vui là sự sầu khổ. Lòng gian tà sẽ bị báo trả theo đường lối nó,Nhưng người thiện nhận phần thưởng theo công việc mình. Người đơn sơ tin cậy mọi lời nói,Nhưng người khôn khéo xem xét bước đường mình. Người khôn ngoan sợ và tránh điều ác,Nhưng kẻ ngu dại thì kiêu căng và thiếu thận trọng. Người nóng tính hành động ngu dại;Và kẻ mưu mô sẽ bị ghét. Kẻ ngu dại thừa hưởng sự ngu xuẩnNhưng người khôn khéo được đội mão tri thức. Kẻ ác sẽ phải quỳ lạy trước mặt người thiện,Và người gian ác cúi đầu ở trước cổng người công chính. Một người nghèo, ngay cả người láng giềng cũng ghét;Nhưng người giàu thì có nhiều người yêu thương. Người nào khinh kẻ láng giềng là người phạm tội,Nhưng phước thay cho người nhân từ với kẻ nghèo khó. Không phải những kẻ mưu toan việc ác sẽ lầm lạc sao?Nhưng những người mưu tính điều thiện sẽ được tình yêu thương và trung tín. Mọi lao động đều đem lại lợi ích,Nhưng lời nói suông chỉ dẫn đến nghèo khổ. Mão của người khôn ngoan là sự giàu có của họ,Nhưng sự ngu xuẩn của kẻ ngu dại vẫn là ngu xuẩn. Một nhân chứng thành thật cứu mạng sống,Nhưng ai nói dối là kẻ lừa gạt. Trong sự kính sợ CHÚA có lòng tin tưởng chắc chắn,Và con cái người được nơi trú ẩn. Sự kính sợ CHÚA là nguồn sự sống,Để tránh cạm bẫy sự chết. Dân cư đông đúc là sự vinh quang của vua;Thiếu dân hoàng tử cũng sụp đổ. Người chậm nóng giận có nhiều sáng suốt;Nhưng người hay nóng tính bày tỏ sự điên rồ. Tấm lòng bình an là sự sống của thể xác;Nhưng ghen ghét làm xương cốt mục nát. Người nào áp bức người nghèo làm nhục Đấng Tạo Hóa mình;Còn ai làm ơn cho người nghèo tôn trọng Ngài. Kẻ ác sẽ sụp đổ vì hành vi ác của mình,Nhưng người công chính dù trong cái chết cũng có nơi trú ẩn. Khôn ngoan ở trong lòng người sáng suốt;Còn điều ở bên trong kẻ ngu dại cũng bị tiết lộ. Sự công chính tôn cao một quốc gia;Nhưng tội lỗi gây điều sỉ nhục cho bất cứ một dân tộc nào. Tôi tớ khôn ngoan được ơn của vua,Nhưng cơn giận dữ của vua dành cho kẻ hành động xấu hổ. Lời đáp dịu dàng làm nguôi cơn giận;Còn lời nói sỗ sàng gây ra tức giận. Lưỡi người khôn ngoan truyền rao tri thức;Nhưng miệng kẻ ngu dại tuôn ra điều ngu xuẩn. Con mắt của CHÚA ở khắp mọi nơi,Quan sát kẻ ác cũng như người thiện. Lưỡi hiền lành là cây sự sống,Còn lưỡi gian tà làm tinh thần suy sụp. Kẻ ngu dại khinh sự giáo huấn của cha mình;Nhưng người khôn khéo nghe lời quở trách. Nhà của người công chính có kho báu lớn,Nhưng trong hoa lợi của kẻ ác có điều tai họa. Môi miệng người khôn ngoan rao truyền tri thức,Nhưng tâm trí kẻ ngu dại thì không như thế. Tế lễ hy sinh của người gian ác lấy làm ghê tởm cho CHÚA;Nhưng lời cầu nguyện của người ngay thẳng là niềm vui của Ngài. CHÚA ghê tởm đường lối kẻ ác,Nhưng Ngài yêu mến người theo đuổi sự công chính. Kẻ từ bỏ chính lộ sẽ bị phạt nặng;Người ghét sự quở trách sẽ chết. Âm Phủ và sự hủy diệt còn mở toang trước mặt CHÚAHuống gì lòng dạ loài người. Kẻ nhạo báng không thích bị quở trách;Nó không muốn đến cùng người khôn ngoan. Lòng vui tươi làm mặt mày hớn hở;Lòng buồn rầu, tinh thần suy sụp. Lòng dạ sáng suốt tìm kiếm tri thức,Nhưng miệng kẻ ngu dại ăn điều ngu xuẩn. Người khốn khổ thấy mỗi ngày đều là hoạn nạn,Nhưng tấm lòng vui mừng dự tiệc luôn luôn. Thà có ít của cải nhưng kính sợ CHÚAHơn là nhiều châu báu mà bối rối kèm theo. Thà một bữa cơm rau nhưng có tình yêu thươngHơn là một con bò mập mà thù ghét cặp theo. Kẻ nóng tính gây sự xung đột,Nhưng người chậm nóng giận làm nguôi cuộc cãi vã. Con đường của kẻ lười biếng như bờ rào gai,Nhưng đường lối của người ngay thẳng như đường cái quan. Đứa con khôn ngoan làm cha nó vui lòng,Nhưng kẻ ngu dại khinh bỉ mẹ nó. Sự ngu xuẩn là niềm vui của kẻ thiếu tâm trí;Nhưng người sáng suốt bước đi ngay thẳng. Kế hoạch không thành vì thiếu sự hướng dẫn;Nhưng nhờ nhiều người cố vấn nó sẽ thành công. Miệng đối đáp giỏi là niềm vui cho một ngườiVà lời nói hợp lúc tốt đẹp biết bao. Con đường sự sống dẫn người khôn ngoan đi lênVà tránh khỏi Âm phủ phía dưới. CHÚA sẽ phá hủy nhà kẻ kiêu ngạo,Nhưng Ngài thiết lập một ranh giới cho người góa bụa. Mưu kế ác là điều ghê tởm cho CHÚANhưng lời nói nhân hậu đẹp lòng Ngài. Kẻ tham lợi phi nghĩa gây họa cho nhà mình;Nhưng người ghét của hối lộ sẽ sống. Lòng người công chính cân nhắc lời đối đáp,Nhưng miệng kẻ ác tuôn ra lời độc địa. CHÚA ở xa người gian ác,Nhưng Ngài nghe lời cầu nguyện của người công chính. Con mắt sáng láng làm tấm lòng vui vẻ;Tin mừng làm xương cốt khỏe mạnh. Người nào có tai lắng nghe lời quở trách của sự sống,Sẽ được ở giữa những người khôn ngoan. Ai từ khước sự giáo huấn, khinh bỉ linh hồn mình,Nhưng người nghe lời quở trách được thêm sự hiểu biết. Sự kính sợ CHÚA giáo huấn một người trở thành khôn ngoan,Và khiêm nhường đi trước sự vinh dự. Kế hoạch đến từ lòng người,Nhưng sự đáp lời của lưỡi đến từ CHÚA. Mọi đường lối của một người đều là trong sạch theo mắt mình,Nhưng CHÚA cân nhắc tấm lòng. Hãy giao phó công việc mình cho CHÚAThì kế hoạch con sẽ thành tựu. CHÚA đã tạo dựng nên muôn vật vì mục đích của nó;Ngay cả những kẻ ác dành cho ngày tai họa. Mọi tấm lòng tự cao đều ghê tởm đối với CHÚA;Chắc chắn chúng sẽ không tránh khỏi hình phạt. Nhờ tình yêu thương và chân lý tội lỗi được chuộc;Vì sự kính sợ CHÚA người ta tránh điều ác. Khi đường lối một người đẹp lòng CHÚA,Ngài làm cho kẻ thù của người ấy cũng hòa thuận với người. Lợi ít trong công chínhTốt hơn là lời nhiều mà bất công. Lòng người hoạch định đường lối mình,Nhưng CHÚA hướng dẫn các bước người. Lời phán từ môi vua như sấm ngôn,Miệng vua không vi phạm khi đoán xét. Cán cân và cân công bình thuộc về CHÚA;Mọi quả cân trong bao đều là công việc của Ngài. Hành động gian ác là điều ghê tởm cho các vua,Vì ngôi vua được thiết lập nhờ sự công chính. Môi miệng công chính làm vua vui lòng,Và lời nói ngay thẳng được người yêu chuộng. Cơn giận của vua như sứ giả sự chết,Nhưng người khôn ngoan làm dịu cơn giận. Khi mặt vua sáng ngời, ấy là sự sống;Còn ân sủng của người như đám mây đem lại mưa xuân. Nhận được khôn ngoan là điều tốt hơn vàng,Và được sáng suốt là điều đáng chuộng hơn bạc. Con đường ngay thẳng là tránh điều ác;Kẻ canh gác đường lối mình, gìn giữ linh hồn mình. Kiêu ngạo đi trước sự hủy diệt;Tự cao đi trước sự sa ngã. Thà có tinh thần khiêm nhường với người cùng khốn,Hơn là chia của cướp với kẻ kiêu ngạo. Người chú tâm vào đạo lý sẽ được thịnh vượng;Phước cho người tin cậy nơi CHÚA. Người có lòng khôn ngoan được gọi là người sáng suốt;Lời nói ngọt ngào làm tăng thêm sự thuyết phục. Người nào có sự hiểu biết là có nguồn sự sống;Ngu xuẩn là hình phạt cho những kẻ ngu dại. Lòng khôn ngoan dạy dỗ miệng mình,Và làm cho môi tăng sự thuyết phục. Lời nói dịu dàng như tàng mật ong,Ngọt ngào cho tâm hồn và lành mạnh cho xương cốt. Có một con đường dường như đúng cho loài người,Nhưng cuối cùng là con đường sự chết. Miếng ăn ngon làm người ta lao động;Vì miệng đói thúc đẩy người làm việc. Tên vô lại âm mưu điều ác;Môi miệng nó như lửa thiêu đốt. Kẻ gian tà gieo điều tranh chấp;Người nói xấu phân rẽ bạn thân. Người hung bạo lôi cuốn kẻ lân cận mình,Và dẫn nó vào con đường không tốt. Kẻ hay nháy mắt làm dấu, âm mưu điều gian tà;Người mím môi là kẻ đã làm việc ác. Tóc bạc là mão triều vinh hiển;Người ta nhờ đường lối công chính mà được. Chậm nóng giận thắng hơn một dũng sĩ;Tự chủ tâm thần tốt hơn chiếm lấy một thành. Thăm được rút từ trong vạt áo;Nhưng mọi quyết định đều đến từ CHÚA. Thà một miếng bánh khô mà yên lành,Hơn là nhà đầy thịt tế lễ mà tranh chấp. Người đầy tớ hành động khôn ngoan,Sẽ cai trị trên người con trai hành động ô nhục;Và sẽ hưởng gia tài cùng với các anh em. Lò đúc để luyện bạc, lò luyện kim để luyện vàng,Nhưng CHÚA thử nghiệm tấm lòng. Kẻ ác lắng nghe môi gian ác;Kẻ dối trá lắng nghe lưỡi hiểm độc. Kẻ nhạo báng người nghèo khó làm nhục Đấng Tạo Hóa mình;Kẻ vui mừng vì tai họa sẽ không tránh khỏi hình phạt. Cháu chắt là mão triều thiên của người già.Sự vinh hiển của các con là cha mẹ. Môi miệng thanh cao không xứng với kẻ ngu xuẩn;Môi miệng dối trá lại càng không hợp với bậc vương giả. Của hối lộ như cái bùa trước mắt người sử dụng nó;Người xoay về hướng nào cũng thành công. Người nào bỏ qua lầm lỗi, tìm kiếm sự thương mến nhau;Còn cứ nhắc lại lỗi lầm phân rẽ bạn bè. Một lời quở trách sẽ thấm sâu vào người hiểu biết,Hơn là trăm roi đánh kẻ ngu dại. Kẻ gian ác chỉ tìm kiếm sự phản loạn;Nhưng một sứ giả độc ác sẽ được sai đi đánh nó. Thà gặp phải gấu cái mất conHơn là gặp một kẻ ngu dại trong cơn ngu xuẩn của nó. Kẻ nào lấy ác trả thiện,Họa sẽ không rời khỏi nhà nó. Khởi đầu cuộc tranh chấp như việc vỡ đê;Vậy hãy chấm dứt tranh cãi trước khi nó bùng nổ. Tuyên xưng công chính cho kẻ ác cũng như lên án người công chính;Cả hai đều ghê tởm đối với CHÚA. Ích lợi gì cho một kẻ ngu dại cầm bạc trong tay,Để mua khôn ngoan khi nó thiếu tâm trí? Một người bạn yêu mến nhau luôn,Và anh em sinh ra để giúp đỡ nhau trong lúc hoạn nạn. Người thiếu tâm trí là người bắt tay bảo lãnh,Người bảo lãnh cho người láng giềng. Người nào thích vi phạm, thích tranh chấp;Kẻ nâng cổng nhà cho cao lên, tìm kiếm sự sụp đổ. Kẻ có lòng gian tà không tìm được phúc lành,Và kẻ có lưỡi gian tà sẽ sa vào tai họa. Người sinh con ngu dại sẽ buồn thảm;Cha của kẻ ngu dại cũng không có niềm vui. Tấm lòng vui vẻ là liều thuốc hay;Tinh thần suy sụp làm xương cốt khô héo. Kẻ ác thầm lén nhận hối lộĐể làm sai lệch đường lối công bình. Khôn ngoan ở trước mặt người sáng suốt,Nhưng mắt của kẻ ngu dại ở nơi tận cùng quả đất. Con trai ngu dại là sự buồn thảm cho cha,Là nỗi cay đắng cho mẹ sinh ra nó. Phạt người vô tội là sai lầm,Cũng như đánh đòn bậc vương giả vì lòng ngay thẳng của họ. Người gìn giữ lời nói là người hiểu biết;Người có tinh thần trầm tĩnh là người sáng suốt. Khi im lặng dù người ngu cũng được kể là khôn;Người kiềm chế môi miệng được coi là sáng suốt. Người nào sống cô độc tìm kiếm dục vọng riêng;Nó chống lại với mọi quyết định khôn ngoan. Kẻ ngu dại không thích sự sáng suốt;Nó chỉ muốn bày tỏ ý kiến riêng. Khi sự gian ác đến, khinh bỉ cũng đến;Và khi sự xấu hổ đến, nhục nhã cũng theo. Lời nói từ miệng một người như vực nước sâu;Nguồn khôn ngoan như dòng suối tuôn chảy. Thiên vị kẻ gian ácHay tước đoạt sự công bình của kẻ vô tội là điều sai lầm. Môi kẻ ngu dại đem lại tranh chấp;Miệng nó mời mọc một trận đòn. Miệng kẻ ngu dại là sự hủy hoại cho nó;Môi nó là cái bẫy gài linh hồn mình. Lời của kẻ mách lẻo như miếng ăn ngon,Nó thấm sâu vào ruột gan. Kẻ chểnh mảng trong công việc mìnhLà anh em với kẻ phá hoại. Danh CHÚA là ngọn tháp vĩ đại;Người công chính chạy vào đó và được an toàn. Tài sản của một kẻ giàu là cái thành kiên cố của người;Trong trí tưởng tượng của người nó như bức tường cao. Lòng tự cao đi trước sự hủy hoại;Lòng khiêm nhường đi trước sự vinh quang. Trả lời trước khi nghe;Ấy là sự ngu xuẩn và hổ thẹn. Tinh thần của một người có thể chịu đựng bệnh tật;Nhưng khi tinh thần sụp đổ thì ai có thể chịu đựng nổi? Tâm trí người sáng suốt tiếp nhận sự tri thức;Tai người khôn ngoan tìm kiếm sự hiểu biết. Tặng phẩm của một người mở đường cho họ,Và đem họ đến trước mặt kẻ quyền thế. Người biện hộ trước có vẻ hợp lý,Cho đến khi người kia đến thẩm vấn người. Rút thăm sẽ chấm dứt tranh chấp,Và phân cách hai đối thủ mạnh. Lấy lòng một anh chị em bị xúc phạm khó hơn chiếm một thành trì kiên cố;Sự tranh chấp ấy giống như một lâu đài then cài cổng đóng. Nhờ kết quả của miệng, một người được no bụng;Sản phẩm của môi giúp người no đủ. Sống chết ở trong tay của lưỡi;Kẻ nào yêu mến nó sẽ ăn bông trái của nó. Người nào tìm được một người vợ tìm được phúc lành,Và hưởng ân huệ từ CHÚA. Người nghèo dùng lời cầu khẩn;Người giàu trả lời thô bạo. Người có nhiều bạn bè có thể là tai hại;Nhưng một người bạn thân gần gũi hơn anh em ruột. Thà nghèo mà sống chính trựcHơn là kẻ có môi miệng gian tà và ngu dại. Lòng nhiệt thành mà thiếu hiểu biết cũng không tốt;Kẻ bước đi vội vã sẽ trượt ngã. Sự ngu dại của một người làm đường lối người hư hại,Rồi lòng người lại oán trách CHÚA. Giàu có thêm nhiều bạn hữu,Nhưng nghèo khó bạn lại bỏ rơi. Người làm chứng gian sẽ bị trừng phạt,Và kẻ nói dối sẽ không tránh khỏi. Người quyền quý được nhiều kẻ nịnh hót,Và mọi người đều là bạn của người hay ban tặng. Ngay cả anh em của người nghèo khó cũng ghét người,Huống gì bè bạn lại không xa lánh người;Người chạy theo năn nỉ,Họ không còn ở đó nữa. Ai nhận được lòng khôn ngoan, yêu mến linh hồn mình;Người nào giữ được sự sáng suốt, tìm được phúc lành. Người làm chứng gian sẽ bị trừng phạt,Và kẻ nói dối sẽ bị hủy diệt. Xa hoa không xứng với kẻ ngu dại;Huống hồ kẻ nô lệ cai trị hoàng tử. Người hiểu biết chậm nóng giận,Và vì sự vinh hiển của mình, người bỏ qua sự xúc phạm. Cơn giận của vua khác nào sư tử rống,Nhưng ân huệ của vua như sương móc trên cỏ. Một đứa con ngu dại làm tai hại cho cha;Một người vợ hay cằn nhằn như nước mưa nhỏ giọt không dứt. Nhà cửa và tài sản là cơ nghiệp thừa hưởng của cha ông;Nhưng một người vợ khôn ngoan đến từ CHÚA. Lười biếng làm cho người ta ngủ mê,Và người ở không thì sẽ bị đói. Người nào giữ điều răn, gìn giữ linh hồn mình;Còn kẻ khinh thường đường lối mình sẽ chết. Người nào nhân từ đối với người nghèo là cho CHÚA vay mượn;Ngài sẽ đền đáp cho việc lành của người. Hãy thi hành kỷ luật đối với con cái vì còn hy vọng,Nhưng đừng định tâm giết nó. Kẻ hay giận dữ sẽ phải trả giá hình phạt;Nếu con giải cứu nó, con lại phải làm nữa. Hãy nghe lời khuyên, nhận sự giáo huấn,Để cuối cùng con trở nên khôn ngoan. Lòng người có nhiều kế hoạch,Nhưng ý định của CHÚA mới được thành tựu. Điều người ta mong muốn nơi một người là lòng trung thành;Thà làm một người nghèo hơn là kẻ dối trá. Kính sợ CHÚA dẫn đến sự sống;Được mãn nguyện và tai họa không đụng đến. Kẻ lười biếng thò tay vào đĩa,Rồi cũng không đưa tay lên miệng. Hãy đánh đòn kẻ nhạo báng thì kẻ đơn sơ sẽ học khôn;Hãy quở trách người hiểu biết thì người sẽ học được tri thức. Kẻ bạc đãi cha, xô đuổi mẹLà đứa con xấu hổ và nhục nhã. Hỡi con, khi con thôi, không nghe lời giáo huấn nữa,Con sẽ lầm lạc xa lời tri thức. Nhân chứng vô lại chế nhạo sự công bình;Miệng kẻ gian ác nuốt điều tội lỗi. Án phạt đã dành sẵn cho kẻ nhạo báng,Và roi vọt dành cho lưng kẻ ngu dại. Rượu nho là kẻ nhạo báng, rượu mạnh là kẻ cãi lộn;Người nào bị nó quyến rũ không phải người khôn. Cơn thịnh nộ của vua như sư tử rống;Kẻ nào chọc giận vua ắt phạm đến mạng sống mình. Tránh tranh cãi là vinh dự cho con người,Còn kẻ ngu dại hay cãi cọ. Kẻ lười biếng không cày cấy lúc mùa đông,Nên vào mùa gặt người tìm kiếm nhưng chẳng thấy gì. Ý định trong lòng người như nước sâu,Nhưng người sáng suốt sẽ múc lấy. Nhiều người tuyên bố rằng mình trung thành,Nhưng ai tìm được một người trung tín? Người công chính sống trong thành thực;Con cái đến sau họ sẽ được phước. Vua ngồi trên ngai đoán xét,Người lấy mắt sàng sảy mọi điều ác. Ai có thể nói ta đã luyện sạch lòng ta;Ta trong sạch khỏi tội lỗi? Cân nhẹ, đo thiếu,Cả hai đều gớm ghiếc đối với CHÚA. Ngay cả trẻ con cũng được bày tỏ qua hành động;Trong sự cư xử của chúng, trong sạch hay ngay thẳng. Tai để nghe, mắt để thấy;CHÚA tạo nên cả hai. Chớ yêu thích ngủ nghê e rằng con sẽ nghèo khổ;Hãy mở mắt ra thì con sẽ đầy đủ cơm gạo. Khách mua hàng chê “xấu! xấu!”Nhưng khi đi khỏi đó thì lại khen. Có vàng và nhiều ngọc quý,Nhưng môi miệng có tri thức là châu ngọc quý giá. Hãy lấy áo nó vì nó bảo lãnh cho người xa lạ;Hãy giữ nó làm bảo đảm vì nó bảo lãnh cho người đàn bà xa lạ. Bánh gian dối lấy làm ngọt ngào,Nhưng cuối cùng miệng nó sẽ đầy sạn. Kế hoạch thành tựu nhờ cố vấn;Tham chiến phải được hướng dẫn khôn ngoan. Kẻ ngồi lê đôi mách hay tiết lộ bí mật,Vậy chớ giao du với kẻ hở môi. Kẻ nào rủa sả cha mẹ;Ngọn đèn nó sẽ tắt trong tối tăm mù mịt. Sản nghiệp nhận được vội vàng lúc đầu,Về sau sẽ không được chúc phước. Chớ nói rằng: Ta sẽ báo trả điều ác,Hãy chờ đợi CHÚA, Ngài sẽ giải cứu con. Trái cân nhẹ là điều ghê tởm đối với CHÚA;Cây cân gian trá là điều không đẹp lòng Ngài. Những bước đường của một người đến từ CHÚA;Vậy thì làm sao một người hiểu được đường lối của mình? Ấy là một cái bẫy cho người nào cung hiến điều gì cách vội vã,Rồi sau khi thề nguyện mới suy nghĩ lại. Một vua khôn ngoan sàng lọc kẻ gian ác,Và cho bánh xe đập lúa cán trên chúng. Tâm linh trong con người là ngọn đèn của CHÚA,Nó xem xét mọi nơi sâu kín nhất trong lòng. Tình yêu thương và trung tín gìn giữ một vị vua;Ngôi vua được bền vững nhờ tình yêu thương. Sự vinh quang của tuổi trẻ là sức lực,Và vinh hiển của người già là tóc bạc. Những lằn roi làm đau đớn sẽ tẩy sạch điều ác;Đòn vọt làm sạch nơi sâu kín nhất trong lòng. Lòng của vua như dòng nước trong tay CHÚA;Ngài định hướng cho nó chảy về nơi nào tùy ý Ngài. Mọi đường lối của một người đều ngay thẳng trước mắt mình,Nhưng CHÚA xem xét tấm lòng. Hành động công chính và công bìnhĐẹp lòng CHÚA hơn là lễ vật sinh tế. Mắt tự cao, lòng kiêu ngạo,Ngọn đèn của kẻ gian ác đều là tội lỗi. Kế hoạch của người cần mẫn chắc chắn sẽ đưa đến dư dật,Nhưng mọi kẻ hấp tấp sẽ đưa đến thiếu thốn. Của cải kiếm được nhờ lưỡi dối trá,Như hơi nước thoáng qua của kẻ tìm kiếm sự chết. Bạo lực của kẻ ác sẽ lôi cuốn chúng nó đi,Vì chúng từ khước làm điều công bình. Con đường của kẻ phạm tội là cong vẹo,Nhưng hành động của người trong sạch thì ngay thẳng. Thà ở nơi góc mái nhà,Còn hơn là sống chung nhà với một người đàn bà hay cãi cọ. Linh hồn kẻ ác mong ước điều ác;Người láng giềng nó không được ơn trước mắt nó. Khi kẻ nhạo báng bị trừng phạt, người đơn sơ sẽ học khôn;Khi người khôn ngoan được giáo huấn, người sẽ nhận được tri thức. Đấng Công Chính quan sát nhà kẻ ác;Ngài ném kẻ ác vào tai họa. Người nào bịt tai không nghe tiếng kêu la của kẻ nghèo khổ,Khi người ấy kêu van cũng sẽ không được đáp lời. Quà biếu kín đáo sẽ làm nguôi cơn giận;Của hối lộ bỏ vào lòng sẽ làm nguôi cơn giận. Hành động công bình là niềm vui cho người công chính,Nhưng là sự kinh hoàng cho kẻ làm tội ác. Người nào đi lạc khỏi con đường khôn ngoanSẽ an nghỉ trong hội người chết. Kẻ ham vui thú sẽ nghèo khổ;Người mê rượu và dầu thơm sẽ không thể giàu có. Kẻ gian ác là tiền chuộc mạng cho người công chính;Kẻ xảo trá sẽ thế chỗ cho người ngay thẳng. Thà sống trong sa mạc,Hơn là sống với người đàn bà hay cãi cọ và than phiền. Châu báu và dầu ở trong nhà người khôn ngoan;Nhưng kẻ ngu dại ăn tiêu hết. Người nào theo đuổi sự công chính và tình yêu thương,Sẽ tìm thấy sự sống, công chính và vinh quang. Người khôn ngoan tấn công thành trì kẻ mạnh,Người đánh đổ đồn lũy mà họ tin cậy. Người nào gìn giữ miệng lưỡi,Gìn giữ linh hồn khỏi hoạn nạn. Tên của kẻ nhạo báng là kiêu ngạo và tự cao;Nó hành động láo xược và kiêu căng. Dục vọng của kẻ lười biếng,Sẽ giết chết nó vì tay nó từ chối làm việc. Suốt ngày kẻ tham lam chỉ ham muốn;Nhưng người công chính hay ban cho và không bủn xỉn. Vật tế lễ của kẻ gian ác là vật gớm ghiếc;Huống gì khi chúng dâng với ác ý. Kẻ làm chứng dối sẽ bị hủy diệt,Nhưng người biết nghe sẽ được nói mãi mãi. Kẻ ác mặt dày mày dạn,Nhưng người ngay thẳng thiết lập đường lối mình. Không có sự khôn ngoan, sáng suốt,Hay cố vấn nào thắng hơn CHÚA. Ngựa được trang bị cho ngày chiến trận,Nhưng chiến thắng thuộc về CHÚA. Tốt danh hơn giàu có;Ân phúc hơn vàng bạc. Người giàu, kẻ nghèo đều có chung một điều:CHÚA tạo nên cả hai. Người khôn ngoan thấy tai họa và tránh khỏi,Nhưng người ngu dại cứ đi lên và lâm nạn. Phần thưởng của sự khiêm nhường và kính sợ CHÚA,Là giàu có, vinh dự và sự sống. Gai góc và cạm bẫy ở trên đường kẻ gian tà;Người nào gìn giữ linh hồn mình tránh xa chúng. Hãy huấn luyện trẻ thơ con đường chúng nên theo,Để khi về già chúng cũng không đi lạc. Người giàu cai trị kẻ nghèoVà kẻ nào vay mượn là đầy tớ của kẻ cho mượn. Kẻ nào gieo bất công sẽ gặt tai họa,Và cây gậy giận dữ của nó sẽ gãy. Người nào có mắt nhân từ sẽ được phước,Vì người cho kẻ nghèo bánh của mình. Hãy đuổi kẻ nhạo báng đi thì sự tranh cãi sẽ đi khỏi;Sự cãi cọ và sỉ nhục cũng chấm dứt. Ai yêu mến tấm lòng trong sạch và môi miệng ân nghĩaSẽ được kết bạn với vua, Con mắt CHÚA gìn giữ người hiểu biết,Nhưng Ngài đánh đổ lời của kẻ phản bội. Kẻ lười biếng nói: có con sư tử ở ngoài đó;Tôi sẽ bị giết ở ngoài đường. Miệng của người đàn bà ngoại tình là cái hố sâu;Kẻ bị CHÚA giận sẽ rơi vào đó. Sự ngu dại buộc vào lòng trẻ thơ,Nhưng con roi kỷ luật đuổi điều ấy xa khỏi nó. Người nào áp bức người nghèo để làm giàu và hối lộ cho người giàu,Cả hai sẽ trở nên nghèo khổ. Hãy nghiêng tai, hãy lắng tai nghe lời của người khôn ngoan;Hãy để tâm con vào tri thức của ta. Vì con sẽ cảm thấy vui thích khi con giữ nó trong lòng,Và sẵn sàng giữ nó trên môi miệng con. Ngày nay ta đã cho chính con biết điều đó;Để con sẽ đặt sự tin cậy nơi CHÚA. Ta đã không viết cho con ba mươi điều hay,Tức là những lời cố vấn và tri thức sao? Dạy con biết những lời đúng và chân thật,Để con có thể đáp lờiNgười sai phái con. Chớ bóc lột người nghèo vì họ nghèo khó;Cũng đừng áp bức người cùng khốn nơi cổng thành; Vì CHÚA sẽ binh vực họ,Và sẽ đoạt mạng sống những kẻ ức hiếp họ. Chớ làm bạn với người nóng tính,Đừng kết giao với kẻ hay giận dữ; E rằng con học theo đường lối nó,Và linh hồn mình bị mắc bẫy chăng. Chớ như người bắt tay bảo đảmHay bảo lãnh nợ. E rằng giường con sẽ bị tịch thuNếu con không có tiền trả nợ. Chớ dời cột ranh giới xưaMà tổ tiên con đã dựng; Con có thấy người cần mẫn trong công việc mình không?Người ấy sẽ đứng trước mặt các vua,Chứ không đứng trước mặt những người tầm thường đâu. Khi con ngồi ăn với một quan cai trị,Hãy để ý cẩn thận người trước mặt con; Hãy để con dao nơi cổ conNếu con ham ăn. Chớ thèm các món cao lương mỹ vị của người;Đó là thức ăn lừa gạt. Đừng lao khổ để làm giàu;Hãy sáng suốt đủ để dừng lại; Vì khi con chớp mắt nhìn sự giàu sang,Thì nó đã bay mất rồi;Nó thình lình mọc cánh bay bỗng lên trời như chim ưng. Chớ ăn bánh của người ích kỷ,Cũng đừng thèm các món cao lương mỹ vị của người; Vì như hắn suy nghĩ trong lòng thể nào,Thì hắn quả như vậy;Hắn bảo con: hãy ăn uống đi,Nhưng lòng nó không hiệp cùng con. Con sẽ mửa ra miếng bánh mà con đã ănVà phí đi những lời khen ngợi. Đừng nói vào tai kẻ ngu dại,Vì nó sẽ khinh bỉ lời khôn ngoan của con. Chớ dời cột ranh giới xưa,Và đừng xâm chiếm của kẻ mồ côi; Vì Đấng cứu chuộc chúng vốn quyền năng;Người sẽ binh vực chúng chống lại con. Hãy để tâm vào lời giáo huấn,Và lắng tai nghe lời tri thức. Chớ tránh thi hành kỷ luật đối với trẻ thơ;Nếu con phạt nó bằng roi, nó sẽ không chết; Hãy phạt nó bằng roi,Con sẽ giải cứu linh hồn nó khỏi Âm Phủ. Hỡi con, nếu lòng con khôn ngoan,Thì chính lòng ta cũng vui mừng. Lòng dạ ta sẽ mừng rỡKhi môi miệng con nói lời ngay thẳng. Lòng con chớ ganh tị với những kẻ tội lỗi,Nhưng hãy luôn luôn kính sợ CHÚA. Vì con chắc chắn sẽ có một tương lai,Và niềm hy vọng của con sẽ không bị cắt đứt. Hỡi con, hãy nghe và trở nên khôn ngoan;Hãy hướng lòng con vào con đường đúng đắn. Chớ kết bạn với kẻ nghiện rượuHay người ham ăn. Vì kẻ nghiện rượu và người ham ăn sẽ trở nên nghèo,Còn người hay ngủ sẽ ăn mặc rách rưới. Hãy lắng nghe cha con là người sinh thành con;Chớ khinh bỉ mẹ con khi người già cả. Hãy mua lấy chân lý và đừng bán nó;Hãy mua lấy khôn ngoan, lời giáo huấn và sáng suốt. Làm cha của người công chính có niềm vui rất lớn;Người nào có đứa con khôn ngoan sẽ rất vui mừng về nó. Nguyện cha và mẹ con vui mừng;Nguyện cho người sinh ra con vui vẻ. Hỡi con, hãy dâng lòng con cho ta;Mắt con hãy vui trong đường lối ta. Vì gái điếm là cái hố sâu,Và người dâm phụ là cái giếng hẹp. Thật vậy, nàng như kẻ trộm rình rập,Đặng làm gia tăng số người bội tín giữa vòng loài người. Ai đã gặp hoạn nạn? Ai đã bị buồn thảm?Ai có sự gây gỗ? Ai đã than thở?Ai đã bị thương tích vô cớ? Ai có mắt đỏ ngầu? Là những người la cà lâu bên chén rượu;Những kẻ đi nếm thử các rượu pha. Đừng nhìn rượu khi nó đỏ thắm;Lúc nó lóng lánh trong lyVà chảy ra ngọt lịm. Cuối cùng nó cắn như rắn,Chích như rắn độc. Mắt con sẽ thấy những cảnh lạ;Lòng con sẽ tưởng đến những điều gian tà; Con sẽ như người nằm giữa lòng biển;Trên đỉnh cột buồm. Con nói: người ta đánh tôi, nhưng tôi không thấy đau;Người ta đập tôi, nhưng tôi không hay biết;Khi nào tôi sẽ tỉnh dậy?Tôi sẽ tìm uống nữa. Chớ ganh tị với kẻ ác,Cũng đừng mong ước ở cùng chúng nó. Vì lòng chúng nó nghĩ điều hung dữ;Môi chúng nó nói điều tổn hại. Nhờ khôn ngoan nhà được xây cất,Bởi sáng suốt nó được thiết lập. Do tri thức mọi phòng ốc đều đượcĐầy dẫy vật quý báu và thanh nhã. Người khôn ngoan có sức mạnh;Người có tri thức làm tăng thêm sức lực. Đánh giặc, con nhờ mưu khôn ngoan,Chiến thắng, con nhờ nhiều cố vấn. Sự khôn ngoan vốn quá cao cho kẻ ngu dại;Tại nơi cổng thành nó không hề mở miệng. Kẻ âm mưu làm điều ác,Sẽ bị gọi là kẻ mưu mô. Suy nghĩ điều ngu dại là tội lỗi;Kẻ nhạo báng bị người ta ghê tởm. Nếu con nản lòng trong ngày hoạn nạn,Thì sức con thật kém cỏi thay! Hãy giải cứu những người bị đem vào chỗ chết;Hãy giữ lại những kẻ lảo đảo đi đến nơi hành hình. Nếu con nói: “Kìa, chúng tôi không biết điều này.”Thế thì Đấng cân nhắc lòng người không thấy sao?Đấng canh giữ linh hồn con không biết sao?Ngài sẽ báo trả cho loài người tùy theo việc họ làm. Hỡi con, hãy ăn mật ong vì nó tốt;Giọt mật từ tàng ong sẽ ngọt trong cổ họng con. Hãy biết rằng sự khôn ngoan cũng như vậy cho linh hồn con.Nếu con tìm được nó, con sẽ có tương laiVà hy vọng của con sẽ không bị cắt đứt. Hỡi kẻ ác, chớ rình rập nhà người công chính,Đừng tàn phá chỗ nghỉ ngơi của người. Vì người công chính dù bị ngã bảy lần, người cũng sẽ đứng dậy,Nhưng những kẻ ác sẽ bị tai họa lật đổ. Chớ vui mừng khi kẻ thù con bị ngã;Đừng hớn hở trong lòng khi nó bị lật đổ; E rằng CHÚA sẽ thấy và không đẹp lòng;Rồi Ngài sẽ cất khỏi nó cơn thịnh nộ của Ngài chăng. Đừng bực mình vì kẻ dữ;Chớ ganh tị với kẻ gian ác. Vì kẻ dữ không có tương lai;Ngọn đèn của người gian ác sẽ tắt. Hỡi con ta, hãy kính sợ CHÚA và vua;Chớ giao kết với những kẻ phản loạn. Vì ai biết được sự hủy hoại mà hai đấng kia có thể đem đến?Vì tai họa sẽ thình lình đến trên chúng. Đây cũng là những lời của người khôn ngoan:Xét đoán thiên vị là điều không tốt. Người nào nói với kẻ gian ác rằng: ngươi là công chính,Sẽ bị dân chúng rủa sả và các nước ghê tởm. Nhưng người quở trách kẻ ác sẽ được dân chúng vui lòng,Và phúc lành sẽ đến trên người. Lời đáp thành thậtNhư cái hôn nơi môi. Hãy hoàn tất công việc ngoài vườn của con;Hãy làm xong công việc đồng ruộng của con;Sau đó con hãy xây nhà. Đừng làm chứng vô cớ nghịch cùng người láng giềng con;Chớ dùng môi miệng để lường gạt. Chớ nói rằng: tôi sẽ làm cho nó như nó đã làm cho tôi;Tôi sẽ báo trả cho mỗi người tùy theo điều nó làm. Tôi đi ngang qua đồng ruộng của người biếng nhác,Qua vườn nho của kẻ vô tâm; Kìa, cỏ gai mọc đầy,Cây gai che phủ khắp mặt đất;Và tường rào đá cũng hư hại. Ta nhìn và để tâm suy nghĩ;Ta thấy và nhận được bài học. Ngủ một chút, chợp mắt một chút,Khoanh tay nằm nghỉ một chút; Thế là sự nghèo khó của ngươi sẽ đến như kẻ cướp bóc,Và sự thiếu thốn của ngươi sẽ ập đến như người lính nơi chiến trận. Đây cũng là các châm ngôn của Sa-lô-mônDo người của vua Ê-xê-chia, vua nước Giu-đa, sao chép. Giữ một điều gì huyền bí là vinh quang của Đức Chúa Trời,Nhưng vinh quang của một vua là tìm ra một điều gì. Trời cao bao nhiêu và đất sâu thế nàoThì lòng các vua cũng không thể dò thể ấy. Lấy cặn bã ra khỏi bạcThì thợ bạc sẽ có vật liệu tốt; Hãy loại những kẻ gian ác khỏi trước mặt vuaThì ngôi vua sẽ được thiết lập trong sự công chính. Đừng tự tôn trước mặt vua;Chớ đứng trong địa vị của bậc tôn trọng. Vì thà để cho người bảo con: mời lên đây;Tốt hơn là bị người hạ con xuống thấp trước mặt một người quyền quý. Điều gì mắt con thấy,Đừng vội đi đến tranh tụng ngay,E rằng, khi kẻ láng giềng con làm con xấu hổ;Rốt cuộc con sẽ làm gì? Hãy thuyết phục người láng giềng con,Nhưng đừng tiết lộ bí mật của người khác. E rằng người nghe điều ấy sẽ trách con,Và danh tiếng con sẽ không lấy lại được. Lời nói đúng lúc,Khác nào trái táo vàng để trên đĩa bạc. Lời quở trách khôn ngoan cho lỗ tai biết nghe,Giống như nhẫn vàng hay đồ trang sức bằng vàng. Một sứ giả trung thành với người sai phái,Khác nào tuyết mát mẻ trong mùa gặt,Vì người làm chủ mình hài lòng. Một người khoe khoang về những món quà mình không tặng,Giống như có mây và gió nhưng không có mưa. Nhờ nhẫn nhịn mới thuyết phục được người cai trị,Lưỡi mềm mại bẻ gẫy xương cốt. Nếu con tìm được mật ong, chỉ ăn vừa đủ thôi;Kẻo ăn nhiều quá con sẽ mửa. Chân con chớ thường xuyên đến nhà người láng giềng,E rằng người sẽ chán và ghét con. Một người làm chứng dối nghịch kẻ láng giềng,Khác nào một cây côn, một lưỡi gươm hay mũi tên nhọn. Tin cậy một kẻ bất trung trong ngày hoạn nạn,Giống như nhai với răng đau hay đi với chân bại. Ca hát cho người có lòng buồn thảm,Khác nào cởi áo trong ngày băng giá,Đổ giấm vào nước xô-đa. Nếu kẻ thù con đói, hãy cho nó bánh ăn;Nếu khát, hãy cho nó nước uống. Vì như thế con sẽ chất than lửa đỏ trên đầu nó,Và CHÚA sẽ thưởng cho con. Gió bắc đem lại mưa;Còn lưỡi nói hành làm cho mặt giận. Thà ở nơi góc mái nhà,Còn hơn sống chung nhà với một người đàn bà hay cãi cọ. Tin mừng đến từ phương xa,Giống như nước mát mẻ cho linh hồn đang khao khát. Người công chính mà khuất phục theo kẻ gian tà,Giống như con suối bị khuấy đục, nguồn nước bị dơ bẩn. Ăn nhiều mật ong quá không tốt;Tìm kiếm nhiều vinh hiển quá cũng vậy. Một người thiếu tự chủ,Giống như một cái thành bị bỏ ngõ vì không có tường. Sự vinh hiển không thích hợp cho kẻ ngu dại,Như tuyết giữa mùa hè, như mưa trong mùa gặt. Như chim sẻ bay chuyền, như chim én bay liệng;Lời rủa vô cớ cũng vậy, nó sẽ không thành. Roi dành cho ngựa, hàm thiếc dùng cho lừaVà roi vọt dành cho lưng kẻ ngu dại. Đừng trả lời kẻ ngu dại theo như sự ngu dại của nó;E rằng con cũng như nó chăng. Trả lời kẻ ngu dại tùy theo sự ngu dại của nó,Kẻo nó tưởng mình khôn ngoan theo mắt mình. Ai nhờ kẻ ngu dại đem tin tức,Giống như tự chặt chân hay nuốt lấy điều hung dữ. Châm ngôn trong miệng kẻ ngu dại,Cũng như chân bại vô dụng của người què. Ban vinh dự cho kẻ ngu dại,Cũng như cột viên đá vào cái nỏ. Châm ngôn trong miệng kẻ ngu dại,Như cái gai đâm vào tay kẻ say rượu. Ai mướn một kẻ ngu dại và khách qua đường,Cũng như một người bắn cung gây thương tích mọi người. Kẻ ngu dại lặp lại điều ngu xuẩn mình,Khác nào chó ăn lại đồ nó mửa ra. Con có thấy một người tự cho mình khôn ngoan theo mắt mình không?Kẻ ngu còn có hy vọng hơn người đó. Kẻ lười biếng nói có con sư tử ở ngoài đường,Sư tử ở giữa phố. Cửa xoay quanh bản lề thế nào,Kẻ lười biếng trăn trở trên giường thể ấy. Kẻ lười biếng chôn tay mình trong đĩa;Nó quá mệt mỏi để đưa tay mình lên miệng. Kẻ lười biếng cho mình khôn ngoan,Hơn cả bảy người biết đối đáp thận trọng. Người nào đi qua đường mà xen vào chuyện cãi cọ không liên hệ đến mình,Giống như nắm tai con chó. Như người điên bắn than lửa,Mũi tên và sự chết, Người nào lừa gạt kẻ láng giềng mình rồi lại nói:Tôi chỉ đùa thôi thì cũng như vậy. Lửa tắt vì thiếu củi;Nơi nào không có nói hành, chuyện cãi cọ cũng ngưng. Như chất than trên than hồng, chất củi vào lửa;Kẻ ưa cãi cọ cũng hay gây tranh cãi như thế. Lời của kẻ mách lẻo như miếng bánh ngon,Thấm vào tận lòng dạ. Môi miệng vồn vã nhưng tấm lòng gian ác,Khác nào cặn bạc tráng bình đất. Kẻ ghen ghét giả vờ ngoài môi miệng,Nhưng trong lòng mưu sự lừa đảo. Khi nó nói ngon ngọt, đừng tin,Vì lòng nó có bảy điều ghê tởm. Dù ghen ghét thường được che giấu bằng lừa đảo,Sự gian ác nó sẽ bị tỏ bày nơi hội chúng. Kẻ đào hố sẽ sụp xuống hố;Kẻ lăn đá, sẽ bị đá đè trở lại. Lưỡi dối trá ghét những kẻ nó chà đạp;Miệng nịnh hót gây ra hủy hoại. Chớ khoe khoang về ngày mai,Vì con không biết ngày mai có điều gì sẽ xảy ra. Hãy để người khác khen con, chứ không phải miệng con;Hãy để người ngoài khen con chứ không phải môi con. Đá thì nặng, cát cũng nặng,Nhưng sự khiêu khích của kẻ ngu dại còn nặng hơn cả hai. Cơn thịnh nộ thì tàn ác, cơn giận như nước lụt,Nhưng ai đứng nổi trước cơn ghen? Thà quở trách công khaiTốt hơn là yêu thương kín đáo. Thương tổn do người thương mình gây ra,Còn đáng tin hơn vô số cái hôn của kẻ thù ghét mình. Kẻ no nê chà đạp mật ong,Nhưng đối với kẻ đói khát thì vật đắng cũng thành ngọt ngào. Kẻ lưu lạc xa quê hươngNhư chim lạc xa tổ. Dầu và hương thơm làm lòng người vui vẻ;Lời khuyên ngọt ngào của tình bạn quý hơn lời tư vấn cho mình. Đừng từ bỏ bạn con hay bạn của cha con;Đừng đến nhà bà con mình trong ngày hoạn nạn;Người láng giềng gần tốt hơn là anh em ở xa. Hỡi con ta, hãy khôn ngoan và làm cho lòng ta vui vẻ,Để ta có thể trả lời kẻ chỉ trích ta. Người khôn ngoan thấy tai họa nên ẩn trốn;Kẻ ngu dại cứ tiến tới và bị họa. Hãy lấy áo kẻ bảo lãnh cho người lạ;Hãy giữ nó làm bảo đảm vì nó bảo lãnh cho người đàn bà lạ. Nếu một người vào sáng sớm lớn tiếng chúc lành người hàng xóm,Lời chúc bị coi như lời rủa. Một người đàn bà hay cãi cọ,Giống như những giọt nước chảy rả rích trong ngày mưa; Ai muốn kiềm chế nàng như bắt giữ gió lại;Và như lấy tay phải chứa đựng dầu. Một người rèn luyện nhân cách người lân cậnGiống như sắt mài bén sắt. Ai chăm sóc cây vả sẽ ăn trái vả;Người phục vụ chủ mình sẽ được trọng đãi. Lòng người phản ánh con người,Giống như mặt một người phản chiếu trong nước; Âm phủ và sự hủy diệt không bao giờ thỏa mãn;Con mắt loài người cũng vậy. Lò luyện kim để thử bạc, lò lửa để thử vàng;Một người được thử bằng lời khen ngợi. Dù con dùng chày giã kẻ nguTrong cối chung với gạo,Thì sự ngu dại cũng không lìa khỏi nó. Hãy biết rõ tình trạng bầy chiên của con;Hãy chú tâm vào đàn bò của con. Vì giàu có không tồn tại mãi mãiVà mão triều không còn lại đời đời. Khi cỏ khô biến mất, cỏ mới mọc lên;Rau cỏ trên núi được thu nhặt lại. Chiên của con sẽ cung cấp quần áo cho con;Dê đực sẽ là giá đám ruộng. Con sẽ có đủ sữa dê làm thực phẩm;Làm đồ ăn cho gia đình con;Và sự sống cho các tớ gái con. Kẻ ác bỏ chạy dù không ai đuổi;Còn người công chính tự tin như con sư tử. Một nước loạn lạc có nhiều người lãnh đạo;Nhưng nhờ một người sáng suốt và hiểu biết, nước được bền vững lâu dài. Người cai trị độc ác áp bức người cùng khốn,Khác nào trận mưa lớn không đem lại mùa màng. Người từ bỏ Kinh Luật khen ngợi kẻ ác;Còn người tuân giữ Kinh Luật chống lại chúng. Người gian ác không hiểu sự công bình;Còn người tìm kiếm CHÚA hiểu biết tất cả. Thà nghèo nhưng sống ngay thẳngHơn là giàu có theo đường lối gian tà. Ai tuân giữ Kinh Luật là đứa con sáng suốt;Còn kết bạn với kẻ tham ăn uống làm nhục cha mình. Người nào làm giàu nhờ cho vay nặng lãiTức là thu góp của cải cho người có lòng thương xót người nghèo. Người nào ngoảnh tai không nghe theo Kinh Luật,Lời cầu nguyện của người ấy cũng là sự gớm ghiếc. Ai dẫn kẻ ngay thẳng vào đường ácSẽ rơi vào hố của chính mình;Nhưng người vô tội sẽ thừa hưởng phúc lành. Người giàu tự cho mình khôn ngoan,Nhưng một người nghèo sáng suốt thấy rõ người. Khi người công chính chiến thắng, có nhiều vinh hiển;Nhưng khi kẻ ác nổi lên, người ta đi ẩn trốn. Ai che giấu sự vi phạm mình sẽ không được thịnh vượng,Nhưng người nào xưng ra và từ bỏ nó sẽ được thương xót. Phước cho người nào luôn luôn kính sợ Chúa;Nhưng kẻ có lòng chai đá sẽ rơi vào tai họa. Kẻ ác cai trị dân nghèo,Giống như sư tử gầm rống, như gấu rượt mồi. Kẻ cai trị thiếu hiểu biết cũng lắm bạo tàn;Người ghét lợi bất chính sẽ sống lâu. Nếu người nào mang nợ máu của một sinh mạng,Hãy để hắn làm kẻ trốn tránh cho đến chết,Đừng có ai giúp đỡ nó. Người nào bước đi ngay thẳng sẽ được giải cứu;Kẻ theo đường lối gian tà sẽ sa ngã thình lình. Người nào cày ruộng mình sẽ được đầy thực phẩm,Nhưng kẻ theo đuổi hư không sẽ bị nghèo khó. Người trung tín được nhiều phước lành,Còn kẻ vội làm giàu ắt sẽ không tránh khỏi hình phạt. Thiên vị là điều không tốt,Nhưng vì một miếng bánh người ta có thể làm điều trái. Người có mắt gian chạy theo giàu có,Nhưng người không biết rằng sự mất mát sẽ đến. Người nào quở trách một người,Về sau sẽ được biết ơn hơn là kẻ dùng lưỡi nịnh hót. Kẻ nào ăn cắp của cha mẹ rồi nói rằngẤy không phải là tội,Kẻ ấy là bạn của kẻ phá hoại. Kẻ tham lam gây ra tranh cãi,Nhưng người nào tin cậy CHÚA sẽ được thịnh vượng. Kẻ tin cậy nơi lòng mình là kẻ ngu dại,Nhưng ai bước đi theo sự khôn ngoan sẽ được an toàn. Người nào ban cho người nghèo sẽ không thiếu thốn,Nhưng ai nhắm mắt làm ngơ sẽ gặp nhiều rủa sả. Khi kẻ ác hưng thịnh người ta đi trốn,Nhưng khi chúng bị hủy diệt, người công chính sẽ gia tăng. Một người thường bị quở trách nhưng vẫn cứng đầu,Sẽ bị hủy diệt thình lình không phương cứu chữa. Khi người công chính gia tăng dân chúng vui mừng;Nhưng khi kẻ ác cai trị, dân chúng than thở. Người nào yêu thích sự khôn ngoan làm cho cha mình vui mừng;Nhưng kẻ kết bạn với phường đĩ điếm phá hoại của cải. Nhờ công bình, vua làm cho đất nước bền vững;Nhưng kẻ tham nhũng hủy hoại quốc gia. Kẻ nào nịnh hót người láng giềng,Tức là giăng lưới dưới chân người. Kẻ ác mắc bẫy trong chính tội lỗi của hắn;Nhưng người công chính ca hát và vui mừng. Người công chính biết quyền lợi của kẻ nghèo;Kẻ ác không có sự hiểu biết ấy. Kẻ nhạo báng khơi ngọn lửa náo loạn trong thành lên;Nhưng người khôn ngoan đẩy lui cơn giận dữ. Nếu một người khôn ngoan tranh tụng với một kẻ ngu dại;Chỉ đưa đến giận dữ, cười cợt và không có hòa giải. Kẻ khát máu ghét người vô tội;Nhưng người ngay thẳng bảo vệ mạng sống người vô tội. Kẻ ngu dại bộc lộ tất cả sự giận dữ,Nhưng người khôn ngoan im lặng kiềm chế nó. Nếu một người cai trị nghe lời dối trá,Tất cả những kẻ phục vụ người đều là gian ác. Người nghèo khổ và kẻ áp bức đều gặp nhau ở một điểm chung,Mắt cả hai người đều nhận ánh sáng từ CHÚA. Nếu vua xét xử công bình người nghèo,Ngôi vua sẽ được bền vững đời đời. Roi vọt và quở trách đem lại khôn ngoan,Còn đứa con lêu lổng làm mẹ nó hổ thẹn. Khi kẻ ác gia tăng, tội lỗi gia tăng;Nhưng người công chính sẽ thấy sự sụp đổ của chúng. Hãy kỷ luật con cái, nó sẽ cho con an lành;Và làm cho linh hồn con vui vẻ. Ở đâu không có khải tượng, dân chúng phóng túng;Nhưng phước cho người tuân giữ Kinh Luật. Lời nói suông không sửa trị được nô lệ,Vì dù hiểu nó cũng không vâng lời. Con có thấy một người ăn nói hấp tấp không?Kẻ ngu dại còn có hy vọng hơn người đó. Người nào nuông chiều đầy tớ từ thuở nhỏ,Cuối cùng sẽ bị buồn thảm. Người hay giận gây sự tranh cãi;Còn kẻ nóng tính vi phạm nhiều. Người tự cao sẽ bị hạ thấp;Nhưng người có lòng khiêm nhường sẽ được tôn trọng. Người nào tòng phạm với kẻ ăn trộm ghét linh hồn mình;Người nghe lời rủa sả nhưng không dám nói ra. Sợ loài người là một cái bẫy cho mình;Nhưng ai tin cậy CHÚA được an toàn. Nhiều người tìm kiếm ân huệ nơi vua chúa;Nhưng người ta được xử công bình từ CHÚA. Kẻ bất công là điều ghê tởm cho người công chính;Nhưng người theo đường lối ngay thẳng là điều ghê tởm cho kẻ ác. Các lời của A-gu-rơ, con trai Gia-kê;Châm ngôn người ấy nói cùng Y-thi-ên,Y-thi-ên và U-canh. Thật, tôi ngu dại hơn người thường,Và tôi không có sự sáng suốt như người thường. Tôi chưa học được sự khôn ngoan,Cũng không có sự hiểu biết của Đấng Thánh. Ai đã lên trời rồi trở xuống?Ai đã góp gió trong lòng bàn tay mình?Ai đã bọc nước trong áo mình?Ai đã lập các đầu cùng của đất?Tên của người ấy là gì? Tên của con trai người ấy là chi?Nếu ngươi biết? Mọi lời của Đức Chúa Trời đều tinh khiết;Ngài là cái khiên cho những người trú ẩn nơi Ngài. Chớ thêm vào lời của Ngài;E rằng Ngài sẽ quở trách ngươi và ngươi bị coi là kẻ nói dối. Hai điều con cầu xin Ngài;Xin Ngài chớ từ chối trước khi con chết: Xin cho con cách xa gian xảo và dối trá;Xin đừng cho con nghèo khổ hay giàu có,Xin cho con đủ thực phẩm cần dùng. Kẻo khi dư thừa con sẽ từ khước NgàiMà bảo CHÚA là ai?Hoặc khi nghèo khổ con đi ăn cắpVà làm nhục danh Đức Chúa Trời con. Chớ nói xấu đầy tớ với chủ nó;E rằng nó sẽ rủa sả con và con phải mắc tội. Có loại người rủa cha mình,Và không chúc phước mẹ mình. Có loại người cho rằng mình trong sạch;Nhưng chưa được thanh tẩy sự dơ bẩn của mình. Có loại người mắt thật kiêu hãnh;Mí mắt thật tự cao. Có loại người răng như lưỡi gươm,Răng hàm như dao;Chúng ăn nuốt người nghèo khổ trên đấtVà người cùng khốn giữa loài người. Con đỉa có hai con gái;Chúng kêu lên: Hãy cho, hãy cho.Có ba điều không bao giờ thỏa mãn;Bốn điều không bao giờ nói: Đủ. Âm Phủ, dạ son sẻ,Đất không bao giờ đủ nước,Và lửa không bao giờ nói: Đủ rồi. Con mắt chế nhạo cha,Khinh bỉ việc vâng lời mẹ,Sẽ bị quạ nơi thung lũng móc mắt đi,Và diều hâu ăn thịt. Có ba điều quá kỳ diệu cho tôi,Bốn việc tôi không hiểu nỗi: Con đường của chim ưng bay trên trời;Con đường của rắn bò trên đá;Con đường tàu chạy giữa biển;Và con đường một người nam phối hiệp với người nữ. Đây là con đường của một phụ nữ ngoại tình:Nàng ăn rồi chùi miệngVà nói: tôi có làm gì tội lỗi đâu. Có ba điều làm trái đất rung chuyểnVà bốn điều nó không chịu nổi: Một tên nô lệ lên làm vua;Kẻ ngu có đầy dẫy thực phẩm; Một người đàn bà đáng ghét lấy chồng,Và một cô tớ gái thay thế bà chủ. Có bốn vật nhỏ trên trái đấtNhưng chúng cực kỳ khôn ngoan: Kiến là loài không có sức mạnh,Nhưng chúng dự trữ thực phẩm cho mình trong mùa hè. Thỏ là loài sức yếuNhưng chúng làm ổ trong đá. Cào cào không có vuaNhưng tất cả đều tiến lên theo hàng lối. Thằn lằn người ta có thể lấy tay bắtNhưng nó lại ở trong đền vua. Có ba con vật có dáng đi đẹp,Có bốn con vật có bước oai vệ: Sư tử là loài dũng mãnh nhất giữa vòng các loài thú;Nó không lùi bước trước một loài nào. Con gà trống vươn cao cổ, con dê đực;Và vị vua khi thống lĩnh quân đội mình. Nếu con dại dột tự tôn;Nếu con âm mưu điều ác;Hãy lấy tay bịt miệng lại. Vì ép sữa làm ra bơ;Bóp mũi ra máu;Chọc giận sinh ra cãi lộn. Những lời của vua Lê-mu-ên; Châm ngôn mà mẹ người dạy người. Đừng, hỡi con ta; đừng, hỡi con của lòng ta;Đừng, hỡi con của sự khấn nguyện ta; Đừng trao sức lực mình cho đàn bà,Đừng trao đường lối con cho kẻ hủy diệt các vua. Hỡi Lê-mu-ên,Ấy là điều không tốt cho các vua uống rượu;Không tốt cho những người cai trị nghiện rượu mạnh. E rằng khi uống rượu họ sẽ quên các luật lệ đã được ban hành;Và xâm phạm quyền lợi của mọi kẻ khốn cùng. Hãy ban rượu mạnh cho người đang bị hủy diệt,Hãy ban rượu cho kẻ có tâm hồn cay đắng. Hãy để họ uống và quên đi sự nghèo khổ của họ;Và không còn nhớ đến sự đau khổ của họ nữa. Con hãy nói lên thay cho những kẻ không quyền phát biểu;Hãy nói lên quyền lợi của mọi kẻ cùng cực. Hãy nói lên, hãy phán đoán công chính;Hãy bênh vực quyền lợi của những người nghèo nàn, thiếu thốn. Ai có thể tìm được một người vợ tài đức?Giá trị nàng quý hơn hồng ngọc Chồng nàng tin cậy nơi nàng;Người sẽ không thiếu hoa lợi. Trọn đời, nàng đem lại cho chồng phúc lợi,Không phải tai hại. Nàng tìm kiếm vải len và sợi lanh;Đôi tay nàng vui vẻ làm việc. Nàng như những con tàu buônMang thực phẩm về từ phương xa. Nàng thức dậy khi trời còn tối;Phân phát phần ăn cho người nhà mình;Cắt đặt công việc cho các tớ gái mình. Nàng xem xét một thửa ruộng rồi mua nó;Với lợi tức trong tay nàng trồng một vườn nho. Nàng lấy hết năng lực chuẩn bịVà hết sức làm việc. Nàng thấy nguồn lợi mình được tốt đẹp;Ban đêm đèn nhà nàng chẳng tắt. Nàng tự tay quay tơTay nàng kéo sợi dệt vải. Nàng mở rộng bàn tay giúp đỡ kẻ nghèo;Đưa tay ra tiếp người thiếu thốn. Nàng không lo sợ cho gia đình lúc tuyết giá;Vì cả nhà đều mặc đồ ấm áp. Nàng tự may lấy quần áoNàng mặc đồ vải tốt, đỏ thắm. Chồng nàng được biết tiếng nơi cửa thành;Được ngồi với các trưởng lão trong xứ. Nàng làm áo vải và bán;Nàng cung cấp thắt lưng cho nhà buôn. Nàng mặc lấy năng lực và sự cao quý;Nàng mỉm cười trước các ngày tháng tương lai. Nàng mở miệng nói điều khôn ngoan;Lưỡi nàng dạy dỗ điều nhân ái. Nàng coi sóc chu đáo công việc nhà nàng;Không hề ăn không ngồi rồi. Con cái nàng đứng lên ca tụng nàng là hạnh phúc;Chồng nàng cũng khen ngợi nàng: “Có nhiều người đàn bà làm những việc xuất sắc;Nhưng mình vượt hơn tất cả.” Duyên là giả dối, sắc là hư không;Nhưng người đàn bà nào kính sợ CHÚA đáng được khen ngợi. Hãy ban cho nàng hoa quả của tay nàng;Hãy để cho công việc nàng được ca ngợi nơi cửa thành. Lời của Giảng Sư, con vua Đa-vít, ngự tại Giê-ru-sa-lem. Giảng Sư nói:Phù vân, hư ảo! Hư ảo, phù vân!Trí người không thể nào hiểu nổi mọi việc xảy ra trên đời! Mọi công lao khó nhọc con người làm ra trên cõi đời nàyCó ích lợi gì lâu bền cho đời người? Thế hệ này qua, thế hệ khác đến,Trong khi trời đất vẫn còn đó. Mặt trời mọc, mặt trời lặn,Rồi hối hả quay về nơi nó mọc. Gió thổi hướng nam,Chuyển sang hướng bắc,Gió xoay đi, xoay lại,Đổi hướng xoay chiều theo luồng gió thổi. Mọi sông ngòi đều đổ ra biển,Nhưng biển chẳng hề đầy.Nước trở về nguồn,Nơi đó sông ngòi lại tiếp tục chảy ra. Mọi vật không ngừng xoay vần;Môi miệng người nói mãi vẫn có điều để nói;Mắt nhìn mãi vẫn có việc để nhìn;Tai nghe mãi vẫn có điều để nghe. Điều chi đã có sẽ còn tiếp tục có,Điều chi Đức Chúa Trời đã làm, Ngài vẫn tiếp tục làm.Chẳng có gì mới trên cõi đời này. Nếu có điều gì khiến người ta nói:“Xem kìa, một điều mới!”Thì chính điều ấy đã có rồi, có từ ngàn xưa,Trước thời chúng ta. Không ai tưởng nhớ những thế hệ đã qua;Những thế hệ mai sau cũng vậy,Những người đến sau họCũng chẳng tưởng nhớ đến họ. Tôi là Giảng Sư, tôi đã từng làm vua Y-sơ-ra-ên tại Giê-ru-sa-lem. Tôi quyết tâm noi theo nguyên tắc khôn ngoan của các bậc hiền triết, nghiên cứu và khảo sát tường tận mọi việc xảy ra trên cõi đời này. Đó là một công việc khó khăn Đức Chúa Trời ban cho loài người. Sau khi quan sát mọi việc xảy ra trên đời, tôi nhận thấy trí người không thể nào hiểu nổi, như không ai có thể điều khiển ngọn gió thổi theo chiều mình muốn. Vật chi cong vẹo không thể uốn cho thẳng,Vật chi thiếu hụt không thể đếm cho đủ. Tôi tự nhủ: “Này, tôi đã thu thập được nhiều kinh nghiệm và hiểu rõ thế nào là khôn ngoan và tri thức. Tôi được khôn ngoan trội hơn mọi vua cai trị Giê-ru-sa-lem trước tôi.” Tôi quyết tâm tìm hiểu sự khôn ngoan và tri thức, điên rồ và khờ dại. Tôi khám phá rằng công việc tìm hiểu này cũng khó như điều khiển chiều gió. Càng thêm khôn ngoan càng lắm ưu phiền,Càng thêm tri thức, càng nhiều khổ tâm. Tôi tự nhủ: “Tôi hãy nếm trải những điều chi mang lại niềm vui trên cõi đời này, xem thử những điều ấy có chi tốt không.” Nhưng tôi khám phá rằng loài người cũng không thỏa mãn với những điều vui thú ấy. Tôi nhận thấy rằng đời sống hời hợt là điên rồ, còn đeo đuổi thú vui cũng chẳng thực hiện được gì. Tôi noi theo nguyên tắc của các bậc hiền triết; tôi thử dùng rượu cho đến mức say, để tìm hiểu xem đó có phải là điều tốt cho loài người làm theo trong những chuỗi ngày họ sống trên đất. Tôi thực hiện những công trình vĩ đại. Tôi xây dựng những lâu đài, vun trồng những vườn nho. Tôi lập cho mình những vườn hoa và vườn cây đủ mọi loại cây ăn trái. Tôi đào cho mình những hồ chứa nước để tưới rừng cây rậm rạp. Tôi mua nhiều tôi trai, tớ gái, cũng có nhiều tôi trai tớ gái sinh trưởng trong nhà. Tôi lại có nhiều bầy súc vật, bò và chiên dê, nhiều hơn tất cả những vì vua sống trước tôi tại Giê-ru-sa-lem. Tôi thâu chứa bạc vàng; châu báu các vua chúa triều cống. Tôi chiêu mộ nhiều nam nữ ca sĩ; còn nói về lạc thú của đàn ông, tôi có biết bao nhiêu cung phi hầu hạ. Vậy tôi trở nên sang trọng vượt trội hơn mọi vì vua sống trước tôi tại Giê-ru-sa-lem. Trong khi đó tôi vẫn tiếp tục noi theo nguyên tắc khôn ngoan của các bậc hiền triết. Tôi chẳng bỏ qua bất cứ điều gì mắt tôi ưa thích.Tôi chẳng từ khước một thú vui nào.Thật tôi vui thỏa trong mọi công lao khó nhọc của mình,Và niềm vui thỏa này là phần thưởng cho mọi công lao của tôi. Thế nhưng, khi ngẫm nghĩ lại mọi công trình tay mình thực hiện,Với bao công sức đổ dồn vào,Tôi nhận thấy mọi sự đều phù vân, hư ảo, không thể nào hiểu nổi, như không ai điều khiển nổi chiều gió thổi.Con người không tìm được lợi ích gì lâu bền trên cõi đời này. Tôi ngẫm nghĩ về sự khôn ngoan,Điên rồ, và ngu dại.Người kế vị ngôi vua có thể làm gì được?Thật ra, chỉ noi theo những gì các vua trước đã làm. Tôi nhận thấy rằng khôn ngoan có ích hơn khờ dại,Cũng như ánh sáng có lợi hơn tối tăm. Người khôn sáng nhìn thấy hướng mình đi,Còn kẻ khờ dại dò dẫm trong đêm tối.Tuy nhiên tôi cũng biếtRồi cả hai đều cùng chung một số phận. Tôi tự nhủ:“Số phận kẻ dại cũng là số phận của tôi.Vậy thì khôn ngoan vượt trội như tôi được lợi ích gì?”Tôi tự đáp:“Đây cũng là phù vân, hư ảo.” Thật vậy, không ai nhớ mãi người khôn hoặc kẻ dại,Vì chúng ta biết trong những ngày tới, người khôn kẻ dại đều sẽ bị lãng quên.Than ôi! Người khôn kẻ dại rồi cũng phải chết như nhau! Vậy, tôi hầu như chán ghét cuộc sống, vì mọi việc xảy ra trên đời đều làm cho tôi khổ tâm. Mọi sự đều khó hiểu, khó như điều khiển chiều gió vậy. Tôi cũng hầu như chán ghét mọi công trình tôi lao nhọc tạo ra trên đời vì rồi phải để lại tất cả cho kẻ đến sau. Nào ai biết được người thừa kế khôn hay dại? Dù sao đi nữa, người vẫn cai quản mọi công trình tôi tạo nên nhờ khôn ngoan và lao khổ của tôi. Đây cũng là một điều hư ảo. Ngẫm nghĩ lại, tôi chán ngán mọi công trình tôi lao khổ tạo ra trên đời này. Có người đem khôn ngoan, tri thức, và tài năng ra tạo dựng cơ nghiệp, rồi để lại gia tài mình cho một người khỏi phải lao nhọc gì cả. Đây cũng là một điều hư ảo, một ngang trái thương đau. Vậy có ích gì cho con người lao lực, lao tâm khổ nhọc trên đời này? Suốt ngày, người gặp chuyện khổ tâm, công việc người làm đầy ưu phiền; ngay cả ban đêm, tâm trí người cũng chẳng được nghỉ ngơi. Đây cũng là một điều hư ảo. Tốt nhất cho loài người là: ăn, uống, và vui thỏa trong công việc mình làm. Tôi nhận thấy đó là sự ban cho của Đức Chúa Trời Thật vậy, nếu Đức Chúa Trời không ban cho, ai có thể ăn uống, sống an vui trên đời? Vì Đức Chúa Trời ban sự khôn ngoan, tri thức, và niềm vui cho người nào đẹp lòng Ngài. Nhưng Ngài giao cho tội nhân công việc nhọc nhằn thu góp của cải để rồi ban lại cho người nào đẹp lòng Ngài. Đây cũng là một điều hư ảo, không thể hiểu nổi, như không ai điều khiển nổi chiều gió vậy. Mọi sự đều xảy ra theo thời điểm,Mọi việc trên đời đều có định kỳ: Có kỳ sinh, có kỳ tử;Có kỳ gieo trồng, có kỳ gặt hái; Có kỳ giết hại, có kỳ cứu chữa;Có kỳ đập phá, có kỳ xây dựng; Có kỳ than khóc, có kỳ vui cười;Có kỳ tang chế, có kỳ ca múa; Có kỳ ném đá, có kỳ thu lượm đá;Có kỳ ôm ấp, có kỳ hất hủi; Có kỳ tìm kiếm, có kỳ bỏ qua;Có kỳ cất giữ, có kỳ vứt bỏ; Có kỳ xé rách, có kỳ vá may;Có kỳ nín lặng, có kỳ lên tiếng; Có thời yêu, có thời ghét;Có thời chiến, có thời bình. Có ích lợi gì lâu bền cho người lao công khổ nhọc? Tôi quan sát những công việc Đức Chúa Trời ban cho loài người để họ làm. Mọi sự Ngài làm đều đúng thời, đúng lúc. Tuy Đức Chúa Trời có đặt vào tâm trí loài người ý niệm về cõi đời đời, cũng không một ai thấu hiểu được đầu đuôi gốc ngọn công việc Ngài làm. Vậy tôi nhận thấy tốt nhất cho loài người là vui thỏa và an hưởng cuộc sống. Hơn nữa, ai nấy hãy ăn, uống, và vui thỏa trong mọi công việc mình làm. Đó là sự ban cho của Đức Chúa Trời. Tôi nhận thấy mọi sự Đức Chúa Trời làm tồn tại mãi mãi, loài người không thêm bớt được gì cả. Đức Chúa Trời làm như vậy để loài người kính sợ Ngài. Điều hiện có, đã có rồi;Điều sẽ có, đã có từ ngàn xưa.Đức Chúa Trời cho tái diễn những điều gì đã qua. Ngoài ra, tôi còn nhìn thấy điều này trên đời:Chính tại chốn công đường, lại có gian ác;Và chính tại nơi công chính, lại có việc làm bất chính. Tôi tự nhủ:“Đức Chúa Trời sẽ xét xửCả người công chính lẫn người gian ác;Vì Ngài ấn định thời kỳ cho mọi sự, mọi việc.” Tôi tự nhủ: “Đức Chúa Trời thử thách loài người, để cho họ thấy loài người chẳng hơn gì loài thú.” Vì số phận loài người và số phận loài thú chung quy giống nhau: loài người chết, loài thú cũng chết. Cả hai đều là sinh vật có hơi thở. Vậy loài người chẳng hơn gì loài thú. Thật mọi sự đều phù vân, hư ảo. Cả hai đều cùng đi về một nơi: cả hai đều ra từ bụi đất, cả hai đều trở về bụi đất. Nào ai biết được, hoặc hồn người chết bay lên, hoặc hồn loài thú sa xuống đất? Vậy tôi nhận thấy điều tốt nhất cho loài người là vui hưởng những việc mình làm, đó là phần thưởng cho người. Vì ai có thể đem người trở về để thấy lại những gì xảy ra sau khi nhắm mắt lìa đời? Tôi ngẫm nghĩ những bức hiếp xảy ra trên đời.Xem kìa! Người bị bức hiếp, nước mắt đầm đìa!Nhưng không được ai an ủi.Kẻ bức hiếp cậy quyền hành bức hiếp họ!Nhưng không ai bênh vực họ. Vậy tôi mừng cho người chết,Vì những người đã chết rồi,Có phước hơn những người hiện vẫn còn sốngTrong cảnh áp bức. Nhưng người có phước hơn cả hai hạng người kiaLà người chưa sanh ra,Chưa từng chứng kiến những việc gian ácXảy ra trên đời. Tôi nhận thấy mọi việc con người thực hiện với công khó, tài năng, chỉ vì lòng ganh đua ham muốn, rồi cũng qua đi. Quả là phù vân, hư ảo, giống như đuổi theo luồng gió vậy. “Kẻ dại ngồi khoanh tay,Tự gây thiệt hại cho mình.” “Tốt hơn là nắm đầy trong một bàn tay với sự nghỉ ngơi, nhàn hạ,Còn hơn khổ nhọc cho đầy hai tay,Như thể cố công bắt gió.” Ngẫm nghĩ sự đời tôi thấy đời phù vân, hư ảo: Như một người kia sống đơn chiếc,Không con cái, không anh em,Thế nhưng cứ lao nhọc không ngừng,Mắt nhìn của cải không biết chán.Người chẳng hề tự hỏi “Vì ai mà tôi phải lao khổ nhọc nhằn,Nhịn ăn sung mặc sướng?”Quả là phù vân, hư ảo, một cuộc đời vất vả, lầm than,Một cách sống bi đát. Hai người hơn một,Vì làm việc chung có lợi cho cả hai. Nếu một người ngã,Có người kia đỡ.Khổ nỗi cho người đơn độc, khi ngã,Không ai đỡ người lên! Cũng vậy, hai người nằm chung thì ấm,Còn một người làm sao ấm được? Người đơn độc dễ bị đánh hạ,Nhưng hai người chung sức chống cự, dễ ai đánh hạ được sao?Dây ba tao không dễ gì bứt đứt. Một người trẻ tuổi nghèo nàn nhưng khôn ngoan, còn hơn một vì vua cao tuổi lại ngu dại, không biết nghe lời khuyên can; Vì người trẻ tuổi từ ngục tù lên làm vua, dù người vốn sinh ra nơi bần hàn trong vương quốc. Tôi nhận thấy mọi người sinh sống trên đời, đều đứng về phía người trẻ tuổi thứ nhì, là người sẽ kế vị ngôi vua. Thần dân dưới quyền vua trẻ tuổi này đông vô số. Thế nhưng, các thế hệ đến sau không thán phục người. Thật đó cũng là phù vân, hư ảo, như thể cố công bắt gió! Hãy cẩn trọng khi vào nhà Đức Chúa Trời. Hãy đến gần cung kính lắng nghe hơn là dâng sinh tế như kẻ ngu muội, là kẻ không nhận biết lầm lỗi mình đã phạm. Đừng nhạy miệng,Và con cũng đừng hấp tấp,Thốt lời thề nguyện trước mặt Đức Chúa Trời;Vì Đức Chúa Trời ở trên trời,Còn con ở dưới đất;Vậy con hãy cân nhắc từng lời nói. Vì nhiều suy tư sinh ra mộng tưởng,Nhiều lời sinh ra dại khờ. Khi con khấn nguyện với Đức Chúa Trời, hãy vội vã làm trọn điều khấn nguyện, vì kẻ dại không làm vui lòng Ngài. Hãy làm trọn điều con khấn nguyện. Thà đừng khấn nguyện, hơn là khấn hứa mà không làm trọn. Đừng để miệng con gây cho con phạm tội. Đừng nói với thầy tế lễ “Tôi lầm lỡ khấn nguyện.” Sao con làm cho Đức Chúa Trời nổi giận vì lời khấn nguyện của con đến nỗi Ngài hủy diệt công trình tay con làm? Ở đâu có nhiều mộng mị, đó có nhiều điều hư không, và nhiều lời. Phần con, phải kính sợ Đức Chúa Trời. Khi con thấy có người nghèo khó trong xứ bị áp bức, công lý và lẽ phải bị chà đạp, thì đừng ngạc nhiên, vì người có quyền được người có quyền hơn che chở, và các người cầm quyền luôn bênh vực lẫn nhau. Tuy nhiên, dân cày cần có vua cai trị thì đất nước mới được thuận lợi mọi bề. Người ham tiền bạc, bao nhiêu tiền bạc cũng không đủ,Người ham của cải, lợi nhuận mấy cũng chẳng vừa lòng.Đấy cũng là phù vân, hư ảo. Của cải càng nhiều,Càng lắm người ăn.Người có của được lợi ích gì hơn,Ngoài niềm vui ngắm nhìn của cải? Người làm công lao nhọc, dù ăn ít hay nhiều,Có được giấc ngủ ngon.Nhưng người giàu có dư dảLại lo lắng ngủ không yên. Tôi thấy một hoàn cảnh đau thương:Một người giàu có kia chất chứa của cải, phòng khi bất trắc, Nhưng gặp chuyện chẳng may, tài sản tiêu tan.Người có con cái,Song không còn gì để lại cho con. Người mở mắt chào đời với hai bàn tay trắng,Nhắm mắt lìa đời, trắng đôi bàn tay.Người ra đi, trong tay chẳng mang theo được gìDo công lao khó nhọc mình làm ra. Đây quả là một tai họa đau thương:Người vào đời thể nào, cũng sẽ ra đi thể ấy.Vậy người lao động nhọc nhằn được ích lợi gì bền lâu,Khi công lao mình bị gió cuốn bay đi? Người lại phải sống suốt đời trong tăm tối,Gặp nhiều phiền muộn, đau ốm, và bực bội. Tôi nhận thấy điều tốt đẹp cho mọi người là ăn, uống, và vui hưởng mọi công lao khó nhọc mình làm ra, suốt những năm tháng của cuộc đời mà Đức Chúa Trời đã định vì đó là phần của con người. Hơn nữa, người nào được Đức Chúa Trời ban cho sự giàu có và tài sản, quyền sử dụng tài sản, thì nhận lấy phần mình, và vui hưởng công lao khó nhọc của mình. Đó chính là sự ban cho của Đức Chúa Trời. Thật người sẽ chẳng lo nghĩ nhiều về những ngày của đời sống mình, vì Đức Chúa Trời ban cho người lòng được an vui. Tôi thấy có một hoàn cảnh bi thương rất thường xảy ra cho loài người sống trên đời. Đức Chúa Trời ban cho một người kia giàu có, tài sản, và danh vọng đến nỗi người chẳng thiếu một điều gì lòng người mong muốn. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời không cho người quyền hưởng thụ. Một người xa lạ hưởng các tài sản ấy. Hoàn cảnh đau xót bi thương này quả là khó hiểu. Giả sử có một người kia sanh được cả trăm con cái, cao tuổi thọ, được sống lâu trên đất, nhưng lòng ước muốn vui hưởng những điều tốt lành không được thỏa nguyện, tôi cho rằng một em bé chết vừa lúc lọt lòng mẹ, dù không được chôn cất, còn có phước hơn. Dù em lặng lẽ vào đời, và ra đi vào cõi tối tăm, tên tuổi em bị bóng tối bao trùm; Dù em chưa hề thấy ánh mặt trời, cũng chưa ý thức được gì, em vẫn được yên nghỉ hơn người cao tuổi. Người dù có sống đến cả hai ngàn năm, nhưng không hưởng được phần phước gì trên đời này, cũng không bằng em bé chết vừa lúc lọt lòng mẹ. Phải chăng rốt cuộc mọi người đều cùng về một chỗ? Người đời làm lụng khổ nhọc là vì miếng cơm manh áo,Thế nhưng lòng tham muốn chẳng bao giờ được thỏa nguyện. Người khôn ngoan được lợi ích gì hơn kẻ dại?Người nghèo biết cách xử thế, nào có ích chi? Điều gì mắt thấyTốt hơn là mộng ước.Đây cũng là phù vân, hư ảo,Như thể cố công bắt gió. Điều chi hiện có đã sẵn có tên rồi,Và chúng ta cũng biết rõ thân phận con người;Loài người không thể tranh biệnVới Đấng mạnh hơn mình. Càng nhiều lý lẽ,Càng thêm rối beng.Có lợi ích gì lâu bền cho con người? Vì những ngày của đời người phù vân, trôi qua như bóng, ai biết được điều gì là tốt, lợi ích cho mình? Ai có thể nói cho người biết điều gì sẽ xảy ra, sau khi người nhắm mắt lìa đời? Danh thơm tiếng tốt hơn dầu quí giá,Ngày chết hơn ngày sanh. Đến nhà tang chếHơn đến nhà yến tiệc,Vì ai rồi cũng phải chết;Vậy người sống hãy để tâm suy gẫm thân phận mình. Buồn rầu tốt hơn đùa giỡn,Vì kinh nghiệm đau buồn mở mang tâm trí. Người khôn ngoan để tâm nghĩ đến sự chết,Kẻ ngu dại chỉ nghĩ đến vui chơi. Nghe người khôn ngoan khuyên dạyTốt hơn là nghe tiếng ca hát của kẻ dại khờ, Vì tiếng cười của kẻ dạiKhác nào tiếng nổ lách tách của gai gốc đốt cháy dưới nồi,Trống rỗng, không có ý nghĩa gì? Khi bị ức hiếp, người khôn có thể hóa dại,Và của hối lộ làm mờ tâm trí. Kết thúc một việc tốt hơn khởi đầu việc;Kiên nhẫn hơn kiêu căng. Đừng vội nóng giận,Vì cơn giận dữ sẵn chờ trong lòng kẻ dại. Đừng hỏi: “Sao thời trước tốt hơn thời nay?”Vì hỏi như vậy là thiếu khôn ngoan. Sự khôn ngoan quí giá như thừa hưởng gia tài điền sản,Và đem lại lợi ích lâu dài cho người sống trên đời. Cũng như tiền bạc,Sự khôn ngoan như bóng che thân,Nhưng sự hiểu biết của người khôn ngoan có ích lợi lâu dài hơn,Vì nhờ sự khôn ngoan mà bảo tồn được mạng sống mình. Hãy suy gẫm công việc của Đức Chúa Trời;Vật Ngài bẻ congAi làm thẳng lại được? Gặp thời thịnh vượng, hãy vui hưởng;Nhưng khi sa cơ thất thế, hãy suy nghiệm.Phước hay họaĐều do Đức Chúa Trời định đoạt,Loài người không có cớ gìPhiền trách được Ngài. Suốt đời tôi, tôi đã nhìn thấy biết bao nhiêu điều khó hiểu.Có người công chính, trung tín vâng theo lời Đức Chúa Trời nhưng lại chết yểu;Cũng có kẻ làm ác, nhưng lại sống lâu. Có người khuyên: Đừng tỏ ra công chính thái quá,Cũng đừng tỏ ra quá khôn ngoan.Sao lại phải chuốc lấy thiệt hại cho mình? Đừng theo đường gian ác,Cũng đừng sống dại khờ.Tại sao phải chết trước kỳ định? Tốt nhất là tránh tự cho mình là công chính hoặc khôn ngoan,Và tích cực chống điều gian ác,Vì người nào kính sợ Đức Chúa Trời sẽ giữ trọn cả hai. Một người nhờ khôn ngoan mà có thế lựcHơn cả mười người cầm quyền trong hội đồng thành phố. Thật ra, trên đời này, không có một người công chính nào luôn làm điều phảiVà không hề phạm tội. Vậy, đừng chú tâm đến mọi lời đàm tiếu,Kẻo con nghe lời đầy tớ mình nguyền rủa. Vì con tự biết trong lòng rằngChính con cũng đã nhiều lần nguyền rủa kẻ khác. Tôi cậy sự khôn ngoan của các bậc hiền triết nghiệm xét mọi điều trên. Tôi tự nhủ:“Tôi sẽ nhờ các nguyên tắc khôn ngoan tìm được câu giải đáp.”Nhưng câu giải đáp vẫn còn xa cách tôi. Mọi việc xảy ra đều sâu xa, huyền nhiệm,Trí óc con người làm sao thấu triệt được? Tôi lại quyết tâm tìm hiểu, khảo sát, và tra cứu sự khôn ngoan cùng nguyên lý muôn vật. Tôi nhận ra được gian ác là thiếu sáng suốt và ngu dốt là điên rồ. Tôi thường nhận thấy đàn bà lòng đầy cạm bẫy gây nhiều cay đắng hơn cả sự chết. Tình nàng như bẫy lưới, vòng tay nàng như dây xích. Người nào đẹp lòng Đức Chúa Trời thoát khỏi tay nàng, còn tội nhân rơi vào bẫy nàng. Giảng Sư nói: “Này là điều tôi tìm thấy. Tôi gom góp từng việc một để tìm ra nguyên lý muôn vật. Tôi chuyên lòng tìm hiểu, nhưng vẫn chưa hiểu được ý nghĩa câu phương ngôn:‘Trong số ngàn người nam, tôi tìm được một người,Còn trong số ngàn người nữ tôi chẳng tìm được một ai.’ Này, điều duy nhất tôi tìm thấy,Ấy là Đức Chúa Trời dựng nên loài người ngay thẳng,Nhưng chính họ đã nảy sinh ra lắm mưu kế.” Ai là người khôn ngoan thật?Ai giải được lý lẽ sự việc?Sự khôn ngoan làm cho sắc diện tươi sáng,Và thay đổi được nét mặt cứng cỏi khó khăn. Phải tuân lệnh vuaVì Đức Chúa Trời có thề hứa sẽ bảo vệ vua. Chớ vội vã lui ra khỏi mặt vua,Cũng đừng chần chờ trong lúc tai biến,Vì vua có quyền làm mọi việc theo điều mình muốn. Lời phán quyết của vua là tối hậu.Ai dám chất vấn vua về điều gì vua làm? Người nào tuân lệnh sẽ không gặp phải nguy khốn,Người khôn ngoan hiểu biết thời thế và định được tình hình. Thật vậy, mọi biến cố đều có thời kỳ và duyên cớ.Tuy nhiên, loài người gặp phải nhiều bối rối ưu phiền. Vì không ai biết được điều gì sẽ xảy ra,Nên không ai nói trước được ngày mai. Không ai có quyền trên hơi thở để cầm giữ hơi thở lại,Cũng không ai có quyền trên sự chết.Trong chiến trận, sự chết không miễn trừ ai.Ngay cả người mưu ác cũng không nhờ mưu ác mình mà được cứu. Khi tôi đem lòng tìm hiểu mọi việc xảy ra trên đời, tôi nhận thấy kẻ cai trị thường hay hãm hại người bị trị. Bấy giờ tôi thấy kẻ ác chết, được chôn cất linh đình vì họ thường ra vào đền thánh. Nhưng những người công chính ngay trong thành lại bị lãng quên. Đây cũng là một việc khó hiểu. Loài người chú tâm làm ác vì kẻ ác không bị trừng phạt ngay. Và người phạm tội dù làm ác cả trăm lần, vẫn được sống lâu. Tuy nhiên, tôi biết những người kính sợ Đức Chúa Trời sẽ được phước lành, vì họ kính sợ Ngài, còn kẻ ác sẽ không được phước lành, cuộc đời kẻ ác sẽ qua đi như cái bóng, không lâu bền, vì họ không kính sợ Đức Chúa Trời. Có một việc khó hiểu xảy ra trên đời này: có người công chính bị đối xử như thể họ làm ác, lại có kẻ ác được đối xử như thể họ làm điều công chính. Tôi nghĩ đây cũng là một việc khó hiểu. Vậy tôi khuyên mọi người hãy vui thỏa, vì không gì tốt hơn cho loài người trên đời là ăn, uống, và vui thỏa. Đó là những thú vui bù đắp cho công lao khó nhọc suốt những ngày sống trên đời mà Đức Chúa Trời ban cho người. Khi tôi quyết tâm tìm hiểu sự khôn ngoan, ngày đêm không cho mắt ngơi nghỉ, suy nghiệm về công lao khó nhọc trên đời. Tôi xem xét mọi công việc của Đức Chúa Trời, và nhận thấy rằng loài người không thể nào hiểu được những việc xảy ra trên đời. Dù loài người cố tâm tìm kiếm vẫn chẳng hiểu thấu được gì. Ngay cả người khôn ngoan tưởng mình hiểu biết, cũng không hiểu nổi. Thật tôi chuyên lòng suy nghiệm mọi điều này về người công chính và người khôn ngoan, cùng công việc họ làm. Thảy đều nằm trong tay Đức Chúa Trời. Loài người không biết được Ngài thương ai hoặc ghét ai. Mọi sự đều thuộc về tương lai. Mọi sự đều như nhau cho mọi người: cùng một số phận cho người công chính hoặc người gian ác, người thiện, người tinh sạch hoặc người ô uế, người dâng sinh tế hoặc người không dâng.Những gì xảy đến cho người nhơn đứcCũng xảy đến cho người phạm tội ác,Những gì xảy đến cho người thề nguyệnCũng xảy đến cho người ngại không dám thề nguyện. Điều đau buồn nhất trong mọi việc xảy ra trên đời, ấy là mọi người đều cùng chung một số phận. Hơn nữa, lòng người đầy gian ác, sự ngu dại ở trong tâm trí họ suốt đời. Rốt cuộc, tất cả đều đi về cõi chết! Nào có ai tránh thoát được? Còn sống là còn hy vọng vì “một con chó còn sống hơn con sư tử chết.” Vì người sống biết mình sẽ chết,Nhưng người chết chẳng biết gì cả.Cũng chẳng còn phần thưởng gì cho họ,Vì họ đã bị chìm vào quên lãng, không còn ai nhớ đến. Ngay cả tình yêu, lòng ganh ghét,Tính tranh chấp của họ cũng thảy đều tiêu tan.Họ chẳng còn phần gì nữa trong mọi việc xảy ra trên đời. Vậy, hãy vui vẻ nhận lấy thức ăn, hãy uống rượu với lòng hớn hở, vì Đức Chúa Trời thuận cho con làm các việc ấy. Lúc nào cũng ăn mặc như ngày lễ, và đừng quên xức dầu thơm trên đầu. Hãy vui sống với người vợ con yêu quí trọn những ngày trên đời mà Đức Chúa Trời đã ban cho con trên trần thế phù du này. Vì đó là phần của con trong cuộc sống lao khổ nhọc nhằn trên đời này. Bất cứ điều gì con có thể làm được, hãy làm hết sức mình, vì chẳng có việc làm, hoặc suy luận, hoặc tri thức, hay sự khôn ngoan nơi cõi chết, là nơi con đi đến. Tôi lại nhận thấy rằng trên đời này:Không phải lúc nào người chạy nhanh cũng thắng cuộc,Người mạnh sức cũng thắng trận,Người khôn ngoan luôn no đủ,Người thông sáng luôn giàu sang,Người trí thức cũng được biệt đãiVì thời điểm và cơ hội xảy đến cho mọi người. Không ai biết được lúc nào tai họa xảy đến cho mình.Như cá mắc phải lưới ác nghiệt,Như chim sa vào bẫy,Loài người cũng bị nhốt chặtTrong thời tai họa thình lình ập xuống. Tôi cũng nhận thấy trên đời một trường hợp, trong đó sự khôn ngoan đóng một vai trò nổi bật. Một thành nhỏ kia có ít dân cư. Một vua hùng mạnh kéo quân đến vây hãm và xây đắp công sự để tấn công thành. Trong thành có một người khôn ngoan nhưng nghèo, dùng sự khôn ngoan mình giải cứu được thành. Thế nhưng không ai nhắc đến tên người nghèo đó. Vậy tôi tự nhủ: “khôn ngoan hơn sức mạnh.” Tuy nhiên, người khôn ngoan mà nghèo lại bị khinh khi, và lời nói của người không được ai nghe. Lời lẽ từ tốn của người khôn ngoan có tác dụng hữu hiệu hơnTiếng quát tháo của người chỉ huy giữa ba quân dại khờ. Sự khôn ngoan mạnh hơn vũ khí,Nhưng một sơ suất, lầm lỗi phá vỡ cả cơ đồ. Con ruồi chết làm hư lọ dầu thơm,Một chút điên dại làm tổn hại sự khôn ngoan và danh giá. Lòng người khôn ngoan hướng về điều phải,Lòng kẻ ngu dại hướng về điều sai trái. Ngay khi đi ngoài đường phố,Kẻ ngu dại thiếu trí khôn,Tỏ cho mọi người biết sự ngu dại của mình. Nếu người lãnh đạo nổi giận quát tháo,Chớ vội bỏ đi,Vì thái độ ôn hòa tháo gỡ được những lỗi lầm nghiêm trọng. Tôi nhận thấy có một điều tệ hại nghiêm trọng trên đời,Là sự lầm lỗi phát xuất từ các bậc cầm quyền: Kẻ khờ dại được cất nhắc lên chức vụ cao,Còn người giàu sang lại ngồi chỗ thấp hèn. Tôi cũng thấy nô lệ cưỡi ngựa,Trong khi các bậc vương hầu đi bộ như nô lệ. Ai đào hố có thể bị rơi xuống hố,Ai phá đổ bờ tường có thể bị rắn cắn. Ai đập đá có thể bị đá đè,Ai bổ củi có thể bị củi gây thương tích. Một lưỡi rìu cùn mà không mài dũa bén,Ắt phải phí nhiều sức,Nhưng sự khôn ngoanGiúp ích cho sự thành công. Nếu rắn cắn trước khi bị ếm,Thì thầy bùa rắn không còn cần thiết nữa. Lời nói của người khôn ngoan đem lại lòng kính trọng,Còn môi miệng kẻ dại gây tai hại cho người. Kẻ dại khởi đầu bằng lời nói xằng bậy,Và kết thúc bằng lời lẽ ngông cuồng, Kẻ dại lắm lời, nói mãi không ngừng.Nhưng nào ai biết được những gì sẽ xảy ra,Cũng không ai nói trước được điều gì sẽ xảy ra sau khi mình nhắm mắt lìa đời. Kẻ dại mệt mỏi vì công việc mình làmĐến nỗi không biết đường về thành. Khốn cho một quốc gia có vua còn quá trẻ,Và quan quyền tiệc tùng từ lúc rạng đông! Phước cho một đất nước có vua thuộc dòng dõi quý tộc,Các quan quyền ăn uống điều độ,Cốt để bổ sức, chứ không phải vì say sưa. Do lười biếng, tay buông xuôi,Mà nhà dột, cột xiêu. Bữa ăn ngon làm thỏa dạ,Rượu giúp cho đời thêm vui,Nhưng phải có tiền mới có được cả hai. Đừng nguyền rủa vua, ngay cả trong tâm tư,Cũng đừng nguyền rủa kẻ giàu, dù ở trong phòng ngủ,Vì chim trời có thể mang lời nói đi xa,Và loài có cánh có thể loan truyền tin tức. Hãy gởi bánh con ăn trên mặt nước;Sau nhiều ngày, con sẽ tìm thấy lại. Hãy chia phần con cho bảy, hoặc ngay cả tám người;Vì con không biết sẽ có tai họa gì xảy ra trên đất. Khi mây phủ đầy,Mưa rơi xuống đất.Một cây ngã, dù về hướng nam hay hướng bắc,Cây ngã sẽ nằm ngay chỗ nó ngã. Ai quan sát chiều gió sẽ không gieo,Ai nhìn xem hướng mây sẽ không gặt. Con không hiểu thể nàoMột bào thai trong bụng mẹ nhận sự sống.Cũng một thể ấy, con không sao hiểu nổi công việc của Đức Chúa Trời,Là Đấng làm nên muôn loài vạn vật. Buổi sáng, hãy đi ra gieo giống;Nhưng buổi chiều, cũng đừng cho tay con nghỉ ngơi.Vì con không biết hạt giống nào sẽ mọc lên tốt hơn,Hạt giống gieo buổi sáng hoặc buổi chiều,Hoặc cả hai đều tốt như nhau. Ánh sáng thật ngọt ngào,Và mắt được nhìn thấy mặt trời thật vui thỏa làm sao! Dù sống được bao nhiêu năm,Hãy vui hưởng những ngày của đời mình,Nhưng hãy nhớ rằng những ngày đen tối cũng nhiều;Và tương lai lắm điều không chắc chắn. Hỡi người tuổi trẻ, hãy vui hưởng thời niên thiếu,Lòng con hãy vui mừng trong tuổi thanh xuân!Hãy bước đi theo sự dẫn dắt của lòng con,Theo sự nhận xét của mắt con.Nhưng hãy biết rằng Đức Chúa Trời sẽ phán xét conDựa trên mọi điều ấy. Hãy xua đuổi phiền muộn ra khỏi lòng con,Và quyên đi những nhức nhối của thể xác,Vì tuổi thanh xuân chóng tàn theo thời gian. Hãy suy tưởng đến Đấng Tạo Hóa khi còn trong tuổi thanh xuân,Trước khi những ngày hoạn nạn chưa đến,Trước những năm mà con không còn thấy vui thỏa nữa; Trước khi ánh sáng mặt trời, mặt trăng, và các ngôi saoTrở nên tối tăm,Và mây lại kéo đến sau cơn mưa; Khi những kẻ canh gác nhà run rẩy,Những người mạnh sức cong khom,Khi các phụ nữ xay cối dừng lại vì ít người,Và các bà nhìn qua cửa sổ không thấy được nữa; Khi hai cánh cửa bên đường đóng lại,Và tiếng cối xay nhẹ dần;Khi người ta thức giấc với tiếng chim hót,Và giọng ca, tiếng hát đều nín lặng; Khi con người e sợ các nơi cao,Và ngại gặp hiểm nguy ngoài đường phố;Khi cây hạnh trổ bông,Cào cào lê lết nặng nề,Và người ta không còn mơ ước gì nữa.Khi con người đi về nơi ở đời đời của mình,Và người tang chế than khóc quanh đường phố; Trước khi dây bạc đứt,Và chén vàng bể,Bình vỡ ra bên suối,Và bánh xe gẫy rời ra bên giếng; Cát bụi trở về với cát bụi,Và tâm linh trở về với Đức Chúa Trời là Đấng đã ban nó. Giảng Sư nói: Thật là phù vân, hư ảo! Hư ảo, phù vân!Trí người không thể nào hiểu nổi mọi việc xảy ra trên đời. Là một nhà hiền triết, Giảng Sư còn tiếp tục dạy dỗ kiến thức cho dân chúng. Ông cân nhắc, nghiên cứu, và hoàn chỉnh nhiều câu châm ngôn. Giảng Sư chuyên tâm tìm kiếm lời lẽ êm tai, tuy nhiên lời lẽ ông viết ra luôn luôn ngay thẳng và chân thật. Lời của người khôn ngoan giống như gậy nhọn của người chăn chiên; những câu châm ngôn sưu tập được giống như đinh đóng cột, do Đấng Chăn Chiên truyền ra. Hỡi con, hãy cẩn trọng về bất cứ điều gì khác ngoài những lời truyền dạy trên. Sách vở viết ra nhiều, không bao giờ chấm dứt. Và nghiên cứu nhiều khiến thể xác mệt mỏi. Con đã nghe hết mọi lời khuyên dạy rồi.Tóm lại,Hãy kính sợ Đức Chúa Trời, và vâng giữ các điều răn Ngài,Vì đó là bổn phận của mọi người. Vì Đức Chúa Trời sẽ xét xử mọi việc,Dù lành hay dữ,Kể cả mọi việc kín giấu. Bài ca tuyệt tác, của Sa-lô-môn. Ước gì chàng hôn tôi với nụ hôn từ miệng chàng!Thật vậy, tình anh ngọt hơn rượu! Dầu thơm của anh tỏa mùi hương ngào ngạt,Người anh thơm như dầu thơm tuôn tràn;Thảo nào các thiếu nữ yêu anh. Xin kéo em theo anh với! Nào, chúng mình cùng chạy!Vua đã đưa tôi vào phòng ngự. Nào, chúng mình hãy hân hoan vui mừng vì anh,Chúng mình hãy ca ngợi tình anh ngon hơn rượu. Các thiếu nữ yêu anh thật phải lắm. Hỡi các thiếu nữ Giê-ru-sa-lem,Da tôi đen giòn, nhưng tôi đẹp.Đen như các trại Kê-đa,Và đẹp như màn trướng của vua Sa-lô-môn. Xin đừng nhìn tôi chằm chặp vì da tôi ngăm đen,Mặt trời đã đốt cháy da tôi.Các anh tôi đã giận tôi,Phân công tôi chăm sóc vườn nho.Còn vườn nho của riêng tôi, tôi lại chẳng chăm sóc. Anh yêu dấu của lòng em, xin cho em biết anh chăn cừu ở đâu,Anh cho chúng nghỉ trưa nơi nào,Kẻo người ta gặp em đi lang thangGần bầy súc vật của các bạn anh. Này cô em xinh đẹp nhất trong các thiếu nữ, nếu em không biết,Hãy noi theo dấu chân đàn cừu,Và chăn đàn dê con của em,Gần bên trại các người chăn. Em yêu dấu của anh, anh ví emNhư ngựa cái kéo xe Pha-ra-ôn. Đôi má em duyên dáng, vòng hoa tai,Cổ em xinh xắn, xâu chuỗi hạt. Chúng mình sẽ làm cho emNhững chiếc vòng vàng nhận hạt bạc. Trong khi vua ngự phòng kín,Dầu cam tòng của tôi tỏa mùi hương thơm ngát. Người yêu tôi, đối với tôi, là túi nhỏ đựng trầm hươngNằm giữa ngực tôi. Người yêu tôi, đối với tôi, là chùm hoa phụng tiênTrong vườn nho Ên-ghê-đi. Ôi, em đẹp biết bao, em yêu dấu của anh!Ôi, em đẹp biết bao,Với đôi mắt bồ câu! Ôi, anh thật đẹp trai, anh yêu của em!Anh phong nhã vô cùng!Giường của chúng mình thật xanh tươi. Xà nhà của chúng mình là cây hương nam,Trần nhà là cây khắc diệp. Em là hoa thủy tiên trong cánh đồng Sa-rôn,Là hoa sen nơi những thung lũng sâu. Em yêu dấu của anh giữa vòng các thiếu nữKhác nào hoa sen giữa đám gai góc. Người yêu của em giữa các thanh niênKhác nào cây táo giữa đám cây rừng.Em thích ngồi dưới bóng mát của chàng,Và trái của chàng ngọt lịm nơi miệng em. Chàng đưa tôi vào phòng yến tiệc,Và phủ lên tôi lá cờ tình yêu. Xin dùng bánh nho khô thêm sức cho tôi,Xin dùng trái táo tẩm bổ tôi,Vì tôi mắc bệnh ái tình. Tay trái người luồn dưới đầu tôi,Tay phải người ôm sát tôi. Hỡi các thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, tôi nài xin các cô,Nhân danh đàn linh dương và nai cái đồng hoang,Xin chớ khuấy động, chớ đánh thức tình yêu,Cho đến khi tình yêu được thỏa nguyện. Nghe nầy: Người yêu tôi!Kìa, chàng đang đến,Nhảy qua các núi,Phóng qua các đồi! Người yêu tôi khác nào linh dương, hoặc nai tơ.Kìa, chàng dừng lại sau vách nhà chúng tôi,Nhìn chăm qua cửa sổ,Ngó ngang qua mắt cáo. Người yêu tôi mời gọi tôi: Em yêu dấu của anh, người đẹp của anh,Hãy chổi dậy và đến! Xem kìa, mùa đông đã qua,Mưa đã dứt hạt, đi khỏi rồi. Hoa nở rộ khắp đất,Mùa ca hát đã đến,Tiếng chim gáy hótVang khắp quê mình. Vả trên cây đổi mầu sắp chín,Nho trổ nụ hương thơm ngào ngạt.Em yêu dấu của anh, người đẹp của anh.Hãy chổi dậy và đến! Bồ câu của anh nơi hốc đá,Nơi sâu kín của vách đá,Cho anh ngắm nhìn mặt em,Cho anh nghe tiếng em,Vì tiếng em dịu dàng,Và mặt em xinh đẹp. Hãy bắt giúp chúng tôi những con chồn,Những con chồn nhỏPhá hại vườn nho,Vì vườn nho chúng tôi đang trổ hoa. Người yêu tôi thuộc về tôi, và tôi thuộc về chàng.Chàng vui thỏa giữa khóm hoa sen. Khi gió chiều hiu hiu thổi,Và bóng chiều trải dài trốn chạy,Anh yêu dấu của em, xin anh trở về,Giống như linh dươngHoặc nai tơTrên dẫy núi Xẻ Đôi. Nằm trên giường ban đêm,Tôi tìm người mà lòng tôi yêu mến.Tôi tìm chàng mà không gặp. Tôi sẽ dậy, đi vòng khắp thành nhiều lần,Rảo qua các đường phố và các quảng trường,Để tìm người mà lòng tôi yêu mến.Tôi tìm chàng mà không gặp. Những người canh gác đi tuần vòng quanh thànhBắt gặp tôi.“Các ông có thấy người mà lòng tôi yêu mến không?” Tôi vừa đi khỏi họ chẳng bao xa,Chợt gặp ngay người mà lòng tôi yêu mến.Tôi ôm chặt lấy chàng, không chịu buông chàng ra,Cho đến khi tôi đưa chàng về nhà mẹ tôi,Về phòng của người đã thai nghén tôi. Hỡi các thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, tôi nài xin các cô,Nhân danh đàn linh dương và nai cái đồng hoang,Xin chớ khuấy động, chớ đánh thức tình yêu,Cho đến khi tình yêu được thỏa nguyện. Ai kia từ sa mạc đi lên,Tựa cột khói,Thơm ngát một dược và nhũ hương,Cùng mọi thứ phấn thơm mua từ xa? Xem kìa, kiệu vua Sa-lô-môn!Sáu mươi dũng sĩ vây quanh kiệu,Thuộc hàng dũng sĩ của Y-sơ-ra-ên. Mọi người đều thạo cầm gươm,Đánh giặc giỏi,Gươm đeo sẵn bên hông,Phòng khi ban đêm gặp nguy hiểm. Vua Sa-lô-môn đặt làm kiệu cho chính mìnhBằng gỗ quý từ rừng Li-ban. Vua làm kiệu có trụ dát bạc,Tàn mạ vàng,Chỗ ngồi mầu đỏ tía.Bên trong kiệu dệt các phong cảnh yêu đương. Các thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy ra đây!Các thiếu nữ Si-ôn, hãy ngắm xem!Vua Sa-lô-môn đội mão triều mẹ vua đội cho vua,Trong ngày cưới của vua,Trong ngày vui của vua. Em yêu dấu, ôi, em xinh đẹp quá,Em xinh đẹp vô cùng!Đôi mắt bồ câu của em lóng lánh bên trong mạng che mặt.Tóc em khác nào đàn dêChạy cuồn cuộn xuống triền núi Ga-la-át. Răng em khác nào đàn cừu sắp hớt lông,Vừa tắm rửa xong đi lên,Cả thảy đi đều từng cặp,Không thiếu một con nào. Môi em như sợi chỉ điều,Miệng em duyên dáng làm sao.Má em như quả lựu xẻ đôiBên trong khăn mạng che. Cổ em như tháp Đa-vítXây có tầng có lớp.Hàng ngàn khiên thuẫn treo nơi đó,Toàn là mộc che thân của bậc dũng sĩ. Ngực em như cặp nai tơ,Con sinh đôi của linh dương,Thỏa vui ăn giữa khóm hoa sen. Khi gió chiều hiu hiu thổi,Và bóng chiều trải dài trốn chạy,Anh sẽ đi lên núi một dược,Đến đồi nhũ hương. Em yêu dấu, toàn thân em xinh đẹp,Không gợn chút tì vết. Hỡi cô dâu, hãy đến với anh từ rặng núi Li-ban,Từ núi Li-ban hãy đến với anh!Hãy xuống từ đỉnh núi A-ma-na,Từ đỉnh Sa-nia và Hẹt-môn!Hãy rời khỏi những hang sư tử,Những núi đầy beo. Ôi em của anh, cô dâu, em đã cướp mất lòng anh,Em đã cướp mất lòng anhVới một cái liếc mắt,Với một hạt châu nơi xâu chuỗi của em. Ôi em của anh, cô dâu, tình em đẹp làm sao!Tình em thật ngọt hơn rượu!Dầu của em tỏa hương thơm hơn tất cả mọi loài cây thơm. Ôi cô dâu, môi em ứa giọt mật!Mật ong và sữa đọng dưới lưỡi em.Quần áo em tỏa hương thơm khác nào hương thơm của rừng núi Li-ban. Em của anh, cô dâu, là vườn đóng kín,Là vườn khóa chặt, là suối niêm phong. Các chồi của em là vườn thạch lựu,Với các loại trái cây ngon nhất,Hoa phụng tiên và cây cam tùng, Cam tùng và nghệ,Xương bồ và quế,Cùng mọi loại cây nhũ hương,Một dược và lô hội,Cùng mọi loài cây thơm nhất. Em là suối nước trong vườn,Là giếng nước tươi mát,Tuôn tràn từ dẫy núi Li-ban. Hỡi gió bắc, hãy nổi dậy!Hỡi gió nam, hãy thổi đến!Hãy thổi vào vườn của ta,Cho hương thơm bay tỏa ra! Ước gì người yêu tôi vào trong vườn chàng,Và ăn các loại trái cây ngon nhất! Em của anh, cô dâu, anh đã vào trong vườn anh!Anh hái một dược và các loài cây thơm của anh,Anh ăn cả tàng cùng với mật ong của anh,Anh uống cả rượu lẫn sữa của anh! Hỡi các bạn, hãy ăn!Hãy uống, hãy say sưa trong tình yêu! Tôi ngủ, nhưng lòng tôi thao thức.Nghe nầy; người yêu tôi gõ cửa! Mở cửa cho anh, em của anh, em yêu dấu của anh,Bồ câu của anh, em toàn mỹ của anh!Vì đầu anh đẫm sương móc,Mái tóc anh thấm giọt sương đêm. Em đã cởi áo ra,Lẽ nào mặc áo lại?Em đã rửa chân rồi,Lẽ nào làm lấm lại? Người yêu tôi luồn tay qua lỗ cửa,Lòng dạ tôi rạo rực vì chàng. Tôi chỗi dậy để mở cửa cho người yêu tôi,Đôi tay tôi rịn một dược,Các ngón tay tôi nhểu một dược chẩy ròngTrên cả chốt then. Tôi mở cửa cho người yêu tôi,Nhưng người yêu tôi đã quay đi khỏi rồi.Tôi điếng người khi chàng bỏ đi.Tôi tìm chàng nhưng không gặp,Tôi gọi chàng, nhưng chàng không đáp lại. Những người canh gác đi tuần vòng quanh thànhBắt gặp tôi,Họ đánh đập tôi, gây thương tích cho tôi.Những người canh gác tường thành lột luôn cả áo choàng tôi. Hỡi các thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, tôi nài xin các cô,Nếu các cô gặp người yêu tôi,Các cô sẽ nói gì với chàng?Xin nhắn giúp rằng tôi mắc bệnh tương tư. Người yêu cô có gì hơn người,Hỡi người đẹp nhất trong các thiếu nữ?Người yêu cô có gì hơn người,Để cô phải nài xin chúng em như vậy? Người yêu tôi sáng rỡ mặt mày, đỏ da thắm thịt,Nổi bật giữa muôn người. Đầu chàng là vàng tinh ròng;Mái tóc chàng, những cành chà là đen như quạ. Đôi mắt chàng khác nàoBồ câu bên suối nước.Răng chàng tắm trong sữa,Mọc đều đầy đủ. Đôi má chàng như luống rau thơm,Tỏa hương thơm ngát.Môi chàng là hoa senỨa một dược chảy ròng. Cánh tay chàng, những vòng vàngNhận ngọc Tạt-sít.Thân chàng, một khối ngà bóng nhẵn nhụi,Cẩn ngọc xanh. Chân chàng, những cột thạch cao tuyết hoaDựng trên đế vàng ròng.Tướng mạo chàng như dẫy núi Li-ban,Chọn lọc như cây hương nam. Miệng chàng ngọt dịu,Toàn người chàng đáng yêu.Hỡi các thiếu nữ Giê-ru-sa-lem,Người yêu tôi là thể ấy, đấy là người tôi yêu quý. Người yêu cô đi đâu,Hỡi người đẹp nhất trong số người nữ?Người yêu cô quay qua hướng nào,Để chúng tôi cùng tìm giúp cô? Người yêu tôi đi xuống vườn chàng,Đến các luống rau thơm,Thỏa vui ăn trong vườn,Và hái hoa sen. Tôi thuộc về người yêu tôi,Và người yêu tôi thuộc về tôi,Chàng ăn thỏa vui giữa khóm hoa sen. Em yêu dấu của anh, em xinh đẹp như thành Thiệt-sa,Duyên dáng như thành Giê-ru-sa-lem,Đáng sợ như các vì sao. Quay mắt đi, đừng nhìn anh nữa,Vì mắt em làm anh bối rối.Tóc em khác nào đàn dê,Chạy cuồn cuộn xuống triền núi Ga-la-át. Răng em như đàn chiên cái,Vừa tắm rửa xong đi lên.Cả thảy đi đều từng cặp,Không thiếu một con nào. Má em như quả lựu xẻ đôiBên trong khăn mạng che. Sáu mươi hoàng hậu,Tám mươi cung phi,Và vô số nữ tì. Nhưng bồ câu của anh, em toàn mỹ của anh, có một không hai!Nàng chỉ có một không hai đối với mẹ nàng,Nàng sáng rực trên hết đối với người sanh đẻ nàng.Các nữ tỳ thấy nàng đều xưng nàng có phước,Các hoàng hậu và cung phi đều ca ngợi nàng: “Người nữ kia là ai, lộ ra như hừng đông,Đẹp như mặt trăng, sáng rực như mặt trời,Dễ sợ như các vì sao?” Anh xuống vườn hạnh đào,Ngắm nhìn chồi xanh trong trũng,Xem thử nho có nẩy lộc,Và thạch lựu có trổ hoa! Em chưa biết gì,Đã lọt vào xe của nhà quyền quý. Hãy quay về, hãy quay về, hỡi cô Su-la-mít!Hãy quay về, hãy về, cho chúng tôi ngắm nhìn cô! Sao các người lại muốn ngắm nhìn cô Su-la-mítNhư thể nhìn điệu múa của hai đội quân? Đôi chân em mang dép đẹp làm sao,Hỡi cô gái nhà quyền quý!Vòng vế em khác nào vòng trang sức,Công trình của nghệ sĩ tài ba! Rún em, một cái chén tròn,Không được thiếu rượu pha thơm ngon!Bụng em, một đống lúa mì,Có hoa sen rào quanh. Ngực em như cặp nai tơ,Con sinh đôi của linh dương. Cổ em như tháp ngà.Đôi mắt em là hồ nước tại Hết-bôn,Bên cổng Bát-Ra-bim.Mũi em như tháp núi Li-banNhìn xuống thành Đa-mách. Đầu em như núi Cạt-mên,Tóc em xõa dài mầu tía,Vua mê mẩn giam cầm trong suối tóc. Ôi, em xinh đẹp, em duyên dáng làm sao!Em yêu dấu, khiến lòng người vui thỏa! Này, vóc dáng em tựa thân cây,Ngực em như chùm chà là. Anh tự nhủ: “Ta phải trèo lên cây,Bám vào các tầu có chùm chà là.Ngực em sẽ như những chùm nho,Và hơi thở em thơm như quả táo. Miệng em như rượu hảo hạng. Chảy nhẹ nhàng cho người em yêu,Tràn qua môi những người say ngủ. Tôi thuộc về người yêu tôi,Và chàng khao khát tôi tha thiết. Nào, anh yêu dấu, ta hãy ra ngoài đồng,Ngủ đêm bên các chùm hoa phụng tiên. Ta hãy sớm ra thăm các vườn nho,Xem thử nho có nảy lộc,Nụ có nở,Thạch lựu có trổ hoa.Tại đó em sẽ yêu anh tha thiết. Táo tình yêu xông mùi thơm ngát;Tại nơi ngõ ra vào của ta có đủ mọi thứ trái cây ngon nhất,Cả mới lẫn cũ, mà em đã dành riêng cho anh,Anh yêu dấu của em! Ước gì anh là anh ruột của em,Cùng bú vú mẹ em!Để khi gặp anh ngoài đường,Em có thể hôn anhMà không bị khinh chê. Em sẽ dẫn anh,Đưa anh về tận nhà mẹ em,Anh sẽ dạy dỗ em,Em sẽ mời anh uống rượu pha vị thơm ngon,Uống nước cốt thạch lựu của em. Tay trái chàng luồn dưới đầu tôi,Tay phải chàng ôm sát tôi. Hỡi các thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, tôi nài xin các cô,Xin chớ khuấy động, chớ đánh thức tình yêu,Cho đến khi tình yêu được thỏa nguyện! Ai kia từ sa mạc đi lên,Tựa mình vào người yêu của nàng? Dưới cây táo, em đã gợi tình yêu anh dậy;Nơi ấy, mẹ anh đã thụ thai anh,Nơi ấy, người sanh ra anh đã chuyển bụng quặn thắt. Xin đặt em như chiếc ấn trong lòng anh,Như con dấu nơi cánh tay anh.Vì tình yêu mạnh như Sự Chết,Lòng nhiệt thành khắc nghiệt như Âm Phủ.Mũi tên của tình yêu là mũi tên lửa,Ngọn lửa từ CHÚA. Nước lũ không thể dập tắt tình yêu,Sông sâu cũng không thể nhận chìm.Ví có người nào đem gia tài mình đổi lấy tình yêu,Cũng sẽ bị khinh chê thậm tệ. Chúng tôi có một cô em gái,Em còn nhỏ, chưa có ngực.Chúng tôi phải làm gì cho em gái chúng tôi,Người ta dạm hỏi? Nếu em là bức tường thành,Chúng tôi sẽ xây tháp bạc trên tường.Nếu em là cánh cửa,Chúng tôi sẽ đóng chắc cửa bằng ván hương nam. Em là bức tường thành,Ngực em khác nào những ngọn tháp.Vì thế, trước mắt chàng,Em là người tìm được bình an. Vua Sa-lô-môn có một vườn nho ở Ba-anh Ha-môn.Vua giao vườn cho người canh giữ.Người nào thu hoa lợi vườnPhải trả cho vua ngàn miếng bạc. Vườn nho của tôi, dành cho riêng tôi.Vua Sa-lô-môn, ngàn miếng bạc về phần vua,Còn hai trăm cho người canh giữ hoa mầu. Hỡi em đang ở trong vườn,Bạn bè đang lắng nghe!Cho anh nghe tiếng em! Anh yêu dấu, trốn đi anh,Giống như linh dươngHoặc nai tơTrên núi đồi hương thơm. Đây là các khải tượng mà tiên tri I-sa, con trai A-mốt, thấy về Giu-đa và Giê-ru-sa-lem trong thời các vua Ô-xia, Giô-tham, A-cha và Ê-xê-chia của Giu-đa. Hỡi các từng trời, hãy nghe, hỡi đất hãy lắng tai nghe.Vì CHÚA phán:“Ta đã nuôi nấng và trưởng dưỡng con cái,Nhưng chúng nó chống đối Ta. Bò biết chủ mình,Lừa biết máng của chủ.Nhưng Y-sơ-ra-ên không biết,Dân ta không hiểu.” Ôi, một nước tội lỗi,Một dân phạm tội nặng nề.Dòng dõi của những người gian ác,Con cái làm điều bại hoại.Họ đã từ bỏ CHÚA,Khinh bỉ Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.Họ đã quay mặt đi; bước giật lùi. Tại sao ngươi muốn bị đánh nữa?Ngươi vẫn tiếp tục phản loạn sao?Mọi đầu đều bị thương tích,Mọi lòng đều bị đau đớn. Từ bàn chân đến đỉnh đầu,Không có chỗ nào lành.Chỉ toàn là vết bầm, lằn roi,Vết thương chảy máu;Chưa được rửa sạch, chưa băng bóVà chưa được xức dầu cho dịu. Đất nước ngươi hoang tàn,Các thành bị lửa thiêu đốt.Người ngoại quốc ăn nuốt ruộng đất ngươiNgay trước mặt ngươi.Nó sẽ bị hoang tàn như bị ngoại bang lật đổ. Con gái Si-ôn bị bỏ lạiNhư chòi canh trong vườn nho,Như lều canh nơi ruộng dưa,Như thành bị vây. Nếu CHÚA Vạn QuânKhông chừa lại cho chúng ta một ít người sống sót,Thì chúng ta đã như thành Sô-đômVà trở nên như Gô-mô-rơ rồi. Hỡi giới lãnh đạo Sô-đôm,Hãy nghe lời CHÚA phán.Hỡi dân Gô-mô-rơ,Hãy lắng tai nghe Kinh Luật của Đức Chúa Trời chúng ta. CHÚA phán: “Muôn vàn tế lễ của các ngươiCó nghĩa gì đối với Ta?Ta đã chán ngán các tế lễ thiêuChiên đực, mỡ thú vật mập,Ta không vui về huyết củaBò đực, chiên con và dê đực. Khi các ngươi đến hiện diện trước mặt Ta,Ai đòi hỏi thứ này từ tay các ngươi?Là người chà đạp các hành lang Ta. Đừng dâng tế lễ chay vô ích cho Ta nữa;Ta ghét mùi hương;Ngày trăng mới, ngày Sa-bát, các lễ hội,Ta không chịu nổi các ngày lễ trọng thể cùng tội ác. Linh hồn Ta ghét các ngày trăng mớiVà các kỳ lễ hội của các ngươi.Các lễ ấy trở thành gánh nặng cho Ta,Ta lấy làm mệt mỏi để gánh chúng. Khi các ngươi đưa tay lên cầu nguyện,Ta che mắt ta khỏi các ngươi;Dù khi các ngươi cầu nguyện nhiều,Ta sẽ chẳng nghe.Tay các ngươi đầy máu. Hãy tắm rửa, hãy làm cho mình tinh sạch.Hãy loại bỏ những việc ácKhỏi trước mắt Ta.Đừng làm ác nữa. Hãy học làm điều thiện,Tìm kiếm công bình,Sửa sai kẻ hà hiếp,Binh vực kẻ mồ côi,Biện hộ cho người góa bụa.” CHÚA phán:“Bây giờ, chúng ta hãy đến, tranh luận với nhau:Dù tội lỗi ngươi đỏ như vải điềuSẽ trở nên trắng như tuyết.Dù đỏ như màu đỏ thẵm,Sẽ trắng như lông chiên. Nếu các ngươi mong muốn và vâng lời,Các ngươi sẽ ăn sản vật tốt lành của đất. Nhưng nếu các ngươi từ khước và phản loạnCác ngươi sẽ bị gươm ăn nuốt;”vì miệng CHÚA đã phán. Thế nào một thành trung nghĩaĐã trở thành gái điếm?Thành vốn đầy công bìnhVà công chính cư ngụ,Nhưng nay toàn những kẻ giết người. Bạc của ngươi đã biến thành cặn bã,Rượu nho ngươi đã bị pha lẫn nước. Các hoàng tử của ngươi là những kẻ phản loạn,Là bạn với phường trộm cướp.Mỗi người đều yêu của hối lộ,Chạy theo quà biếu.Họ không bênh vực kẻ mồ côi,Không xét duyên cớ cho người góa bụa. Vì vậy, CHÚA Vạn Quân,Đấng Quyền Năng của Y-sơ-ra-ên phán:“Này, Ta sẽ rửa hận đối với những kẻ đối nghịch TaVà báo thù các kẻ thù Ta. Ta sẽ trở tay chống ngươi,Ta sẽ luyện lọc cặn bã ngươi như với nước tro.Và tinh luyện mọi tạp chất nơi ngươi. Ta sẽ phục hồi các quan án của các ngươi như thuở xưa,Các cố vấn của các ngươi như lúc ban đầu.Bấy giờ, ngươi sẽ được gọi làThành công chính,Thành trung nghĩa.” Si-ôn sẽ được cứu chuộc bởi sự công bình,Và những người trong thành ăn năn nhờ sự công chính. Nhưng những kẻ phản loạn cùng người tội lỗi sẽ bị đánh tanVà những kẻ từ bỏ CHÚA sẽ bị tiêu diệt. “Vậy các ngươi sẽ hổ thẹn vì các cây sồiMình ưa thíchVà xấu hổ vì các vườn câyMình đã chọn lựa. Vì các ngươi sẽ như cây sồi lá khô héo,Như vườn cây không có nước. Người mạnh mẽ sẽ trở nên vỏ khô,Công việc của nó như mồi lửa.Cả hai sẽ cùng nhau cháy,Không ai dập tắt được.” Lời mà I-sa, con trai A-mốt, đã thấy về Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. Việc sẽ xảy ra vào những ngày sau cùng:Núi của nhà CHÚA sẽ đượcVững lập trên đỉnh các núi,Được nâng cao hơn các đồi,Và mọi quốc gia sẽ đổ về đó. Nhiều dân tộc sẽ đến và nói:“Hãy đến, chúng ta hãy lên núi CHÚA,Đến nhà Đức Chúa Trời của Gia-cốp.Ngài sẽ dạy chúng ta đường lối Ngài,Để chúng ta đi trong đường Chúa.”Vì Kinh Luật sẽ ra từ Si-ônVà lời của CHÚA sẽ đến từ Giê-ru-sa-lem. Ngài sẽ xét đoán giữa các quốc giaVà phân xử cho nhiều dân tộc.Và họ sẽ lấy gươm rèn thành lưỡi cày,Lấy giáo rèn thành lưỡi liềm.Nước này sẽ không tuốt gươm ra nghịch cùng nước khác;Họ sẽ không còn học tập chiến tranh. Hỡi nhà Gia-cốp, hãy đến.Chúng ta hãy đi trong ánh sáng của CHÚA. Thật vậy, Ngài đã từ bỏ dân Ngài,Là nhà Gia-cốp,Vì họ đầy dẫy các thói tục đông phươngVà thầy bói như người Phi-li-tin;Bắt tay với con cái người ngoại quốc. Đất họ đầy bạc và vàng,Châu báu vô tận,Đất họ đầy ngựaVà xe ngựa vô số. Đất họ đầy tượng thần;Họ quì lạy đồ tay mình làm ra,Là vật ngón tay họ đã tạo nên. Nhưng phàm nhân sẽ bị nhục nhã,Loài người sẽ bị hạ thấp.Nên, xin Ngài đừng tha thứ chúng. Hãy chui vào trong đá,Trốn trong bụi đấtĐể tránh đối diện với sự kinh hoàng từ CHÚAVà vinh quang của sự uy nghiêm Ngài. Con mắt kiêu căng của phàm nhân sẽ bị nhục nhã;Sự cao ngạo của loài người sẽ bị hạ thấp.Vào ngày ấy chỉ một mình CHÚA sẽ được tôn cao. Vì có một ngày CHÚA Vạn Quân sẽ đến nghịchCùng tất cả những kẻ kiêu căng,Kẻ cao ngạo cùng tất cả những kẻ kiêu kỳ;Nó sẽ bị hạ thấp; Cũng sẽ nghịch cùng tất cả cây tùng của Li-ban, cao ngạo và kiêu kỳ;Cùng tất cả cây sồi của Ba-san. Cũng sẽ nghịch cùng tất cả núi cao,Tất cả đồi lớn, Cũng sẽ nghịch cùng tất cả tháp cao,Mọi thành vững chắc, Cũng sẽ nghịch cùng tất cả tầu bè của Ta-rê-si,Mọi tàu sang trọng. Sự kiêu căng của phàm nhân sẽ bị hạ thấp;Sự cao ngạo của loài người sẽ bị nhục nhã.Vào ngày ấy chỉ một mình CHÚA sẽ được tôn cao. Và các tượng thần sẽ hoàn toàn biến mất. Người ta sẽ chui vào hang đá,Vào hầm dưới đấtĐể tránh đối diện với sự kinh hoàng từ CHÚAVà vinh quang của sự uy nghiêm NgàiKhi Ngài đứng lên làm rung chuyển quả đất. Vào ngày ấy, người ta sẽ némCho chuột, cho dơiNhững tượng thần bằng bạc, bằng vàngMà người ta đã làm ra để thờ lạy, Đặng chui vào hang đá,Vào khe đáĐể tránh đối diện với sự kinh hoàng từ CHÚAVà vinh quang của sự uy nghiêm NgàiKhi Ngài đứng lên làm rung chuyển quả đất. Chớ nương cậy nơi phàm nhân,Là loài chỉ có hơi thở nơi lỗ mũi;Chúng có gì đáng kể đâu? Vì nầy, CHÚA,CHÚA Vạn QuânSẽ cất đi nguồn cung cấp cùng gậy chốngKhỏi Giê-ru-sa-lem và Giu-đa,Tức là mọi nguồn cung cấp bánh và nước; Những anh hùng, chiến sĩ,Quan án, tiên tri,Thầy bói lẫn trưởng lão, Những đại đội trưởng và những người cao cấp,Những cố vấn, những nghệ sĩ tài ba,Những tay phù thủy chuyên nghiệp. Rồi Ta sẽ cho những cậu bé làm lãnh đạo,Trẻ con cai trị họ. Dân chúng hà hiếp nhau,Người chống người, người chống kẻ lân cận mình.Con nít láo xược với người già cả;Kẻ hèn hạ chống lại người tôn trọng. Khi ấy một người sẽ nắm lấy một anh emTrong nhà cha mình và nói:“Anh có cái áo choàng, anh hãy lãnh đạo chúng tôi.Hãy ra tay cai quản cái đống đổ nát này.” Vào ngày ấy, người kia sẽ lên tiếng bảo:“Tôi không phải là người cứu chữa;Trong nhà tôi không có bánh cũng không có áo choàng,Đừng lập tôi làm lãnh đạo dân chúng.” Khi Giê-ru-sa-lem nghiêng ngả,Giu-đa sụp đổVì lời nói và việc làm của họ đều chống lại CHÚA;Coi thường sự hiện diện vinh quang của Ngài. Nét mặt họ làm chứng nghịch cùng họ.Chúng nó công bố tội lỗi mình như thành Sô-đôm,Chẳng che giấu gì.Khốn nạn cho linh hồn họVì họ đã mang tai họa đến cho mình. Hãy nói với người công chính rằng: Phước cho họ.Vì họ sẽ hưởng hoa quả của việc làm mình. Khốn cho kẻ gian ác! Họa cho chúng.Vì tay chúng đã làm gì, chúng phải mang lấy điều ấy. Ôi dân ta! Con nít hà hiếp chúng,Đàn bà cai trị họ.Ôi dân ta! Những kẻ lãnh đạo ngươi đã hướng dẫn ngươi lầm đường,Làm cho ngươi lạc lối. CHÚA đăng đường biện luận,Ngài đứng dậy xét đoán các dân. CHÚA kết ánCác trưởng lão và lãnh đạo trong dân rằng:“Chính các ngươi đã ăn nuốt vườn nho;Đồ cướp đoạt của người nghèo đang ở trong nhà các ngươi. Các ngươi có ý gì mà đập nát dân ta?Nghiền nát mặt người nghèo?”CHÚA Vạn Quân phán. CHÚA phán:“Vì con gái Si-ôn kiêu kỳ,Ngẩng cổ cao đi lại,Liếc mắt đưa tình,Bước đi õng ẹo,Bước chân khoa loảng xoảng. Chúa làm cho da đầu con gái Si-ôn đóng vảy,CHÚA làm đỉnh đầu của họ sói.” Vào ngày ấy Chúa sẽ cất đi các nữ trang của họ: vòng mắt cá chân, khăn quấn đầu, lược cài tóc, hoa tai, vòng tay, lúp, mão, dây chuyền mắt cá, khăn quàng vai, hộp hương, bùa đeo, nhẫn, vòng mũi, áo lễ, áo khoác, áo ngoài, ví tay gương soi mặt, áo, khăn đội đầu và khăn che mặt Sẽ có mùi hôi thay vì nước hoa;Sẽ có dây dừa thay vì khăn quàng vai;Đầu sói thay vì tóc mượt mà;Vải thô quấn mình thay vì áo dài sang trọng,Hổ thẹn thay cho sự xinh đẹp. Giới nam nhi của ngươi sẽ ngã vì gươm,Các dũng sĩ ngươi sẽ chết nơi chiến trận. Các cổng nó sẽ than khóc,Sầu thảm. Nó sẽ ngồi trên đất hoang tàn. Vào ngày ấy, bảy phụ nữSẽ nắm lấy một người đàn ôngVà nói: “Chúng tôi ăn bánh của chúng tôi,Mặc đồ của mình,Chỉ xin được mang tên người,Xin cất sự ô nhục của chúng tôi đi.” Vào ngày ấy, chồi của CHÚA sẽ đẹp đẽ và vinh quang; hoa quả của đất sẽ là niềm hãnh diện và huy hoàng cho những người sống sót trong Y-sơ-ra-ên. Những người còn sót lại ở Si-ôn, những kẻ còn lại trong Giê-ru-sa-lem sẽ được gọi là thánh, tức là tất cả những người được ghi còn sống tại Giê-ru-sa-lem. Khi Chúa, bởi thần linh thiêu đốt, sẽ rửa sạch sự ô uế của con gái Si-ôn và tẩy sạch vết máu của Giê-ru-sa-lem khỏi giữa vòng họ. Rồi CHÚA sẽ tạo ra một đám mây vào ban ngày, một đám khói và ngọn lửa soi sáng cháy bùng vào ban đêm trên khắp núi Si-ôn và trên hội chúng. Thật vậy, có một bức màn trên khắp sự vinh quang. Nó sẽ như nơi trú ẩn làm bóng che nắng ban ngày và làm nơi trú để tránh mưa gió. Ta sẽ hát cho người yêu dấu của TaMột bài tình ca về vườn nho của người.Người yêu dấu của Ta có một vườn nhoTrên ngọn đồi tươi tốt. Người đào xới, dọn sạch đá sỏiVà trồng loại nho chọn lọc.Người xây một tháp canh giữa vườn,Đào một hầm ép nho nơi ấy.Người trông mong nó sanh nho tốtNhưng nó sinh nho hoang. “Này, hỡi cư dân thành Giê-ru-sa-lem và người Giu-đa,Hãy xét giữa Ta và vườn nho Ta. Có điều gì cần làm thêm cho vườn nho TaMà Ta không làm cho nó chăng?Khi Ta trông mong nó sinh nho tốtThì nó lại sinh nho hoang. Này, Ta sẽ bảo các ngươiĐiều Ta sẽ làm cho vườn nho Ta.Ta sẽ phá ràoThì nó sẽ bị ăn nuốt.Ta sẽ đập đổ tườngThì nó sẽ bị chà đạp. Ta sẽ làm cho nó hoang phế,Không tỉa cành, không vun xới;Cỏ gai và bụi gai sẽ mọc trên nó.Ta sẽ ra lệnh cho mâyKhông mưa xuống nữa. Vì vườn nho của CHÚA Vạn QuânLà nhà Y-sơ-ra-ênVà những người của Giu-đaLà những cây trồng Ngài ưa thích.Ngài mong công bình nhưng kìa, chỉ thấy đổ máu.Ngài mong công chính nhưng kìa, chỉ thấy tiếng kêu la. Khốn cho các ngươi! Những người mua thêm nhà,Tậu thêm ruộngCho đến khi hết đấtVà ngươi phải cư trú một mình trong xứ.” CHÚA Vạn Quân phán vào tai ta:“Chắc chắn nhiều nhà cửa sẽ bị hoang phế,Những nhà lớn và đẹp không có người ở. Vì vườn nho mười mẫu chỉ sản xuất được một bình rượu.Mười thùng hạt giống chỉ thu được một thùng thóc.” Khốn cho những kẻ từ sáng sớmĐã chạy theo rượu,Đến đêm khuyaVẫn bị rượu thiêu đốt. Trong tiệc tùng chúng có đàn hạc, đàn lia,Trống, kèn và rượu nữa.Nhưng chúng không để ý đến việc làm của CHÚA,Cũng chẳng thấy công việc của tay Ngài. Cho nên, dân Ta phải bị lưu đàyVì thiếu hiểu biết,Giới thượng lưu của họ chết chóc vì đói,Dân chúng bị nung đốt vì khát. Cho nên, sự thèm thuồng của Âm phủ đã gia tăng,Miệng nó mở rộng vô cùng.Những người cao sang và dân chúng;Đám đông và những kẻ hân hoan trong thành đều xuống đó. Phàm nhân phải cúi đầu,Loài người bị hạ thấp,Con mắt kẻ kiêu căng phải hạ thấp. Nhưng CHÚA Vạn Quân sẽ được tôn cao bằng sự công bình.Và Đức Chúa Trời thánh khiết sẽ bày tỏ Ngài là thánh trong sự công chính. Bấy giờ các chiên con sẽ ăn cỏ như tại đồng cỏ mình.Còn chiên thì ăn nơi hoang tàn của kẻ giàu Khốn cho kẻ kéo theo sự vi phạm bằng sợi dây gian dối;Và kéo theo tội lỗi như dây kéo xe. Chúng nói: “Ngài hãy mau mau,Hãy vội thực hiện công việc điĐể chúng ta thấy.Chương trình của Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên hãy đến gần,Hãy thành tựuĐể chúng ta biết.” Khốn cho kẻ gọi ác là thiệnVà thiện là ác;Lấy tối làm sángVà sáng làm tối,Lấy đắng làm ngọtVà ngọt làm đắng. Khốn cho kẻ tự coi mình là khôn ngoan;Tự thấy mình là lanh lợi. Khốn cho kẻ anh hùng trong việc uống rượuVà là kẻ dũng sĩ nhờ việc pha rượu. Chúng tha kẻ gian ác vì của hối lộNhưng từ khước công bình cho người vô tội. Cho nên, như ngọn lửa thiêu đốt gốc rạ,Như cỏ khô chìm sâu trong ngọn lửaThì gốc rễ của họ cũng sẽ mục nát,Hoa quả họ cũng sẽ bay lên như tro bụi.Vì họ đã từ khước Kinh Luật của CHÚA Vạn QuânVà khinh bỉ lời của Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên. Vì vậy, CHÚA nổi giận cùng dân Ngài,Giáng tay đánh chúng.Núi non rung chuyển;Xác chết của họ như phân giữa đường.Dầu vậy, cơn giận của Chúa cũng không nguôi,Ngài vẫn giương tay ra nghịch cùng họ. Ngài sẽ giương cao ngọn cờ cho các nước xa xôi,Huýt sáo kêu gọi họ từ tận cùng quả đất,Và kìa, chúng nhanh nhẹn,Vội vã kéo đến. Trong đám chúng không một người mệt mỏi, vấp ngã,Không ai buồn ngủ hay ngủ mê,Khố của chúng không sút,Dây giày không đứt. Mũi tên của chúng bén nhọn,Tất cả cung đều giương lên.Móng ngựa của chúng như đá lửa,Bánh xe như gió lốc. Tiếng gầm như sư tử,Tiếng rống như sư tử tơ.Chúng gầm gừ bắt mồi và đem đi;Không ai giải cứu được. Vào ngày ấy, chúng sẽ gầm thétNhư biển cả gầm thét.Và nếu ai nhìn vào đất ấy,Kìa, chỉ toàn là tối tăm và hoạn nạn.Ngay cả ánh sáng cũng bị mây che tối. Vào năm Vua Ô-xia băng hà, tôi thấy Chúa ngồi trên ngai cao cả, tôn quý; thân áo Ngài đầy dẫy đền thờ. Phía trên ngai có các sê-ra-phim đứng hầu. Mỗi sê-ra-phim có sáu cánh, hai cánh che mặt, hai cánh che chân và hai cánh để bay. Các sê-ra-phim gọi nhau và hô lên:“Thánh thay, thánh thay, thánh thay là CHÚA Vạn Quân,Vinh quang Ngài đầy dẫy khắp đất.” Vì tiếng hô, các then cài nơi ngưỡng cửa rung chuyển, và đền đầy dẫy khói. Tôi nói: “Khốn nạn cho tôi! Tôi chết mất! Vì tôi là người có môi bẩn thỉu, sống giữa một dân có môi bẩn thỉu; vì mắt tôi đã thấy Vua, tức là CHÚA Vạn Quân.” Bấy giờ một trong các sê-ra-phim bay đến tôi, tay cầm than lửa đỏ đã dùng cặp gắp từ bàn thờ. Sê-ra-phim đó sờ vào miệng tôi và bảo: “Nầy, cái nầy đã đụng đến môi ngươi; lỗi ngươi đã được xóa, tội ngươi đã được tha.” Và tôi nghe tiếng Chúa phán: “Ta sẽ sai ai đi? Ai sẽ đi cho chúng ta?” Tôi thưa: “Dạ, có tôi đây, xin hãy sai tôi.” Ngài phán: “Hãy đi và nói với dân này rằng:‘Nghe thì cứ nghe, nhưng không hiểu;Nhìn thì cứ nhìn nhưng không nhận biết.’ Hãy làm cho lòng dân này chai lì,Tai nặng,Mắt nhắm,E rằng mắt chúng nó thấy được,Tai chúng nó nghe được,Lòng chúng nó hiểu đượcVà quay trở lại rồi được chữa lành.” Tôi hỏi: “Lạy Chúa, cho đến khi nào?”Ngài đáp: “Cho đến khi các thành hoang vắngKhông người cư ngụ,Nhà cửa không người ở,Đất ruộng hoàn toàn hoang tàn. Cho đến khi CHÚA đã đuổi dân đi xa,Nhiều nơi trong xứ bị hoang phế. Dù một phần mười dân cư còn lại tại đó,Họ cũng sẽ bị thiêu hủy.Như cây dẻ, cây sồiKhi bị đốn vẫn còn gốcThì dòng giống thánh là gốc của nó.” Vào thời A-cha, con Giô-tham, cháu Ô-xia, vua nước Giu-đa; vua nước Sy-ri là Rê-xin và Phê-ca, con Rê-ma-lia, vua nước Y-sơ-ra-ên, tiến lên đánh thành Giê-ru-sa-lem nhưng không chiếm được. Nhà Đa-vít được bảo rằng: “Sy-ri liên kết với Ép-ra-im.” Bấy giờ lòng A-cha và dân chúng đều rúng động như cây trên rừng trước cơn gió. CHÚA phán cùng I-sa rằng: “Ngươi và con trai ngươi, Sê-a Gia-súp hãy đi đón A-cha tại cuối đường cống Ao Thượng, trên đường đi đến đám ruộng thợ dệt. Hãy nói với người: ‘Hãy cẩn thận, hãy yên lặng, chớ sợ, đừng mất bình tĩnh vì hai khúc củi cháy bốc khói, tức là cơn giận dữ của Rê-xin, Sy-ri và con trai Rê-ma-lia. Vì Sy-ri, Ép-ra-im và con trai Rê-ma-lia đồng mưu hại ngươi.’” Chúng nói: “Chúng ta hãy lên đánh Giu-đa, làm cho nó kinh hoàng, chiếm cứ nó cho chúng ta và lập con trai Ta-bê-ên lên làm vua tại đó.” Vì thế, CHÚA phán:“‘Điều đó sẽ không thành;Nó sẽ không xảy ra. Vì đầu của Sy-ri là Đa-mách,Đầu của Đa-mách là Rê-xin.Trong vòng sáu mươi lăm nămÉp-ra-im sẽ tiêu tan, không còn là một dân nữa. Đầu của Ép-ra-im là Sa-ma-ri,Đầu của Sa-ma-ri là con trai Rê-ma-lia.Nếu các ngươi không vững tin,Các ngươi sẽ không đứng vững được.’” CHÚA lại phán cùng A-cha: “Hãy xin CHÚA, Đức Chúa Trời ngươi một dấu hiệu, hoặc sâu tận địa ngục hay cao tận thiên đàng.” A-cha nói: “Tôi sẽ không xin cũng không thử CHÚA.” I-sa đáp: “Hỡi nhà Đa-vít, hãy nghe đây, làm phiền người ta các ngươi cho là việc nhỏ mọn lắm sao? nay lại còn làm phiền Đức Chúa Trời ta nữa? Vậy, chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu hiệu, nầy, một trinh nữ sẽ mang thai, sinh một con trai và đặt tên là Em-ma-nu-ên. Nó sẽ ăn sữa đông và mật. Khi nó biết bỏ điều ác và chọn điều thiện. Vì trước khi đứa trẻ biết bỏ điều ác và chọn điều thiện thì nước của hai vua mà người sợ sẽ bị bỏ hoang. CHÚA sẽ đem đến cho các ngươi, cho dân các ngươi, cho nhà tổ tiên các ngươi những ngày chưa từng có như vậy từ khi Ép-ra-im tách rời khỏi Giu-đa, tức là đem vua A-si-ri đến.” Vào ngày ấy, CHÚA sẽ huýt sáo gọi ruồi từ các nguồn suối Ai-cập, và gọi ong từ đất A-si-ri. Chúng sẽ đến và tất cả sẽ đậu trong các hẻm núi sâu, nơi các hốc đá, trên các bụi gai và ao nước. Vào ngày ấy Chúa sẽ dùng dao cạo thuê từ bên kia sông tức là Vua A-si-ri để cạo đầu, cạo lông chân và cũng cạo sạch râu ngươi luôn. Vào ngày ấy một người sẽ nuôi một con bò cái tơ và hai con cừu. Người ta sẽ ăn sữa đông vì chúng cung cấp sữa dư dật. Vì tất cả những người còn sót lại trong nước sẽ ăn sữa đông và mật. Vào ngày ấy, tất cả những nơi vốn có cả ngàn cây nho trị giá cả ngàn nén bạc sẽ mọc toàn cây gai và bụi gai. Người ta sẽ mang cung tên theo khi đến đó vì cả xứ đều đầy cây gai và bụi gai. Người ta sẽ không đến tất cả các đồi vốn được cày cuốc vì sợ gai góc và bụi gai, nhưng sẽ thả bò và cho cừu giẫm. CHÚA phán cùng tôi: “Hãy lấy một tấm bảng lớn, viết trên đó bằng loại chữ thường: Ma-he Sa-la Hát-bát. Và tôi chọn cho tôi các nhân chứng đáng tin cậy, tức là U-ri, thầy tế lễ và Xa-cha-ri, con trai Giê-bê-rê-kia.” Sau đó tôi đến với nữ tiên tri, người mang thai và sinh một đứa con trai. CHÚA phán cùng tôi: “Hãy đặt tên nó là Ma-he Sa-la Hát-bát. Vì trước khi đứa bé biết gọi: Cha ơi! Mẹ ơi! thì của cải của Đa-mách và của cướp của Sa-ma-ri sẽ bị lấy đem đến trước mặt vua A-si-ri.” CHÚA lại phán cùng tôi: “Vì dân này từ khướcDòng nước chảy dịu dàng từ Si-lô-amNhưng vui mừng về Rê-xinVà con trai Rê-ma-lia. Cho nên, này, Chúa sẽ đemNước lụt mạnh mẽ và nhiều đến trên họ,Tức là vua A-si-ri và tất cả vinh quang người,Nước sẽ dâng tràn cả kinh rạch,Ngập tất cả các bờ, Chảy vào Giu-đa, tràn ngập,Chảy qua và dâng cao tận cổ.Hỡi Em-ma-nu-ên,Cánh người sẽ tràn ra khắp chiều rộng xứ ngươi.” Hỡi các dân, hãy tụ họp lại và sững sờ, Hỡi các nước xa xôi hãy lắng tai nghe.Hãy nai nịt và sững sờ,Hãy nai nịt và sững sờ! Hãy cùng nhau lập mưu nhưng nó sẽ không thành.Hãy đưa ra kế hoạch nhưng nó sẽ không đứng vững,Vì Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta. Vì CHÚA phán cùng tôi; với cánh tay quyền năng Ngài cảnh cáo tôi không nên theo con đường của dân này, Ngài phán:“Chớ gọi là mưu phảnTất cả những điều dân này gọi là mưu phản.Chớ sợ điều họ sợ,Đừng kinh hoàng. Các ngươi hãy tôn thánh CHÚA Vạn Quân;Ngài là Đấng các ngươi sợ,Ngài là Đấng các ngươi kinh hoàng; Ngài sẽ trở thành nơi thánh,Nhưng đối với nhà Y-sơ-ra-ên Ngài làTảng đá xúc phạm,Là vầng đá vấp ngã;Và Ngài cũng là bẫy và lướiCho cư dân Giê-ru-sa-lem. Nhiều người trong vòng họ sẽ vấp ngã,Sẽ té và tan nát,Sẽ bị sập bẫy và bị bắt.” Hãy cột chặt lời chứngVà niêm phong Kinh Luật giữa vòng các môn đệ ta. Tôi sẽ trông đợi CHÚAVà tin cậy nơi Ngài,Là Đấng đã che giấu mặt mình khỏi nhà Gia Cốp. Nầy, Ta và con cái CHÚA đã ban cho Ta là dấu hiệu và điềm báo giữa Y-sơ-ra-ên đến từ CHÚA Vạn Quân, Đấng ngự trên núi Si-ôn. Khi người ta nói với các ngươi hãy cầu hỏi đồng bóng và thầy bói là kẻ nói líu lo, lằm bằm; hãy đáp, một dân tộc sao không cầu hỏi Đức Chúa Trời của mình mà đi cầu hỏi kẻ chết cho người sống? Theo Kinh Luật và lời chứng, nếu họ không nói như lời này thì sẽ không có hừng đông cho họ. Chúng sẽ đi khắp xứ, khốn khổ đói khát, và khi bị đói chúng sẽ giận dữ, ngước mặt rủa sả vua và Đức Chúa Trời mình. Rồi nhìn xuống đất, kìa, chỉ là hoạn nạn, tối tăm và buồn rầu ảm đạm; chúng sẽ bị đẩy vào nơi cực tối. (8:23) Nhưng sẽ không có ảm đạm cho những người đã buồn rầu. Trong quá khứ Ngài đã làm cho vùng đất Sa-bu-luân và Nép-ta-li bị sỉ nhục. Nhưng trong tương lai Ngài sẽ làm vinh quang con đường bờ biển, vùng bên kia sông Giô-đanh, tức là Ga-li-lê của các nước ngoại bang. Dân đi trong bóng tốiĐã thấy ánh sáng lớn;Ánh sáng đã chiếu trên những kẻ cư ngụTrong vùng đất tối tăm. Ngài làm cho nước này gia tăng bội phần,Ban cho họ sự vui mừng,Là niềm vui trước mặt Ngài;Họ vui mừng như trong ngày mùa gặt,Như niềm vui của ngườiPhân chia chiến lợi phẩm. Vì như trong thời Ma-đi-an,Ngài đã bẻ ách gánh nặng,Bẻ gãy đòn trên vai,Và roi của kẻ áp bức họ. Vì tất cả giày dép đã dùng trong chiến trận,Áo giáp đã vấy máuĐều sẽ bị thiêu hủyNhư nhiên liệu đốt cháy. Vì một con trẻ đã ra đời cho chúng ta,Chúng ta đã được ban cho một con trai.Quyền cai trị sẽ ở trên vai Ngài,Tên Ngài sẽ được xưng làCố Vấn Kỳ Diệu, Đức Chúa Trời Quyền Năng,Cha Đời Đời, Hoàng Tử Bình An. Quyền cai trị của Ngài cứ gia tăng,Nền hòa bình của Ngài sẽ vô tậnTrên ngôi Đa-vítVà cho vương quốc mình.Ngài sẽ thiết lập và giữ gìn nóTrong công bình và công chínhTừ nay cho đến đời đời.Lòng sốt sắng của CHÚA Vạn QuânSẽ làm điều này. Chúa truyền một lời nghịch cùng Gia-cốp,Nó giáng xuống Y-sơ-ra-ên. Toàn dân sẽ biết điều đó,Tức là Ép-ra-im và cư dân Sa-ma-riVới lòng kiêu căng,Trịch thượng nói rằng: “Gạch đã đổNhưng chúng ta sẽ xây lại bằng đá khối,Cây sung đã bị đốn ngãNhưng chúng ta sẽ thay bằng cây tùng.” Nhưng CHÚA dấy lên kẻ đối nghịch của Rê-xin chống lại chúngVà khích động kẻ thù họ lên. Dân Sy-ri phía trước và dân Phi-li-tin phía sauSẽ há miệng lớn nuốt Y-sơ-ra-ên.Dù vậy, cơn giận của Ngài vẫn không nguôi,Và cánh tay Ngài vẫn giương lên. Nhưng dân chúng không quay trở lại cùng Đấng đã đánh mình,Cũng không tìm kiếm CHÚA Vạn Quân. Nên, trong một ngày CHÚA sẽ cắt đứt Y-sơ-ra-ên, cả đầu và đuôi,Cả cành dương lẫn cây sậy. Đầu là các trưởng lão và bậc tôn trọngVà đuôi là tiên tri dạy điều dối trá. Những người lãnh đạo dân này đã lạc lối,Còn những người được hướng dẫn thì bị đánh lừa. Cho nên Chúa sẽ không đẹp lòng giới trai trẻ,Cũng không thương xót trẻ mồ côi và người góa bụa của họVì tất cả đều vô đạo và gian ác,Mọi môi miệng đều nói điều ngu dại.Dù vậy cơn giận của Ngài vẫn không nguôi,Và cánh tay Ngài vẫn giương lên. Vì gian ác cháy như lửa,Thiêu nuốt cỏ gai lẫn bụi gai;Đốt cây cối rậm rạp trong rừng,Cuồn cuộn bốc lên thành trụ khói. Vì cơn giận của CHÚA Vạn Quân,Đất bị thiêu đốtVà dân chúng sẽ như nhiên liệu đốt cháyKhông ai thương tiếc anh em mình. Chúng cướp giựt bên phảiNhưng vẫn đói,Chúng ăn nuốt bên tráiNhưng không no,Mỗi người ăn thịt người thân mình. Ma-na-se nghịch Ép-ra-im, Ép-ra-im nghịch Ma-na-se;Rồi họ cùng nhau chống lại Giu-đa.Dù vậy, cơn giận của Ngài vẫn không nguôi,Và cánh tay Ngài vẫn giương lên. Khốn thay cho những kẻ ban hành những luật tội lỗiVà những sắc luật áp bức, Tước đoạt lẽ công bình của người cùng khốn,Cướp mất quyền lợi của người nghèo khó trong dân ta.Những kẻ góa bụa là chiến lợi phẩmVà trẻ mồ côi là miếng mồi của chúng. Vào ngày trừng phạt,Khi tai họa từ xa kéo đến các ngươi sẽ làm gì?Các ngươi sẽ chạy trốn đến ai để cầu cứu?Các ngươi sẽ để của cải mình ở đâu? Không có gì còn lại ngoại trừ những kẻ cúi đầu giữa các tù binhVà những kẻ ngã quỵ giữa vòng các người bị giết.Dù vậy cơn giận của Ngài vẫn không nguôiVà cánh tay Ngài vẫn giương lên. “Hỡi A-si-ri, là cái roi của cơn giận Ta,Cây gậy trong tay chúng nó là cơn tức của Ta. Ta sai nó nghịch cùng một nước vô đạo,Ta truyền cho nó nghịch cùng dân đã chọc giận Ta,Để nhận lấy chiến lợi phẩm, cướp lấy của cướpVà giày đạp chúng nó xuống như bùn ngoài đường. Nhưng nó không định như vậy,Nó không nghĩ như thế trong lòng.Vì lòng nó muốn tiêu diệt,Muốn cắt đứt nhiều nước. Vì nó nói: ‘Các tướng lãnh của ta há chẳng phải là vua cả sao? Có phải Ca-nô cũng như Cạt-kê-mít không?Ha-mát chẳng như Ạt-bát,Sa-ma-ri chẳng như Đa-mách sao? Như tay ta đã chiếm cứ các vương quốc có thần tượng,Những tượng của họ còn hơn tượng ở Giê-ru-sa-lem và Sa-ma-ri nữa; Thì ta sẽ không làm cho Giê-ru-sa-lem và thần tượng nóNhư ta đã làm cho Sa-ma-ri và tượng nó sao?’” Nhưng khi Chúa đã hoàn thành mọi công việc của Ngài trên núi Si-ôn và tại Giê-ru-sa-lem thì Ngài sẽ trừng phạt lòng khoe khoang kiêu căng và con mắt kiêu kỳ của vua A-si-ri. Vì người nói:“Ta đã làm điều đó nhờ sức mạnh của tay ta,Bởi sự khôn ngoan vì ta hiểu biết.Ta đã dời đổi biên giới của các dân;Cướp đoạt các kho báu của chúng.Như một dũng sĩ ta đã phế bỏ các kẻ ngồi trên ngai. Tay ta đã lấy của cải các dânNhư bắt tổ chim,Như người lượm trứng bỏ rơi,Ta đã thu cả trái đất,Không ai vỗ cánh,Mở miệng hay kêu chíu chít.” Có phải cái rìu tự nó đưa lên cao hơn người cầm rìu không?Hay cái cưa tự tôn tự đại hơn người sử dụng nó?Hay như cái roi nâng người cầm roi lên?Hoặc như cái gậy vung người không phải là gỗ lên sao? Cho nên CHÚA Vạn QuânSẽ sai bệnh tật đến giữa vòng các chiến sĩ khỏe mạnh của ngườiVà dưới sự vinh quang người,Lửa sẽ đốt lên như đám lửa thiêu đốt. Ánh sáng của Y-sơ-ra-ên sẽ trở nên lửa,Đấng Thánh của nó sẽ là ngọn lửa;Nó sẽ thiêu đốt và ăn nuốt cỏ gai và bụi gaiTrong một ngày. Ngài sẽ hủy diệt sự huy hoàng của rừng rú và ruộng đất phì nhiêu,Cả linh hồn lẫn thể xácNhư người bệnh mòn mỏi đi. Cây trên rừng còn sót lại sẽ chẳng là baoĐến nỗi một đứa trẻ cũng có thể viết xuống. Vào ngày ấy, những người còn lại của Y-sơ-ra-ên,Dân sống sót của nhà Gia-cốpSẽ không còn nương cậyVào kẻ đánh mìnhNhưng thật lòng nương cậy nơi CHÚA,Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên. Những người còn lại sẽ trở lại, những người còn lại của Gia-cốpSẽ trở lại cùng Đức Chúa Trời quyền năng. Hỡi Y-sơ-ra-ên, dù dân tộc ngươi đông như cát bờ biển,Chỉ một số dân còn lại sẽ trở lại.Sự hủy diệt đã định,Sự báo thù tràn ngập. Vì như đã định, CHÚA Vạn Quân sẽ thi hànhSự hủy diệt trên khắp đất. Cho nên, CHÚA Vạn Quân phán rằng:“Hỡi dân Ta, là người ở tại Si-ôn,Đừng sợ người A-si-riKhi họ cầm roi đánh ngươiVà giơ gậy nghịch ngươi như người Ai-cập đã làm. Vì chỉ trong ít lâu Ta sẽ hết giận ngươiVà cơn thịnh nộ Ta sẽ hướng về để hủy diệt chúng.” CHÚA Vạn Quân sẽ giơ roi nghịch họNhư Ngài đã đánh dân Ma-đi-an nơi tảng đá Hô-rếp,Và Ngài cũng giơ gậy trên biểnNhư đã làm tại Ai-cập. Vào ngày ấy, gánh nặng nó sẽ được cất khỏi vai ngươi,Ách nó sẽ được tháo khỏi cổ ngươi;Ách sẽ gãyVì ngươi mập béo ra. Nó đến A-giát;Đi xuyên qua Mi-gơ-rôn,Tích trữ đồ tiếp tế tại Mích-ma, Chúng vượt qua đèo,Đóng trại qua đêm tại Ghê-ba,Ra-ma run rẩy,Ghi-bê-a của Sau-lơ chạy trốn. Hỡi con gái Ga-lim, hãy kêu la lớn tiếng;Hỡi người La-ít, hãy lắng tai nghe!Thật đáng thương người A-na-tốt. Mát-mê-na bỏ chạy,Dân thành Ghê-bim trốn tìm chỗ núp. Chính ngày đó, nó sẽ dừng lại tại Nóp,Giơ nắm đấm nghịchCùng núi của con gái Si-ôn,Nghịch cùng đồi Giê-ru-sa-lem. Này, CHÚA Vạn QuânSẽ dùng quyền năng khủng khiếp chặt các cành cây;Những cây cao lớn sẽ bị đốn ngã;Những kẻ cao quý sẽ bị hạ thấp. Ngài sẽ dùng búa sắt chặt cây cối rậm rạp trong rừngVà Li-ban với cây cối uy nghi sẽ bị ngã. Có một chồi sẽ nứt ra từ gốc Y-sai,Một nhánh từ rễ nó sẽ ra trái: Thần của CHÚA sẽ ngự trên Ngài,Là thần khôn ngoan và hiểu biết,Thần mưu lược và quyền năng,Thần tri thức và kính sợ CHÚA. Ngài vui mừng trong sự kính sợ CHÚA.Ngài sẽ không xét xử theo mắt thấy,Cũng không quyết định bằng tai nghe. Nhưng Ngài sẽ xét xử kẻ nghèo trong công chính,Định đoạt công bình cho những người khốn khổ trên đất.Ngài sẽ đánh trái đất bằng roi nơi miệng mình;Và dùng hơi thở từ môi mà giết kẻ ác. Công chính sẽ là nai nịt trên hông Ngài,Trung tín sẽ là thắt lưng của Ngài. Bấy giờ chó sói sẽ ở chung với cừu con,Beo sẽ nằm chung với dê;Bò con, sư tử tơ và bò mập béo sẽ ở chung với nhauVà một đứa trẻ nhỏ sẽ dắt chúng. Bò cái sẽ ăn với gấu;Các con của chúng sẽ nằm chung;Sư tử sẽ ăn cỏ như bò. Trẻ con đương bú sẽ chơi đùa nơi hang rắn hổ mang,Trẻ vừa dứt sữa sẽ thò tay vào hang rắn độc. Không ai sẽ làm hại hay hủy diệtTrên toàn núi thánh Ta.Vì sự hiểu biết CHÚA tràn ngập đấtNhư nước che phủ biển. Vào ngày ấy, rễ từ Y-sai sẽ đứng lên làm dấu hiệu cho các dân; các nước sẽ tìm cầu Ngài, và nơi Ngài cư ngụ sẽ vinh quang. Vào ngày ấy, Chúa sẽ đưa tay ra một lần nữa khôi phục dân sót của Ngài, là dân còn lại từ A-si-ri, từ Ai-cập, từ Pha-trô, từ Ê-thi-ô-bi, từ Ê-lam, từ Si-nê-a, từ Ha-mát và các hải đảo. Chúa sẽ dựng lên một dấu hiệu cho các nước,Ngài tụ họp những kẻ bị lưu đày của Y-sơ-ra-ên lại,Ngài nhóm họp những kẻ lưu lạc của Giu-đaTừ bốn phương trên đất. Bấy giờ Ép-ra-im sẽ không còn ghen tị nữa.Những kẻ hà hiếp Giu-đa sẽ bị diệt,Ép-ra-im sẽ không còn ghen tị với Giu-đaVà Giu-đa sẽ không còn hà hiếp Ép-ra-im. Nhưng chúng sẽ bổ xuống vai dân Phi-li-tin ở phía tây;Cùng nhau cướp bóc dân phía đông.Họ sẽ giơ tay chống nghịch Ê-đôm và Mô-áp;Dân Am-môn sẽ qui phục họ. CHÚA sẽ làm khô cạnVịnh Ai-cậpVà bằng ngọn gió thiêu đốt,Ngài sẽ vung tay trên sông;Chẻ nó ra thành bảy suốiĐể người ta có thể đi qua không ướt át. Và sẽ có một xa lộ cho dân sót của dân Ngài,Là dân còn lại từ A-si-ri,Cũng như đã có cho Y-sơ-ra-ênTrong ngày họ ra khỏi đất Ai-cập. Vào ngày ấy ngươi sẽ nói:“Lạy CHÚA, tôi cảm tạ Ngài,Dù Ngài đã giận tôi,Cơn giận Ngài đã nguôiVà Ngài an ủi tôi. Quả thật, Đức Chúa Trời là sự cứu rỗi của tôi,Tôi sẽ tin cậy và không sợ hãi.Vì CHÚA, chính CHÚA là sức mạnh và bài ca của tôi.Ngài đã trở nên sự cứu rỗi của tôi. Các ngươi sẽ vui mừng múc nướcTừ giếng cứu rỗi.” Vào ngày ấy các ngươi sẽ nói:“Hãy cảm tạ CHÚA, hãy cầu khẩn danh Ngài.Hãy công bố các công việc của Ngài giữa các dân tộc.Hãy tuyên dương rằng danh Ngài là đáng tôn trọng. Hãy ca ngợi CHÚA vì Ngài đã hành động một cách vinh quang.Hãy công bố điều này cho cả trái đất. Hỡi cư dân Si-ôn, hãy hô to và vui mừng ca hátVì Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên là vĩ đại giữa vòng các ngươi.” Lời tiên tri về Ba-by-lôn mà I-sa, con trai A-mốt đã thấy. Hãy dựng một dấu hiệu trên ngọn núi trọc,Hãy cất tiếng kêu gọi chúng,Hãy vẫy tay cho chúngVào các cổng người quý tộc. Chính Ta đã truyền lệnh cho những kẻ Ta đã để riêng ra,Kêu gọi các chiến sĩ của Ta,Những kẻ kiêu hãnh được tôn trọng để thi hành cơn giận Ta. Hãy nghe, có tiếng ồn ào trên các núiNhư tiếng đám dân đông.Hãy nghe, có tiếng gào thét từ các vương quốc,Tức là các nước tụ họp nhau lại.CHÚA Vạn Quân tập trungQuân đội cho chiến tranh. Chúng đến từ miền đất xa xôi,Từ cuối tận phương trời;CHÚA và vũ khí thịnh nộ của NgàiĐể hủy diệt cả trái đất. Hãy than khóc vì ngày của CHÚA đã gần,Nó sẽ đến như sự hủy diệt từ Đấng Toàn Năng. Cho nên mọi tay đều yếu đuối,Tất cả lòng người đều tan chảy. Chúng nó đều kinh hoàng;Oằn oại và đau đớn cùng cựcChế ngự họ như đàn bà đau đẻ.Họ nhìn nhau sững sờ,Mặt chúng đỏ như ngọn lửa cháy. Kìa, ngày của CHÚA đang đến,Tàn bạo, thịnh nộ và giận dữ,Để làm cho đất hoang tànVà tiêu diệt kẻ tội lỗi khỏi nó. Vì các ngôi sao và chùm sao trên trờiSẽ không chiếu sáng,Mặt trời trở nên tối tăm khi mọc,Mặt trăng sẽ không chiếu sáng nữa. Ta sẽ trừng phạt thế giới vì sự độc ác,Phạt kẻ ác vì tội lỗi chúng,Tận diệt sự kiêu ngạo của kẻ kiêu căngVà hạ thấp sự cao ngạo của kẻ bạo ngược. Ta sẽ làm cho người ta hiếm hơn vàng ròng,Và loài người hiếm hơn vàng Ô-phia. Cho nên, Ta sẽ làm cho các tầng trời run rẩyVà lay chuyển đất ra khỏi chỗ nóTrong cơn thịnh nộ của CHÚA Vạn Quân,Vào ngày Ngài giận dữ. Bấy giờ, mỗi người đều như con linh dương bị săn đuổi,Như cừu không người chăn.Ai nấy sẽ trở về với dân tộc mìnhVà chạy trốn về quê hương mình. Kẻ nào người ta tìm thấy sẽ bị đâm,Người nào bị bắt sẽ bị giết bằng gươm. Con thơ sẽ bị dày xéo trước mắt họ,Nhà sẽ bị cướp và vợ sẽ bị hiếp. Nầy, Ta sẽ khích động người Mê-đi nghịch cùng họ,Là người không quý bạcCũng không thích vàng. Cung của chúng sẽ bắn nát thanh niên,Không thương xót trẻ sơ sinh,Mắt không thương tiếc trẻ con. Ba-by-lôn, sự huy hoàng của các nước;Là sự kiêu căng lộng lẫy của Canh-đêSẽ bị Đức Chúa Trời lật đổNhư thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ. Nó sẽ không bao giờ có người cư ngụ,Từ đời nọ đến đời kia sẽ không ai ở đó;Người Ả-rập sẽ không đóng trại nơi ấy,Và người chăn cũng không cho đàn cừu nghỉ ở đó. Nhưng thú rừng sẽ nghỉ ở đó,Nhà họ sẽ đầy chim cú.Đà điểu sẽ ở nơi ấyVà dê rừng sẽ nhảy múa ở đó. Lang sói sẽ tru lên trong thành trì chúng,Và chó rừng trong các đền đài lịch sự.Nhưng thì giờ nó đã đến gần,Các ngày nó sẽ không còn lâu. Vì CHÚA thương xót Gia-cốpVà một lần nữa chọn Y-sơ-ra-ênVà lập họ trên xứ sở của họ.Người ngoại quốc sẽ kết hợp với họVà liên hiệp với nhà Gia-cốp. Các dân sẽ đem họVề quê hương họ;Nhà Y-sơ-ra-ên sẽ chiếm hữu các dânLàm tôi trai, tớ gái trên đất của CHÚA.Họ sẽ bắt làm tù binh những kẻ đã bắt họ làm tù binhVà cai trị trên những kẻ đã áp bức mình. Vào ngày CHÚA cho ngươi nghỉ ngơi thoát khỏi cảnh đau khổ, hỗn loạn và nô lệ nhọc nhằn mà ngươi đã chịu, thì ngươi hãy nói lên lời chế nhạo này về vua Ba-by-lôn rằng:Sao kẻ áp bức đã tận cùng,Sao sự giận dữ đã chấm dứt? CHÚA đã bẻ gãy cây gậy của kẻ ác,Trượng của kẻ cai trị. Là kẻ trong cơn thịnh nộ đã đánh đập các dânKhông ngừng;Trong cơn giận dữ đã cai trị các nướcBằng sự ngược đãi hà khắc. Cả trái đất nghỉ ngơi và bình an;Cất tiếng ca hát. Cây tùng, cây bách ở Li-banSẽ hát chúc mừng ngươi rằng:“Từ khi ngươi nằm xuống,Không ai lên chặt chúng ta.” Âm phủ phía dưới bị khuấy độngĐể gặp ngươi khi ngươi đến.Các bóng ma của tất cả các lãnh tụTrái đất cũng bị đánh thức để gặp ngươi.Tất cả vua của các nướcPhải đứng dậy khỏi ngai. Tất cả chúng nóSẽ nói với ngươi:“Ngươi cũng trở nên yếu đuối như chúng ta,Ngươi cũng giống chúng ta.” Sự lộng lẫy và tiếng đàn hạc của ngươiBị đem xuống Âm phủ.Giòi sẽ làm nệm cho ngươi,Sâu bọ sẽ làm mền cho ngươi. Hỡi Sao Mai, con trai của rạng đông,Sao ngươi đã từ trời rơi xuống!Hỡi người đã đánh bại các nước,Sao ngươi đã bị đánh ngã xuống đất! Người tự nói trong lòng rằng:“Ta sẽ lên trời,Ta sẽ nhấc ngai taLên cao hơn các ngôi sao của Đức Chúa Trời.Ta sẽ ngồi trên núi hội đồng,Trên đỉnh núi Sa-phôn. Ta sẽ lên trên đỉnh các tầng mây,Làm cho ta giống như Đấng Tối Cao.” Nhưng ngươi bị đem xuống Âm phủ,Sa xuống vực sâu. Những người thấy ngươi sẽ trố mắt nhìn chằm chằmVà lấy làm lạ:“Có phải đây là người đã làm rung chuyển quả đất,Đã làm các nước run rẩy không? Là người làm thế giới trở nên sa mạc,Lật đổ các thànhVà không thả các tù binh của họ về nhà chăng?” Tất cả vua các nước, mỗi người đều nằm xuốngTrong vinh hiển nơi lăng tẩm mình. Nhưng ngươi thì bị ném xa ra khỏi mồ mả,Như một cành thối mục;Ngươi được bao bọc bằng những xác chết,Là người bị gươm đâm,Bị đẩy xuống các tảng đá của vực sâu,Như một xác chết bị giày đạp dưới chân. Ngươi sẽ không được chôn với các vua trong lăng tẩm,Vì ngươi đã hủy diệt nước ngươiVà giết hại dân ngươi.Dòng dõi của kẻ ácSẽ không được nhắc đến đời đời. Hãy chuẩn bị sự chém giết con cháu chúng nóVì tội lỗi cha ông chúng,Để chúng không thể nổi lên chiếm cứ đất,Lập thành trì khắp thế giới. CHÚA Vạn Quân phán:“Ta sẽ đứng lên nghịch cùng chúng nó.Ta sẽ tiêu diệt danh Ba-by-lôn và những kẻ sót lại;Con cháu và dòng dõi về sau,”CHÚA phán như thế. “Ta sẽ biến đất nó thành nơi nhím ởVà ao nướcVà sẽ dùng chổi hủy diệt mà quét nó,”CHÚA Vạn Quân phán. CHÚA Vạn Quân đã thề rằng:“Chắc chắn như điều Ta đã định nên nó sẽ xảy ra;Như điều Ta đã chủ tâm thì nó sẽ đứng vững. Ta sẽ đánh tan người A-si-ri trong đất Ta,Ta sẽ giày đạp nó trên núi Ta.Ách nó sẽ rời khỏi dân Ta;Gánh nặng nó sẽ được cất khỏi vai chúng nó.” Đây là mục đích Ta đã chủ tâm cho toàn trái đất,Đây là cánh tay giương ra trên toàn thể các nước. Vì CHÚA Vạn Quân đã chủ tâm thì ai có thể hủy bỏ được;Cánh tay Ngài đã giương ra thì ai có thể thu lại được? Vào năm Vua A-cha băng hà, lời tiên tri này đến. Hỡi cả dân Phi-li-tin, chớ vui mừngVì roi đánh ngươi đã gãy.Vì từ rễ của con rắn đó sẽ sanh ra rắn độc;Và quả của nó là con rắn độc bay. Bấy giờ trưởng tử của người nghèo sẽ được nuôi,Những người khốn cùng sẽ nằm yên ổn.Nhưng Ta sẽ giết dòng dõi ngươi bằng đói kém,Những kẻ còn sót lại Ta sẽ diệt. Hỡi cổng hãy than khóc! Hỡi thành hãy kêu la!Hỡi cả dân Phi-li-tin hãy tan chảy.Vì từ miền bắc có luồng khói đếnVà không có ai thối lui trong hàng ngũ chúng. Vậy người sẽ trả lời thế nàoCho các sứ giả của một nước?Rằng: “CHÚA đã lập Si-ônVà những kẻ khốn khổ trong dân Ngài sẽ trú ẩn nơi đó.” Lời tiên tri về Mô-áp:Ồ, trong một đêm thành Ar bị tàn phá,Mô-áp bị hoang tàn.Ồ, trong một đêm thành Kiệt bị tàn phá,Mô-áp bị hoang tàn. Đi-bôn đi lên đồi;Nó lên các nơi cao để khóc.Dân Mô-áp than khóc về Nô-bô và Mê-đê-ba.Mỗi đầu đều bị sói,Mọi đầu đều bị chém. Người ta mặc đồ tang chế ngoài phố;Trên sân thượng và nơi quảng trườngMọi người đều than khócVà tan chảy trong nước mắt. Hết-bôn và Ê-lê-a-lê đều khóc la,Tiếng khóc nghe thấu đến tận Gia-bát.Cho nên các lính chiến của Mô-áp đều than khóc,Linh hồn chúng run rẩy. Lòng ta than khóc cho Mô-áp,Những người tị nạn của họ chạy đến Xoa,Đến Ê-lát-sê-bi-sia.Khi lên đèo Lu-hítHọ vừa trèo lên vừa khóc.Trên con đường đến Hô-rô-na-im,Họ cất tiếng than khóc về sự hủy diệt. Vì nước ở Nim-rim khô cạn,Cỏ khô,Cỏ non không lên nổi,Rau cỏ xanh tươi không còn nữa. Vì vậy, của cải họ thu được, của báu tích lũyHọ đều mang qua suối cây liễu. Vì tiếng than khóc vang ra tận bờ cõi Mô-áp,Tiếng kêu la đến tận Ê-la-im,Tiếng kêu la đến tận Bê-e-ê-lim. Vì nước tại Đi-bôn đầy những máuNhưng Ta còn đem thêm tai họa cho Đi-bôn nữa;Một con sư tử sẽ đến với những người Mô-áp thoát nạn,Và những người sót lại trong xứ. Hãy gởi cừu conCho người cai trị vùng đất này,Từ Sê-la qua sa mạc,Đến núi con gái Si-ôn. Các con gái Mô-ápTại khúc sông cạn Ạt-nônSẽ như đàn chimTan tác vỡ tổ. “Hãy cố vấn,Hãy quyết định.Ngay giữa trưa,Hãy làm cho bóng mát như bóng tối nửa đêm.Xin che giấu những kẻ thoát nạn,Xin đừng phản bội kẻ tị nạn. Xin cho những người Mô-áp thoát nạn ở giữa các người.Xin cho họ trú ẩn khỏi mặt kẻ hủy diệt.Vì kẻ áp bức sẽ không còn nữa,Sự hủy diệt đã chấm dứt,Những kẻ xâm lược đã biến mất khỏi đất.” Thế rồi một ngôi sẽ được lập trong tình yêu thương,Một người trong trại Đa-vítSẽ ngồi trên ngai với lòng trung tín.Người sẽ đoán xét, tìm kiếm công bìnhVà nhanh nhẹn thi hành công chính. Chúng ta đã nghe về sự kiêu ngạo của Mô-áp,Hắn kiêu ngạo là thể nào!Nó trịch thượng, kiêu ngạo và láo xược;Lời khoe khoang nó không ra gì! Cho nên dân Mô-áp than khóc;Mọi người đều than khóc cho Mô-áp.Hãy than thở, cực kỳ đau đớn,Vì bánh trái nho của Kiệt-ha-rê-sốt. Vì đồng ruộng của Hết-bôn tiêu điều;Vườn nho của Síp-ma cũng vậy.Vua chúa các nướcĐã chặt các cành nho tốt,Mà cành đã từng vươn ra tận Gia-ê-xe,Lan ra sa mạc;Chồi nó đâm ra phía ngoài,Ra tận biển. Cho nên ta khóc như Gia-ê-xe khócCho vườn nho Síp-ma.Hỡi Hết-bôn; hỡi Ê-lê-a-lê,Ta đổ đầy nước mắt cho các ngươi.Vì tiếng reo hò trong mùa hái tráiVà mùa gặt của các ngươi đã không còn. Niềm hân hoan, vui mừng vì đồng ruộng tươi tốt đã bị cất đi;Tiếng ca hát, reo hò trong vườn nho không còn nữa.Không ai đạp nho làm rượu tại máy ép nho.Ta đã làm cho tiếng hò reo im lặng. Cho nên lòng Ta vì Mô-áp thổn thức như đàn hạc,Tâm ta vì Kiệt-hê-re cũng vậy. Lúc ấy dù Mô-áp lên nơi caoThì chỉ mệt mỏi,Đến nơi thánh của nó để cầu nguyệnCũng sẽ vô ích. Đây là lời CHÚA đã phán về Mô-áp từ xưa. Nhưng nay CHÚA phán: “Trong ba năm, như số năm thuê một lao động, vinh quang của Mô-áp dù với cả số dân đông đúc, sẽ bị khinh bỉ. Số người sống sót sẽ rất ít và không ra gì!” Lời tiên tri về Đa-mách:“Này, Đa-mách sẽ không còn là một thành nữaNhưng sẽ trở nên một đống đổ nát. Các thành của A-rô-e sẽ bị hoang phế,Sẽ là nơi bầy cừu nằm nghỉMà không sợ gì. Thành lũy của Ép-ra-im sẽ không còn;Vương quyền của Đa-mách cũng vậy.Dân sót của Sy-ri cũng sẽ giống nhưVinh quang của con dân Y-sơ-ra-ên,”CHÚA Vạn Quân phán. “Vào ngày ấy, vinh quang của Gia-cốp sẽ tàn phai,Thân xác mập béo sẽ trở nên gầy còm. Nó sẽ như thợ gặt gom cây lúaVà dùng tay gặt bông lúaVà như người ta mót lúaTại thung lũng Rê-pha-im. Nhưng lúa sót lại sẽ còn lạiNhư khi người ta rung cây ô-liu,Hai ba trái còn sót trên đầu cành cao nhất;Hoặc bốn năm trái trên cành cây ăn trái,”CHÚA, Đức Chúa Trờicủa Y-sơ-ra-ên phán. Vào ngày ấy, người ta sẽ nghĩ đến Đấng tạo ra mình;Mắt họ sẽ nhìn vào Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên. Họ sẽ không nghĩ đến các bàn thờLà sản phẩm tay mình làm ra;Họ sẽ không nhìn đến các vật ngón tay họ chiếu ra,Dù là tượng Át-tạc-tê hay là các bàn thờ dâng hương. Vào ngày ấy, các thành vững chắc của chúng sẽ giống như những nơi bỏ hoang trong rừng hay trên đỉnh núi, là những nơi họ bỏ hoang vì con cái Y-sơ-ra-ên, sự hoang tàn sẽ xảy ra. Vì ngươi đã quên Đức Chúa Trời cứu rỗi của ngươiVà không nhớ vầng đá vững chắc của ngươi;Cho nên dù ngươi trồng vườn cây tươi tốtVà cành chiết từ giống ngoại quốc; Dù trong ngày ngươi trồng, ngươi làm cho nó mọc lên,Vừa lúc ban mai khi ngươi gieo ngươi làm cho nó nở hoa,Nhưng trong ngày đau khổ và đau đớn vì bệnh nan yThì mùa màng cũng mất hết. Ôi, nhiều dân gầm thétNhư biển cả gầm thét.Ôi, các dân gào lênNhư sóng lớn gào thét. Các dân gào lên như tiếng gào thét của nhiều sóng nước.Nhưng Ngài sẽ quở trách chúng và chúng bỏ chạy xa,Bị đuổi đi như trấu trong cơn gió ở trên núi;Như bụi trong trận bão. Vào buổi tối, kìa, có sự kinh hoàng;Trước khi rạng đông, chúng không còn nữa.Đây là phần của những kẻ bóc lột chúng taVà là số phận của những kẻ cướp đoạt chúng ta. Khốn cho đất đập cánh vù vù,Là đất bên kia các sông của Ê-thi-ô-bi; Nó sai sứ giả vượt biển,Đi bằng thuyền lau vượt trên mặt nước.Hỡi các đại sứ nhanh nhẹn,Hãy đi đến nước của người cao lớn, da mịn;Đến một dân xa gần đều sợ;Một nước hùng cường và hay xâm lược,Là nước có các sông phân chia đất. Hỡi cả dân cư thế giới,Là người sống trên quả đất,Khi một dấu hiệu được dựng lên trên núi,Hãy nhìnKhi kèn thổi,Hãy nghe. Vì CHÚA đã phán cùng tôi như vầy:“Ta sẽ yên lặng và xem xét từ nơi Ta ngự,Như tia nắng lung linh từ ánh sáng mặt trời,Như đám sương trong sức nóng mùa gặt.” Vì trước mùa gặt, khi hoa đã kết trái,Trở nên nho đang chín,Ngài sẽ dùng liềm cắt các cành non,Chặt bỏ những cành rậm lá. Chúng sẽ cùng bị bỏ lại cho chim săn mồi trên núi,Cho thú rừng trên đất.Chim sẽ ăn chúng trong mùa hạVà tất cả thú rừng trên đất sẽ ăn vào mùa đông. Vào lúc đó một dân cao lớn, da mịn,Là dân xa gần đều sợ;Một nước hùng cường và hay xâm lược,Là nước có các sông phân chia đất, dân đó sẽ đem dâng lễ vật cho CHÚA Vạn Quân, đem đến nơi danh CHÚA Vạn Quân ngự, tức là núi Si-ôn. Lời tiên tri về Ai Cập,CHÚA cỡi trên đám mây chớp nhoángĐến Ai Cập.Các thần tượng tại Ai Cập đều run rẩy trước mặt NgàiVà lòng người Ai Cập đều tan chảy giữa họ. “Ta sẽ khích động người Ai Cập chống lại người Ai Cập,Anh em chống nhau;Lân cận nghịch cùng lân cận;Thành này chống thành kia,Vương quốc nọ chống vương quốc kia. Người Ai Cập sẽ mất tinh thần.Ta sẽ phá hỏng chương trình của chúng.Chúng sẽ cầu hỏi các thần tượng, các linh hồn người chết,Các đồng bóng và thầy bói. Ta sẽ giao dân Ai Cập vào tayNhững người chủ khắc nghiệtVà một vua bạo tàn sẽ cai trị chúng,”CHÚA Vạn Quân phán. Nước biển sẽ cạn,Sông cũng cạn và khô. Các kinh đào sẽ trở nên hôi thối;Các sông ngòi của Ai Cập sẽ cạn dần và khô đi;Lau sậy đều mục nát. Cây cỏ dọc bờ sông,Tại cửa sôngVà tất cả đồng ruộng bên bờ sôngSẽ bị khô héo, thổi bay đi và không còn gì cả. Người đánh cá sẽ than vãn,Tất cả những kẻ câu cá trên sông sẽ than khócVà những người thả lưới trên nướcSẽ mòn mỏi. Những kẻ làm vải gai tuyệt vọngVà những kẻ dệt vải trắng cũng vậy. Những kẻ cột trụ của xứ sẽ bị đập tan,Tâm hồn của tất cả những người làm thuê sẽ đau đớn. Các hoàng tử của Xô-an đều ngu ngốc,Các cố vấn khôn ngoan của Pha-ra-ôn chỉ đưa ra những lời khuyên ngu dại.Làm thế nào các ngươi có thể nói với Pha-ra-ôn rằng:“Tôi là một trong những người thông thái,Con cháu của các vua thời xưa?” Thế thì các nhà thông thái của ngươi đâu?Chúng nó hãy nói cho ngươi,Hãy cho ngươi biết CHÚA Vạn QuânĐã có chương trình gì nghịch cùng Ai Cập? Các hoàng tử của Xô-an đã trở nên ngu dại,Các hoàng tử của Nốp đã bị lừa gạt.Những viên đá nền móng của các chi tộc họĐã làm cho Ai Cập lầm lạc. CHÚA đã đổ vào nóMột tinh thần lầm lẫn;Nó làm cho Ai Cập lầm lạc trong mọi việc mình làmNhư một người say vừa đi nghiêng ngã vừa mửa. Sẽ chẳng có ai làm được gì cho Ai Cập cả,Dù là đầu hay đuôi, cành dương hay cây sậy. Vào ngày ấy, người Ai Cập sẽ giống như đàn bà, run rẩy, sợ hãi trước cánh tay của CHÚA Vạn Quân giơ lên nghịch cùng họ. Bấy giờ đất Giu-đa sẽ trở nên sự kinh hoàng cho người Ai Cập. Đất ấy được nhắc đến thì mọi người đều sợ hãi vì chương trình mà CHÚA Vạn Quân đã định nghịch cùng Ai Cập. Vào ngày ấy năm thành trong đất Ai Cập sẽ nói tiếng Ca-na-an và thề trung thành với CHÚA Vạn Quân. Một trong các thành này gọi là thành hủy diệt. Vào ngày ấy sẽ có một bàn thờ cho CHÚA ở giữa nước Ai Cập và một đài kỷ niệm cho CHÚA tại nơi biên giới nước ấy. Đó là dấu và chứng cho CHÚA Vạn Quân tại nước Ai Cập. Khi họ kêu cầu cùng CHÚA vì bị áp bức thì Ngài sẽ sai đến một đấng cứu tinh để bênh vực và giải cứu họ. CHÚA sẽ làm cho người Ai Cập biết Ngài, vào ngày ấy người Ai Cập sẽ công nhận CHÚA. Họ sẽ thờ phượng Ngài bằng sinh tế, tế lễ thiêu; họ sẽ khấn hứa với CHÚA và hoàn thành các lời hứa ấy. CHÚA sẽ đánh Ai Cập, đánh rồi chữa lành và họ sẽ trở lại cùng CHÚA; Ngài sẽ nghe lời cầu nguyện của họ và chữa lành cho. Vào ngày ấy, sẽ có một xa lộ từ Ai Cập đến A-si-ri. Người A-si-ri sẽ đến Ai Cập và người Ai Cập sẽ đến A-si-ri; Người Ai Cập sẽ cùng với người A-si-ri thờ phượng CHÚA. Vào ngày ấy Y-sơ-ra-ên sẽ là một phần ba cùng với Ai Cập và A-si-ri, làm nguồn phước trên quả đất; là ba nước CHÚA Vạn Quân ban phước cho và phán: “Phước cho dân ta là Ai Cập, công việc của tay ta là A-si-ri và di sản của ta là Y-sơ-ra-ên.” Vào năm Sa-gôn, Vua A-si-ri sai thống tướng đến Ách-đốt, tấn công và chiếm lấy thành. Lúc ấy, lời của CHÚA phán qua I-sa, con trai A-mốt rằng: “Hãy đi, cởi áo tang chế khỏi ngươi và cởi dép khỏi chân ngươi.” I-sa làm như thế, người đi mình trần và chân không. CHÚA cũng phán: “Như tôi tớ Ta là I-sa đã đi mình trần và chân không trong ba năm thì đây là dấu và điềm nghịch cùng Ai Cập và Ê-thi-ô-bi. Như vậy, Vua A-si-ri sẽ bắt tù binh Ai Cập và kẻ lưu đày Ê-thi-ô-bi, cả trẻ lẫn già đều đi mình trần, chân không, mông trần; một sự nhục nhã cho Ai Cập. Bấy giờ, chúng nó là những người hy vọng nơi Ê-thi-ô-bi và kiêu hãnh về Ai Cập sẽ mất tinh thần và bối rối. Vào ngày ấy, những người sống dọc bờ biển này sẽ nói rằng: ‘Kìa dân tộc mà chúng ta tin cậy và chạy đến nhờ giải cứu khỏi vua A-si-ri đã bị như thế thì làm sao chúng ta trốn thoát được?’” Lời tiên tri về đồng hoang bên cạnh biển.Như cơn gió lốc càn quét vùng đất phía nam,Nó đến từ đồng hoang,Từ miền đất kinh hoàng. Tôi được báo một khải tượng hãi hùng:Kẻ phản bội, phản bội; kẻ hủy diệt, hủy diệt.Hỡi người Ê-lam hãy tiến lên, hỡi người Mê-đi hãy bao vây.Ta sẽ làm cho mọi tiếng than vãn nó gây ra chấm dứt. Cho nên lưng tôi đầy đau đớn;Cơn quặn thắt chiếm lấy tôi như cơn quặn thắt khi sinh đẻ.Tôi ngã quỵ khi nghe,Tôi kinh hoàng khi thấy. Lòng tôi bối rối,Sự khủng khiếp đổ xuống tôi,Buổi hoàng hôn mà tôi mơ ướcĐã làm cho tôi run rẩy. Người ta sửa soạn bữa tiệc,Trải thảm,Ăn và uống.Hỡi các hoàng tử, hãy đứng lên,Hãy xức dầu cho thuẫn của các ngươi. Vì Chúa phán với tôi như vầy:“Hãy đi, đặt một người canh gác,Để người báo cáo điều gì mình thấy. Khi nó thấy kỵ binh,Từng cặp cưỡi ngựa,Cưỡi lừa,Cưỡi lạc đàThì phải chú ýLắng nghe thật kỹ.” Người canh gác la lên:“Lạy Chúa, tôi đứng trên vọng canh suốt ngày,Tôi ở tại trạm canh suốt đêm. Kìa, nó đến đây rồi. Người kỵ binh,Từng cặp cưỡi ngựa.Nó đáp lời và nói:‘Ba-by-lôn đã sụp đổ, đã sụp đổ.Tất cả tượng các thần của nóĐã đổ nát dưới đất.’” Hỡi những kẻ bị chà đạp và sàng sẩy của tôi,Những điều ta ngheTừ CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ênThì ta loan báo cùng các ngươi. Lời tiên tri về Đu-ma.Từ Sê-i-rơ có tiếng gọi tôi:“Người canh ơi, đêm còn dài không?Người canh ơi, đêm còn dài không?” Người canh đáp lời:“Buổi sáng sẽ đến, và đêm cũng đến,Nếu muốn hỏi, hãy hỏi đi.Hãy trở lại, hãy đến.” Lời tiên tri về A-ra-bia.Hỡi đoàn thương nhân Đê-đan,Các người sẽ trọ qua đêm trong các bụi cây A-ra-bia. Hãy đem nước cho người khát,Hỡi dân cư tại Thê-ma,Hãy đem bánh đón người tị nạn. Vì họ chạy trốn gươm đao,Trốn gươm tuốt trần,Trốn cung giương lên,Trốn áp lực chiến tranh. Vì Chúa đã phán cùng tôi như vầy: “Trong vòng một năm, như các năm của một người làm thuê, tất cả vinh quang của Kê-đa sẽ chấm dứt. Những người còn sót lại trong số những dũng sĩ cầm cung của dân Kê-đa sẽ rất ít.” Vì CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã phán. Lời tiên tri về thung lũng khải tượng.Này, có điều gì xảy raMà tất cả các ngươi đều leo lên mái nhà vậy? Một thành đầy tiếng la hét, ồn ào,Một thành vui vẻ?Người chết của các ngươi không phải chết vì gươm,Cũng chẳng phải chết nơi chiến trận. Tất cả những người cai trị các ngươi đều cùng nhau chạy trốn;Họ bị bắt trói mà không cần đến một cây cung.Tất cả những kẻ người ta tìm đượcĐều cùng bị bắt trói dù họ đã trốn đi xa. Cho nên tôi bảo: “Đừng nhìn tôi,Hãy để tôi khóc lóc cay đắng.Đừng cố gắng an ủi tôiVề sự hủy diệt của con gái dân tôi.” Vì CHÚA Vạn Quân đã định một ngàyBối rối, chà đạp và nổi loạnNơi thung lũng khải tượng;Các tường thành đổ nát,Tiếng kêu cứu đến tận núi. Ê-lam mang giỏ tên,Có xe chiến mã và kỵ binh.Ki-rơ mở thuẫn. Các thung lũng tốt đẹp nhất của ngươi sẽ đầy xe chiến mãVà kỵ binh dàn trận tại trước cổng thành. Ngài đã lấy đi sự phòng thủ Giu-đa.Vào ngày ấy các ngươi trông vàoVũ khí nơi nhà kho trong rừng. Các ngươi thấy thành Đa-vítCó nhiều kẽ nứtNên trữ nướcTừ ao dưới. Các ngươi đếm nhà tại Giê-ru-sa-lemRồi phá nhà cửa để củng cố tường thành. Các ngươi xây hồ giữa hai tường thànhĐể chứa nước ao cũNhưng không trông vào đấng đã làm ra nó,Không nhìn vào đấng đã trù hoạch việc đó từ xưa. Vào ngày ấy, CHÚA Vạn QuânKêu gọi các ngươiHãy khóc lóc, than vãn,Cạo đầu và mặc đồ tang chế. Nhưng kìa, các ngươi vui mừng, hân hoan,Giết bò, mổ cừu,Ăn thịt, uống rượu.“Chúng ta hãy ăn, uốngVì ngày mai chúng ta sẽ chết.” CHÚA Vạn Quân bày tỏ vào tai tôi: “Tội này sẽ không được tha cho đến ngày các ngươi chết,” CHÚA Vạn Quân phán. CHÚA Vạn Quân phán như vầy:“Hãy đến, đi đến cùng người quản gia kia,Là Sép-na, người quản trị cung điện. Ngươi có gì ở đây? Ngươi có ai ở đâyMà ngươi đục cho mình một ngôi mộ ở đây?Ngươi đục cho mình một ngôi mộ ở trên cao,Đẽo cho mình một chỗ trong vầng đá? Này, hỡi kẻ mạnh mẽ kia, CHÚA sẽ ném ngươi đi một cách mạnh mẽVà nắm cánh tay ngươi. Ngài sẽ cuộn ngươi lại thành cuốn, như quả bóngNém vào vùng đất mênh mông.Ngươi sẽ chết ở đó,Là nơi các xe chiến mã vinh quang của ngươi nằm,Là sự nhục nhã cho nhà chủ ngươi. Ta sẽ cách chức ngươiVà truất ngươi khỏi địa vị ngươi. Vào ngày ấy Ta sẽ gọi tôi tớ Ta là Ê-li-a-kim, con trai Hinh-kia. Ta sẽ lấy áo ngươi mặc cho người, lấy đai ngươi thắt cho người, trao quyền của ngươi vào tay người. Người sẽ là cha của cư dân Giê-ru-sa-lem và nhà Giu-đa. Ta sẽ đặt chìa khóa nhà Đa-vít trên vai người; người sẽ mở thì không ai đóng được và đóng thì không ai mở được. Ta sẽ đóng người như cái chốt vào nơi chắc chắn; và người sẽ trở nên một ngôi vinh quang cho nhà cha mình. Người ta sẽ treo trên người tất cả vinh quang của nhà cha người, từ con cháu dòng họ, cả những chậu vại bé nhỏ; từ chén đất đến tất cả các bình. Vào ngày ấy,” CHÚA Vạn Quân phán: “Cái chốt đóng ở nơi chắc chắn sẽ long; nó bị chặt bỏ và rớt xuống; gánh nặng treo trên nó sẽ bị chặt đứt,” vì CHÚA phán vậy. Lời tiên tri về Ty-rơ:Hỡi các tàu bè Ta-rê-si, hãy than khócVì nó đã bị hủy pháKhông còn nhà cửa hay hải cảng.Từ vùng đất Kít-tinNgười ta đã nghe tiếng đồn. Hãy nín đi, hỡi dân cư hải đảo,Hỡi các thương nhân ở Si-đôn,Là nơi đầy khách vượt biển. Trên các biển lớn,Nguồn lợi của ngươi là hạt giống từ Si-hô,Mùa màng của sông Ninh.Ngươi là thị trường của các nước. Hỡi Si-đôn, hãy hổ thẹn vì biển đã nói,Thành lũy của biển cả đã tuyên bố:“Ta không đau đẻ cũng không sinh con,Ta không nuôi con trai cũng không dưỡng con gái.” Khi tin tức đến Ai Cập,Người ta sẽ đau khổ khi nghe tin tức về Ty-rơ. Hãy chạy qua Ta-rê-si.Hỡi dân cư hải đảo, hãy than khóc. Có phải đây là thành vui vẻ của các ngươi không?Là thành có từ xa xưa,Thành đã gởi ngườiĐi xa lập nghiệp. Ai là người đã định điều này nghịch cùng Ty-rơ?Là thành ban phát các mão miện;Thành có thương nhân là các hoàng tử;Thành có các nhà buôn được tôn trọng khắp đất. CHÚA Vạn Quân đã định như vậy,Để làm ô uế sự kiêu ngạo của tất cả vinh hiểnVà làm nhục mọi kẻ được tôn trọng trên đất. Hỡi con gái Ta-rê-si,Hãy đi xuyên qua đất ngươi như sông Ninh,Không còn hải cảng cho ngươi. Cánh tay Ngài đã giương lên trên biển,Ngài làm các vương quốc rúng động.CHÚA đã ra lệnh về Ca-na-anĐể hủy diệt các thành lũy của nó. Ngài phán: “Ngươi sẽ chẳng được vui mừng nữa,Hỡi con gái đồng trinh tại Si-đôn bị áp bức,Hãy đứng dậy, chạy qua Kít-tin,Ở đó ngươi cũng không được bình an đâu.” Hãy xem đất người Canh-đê,Dân này không là gì cả.Người A-si-ri đã làm cho nóThành chỗ ở của thú rừng;Chúng dựng tháp vây thành;Chúng cướp sạchVà làm cho các lâu đài hoang tàn. Hỡi tàu bè Ta-rê-si, hãy than khócVì thành lũy các ngươi đã bị hủy diệt. Lúc ấy thành Ty-rơ sẽ bị quên lãng trong bảy mươi năm, như năm tháng của một vua. Mãn bảy mươi năm, thành Ty-rơ sẽ như bài hát của một cô điếm. “Hỡi cô điếm đã bị lãng quên,Hãy lấy đàn, đi khắp thành.Hãy đàn thật hay, hát nhiều bài hát,Để người ta nhớ đến mầy.” Mãn bảy mươi năm CHÚA sẽ thăm viếng Ty-rơ và nó trở lại thực hành nghề cũ, buôn hương với tất cả các vương quốc trên mặt đất. Nhưng hàng hóa và tiền công của nó sẽ được để riêng ra cho CHÚA, không tích trữ cũng không cất giấu. Hàng hóa ấy sẽ cung cấp thực phẩm dồi dào và quần áo đẹp đẽ cho những người ở trước mặt CHÚA. Nầy CHÚA sẽ tàn phá quả đấtVà làm cho nó hoang tàn.Ngài sẽ bóp méo mặt đấtVà làm dân cư tan lạc. Thầy tế lễ cũng như dân chúng,Tôi trai cũng như ông chủ,Tớ gái cũng như bà chủ,Người mua cũng như kẻ bán,Kẻ cho mượn cũng như người mượn,Chủ nợ cũng như người thiếu nợ; Quả đất sẽ bị tàn phá, tan nát,Bị cướp bóc và chiếm đoạt.Vì CHÚA đã phán lời này. Quả đất sẽ bị khô hạn và tàn héo,Thế giới mòn mỏi và tàn héo,Những kẻ được tôn trọng trên đất mòn mỏi. Quả đất bị dân cư làm ô uế;Vì họ không tuân luật,Vi phạm điều lệ,Phạm giao ước đời đời. Cho nên sự rủa sả đã ăn nuốt đất,Dân cư phải mắc tội.Cho nên dân cư trên đất bị thiêu đốt,Chỉ có ít người còn sót lại. Rượu mới khô hạn, cây nho mòn mỏi,Mọi tấm lòng vui tươi đều than thở. Tiếng trống vui vẻ đã dứt,Tiếng vui nhộn đã ngừng,Tiếng đàn vui vẻ đã tắt. Người ta không còn uống rượu ca hát,Rượu mạnh trở nên đắng cho người uống. Thành rối loạn đã sụp đổ,Mọi nhà đều đóng cửa, không ai vào được. Người ta kêu la trên đường phố để tìm rượu,Mọi sự hân hoan trở nên tối tăm,Mọi sự vui vẻ trên đất biến mất. Trong thành chỉ còn tiêu điều,Cổng thành bị đập phá tan nát. Các dân trên đất sẽ như vậy,Sẽ như cây ô-liu bị rung;Như mót nho sau khiMùa hái nho đã hết. Họ cất tiếng ca hát vui mừng,Từ biển cả họ tung hô sự uy nghiêm của CHÚA. Cho nên hỡi người ở phương đông, hãy tôn vinh CHÚA.Hỡi người ở các hải đảo hãy tôn vinh danh CHÚA,Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên Từ đầu cùng quả đất chúng tôi nghe những bài hát ca ngợi:“Hãy tôn vinh Đấng Công Chính.”Nhưng tôi nói: “Tôi mệt mỏi, tôi mệt mỏi,Khốn nạn cho tôi.Những kẻ phản bội,Những kẻ phản bội phản trắc lắm.” Hỡi dân cư trên đất, kinh hoàng,Hầm hố và bẫy lưới đang chờ đợi các ngươi. Người nào trốn thoát khi nghe tiếng kinh hoàngSẽ rơi xuống hố.Người trèo lên miệng hốSẽ bị mắc bẫyVì các cửa sổ trên trời đều mở,Các nền của đất đều rung chuyển. Quả đất bị vỡ tan tành;Đất bị nứt rạn,Đất bị rung chuyển dữ dội. Đất nghiêng ngả như người say;Lắc lư như chiếc chòi tranh.Tội lỗi nặng trĩu trên đất;Nó sẽ sụp đổ và không dậy được nữa. Vào ngày ấy CHÚA sẽ hình phạtCác cơ binh trên trờiVà các vua chúa của loài người dưới đất. Họ sẽ bị tập trung lạiNhư tù binh dưới hầm sâuVà bị nhốt trong ngục.Sau nhiều ngày họ sẽ bị hình phạt. Mặt trăng sẽ bối rối, mặt trời sẽ hổ thẹnVì CHÚA Vạn Quân sẽ cai trịTrên núi Si-ôn tại Giê-ru-sa-lemMột cách vinh quang trước mặt các trưởng lão. Lạy CHÚA, Ngài là Đức Chúa Trời tôi.Tôi tôn vinh Ngài, ca ngợi danh Ngài.Vì Ngài đã làm những việc kỳ diệuCách hoàn toàn thành tín,Là những việc đã định từ xưa. Vì Ngài đã làm cho thành trở nên một đống đất,Thành lũy kiên cố trở nên đổ nát,Dinh thự của người ngoại quốc không còn là thành nữa,Nó sẽ chẳng bao giờ được xây cất trở lại. Cho nên dân tộc hùng cường sẽ tôn vinh Ngài,Thành của các nước bạo ngược sẽ kính sợ Ngài. Vì Ngài là thành tín cho kẻ nghèo,Là thành trì cho kẻ khốn khó trong cơn gian nan của họ;Là nơi trú ẩn khỏi cơn bão tố,Là bóng mát tránh cơn nóng cháyKhi hơi thở của kẻ bạo ngượcNhư bão tố thổi vào tường thành, Như sức nóng trong sa mạc.Ngài khuất phục tiếng huyên náo của người ngoại quốcNhư sức nóng dưới bóng mát của đám mây;Tiếng hát của kẻ bạo ngược im bặt. Tại núi nầy, CHÚA Vạn Quân sẽ ban cho mọi dân tộcMột tiệc yến béo bổ,Một tiệc yến với rượu ngon;Thịt béo với tủy; rượu ngon tinh khiết. Tại núi nầy, Ngài sẽ hủy diệtCái màn che mặt phủ trên tất cả các dân tộc,Tấm khăn che trên khắp các nước. Ngài sẽ hủy diệt sự chết đến đời đời.CHÚA sẽ lau ráo nước mắtTrên mọi mặt;Ngài sẽ cất đi sự nhục nhã của dân NgàiTrên toàn quả đất.Vì CHÚA đã phán vậy. Vào ngày ấy người ta sẽ nói rằng:“Kìa, đây là Đức Chúa Trời của chúng ta.Chúng tôi đã trông đợi Ngài để Ngài cứu rỗi chúng tôi.Đây là CHÚA mà chúng ta đã trông đợi,Chúng ta hãy hân hoan và vui mừng trong sự cứu rỗi của Ngài.” Vì tay CHÚA sẽ đặt trên núi này,Nhưng Mô-áp sẽ bị chà đạp tại chỗ nóNhư rơm rạ bị chà đạp nơi hố phân. Dù họ giương tayNhư người bơi lội giương tay để bơi;Ngài sẽ hạ sự kiêu ngạo của nó xuốngDù tay nó khéo léo. Những nơi cao, kiên cố trên thành ngươi,Ngài sẽ phá đổ, sẽ hạ xuống,Ném xuống đất,Xuống tận bụi đất. Vào ngày ấy, tại đất Giu-đa người ta sẽ hát bài hát này:Chúng ta có thành vững chắc,Ngài dấy sự cứu rỗiLàm thành làm lũy. Hãy mở các cổngĐể một nước công chính,Là nước giữ đức tin vào đó. Người nào có tâm trí kiên định,Ngài ban cho sự bình an hoàn toànVì người tin cậy nơi Ngài. Hãy tin cậy nơi CHÚA đời đời,Vì trong Chúa, chính CHÚA là vầng đá muôn đời. Vì Ngài đã hạ thấp những cư dân cao cả,Phá đổ thành kiêu kỳ,Phá đổ xuống đất,Ném nó xuống tận bụi đất; Bị chà đạp dưới chân,Là chân của những người khốn cùng,Bước chân của những người thiếu thốn. Con đường của người công chính là ngay thẳng,Lạy Đấng Ngay Thẳng, Ngài làm con đường của người công chính suôn sẻ. Thật vậy, trên con đường đoán xét của Ngài, lạy CHÚA,Chúng tôi trông đợi Ngài.Linh hồn chúng tôi khao khát danh NgàiVà sự kỷ niệm Ngài. Ban đêm linh hồn tôi khao khát Ngài,Phải, ban mai, tâm linh tôi tìm kiếm Ngài.Vì khi Ngài đoán xét quả đấtThì dân cư thế giới học sự công chính. Dù được ơn, kẻ ácVẫn không học sự công chính,Ở trên đất ngay thẳng nó vẫn hành động gian ácVà không thấy sự uy nghiêm của CHÚA. Lạy CHÚA, tay Ngài đã giương lênNhưng chúng nó vẫn không thấy.Hãy để chúng nó hổ thẹn khi thấy sự nhiệt thành của Ngài đối với dân Ngài.Thật vậy, hãy để lửa dành cho kẻ thù của Ngài thiêu nuốt chúng. Lạy CHÚA, Ngài lập sự bình an cho chúng tôi.Vì tất cả những gì chúng tôi thực hiện, Ngài đã làm cho chúng tôi. Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời chúng tôi. Ngoài Ngài có các Chúa khác cũng đã cai trị chúng tôi,Nhưng chúng tôi ghi nhận một mình danh Ngài. Họ đã chết, không còn sống nữa,Bóng ma sẽ không dậy được.Thật vậy Ngài sẽ trừng phạt và hủy diệt chúng,Ngài đã quét sạch tất cả di tích chúng nó. Lạy CHÚA, Ngài tăng cường đất nước này,Lạy CHÚA, Ngài tăng cường đất nước này.Ngài được vinh quang.Ngài mở mang mọi bờ cõi của đất nước. Lạy CHÚA, trong khi sầu khổ họ tìm kiếm Ngài,Họ thì thầm lời cầu khẩnKhi Ngài trừng phạt họ. Như người đàn bà mang thai sắp sinh,Người quặn thắt, kêu la trong cơn đau đớn,Lạy CHÚA, chúng tôi cũng vậy vì cớ Ngài. Chúng tôi đã có mang, chúng tôi quặn thắtNhưng chúng tôi sinh ra gió.Chúng tôi không đem lại sự cứu rỗi trên đất,Và dân không ra đời trên thế gian. Những kẻ chết của ngươi sẽ sống,Các xác chết của ta sẽ sống lại.Hỡi những kẻ ở trong bụi đất,Hãy thức dậy và vui mừng ca hát.Vì sương của người là sương ban mai,Và đất của bóng ma sẽ sinh sản. Hỡi dân ta, hãy đi, vào phòng ngươi,Đóng cửa lại sau ngươi;Hãy ẩn núp ít lâuCho đến khi cơn thịnh nộ đã qua. Vì kìa, CHÚA từ chỗ Ngài đếnĐể trừng phạt dân cư trên đất vì tội lỗi họ.Bấy giờ đất sẽ bày tỏ các vụ đổ máu ra,Nó không che giấu những người bị giết nữa. Vào ngày ấy,CHÚA sẽ dùng gươm cứng,Lớn và mạnh để trừng phạt:Lê-vi-a-than, là con rắn lanh lẹ,Phạt Lê-vi-a-than, là con rắn uốn khúc.Ngài sẽ giết con rồng dưới biển. Vào ngày ấy“Hãy hát về một vườn nho sinh rượu. Chính Ta, CHÚA là Đấng canh giữ nó,Ta thường xuyên tưới nước.Ta sẽ canh giữ nó ngày đêmKẻo có người phá hại chăng. Ta không nóng giận.Nhưng nếu nó chỉ sinh chà chuôm và gai gốc cho Ta,Ta sẽ ra trận chiến đấu nghịch chúng nó,Ta sẽ thiêu đốt chúng nó với nhau. Ngoại trừ chúng nó nhờ Ta bảo vệ,Hãy làm hòa với Ta,Hãy làm hòa với Ta.” Trong những ngày đến, Gia-cốp sẽ đâm rễ,Y-sơ-ra-ên sẽ nẩy mầm và trổ hoa;Trái đầy trên khắp thế giới. Có phải Đức Chúa Trời đã đánh chúngNhư Ngài đã đánh kẻ đánh chúng không?Hay chúng có bị giếtNhư những kẻ đã giết hại chúng bị giết không? Cùng một cách ấy Ngài bằng lòng để cho chúng nó bị lưu đày.Ngài dùng ngọn gió mạnh dời chúng điTrong ngày gió đông thổi. Cho nên, nhờ điều này mà tội của Gia-cốp sẽ được tha;Và đây là tất cả kết quả của sự xóa bỏ tội lỗi nó điKhi nó làm cho tất cả đá bàn thờNhư đá vôi bị đập nát;Không còn tượng Át-tạc-têHay bàn thờ dâng hương đứng vững. Vì thành bền vững đã trở nên hoang vắng,Nơi định cư đã bị bỏ hoang và quên lãng như sa mạc.Ở đó bò tơ ăn cỏ;Ở đó nó nằmVà gặm các cành cây. Khi cành khô gãy;Các phụ nữ đến lấy mà nhóm lửa.Vì dân này không hiểu biếtNên Đấng làm nên chúng không thương xótVà Đấng tạo ra chúng không ban ơn cho. Vào ngày ấy CHÚA sẽ đập lúa từ sông Ê-phơ-rát đến suối Ai Cập; hỡi con cái Y-sơ-ra-ên, các ngươi sẽ được thu nhặt từng người một. Vào ngày ấy, có tiếng kèn lớn thổi lên; những kẻ thất lạc trên đất A-si-ri và những kẻ bị lưu đày trên đất Ai Cập sẽ đến thờ phượng CHÚA trên núi thánh tại Giê-ru-sa-lem. Khốn cho vòng hoa kiêu ngạo của những người Ép-ra-im say sưa;Khốn cho đóa hoa tàn phai; là sự vinh quang hoa mỹỞ trên đầu thung lũng phì nhiêuCủa những người say rượu. Nầy, Chúa có một kẻ mạnh mẽ và dữ dộiNhư giông tố mưa đá, như cơn gió tàn phá,Như giông tố nước lớn tràn ngập.Ngài lấy tay ném nó xuống đất. Vòng hoa kiêu ngạo của những người Ép-ra-im say sưaSẽ bị chà đạp dưới chân. Đóa hoa tàn phai, sự vinh quang hoa mỹỞ trên đầu thung lũng phì nhiêuSẽ giống như trái vả chín trước mùa hạ.Ngay khi người ta thấy nó và tay vừa háiThì đã nuốt ngay. Vào ngày ấy CHÚA Vạn QuânSẽ là vòng hoa vinh quang,Vương miện xinh đẹpCho những người còn sót lại của dân Ngài. Là thần công bìnhCho người ngồi trên tòa xét xử,Là sức mạnhCho những người đẩy lui trận chiến tại cửa thành. Nhưng những người ấy lảo đảo vì rượu nho,Nghiêng ngả vì rượu mạnh.Thầy tế lễ và tiên tri đều lảo đảo vì rượu mạnh;Họ bị rượu nho ăn nuốt,Bị rượu mạnh làm cho nghiêng ngả;Họ lảo đảo khi thấy khải tượngVà vấp ngã trong khi xét xử. Thật vậy, người ta ói mửa đầy cả bàn tiệc,Không có chỗ nào sạch. “Ngài sẽ dạy kiến thức cho ai?Ngài sẽ giải thích sứ điệp cho ai?Có phải cho trẻ con vừa dứt sữa,Vừa rời vú mẹ chăng? Vì:Lệnh này đến lệnh nọ, lệnh này đến lệnh nọ;Thước đo này đến thước đo nọ, thước đo này đến thước đo nọ.Một chút chỗ này, một tí chỗ kia.” Thật vậy, Ngài sẽ dùng môi miệng lắp bắpVà ngôn ngữ xa lạ nói với dân này. Ngài phán với họ:“Đây là nơi yên nghỉ, hãy để cho kẻ mệt mỏi yên nghỉ;Đây là nơi yên tĩnh”Nhưng chúng nó không nghe. Nên lời của CHÚA cho họ sẽ là:Lệnh này đến lệnh nọ, lệnh này đến lệnh nọ;Thước đo này đến thước đo nọ, thước đo này đến thước đo nọ.Một chút chổ này, một tí chỗ kiaĐể chúng nó đi tới và ngã ngửa,Bị đánh tan, bị sập bẫy và bị bắt. Cho nên, hãy nghe lời của CHÚA. Hỡi những người chế nhạo,Là người cai trị dân này tại Giê-ru-sa-lem. Vì các ngươi nói rằng: “Chúng ta đã kết ước với sự chết,Chúng ta đã có hợp đồng với Âm phủ.Khi tai họa lớn lao càn quétThì nó sẽ không đụng đến chúng ta,Vì chúng ta dùng sự gian dối để trú ẩnVà lừa đảo để trốn tránh.” Cho nên CHÚA phán thế này:“Này, Ta đặt tại Si-ôn một tảng đá,Tảng đá thử nghiệm,Là đá góc nhà quí báu, một nền móng vững chắcĐể ai tin cậy sẽ không hốt hoảng. Ta sẽ lấy sự công bình làm thước đoVà sự công chính làm dây chuẩn.Mưa đá sẽ quét sạch nơi trú ẩn gian dốiVà nước sẽ tràn ngập chỗ trốn tránh. Bây giờ giao ước của các ngươi với sự chết sẽ bị hủy bỏ,Hợp đồng của các ngươi với Âm phủ sẽ không đứng vững.Khi tai họa lớn lao càn quétThì ngươi sẽ bị nó chà đạp. Mỗi khi tai họa đến, nó sẽ bắt lấy các ngươi.Sáng này đến sáng khác, ban ngày cũng như ban đêm,Tai họa sẽ đến.Hiểu được sứ điệp nàySẽ là một sự kinh hoàng.” Vì giường thì quá ngắn để nằm duỗi chân,Mền thì quá nhỏ để quấn quanh mình. Vì CHÚA sẽ đứng lên như tại núi Phê-ra-xim,Sẽ nổi giận như tại thung lũng Ga-ba-ônĐể làm công việc Ngài, là công việc lạ lùng;Để thực hiện công tác Ngài, là công tác xa lạ. Cho nên bây giờ, chớ khinh lờn,E rằng xiềng xích của các ngươi sẽ nặng nề hơn chăng.Vì ta có nghe từ CHÚA Vạn QuânLệnh hủy diệt toàn cả đất. Hãy lắng tai nghe tiếng ta,Hãy chú ý nghe lời ta. Có phải người cầy để gieo giống cứ cầy mỗi ngày không?Có phải người cứ vỡ đất và bừa mãi sao? Không phải khi đã san bằng mặt đấtThì người rải hạt thìa là và gieo thìa là đen sao?Chẳng phải người trồng lúa mì trên luống,Lúa mạch theo chỗ nóVà đại mạch trong lằn ranh nó sao? Ấy là Đức Chúa Trời chỉ dẫn người đúngVà dạy cho người. Vì người ta không dùng búa mà đập thìa là,Hay dùng bánh xe mà cán thìa là đenNhưng thìa là thì đập bằng queVà thìa là đen thì bằng gậy. Lúa mì được xay ra để làm bánhNhưng không đập mãi.Dù bánh xe hay ngựa cán trên lúaCũng không nghiền nát. Điều này cũng đến từ CHÚA Vạn Quân.Kế hoạch của Ngài thật kỳ diệu, sự khôn ngoan của Ngài là vĩ đại. Khốn cho A-ri-ên, A-ri-ên,Là thành Đa-vít đã đóng trại.Năm này đến năm nọ cứ thêm lên;Hãy để cho lễ hội xoay vần. Nhưng ta sẽ làm cho A-ri-ên buồn thảm;Sẽ có khóc lóc, than vãn;Đối với ta nó sẽ như bàn thờ dâng tế lễ. Ta sẽ đóng trại bao vây ngươi,Lập đồn chống ngươiVà đắp lũy chung quanh nghịch ngươi. Ngươi sẽ bị hạ thấp. Ngươi sẽ nói từ dưới đất,Lời nói ngươi bị hạ thấp từ bụi đất.Tiếng ngươi sẽ giống như tiếng ma quái ra từ đất,Lời nói ngươi thì thầm như bụi đất. Nhưng đám đông kẻ thù ngươi sẽ như bụi nhỏ,Và đám đông tàn bạo sẽ như trấu tung bay.Nó sẽ xảy đến thình lình, ngay tức khắc. CHÚA Vạn Quân sẽ dùngSấm sét, động đất, tiếng động lớn,Bão trốt, giông tố và ngọn lửa thiêu đốt mà phạt nó. Đám đông tất cả các nước đánh A-ri-ên,Tất cả những kẻ tấn công, phá thành lũyVà làm cho nó buồn thảm sẽ như chiêm bao,Như khải tượng ban đêm. Chúng nó sẽ như người đói mơ thấy mình ănNhưng thức dậy mình vẫn đói;Như người khát mơ thấy mình uốngNhưng thức dậy bị kiệt sức, và mình vẫn khát.Đám đông tất cả các nướcTấn công núi Si-ôn cũng sẽ như vậy. Hãy kinh ngạc và sững sờ.Hãy làm cho mình mù lòa và không thấy.Hãy say nhưng không phải vì rượu nho,Hãy lảo đảo nhưng không phải vì rượu mạnh. Vì CHÚA đã đổ thần ngủ mê trên các ngươi.Ngài đã bịt mắt các ngươi, là các tiên tri,Và trùm đầu các ngươi, là các vị tiên kiến. Khải tượng về tất cả những điều này đối với các ngươi sẽ như lời của một cuốn sách bị niêm phong. Nếu đưa cho một người biết đọc và bảo: “Hãy đọc sách này,” người ấy sẽ nói: “Tôi không thể đọc được vì sách này đã niêm phong.” Và nếu đưa cuốn sách cho một người không biết đọc rồi bảo: “Hãy đọc sách này,” người ấy sẽ nói: “Tôi không biết đọc.” Chúa phán:“Vì dân này đến gần Ta bằng miệng;Tôn vinh Ta bằng môiNhưng lòng thì xa cách Ta.Sự chúng nó kính sợ TaChỉ là điều răn của loài người, do loài người dạy bảo. Cho nên, này một lần nữa, Ta sẽ làm cho dân này kinh ngạc,Từ kinh ngạc này đến kinh ngạc khác.Sự khôn ngoan của người khôn ngoan sẽ tiêu mất,Sự thông thái của người thông thái sẽ bị giấu kín. Khốn cho những kẻ giấu chương trình của mình một cách sâu kínKhỏi CHÚA.Chúng làm việc trong bóng tối và nói:Ai sẽ thấy, ai sẽ biết chúng ta?” Các ngươi thật ngược đời.Thợ gốm mà coi như đất sét!Đồ vật có nên nói với người làm ra mình:“Người không làm ra tôi,”Hay đồ gốm nói với thợ gốm rằng:“Người không hiểu.” Có phải trong ít lâu nữa Li-ban sẽ trở thành ruộng phì nhiêuVà ruộng phì nhiêu được coi như rừng rậm hay sao? Vào ngày ấy, kẻ điếc sẽ nghe lời trong sách,Con mắt kẻ mù từ nơi tối tămSẽ thấy. Những kẻ khốn cùng sẽ một lần nữa vui mừng trong CHÚA.Những kẻ nghèo khổ giữa loài người sẽ hân hoan trong Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên. Vì những kẻ bạo ngược sẽ hết,Những kẻ chế nhạo sẽ chấm dứtVà tất cả những kẻ sẵn sàng làm ác đều sẽ bị đốn ngã. Những kẻ dùng lời nói làm cho người ta bị kết án;Những kẻ gài bẫy người thưa kiện tại toà;Và những kẻ dùng lý do giả dối gạt bỏ công bình cho những người vô tội. Cho nên, CHÚA, Đấng cứu chuộc Áp-ra-ham phán về nhà Gia-cốp thế này:“Gia-cốp sẽ không còn hổ thẹn nữa,Mặt người sẽ không còn tái xanh nữa. Vì khi người thấy con cái mình ở giữa mình,Tức là công việc của tay Ta,Thì chúng sẽ tôn thánh danh Ta;Tôn thánh Đấng Thánh của Gia-cốpVà sẽ kính sợ Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Những kẻ có tâm thần lầm lạc sẽ hiểu biếtVà những kẻ hay than phiền sẽ được giáo huấn.” CHÚA phán:“Khốn cho con cái bướng bỉnh,Lập kế hoạch nhưng không phải của Ta,Kết liên minh nhưng không phải bởi thần Ta,Cho nên tội càng thêm tội. Chúng nó đi xuống Ai CậpNhưng không hỏi ý Ta,Nhờ Pha-ra-ôn bảo vệVà núp bóng Ai Cập. Cho nên sự bảo vệ của Pha-ra-ôn sẽ là sự hổ thẹn cho các ngươiVà sự núp bóng Ai Cập sẽ là điều sỉ nhục. Dù các hoàng tử nó đã có mặt tại Xô-an,Các đại sứ nó đã đến Ha-ne. Tất cả đều sẽ bị hổ thẹnVì một dân chẳng ích lợi gì cho mình;Chẳng giúp đỡ cũng chẳng ích lợi gìNhưng đem lại hổ thẹn và nhục nhã.” Lời tiên tri về các thú vật ở Nê-ghép.Trong một vùng đất gian nan, sầu khổ;Xứ của sư tử đực và sư tử cái;Xứ của rắn lục và rắn lửa bay.Chúng nó chở của cải trên lưng lừa,Chở các báu vật trên lưng lạc đàĐến một dân chẳng giúp ích gì chúng được. Sự giúp đỡ của Ai Cập chỉ là vô ích, hư không,Cho nên Ta gọi nó là Ra-háp,Kẻ ngồi yên chẳng làm được gì! Bây giờ, hãy đi, khắc nó trên một tấm bảng cho họ,Chép nó vào một cuốn sáchĐể làm bằng chứngCho những ngày sau đời đời. Vì dân này phản nghịch, con cái bội tín,Con cái không muốn nghe lời giáo huấn của CHÚA. Chúng nói với những vị tiên kiến rằng:“Đừng nhìn thấy;”Với những vị tiên tri:“Đừng phán tiên tri cho chúng tôi những điều phải.Hãy nói cho chúng tôi những điều dễ nghe,Hãy phán tiên tri những điều ảo tưởng cho chúng tôi. Hãy từ bỏ con đường,Hãy rẽ khỏi lối;Hãy cất bỏ Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ênKhỏi trước mặt chúng tôi.” Cho nên Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên phán như vầy:“Vì các ngươi đã từ khước lời nàyNhưng tin cậy vào áp bứcVà lừa dối. Vì vậy, tội các ngươi sẽNhư một bức tường cao bị nứt, bể ra sắp sụp.Tường sẽ thành bình bể nát trong nháy mắt. Nó sẽ sụp đổ như bình gốmBị bể nát không thương tiếcĐến nỗi người ta không tìm được một mảnh nào trong các mảnh vụnĐể lấy lửa từ bếpHay múc nước từ hồ.” Vì CHÚA, Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên phán như vầy:“Các ngươi sẽ được giải cứu nhờ quay trở lại và yên nghỉ.Các ngươi sẽ được sức mạnh nhờ yên lặng và tin cậy.Nhưng các ngươi không muốn như thế. Các ngươi nói: ‘Không, chúng tôi sẽ cưỡi ngựa chạy trốn.’Vì vậy các ngươi sẽ chạy trốn.‘Chúng tôi sẽ cưỡi ngựa chạy nhanh,’Vì vậy những kẻ săn đuổi các ngươi cũng chạy nhanh. Một người dọa,Ngàn người bỏ chạy;Năm người dọa,Các ngươi đều bỏ chạyCho đến khi số người còn sót lạiNhư cây trên đỉnh núi,Như bảng hiệu trên đồi.” Thật ra, CHÚA chờ đợi để ban ơn cho các ngươi.Thật vậy, Ngài sẽ đứng lên để tỏ lòng thương xót các ngươi.Vì CHÚA là Đức Chúa Trời công bình.Phước cho người nào trông đợi Ngài. Vì hỡi dân ở Si-ôn, những người ở tại Giê-ru-sa-lem, các ngươi sẽ chẳng khóc lóc nữa. Chắc chắn khi các ngươi kêu, Ngài sẽ ban ơn; khi nghe tiếng ngươi, Ngài sẽ đáp lời. Dù Chúa ban cho các ngươi bánh nghịch cảnh và nước buồn phiền nhưng Đấng hướng dẫn ngươi sẽ không còn ẩn mặt nữa, mắt ngươi sẽ thấy Đấng hướng dẫn ngươi. Tai các ngươi sẽ nghe tiếng nói từ phía sau: “Đây là con đường, hãy đi theo” khi các ngươi rẽ sang bên phải hay bên trái. Các ngươi sẽ phế bỏ các tượng dát bạc, các hình tượng bọc vàng của mình. Các ngươi sẽ ném chúng nó ra xa như đồ ô uế và bảo: “Hãy ra khỏi đây!” Ngài sẽ ban mưa cho hạt giống các ngươi gieo trên đồng ruộng. Bánh, là sản phẩm của đồng ruộng sẽ trù phú và nhiều. Vào ngày ấy súc vật của các ngươi sẽ gặm cỏ nơi đồng ruộng. Bò và lừa cày ruộng sẽ ăn rơm rạ chọn lọc vừa được người ta dùng chĩa và xẻng để rải ra. Vào ngày chém giết lớn, các thành lũy sụp đổ; trên tất cả các núi cao, các đồi lớn đều sẽ có suối nước chảy. Ánh sáng mặt trăng sẽ giống như ánh sáng mặt trời, ánh sáng mặt trời sẽ sáng hơn gấp bảy lần như ánh sáng của bảy ngày, trong ngày CHÚA băng bó vết thương của dân Ngài và chữa lành những vết đòn Ngài đã đánh. Kìa, danh của CHÚA đến từ xa;Cơn giận của Ngài bùng cháy, khói đen dày đặc bốn bên.Môi Ngài đầy thịnh nộVà lưỡi Ngài như ngọn lửa thiêu nuốt. Hơi thở Ngài như giòng nướcTràn ngập đến tận cổĐể sàng sẩy các nước bằng sàng hủy diệtVà đặt cái khớp hướng dẫnSai lạc trên hàm các dân. Các ngươi sẽ ca hátNhư trong đêm lễ thánh,Lòng các ngươi sẽ vui mừngNhư người đi ra thổi sáo,Lên núi của CHÚA,Đến vầng đá của Y-sơ-ra-ên. CHÚA sẽ làm cho người ta nghe tiếng uy nghiêm của Ngài;Thấy cánh tay giáng xuốngTrong cơn giận dữ thịnh nộ và ngọn lửa thiêu nuốt;Trong cơn mưa gió, bão tố và mưa đá. A-si-ri sẽ khiếp sợ vì tiếng của CHÚA;Ngài sẽ lấy roi đánh nó. Mỗi lằn roi trừng phạt đã địnhMà CHÚA đánh nóSẽ có tiếng trống, tiếng đàn.Trong chiến tranh Ngài sẽ giương tay chiến đấu với nó. Vì Tô-phết đã được chuẩn bị từ xa xưa,Thật vậy, nó được chuẩn bị cho vua.Hồ lửa sâu và rộng,Đầy lửa và củi.Hơi thở của CHÚANhư suối diêm sinh đốt lửa. Khốn cho những kẻ đi xuống Ai Cập để cầu cứu;Nhờ những ngựa,Cậy các xe vì chúng nó đông;Tin cậy vào kỵ binh vì chúng nó mạnhNhưng không nhìn xem Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ênVà không tìm kiếm CHÚA. Ngài cũng là Đấng khôn ngoan, là Đấng giáng tai họa,Đấng không thay đổi lời.Ngài sẽ đứng dậy nghịch với nhà kẻ ácVà chống lại những kẻ giúp bọn làm ác. Những người Ai Cập chỉ là người, không phải Đức Chúa Trời,Ngựa của họ chỉ là xác thịt, không phải thần linh.Nhưng CHÚA sẽ giương tay raThì kẻ giúp đỡ sẽ vấp,Kẻ được giúp sẽ ngã,Và cả hai sẽ cùng nhau bị hủy diệt. Vì CHÚA đã phán với ta như vầy:“Như sư tử gầm thétHoặc như sư tử tơ vồ mồi,Dù một đám người chăn chiênHọp lại chống nóThì nó cũng không sợ vì tiếng la hétHay chạy trốn vì tiếng động của họ.Cũng vậy, CHÚA Vạn Quân sẽ xuốngĐể chiến đấu trên núi Si-ôn và các đồi. Như chim bay lượn thể nàoCHÚA Vạn Quân sẽ bảo vệ Giê-ru-sa-lem thể ấy.Ngài bảo vệ và giải cứu,Ngài vượt qua và cứu vớt nó.” Hỡi con cái Y-sơ-ra-ên, hãy trở lại cùng Đấng mà các ngươi đã phản loạn rất nhiều. Vì vào ngày ấy, mọi người sẽ ném bỏ các hình tượng bằng bạc, bằng vàng mà tay ngươi đã làm ra trong tội lỗi. “Bấy giờ A-si-ri sẽ sụp đổ vì gươm, không phải do loài người.Gươm, không phải người ta, sẽ ăn nuốt nó.Chúng nó sẽ chạy trốn trước lưỡi gươmVà thanh niên của họ sẽ bị làm lao động cưỡng bách. Thành đá của nó sụp đổ vì sợ hãi,Các hoàng tử của nó bỏ chạy khi thấy cờ hiệu.”CHÚA,Đấng có lửa tại Si-ônVà là lửa tại Giê-ru-sa-lem phán như vậy. Kìa, một vị vua sẽ lấy công chính trị vìVà các hoàng tử thì cai trị bằng công bình. Sẽ có một người như nơi núp gió,Như chỗ che bão,Như suối nước trong sa mạc,Như bóng vầng đá lớn nơi đất mệt mỏi. Bấy giờ mắt của những kẻ nhìn sẽ không mờ,Tai của những người nghe sẽ chú ý. Trí của người hấp tấp sẽ có sự hiểu biết,Lưỡi của kẻ cà lăm sẽ nói lưu loát và rõ ràng. Người ta sẽ không còn gọi kẻ ngu xuẩn là người cao quí;Kẻ bất lương là người đáng kính. Vì người ngu dại sẽ nói điều ngu dại;Lòng nó sẽ làm điều tội lỗi,Thực hành việc vô đạo,Nói sai lầm về CHÚA;Làm cho linh hồn người đói trống khôngVà không cho người đang khát uống nước. Kẻ bất lương dùng vũ khí gian ác.Nó lập mưu ácĐể hại người khốn cùng bằng lời giả dốiDù khi lời bào chữa của người nghèo khó là chính đáng. Nhưng người cao quý lập những kế hoạch cao quýVà người hành động trong sự cao quý. Hỡi những người đàn bà tự mãn,Hãy dậy mà nghe tiếng Ta;Hỡi những người con gái vô tâm,Hãy lắng tai nghe lời Ta. Chỉ hơn một năm nữa,Các ngươi là những người vô tâm sẽ run sợVì mùa nho sẽ mất,Mùa cây trái sẽ không đến. Hỡi đàn bà tự mãn, hãy run rẩy;Hỡi con gái vô tâm, hãy run sợ.Hãy cởi trần,Và mặc đồ tang chế. Hãy đấm ngực than khóc cho những cánh đồng phì nhiêu,Cho cây nho nhiều trái, Cho đồng ruộng dân TaVì gai gốc và bụi gai mọc lên.Phải, hãy khóc cho mọi nhà vui vẻ,Cho thành nhộn nhịp. Vì lâu đài sẽ bỏ hoang,Thành đông đúc sẽ bị hoang phế.Đồi và tháp canh sẽ trở nên hang hố đến muôn đời;Là nơi lừa rừng thích thú, là đồng cỏ cho thú vật, Cho đến khi thần linh từ trên cao được đổ xuống trên chúng taVà sa mạc sẽ trở nên đồng ruộng phì nhiêu;Đồng ruộng phì nhiêu như rừng rậm. Bấy giờ công bình sẽ sống ở trong sa mạcVà công chính sẽ cư ngụ nơi đồng ruộng phì nhiêu. Công việc của công chính sẽ là sự bình an,Kết quả của công chính sẽ là yên tĩnh và tin cậy muôn đời. Dân Ta sẽ cư ngụ trong nơi bình an,Trong nhà an toàn,Tại nơi nghỉ ngơi thoải mái. Nhưng mưa đá sẽ đổ xuống trên rừngVà ngay cả thành sẽ bị hạ thấp. Phước cho các ngươi,Những người gieo giống bên cạnh mọi bờ nước,Thả bò, lừa đi lại tự do. Khốn cho kẻ hủy diệt,Ngươi chưa bị hủy diệt.Còn kẻ phản bội,Ngươi chưa bị phản bội!Khi ngươi ngừng hủy diệt,Ngươi sẽ bị hủy diệt.Khi ngươi chấm dứt phản bội,Ngươi sẽ bị phản bội. Lạy CHÚA, xin gia ân cho chúng tôi,Chúng tôi trông đợi Ngài.Xin Ngài ban sức mạnh cho chúng tôi mỗi buổi mai,Xin Ngài giải cứu khi chúng tôi gặp hoạn nạn. Vì tiếng náo động của Ngài các dân bỏ chạy,Vì khi Ngài dấy lên các nước tan vỡ. Của cải của các ngươi bị thâu góp lại như cào cào thâu góp.Như đám châu chấu vồ chụp, người ta vồ chụp nó. CHÚA được tôn cao vì Ngài ngự trên cao.Ngài làm cho Si-ôn đầy dẫy công bình và công chính. Ngài sẽ là sự bền vững cho thời đại các ngươi;Sự cứu rỗi, khôn ngoan và tri thức sẽ đầy dẫy.Sự kính sợ CHÚA sẽ là kho báu của ngươi. Này, những dũng sĩ kêu la ngoài đường,Các sứ giả hòa bình khóc lóc đắng cay. Đường cái bị bỏ hoang.Khách du hành không còn qua lại nữa.Giao ước bị hủy;Các thành bị khinh bỉ;Con người không được tôn trọng. Đất đai than khóc, mòn mỏi;Li-ban thì xấu hổ và tàn héo;Sa-rôn giống như sa mạc;Ba-san và Cạt-mên tiêu điều. CHÚA phán: “Bây giờ Ta sẽ đứng lên;Bây giờ Ta sẽ nâng Ta lên;Bây giờ Ta sẽ được tôn cao. Các ngươi mang thai trấuVà sinh ra rơm rạ,Hơi thở của các ngươi là lửa thiêu nuốt mình. Các dân sẽ như đá vôi bốc cháy;Như gai góc bị chặt và cháy trong lửa.” Hỡi những kẻ ở xa, hãy nghe việc Ta đã làm;Hỡi những người ở gần, hãy biết năng lực Ta. Những kẻ tội lỗi tại Si-ôn khiếp sợ,Các kẻ vô đạo thì run rẩy.“Ai trong chúng ta có thể sống với lửa thiêu nuốt?Ai trong chúng ta có thể sống với lửa cháy đời đời?” Những người sống công chính,Nói ngay thẳng,Khinh lợi lộc do sự áp bức,Phủi tay không nhận hối lộ,Bịt tai không bàn chuyện đổ máu,Nhắm mắt không chăm chú điều gian ác. Người ấy sẽ sống ở nơi cao,Trú ẩn trong thành lũy bằng đá;Bánh sẽ đầy đủVà nước không thiếu. Mắt người sẽ thấy sự tốt đẹp của vua,Sẽ nhìn thấy vùng đất trải rộng. Lòng ngươi sẽ suy gẫm sự khủng khiếp:“Các quan viên đâu rồi?Các người thu thuế đâu rồi?Những người đếm các tháp canh đâu?” Các ngươi sẽ không thấy một dân kiêu căng nữa,Là dân có tiếng nói xa lạ khó nghe,Lưỡi líu lo khó hiểu. Hãy nhìn xem Si-ôn, là thành của lễ hội chúng ta.Mắt các ngươi sẽ thấy Giê-ru-sa-lem,Nơi cư trú yên tĩnh, một trại không bị dời đổi,Các cọc không bao giờ bị nhổ điVà tất cả các dây sẽ không bị đứt. Vì CHÚA quyền uy sẽ ở với chúng ta tại đó,Là nơi có sông ngòi lớn;Thuyền chèo không đi đượcMà tàu lớn cũng không vượt qua nổi. Thật, CHÚA là Đấng xét đoán chúng ta;CHÚA là Đấng cai trị chúng ta;CHÚA là vua chúng ta;Ngài sẽ cứu rỗi chúng ta. Dây của các ngươi bị tháo lỏng,Không thể giữ chân cột buồm vữngVà không thể giương buồm được.Bấy giờ người ta sẽ chia nhau nhiều chiến lợi phẩm;Ngay cả những kẻ què cũng lấy được của cải. Dân cư sẽ không ai nói: “Tôi bị bịnh.”Dân cư ngụ tại đó sẽ được tha tội. Hỡi các nước, hãy đến gần mà nghe;Hỡi các dân, hãy chú ý,Hỡi quả đất và các vật đầy dẫy trên đất,Hỡi thế giới và các vật ra từ thế giới, hãy nghe! Vì CHÚA thịnh nộ cùng tất cả các nước;Ngài nổi giận nghịch cùng tất cả các đạo quân của họ.Ngài đã định cho họ bị diệt vongVà giao họ cho sự tàn sát. Kẻ bị giết của chúng sẽ bị ném ra ngoài,Mùi hôi thối của các xác chết xông lên,Núi non tràn ngập những máu. Tất cả các thiên thể trên trời sẽ tiêu tan; Các từng trời sẽ cuộn lại như cuốn sách.Tất cả các thiên thể sẽ rơi xuốngNhư lá nho,Rụng như trái vả non rơi từ cây vả. Khi lưỡi gươm Ta đã uống say trên trời,Này, nó sẽ giáng xuống Ê-đôm,Xuống dân đã bị định diệt vong để chịu đoán xét. Gươm của CHÚA đầy máu,Vấy mỡ,Là máu của cừu và dê,Mỡ trên trái cật của cừu đực.Vì CHÚA có một tế lễ ở Bốt-ra,Một cuộc tàn sát lớn trên đất Ê-đôm. Các bò rừng sẽ ngã xuống với chúng;Cả bò tót tơ lẫn bò đực mạnh mẽ.Đất đai chúng nó sẽ say vì máu,Bụi đất sẽ đượm những mỡ. Vì CHÚA có một ngày báo thù,Một năm báo trả vì cớ Si-ôn. Các suối của Ê-đôm sẽ trở thành nhựa thông,Bụi đất trở thành diêm sinh.Đất đai nó trở thành nhựa thông bùng cháy Suốt ngày đêm không tắt;Khói bốc lên mãi mãi;Nó sẽ bị hoang phế từ đời nọ sang đời kia,Muôn đời sẽ không ai đi qua đó. Con bồ nông và nhím sẽ chiếm lấy nó,Cú và quạ sẽ ở tại đó.Ngài sẽ căng cái dâyRối loạn trên nó,Và đo bằng thước trống không. Những người quý tộc của họ sẽ không có gì để gọi là vương quốc.Tất cả các hoàng tử đều như không. Gai sẽ mọc trên các lâu đài;Bụi gai và gai gốc sẽ mọc trên thành lũy chúng.Nó sẽ trở thành hang chó rừng,Và nơi ở của chim đà điểu. Thú rừng sẽ gặp chó rừng,Dê rừng đực gọi nhau.Loài chim ăn đêm nghỉ ngơi ở đóVà chúng tìm được nơi an nghỉ. Chim cú sẽ làm tổ ở đó, đẻ trứng,Ấp cho nở và gom con lại dưới bóng cánh mình.Tại đó, chim ưng cũng tụ họp lại,Cả trống lẫn mái với nhau. Hãy tìm kiếm sách của CHÚA và đọc đi.Trong những con vật này không thiếu một con nào,Không một con nào thiếu đôi.Vì ấy là miệng Ngài đã truyền lệnhVà thần linh của Ngài tụ họp chúng lại. Chính Ngài đã bắt thăm cho chúng nó,Tay Ngài đã dùng dây phân ranh cho chúng.Các thú vật ấy sẽ chiếm cứ đất này mãi mãi,Chúng sẽ ở đó đời đời. Sa mạc và đất khô sẽ vui mừng,Đồng hoang sẽ hân hoan và nở hoaNhư bông hồng. Nó sẽ trổ hoa nhiềuVà hân hoan ca hát vui vẻ.Vinh quang của Li-ban,Huy hoàng của Cạt-mên và Sha-rôn sẽ được ban cho nó.Họ sẽ thấy vinh quang của CHÚAVà huy hoàng của Đức Chúa Trời chúng ta. Hãy làm cho những cánh tay buông thõng mạnh mẽ,Những đầu gối run rẩy vững chắc. Hãy bảo những người có lòng lo sợ:“Hãy vững lòng, đừng sợ!Kìa, Đức Chúa Trời các ngươi sẽ đếnVới sự báo thù,Đức Chúa Trời báo trả.Ngài sẽ đến và cứu rỗi các ngươi.” Bấy giờ, mắt người mù sẽ thấy,Tai kẻ điếc sẽ nghe. Bấy giờ, người què sẽ nhảy như nai,Lưỡi kẻ câm sẽ ca hát vui vẻ.Vì nước sẽ tuôn tràn trong sa mạcVà các dòng suối nơi đồng hoang. Cát nóng sẽ trở thành ao,Đất khô hạn trở thành suối nước.Hang chó rừng đã ởSẽ có cỏ, lau và sậy. Tại đó sẽ có một đại lộ,Một con đường gọi là đường thánh.Người ô uế sẽ không được đi qua,Nhưng những người đi trên đường ấyDù khờ dại cũng không lầm lạc. Tại đó không có sư tử,Thú dữ cũng không lên trên đường ấy,Người ta không thấy chúng ở đó.Nhưng những người được giải cứu sẽ đi con đường đó. Những người được cứu chuộc của CHÚA sẽ trở về,Đi vào Si-ôn trong tiếng hát.Niềm vui mừng vĩnh cửu sẽ ở trên đầu họ;Họ đầy niềm hân hoan, vui mừng;Buồn rầu và than thở sẽ trốn mất. Vào năm thứ mười bốn đời vua Ê-xê-chia, San-chê-ríp, vua A-si-ri lên đánh tất cả các thành kiên cố của Giu-đa và chiếm lấy. Vua A-si-ri sai Ráp-sa-kê từ La-ki đem một đạo binh hùng mạnh đến Giê-ru-sa-lem để tấn công vua Ê-xê-chia. Ráp-sa-kê đứng tại cống nước Ao Thượng, nơi con đường đến ruộng thợ nhuộm. Bấy giờ, Ê-li-a-kim, con trai Hinh-kia, quan cai quản cung điện; Sép-na, quan ký lục và Giô-a, con trai A-sáp, quan ngự sử đến cùng người. Ráp-sa-kê nói với họ: “Hãy nói với Ê-xê-chia rằng: ‘Đại Đế, vua A-si-ri phán thế này: Cậy vào đâu mà ngươi tin tưởng như vậy? Ngươi bảo rằng: Lời nói suông sẽ là chiến lược và lực lượng cho chiến tranh chăng? Giờ đây, ngươi cậy ai mà phản loạn cùng ta? Nầy, ngươi nương cậy Ai Cập, là cái gậy bằng sậy đã gãy mà hễ ai tựa vào nó sẽ bị đâm lủng tay. Pha-ra-ôn, vua Ai Cập cũng như vậy đối với ai nương cậy người. Còn nếu ngươi bảo ta rằng: “Chúng tôi tin cậy CHÚA, Đức Chúa Trời chúng tôi;” nhưng đó không phải là Đấng mà Ê-xê-chia đã hủy bỏ các nơi cao và các bàn thờ của Ngài rồi truyền cho Giu-đe và Giê-ru-sa-lem rằng: “Hãy thờ lạy trước bàn thờ này sao?” Nào, bây giờ hãy đánh cuộc với chủ ta, vua A-si-ri: Ta sẽ ban cho ngươi hai ngàn con ngựa nếu ngươi đủ sức tìm đủ lính kỵ để cưỡi! Thế thì làm sao ngươi đánh đuổi được một tướng rất nhỏ trong số các tôi tớ của chủ ta dù ngươi cậy Ai Cập để có xe chiến mã và lính kỵ? Vả lại, không phải nhờ CHÚA mà ta lên đánh xứ này và hủy diệt nó sao? CHÚA bảo ta hãy lên đánh và hủy diệt xứ này.’” Ê-li-a-kim, Sép-na và Giô-a nói cùng Ráp-sa-kê rằng: “Xin nói với tôi tớ ông bằng tiếng A-ram vì chúng tôi hiểu tiếng ấy. Xin đừng nói với chúng tôi bằng tiếng Giu-đa cho dân trên tường thành này nghe.” Nhưng Ráp-sa-kê đáp: “Phải chăng chủ ta chỉ sai ta nói những lời này với chủ ngươi và ngươi thôi sao? Không phải cũng nói cho những kẻ ngồi trên tường thành, là kẻ cùng các ngươi sẽ ăn phân, uống nước tiểu mình sao?” Thế rồi Ráp-sa-kê đứng dậy, dùng tiếng Giu-đa kêu to lên rằng: “Hãy nghe lời phán của Đại Đế, là vua A-si-ri: Vua phán như vầy: Đừng để Ê-xê-chia lừa gạt các ngươi vì người không đủ sức giải cứu các ngươi. Cũng đừng để Ê-xê-chia thuyết phục các ngươi tin cậy vào CHÚA mà nói rằng: ‘Chắc chắn CHÚA sẽ giải cứu chúng ta, Ngài không để thành này lọt vào tay vua A-si-ri đâu!’ Chớ nghe lời Ê-xê-chia vì vua A-si-ri phán thế này: Hãy làm hòa với ta, đầu hàng ta đi thì mỗi người sẽ được ăn trái nho, trái vả và uống nước giếng mình. Cho đến khi ta đến và đem các ngươi vào vùng đất như đất của các ngươi, tức là đất có lúa và rượu, đất có bánh và vườn nho. Hãy coi chừng kẻo Ê-xê-chia dụ dỗ các ngươi mà nói rằng: ‘CHÚA sẽ giải cứu chúng ta.’ Vậy, có thần nào trong số thần của các nước đã giải cứu đất nước họ ra khỏi tay vua A-si-ri chưa? Các thần của Ha-mát và Ạt-bát ở đâu? Các thần của Sê-phạt-va-im ở đâu? Các thần ấy có cứu Sa-ma-ri khỏi tay ta không? Thần nào trong tất cả thần của các nước đã giải cứu đất nước họ khỏi tay ta? Làm sao CHÚA có thể giải cứu Giê-ru-sa-lem khỏi tay ta?” Nhưng họ im lặng, không trả lời một tiếng nào vì vua đã truyền: “Không được trả lời người.” Ê-li-a-kim, con trai Hinh-kia, quan cai quản cung điện; Sép-na, quan ký lục và Giô-a, con trai A-sáp, quan ngự sử đến với vua Ê-xê-chia, xé áo mình mà thuật lại các lời Ráp-sa-kê nói. Nghe như thế, vua Ê-xê-chia xé áo mình, mặc đồ tang chế, đi vào đền thờ CHÚA. Vua sai Ê-li-a-kim, quan cai quản cung điện, Sép-na, quan ký lục, các trưởng lão trong hàng thầy tế lễ, đều mặc đồ tang chế đến gặp I-sa, con trai A-mốt, một vị tiên tri. Họ nói với người: “Vua Ê-xê-chia phán như thế nầy: Hôm nay là ngày sầu thảm, quở trách và nhục nhã; vì con cái đã đến lúc ra đời nhưng không đủ sức để sinh. Có lẽ CHÚA, Đức Chúa Trời ngươi sẽ nghe những lời mà Ráp-sa-kê, sứ giả của vua A-si-ri, chủ người sai đến để phạm thượng cùng Đức Chúa Trời hằng sống; và có lẽ CHÚA, Đức Chúa Trời ngươi sẽ trừng phạt nó vì những lời Ngài đã nghe. Vậy hãy cầu nguyện cho dân sót còn lại.” Các tôi tớ vua Ê-xê-chia đến gặp I-sa. I-sa bảo họ: “Hãy nói với chủ các ngươi rằng: CHÚA phán thế này: ‘Đừng sợ vì những lời mà người đã nghe tôi tớ vua A-si-ri nói phạm cùng Ta. Này, Ta sẽ để một thần linh trong nó, nó sẽ nghe tin đồn và trở về xứ mình và Ta sẽ làm cho nó ngã bằng gươm trong xứ mình.’” Bấy giờ Ráp-sa-kê trở về, thấy vua A-si-ri đang đánh thành Líp-na vì người nghe rằng vua đã rời khỏi La-ki. Bấy giờ người nghe về Tiệt-ha-ca, vua Ê-thi-ô-bi, rằng vua ấy đem quân đánh vua. Sau khi nghe như thế vua A-si-ri sai các sứ giả đến cùng Ê-xê-chia nói rằng: “Hãy nói với Ê-xê-chia, vua Giu-đa như vầy: ‘Chớ để Đức Chúa Trời, Đấng mà ngươi tin cậy, lừa ngươi khi Ngài hứa rằng: Thành Giê-ru-sa-lem sẽ không lọt vào tay vua A-si-ri.’ Nầy, ngươi có nghe điều vua A-si-ri đã làm cho tất cả các nước không? Người hủy diệt chúng hoàn toàn; còn ngươi sẽ được giải cứu sao? Những thần của các nước mà tổ tiên chúng ta đã hủy diệt, tức là thần của Gô-sen, của Kha-ran, của Rốt-xép, của con cái Ê-đen ở Tê-la-sa, có giải cứu được họ không? Vua của Ha-mát, của Ạt-bát, vua của thành Sê-phạt-va-im, thành Hê-na và thành Y-va ở đâu?” Vua Ê-xê-chia nhận thơ từ tay các sứ giả và đọc nó; người lên đền CHÚA và mở thơ ra trước mặt CHÚA. Vua Ê-xê-chia cầu nguyện cùng CHÚA rằng: “Lạy CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Đấng ngự trên các Chê-ru-bim, chỉ một mình Ngài là Đức Chúa Trời của mọi vương quốc trên đất; chính Ngài đã tạo nên trời đất: Lạy CHÚA, xin Ngài hãy nghiêng tai để nghe. Lạy CHÚA, xin Ngài hãy mở mắt để thấy, xin hãy nghe hết những lời mà San-chê-ríp đã sai nói để xúc phạm đến Đức Chúa Trời hằng sống. Lạy CHÚA, thật vậy, các vua A-si-ri đã hủy diệt tất cả các nước và đất đai họ; ném các thần vào lửa, vì chúng không phải là thần linh, nhưng công việc bằng gỗ, đá do tay người làm ra nên bị hủy diệt. Vậy, bây giờ, lạy CHÚA, Đức Chúa Trời chúng tôi, xin giải cứu chúng tôi khỏi tay người để mọi vương quốc trên đất đều biết rằng chỉ một mình Ngài là CHÚA.” I-sa, con trai A-mốt sai người tâu cùng vua Ê-xê-chia rằng: CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán thế này: Vì ngươi đã cầu nguyện cùng ta về San-chê-ríp, vua A-si-ri. Đây là lời của CHÚA phán về nó:“Con gái đồng trinh của Si-ônKhinh bỉ ngươi, chế nhạo ngươi.Con gái Giê-ru-sa-lemLắc đầu sau lưng ngươi. Ngươi đã nhục mạ và xúc phạm cùng ai?Ngươi đã cất tiếng nghịch cùng ai?Ngươi đã ngước mắt kiêu kỳNghịch cùng Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên. Ngươi đã dùng tôi tớ mìnhChế nhạo Chúa,Nói rằng:‘Nhờ nhiều xe chiến mã,Ta đã lên các đỉnh cao các núi,Nơi sâu thẳm của Li-ban;Ta đã chặt những cây tùng cao nhất,Những cây bách tốt nhất;Ta đã lên trên đỉnh cao nhất,Đến nơi rừng rậm nhất. Ta đã đào giếngVà uống nước,Bàn chân Ta đã làmKhô hạn mọi suối ở Ai Cập.’ Ngươi chưa nghe rằngTa đã làm điều đó từ xa xưa sao?Ta đã định từ thượng cổ,Nay Ta làm cho thành tựu.Ấy là ngươi sẽ tàn phá các thành kiên cố,Biến chúng thành những đống đổ nát. Dân cư các thành ấy không còn sức lực,Kinh hoàng và xấu hổ.Chúng trở nên như cây ngoài đồng;Như cỏ non;Như cỏ trên mái nhà,Chưa mọc lên đã khô héo. Ta biết rõ khi ngươi ngồi,Ngươi đi hay đến,Và khi ngươi nổi giận nghịch cùng Ta. Vì ngươi nổi giận nghịch cùng Ta,Sự kiêu căng ngươi đã đến tai Ta,Ta sẽ móc khoen vào mũi ngươi,Đặt khớp nơi môi miệng ngươi,Khiến ngươi quay trở vềBằng con đường ngươi đã đến. Đây là dấu hiệu cho ngươi, Ê-xê-chia:Năm nay ngươi sẽ ăn hoa quả do ruộng tự sinh;Sang năm, ăn những gì từ đó sinh ra.Đến năm thứ ba hãy gieo và gặt;Hãy trồng vườn nho và ăn trái. Một lần nữa, dân sót của nhà Giu-đa còn sống sót,Sẽ đâm rễ ở dưới và kết quả ở trên. Vì từ Giê-ru-sa-lem dân sót sẽ đi raVà từ núi Si-ôn dân sống sót sẽ đến.Lòng nhiệt thành của CHÚA Vạn QuânSẽ làm điều này. Cho nên, CHÚA phán thế này về vua A-si-ri:Người sẽ không vào thành này,Không bắn vào đó một mũi tên,Không mang thuẫn vào thành,Cũng không đắp lũy chống nó. Nó sẽ quay trở về bằng con đường nó đến.CHÚA phán: Nó sẽ không vào thành này. Ta sẽ bảo vệ và giải cứu thành nàyVì cớ Ta và vì cớ Đa-vít, tôi tớ Ta.” Bấy giờ thiên sứ của CHÚA vào trại quân A-si-ri và giết một trăm tám mươi lăm ngàn người. Sáng hôm sau khi thức dậy, kìa, toàn là thây người chết. San-chê-ríp, vua A-si-ri, rời nơi đó để ra đi, trở về và ở tại Ni-ni-ve. Một hôm, khi người đang thờ phượng trong đền của thần mình là Nít-róc; các con trai người là A-tra-mê-léc và Sa-rết-se dùng gươm giết người rồi chúng trốn thoát qua xứ A-ra-rát. Con trai người là I-sạt-ba-đôn lên ngôi trị vì thế người. Vào lúc ấy, vua Ê-xê-chia bị bệnh sắp chết. Tiên tri I-sa, con trai A-mốt, đến nói với vua rằng: “CHÚA phán thế này: Hãy sắp đặt nhà ngươi vì ngươi sẽ chết, không sống được.” Vua Ê-xê-chia xây mặt vào tường và cầu nguyện cùng CHÚA. Người cầu nguyện: “Lạy CHÚA, con cầu xin Ngài, xin nhớ lại thể nào con đã bước đi trung tín trước mặt Ngài, hết lòng theo Ngài và làm những điều tốt lành trước mặt Ngài;” thế rồi vua Ê-xê-chia khóc lớn tiếng. Bấy giờ có tiếng của CHÚA phán cùng I-sa rằng: “Hãy đến nói với Ê-xê-chia: ‘CHÚA, Đức Chúa Trời của Đa-vít, tổ phụ ngươi phán thế này: Ta đã nghe lời cầu nguyện của ngươi, Ta đã thấy nước mắt ngươi. Này, Ta sẽ thêm cho đời ngươi mười lăm tuổi. Ta sẽ giải cứu ngươi và thành này ra khỏi tay vua A-si-ri; Ta sẽ bảo vệ thành này. Đây là dấu hiệu từ CHÚA ban cho ngươi; CHÚA sẽ làm điều Ngài đã hứa: Này, Ta sẽ làm cho bóng trên các bậc thang cấp lui lại mười cấp, tức là bóng do mặt trời đi qua chiếu xuống các bậc thang cấp của A-cha.’” Vậy mặt trời lui lại mười cấp trên các bậc thang cấp nó đã đi qua. Lời của Ê-xê-chia, vua Giu-đa sau khi bị bệnh và được lành. Tôi nói: “Đang nửa đời người,Tôi phải ra đi, những năm tháng còn lại của đời tôiBị giao phó cho cửa Âm Phủ.” Tôi nói: “Tôi sẽ không thấy Chúa nữa,Là Chúa ở trên đất người sống.Tôi sẽ không còn nhìn thấy người nữaGiữa vòng những dân cư trên thế gian. Nơi ở của tôi đã bị nhổ lên và dời đi khỏi tôiNhư căn lều của kẻ chăn cừu.Tôi cuốn đời tôi như thợ dệt;Ngài cắt đứt tôi khỏi khung cửi.Ngài chấm dứt đời tôi khỏi ngày lẫn đêm. Tôi kêu la cho đến sáng;Như sư tử, Ngài đánh gãy tất cả xương cốt tôi.Ngài chấm dứt đời tôi khỏi ngày lẫn đêm. Như chim én, chim nhạn tôi kêu la;Tôi rên rỉ như chim bồ câu.Mắt tôi mòn mỏi trông lên!Lạy Chúa, tôi bị áp bức; xin Ngài bảo toàn tôi.” Tôi sẽ nói gì?Vì Ngài đã phán cùng tôi, và Ngài đã làm việc ấy.Tôi sẽ bước đi khiêm cung trọn đờiVì tâm hồn cay đắng. Lạy Chúa, người ta sống nhờ những điều này,Tâm linh tôi sống cũng nhờ những điều đó.Xin Chúa phục hồi sức khỏe cho tôiVà cho tôi sống. Kìa, vì sự phúc lợi cho tôi,Tôi đã bị cay đắng nhiều.Nhưng Ngài đã nắm giữ linh hồn tôiKhỏi sa xuống hố hủy diệt.Vì Ngài đã ném bỏ mọi tội lỗi tôiRa sau lưng Ngài. Vì Âm Phủ không cảm tạ Ngài,Sự chết không ca ngợi NgàiVà những kẻ đi xuống vực sâuKhông có hy vọng nơi sự thành tín của Ngài. Kẻ sống, chỉ kẻ sống mới cảm tạ NgàiNhư tôi đã làm hôm nay.Người cha sẽ dạy cho con cáiBiết sự thành tín của Ngài. CHÚA là Đấng cứu rỗi tôi.Trọn đời, chúng tôiSẽ dùng đàn dây đànCa trong nhà CHÚA. Bấy giờ I-sa bảo: “Hãy lấy một cái bánh trái vả đắp trên vết ung nhọt, người sẽ sống.” Ê-xê-chia đã hỏi: “Có dấu hiệu nào cho ta biết rằng ta sẽ lên nhà CHÚA?” Vào lúc ấy, vua Ba-by-lôn là Mê-rô-đác Ba-la-đan, con vua Ba-la-đan sai các sứ giả đem thư và tặng phẩm dâng vua Ê-xê-chia vì người nghe vua đau và đã được lành. Vua Ê-xê-chia chào mừng các sứ giả và cho họ xem kho báu, bạc, vàng, hương liệu, dầu quý, tất cả kho võ khí và tất cả mọi vật trong kho. Không có vật gì trong cung điện hay trong cả vương quốc của mình mà vua Ê-xê-chia không chỉ cho các sứ thần xem. Bấy giờ, tiên tri I-sa đến chầu vua Ê-xê-chia và hỏi: “Những người kia nói gì với vua và họ từ đâu đến thăm vua?” Vua Ê-xê-chia đáp: “Họ từ vùng đất xa xôi đến thăm ta, từ Ba-by-lôn.” I-sa tiếp: “Họ đã xem gì trong cung vua?” Ê-xê-chia đáp: “Họ đã xem tất cả mọi vật trong cung điện ta. Không có vật gì trong kho báu mà ta không chỉ cho họ xem.” I-sa tâu cùng vua Ê-xê-chia rằng: “Xin vua hãy nghe lời phán của CHÚA Vạn Quân. Nầy, trong những ngày đến, tất cả mọi vật trong cung điện ngươi, là những vật tổ tiên ngươi đã tích trữ cho đến ngày nay, sẽ bị mang qua Ba-by-lôn, không có gì còn lại, CHÚA phán. Một số con cháu ngươi, những người thuộc dòng dõi ngươi, do ngươi sinh ra sẽ bị bắt đi và làm hoạn quan trong cung vua Ba-by-lôn.” Vua Ê-xê-chia nói với I-sa: “Lời của CHÚA mà ngươi vừa nói là tốt.” Vì vua nghĩ rằng trong thời vua sẽ có hòa bình và an ninh. Đức Chúa Trời của các ngươi phán:Hãy an ủi, hãy an ủi dân Ta. Hãy dịu dàng nói với Giê-ru-sa-lem,Hãy thông báo cho nàng rằng:Sự lao khổ của nàng đã chấm dứt;Tội lỗi nàng đã được trả thay,Vì tất cả tội lỗi mình,Nàng đã nhận gấp đôi từ tay CHÚA. Có tiếng kêu rằng:“Hãy chuẩn bị trong đồng hoangMột con đường cho CHÚA.Hãy làm ngay thẳng đường cái trong sa mạcCho Đức Chúa Trời chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được nâng cao,Mọi núi đồi sẽ bị hạ thấp.Những nơi gồ ghề sẽ thành bằng phẳng,Những chỗ lồi lõm sẽ trở nên đồng bằng. Bấy giờ vinh quang của CHÚA sẽ được khải thịVà mọi người đều sẽ thấy vì miệng CHÚAđã phán như thế.” Có tiếng nói: “Hãy kêu lên.”Tôi hỏi: “Tôi sẽ kêu gì đây?”Tất cả mọi người chỉ là cỏ,Mọi sự đẹp đẽ của họ như hoa ngoài đồng. Cỏ khô, hoa rụngKhi hơi thở CHÚA thổi qua chúng.Thật vậy, loài người chỉ là cỏ. Cỏ khô, hoa rụngNhưng Lời Đức Chúa Trời chúng ta đứng vững đời đời. Hỡi người đem tin mừng đến cho Si-ôn,Hãy đi lên trên núi cao.Hỡi người loan báo tin mừng cho Giê-ru-sa-lem,Hãy hết sức cất tiếng lên,Hãy cất tiếng lên, đừng sợ.Hãy nói với các thành của Giu-đa rằng:“Đức Chúa Trời của các ngươi đây.” Kìa, CHÚA đến với quyền năngVà Ngài dùng cánh tay mình cai trị.Kìa, Ngài đem phần thưởng đến với NgàiVà sự báo trả ở trước mặt Ngài. Ngài sẽ chăn dắt đàn chiên mình như người chăn chiên,Gom những chiên con trong cánh tay,Ẵm chúng vào lòngVà nhẹ nhàng dẫn các chiên mẹ. Ai đã dùng lòng bàn tay đong nước biển,Gang bàn tay đo các tầng trời?Lấy đấu đong bụi đất?Cân núi trên bàn cânVà đồi trên cán cân? Ai có thể lường được Thần của CHÚA?Và ai là cố vấn để dạy Ngài? Ngài đã tham khảo ai để được khai sáng?Ai sẽ dạy Ngài con đường công bình?Ai sẽ dạy Ngài tri thức?Ai sẽ chỉ cho Ngài con đường hiểu biết? Kìa, các dân khác nào giọt nước trong chậu,Bị kể như bụi trên bàn cân.Kìa, Ngài cầm các hải đảo lên như hạt bụi. Li-ban sẽ không có đủ củi đốt,Cũng không đủ thú vật để làm tế lễ thiêu. Trước mặt Ngài tất cả các nước đều như không,Chúng bị kể như chưa cóVà hư vô. Các ngươi sẽ ví Đức Chúa Trời với ai?Lấy hình ảnh nào để sánh với Ngài? Một tượng thần mà người thợ đúc?Rồi thợ bạc bọc vàngVà làm cho các dây chuyền bằng bạc. Một người nghèo khi dâng lễ vậtThì chọn gỗ không mục.Người tìm một thợ khéoTạc một bức tượng vững chắc không đổ. Các ngươi chưa biết sao?Các ngươi chưa nghe sao?Từ lúc ban đầu các ngươi chưa được bảo cho sao?Từ khi nền quả đất được lập các ngươi chưa hiểu sao? Đấng ngự trên vòm quả đất và này,Dân cư trên đất như châu chấu vậy.Ngài kéo các từng trời ra như bức màn;Ngài căng chúng lên như lều để ở. Ngài làm cho các hoàng tử trở nên không,Khiến các kẻ cai trị quả đất trở thành hư vô. Họ vừa mới được trồng,Họ vừa mới được gieo,Cây vừa mới đâm rễ trong đấtThì CHÚA thổi qua và chúng khô héo;Nầy, một cơn gió lốc đùa chúng đi như rơm rạ. Đấng Thánh phán: “Các ngươi sẽ so sánh Ta với ai?Ta sẽ giống ai?” Hãy ngước mắt lên cao,Và nhìn xem ai đã sáng tạo ra những vật này?Ai là Đấng đem các thiên thể đến theo số lượngVà gọi tất cả thiên thể bằng tên?Vì sức mạnh vĩ đại và quyền năng mạnh mẽ của NgàiKhông một thiên thể nào thiếu. Hỡi Gia-cốp, tại sao ngươi nói;Hỡi Y-sơ-ra-ên, tại sao ngươi tuyên bố rằng:“Đường lối tôi bị che khuất khỏi CHÚA!Đức Chúa Trời của tôi không quan tâm đến quyền lợi tôi!” Ngươi không biết sao?Ngươi chưa nghe sao?CHÚA là Đức Chúa Trời đời đời.Ngài là Đấng sáng tạo các đầu cùng quả đất.Ngài không kiệt sức cũng không mỏi mệt,Và sự hiểu biết của Ngài không thể dò được. Ngài ban năng lực cho người kiệt lực;Ngài thêm sức cho kẻ thiếu sức. Ngay cả người trẻ tuổi cũng sẽ kiệt lực và mệt mỏi;Các thanh niên sẽ vấp và ngã quỵ. Nhưng ai trông cậy nơi CHÚASẽ được phục hồi sức mới,Cất cánh bay cao như chim phượng hoàng;Chạy mà không mệt nhọc,Đi mà không kiệt sức. “Hỡi các hải đảo, hãy im lặng trước mặt Ta.Hãy để cho các nước phục hồi năng lực;Hãy để chúng đến gần và nói đi.Chúng ta hãy cùng nhau đến gần để tranh cãi. Ai đã đánh thức người từ phương đông?Trong sự công chính, kêu gọi người đến chân mình?Trao các nước cho người,Chà đạp các vua dưới chân.Trao phó chúng nó cho gươm người như bụi đất?Phó chúng nó cho cung người như rơm rác gió thổi bay đi? Người săn đuổi chúng, vượt qua một cách an toànCon đường mà chân ngươi chưa hề bước đến. Ai đã thực hiện và làm điều này?Ai đã gọi các thế hệ từ ban đầu?Chính Ta là CHÚA, là đầu tiên và cũng sẽ hiện diệnCho đến cuối cùng. Chính Ta là Đấng ấy.” Các hải đảo thấy và sợ hãi,Các đầu cùng quả đất run rẩy;Chúng tiến lại gần và đến. Mỗi người giúp kẻ lân cận mìnhVà nói với anh em mình: “Hãy can đảm lên.” Thợ mộc khuyến khích thợ vàng;Thợ gò bằng búaKhích lệ thợ đập đe;Thợ hàn lại bảo: “Thế là tốt;”Rồi họ dùng đinh đóng để nó khỏi ngã. “Nhưng ngươi, hỡi Y-sơ-ra-ên, tôi tớ Ta.Hỡi Gia-cốp, kẻ ta chọn lựa;Là dòng dõi Áp-ra-ham, bạn Ta. Ta đã nắm lấy ngươi từ đầu cùng quả đất,Kêu gọi ngươi từ các góc đất,Và bảo ngươi: ‘Ngươi là tôi tớ Ta,’Ta đã chọn ngươi và không bỏ ngươi. Đừng sợ vì Ta ở cùng ngươi.Chớ kinh hoàng vì Ta là Đức Chúa Trời ngươi.Ta sẽ thêm sức cho ngươi, giúp đỡ ngươi.Ta sẽ gìn giữ ngươi bằng tay phải công chính của Ta. Nầy, tất cả những kẻ giận ngươiSẽ bị hổ thẹn và nhục nhã.Những kẻ chống nghịch ngươiSẽ như không và bị hủy diệt. Những kẻ tranh đấu chống lại ngươi,Ngươi sẽ tìm chúng nhưng không thấy.Những kẻ tranh chiến nghịch cùng ngươiSẽ như không có gì cả. Vì Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời ngươi,Đấng nắm tay phải ngươiVà phán cùng ngươi: Đừng sợ,Chính Ta sẽ giúp đỡ ngươi. Hỡi sâu bọ Gia-cốp, hỡi những người Y-sơ-ra-ên: Đừng sợ.Ta sẽ giúp đỡ ngươi.”Ngài là Đấng cứu chuộc ngươi,Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, CHÚA phán như thế. “Nầy, Ta sẽ làm cho ngươi thành một công cụ đập lúa mới,Bén và có nhiều răng.Ngươi sẽ đập các núi và đánh tan chúng.Ngươi sẽ làm các đồi trở thành như rơm rạ. Ngươi sẽ sàng sảy chúng rồi gió thổi đi;Một cơn gió lốc sẽ làm chúng tan tác.Còn ngươi sẽ vui mừng trong CHÚA;Và tôn vinh trong Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên. Những kẻ nghèo nàn và thiếu thốn tìm kiếm nướcNhưng không có;Lưỡi họ khô vì khát.Ta là CHÚA, sẽ đáp lời chúng;Ta là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, sẽ không từ bỏ họ. Ta sẽ làm cho các sông chảy ra trên đồi trọc;Các suối ở giữa những thung lũng;Biến sa mạc thành hồ nước;Đất khô hạn thành những mạch nước. Ta sẽ trồng cây tùng, cây xiêm,Cây hải đào và cây ô-liu trong sa mạc.Ta sẽ trồng chung với nhau trong sa mạcCây thông, cây huyền và cây bách. Để người ta thấy và biết,Để cùng nhau suy gẫm và hiểu rằng:Bàn tay CHÚA đã làm điều nàyVà Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên đã sáng tạo nó.” CHÚA phán: “Hãy trình vụ kiện của các ngươi.”Vua của Gia-cốp phán: “Hãy đưa ra những lý lẽ hùng biện.” “Hãy để chúng đếnVà nói cho chúng ta biết điều gì sẽ xảy đến.Hãy nói cho chúng ta biết những điều đã xảy ra từ trướcĐể chúng ta suy tưVà biết kết cục của chúng;Hãy công bố cho chúng ta biết những việc sẽ đến. Hãy nói cho chúng ta biết những điều sẽ xảy ra sau nàyĐể chúng ta biết các ngươi là các thần.Phải, hãy ban phước hay giáng họa điĐể chúng ta kinh ngạc hay cùng nhau chiêm ngưỡng. Này, các ngươi chẳng ra gì;Công việc của các ngươi là vô ích;Kẻ chọn các ngươi là ghê tởm. Ta đã đánh thức người từ phương bắc; người đã đến.Từ phương đông, người đã kêu cầu danh Ta.Người chà đạp những kẻ lãnh đạo như bùn đất;Như thợ gốm nặn đất sét. Ai đã nói điều đó từ ban đầu để chúng ta biết?Ai đã bảo từ trước để chúng ta nói rằng: ‘Người là đúng.’Không ai nói điều gì,Không ai công bố gì,Không ai nghe tiếng nào từ các ngươi cả. Việc đầu tiên là đối với Si-ôn, hãy nhìn xem, hãy nhìn xem chúngVà Ta sẽ sai một người báo tin mừng đến Giê-ru-sa-lem. Ta tìm xem nhưng không có ai,Không một cố vấn nào giữa vòng những người nàyĐể khi Ta hỏi, họ có thể đáp một lời. Kìa, tất cả chúng nó đều là hư ảo,Công việc chúng nó là hư không;Hình tượng chúng nó là gió và trống không.” “Đây là tôi tớ Ta, người Ta nâng đỡ,Ta đã chọn và linh hồn Ta vui thích.Ta đã đặt thần Ta trên người,Người sẽ đem lại công bình cho các nước. Người sẽ chẳng khóc lóc, kêu la;Không để ngoài đường phố nghe tiếng mình. Người sẽ không bẻ gẫy cây sậy đã giập,Không dập tắt tim đèn gần tàn.Người sẽ trung kiên đem lại công bình. Người sẽ không kiệt sức, cũng chẳng ngã lòngCho đến khi thiết lập công bình trên đất.Các hải đảo trông đợi luật pháp của người.” Đức Chúa Trời, tức là CHÚA,Đấng sáng tạo các tầng trời và giương ra;Đấng trải đất và các vật đến từ đất ra;Đấng ban hơi thở cho dân trên ấyVà thần linh cho những người bước đi trên đó, phán như vầy: Ta là CHÚA, Ta đã gọi ngươi trong sự công chính.Ta sẽ nắm tay ngươi,Gìn giữ ngươi. Ta sẽ lập ngươiLàm giao ước của dân,Làm ánh sáng cho các nước. Để mở mắt cho những kẻ mù;Đem tù nhân ra khỏi ngục tối;Đem những kẻ ngồi nơi tối tăm ra khỏi nhà tù. “Ta là CHÚA, ấy là Danh Ta.Ta sẽ không ban vinh quang của Ta cho ai khác,Cũng không nhường sự ca ngợi Ta cho các tượng thần. Kìa, những điều trước tiên đã ứng nghiệm,Và Ta công bố cho các ngươi những điều mới;Trước khi chúng xảy ra,Ta bảo trước cho các ngươi biết.” Hãy hát cho CHÚA một bài ca mới.Những lời ca tụng Ngài đến từ đầu cùng quả đất.Các ngươi là những người đi biển cùng các sinh vật trong biển;Các hải đảo và dân cư trên ấy. Hỡi sa mạc và các thành trong ấy hãy cất tiếng lên,Hỡi các làng nơi Kê-đa tọa lạc,Hỡi dân cư Sê-la hãy vui mừng ca hát,Hãy reo hò từ các đỉnh núi. Hãy dâng vinh quang cho CHÚA,Hãy công bố sự ca ngợi nơi các hải đảo. CHÚA tiến lên như dũng sĩ,Như chiến sĩ giục lòng hăng say.Ngài thét lên, phải, Ngài hô lớn;Ngài anh dũng chiến thắng các kẻ thù. “Ta đã giữ im lặng từ lâu,Ta đã nín lặng và tự kiềm chế mình.Nhưng bây giờ Ta rên la, Ta thở hổn hển,Đứt quãng như đàn bà sinh đẻ. Ta sẽ làm cho đồi núi hoang vu,Tất cả cây cỏ khô héo.Ta sẽ làm sông ngòi thành những đảo,Ao hồ đều khô cạn. Ta sẽ dắt những kẻ mù bằng con đường mà chúng chưa biết;Dẫn họ đi trên các nẻo mà chúng chưa hay.Ta sẽ biến bóng tối trước mặt họ thành ánh sáng,Những nơi gồ ghề thành bằng phẳng.Ta sẽ làm những việc nàyVà không bỏ qua. Còn những kẻ tin tưởng thần tượng,Những người nói với tượng đúc rằng: Các ngài là thần của chúng tôi,Đều sẽ bị thối lui và hoàn toàn hổ thẹn. Hỡi những kẻ điếc, hãy nghe;Hỡi những kẻ mù, hãy nhìn để thấy. Ai là người mù? Nếu không phải là tôi tớ của Ta.Ai là người điếc như sứ giả Ta sai đi?Ai là người mù như người tận hiến cho ta?Mù loà như tôi tớ CHÚA? Người nhìn nhiều điều nhưng không chú ý,Tai người mở ra nhưng không nghe.” CHÚA, vì sự công chính của mình,Vui lòng làm cho Kinh Luật vĩ đại và vinh quang. Nhưng ấy là một dân bị cướp giật, bị chiếm đoạt.Tất cả chúng nó đều bị sập hố,Bị nhốt trong ngục sâu.Chúng trở thành con mồiNhưng không ai giải cứu,Thành vật bị cướp đoạtNhưng không ai nói: “Hãy trả lại đây.” Ai trong vòng các ngươi sẽ lắng tai nghe điều này?Ai sẽ chú ý và lắng nghe từ nay về sau? Ai đã trao Gia-cốp cho kẻ chiếm đoạtVà phó Y-sơ-ra-ên cho kẻ cướp?Không phải CHÚA là ĐấngMà chúng ta phạm tội nghịch cùng sao?Đường lối Ngài chúng nó chẳng đi theoVà Kinh Luật Ngài chúng nó không tuân giữ. Cho nên Ngài đổ cơn thịnh nộVà chiến tranh dữ dội trên nó.Lửa cháy xung quanh nhưng nó không biết;Lửa thiêu đốt nó nhưng nó vẫn không để tâm đến. Bây giờ CHÚA phán thế này:“Hỡi Gia-cốp, Ngài là Đấng sáng tạo ngươi,Hỡi Y-sơ-ra-ên, Ngài là Đấng dựng nên ngươi.Đừng sợ, vì Ta đã cứu chuộc ngươi;Ta đã kêu gọi ngươi bằng tên ngươi; ngươi thuộc về Ta. Khi ngươi đi qua các dòng nước,Ta sẽ ở với ngươi.Khi ngươi vượt qua các sông,Nước sẽ không cuốn trôi ngươi.Khi ngươi qua lửa,Ngươi sẽ không bị cháy;Ngọn lửa sẽ không thiêu đốt ngươi. Vì Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời ngươi,Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, Đấng Cứu Rỗi của ngươi.Ta ban Ai Cập làm tiền chuộc mạng cho ngươi;Ê-thi-ô-bi và Sê-ba để đánh đổi lấy ngươi. Bởi vì ngươi là quí báu trước mắt Ta;Ta tôn trọng và yêu thương ngươi.Nên Ta ban người ta để đánh đổi lấy ngươi,Ban các dân để thay cho mạng sống ngươi. Đừng sợ, vì Ta ở cùng ngươi.Ta sẽ đem dòng dõi ngươi từ phương đông đến,Tập hợp ngươi từ phương tây. Ta sẽ bảo phương bắc: ‘Hãy thả chúng ra;’Với phương nam rằng: ‘Đừng cầm chúng lại.’Hãy đem các con trai Ta từ phương xa về,Hãy đem các con gái Ta về từ tận cùng quả đất. Tức là tất cả những người được gọi bằng danh Ta,Những người Ta đã sáng tạo,Đã dựng nên,Phải Ta đã làm ra vì vinh quang Ta.” Hãy đem dân ấy ra đây, là dân có mắt nhưng mù,Có tai nhưng điếc. Hãy để tất cả các nước tập hợp với nhau,Các dân tụ tập lại.Ai trong vòng họ có thể công bố điều này?Có thể nói cho chúng ta hiểu những điều từ trước không?Hãy để họ đem nhân chứng ra và chứng tỏ rằng mình đúng.Hãy để cho người ta nghe và công nhận rằng: “Ấy là thật.” CHÚA phán: “Các ngươi là nhân chứng của Ta,Đầy tớ Ta, người mà Ta đã chọnĐể biết và tin Ta;Cũng hiểu rằng chính Ta là Ngài.Không có một thần nào được tạo nên trước TaVà sau Ta cũng không có. Ta, chính Ta là CHÚA.Ngoài Ta, không có một Đấng Cứu Rỗi nào khác. Chính Ta đã công bố, đã cứu rỗi, đã làm cho hiểu,Chứ không có một thần lạ nào giữa vòng các ngươi.”CHÚA phán: “Các ngươi là nhân chứng của Ta và Ta là Đức Chúa Trời. Phải, trước khi có ngày tháng, Ta chính là Ngài.Không ai có thể giải cứu khỏi tay Ta.Ta đã hành động thì ai có thể ngăn cản được?” CHÚA, Đấng Cứu Chuộc các ngươi,Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên phán thế này:“Vì cớ các ngươi Ta đã sai đến Ba-by-lôn;Làm cho tất cả chúng nó chạy trốn, tức là người Canh-đêChạy xuống các tàu mà chúng vui mừng. Ta là CHÚA, Đấng Thánh của các ngươi,Đấng sáng tạo ra Y-sơ-ra-ên, Vua của các ngươi.” CHÚA phán thế này:Đấng làm đường đi qua biển,Mở lối đi qua các dòng nước xiết. Đấng đem xe ngựa, ngựa,Quân đội và binh sĩ lại với nhau;Chúng ngã xuống không dậy nổi;Bị tiêu diệt và dập tắt như tim đèn. Đừng nhớ đến những việc trước kia,Cũng không nên suy nghĩ đến những điều xưa cũ. Này, Ta đang làm một điều mới.Bây giờ nó đang xuất hiện, các ngươi không nhận thấy sao?Phải, Ta sẽ làm một con đường trong sa mạc,Tạo các sông nơi đồng hoang. Các dã thú, chó rừngVà chim đà điểu sẽ tôn vinh Ta.Vì Ta đã ban nước trong sa mạc,Tạo các sông nơi đồng hoangĐể cho dân Ta đã chọn uống. Dân mà Ta đã dựng nên cho Ta;Chúng sẽ công bố lời ca ngợi Ta. Hỡi Gia-cốp, ngươi đã không kêu cầu Ta.Hỡi Y-sơ-ra-ên, vì ngươi đã chán Ta. Ngươi đã chẳng dâng cho Ta chiên làm tế lễ thiêu,Cũng chẳng tôn vinh Ta bằng sinh tế.Ta đã không đặt gánh nặng cho ngươi bằng các tế lễ chay;Cũng không làm cho ngươi chán nản vì trầm hương. Người đã chẳng lấy bạc mua cho Ta một nén hương,Cũng không làm Ta hài lòng với mỡ của các sinh tế ngươi.Nhưng ngươi đã lấy tội lỗi ngươi làm gánh nặng cho Ta,Lấy gian ác ngươi làm cho Ta chán. Ta, chính là Ngài;Ta vì chính Ta mà xóa bỏ các vi phạm ngươiVà sẽ không nhớ những tội lỗi ngươi. Hãy nhắc cho Ta nhớ,Hãy cùng nhau tranh luận.Hãy trình bày lý lẽ của ngươi để chứng tỏ rằng ngươi đúng. Tổ đầu tiên của ngươi đã phạm tội,Những sứ giả của ngươi đã nổi loạn nghịch Ta. Nên Ta sẽ làm cho các hoàng tử thánh nhục nhã,Phó Gia-cốp cho sự hủy diệtVà Y-sơ-ra-ên cho sự khinh bỉ. “Bây giờ, hỡi Gia-cốp, tôi tớ Ta;Hỡi Y-sơ-ra-ên, kẻ Ta đã chọn, hãy lắng nghe. CHÚA phán thế này:Đấng tạo ra ngươi, Đấng dựng nên ngươi từ trong lòng mẹSẽ giúp đỡ ngươi.Hỡi Gia-cốp, tôi tớ Ta;Hỡi Giê-su-run, kẻ Ta đã chọn, đừng sợ. Vì Ta sẽ đổ nước xuống trên người khát,Làm suối chảy nơi đất khô.Ta sẽ đổ thần Ta trên dòng dõi ngươi,Ta sẽ ban phước cho con cháu ngươi. Chúng sẽ nẩy nở giữa đám cỏ,Như cây liễu bên cạnh dòng nước. Người này sẽ nói: ‘Tôi thuộc về CHÚA;’Người kia sẽ xưng bằng tên của Gia-cốp;Người nọ sẽ viết trên tay: ‘Tôi thuộc về CHÚA;’ người khác nữaSẽ đặt tên mình là Y-sơ-ra-ên” CHÚA, Vua của Y-sơ-ra-ên,Đấng Cứu Chuộc, CHÚA Vạn Quân phán thế này:“Ta là đầu tiên, và cuối cùng;Ngoài Ta không có Đức Chúa Trời nào khác. Ai giống như Ta? Hãy để người ấy kêu gọi, công bốHay sắp đặt cho TaTừ khi Ta lập một dân tộc thái cổ;Hãy để chúng công bố cho chúng ta những gì đang xảy raVà những gì sắp đến. Chớ kinh hoàng, đừng run sợ.Từ xưa Ta đã chẳng từng nói với ngươi và công bố rằng:Các ngươi là nhân chứng của Ta. Có một Đức Chúa Trời nào khác ngoài Ta không?Không có một vầng đá nào, Ta biết không có.” Tất cả những kẻ tạc tượng đều là hư vô,Những vật họ yêu thích đều là vô ích.Các nhân chứng của chúng không thấyCũng không biết cho nên chúng sẽ bị hổ thẹn. Ai là người tạo ra một thần,Đúc nên một tượng mà không lợi ích gì? Này, tất cả những kẻ theo chúng sẽ bị hổ thẹn.Những tay thợ, chúng nó chỉ là người phàm.Hãy để tất cả chúng nó tụ họp lại và đứng lên đi.Chúng nó sẽ cùng nhau bị kinh hoàng và hổ thẹn. Thợ rèn dùng búa rèn đồ vật.Người nung nó trên than lửa;Dùng búa tạo nên,Dùng cánh tay mạnh mẽ rèn ra nó.Người sẽ đói và hết sức;Người không uống nước và kiệt lực. Thợ mộc căng giây đo,Dùng phấn vẽ kiểu,Lấy bào làm ra nó;Dùng thước com-pa vẽ kiểu.Người làm nên một tượng người,Giống hình người xinh đẹpĐể đặt trong đền. Người chặt cây tùng cho mình,Hoặc chọn cây bách hay cây sồi;Để nó lớn lên giữa các cây trong rừng.Người trồng cây tùng và mưa làm cho lớn lên. Rồi người ta dùng nó làm củi đốt;Lấy một ít để sưởi ấmHay nhóm lửa và nướng bánh.Người ta cũng dùng cây ấy làm một vị thần và thờ lạy nó;Tạc nên một tượng thần rồi quỳ lạy nó. Người dùng một nửa để đốt lửa;Người nướng thịt trên phân nửa củi ấyVà ăn no nê.Người cũng sưởi ấm và nói:“A-ha, ấm áp, ta cảm thấy lửa ấm.” Phần gỗ còn lại người làm một vị thần,Tức là một tượng thần của mình rồi quỳ xuống thờ lạy nó.Người cầu nguyện với thần ấy rằng:“Xin hãy cứu tôi vì ngài là thần của tôi.” Chúng nó không biết,Không phân biệt được vì mắt nhắm lại nên không thấy,Lòng cũng đóng lại nên không hiểu. Không ai suy nghĩ lại;Không ai biết; không ai phân biệt để nói rằng:“Ta đã dùng một nửa để đốt lửa;Ta cũng nướng bánh trên than lửa,Nướng thịt và đã ăn.Phần còn lại ta có nên làm thành một vật gớm ghiếc không?Ta có nên quỳ lạy một khúc gỗ không?” Kẻ ăn tro bụi, lòng bị mê hoặc đã dẫn nó lầm đường;Nó không thể giải cứu linh hồn mình,Cũng không biết đồ trong tay phải mình là đồ giả. “Hỡi Gia-cốp, hãy nhớ những điều này,Hỡi Y-sơ-ra-ên vì người là tôi tớ Ta.Hỡi Y-sơ-ra-ên,Ta sẽ không quên ngươi. Ta đã xóa bỏ những vi phạm ngươi như xóa đám mâyVà tội lỗi ngươi như sương mai.Hãy trở lại cùng TaVì Ta đã cứu chuộc ngươi.” Hỡi các tầng trời, hãy hát lên vì CHÚA đã hành động.Hỡi đất thấp, hãy reo hò,Hỡi các núi, hãy cất tiếng hát;Hỡi các rừng và cả cây cối trong rừngVì CHÚA đã cứu chuộc Gia-cốpVà sẽ được vinh hiển nơi Y-sơ-ra-ên. CHÚA đã phán thế này:“Ta đã cứu chuộc ngươi; Ta đã dựng nên ngươi từ trong lòng mẹ.Chính Ta là CHÚA,Đấng làm mọi vật.Một mình Ta đã căng các tầng trời;Không ai ngoài Ta đã trải đất ra. Ta là Đấng làm cho trật các điềm của tiên tri giả;Làm cho thầy bói trở nên ngu dại;Làm cho những người thông thái phải rút lời lạiVà khiến tri thức của họ trở nên dại khờ. Đấng xác nhận lời của tôi tớ Ngài,Làm ứng nghiệm những lời tiên tri của sứ giả Ngài.Ngài phán về Giê-ru-sa-lem: ‘Nó sẽ có dân cư trú;’Về các thành của Giu-đa: ‘Nó sẽ được xây dựng lại;’Về những nơi hoang tàn: ‘Nó sẽ phục hồi.’ Ngài phán cùng với vực sâu: ‘Hãy khô cạn.Ta sẽ làm sông ngòi ngươi khô cạn.’ Ngài phán về vua Si-ru: ‘Người là kẻ chăn chiên của ta.Người sẽ hoàn thành tất cả mục đích của ta.Người sẽ nói về Giê-ru-sa-lem: “Nó sẽ được xây dựng lại;”Và nói về đền thờ: “Nó sẽ được lập nền lại.”’ CHÚA phán cùng vua Si-ru,Người được xức dầu của Ngài thế này: Ta đã nắm lấy tay phải ngươiĐể ngươi chinh phục các nước trước mặt;Để tháo bỏ cân đai của các vua;Để mở các cửa trước mặt ngươiVà các cổng sẽ không bị đóng lại. Chính Ta sẽ đi trước mặt ngươi,San bằng các núi;Đập tan các cửa đồngVà bẻ gãy các then sắt. Ta sẽ ban cho ngươi các kho báu trong bóng tối,Của cải nơi bí mậtĐể ngươi biết rằng: chính Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên,Đấng đích danh gọi ngươi. Vì cớ Gia-cốp, tôi tớ TaVà Y-sơ-ra-ên, kẻ Ta lựa chọn,Ta đã đích danh gọi ngươiVà ban tước vị cho ngươiNhưng ngươi không nhận biết Ta. Ta là CHÚA, không có Đấng nào khác.Ngoài Ta không có Đức Chúa Trời nào khác.Dù ngươi không nhận biết Ta,Ta trang bị cho ngươi, Để người ta từ phương đôngĐến phương tâyBiết rằng ngoài ta không có Đấng nào khác.Ta là CHÚA, không có Đấng nào khác. Ta làm thành ánh sáng, tạo ra bóng tối;Ta làm cho thái bình và tạo ra tai họa.Ta là CHÚA, Đấng làm mọi sự này. Hỡi các tầng trời trên cao, hãy đổ xuống;Hãy để các đám mây đổ công chính xuống.Hỡi đất, hãy mở raVà để sự cứu rỗi đâm chồi,Hãy để sự công chính cùng nứt lộc.Ta là CHÚA, Đấng tạo ra điều đó. Khốn cho kẻ cãi lại Đấng tạo ra mình.Một chậu sành giữa những đồ sành từ đất?Đất sét có hỏi người thợ nặn nên mình:‘Ông làm gì vậy?’Hoặc: ‘Vật ông làm ra không có cán!’ Khốn cho kẻ nói với cha mình:‘Cha sinh ra gì?’Và cùng một người đàn bà:‘Bà đẻ ra gì?’ CHÚA, Đấng ThánhVà Đấng tạo thành Y-sơ-ra-ên phán thế này:Ngươi sẽ chất vấn TaVề tương lai của con dân Ta chăng?Ngươi sẽ truyền lệnh cho Ta về công việc của tay Ta sao? Chính Ta là Đấng làm ra quả đấtVà tạo ra loài người trên ấy.Chính tay Ta đã giương các tầng trời raVà truyền lệnh cho tất cả các thiên thể. Ta sẽ đánh thức người dậy trong công chínhVà làm cho bằng phẳng mọi đường lối người.Người sẽ xây dựng lại thành taVà giải phóng những kẻ lưu đày của TaMà không cần giá chuộc cũng như phần thưởng;”CHÚA Vạn Quân phán. CHÚA phán thế này:“Của cải Ai-cập, hàng hóa của Ê-thi-ô-biVà người Sa-bê,Là những kẻ cao lớn sẽ đến cùng ngươiVà thuộc về ngươi.Họ sẽ theo sau ngươi,Sẽ đến với ngươi trong xiềng xích.Họ sẽ quỳ trước mặt ngươiVà cầu xin:‘Thật Đức Chúa Trời ở với người, không có Đấng nào khác.Không có một Đức Chúa Trời nào khác.’” Thật vậy, Ngài là Đức Chúa Trời bí ẩn,Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Đấng Cứu Thế. Còn tất cả chúng nó đều sẽ bị xấu hổ và bối rối;Những kẻ làm tượng thần đều bối rối bỏ đi. Y-sơ-ra-ên sẽ được CHÚA cứu rỗiBằng sự cứu rỗi đời đời.Các ngươi sẽ không bị xấu hổHay bối rối cho đến muôn đời. Vì CHÚA,Đấng tạo ra các tầng trời,Ngài là Đức Chúa Trời;Ngài tạo thành và làm ra quả đất,Ngài thiết lập nó.Ngài tạo ra quả đất không phải là trống không,Ngài tạo thành nó để ở;Phán thế này:“Ta là CHÚA,Không có Đấng nào khác. Ta đã không phán với các ngươi một cách bí mậtHay trong miền đất tối tăm.Ta đã không bảo dòng dõi Gia-cốp rằng:‘Hãy tìm Ta trong chỗ hư không.’Ta là CHÚA, Đấng phán sự thậtVà công bố điều phải. Hỡi những người lánh nạn từ các nước,Hãy tụ họp lại và đến, hãy cùng nhau đến gần.Họ không hiểu biết! Những người khiêng thần tượng bằng gỗ,Cầu khẩn với thần không thể cứu rỗi. Hãy công bố, hãy trình bày ra;Phải, hãy bàn luận với nhau đi.Ai là người đã phán điều này từ trước?Đã công bố điều ấy từ xa xưa?Không phải Ta là CHÚA sao?Không có Đấng nào khác.Ngoài ta, không có Đức Chúa Trời nào khác,Một Đức Chúa Trời công chính, Đấng Cứu Thế.Ngoài Ta, không có Đấng nào khác. Hỡi tất cả mọi người ở tận cùng quả đất,Hãy quay lại cùng Ta để được cứu rỗi,Vì Ta là Đức Chúa Trời, không có Đấng nào khác. Ta tự mình thề rằng:Trong sự công chính, một lời đã ra từ miệng TaThì sẽ không trở lại.Mọi đầu gối sẽ quỳVà mọi lưỡi sẽ tuyên thệ trước mặt Ta. Người ta sẽ nói về Ta: ‘Chỉ ở trong CHÚAMới có sự công chính và sức mạnh.’”Người ta sẽ đến với Ngài.Tất cả những kẻ giận Ngài sẽ bị hổ thẹn. Trong CHÚA, tất cả dòng dõi Y-sơ-ra-ênSẽ được công chính và vinh hiển. Bên cúi đầu, Nê-bô gò lưng,Các tượng của chúng được chở trên lưng thú và súc vật.Những tượng các ngươi mang đè nặngNhư những gánh nặng trên các con thú mệt mỏi. Chúng nó cùng nhau cúi đầu, gò lưng;Không thể nào cất bỏ gánh nặng.Nhưng chính họ lại bị bắt đi làm phu tù. “Hỡi nhà Gia-cốp,Hỡi tất cả những người còn lại của nhà Y-sơ-ra-ên,Hãy nghe Ta. Ta đã bồng ngươi từ khi mới sinh,Ta đã bế ngươi từ trong lòng mẹ. Cho đến khi các ngươi già cả, Ta vẫn là Đấng ấy;Cho đến lúc tóc bạc, Ta sẽ gánh vác các ngươi.Ta đã tạo ra thì Ta sẽ bồng bế,Ta sẽ gánh vác và Ta sẽ giải cứu các ngươi. Các ngươi nghĩ Ta giống ai? Ta bằng ai?Các ngươi so sánh Ta với ai? Để thấy rằng chúng ta giống nhau? Người ta lấy vàng trong bị,Cân bạc trên cân.Họ thuê một thợ bạc làm ra một thầnRồi quỳ xuống thờ lạy. Họ vác tượng thần trên vai, khiêng đi.Họ đặt tượng vào chỗ của nó thì nó đứng,Không dời khỏi chỗ.Nếu có ai kêu cầu cùng tượng thần, thần không đáp lời,Không cứu họ thoát nạn được. Hãy nhớ điều này, hãy suy xét.Hỡi những kẻ phạm tội, hãy nhớ lại trong lòng. Hãy nhớ lại những việc thời xưa.Vì Ta là Đức Chúa Trời, không có trời nào khác;Ta là Đức Chúa Trời, không có ai giống như Ta. Ta tuyên bố sự cuối cùng từ buổi ban đầu,Ta tuyên bố từ thời cổ đại những việc chưa xảy ra.Ta phán: Mục đích của Ta sẽ đứng vững,Ta sẽ làm tất cả những gì Ta đẹp ý. Ta gọi chim săn mồi từ phương đông;Gọi người thực hiện mục đích Ta từ miền đất xa xôi.Điều Ta đã phán, Ta sẽ hoàn thành,Điều Ta đã định, Ta sẽ thực hiện. Hỡi những người có lòng chai đá,Xa cách sự công chính, hãy nghe Ta. Ta đem sự công chính Ta đến gần,Nó không xa đâu;Sự cứu rỗi của Ta sẽ không chậm trễ.Ta sẽ ban sự cứu rỗi tại Si-ônCho Y-sơ-ra-ên, là vinh quang của Ta. Hỡi con gái đồng trinh Ba-by-lôn,Hãy xuống và ngồi trong bụi đất.Hỡi con gái Canh-đê,Không còn ở trên ngôi nữa, hãy ngồi xuống đất.Vì ngươi sẽ không còn được gọiLà dịu dàng dễ thương nữa. Hãy lấy cối xay và xay bột;Hãy bỏ lúp che mặt.Hãy cởi áo ngoài ra,Để trần chân, lội qua sông. Sự trần truồng ngươi sẽ bị lộ ra,Sự xấu hổ ngươi sẽ bị thấy.Ta sẽ báo thùVà không chừa một ai.” Đấng Cứu Chuộc của chúng ta.Tên Ngài là CHÚA Vạn Quân, là Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên. “Hỡi con gái Canh-đê,Hãy ngồi im lặng,Hãy đi vào nơi tối tăm;Vì ngươi sẽ không còn được gọi là nữ hoàng của các vương quốc nữa. Ta giận dân Ta,Làm sản nghiệp Ta thành uế tục.Ta đã phó thác chúng nó vào tay ngươi;Nhưng ngươi không tỏ lòng thương xót chúng nó,Đã tra ách rất nặng nềTrên người già cả. Ngươi nói rằng: ‘Ta sẽ làNữ hoàng mãi mãi.’Ngươi chẳng để tâm đến những điều này,Cũng không nghĩ đến hậu quả về sau. Vì vậy, hỡi kẻ ưa khoái lạc,Là kẻ ngồi yên ổn, hãy nghe đây:Ngươi nói trong lòng rằng:‘Ta đây, ngoài ta chẳng còn ai.Ta sẽ chẳng ngồi như kẻ góa bụa,Không bị mất mát con cái.’ Trong giây phút, trong một ngày,Hai điều này sẽ cùng xảy đến cho ngươi;Sự mất mát con cái, nạn góa bụaSẽ đến đầy đủ trên ngươiDù ngươi có nhiều ma thuậtVà lắm lời thần chú rất quyền năng. Ngươi tin cậy nơi sự gian ác của mình;Ngươi nói: ‘Không ai thấy ta.’Sự khôn ngoan và tri thức ngươi đã làm ngươi lầm lạc.Ngươi nói trong lòng rằng:‘Ta đây, ngoài ta chẳng còn ai.’ Bất hạnh sẽ đến trên ngươiNhưng ngươi không biết cách tránh.Tai họa sẽ đổ xuống ngươiNhưng ngươi không thể trừ được.Sự hủy diệt sẽ thình lình xảy đến cho ngươiNhưng ngươi không biết. Hãy đứng lên,Dùng ma thuật và nhiều lời thần chúMà ngươi đã lao lực từ thuở bé.Có lẽ ngươi có thể thành công;Có lẽ ngươi sẽ làm mình đáng khiếp sợ chăng? Ngươi lo lắng với nhiều lời chỉ dẫn.Hãy đứng lên, hỡi những nhà chiêm tinh,Những người xem sao, những người dựa vào trăng mới mà bói toán,Hãy giải cứu ngươi khỏi điều sẽ xảy ra cho ngươi. Kìa, chúng nó giống như rơm rạ,Bị lửa thiêu đốt.Chúng nó không thể cứu mạng sống mìnhKhỏi ngọn lửa.Không một cục than hồng để sưởi ấm,Không còn bếp lửa để ngồi bên. Chúng nó đối với ngươi là như thế,Những người ngươi đã lao lực,Đã buôn bán với từ thuở bé.Mỗi người lưu lạc một ngã,Không ai cứu ngươi. Hỡi nhà Gia-cốp, hãy nghe đây.Ngươi được gọi bằng tên Y-sơ-ra-ên,Ra từ nguồn Giu-đa.Ngươi lấy danh CHÚA mà thề,Cầu khẩn Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên,Nhưng không ở trong chân lý và công chính. Vì ngươi xưng mình đến từ thành thánh, Nương cậy Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên,Danh Ngài là CHÚA Vạn Quân. Ta đã phán những điều trước kia từ xa xưa.Những điều ấy xuất phát từ miệng Ta và Ta làm cho người ta biết chúng.Thình lình Ta hành động và những điều ấy xảy đến. Vì Ta biết ngươi cứng đầu,Cổ ngươi là gân sắt,Trán ngươi bằng đồng. Nên Ta đã phán cho ngươi từ xưa,Ta đã cho ngươi biết trước khi chúng xảy đến,Kẻo ngươi nói rằng:‘Tượng thần của tôi đã làm đấy,Tượng chạm hay tượng đúc của tôi đã truyền bảo.’ Ngươi đã nghe rồi, hãy xem tất cả những điều này.Nhưng các ngươi không công nhận sao?Từ nay Ta sẽ cho ngươi biết những điều mới,Những điều bí ẩn mà ngươi chưa biết. Bây giờ những điều đó mới được tạo ra, không phải từ xưa.Trước ngày hôm nay, ngươi chưa bao giờ nghe những điều ấy,Kẻo ngươi nói rằng:‘Nầy, ta đã biết rồi.’ Ngươi chưa bao giờ nghe, ngươi chẳng bao giờ biết,Từ xưa tai ngươi vẫn chưa mở.Vì Ta biết rằng ngươi rất xảo tráVà ngươi được gọi là kẻ phản loạn từ khi lọt lòng. Ta vì danh mình mà dằn cơn giận,Vì vinh quang Ta mà kiềm chếKhông hủy diệt ngươi. Nầy, Ta đã tinh luyện ngươi nhưng không như luyện bạc;Ta đã thử ngươi trong lò hoạn nạn. Vì cớ Ta, vì chính Ta mà Ta làm điều này.Vì sao Ta lại để cho danh Ta bị nhục?Ta sẽ không nhường vinh quang Ta cho một ai khác. Hỡi Gia-cốp, hãy nghe Ta.Hỡi Y-sơ-ra-ên, là dân Ta đã kêu gọi.Ta là Đấng ấy.Ta là đầu tiên, Ta cũng là tận cùng. Tay Ta đã lập nền quả đất,Tay phải Ta đã giương các tầng trời ra.Ta gọi trời đất,Chúng đều cùng nhau đứng lên. Tất cả các ngươi hãy tập họp lại và lắng nghe!Ai trong vòng chúng nó đã công bố những điều này?CHÚA yêu thương người,Ngài sẽ thực hiện ý định Ngài trên Ba-by-lônVà dùng tay nghịch người Canh-đê. Ta, chính Ta đã phán;Phải, Ta đã gọi người;Ta đã đem người đếnVà người sẽ thịnh vượng trong đường lối mình.” “Hãy đến gần Ta, hãy nghe điều này:Từ ban đầu, Ta đã không phán một cách bí mật,Vào lúc nó xảy ra, Ta đã ở đó.”Và bây giờ, CHÚA đã sai TaCùng với thần của Ngài. CHÚA, Đấng Cứu Chuộc ngươi,Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên phán như vầy:“Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời ngươi,Đấng dạy dỗ để ngươi được lợi ích,Đấng dẫn đường để ngươi đi theo. Ôi, ước gì ngươi đã chú ý đến các điều răn của TaThì sự thái bình ngươi sẽ như sông,Sự công chính ngươi như sóng biển. Con cháu ngươi sẽ như cát,Dòng dõi ngươi sẽ như hạt cát;Tên chúng nó sẽ không bao giờ bị xóa,Bị diệt trước mặt Ta.” Hãy rời bỏ Ba-by-lôn,Hãy chạy trốn khỏi người Canh-đê.Hãy cất tiếng vui mừng tuyên bố,Hãy công bố điều này,Hãy rao truyền đến tận cùng quả đất;Hãy nói rằng: “CHÚA đã cứu chuộc Gia-cốp, là tôi tớ Ngài.” Họ không bị khát khi Ngài dẫn họ qua sa mạc.Ngài làm nước chảy ra từ vầng đá cho họ;Ngài chẻ đáThì nước trào ra. CHÚA phán: “Những kẻ gian ác sẽ không được bình an.” Hỡi các hải đảo, hãy nghe Ta;Hỡi các dân xa xôi, hãy chú ý.CHÚA đã kêu gọi tôi từ trong bụng mẹ,Đã công bố tên tôi khi tôi còn trong lòng mẹ. Ngài làm miệng tôi như lưỡi gươm sắc bénVà che tôi trong bóng tay Ngài.Ngài làm tôi thành mũi tên sáng loáng,Và giấu tôi trong bao đựng tên của Ngài. Ngài phán cùng tôi: “Ngươi là tôi tớ Ta.Hỡi Y-sơ-ra-ên, Ta sẽ được vinh quang nơi ngươi.” Và tôi tự bảo: “Tôi đã lao lực luống công;Tôi đã tổn sức hư không và vô ích.Nhưng thật vậy, lẽ công bình của tôi ở nơi CHÚA,Và phần thưởng tôi ở nơi Đức Chúa Trời tôi.” Bây giờ, CHÚA phán:Đấng đã lập tôi từ trong bụng mẹ để làm tôi tớ Ngài,Để đem Gia-cốp trở lại cùng NgàiVà tập họp Y-sơ-ra-ên đến với NgàiVì tôi được tôn trọng trước mắt CHÚAVà Đức Chúa Trời là sức lực của tôi. Ngài cũng phán:“Ngươi làm tôi tớ TaĐể phục hồi các chi tộc Gia-cốpVà đem những người được gìn giữ của Y-sơ-ra-ên trở về, chỉ là việc nhỏ;Ta sẽ làm cho ngươi như ánh sáng cho các nước,Đem sự cứu rỗi của Ta đến tận cùng quả đất.” CHÚA, Đấng Cứu Chuộc,Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên phánCùng người bị người ta khinh bỉ, bị các nước ghê tởm,Cùng kẻ tôi tớ của các kẻ cai trị, như vầy:“Các vua sẽ thấy ngươi và đứng dậy,Các hoàng tử sẽ quỳ lạyVì CHÚA, Đấng Trung Tín,Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên đã chọn ngươi.” CHÚA phán như vầy:“Trong thì thuận tiện Ta đã đáp lời ngươi;Trong ngày cứu rỗi Ta đã giúp đỡ ngươi.Ta sẽ gìn giữ ngươi, làm cho ngươiThành giao ước của dânĐể phục hồi đất,Để phân chia các di sản hoang tàn; Để bảo những người phu tù: ‘Hãy đi ra;’Những kẻ ở trong tối tăm: ‘Hãy chiếu sáng.’Họ sẽ được chăn giữ trên đường điVà mọi đồi trọc sẽ trở nên đồng cỏ cho họ. Họ sẽ không đói, không khát;Hơi nóng và mặt trời cũng sẽ không thiêu đốt họVì Đấng thương xót họ sẽ hướng dẫn,Ngài sẽ dắt họ đến bên suối nước. Ta sẽ làm mọi núi Ta thành đường điVà các đường cái Ta sẽ được xây dựng. Kìa, những người này sẽ đến từ phương xa.Kìa, những người kia sẽ đến từ phương bắc, phương tâyVà những người nọ đến từ vùng Si-nim.” Hỡi trời hãy hò reo,Hỡi đất hãy vui mừng;Hỡi các núi hãy cất tiếng reo hòVì CHÚA đã an ủi dân NgàiVà thương xót những người khốn khổ của Ngài. Nhưng Si-ôn nói rằng: “CHÚA đã từ bỏ tôi,Chúa tôi đã quên tôi.” “Một người đàn bà có thể quên con mình đang búHay không thương xót con trai một mình sao?Dù những người này có thể quên,Nhưng chính Ta sẽ không quên ngươi. Nầy, Ta đã khắc ngươi trong lòng bàn tay Ta;Các tường thành ngươi vẫn tiếp tục ở trước mặt Ta. Các con trai ngươi sẽ nhanh nhẹn đến;Còn những kẻ phá hoại, những kẻ làm ngươi hoang tàn sẽ rời khỏi ngươi. Hãy ngước mắt nhìn quanh và xem:Tất cả chúng nó đều họp lại và đến cùng ngươi.”CHÚA phán: “Như Ta hằng sống,Ngươi sẽ mang tất cả chúng nó như đồ trang sức,Sẽ thắt lưng chúng nó như cô dâu. Vì dù những nơi hoang tàn, những nơi tiêu điều,Những vùng đất đổ nát của ngươiThì giờ đây quá chật cho người định cưVà những kẻ ăn nuốt ngươi sẽ cách xa ngươi. Những đứa con trong thời ngươi mất mát người thânSẽ nói vào tai ngươi:Chỗ này chật quá cho tôi,Hãy nới rộng cho tôi ở. Nhưng ngươi tự hỏi trong lòng rằng:‘Ai đã sinh những đứa này cho tôi?Tôi đã mất hết con cái, đã bị son sẻ,Bị lưu đày và từ bỏ.Ai đã nuôi dưỡng những đứa này?Kìa, ta đã bị bỏ mặc một mình,Những đứa này từ đâu đến?’” CHÚA phán như vầy:“Nầy, Ta sẽ giơ tay trên các nước,Giương cờ trên các dânThì chúng sẽ bồng các con trai ngươi trong lòngVà các con gái ngươi trên vai mà đến. Các vua sẽ là cha nuôi ngươiVà các hoàng hậu sẽ là vú em của ngươi.Họ sẽ cúi mặt xuống đất lạy ngươiVà liếm bụi chân ngươi,Rồi ngươi sẽ biết rằng Ta là CHÚA,Những ai trông cậy Ta sẽ không hổ thẹn.” Có thể nào người ta lấy chiến lợi phẩm của dũng sĩHay giải cứu các tù binh từ người dũng mãnh được chăng? Vì CHÚA phán như vầy:“Phải, tù binh của dũng sĩ sẽ bị lấy đi,Chiến lợi phẩm của người dũng mãnh sẽ được giải cứu.Ta sẽ tranh đấu với kẻ đấu tranh chống ngươiVà Ta sẽ giải cứu con cái ngươi. Ta sẽ làm cho những kẻ áp bức ngươi ăn thịt mình,Chúng nó sẽ say máu mình như say rượu.Và cả nhân loại sẽ biết rằng:Ta là CHÚA, Đấng Cứu Rỗi ngươi,Đấng Cứu Chuộc ngươi và là Đấng Quyền Năng của Gia-cốp.” CHÚA phán như vầy:“Giấy ly dị mẹ ngươi ở đâu?Người mà Ta đã bỏ?Hay ai là chủ nợ mà TaĐã bán các ngươi cho?Nầy, các ngươi đã bị bán là vì gian ác mình;Mẹ các ngươi đã bị bỏ là vì những vi phạm của các ngươi. Tại sao khi Ta đến, không có ai?Khi Ta gọi không ai trả lời?Có phải tay Ta quá ngắn để cứu chuộc?Hay Ta không đủ sức đế giải cứu sao?Nầy, Ta quở trách thì biển khô cạn;Ta làm các sông trở thành sa mạc;Cá trở nên hôi thối vì không có nướcVà chết vì khát. Ta mặc cho bầu trời bằng sự đen tối;Ta che chúng với tấm vải sô.” CHÚA ban cho tôi lưỡi của người được dạy dỗ,Để tôi biết nâng đỡ người mệt mỏi bằng lời nói.Mỗi buổi sáng Ngài đánh thức,Ngài đánh thức tai tôi để tôi nghe như người được dạy dỗ. CHÚA đã mở tai tôi,Tôi không phản loạnCũng không quay lui. Tôi đã đưa lưng cho những kẻ đánh tôi,Đưa má cho những kẻ nhổ râu tôi.Những kẻ nhục mạ và nhổ trên tôi,Tôi không che mặt. Nhưng CHÚA sẽ giúp đỡ tôi,Nên tôi không bị nhục;Nên tôi làm cho mặt tôi như đá lửaVà tôi biết rằng tôi sẽ không bị hổ thẹn. Đấng tuyên xưng tôi công chính đang ở gần.Ai là kẻ đối địch tôi?Hãy cùng nhau đứng dậy,Ai là kẻ tố cáo tôi?Hãy đến gần gặp tôi. Nầy, CHÚA sẽ giúp đỡ tôi.Ai sẽ định tội tôi?Kìa, tất cả chúng nó sẽ cũ mòn như chiếc áo;Bị sâu ăn. Ai trong vòng các ngươi kính sợ CHÚA,Nghe theo tiếng của tôi tớ Ngài?Dù bước đi trong tối tămVà không có ánh sángNhưng tin cậy nơi danh CHÚAVà nương cậy nơi Đức Chúa Trời mình? Nầy, tất cả các ngươi là kẻ đốt lửa, thắp đuốc.Hãy đi bên ánh sáng của ngọn lửaVà đuốc mà các ngươi đã thắp.Đây là điều các ngươi sẽ nhận từ tay Ta,Các ngươi sẽ nằm xuống trong đau đớn. “Hỡi những người theo đuổi sự công chính,Những người tìm kiếm CHÚA, hãy nghe Ta.Hãy nhìn xem vầng đá mà các ngươi đã được đẽo ra,Và mỏ đá mà các ngươi đã được đào lên. Hãy nhìn xem Áp-ra-ham, tổ phụ các ngươiVà Sa-ra, người sinh sản các ngươi.Khi Ta kêu gọi, người chỉ có một mìnhNhưng Ta đã ban phước và làm cho người trở nên nhiều. Vì CHÚA sẽ an ủi Si-ôn,An ủi tất cả những nơi hoang tàn của nó.Ngài sẽ làm cho đồng hoang của nó như vườn Ê-đen,Sa mạc như vườn của CHÚA.Tại nơi ấy người ta sẽ tìm thấy hân hoan, vui mừng,Lời cảm tạ và tiếng hát. Hỡi dân Ta, hãy nghe Ta,Hỡi nước Ta, hãy lắng tai nghe TaVì Kinh Luật sẽ ra từ TaVà sự công bình của Ta sẽ là ánh sáng cho các dân. Sự công chính của Ta sẽ nhanh chóng đến gần,Sự cứu rỗi của Ta xuất hiện,Cánh tay Ta sẽ cai trị các dân.Các hải đảo trông đợi TaVà chúng hy vọng nơi cánh tay Ta. Hãy ngước mắt lên các tầng trờiVà nhìn xem quả đất phía dưới.Vì các tầng trời sẽ tan đi như khóiVà đất sẽ cũ mòn như chiếc áo;Những người sống trên đất cũng sẽ chết như vậy.Nhưng sự cứu rỗi Ta sẽ còn đời đờiVà sự công chính của Ta sẽ không chấm dứt. Hỡi những người biết sự công chính,Dân có Kinh Luật của Ta trong lòng, hãy nghe Ta.Đừng sợ người ta trách móc,Chớ hoảng hốt vì chúng sỉ vả các ngươi. Vì sâu sẽ cắn họ như cắn áo,Mọt sẽ gặm chúng như gặm len.Nhưng sự công chính của Ta sẽ còn lại mãi mãiVà sự cứu rỗi Ta còn đến muôn đời.” Hỡi cánh tay CHÚA, hãy thức dậy,Thức dậy để mặc lấy năng lực.Hãy thức dậy như ngày xưa,Như các thời cổ đại.Chẳng phải Ngài là Đấng sẽ chặt Ra-háp ra từng mảnh,Đã đâm quái vật đó sao? Chẳng phải Ngài là Đấng làm cho biển và nước vực sâu khô cạn sao?Ngài đã làm vực thẳm của biển cảThành con đườngCho những người được cứu chuộc đi qua. Những người được chuộc của CHÚA sẽ trở vềVà ca hát đi vào Si-ôn.Sự vui mừng đời đời ở trên đầu họ.Họ sẽ được hân hoan, vui mừng.Buồn rầu, than vãn sẽ tránh xa. “Ta, chính Ta là Đấng an ủi các ngươi.Ngươi là ai mà sợ loài người hay chết?Hay sợ con cái loài người được sinh ra như cỏ? Ngươi đã quên CHÚA, Đấng tạo ra ngươi.Ngài đã giương các tầng trời,Lập nền quả đấtNhưng suốt ngày ngươi cứ sợCơn giận dữ của kẻ áp bứcKhi nó định hủy diệt.Nhưng cơn giận dữ của kẻ áp bức ở đâu? Kẻ tù đày sẽ chóng được giải cứu,Sẽ không chết nơi ngục tốiCũng không thiếu lương thực. Vì chính Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời ngươi,Đấng làm biển động và sóng gầm thét.CHÚA Vạn Quân là danh Ngài. Ta đã đặt lời Ta trong miệng ngươi,Giấu ngươi dưới bóng bàn tay Ta;Giương các tầng trời,Lập nền quả đấtVà phán với Si-ôn rằng: ‘Ngươi là dân Ta.’” Hãy thức dậy, thức dậy,Hởi Giê-ru-sa-lem, hãy đứng lên.Ngươi là người đã uống sayChén thịnh nộ từ tay CHÚA.Ngươi đã uống say tới cặn của chén,Là chén làm cho ngả nghiêng. Trong vòng tất cả con cái mà Giê-ru-sa-lem đã sinh ra,Không đứa nào hướng dẫn nó.Trong số tất cả con cái mà Giê-ru-sa-lem đã nuôi dưỡng,Không đứa nào cầm tay dắt nó. Hai điều này đã đổ xuống trên ngươi,Ai sẽ chia buồn với ngươi?Sự tan nát và hủy hoại, đói kém và gươm giáo,Ai sẽ an ủi ngươi? Con cái ngươi đã ngất xỉu,Nằm ở khắp các đầu đườngNhư nai tơ bị mắc trong lưới,Đầy cơn thịnh nộ của CHÚACùng sự quở trách của Đức Chúa Trời ngươi. Vậy, hỡi kẻ khốn cùng, hãy nghe đây,Hỡi người say nhưng không phải do rượu, CHÚA, Đức Chúa Trời ngươi phán như vầy:“Ta sẽ bênh vực dân Ta.Nầy, Ta sẽ lấy khỏi tay ngươiCái chén làm nghiêng ngả.Ngươi sẽ không còn uống thêm chén nào nữa,Là chén thịnh nộ của Ta. Ta sẽ đặt chén ấy trong tay những kẻ hành hạ ngươi,Tức là những người nói với ngươi rằng:Hãy quỳ xuống để ta bước quaVà ngươi đã lấy lưng làm như đất,Như đường đi cho họ đi qua.” Hỡi Si-ôn, hãy thức dậy, thức dậy,Mặc lấy sức lực ngươi.Hỡi Giê-ru-sa-lem, thành thánh,Hãy mặc các áo đẹp ngươi.Vì kẻ không cắt bì và người ô uếSẽ không còn vào trong ngươi nữa. Hỡi Giê-ru-sa-lem, hãy rũ sạch bụi,Đứng lên, hãy ngự trị.Hỡi con gái Si-ôn, kẻ tù đầy,Hãy tháo xiềng xích khỏi cổ ngươi. Vì CHÚA phán như vầy:“Các ngươi đã bị bán không giá cảNên các ngươi sẽ được chuộc lại không phải bằng tiền bạc.” Vì CHÚA phán như vầy:“Thời xưa, dân Ta đi xuống Ai-cập cư ngụ,Nhưng người A-si-ri đã vô cớ áp bức chúng.” CHÚA phán: “Bây giờ Ta làm gì đây?Vì dân Ta đã bị bắt đi vô cớ,Những kẻ cai trị chúng than khóc.”CHÚA phán: “Danh Ta cứ tiếp tụcBị phạm thượng suốt ngày. Vậy, dân Ta sẽ biết danh Ta;Vào ngày ấy chúng nó sẽ biết rằngChính Ta là Đấng phán:Nầy, Ta đây.” Chân của người đem tin mừngTrên các núi xinh đẹp biết bao!Tức là người công bố bình an,Loan báo tin lành,Công bố sự cứu rỗi;Là người nói với Si-ôn rằng:“Đức Chúa Trời ngươi cai trị.” Tiếng những người canh gác,Họ cùng nhau cất tiếng ca hát vui mừngVì chính mắt họ sẽ thấyKhi CHÚA trở lại Si-ôn. Hỡi những nơi hoang tàn của Giê-ru-sa-lem,Hãy cùng nhau cất tiếng ca hát vui mừng.Vì CHÚA đã an ủi dân Ngài,Đã cứu chuộc Giê-ru-sa-lem. CHÚA đã xắn cánh tay thánh NgàiLên trước mắt mọi nước.Mọi người trên khắp quả đấtSẽ thấy sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời chúng ta. Hãy đi ra, hãy đi ra, hãy ra khỏi chỗ đó,Đừng đụng đến đồ ô uế.Hỡi những người mang vật dụng của CHÚA,Hãy ra khỏi nó và trong sạch. Nhưng các ngươi sẽ ra đi không vội vã,Không phải chạy trốnVì CHÚA sẽ đi trước mặt các ngươiVà Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên sẽ đi phía sau bảo vệ các ngươi. Kìa, tôi tớ Ta sẽ thành đạt,Sẽ được tán dương, được nâng lên rất cao. Như nhiều người kinh hoàng về người,Hình dung người bị hủy hoại đến nỗi không còn giống con người;Và dáng vẻ không còn giống con cái loài người nữa. Cho nên người làm ngạc nhiên nhiều quốc gia;Các vua sẽ câm miệng vì người;Vì họ sẽ thấy điều chưa ai bảo cho mình biết,Hiểu điều mình chưa được nghe. Ai tin điều chúng tôi đã nghe?Và cánh tay của CHÚA đã bày tỏ cho ai? Người đã lớn lên trước mặt Ngài như một cây non;Như cái rễ từ đất khô khan.Người không có hình dung, cũng không uy nghi để chúng ta nhìn ngắm;Người cũng không có bề ngoài để chúng ta ưa thích. Người bị người ta khinh bỉ và ruồng bỏ;Là người chịu đau khổ và biết sự đau ốm.Người như kẻ giấu mặt trước chúng ta;Người bị khinh bỉ; chúng ta cũng không xem người ra gì. Thật, chính người đã mang những bệnh tật của chúng taVà gánh những đau khổ của chúng ta.Nhưng chúng ta lại tưởngNgười bị Đức Chúa Trời đánh, phạt và bị khổ sở. Chính người bị đâm vì sự vi phạm của chúng ta,Bị chà đạp vì sự gian ác của chúng ta.Hình phạt người chịu để chúng ta được bình an,Vết thương người mang để chúng ta được chữa lành. Tất cả chúng ta đều như chiên đi lạc,Mỗi người đi theo đường lối riêng của mình.Nhưng CHÚA đã chấtTội lỗi của tất cả chúng ta trên người. Người bị áp bức và khổ sởNhưng không hề mở miệng.Như chiên bị dẫn đi làm thịt,Như cừu câm nín đứng trước kẻ hớt lông;Người không hề mở miệng. Người đã bị ức hiếp, xử đoán và giết đi. Những người đồng thời với người có ai suy xét rằngNgười bị cắt đứt khỏi đất người sốngLà vì tội lỗi dân Ta đáng bị đánh phạt. Người ta đã đặt mồ người chung với những kẻ ácVà khi chết người được chôn với một người giầu có,Dù người đã không hành động hung bạoVà miệng không hề lừa dối. Nhưng CHÚA bằng lòng để người bị chà đạp và đau đớnKhi người dâng mạng sống mình làm tế lễ chuộc tội.Người sẽ thấy dòng dõi mình, các ngày của người sẽ lâu dàiVà nhờ tay người, ý của CHÚA sẽ được thành đạt. Do sự thống khổ của linh hồn mìnhNgười sẽ thấy ánh sáng.Nhờ sự hiểu biết của mình người sẽ hài lòng. Người công chính tức là tôi tớ Ta sẽ làm cho nhiều người được công chínhVà người sẽ gánh lấy tội lỗi họ. Cho nên Ta sẽ chia phần cho người cùng với những người vĩ đạiVà người sẽ chia chiến lợi phẩm với những kẻ mạnh.Vì người đã đổ mạng sống mình cho đến chết,Bị liệt vào hàng tội nhân.Nhưng thật ra chính người đã mang lấy tội lỗi của nhiều ngườiVà cầu thay cho những kẻ tội lỗi. “Hỡi phụ nữ hiếm hoi,Không sinh nở, hãy hát lên;Hỡi người chưa từng đau đớn sinh nởHãy cất tiếng ca hát và reo hò.Vì con cái của phụ nữ bị ruồng bỏSẽ nhiều hơn con cái của phụ nữ có chồng,”CHÚA phán như vậy. “Hãy nới rộng chỗ trại ngươi ở;Căng các tấm bạt của trại ngươi ra,Đừng giữ lại.Hãy giăng dây cho dài,Đóng cọc cho chắc. Vì ngươi sẽ tràn ra bên phải lẫn bên trái;Dòng dõi ngươi sẽ chiếm hữu các nướcVà định cư trong các thành bỏ hoang. Đừng sợ; vì ngươi sẽ không bị xấu hổ,Chớ lo; vì ngươi sẽ không bị nhục nhã;Vì ngươi sẽ quên sự xấu hổ của thời thanh xuânVà không còn nhớ nữa nỗi nhục nhã của thời góa bụa. Vì Đấng tạo ra ngươi là chồng ngươi;Danh Ngài là CHÚA Vạn Quân.Đấng chuộc ngươi lại chính là Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên;Ngài được xưng là Đức Chúa Trời của cả trái đất. Vì CHÚA đã gọi ngươi vềNhư người vợ bị bỏ và đau khổ trong lòng;Tức là người vợ cưới thời thanh xuân đã bị bỏ;”Đức Chúa Trời ngươi phán như vậy. “Ta đã bỏ ngươi trong một thời gian ngắnNhưng với lòng thương xót lớn lao Ta sẽ đón ngươi về. Trong cơn thịnh nộ bừng bừng,Ta đã tránh mặt không nhận ngươi trong một lúc;Nhưng với tình yêu thương đời đờiTa sẽ thương xót ngươi,”CHÚA, Đấng Cứu Chuộc ngươi phán như vậy. “Điều này đối với Ta cũng như nạn nước lụt thời Nô-ê;Như Ta đã thề rằng nước lụt thời Nô-ê sẽ không bao giờ tràn ngập đất nữa,Thì Ta cũng thề rằng Ta sẽ không giận ngươiVà không quở trách ngươi. Dù núi dời,Dù đồi chuyểnNhưng tình yêu thương Ta dành cho ngươi sẽ không đổi;Giao ước bình an của Ta cũng không thay.”CHÚA, Đấng thương xót ngươi, phán như vậy. “Hỡi kẻ khốn khổ, đang bị bão tố, không người an ủi,Nầy chính Ta sẽ dùng đá màu lát đá cho ngươi;Xây nền cho ngươi bằng lam ngọc. Ta sẽ xây các tháp canh ngươi bằng hồng ngọc,Các cổng thành ngươi bằng ngọc lóng lánhVà tất cả tường thành ngươi bằng đá quý. Tất cả con cái ngươi sẽ được CHÚA dạy dỗ;Chúng sẽ được thái bình thịnh vượng. Ngươi sẽ được thiết lập trong sự công chính;Ngươi sẽ tránh xa áp bứcVì chẳng sợ chiVà thoát khỏi kinh hoàngVì nó sẽ không đến gần ngươi. Nếu người nào lập mưu hại ngươi, điều đó không phải đến từ Ta.Ai lập mưu hại ngươi sẽ vì ngươi mà ngã. Nầy, chính Ta đã tạo nên thợ rènThổi lửa đốt thanVà chế ra vũ khí để dùng.Chính Ta đã tạo nên kẻ phá hoại để gây ra sự tàn phá. Mọi vũ khí tạo nên để chống lại ngươi đều thất bại.Mọi lưỡi dấy lên tố cáo ngươi đều sẽ bị bác bỏ.Đó là cơ nghiệp của các tôi tớ của CHÚAVà sự xác minh từ Ta mà đến;” CHÚA tuyên bố như vậy. “Hỡi tất cả những ai khao khát,Hãy đến nơi các nguồn nước.Và người không tiền bạc,Hãy đến mua và ăn.Hãy đến mua rượu và sữaMà không cần tiền và không phải trả phí tổn. Tại sao các ngươi tiêu phí tiền cho vật không phải là bánh,Lao lực cho vật không làm cho mãn nguyện.Hãy lắng nghe Ta, hãy ăn vật ngon,Thì linh hồn các ngươi sẽ vui với đồ béo bổ. Hãy nghiêng tai và đến cùng Ta,Hãy nghe thì linh hồn các ngươi sẽ sống.Ta sẽ lập một giao ước đời đời với các ngươi,Tức là tình yêu trung kiên Ta đã hứa cùng Đa-vít. Kìa, Ta đã lập người làm nhân chứng cho nhân dân,Làm lãnh đạo và chỉ huy dân chúng. Kìa, ngươi sẽ kêu gọi nước mà ngươi không biết;Nước không biết ngươi sẽ chạy đến cùng ngươi.Vì CHÚA, Đức Chúa Trời ngươi,Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ênTôn vinh ngươi.” Hãy tìm kiếm CHÚA đang khi mình có thể gặp được,Hãy kêu cầu đang khi Ngài ở gần. Kẻ ác hãy từ bỏ đường lối mình,Người bất chính hãy từ bỏ ý tưởng mình.Hãy trở lại cùng CHÚA vì Ngài thương xót ngươi,Hãy đến cùng Đức Chúa Trời vì Ngài tha thứ dồi dào. “Vì ý tưởng Ta không phải là ý tưởng các ngươi,Đường lối các ngươi chẳng phải là đường lối Ta,”CHÚA tuyên bố như vậy. “Vì trời cao hơn đất bao nhiêuThì đường lối Ta cao hơn đường lối các ngươi;Ý tưởng Ta cao hơn ý tưởng các ngươi bấy nhiêu. Vì như mưa và tuyếtTừ trời rơi xuống,Nó không trở lại trờiNhưng tưới đất,Làm cho đất đượm mầu và nẩy nở;Đem lại hạt giống cho kẻ gieo và bánh cho người ăn. Này, lời đã ra từ miệng Ta,Sẽ không trở về cùng Ta vô hiệu quả,Nhưng sẽ làm điều Ta đã địnhVà hoàn thành việc Ta đã sai khiến nó. Còn các ngươi sẽ đi ra trong vui mừng,Và được dẫn về trong bình an.Núi đồi sẽCất tiếng hát trước mặt các ngươi.Và tất cả cây cối ngoài đồngSẽ vỗ tay. Cây tùng sẽ mọc lên thay cho cây gai,Cây hạnh đào thay cho gai góc.Ấy là một kỷ niệm cho CHÚA,Một dấu đời đời không bị cắt bỏ.” CHÚA phán như vầy:“Hãy duy trì sự công bìnhVà làm điều công chính;Vì sự cứu rỗi của Ta sắp đếnVà sự công chính của Ta sắp được hiển hiện. Phước cho người nào làm điều này!Và phước cho con cái nào của loài người giữ điều đúng;Tức là người giữ, không vi phạm ngày Sa-bátVà gìn giữ tay mình không làm một điều ác nào.” Người ngoại quốc đã liên hiệp với CHÚA chớ nói rằng:“CHÚA chắc chắn sẽ tách rời tôi khỏi dân Ngài.”Người bị hoạn cũng chớ nói rằng:“Nầy, tôi là một cây khô.” Vì CHÚA phán như vầy:“Những kẻ hoạn mà giữ các ngày Sa-bát của Ta;Chọn những điều đẹp lòng TaVà giữ giao ước Ta; Ta sẽ ban cho họ trong nhà của Ta, tức là trong các tường thành Ta,Một nơi kỷ niệm và một danhQuý hơn con trai, con gái;Ta sẽ ban cho họ một danh đời đờiKhông hề bị cắt đứt. Những người ngoại quốc đã liên hiệp với CHÚAĐể phục vụ Ngài,Yêu mến danh CHÚAVà làm tôi tớ Ngài;Tất cả những người giữ, không vi phạm ngày Sa-bátVà giữ giao ước Ta Đều được Ta đem lên núi thánhVà ban cho niềm vui mừng trong nhà cầu nguyện của Ta.Các tế lễ thiêu và tế lễ hy sinh của họ dângTrên bàn thờ Ta sẽ được chấp nhận,Vì nhà Ta sẽ được gọi làNhà cầu nguyện cho mọi dân tộc.” CHÚA, Đấng đang tập họp những người bị tản lạc của Y-sơ-ra-ên,Tuyên bố như vầy:“Ta sẽ còn tập họp những người khác về với nóNgoài những người đã được tập họp.” Hỡi tất cả thú đồng,Mọi loại thú rừng, hãy đến mà ăn. Những kẻ canh gác của Y-sơ-ra-ên, tất cả đều đui mù,Không biết gì cả.Chúng nó hết thảy đều như chó câm,Không biết sủa;Chỉ mơ mộng,Nằm khểnh và thích ngủ. Chúng là loài chó tham ăn,Chẳng biết no;Ấy là những kẻ chăn chiên không biết phân biệt.Tất cả chúng nó đều xoay theo đường lối riêng của mình;Mỗi người, từ đầu chí cuối, đều tìm kiếm lợi riêng, chúng nói: “Hãy đến, Ta sẽ lấy rượuRồi tha hồ uống rượu mạnh.Ngày mai cũng sẽ như ngày hôm nay,Còn trọng thể hơn nữa.” Người công chính chết điNhưng chẳng ai để ý đến.Người nhân đức bị cất điNhưng không ai hiểu rằng:Người công chính được cất điKhỏi tai họa, Người đi vào sự bình an.Những kẻ sống ngay thẳngSẽ an nghỉ trên giường mình. “Nhưng các ngươi, hỡi con cái của phù thủy,Dòng dõi của kẻ ngoại tình và gái điếm, hãy lại gần đây. Các ngươi đã cười nhạo ai?Các ngươi đã mở to miệng,Le lưỡi chế giễu ai?Không phải các ngươi là con cái của kẻ tội lỗi,Dòng dõi của kẻ nói dối sao? Các ngươi hành dâm bên cây sồi,Dưới mọi cây xanh;Các ngươi giết con cái làm sinh tế nơi thung lũng,Dưới vực đá sâu. Gia tài của ngươi ở giữa vòng các tảng đá trơn tru nơi thung lũng;Chính chúng nó là sản nghiệp ngươi.Ngươi đã đổ dầu làm lễ tướiVà dâng tế lễ ngũ cốc cho các tảng đá ấy.Ta có nên nguôi giận vì những việc như thế không? Ngươi đã đặt giường trên núi cao lừng lữngVà lên đó dâng tế lễ. Ngươi đã đặt vật tượng trưngSau cửa và cột cửa;Vì từ bỏ Ta, ngươi đã lột trần,Leo lên giường; làm cho giường rộng thêm.Ngươi đã tự kết ước với chúng;Yêu mến giường chúng và ngắm nhìn sự lõa lồ. Ngươi đem dầuVà nhiều hương liệu đến dâng cho vua.Ngươi sai các sứ giả đi đến phương xa,Xuống tận Âm Phủ. Ngươi mệt mỏi vì đường dàiNhưng vẫn không nhận là vô vọng.Ngươi tìm được sức mạnh cho tay mìnhNên ngươi không suy yếu. Ngươi đã kiêng nể và kính sợ aiĐến nỗi nói dối cùng Ta?Ngươi không nhớ đến Ta,Không để Ta trong lòng ngươi?Có phải vì Ta đã im lặng khá lâuMà ngươi không kính sợ Ta chăng? Ta sẽ công bố các công đức và việc làm của ngươi,Nhưng chúng sẽ chẳng giúp ích gì cho ngươi. Khi ngươi kêu cứu,Hãy để những đấng ngươi đã thu nạp giải cứu ngươi!Chỉ một ngọn gió sẽ thổi chúng bay đi,Một hơi thở sẽ cất đi tất cả!Nhưng ai trú ẩn nơi TaSẽ thừa hưởng đấtVà sẽ sở hữu núi thánh Ta.” Ngài sẽ phán:“Hãy xây, hãy đắp; hãy sửa soạn đường lối;Hãy loại bỏ những chướng ngại trên đường dân Ta.” Vì Đấng cao quý, Đấng ngự nơi vĩnh hằngVà danh Ngài là thánh, phán như vầy:“Ta ngự nơi cao cả và thánh khiếtNhưng cũng ở cùng người có tâm thần ăn năn và khiêm tốn,Để phục hồi sức sống cho người có tâm thần khiêm tốn;Cùng phục hồi sức sống cho kẻ có lòng ăn năn. Vì Ta chẳng buộc tội luôn luônCũng không tức giận mãi mãi,Kẻo thần linh và sinh khí loài người mà Ta đã tạo raSẽ phải suy tàn trước mặt Ta. Vì tội tham lợi riêng nên Ta đã nổi giận và đánh nó;Ta đã ngoảnh mặt đi trong cơn giận dỗi,Nhưng nó vẫn tiếp tục quay trở lại con đường của lòng nó. Đường lối nó Ta đã thấy nhưng Ta sẽ chữa lành,Hướng dẫn và ban cho nó đầy lời an ủi; Tức là tạo nên lời ca ngợi trên môi miệng của những kẻ than khóc trong Y-sơ-ra-ên.”CHÚA phán: “Bình an, bình an cho kẻ ở xa lẫn kẻ ở gần;Ta sẽ chữa lành nó.” Nhưng những kẻ ác giống như biển độngKhông thể yên lặng được.Nước biển chao động, bùn lầy nổi lên. Đức Chúa Trời tôi phán: “Những kẻ gian ác sẽ không được bình an.” “Hãy gân cổ mà kêu, đừng ngừng lại.Hãy cất tiếng kêu lên như tiếng tù và.Hãy công bố cho dân Ta sự phản nghịch của họVà cho nhà Gia-cốp tội lỗi của chúng. Mặc dù hằng ngày chúng tìm kiếm Ta,Vui mừng biết đường lối TaNhư một dân tộc làm điều công chínhVà không quên luật lệ của Đức Chúa Trời mình.Chúng cầu xin Ta những quyết định công chính;Vui mừng đến gần Đức Chúa Trời. Chúng hỏi: ‘Tại sao chúng tôi kiêng ănNhưng Ngài không thấy?Chúng tôi hạ mìnhNhưng Ngài không biết?’Này, trong ngày kiêng ăn, các ngươi vẫn tìm kiếm điều mình ưa thích;Bóc lột mọi công nhân của mình. Này, các ngươi kiêng ăn để tranh chấp và cãi vã;Để nắm tay gian ác đánh đấm nhau.Các ngươi không thể kiêng ăn như hiện nayĐể tiếng kêu của các ngươi được trời cao nghe thấy. Phải chăng đó là sự kiêng ăn Ta chọn lựa?Là ngày các ngươi hạ mình;Cúi đầu như cây sậy;Nằm trên vải thô và tro bụi?Phải chăng các ngươi gọi đó là kiêng ăn?Là ngày đẹp lòng CHÚA? Không phải cách kiêng ăn mà Ta chọn lựaLà tháo xiềng gian ác,Mở dây cột ách,Trả tự do cho kẻ bị áp bức,Bẻ gãy mọi ách, hay sao? Chẳng phải là chia cơm với kẻ đói;Đem người nghèo không nhà cửa về nhà mình;Khi thấy người không áo che thân thì mặc choVà không tránh mặt làm ngơ đối với người ruột thịt, hay sao? Bấy giờ ánh sáng của ngươi sẽ tỏa ra như rạng đông;Vết thương ngươi sẽ chóng lành;Sự công chính ngươi sẽ đi trước mặtVà vinh quang của CHÚA sẽ bảo vệ phía sau ngươi. Bấy giờ, ngươi cầu xin, CHÚA sẽ đáp;Ngươi kêu cứu, Ngài sẽ trả lời: Có Ta đây!Nếu ngươi vứt bỏ ách giữa các ngươi,Không chỉ tay và nói lời hiểm độc. Nếu ngươi dốc lòng nuôi kẻ đói,Đáp ứng yêu cầu người khốn cùngThì ánh sáng ngươi sẽ tỏa ra nơi tối tămVà sự âm u của ngươi sẽ như giữa trưa. CHÚA sẽ luôn luôn hướng dẫn ngươi;Đáp ứng yêu cầu ngươi trong nơi đất khô hạn;Ngài sẽ làm xương cốt ngươi mạnh mẽ;Ngươi sẽ như thửa vườn được tưới nước,Như ngọn suối không bao giờ khô. Những người ra từ ngươi sẽ xây dựng lại những nơi cổ xưa đổ nát;Sẽ lập lại các nền móng của nhiều đời trước.Ngươi sẽ được gọi là người sửa chữa tường thành đổ vỡ,Tu bổ đường phố cho dân cư ngụ. Nếu ngươi gìn giữ, không vi phạm ngày Sa-bát;Không làm điều mình ưa thích trong ngày thánh của Ta;Nếu ngươi coi ngày Sa-bát là niềm vui thích;Ngày thánh của CHÚA là đáng trọng;Nếu ngươi tôn trọng ngày ấy và không làm theo đường lối riêng của mình;Không theo đuổi điều mình ưa thích và không nói nhiều. Bấy giờ ngươi sẽ được vui thích nơi CHÚA,Và Ta sẽ cho ngươi cưỡi trên đỉnh cao của quả đất,Ngươi sẽ được nuôi bằng gia nghiệp của Gia-cốp, tổ phụ ngươi.”Vì chính miệng CHÚAđã phán như vậy. Nầy, chẳng phải tay của CHÚA quá ngắn để cứuVà tai của Ngài quá nặng để nghe đâu! Nhưng vì sự gian ác các ngươi đã ngăn cáchCác ngươi với Đức Chúa Trời mình;Và tội lỗi các ngươi đã làm Ngài ẩn mặtKhông nghe các ngươi. Bởi vì bàn tay các ngươi đã bị ô uế trong máu;Ngón tay các ngươi bị ô uế vì gian ác;Môi miệng các ngươi đã nói lời dối trá;Lưỡi các ngươi đã thì thầm điều độc địa. Không ai kiện cáo theo lẽ công chính;Cũng không ai tranh tụng trong sự chân thật.Người ta tin cậy vào điều hư không và lời gian dối;Cưu mang điều tai hại và đẻ ra điều gian ác. Chúng ấp trứng rắn,Dệt màng nhện.Ai ăn trứng của chúng sẽ chết;Còn trứng bị bể sẽ nở ra rắn độc. Màng chúng dệt không thể làm áo mặc;Chúng không thể che thân bằng đồ chúng làm ra.Công việc của chúng là công việc gian ác;Hành động trong tay chúng là bạo lực. Chân chúng chạy đến điều ácVà nhanh nhẹn làm đổ máu người vô tội.Tư tưởng của chúng là tư tưởng gian ác;Chúng đem lại tàn phá và đổ nát trên đường chúng đi. Chúng không biết con đường bình an,Cũng không có công bình nơi đường lối của chúng.Chúng tự làm đường lối mình cong quẹo,Ai đi trên đường ấy không biết được bình an. Cho nên sự công bình xa cách chúng ta;Và lẽ công chính cũng không đến gần chúng ta được.Chúng ta trông mong ánh sáng thì đây này, bóng tối!Chúng ta trông mong sáng lạng thì lại bước đi trong u tối. Chúng ta mò mẫm men theo tường như người mù,Như người không có mắt, chúng ta dò dẫm.Ban ngày giữa trưa mà chúng ta vấp ngã như vào lúc chạng vạng;Giữa những người mạnh khỏe mà chúng ta như người chết. Tất cả chúng ta gầm gừ như gấu,Than thở não nề như chim bồ câu.Chúng ta trông lẽ công bình nhưng không có;Mong sự cứu rỗi nhưng nó xa cách chúng ta. Vì sự vi phạm của chúng tôi trước mặt Ngài thật nhiều;Tội lỗi chúng tôi làm chứng nghịch chúng tôi.Vì sự vi phạm của chúng tôi vẫn ở cùng chúng tôiVà chúng tôi biết sự gian ác mình. Chúng tôi đã vi phạm, đã phản bội CHÚAVà quay lưng không theo Đức Chúa Trời mình.Chúng tôi đã nói lời bạo ngược và phản loạn;Cưu mang những lời gian dối trong lòng rồi thốt ra. Lẽ công bình bị đẩy lui;Sự công chính thì đứng xa;Vì lẽ thật bị vấp ngã nơi quảng trườngVà sự ngay thẳng không thể vào. Lẽ thật không còn nữaVà kẻ lánh xa điều ác thì bị cướp giật.CHÚA nhìn thấy và Ngài buồn lòngVì không có sự công bình. Ngài thấy không có ai cả;Và kinh ngạc vì không ai cầu khẩnNên Ngài dùng cánh tay mình để cứu rỗi;Và sự công chính của Ngài hỗ trợ mình. Ngài mặc sự công chính như áo giápVà đội mão cứu rỗi trên đầu.Ngài mặc áo báo trả làm y phụcVà choàng quanh mình bằng áo choàng nhiệt thành. Ngài sẽ báo trảTùy công việc chúng làm,Thịnh nộ cho kẻ chống đối,Báo oán cho kẻ thù nghịch;Ngài sẽ báo trả dân các hải đảo. Từ phương tây người ta sẽ kính sợ danh CHÚA;Những người từ phương đông sẽ kính sợ sự vinh quang Ngài.Vì Ngài sẽ đến như sông chảy cuồn cuộnVà hơi thở của CHÚA thúc đẩy nó. “Đấng Cứu Chuộc sẽ đến Si-ôn;Đến cùng những người thuộc nhà Gia-cốp đã từ bỏ tội lỗi,”CHÚA tuyên bố như vậy. CHÚA phán: “Về phần Ta, đây là giao ước của Ta với chúng: Thần Ta ở trên ngươi và những lời Ta đặt trong miệng ngươi sẽ không rời khỏi miệng ngươi, cũng như miệng con cái và cháu chắt ngươi từ nay cho đến đời đời.” CHÚA phán như vậy. “Hãy đứng lên và chiếu sáng vì ánh sáng của ngươi đã đếnVà vinh quang CHÚA tỏa sáng trên ngươi. Vì nầy, bóng tối sẽ bao trùm quả đấtVà tối tăm che phủ các dân.Nhưng CHÚA sẽ tỏa sáng trên ngươiVà vinh quang Ngài sẽ chiếu sáng trên ngươi. Các nước sẽ đến cùng ánh sáng ngươiVà các vua sẽ hướng về ánh bình minh của ngươi. Hãy ngước mắt nhìn quanh và xem:Tất cả chúng nó đều họp lại và đến cùng ngươi.Các con trai ngươi sẽ đến từ phương xa;Các con gái ngươi được ẵm trên hông. Bấy giờ ngươi sẽ thấy và rạng rỡ;Lòng ngươi sẽ xúc động và vui mừng.Vì sự giàu có của biển cả sẽ đổ về ngươi;Của cải của các nước sẽ đến với ngươi. Muôn vàn lạc đà sẽ tràn ngập ngươi,Cả lạc đà tơ của Ma-đi-an và Ê-pha.Tất cả những người từ Shê-ba sẽ đến;Mang theo vàng và trầm hương.Họ sẽ loan truyền lời ca ngợi CHÚA. Tất cả các bầy súc vật của Kê-đa sẽ được tập trung về nơi ngươi.Chiên đực của Nê-ba-giốt sẽ được dùng làm tế lễ;Chúng sẽ được chấp nhận trên bàn thờ TaVà Ta sẽ làm nhà vinh hiển Ta thêm vinh hiển. Những người nầy là ai mà như mây bay,Như bồ câu trở về chuồng? Chắc chắn các hải đảo sẽ trông đợi Ta;Trước hết là các tầu của Ta-rê-siSẽ đem các con trai ngươiCùng vàng và bạc từ phương xa vềĐể tôn vinh danh CHÚA, Đức Chúa Trời ngươi,Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ênVì Ngài làm cho ngươi vinh hiển. Người ngoại quốc sẽ xây dựng các tường thành ngươiVà vua của họ sẽ phục vụ ngươi.Vì trong cơn thịnh nộ Ta đã đánh ngươi,Nhưng trong lúc ban ơn Ta thương xót ngươi. Các cổng thành ngươi sẽ luôn luôn mở,Ngày đêm không bao giờ đóngĐể người ta đem của cải của các nước đến cho ngươi.Các vua của họ dẫn đầu đoàn triều cống. Vì dân nào, nước nào không thần phục ngươi sẽ bị diệt vong,Các dân ấy sẽ hoàn toàn bị phá hủy. Vinh quang của Li-ban sẽ đến trên ngươi;Cây thông, cây du, cây bách sẽ cùng nhauTrang hoàng điện thánh TaVà Ta sẽ làm cho nơi đặt chân Ta vinh quang. Con cái của những kẻ áp bức ngươi sẽ cúi đầu đến cùng ngươiVà tất cả những kẻ khinh bỉ ngươi sẽ quỳ mọp dưới chân ngươi.Chúng sẽ gọi ngươi là thành của CHÚA,Si-ôn của Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên. Xưa kia ngươi đã bị lãng quyên, ghét bỏVà không ai qua lại;Nay Ta sẽ làm cho ngươi thành cao quý mãi mãi,Thành nguồn vui đời đời. Ngươi sẽ bú sữa của các dânVà được các bà vú của các vua nuôi nấng.Ngươi sẽ biết rằng chính Ta là CHÚA, Đấng Cứu Rỗi ngươi,Đấng Cứu Chuộc ngươi và là Đấng Quyền Năng của Gia-cốp. Thay vì đồng thau, Ta sẽ đem cho ngươi vàng;Thay vì sắt, Ta sẽ đem cho ngươi bạc;Thay vì gỗ, Ta sẽ đem đồng;Thay vì đá, Ta sẽ đem sắt cho ngươi.Ta sẽ đặt bình an làm kẻ giám sát ngươiVà sự công chính làm kẻ đốc công ngươi. Người ta sẽ không nghe đến bạo lực trong xứ sở ngươi,Cũng không có đổ nát và phá hủy trong biên cương ngươi.Ngươi sẽ gọi thành lũy ngươi là sự cứu rỗiVà cổng thành ngươi là lời ca ngợi. Mặt trời sẽ không còn là ánh sáng cho ngươi vào ban ngày,Ánh sáng của mặt trăng cũng không chiếu sáng ngươi.Nhưng CHÚA sẽ là ánh sáng cho ngươi mãi mãiVà Đức Chúa Trời ngươi sẽ là vinh hiển ngươi. Mặt trời của ngươi sẽ không lặn nữa,Mặt trăng của ngươi cũng chẳng hề tàn.Vì CHÚA sẽ là ánh sáng mãi mãi cho ngươi,Những ngày than khóc của ngươi sẽ chấm dứt. Tất cả dân ngươi sẽ là công chính,Họ sẽ sở hữu đất này đời đời.Họ là mầm non Ta đã trồng,Là công việc của tay TaĐể được vinh hiển. Kẻ bé nhỏ nhất của ngươi sẽ thành cả ngànVà người hèn yếu nhất sẽ thành một dân hùng mạnh.Chính Ta là CHÚA,Ta sẽ mau chóng thực hiện điều ấy đúng thời.” Thần của CHÚA ở trên TaVì CHÚA đã xức dầu cho TaĐặng loan báo tin mừng cho những kẻ nghèo khổ.Ngài sai Ta đi băng bó những tấm lòng tan vỡ,Công bố tự do cho những kẻ bị tù đầy,Loan tin phóng thích cho những người bị xiềng xích; Công bố năm thi ân của CHÚAVà ngày báo trả của Đức Chúa Trời chúng ta;Ngài sai Ta đi an ủi mọi kẻ than khóc; Đặng ban cho những kẻ than khóc ở Si-ônMão hoaThay vì tro bụi,Dầu vui vẻThay vì than khóc,Áo choàng ca ngợiThay vì tinh thần sầu thảm;Họ sẽ được gọi là cây sồi công chính,Cây CHÚA đã trồngĐể bày tỏ vinh hiển Ngài. Họ sẽ xây lại những nơi đổ nát xưa,Dựng lại những chỗ hoang phế cũ,Tu bổ các thành đổ nát,Những nơi hoang phế từ bao thế hệ. Kiều dân sẽ đứng chăn cừu cho các ngươi,Người ngoại quốc sẽ cầy ruộng và làm vườn nho các ngươi. Còn các ngươi sẽ được gọi là thầy tế lễ của CHÚA;Người ta sẽ xưng các ngươi là người phụng sự Đức Chúa Trời chúng ta.Các ngươi sẽ hưởng của cải của các dânVà hãnh diện trong vinh hoa của họ. Thay vì hổ thẹn,Dân Ta sẽ hưởng gấp đôi,Thay vì nhục nhãHọ sẽ vui mừng vì phần điền sản của mình;Cho nên họ sẽ sở hữu gấp đôi phần điền sản trong xứVà được vui mừng đời đời. Vì Ta là CHÚA; Ta yêu công bình,Ghét trộm cướp trong tế lễ thiêu,Nhưng theo lòng thành tín của Ta, Ta sẽ thưởng công cho chúngVà lập giao ước đời đời với chúng. Dòng dõi họ sẽ được nổi tiếng trong các nước,Con cháu họ sẽ nổi danh giữa các dân.Tất cả những ai thấy họ đều công nhậnRằng họ là dòng dõi được CHÚA ban phước. Trong CHÚA, ta sẽ rất vui mừng,Linh hồn ta sẽ hân hoan nơi Đức Chúa Trời ta;Vì Ngài mặc cho ta áo cứu rỗi;Khoác cho ta áo choàng công chínhGiống chàng rể khăn áo như thầy tế lễ,Như cô dâu trang sức bằng nữ trang. Vì như đất đai làm chồi mọc lên,Vườn tược làm hạt giống nẩy mầm thể nàoThì CHÚA sẽ làm cho sự công chínhVà lời ca ngợi trổi lên trước mặt muôn dân thể ấy. Vì cớ Si-ôn Ta sẽ không im lặng,Vì cớ Giê-ru-sa-lem Ta sẽ không bất độngCho đến khi nào sự công chính của nó phát ra như ánh sángVà ơn cứu rỗi bừng cháy như ngọn đuốc. Các nước sẽ thấy sự công chính của ngươi;Tất cả các vua sẽ thấy vinh quang ngươi.Ngươi sẽ được gọi bằng tên mới,Là tên chính miệng CHÚA sẽ ban cho. Ngươi sẽ là mão vinh hiển trong tay CHÚA,Là mũ miện hoàng gia trong lòng bàn tay Đức Chúa Trời ngươi. Ngươi sẽ không còn bị gọi là kẻ bị ruồng bỏ,Và đất đai ngươi là đất hoang phế nữa.Nhưng ngươi sẽ được gọi là người mà Ta vui thích,Và đất ngươi là đất có chồng.Vì CHÚA vui thích về ngươiVà đất ngươi là đất sẽ có chồng. Như một thanh niên sẽ cưới một thiếu nữThì các con trai ngươi sẽ kết ước với ngươi;Như chàng rể vui mừng vì cô dâuThì Đức Chúa Trời ngươi cũng vui mừng vì cớ ngươi. Hỡi Giê-ru-sa-lem, Ta đã đặt lính canh trên tường thành ngươi.Suốt ngày đêm họ sẽ không hề nín lặng;Các ngươi là người nhắc nhở CHÚA,Chớ nghỉ ngơi. Cũng đừng để Ngài nghỉ ngơi cho đến khi Ngài thiết lập lại Giê-ru-sa-lemVà làm nó nổi danh trên đất. CHÚA đã đưa tay phảiVà cánh tay quyền năng của Ngài lên mà thề rằng:“Ta sẽ không ban lúa mì của ngươiCho kẻ thù ngươi ăn nữa;Người ngoại quốc cũng sẽ không uống rượu nho mới của ngươi,Là rượu mà ngươi đã lao lực làm ra. Nhưng những người gặt hái lúa mì sẽ được ăn lúaVà ca ngợi CHÚA.Và những người hái nho sẽ được uống rượu nhoTrong sân điện thánh Ta.” Hãy đi qua, hãy đi qua các cửa thành;Hãy dọn đường cho dân.Hãy xây đắp, hãy xây đắp đường cái;Hãy dẹp sạch đá.Hãy giương cờ cho các dân. Này, CHÚA đã công bốĐến tận cùng quả đất;Hãy nói với con gái Si-ôn:“Kìa, ơn cứu rỗi ngươi đang đến.Kìa, Ngài đem phần thưởng theo với Ngài;Và thành tích Ngài đi trước Ngài.” Chúng sẽ được gọi là dân thánh,Dân được cứu chuộc của CHÚA.Còn ngươi sẽ được gọi là thành người ta tìm đến,Thành không bị ruồng bỏ. Ai là Đấng từ Ê-đôm đến?Ai là Đấng mặc áo đỏ thẫm đến từ Bốt-ra?Ai trang phục lộng lẫy,Tiến bước với sức mạnh vĩ đại.“Chính là Ta, Đấng phán lời công chính,Đấng quyền năng để cứu rỗi.” Tại sao y phục Ngài nhuộm đỏ?Ngài trang phục như người đạp bồn nho. “Một mình Ta đã đạp, ép nho,Không có người nào từ các dân ở với Ta.Trong cơn giận, Ta đã đạp chúng,Trong cơn thịnh nộ, Ta đã chà đạp chúng.Máu của chúng bắn lên áo Ta,Toàn thể y phục của Ta bị vấy hết. Vì Ta đã định ngày báo thù trong lòngVà năm của những kẻ được cứu chuộc của Ta đã đến. Ta nhìn xem nhưng không ai giúp,Ta ngạc nhiên nhưng không ai hỗ trợ.Nên Ta đã dùng cánh tay Ta để tạo chiến thắng cho TaVà cơn thịnh nộ của Ta đã hỗ trợ Ta. Ta chà đạp các dân trong cơn giận,Ta khiến chúng nó say trong cơn thịnh nộVà Ta đổ máu chúng nó ra trên đất”. Tôi sẽ nhắc lại tình yêu thương của CHÚACùng những lời ca ngợi CHÚAVì tất cả những gì CHÚA đã làm cho chúng taVà sự tốt lành lớn lao Ngài ban cho nhà Y-sơ-ra-ên;Là những điều Ngài đã ban cho chúng ta.Theo như lòng thương xót và tình yêu thương lớn lao của Ngài. Ngài phán: “Thật, họ là dân Ta;Những đứa con không lừa dối.”Và Ngài đã trở thành Đấng Cứu Rỗi của họ. Trong mọi cơn khốn quẫn của họ, Ngài cũng chịu khốn quẫnVà thiên sứ trước mặt Ngài đã cứu họ.Vì tình yêu thương và lòng thương xót,Chính Ngài đã cứu chuộc họ,Nâng họ lên và bồng bế họ suốt trong những ngày xưa. Nhưng họ đã phản nghịchVà làm buồn lòng Đức Thánh Linh của Ngài;Cho nên Ngài đã trở thành kẻ thù của họ;Chính Ngài chiến đấu chống lại họ. Bấy giờ họ nhớ lại ngày xưa;Nhớ đến Môi-se và dân Ngài nên hỏi:Đấng đã đem họ ra khỏi biểnCùng với những người chăn và bầy chiên của Ngài đâu rồi?Đấng đã đặt Đức Thánh Linh của NgàiỞ giữa họ đâu rồi? Ai khiến cánh tay vinh hiển NgàiĐi bên phải Môi-se,Ai rẽ nước ra trước mặt họĐặng lưu danh muôn đời? Ai đã dẫn họ qua các vực sâuNhư ngựa trong sa mạc,Không hề vấp ngã? Như bầy súc vật đi xuống thung lũng.Thần của CHÚA đã ban cho họ an nghỉ.Ngài đã dẫn dắt dân Ngài như thếĐể làm danh Ngài vinh hiển. Từ trời xin Ngài hãy nhìn xuống,Từ nơi ở thánh và vinh hiển xin hãy xem.Lòng nhiệt thành và sức mạnh của Ngài ở đâu?Ngài đã thu lại tấm lòng tha thiết và thương xót chúng tôi. Thật, chính Ngài là Cha chúng tôi.Dù Áp-ra-ham không biết chúng tôi;Y-sơ-ra-ên không công nhận chúng tôiThì Ngài, lạy CHÚA, vẫn là Cha chúng tôi.Danh Ngài là Đấng Cứu Chuộc chúng tôi từ muôn đời. Lạy CHÚA, sao Ngài để chúng tôi lầm lạc xa đường lối Ngài?Sao Ngài để lòng chúng tôi chai đá không kính sợ Ngài?Vì cớ các tôi tớ Ngài,Và vì cớ các chi tộc thuộc gia sản Ngài xin hãy trở lại. Dân thánh Ngài sở hữu nơi nàyTrong ít lâu nhưng kẻ thù Ngài đã giầy đạp nơi thánh Ngài. Đã từ lâu chúng tôi trở thànhNhư một dân không do Ngài cai trịVà không mang danh Ngài. Ôi, ước gì Ngài xé rách các tầng trời ngự xuống,Và núi non rung chuyển trước mặt Ngài. Như lửa đốt củi khô;Như lửa làm nước sôi sụcĐể các kẻ thù biết đến danh NgàiVà các nước run rẩy trước mặt Ngài. Khi Ngài làm những việc đáng sợ mà chúng tôi không ngờThì Ngài ngự xuống và núi non rung chuyển trước mặt Ngài. Từ xưa, người ta chưa nghe nói đến,Tai chưa nghe,Mắt chưa thấy một Đức Chúa Trời nào ngoài ra Ngài;Là Đấng đã hành động cho những kẻ trông đợi Ngài như thế. Ngài tiếp đón những người vui vẻ làm điều công chínhVà những người nhớ đến Ngài, đi theo đường lối Ngài.Kìa Ngài nổi giận vì chúng tôi phạm tội.Ở trong ấy lâu đời mà chúng tôi vẫn được cứu rỗi sao? Tất cả chúng tôi đã trở nên như người ô uế;Mọi điều công chính của chúng tôi như chiếc áo bẩn thỉu.Tất cả chúng tôi đều tàn héo như chiếc láVà tội lỗi chúng tôi như cơn gió cuốn chúng tôi đi. Không ai cầu khẩn danh Ngài;Không ai thức tỉnh để níu lấy Ngài.Vì Ngài đã ẩn mặt khỏi chúng tôiVà để chúng tôi tiêu tan trong tay tội lỗi của mình. Dầu vậy, lạy CHÚA, Ngài là cha chúng tôi.Chúng tôi là đất sét, Ngài là thợ gốm.Tất cả chúng tôi là công việc của tay Ngài. Lạy CHÚA, xin Ngài đừng quá giận,Xin chớ ghi nhớ mãi tội ác chúng tôi.Kìa, xin Ngài đoái xem,Tất cả chúng tôi là con dân của Ngài. Các thành thánh của Ngài đã trở nên sa mạc,Si-ôn đã trở nên sa mạc, Giê-ru-sa-lem đã trở nên hoang phế. Ngôi đền thánh và vinh hiển của chúng tôi, là nơi tổ tiên chúng tôi ca ngợi Ngài,Đã bị lửa thiêu hủy.Tất cả những gì chúng tôi quý trọng đều đã bị tàn phá. Lạy CHÚA, trước những cảnh này Ngài vẫn đành lòng,Ngài vẫn im lặng và để chúng tôi bị hình phạt nặng nề sao? “Những kẻ vốn chẳng hỏi Ta thì Ta sẵn sàng để cho cầu khẩn.Những kẻ vốn không tìm kiếm Ta thì Ta sẵn sàng cho gặp.Ta đã phán cùng một nước không được gọi bằng danh Ta:‘Ta đây, Ta đây này.’ Suốt ngày Ta đưa tay hướng vềMột dân tộc phản nghịch,Là những người đi trong đường lối không tốt,Theo ý riêng của mình; Một dân cứ tiếp tục chọc giậnVào mặt Ta.Chúng tế lễ trong các vườn,Dâng hương trên những đống gạch. Chúng ngồi nơi mồ mả;Ở đêm trong những nơi bí ẩn;Ăn thịt heo,Đựng nước canh của đồ ô uế trong chén bát mình. Chúng nói: ‘Hãy tránh ra, đừng đến gần TaVì Ta quá thánh đối với ngươi.’Những điều này như khói phun ra từ mũi Ta,Như lửa cháy suốt ngày. Nầy, đây là điều đã được chép trước mặt Ta:Ta sẽ không nín lặng nhưng Ta sẽ báo trả,Ta sẽ báo trả vào lòng chúng nó những tội lỗi Của chúng lẫn tội lỗi tổ tiên chúng,”CHÚA phán.“Vì chúng đã dâng hương trên các núi,Xúc phạm Ta tại các đồiNên Ta sẽ đong đầy vào lòng chúngSự báo trả về những công việc trước kia của chúng.” CHÚA phán như vầy:“Như người ta thấy nước cốt nho còn trong chùm nho,Nên bảo: ‘Đừng phá hủy đi,Vì có phúc lành trong đó.’Ta cũng sẽ làm như thế vì cớ các tôi tớ Ta;Ta sẽ không hủy diệt tất cả. Ta sẽ cho một dòng dõi xuất phát từ Gia-cốp;Một người từ Giu-đa sẽ sở hữu các núi của Ta.Những kẻ Ta lựa chọn sẽ sở hữu chúngVà các tôi tớ Ta sẽ ở đó. Và cho dân Ta, là những người đã tìm kiếm Ta thì Sa-rôn sẽ thành đồng cỏ cho chiên;Và thung lũng A-cô sẽ là nơi bầy bò nằm nghỉ. Còn các ngươi là những kẻ từ bỏ CHÚA,Quên núi thánh Ta;Các ngươi đã bày bàn tiệc cho thần May Mắn,Đã rót đầy rượu pha dâng cho thần Định Mệnh. Ta sẽ định cho các ngươi bị gươm giáo,Tất cả các ngươi sẽ phải cúi đầu cho người ta giết.Vì Ta đã gọi nhưng các ngươi không đáp,Ta đã phán nhưng các ngươi không nghe.Các ngươi đã làm điều ác trước mắt Ta,Và chọn những điều Ta không đẹp lòng.” Cho nên CHÚA phán như vầy:“Nầy, các tôi tớ Ta sẽ ăn,Nhưng các ngươi sẽ đói.Nầy, các tôi tớ Ta sẽ uống,Nhưng các ngươi sẽ khát.Nầy, các tôi tớ Ta sẽ vui mừng,Nhưng các ngươi sẽ hổ thẹn. Nầy, các tôi tớ Ta sẽ ca hátVì lòng vui vẻNhưng các ngươi sẽ kêu gàoVì lòng đau đớn;Các ngươi sẽ than khócVì tâm thần thống khổ. Các ngươi sẽ lưu danh lạiĐể những người được chọn của Ta làm lời nguyền rủa,Và CHÚA sẽ giết các ngươi,Nhưng Ngài sẽ ban một tên khác cho các tôi tớ Ngài. Cho nên, ở trong xứ ai cầu phúc cho mìnhThì sẽ nhân danh Đức Chúa Trời chân thật mà cầu;Ai thề thì sẽ nhân danhĐức Chúa Trời chân thật mà thề.Vì những nỗi khốn khổ trước kiaĐã bị quên lãng và đã ẩn tàng khỏi mắt Ta. Vì nầy, Ta đã sáng tạoTrời mới và đất mới.Những điều trước kia sẽ không còn được nhớ đến,Cũng không được nhắc đến trong tâm trí. Nhưng hãy hân hoan và vui mừng mãi mãiVì những gì Ta sáng tạo.Vì nầy, Ta tạo nên Giê-ru-sa-lem như một nguồn vui,Ta dựng nên dân thành ấy như một niềm hoan hỉ. Ta sẽ vui mừng vì Giê-ru-sa-lem,Ta sẽ hoan hỉ vì dân Ta.Nơi đó sẽ không còn ngheTiếng khóc la, than vãn. Tại đó sẽ không cònTrẻ con chết yểu,Cũng chẳng có người già mà không sống đầy tuổi thọ.Vì người chết lúc trăm tuổiLà chết trẻVà kẻ chỉ sống đến trăm tuổiSẽ bị coi như bị rủa sả. Người ta sẽ xây dựng nhà cửa và được ở trong đó,Sẽ trồng vườn nho và được ăn quả. Họ sẽ không xây nhà cho người khác ở,Không trồng nho cho người khác ăn trái.Vì tuổi thọ của dân TaSẽ như số năm của cây;Những người được chọn của TaSẽ hưởng công lao của tay mình làm. Họ sẽ không làm việc vất vả vô ích,Không sinh con cái để gặp tai họa bất ngờ,Vì là dòng dõi được CHÚA ban phước;Họ cùng con cháu của họ. Trước khi họ gọi, chính Ta đã đáp lời;Khi họ còn đang nói, chính Ta đã nghe. Chó sói và chiên con sẽ ăn chung,Sư tử sẽ ăn rơm như bò,Bụi đất sẽ là thức ăn cho rắn.Sẽ không có ai làm tổn hại hay tàn pháTrên khắp núi thánh Ta,”CHÚA phán như vậy. CHÚA phán như vầy:“Trời là ngôi Ta,Đất là bệ chân Ta.Các ngươi sẽ xây một ngôi nhà cho Ta ở đâu?Nơi nào sẽ là chỗ Ta nghỉ ngơi? Tay Ta đã làm ra tất cả những vật này,Vì thế chúng đều hiện hữu.”CHÚA tuyên bố như vậy.“Đây là kẻ Ta xem trọng:Người nhu mì, tâm thần hối cảiVà run sợ vì lời Ta phán. Còn người giết một con bò để tếCũng giống như giết một người;Kẻ dâng một con chiên làm sinh tếGiống như bẻ cổ một con chó;Người dâng tế lễ chayGiống như dâng máu heo;Kẻ dâng hương tưởng niệmGiống như người thờ tượng thần.Vì chúng đã chọn con đường riêng của mìnhVà linh hồn ưa thích những điều ghê tởm. Ta cũng sẽ chọn bạc đãi cho chúngVà đem đến điều chúng kinh hãiVì khi Ta gọi không ai đáp,Ta phán không ai nghe;Nhưng chúng đã làm điều ác trước mắt TaVà chọn điều Ta không đẹp lòng.” Hỡi những kẻ run sợ vì lời Ngài,Hãy nghe lời của CHÚA:“Anh em ngươi là người nhân danh Ta ghét các ngươi,Từ bỏ các ngươi, nói rằng:‘Hãy để CHÚA được vinh quangĐặng chúng ta thấy sự vui mừng của các ngươi.’Nhưng chúng nó sẽ hổ thẹn. Có tiếng nói từ trong thành,Có tiếng phát ra từ đền thờ,Tiếng của CHÚA báo trảNhững kẻ thù Ngài. Trước khi đau chuyển bụngNàng đã sinh,Trước khi cơn đau kéo đến,Nàng đã sinh một đứa con trai. Ai đã nghe một việc như thế?Ai đã thấy những điều thế nầy?Có thể một đất nước nào được chuyển bụng sinh ra trong một ngàyHay một nước nào được sinh ra trong một lúc không?Thế mà Si-ôn vừa chuyển bụngĐã sinh ra đàn con.” CHÚA phán: “Chính Ta là Đấng mở dạ mẹLại không cho sinh sao?Hoặc chính Ta là Đấng cho thụ thai nhiNhưng lại đóng dạ mẹ sao?” Đức Chúa Trời ngươi phán. “Hãy vui mừng với Giê-ru-sa-lem,Hỡi tất cả những người yêu mến Giê-ru-sa-lem, hãy hân hoan vì nó.Hỡi tất cả những người than khóc cho Giê-ru-sa-lem,Hãy hết sức vui với nó. Để các ngươi bú sữa no nêNơi vú an ủi của mẹ,Để được uống thỏa thíchTừ nguồn sung mãn vinh quang của người.” Vì CHÚA phán như vầy:“Nầy, Ta sẽ đem sự bình an đến cho thành như con sông;Đem vinh quang của các nước đến như suối nước tràn ngập.Các ngươi sẽ được bú sữa, được bồng trên lòng,Được vỗ về trên đầu gối. Như người mẹ an ủi con mình,Chính Ta sẽ an ủi các ngươi như thế.Các ngươi sẽ được an ủi nơi Giê-ru-sa-lem.” Các ngươi sẽ thấy và lòng hân hoan;Xương cốt các ngươi sẽ nẩy nở như cỏ.Người ta sẽ biết rằng tay của CHÚA ở cùng các tôi tớ NgàiNhưng cơn thịnh nộ dành cho những kẻ thù Ngài. Vì kìa, CHÚA sẽ đến trong lửaVà xe chiến mã của Ngài như bão tốĐể báo trả cơn giận của Ngài bằng thịnh nộVà lời quở trách của Ngài trong ngọn lửa. Vì CHÚA sẽ dùng lửa và gươmĐể trừng trị mọi người phàm;Nhiều người sẽ bị CHÚA xử tử. “Những kẻ làm cho mình thánh khiết, tinh sạch để đi vào các vườn theo một người đứng ở giữa; là những kẻ ăn thịt heo, rắn rít ghê tởm và chuột.” CHÚA tuyên bố: “Chúng nó cùng đến ngày tận số cả.” “Còn Ta, Ta biết rõ hành động và tư tưởng chúng. Ta sẽ đến, tập họp tất cả các nước và các ngôn ngữ lại. Chúng sẽ đến và thấy vinh quang Ta. Ta sẽ đặt một dấu hiệu giữa họ và sai những người sống sót của họ đi đến các nước; tức là đến Ta-rê-si, Phun, Lút, là dân giỏi về cung tên, Tu-banh, Gia-van, các hải đảo xa xăm là những nơi chưa nghe danh Ta và chưa thấy vinh quang Ta. Chúng sẽ loan báo vinh quang Ta giữa các nước.” CHÚA phán: “Chúng sẽ đem tất cả anh em các ngươi như lễ vật từ mọi nước về dâng hiến kính CHÚA tại núi thánh Ta ở Giê-ru-sa-lem, chúng đưa họ về bằng ngựa, xe ngựa, kiệu, la và lạc đà; như người Y-sơ-ra-ên đem lễ vật đựng trong đồ tinh sạch đến đền thờ CHÚA.” CHÚA phán: “Ta cũng sẽ chọn một số người trong họ để làm thầy tế lễ và người Lê-vi.” CHÚA tuyên bố: “Vì như trời mới và đất mới mà chính Ta làm ra sẽ đứng vững trước mặt Ta thế nào thì dòng dõi và tên các ngươi cũng đứng vững như thế.” CHÚA phán: “Từ ngày trăng mới này đến ngày trăng mới khác, từ ngày Sa-bát này đến ngày Sa-bát nọ, mọi người sẽ đến thờ phượng trước mặt Ta. Họ sẽ đi ra và thấy xác của những người phản loạn cùng Ta; vì giòi bọ trên chúng nó sẽ không chết, lửa thiêu chúng nó sẽ không tàn và chúng nó là vật ghê tởm cho mọi người.” Đây là sứ điệp của Giê-rê-mi, con trai Hinh-kia, về dòng tế lễ ở A-na-tốt, thuộc lãnh thổ Bên-gia-min. CHÚA phán với ông vào năm thứ mười ba đời vua Giô-si-a, con A-môn, vua Giu-đa, và trong đời vua Giê-hô-gia-kim, con Giô-si-a, vua Giu-đa, cho đến năm thứ mười một cuối đời vua Sê-đê-kia, con Giô-si-a, khi dân thành Giê-ru-sa-lem bị lưu đày vào tháng thứ năm. CHÚA phán với tôi: “Trước khi con lọt lòng mẹ, Ta đã biệt riêng con,Ta đã lập con làm tiên tri cho các dân tộc.” Tôi thưa: “Ôi, lạy CHÚA! Thật con chẳng biết nói chi, vì con chỉ là con trẻ.” Nhưng CHÚA phán với tôi: “Đừng nói: ‘Con chỉ là con trẻ,’ Vì con sẽ đến với mọi người nào Ta sai con đến, Và con sẽ nói mọi điều Ta truyền cho con nói, Con đừng sợ chúng nó, Vì Ta hằng ở với con để giải cứu con.” Đấy là lời của CHÚA. CHÚA giơ tay rờ miệng tôi, và CHÚA phán với tôi: “Này, Ta đã đặt lời Ta trong miệng con. Ngày nay Ta ban cho con quyền trên các dân, các nước, để bứng gốc và phá sập, để hủy diệt và lật đổ, để xây dựng và vun trồng.” CHÚA phán với tôi: “Giê-rê-mi con thấy gì?” Tôi đáp: “Con thấy một nhánh cây hạnh.” CHÚA phán với tôi: “Con thấy đúng, vì Ta thức canh để thực hiện lời Ta phán.” CHÚA phán với tôi lần thứ nhì: “Con thấy gì?” Tôi đáp: “Con thấy một nồi đặt trên lửa đang thổi, vành miệng nồi nghiêng xuống từ hướng bắc.” CHÚA phán với tôi: “Tai họa từ phương bắc sẽ giáng xuống hết thảy cư dân trên đất.” Đây là lời của CHÚA: “Này, Ta sẽ triệu tập hết thảy các dân từ các vương quốc phía bắc.Chúng sẽ đến, ai nấy đặt ngôi mìnhNơi lối vào cổng thành Giê-ru-sa-lem,Nghịch lại tất cả các tường bao quanh thành,Nghịch lại tất cả các thành xứ Giu-đa. Ta sẽ tuyên án trừng phạt chúngVì mọi việc gian ác chúng làm:Chúng đã lìa bỏ Ta, cúng tế các thần khác,Và thờ lạy công trình tay chúng làm. Về phần con, hãy chuẩn bị tinh thần, hãy mạnh dạn rao báo cho chúng mọi điều Ta truyền dạy con. Con chớ khiếp sợ chúng, e Ta khiến con càng khiếp sợ trước mặt chúng. Về phần Ta, ngày nay Ta lập con lên làm thành kiên cố, làm cột sắt, làm tường đồng, để chống cự lại cả đất nước, các vua quan xứ Giu-đa, các thầy tế lễ và dân trong nước.” Đây là lời của CHÚA: “Chúng sẽ tranh chiến với con, nhưng không thắng được, vì Ta hằng ở với con để giải cứu con.” CHÚA phán với tôi: “Hãy đi rao báo vào tai thành Giê-ru-sa-lem: CHÚA phán như vầy:‘Ta còn nhớ lòng chung thủy của ngươi trong tuổi đang thì,Tình yêu của ngươi khi là cô dâu mới,Thể nào con theo Ta nơi sa mạc,Nơi đất không gieo trồng. Y-sơ-ra-ên vốn là dân thánh, thuộc riêng về CHÚA,Là trái đầu mùa của hoa lợi Ngài.Mọi kẻ nào ăn nuốt dân ấy đều bị kết tội,Mắc phải tai họa.’”Đấy là lời của CHÚA. Các ông bà là dòng họ nhà Gia-cốp,Là toàn thể các chi tộc nhà Y-sơ-ra-ên, CHÚA phán như vầy:“Tổ phụ các ngươi có tìm thấy lỗi gì nơi Ta,Mà đã lìa xa Ta,Đi theo các thần phù phiếm,Để rồi chính chúng cũng trở thành phù phiếm? Chúng chẳng hề tự hỏi: ‘CHÚA đâu rồi?Chính Ngài đã đem chúng ta lên khỏi xứ Ai-cập,Dẫn chúng ta đi ngang qua sa mạc,Là vùng đất hoang dã đầy hầm hố,Đất khô cằn và âm u,Đất không người qua lại, cũng chẳng có người ở.’ Ta đem các ngươi đến vùng đất mầu mỡ này,Cho các ngươi hưởng hoa lợi cùng mọi điều tốt đẹp trong xứ.Nhưng các ngươi đã đến và làm ô uế đất Ta,Các ngươi đã biến sản nghiệp Ta thành vật gớm ghiếc. Các thầy tế lễ chẳng hề tự hỏi:‘CHÚA đâu rồi?’Các nhà chuyên giải kinh luật chẳng biết Ta,Các nhà lãnh đạo chống nghịch Ta,Các tiên tri nhân danh Ba-anh nói tiên tri,Và đi theo các thần không giúp ích chi.” Đây là lời của CHÚA:“Vì thế cho nên Ta tiếp tục buộc tội các ngươi,Và con cháu các ngươi nữa. Hãy băng qua đảo Kít-tim mà xem,Hãy sai người đến Kê-đa và dò xét kỹ càng,Xem việc thể này có từng xảy ra chưa. Có dân nào thay đổi thần của mình,Dù các thần đó không phải là thần?Nhưng dân Ta đã trao sự vinh hiển của mìnhĐể đổi lấy thần không ích chi!” Đây là lời của CHÚA:“Hỡi bầu trời, hãy kinh ngạc về việc này,Hãy khiếp đảm, hãy tiêu điều cùng cực! Vì dân Ta đã phạm hai tội ác:Chúng đã lìa bỏ Ta,Là nguồn nước trào tuôn,Và tự đào cho mình những bể chứa nước,Những bể nứt nẻ không chứa nước được. Y-sơ-ra-ên có phải là một tên nô lệ, hoặc một kẻ tôi đòi sinh ra trong nhà chủ không?Thế tại sao nó lại trở thành của cướp bóc? Sư tử tơ gầm rốngVang dậy chống lại nó:Chúng gây cho đất nước nó tan hoang,Các thành phố nó bị thiêu rụi, không người ở. Ngay cả dân thành Nốp và Tác-pha-nếtCũng đã từng đập bể đầu ngươi. Phải chăng ngươi đã tự chuốc lấy cho mình mọi điều ấy,Vì ngươi đã lìa bỏ CHÚA, Đức Chúa Trời ngươi,Đang khi Ngài dẫn dắt ngươi trên đường sao? Bây giờ ngươi đi xuống Ai-cập,Uống nước sông Ninh, được ích gì?Ngươi đi qua xứ A-si-ri,Uống nước sông Ơ-phơ-rát, có lợi chi?” Đây là lời của CHÚA Vạn Quân:“Chính tội ác ngươi sẽ sửa phạt ngươi,Chính sự bội giáo ngươi sẽ khiển trách ngươi.Hãy nhận biết thấm thía rằngKhi ngươi lìa bỏ CHÚA, Đức Chúa Trời ngươi,Và không có lòng kính sợ Ta,Đó là điều xấu xa và cay đắng là dường nào!” “Này, từ lâu ngươi đã bẻ ách, bứt dây,Ngươi nói: ‘Tôi không muốn phục vụ.’Thật vậy, trên mỗi đồi cao, dưới mỗi gốc cây rậm lá,Ngươi cúi khòm xuống, bán dâm. Ta đã trồng ngươi, thuộc giống nho đỏ thắm, chọn lọc,Toàn là giống thuần chủng,Thế mà ngươi lại đổi thànhCây nho lạ, hôi tanh! Dù ngươi có tắm gội bằng xà phòng,Rửa mình nhiều lần trong nước tro,Dấu vết tội ác ngươi vẫn sờ sờ trước mắt Ta,”Đấy là lời củaCHÚA Vạn Quân. “Sao ngươi dám nói: ‘Tôi không bị ô uế,Tôi không có đi theo thần Ba-anh.’Hãy xem đường lối ngươi nơi thung lũng,Hãy nhận biết điều ngươi đã làm:Ngươi khác nào lạc đà cái tơ nhanh nhẹn,Dấu chân quấn quýt vào nhau; Khác nào lừa cái rừng quen sống trong sa mạc,Hít gió khi động đực,Trong lúc này, ai có thể kìm hãm nó được?Lừa đực nào tìm nó khỏi phải mệt nhọc,Vì sẽ gặp được nó trong tháng nó động đực. Đừng cho chân ngươi phải đi trần,Cũng đừng cho cổ họng ngươi phải khát.Nhưng ngươi nói: ‘Để mặc tôi.Tôi đã trót yêu thần lạ,Tôi phải đi theo chúng.’ Như tên trộm xấu hổ khi bị bắt quả tang,Dòng dõi nhà Y-sơ-ra-ên,Gồm cả dân chúng, các vua quan,Các thầy tế lễ, và các tiên tri, cũng xấu hổ dường vậy. Chúng nói với gỗ: ‘Người là cha tôi.’Và với đá: ‘Người sanh ra tôi.’Thật chúng đã quay lưng lại với Ta,Thay vì quay mặt.Nhưng khi gặp hoạn nạn, chúng lại nói:‘Xin đến cứu giúp chúng con!’ Thế các thần mà ngươi đã tự làm cho mình ở đâu?Hãy để chúng đến cứu giúp ngươiTrong giờ hoạn nạn,Nếu chúng cứu giúp được!Vì ngươi, hỡi Giu-đa,Ngươi có bao nhiêu thành là có bấy nhiêu thần!” Đây là lời của CHÚA:“Các ngươi còn khiếu nại gì nữa?Hết thảy các ngươi đều phạm tội phản nghịch Ta. Ta đánh phạt con cái các ngươi thật phí công,Chúng chẳng chịu sửa dạy.Gươm các ngươi đã giết hại các tiên triNhư sư tử vồ mồi.” Xin quý ông bà trong thế hệ này lắng nghe lời của CHÚA:“Đối với dân Y-sơ-ra-ên, có phải Ta là sa mạc,Hoặc vùng đất tối tăm dầy đặc không?Thế sao dân Ta lại nói: ‘Chúng tôi tự làm chủ lấy,Chúng tôi không đến với Ngài nữa.’ Có trinh nữ nào quên vòng vàng của mình,Hoặc cô dâu nào quên áo cưới của mình không?Thế nhưng dân Ta đã quên TaTừ những ngày không thể đếm được! Thật ngươi đã khéo sắp xếp lối đi để đeo đuổi đường tình ái.Ngươi còn dạy đường lối ngươi cho cả những người đàn bà xấu nết! Áo quần ngươi cũng vấy máuCủa người nghèo vô tội,Dù ngươi đã không bắt gặp họ đập cửa xông vào nhà.Tuy nhiên, bất kể mọi điều ấy, Ngươi vẫn nói: ‘Tôi vô tội,Chắc chắn Ngài không còn giận tôi nữa.’Này, Ta sẽ xét xử ngươi,Vì ngươi nói: ‘Tôi không phạm tội.’ Thật ngươi đã tự hạ thấp giá trị mìnhKhi ngươi thay đổi hướng đi.A-si-ri đã làm cho ngươi xấu hổ thể nào,Ai-cập cũng sẽ làm cho ngươi xấu hổ thể ấy. Ngươi sẽ rời khỏi chốn ấy,Hai tay ôm lấy đầu,Vì CHÚA đã từ bỏ những kẻ ngươi nương nhờ,Chúng sẽ chẳng giúp ích gì cho ngươi.” CHÚA phán:“Nếu một người chồng ly dị vợ mình,Và người vợ ra đi, lấy chồng khác,Người chồng trước có thể nào quay về với người vợ ấy không?Đất ấy lẽ nào không bị ô uế kinh tởm sao?Ngươi đã mại dâm với bao nhiêu tình nhân,Lại còn định quay về với Ta sao?”Đấy là lời CHÚA. “Hãy ngước mắt nhìn lên các đồi trọc,Có nơi nào mà ngươi chẳng bị hãm hiếp?Ngươi ngồi bên vệ đường chờ đợi chúng nó,Như dân du mục trong sa mạc.Ngươi đã làm ô uế đấtVới những trò dâm loạn gớm ghiếc. Vì thế cho nên mưa đã bị giữ lại,Cũng chẳng có mưa cuối mùa.Dù vậy ngươi vẫn không biết nhục,Trơ mặt ra như cô gái mại dâm. Có phải ngươi vừa mới thưa với Ta:‘Lạy Cha, Ngài là bạn tín cẩn của con từ thuở thiếu thời. Lẽ nào Ngài căm giận mãi mãi,Phẫn nộ đời đời sao?’Này, ngươi nói như vậy,Nhưng ngươi đã làm mọi điều ác ngươi có thể làm!” Dưới đời vua Giô-si-a, CHÚA phán với tôi: “Con có thấy điều gì mụ đàn bà tráo trở Y-sơ-ra-ên đã làm không? Nó leo lên mọi đồi cao, và dưới mọi gốc cây rậm lá, nó hành nghề mại dâm! Ta thầm nhủ: ‘Sau khi nó làm hết mọi điều ấy, nó sẽ quay về với Ta. Nhưng nó không quay về, và em gái phản trắc của nó là Giu-đa đã trông thấy. Giu-đa đã thấy rõ chính vì mụ Y-sơ-ra-ên tráo trở phạm tội gian dâm nên Ta đã trao cho nó bản án ly dị và đuổi đi. Nhưng em gái Giu-đa phản trắc của nó vẫn không sợ, lại cũng đi mại dâm. Vì nó coi thường việc bán dâm nên nó đã làm ô uế đất. Nó gian dâm với đá và gỗ. Dù vậy, qua mọi sự việc ấy, em gái Giu-đa phản trắc của nó vẫn chưa hết lòng quay về cùng Ta, nhưng chỉ giả vờ thôi.’” Đấy là lời của CHÚA. CHÚA phán với tôi: “Mụ Y-sơ-ra-ên tráo trở thế mà còn khá hơn ả Giu-đa phản trắc. Con hãy đi rao báo những lời này hướng về phương bắc: ‘Đây là lời CHÚA:Hỡi Y-sơ-ra-ên tráo trở, hãy trở về!Ta sẽ không sầm mặt với các ngươi nữa,Vì Ta bền lòng yêu thương,Ta sẽ không căm giận mãi mãi.Đấy là lời của CHÚA. Miễn là ngươi nhận tội ác mình:Ngươi đã chống nghịch lại CHÚA, Đức Chúa Trời ngươi,Ngươi đã rải “ân huệ” cho các thần lạDưới mỗi gốc cây rậm lá,Và ngươi đã không vâng lời Ta.’Đấy là lời của CHÚA.” CHÚA phán:“Hỡi con cái tráo trở, hãy trở lại, vì Ta chính là Chúa các ngươi, và Ta sẽ chọn các ngươi, kẻ từ thành này, người từ tộc kia, và Ta sẽ đem các ngươi trở về Si-ôn. Ta sẽ ban cho các ngươi những người lãnh đạo vừa lòng Ta, họ sẽ dùng trí khôn ngoan, óc thông sáng mà chăn dắt các ngươi.” CHÚA phán: “Khi các ngươi sinh sản và gia tăng trong xứ, khi ấy sẽ không còn ai nhắc đến ‘Rương Giao Ước của CHÚA’ nữa, chẳng ai gợi lại hình ảnh ‘Rương Giao Ước’ trong tâm trí, chẳng ai nhớ đến, chẳng ai nuối tiếc, cũng chẳng ai đóng một rương khác. Đến lúc ấy, người ta sẽ gọi thành Giê-ru-sa-lem là ‘ngôi của CHÚA.’ Mọi dân tộc sẽ tụ họp về nơi đó, về Giê-ru-sa-lem, trong danh của CHÚA. Chúng sẽ không còn sống theo lòng gian ác cứng cỏi của mình nữa. Đến lúc ấy, dân Giu-đa sẽ cùng đi với dân Y-sơ-ra-ên, chúng sẽ cùng nhau ra khỏi đất phương bắc, và trở về xứ mà Ta đã ban cho tổ phụ các ngươi làm sản nghiệp.” Về phần Ta, Ta thầm nhủ:“Thật Ta ước ao được đãi ngươi như con trai Ta!Ta ban cho ngươi một đất nước trù phú,Một sản nghiệp quý báu hơn mọi sản nghiệp của các dân.Ta những tưởng ngươi sẽ gọi Ta là ‘Cha tôi,’Và không bao giờ quay lưng, lìa bỏ Ta.” CHÚA phán:“Nhưng hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, các ngươi đã phản bội Ta,Như người vợ phản bội chồng. Có tiếng vọng từ các đồi trọc,Tiếng dân Y-sơ-ra-ên khóc lóc khẩn xin,Vì chúng đã đi theo con đường quanh quẹo,Quên mất CHÚA, Đức Chúa Trời mình. Hỡi con cái bội bạc, hãy trở về!Ta sẽ chữa lành tội bội bạc của các ngươi.Chúng con đây, xin đến với Ngài,Vì Ngài là CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng con. Thật từ các đồi chỉ có sự dối gạt,Từ các núi chỉ có sự huyên náo!Thật sự giải cứu cho dân Y-sơ-ra-ên chỉ đến từ CHÚA,Đức Chúa Trời của chúng con! Thần Xấu Hổ đã nuốt mấtCông lao khó nhọc của tổ phụ chúng con,Từ khi chúng con còn niên thiếu:Chiên, bò, con trai và con gái. Chúng con đáng phải nằm trong sự xấu hổ,Đắp mình bằng nhục nhã,Vì chúng con có phạm tội với CHÚA, Đức Chúa Trời chúng con,Chúng con và tổ phụ chúng con,Từ thuở thơ ấu cho đến ngày hôm nay,Chúng con đã không vâng lời CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng con.” CHÚA phán:“Hỡi Y-sơ-ra-ên, nếu ngươi muốn trở về,Hãy trở về với Ta.Nếu ngưoi dẹp bỏ các vật gớm ghiếc khỏi trước mặt Ta,Nếu ngươi không còn đi lông bông nữa, Nếu ngươi nhân danh CHÚA hằng sống mà thề,Với lòng trung tín, công bình và công chính,Bấy giờ các nước sẽ được Ngài ban phước,Và chúng sẽ tự hào về Ngài.” CHÚA phán với dân Giu-đa và thành Giê-ru-sa-lem như vầy:“Hãy cầy ruộng bỏ hoang,Đừng gieo trồng giữa gai gốc. Hỡi dân Giu-đa, và dân cư thành Giê-ru-sa-lem,Hãy mở lòng các ngươi ra cho CHÚA,Hãy cắt bỏ lớp vỏ chai lì của lòng các ngươi,Kẻo cơn giận Ta bừng lên như lửa,Thiêu cháy mà không ai dập tắt nổi,Vì điều ác các ngươi đã làm.” “Hãy rao ra trong xứ Giu-đa, Hãy loan ra trong thành Giê-ru-sa-lem,Hãy thổi kèn vang khắp đất,Hãy công bố thật to:‘Nào, hãy tập họp lại,Chúng ta cùng trốn vào các thành kiên cố.’ Hãy giương cờ hướng về Si-ôn,Hãy trốn đến nơi an toàn, đừng dừng lại,Vì Ta sẽ khiến tai họa và đổ nátTan hoang đến từ phương bắc. Sư tử đã ra khỏi rừng rậm,Kẻ hủy diệt các nước đã nhổ trại,Rời khỏi căn cứ,Để làm cho đất nước ngươi tan hoang,Các thành phố ngươi điêu tàn,Không người ở. Vì thế, hãy quấn vải tang ngang lưng,Hãy đập ngực, khóc than:‘Cơn thịnh nộ của CHÚAChưa xây khỏi chúng ta!’” CHÚA phán:“Trong ngày ấy,Vua quan đều mất hết tinh thần,Các thầy tế lễ kinh hoàng,Các tiên tri khiếp đảm.” Tôi thưa: “Ôi, lạy CHÚA! Thật chính Ngài đã lừa gạt dân này và thành Giê-ru-sa-lem. Ngài đã hứa: ‘Các ngươi sẽ sống bình an,’ trong khi lưỡi gươm đã kề cổ họng.” Lúc ấy, người ta sẽ nói với dân này và thành Giê-ru-sa-lem: “Một ngọn gió nóng bỏng từ các đồi trọc trong sa mạc thổi thẳng vào con gái Ta, tức dân Ta, Nhưng gió này không dùng để quạt thóc hay sảy gạo, Gió mạnh quá cho các việc ấy, gió thổi đến theo lệnh Ta. Bây giờ chính Ta cũng sẽ tuyên án chúng nó. Này, kẻ thù kéo đến như đám mây,Xe chiến mã nó như vũ bão,Ngựa nó nhanh hơn chim đại bàng.‘Khốn cho chúng tôi! Xong đời chúng tôi rồi!’ Hỡi Giê-ru-sa-lem, hãy rửa sạch gian ác khỏi lòng ngươi, hầu cho ngươi được giải cứu!Ngươi còn chứa chấp âm mưu độc hại trong lòng ngươi cho đến khi nào? Kìa, có tiếng loan ra từ địa phận Đan,Tiếng báo tin độc hại từ núi Ép-ra-im. Hãy thông báo cho các nước: ‘Xem kìa!’Hãy công bố cho thành Giê-ru-sa-lem:‘Quân thù bao vây đến từ miền xa xăm,Chúng hò hét chống lại các thành của Giu-đa. Như người canh giữ ruộng, chúng siết chặt vòng vây từ mọi phía,Vì thành này phản loạn chống lại Ta.’”Đấy là lời CHÚA. Nếp sống và hành động của ngươiĐã gây ra mọi điều ấy.Đó là hậu quả cay đắngDo gian ác ngươi gây ra,Nó đâm thấu tận đáy lòng ngươi. Ôi! tôi đau lòng! Tôi đau lòng!Tôi quằn quại!Ôi! Lồng ngực tôi!Tim tôi đập thình thịch,Tôi không thể nín lặng,Vì, hỡi linh hồn ta, ngươi có nghe tiếng kèn vang dội,Tiếng hò hét của chiến trận. Đổ nát và đổ nát,Khắp đất nước điêu tàn,Bỗng chốc lều trại tôi tan hoang,Màn giăng bứt đổ trong giây lát! Tôi còn phải nhìn thấy cờ xí quân thù,Và nghe tiếng kèn báo hiệu cho đến khi nào? Dân Ta thật là dại dột,Chúng chẳng nhận biết Ta.Chúng là con cái đần độn,Thiếu hiểu biết,Chúng khéo làm điều ác,Nhưng làm điều lành thì chúng chẳng biết! Tôi nhìn xuống đất,Này cảnh hỗn độn điêu tàn,Tôi nhìn lên trời,Không thấy ánh sáng đâu cả. Tôi nhìn xem các núi,Này núi rung chuyển,Hết thảy các đồi đều lắc lư qua lại. Tôi nhìn xem, này không một bóng người,Hết thảy chim trời đều bay mất biệt. Tôi nhìn xem, này đất mầu mỡ thành sa mạc,Hết thảy các thành đều đổ nátTrước mặt CHÚA, trước cơn thịnh nộ của Ngài. CHÚA phán như vầy:“Khắp đất nước sẽ điêu tàn,Nhưng Ta chưa tận diệt đến cùng. Vì thế, đất sẽ chịu tang,Bầu trời trên cao sẽ tối sầm lại,Vì Ta đã phán, Ta đã định,Ta sẽ không đổi ý, không rút lời. Nghe tiếng kỵ binh và người bắn cung,Thành nào cũng chạy trốn:Dân chúng chui vào bụi rậm,Len lỏi giữa hóc đá.Thành nào cũng bỏ trống,Không người ở. Còn ngươi, hỡi kẻ bị định tội kia,Ngươi làm gì mà mặc áo đỏ thắm,Trang sức bằng vàng ròng,Dùng chì vẽ mắt cho to ra?Ngươi làm đẹp cũng vô ích!Các tình nhân ngươiĐã bỏ ngươi.” Tôi nghe tiếng, như tiếng người sản phụ chuyển dạ,Tiếng đau đớn của người sản phụ sinh con so.Đó là tiếng của Si-ôn, con gái tôi,Dang hai tay ra, thở hổn hển:“Khốn cho tôi! Tôi sắp ngất!Bọn sát nhân tìm hại mạng sống tôi!” Hãy lùng khắp các nẻo đường Giê-ru-sa-lem,Hãy quan sát và ghi chú,Hãy dò hỏi nơi các quảng trường,Xem có tìm được người nàoLàm điều công bình, đeo đuổi sự thành tín,Để Ta có thể tha thứ cho thành ấy không? Dù chúng có nói: “Thật như CHÚA hằng sống!”Đó chỉ là thề dối. Ôi! Lạy CHÚA! Có phải mắt Chúa tìm kiếm lòng thành tín?Chúa đã đánh chúng, nhưng chúng không biết đau.Chúa đã tàn hại chúng, nhưng chúng không chịu sửa dạy.Chúng tự làm cho mặt mình cứng như đá,Chúng không chịu quay về. Tôi thầm nhủ: “Nhưng đây chỉ là người nghèo khó,Dại dột,Vì chúng không biết đường lối của CHÚA,Luật pháp của Đức Chúa Trời mình. Tôi phải đến với những người quyền thế,Trình bầy cho họ rõ.Chắc chắn họ biết đường lối của CHÚA,Sắc lệnh của Đức Chúa Trời mình.Nhưng những người này cũng đã bẻ ách, bứt dây. Vì thế sư tử từ rừng rậm sẽ chụp giết chúng,Chó sói từ sa mạc sẽ sát hại chúng,Beo sẽ rình rập bên ngoài thành,Người nào ra khỏi thành sẽ bị cắn xé,Vì vi phạm của chúng quá nhiều,Tội bội bạc của chúng vô số. Làm sao Ta có thể tha thứ cho ngươi được?Con cái ngươi đã lìa bỏ Ta,Chúng nhân danh những thần không phải là thần mà thề.Trong khi Ta nuôi chúng no đủ,Chúng lại phạm tội gian dâm,Tự rạch cắt mình trong nhà chứa! Chúng khác nào ngựa nuôi béo động cỡn,Chạy theo vợ người lân cận mình mà hí.” CHÚA phán:“Lẽ nào Ta không đoán phạt chúngVì những điều ấy sao?Đối với một dân tộc như thế,Lẽ nào Ta không thi hành lẽ công chính sao? Hãy len qua các luống nho và chặt phá,Nhưng đừng chặt sạch hết.Hãy chặt bỏ các chồi non,Vì chúng không thuộc về CHÚA. Thật nhà Y-sơ-ra-ên và nhà Giu-đa đã phản nghịch Ta thậm tệ.”Đấy là lời của CHÚA. Chúng chối bỏ CHÚA,Và nói: “Ngài chẳng làm gì đâu!Chúng ta sẽ chẳng gặp tai họa,Cũng chẳng gặp phải nạn gươm đao đói kém. Các tiên tri rỗng tuếch như gió,Họ không có lời Chúa,Họ sẽ mắc phải tai họa.” Vì thế, CHÚA, Đức Chúa Trời Toàn Năng, phán như vầy:“Vì chúng nói lời ấy,Này, Ta sẽ khiến lời Ta nên như lửa trong miệng ngươi,Dân này như que củi, và lửa sẽ thiêu nuốt chúng.” CHÚA phán:“Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, này, Ta sẽ đem một dân tộc từ miền xa xămĐến xâm chiếm các ngươi,Một dân tộc hùng cường, lâu đời,Các ngươi không biết tiếng nói của chúng,Cũng không hiểu chúng nói gì. Bao đựng tên của chúng giống như huyệt mả mở toang,Sẵn sàng nuốt xác các ngươi.Hết thảy bọn chúng đều là chiến sĩ mạnh dạn. Chúng sẽ ăn nuốt mùa màng và thực phẩm của ngươi,Ăn nuốt con trai và con gái ngươi,Ăn nuốt bầy chiên và bầy bò của ngươi,Ăn nuốt cây nho và cây vả của ngươi.Chúng sẽ dùng gươm đập pháCác thành trì kiên cố mà ngươi hằng nương cậy.” CHÚA phán: “Tuy nhiên, ngay cả trong những ngày đó, Ta cũng sẽ không diệt sạch các ngươi. Khi chúng hỏi: ‘Vì sao CHÚA, Đức Chúa Trời chúng tôi, lại giáng tất cả những điều này trên chúng tôi?’ Con hãy đáp lời chúng: ‘Các ngươi lìa bỏ CHÚA và phụng sự các thần lạ trong xứ các ngươi thể nào, các ngươi cũng sẽ phụng sự các thần lạ trong xứ chẳng thuộc về các ngươi thể ấy.’ Hãy loan báo tin này cho nhà Gia-cốp,Hãy công bố ra trong xứ Giu-đa: Hãy lắng nghe đây. ‘Hỡi dân dại dột, u mê,Có mắt mà chẳng thấy,Có tai mà chẳng nghe.’” CHÚA phán:“Ta đây, sao các ngươi chẳng kính sợ?Sao các ngươi chẳng run rẩy trước mặt Ta?Ta là Đấng lấy cát làm bờ cõi biển,Làm ranh giới đời đời,Biển không thể vượt qua.Sóng cuồn cuộn cũng chẳng làm gì được. Nhưng dân này có lòng ương ngạnh và phản nghịch,Chúng rẽ lối, đi riêng. Chúng chẳng màng thầm nhủ:‘Chúng ta hãy kính sợ CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta,Là Đấng ban mưa xuống đúng thì, mưa mùa thu và mùa xuân,Là Đấng vì chúng ta giữ các tuần lễ đúng thì cho mùa gặt.’ Tội ác các ngươi đã xoay những điều này khỏi các ngươi,Tội lỗi các ngươi đã ngăn cản ơn mưa móc. Có kẻ ác sống giữa dân Ta,Chúng rình rập như người bẫy chim thu nhỏ mình lại,Chúng gài bẫy, bắt người. Nhà chúng đầy của gian trá,Như lồng đầy chim.Vì thế chúng giầu có, mạnh quyền, Chúng béo tốt, mỡ màng.Chúng làm ác vượt bậc,Chúng không xét xử công minh, không bênh vực lý của người mồ côi,Không xét lẽ của người khốn cùng.” CHÚA phán:“Lẽ nào Ta không đoán phạt chúng vì những điều ấy sao?Đối với một dân tộc như thế,Lẽ nào Ta không thi hành lẽ công chính sao? Một việc hãi hùng rùng rợnĐã xảy ra trong xứ: Tiên tri nói tiên tri giả dối,Thầy tế lễ cai trị theo ý các tiên tri,Thế nhưng dân Ta lại ưa thích như vậy!Các ngươi sẽ làm gì khi sự cuối cùng đến?” Hỡi dân Bên-gia-min, hãy trốn đến nơi an toàn,Hãy ra khỏi thành Giê-ru-sa-lem.Hãy thổi kèn báo động tại Thê-cô-a,Hãy đốt lửa báo hiệu tại Bết-ha-kê-rem.Vì tai họa và đổ nát tan hoangĐã lộ ra từ phương bắc. Ta ví Si-ôn, con gái Ta,Với đồng cỏ mượt mà nhất. Các kẻ chăn sẽ dẫn bầy chiên mình đến đó,Cắm trại chung quanh thành,Mỗi người thả chiên ăn cỏ nơi phần của mình. Hãy chuẩn bị xông trận!Nào, ta hãy tấn công vào lúc giữa trưa!Khốn cho chúng tôi, vì ngày đã xế tàn!Bóng chiều đã dài ra! Nào, ta hãy tấn công trong ban đêm!Ta hãy hủy diệt các đền đài chiến lũy! Vì CHÚA Vạn Quân đã phán như vầy:“Hãy đốn cây,Hãy đổ đất đắp mô vây hãm thành Giê-ru-sa-lem!Đó là thành dành cho sự đoán phạt,Trong nó chỉ toàn là đàn áp, bóc lột. Như giếng giữ nước mình tươi mát thể nào,Nó cũng giữ sự gian ác nó cho tươi mới thể ấy.Trong thành chỉ nghe toàn là chuyện bạo ngược tàn phá,Bệnh hoạn và thương tích hằng ở trước mặt Ta. Hỡi Giê-ru-sa-lem, hãy nghe lời cảnh cáo,Kẻo Ta lìa xa ngươi,Kẻo Ta khiến ngươi điêu tàn,Không người ở.” CHÚA Vạn Quân phán như vầy:“Chúng sẽ mót sạch dân Y-sơ-ra-ên còn sót lạiNhư người ta mót nho.Hãy đưa tay con qua các nhành nho một lần nữa,Như người hái nho.” “Con sẽ nói với ai và cảnh cáo ai,Để họ chịu nghe?Này, tai họ như có lớp da bọc kín,Họ không thể lắng nghe.Họ khinh thường lời CHÚA,Họ không vui thích nghe lời Ngài. Về phần con, lòng con đầy tràn cơn thịnh nộ của CHÚA,Con không dằn lòng được nữa.”“Hãy đổ nó ra trên trẻ con ngoài đường phố,Trên các thanh niên đang tụ tập.Phải, cả chồng lẫn vợ đều sẽ bị bắt,Các trưởng lão cùng những bậc già nua.” CHÚA phán:“Nhà cửa chúng sẽ bị giao cho kẻ khác,Luôn cả vườn tược và vợ chúng nó nữa,Vì Ta sẽ dang tayTrừng phạt dân cư trong xứ.” Từ kẻ hèn đến người sang,Hết thảy đều lo trục lợi.Từ tiên tri đến thầy tế lễ,Hết thảy đều gian lận. Chúng chữa vết thương dân TaCách sơ sài,Chúng hô hào: “Bình an! Tốt đẹp!”Trong khi chẳng có bình an. CHÚA phán:“Chúng làm điều xấu hổ, chúng làm điều gớm ghiếc,Thế nhưng chúng chẳng biết xấu hổ,Cũng chẳng biết nhục nhã là gì.Vì thế chúng sẽ ngã với những kẻ ngã,Đến ngày Ta thăm phạt chúng, chúng sẽ ngã sải dài.” CHÚA phán như vầy:“Hãy đứng nơi các nẻo đường và quan sát,Hãy dò hỏi về các đường lối xa xưa:‘Đường nào dẫn đến phúc lành?’ Hãy bước đi trên đường ấy,Và tìm sự an nghỉ cho tâm hồn các ngươi.”Nhưng chúng đáp: “Chúng tôi không muốn đi con đường đó.” “Ta đã tự cắt người canh phòng cho các ngươi:‘Hãy chú ý nghe tiếng kèn thổi!’”Nhưng chúng đáp: “Chúng tôi không muốn chú ý.” “Vì thế, hỡi các dân, hãy lắng nghe,Hỡi các chứng nhân, hãy nhận biếtNhững điều Ta sẽ làm để trừng phạt chúng! Hỡi cả trái đất, hãy lắng nghe!Này, Ta sẽ đem thảm họa đến cho dân này,Đó là bông trái của chính những âm mưu của chúng,Vì chúng chẳng chịu lắng nghe lời Ta,Và luật pháp Ta, chúng đã khước từ. Các ngươi dâng cho Ta nhũ hương từ Sê-ba,Và xương bồ từ miền xa xăm để làm gì?Ta không nhận tế lễ thiêu của các ngươi,Sinh tế các ngươi chẳng đẹp lòng Ta.” Vì thế, CHÚA phán như vầy:“Này, Ta sẽ đặt chướng ngại vật trước mặt dân này,Và chúng sẽ vấp ngã.Cả cha lẫn con, hàng xóm và bạn bè đều chết mất.” CHÚA phán như vầy:“Này, một dân đếnTừ phương bắc,Một dân hùng mạnh dấy lênTừ nơi đầu cùng đất. Chúng nắm chặt cung và lao,Chúng hung ác, không thương xót,Tiếng chúng hét tựa như biển cả gào thét,Chúng cưỡi ngựa,Chúng trang bị đủ để xông trận đánh ngươi,Hỡi Si-ôn, con gái Ta!” Chúng tôi nghe tiếng đồn về bọn chúng,Tay chúng tôi rụng rời,Nỗi lo sợ siết chặt chúng tôi,Lòng chúng tôi quặn thắt như người sản phụ chuyển dạ. “Đừng ra ngoài đồng,Cũng đừng bước đi trên đường cái,Vì quân thù có gươm,Gieo kinh hoàng tứ phía!” “Hỡi dân tôi, con gái tôi, hãy quấn vải thô,Hãy lăn lộn trong tro,Hãy than khócNhư người ta than khóc con trai một!Hãy than khóc đắng cay,Vì kẻ hủy diệt thình lình xông đánh chúng ta.” “Ta đặt con làm người luyện kim,Người thử nghiệm, giữa dân Ta,Để con biết cáchThử đường lối chúng. Hết thảy chúng đều cứng đầu, phản loạn,Ngồi lê đôi mách,Chúng cứng như đồng, như sắt,Hết thảy đều hư hoại. Ống bể thổi,Lửa nung tan hết chì,Người luyện kim luyện luống công,Kẻ ác chưa bị diệt trừ. Chúng bị gọi là ‘bạc phế thải,’Vì CHÚA đã thải trừ chúng.” Đây là lời CHÚA truyền cho Giê-rê-mi: “Con hãy đứng tại cổng đền thờ CHÚA loan báo lời này:‘Hỡi hết thảy những người Giu-đa bước vào các cổng này để thờ phượng CHÚA, hãy lắng nghe lời Ngài.’” CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: “Các ngươi hãy sửa đổi lối sống và việc làm của mình, rồi Ta sẽ cho các ngươi sống tại nơi này. Các ngươi đừng tin cậy những lời giả dối mà tiếp tục rêu reo: ‘Đây là đền thờ CHÚA, đền thờ CHÚA, đền thờ CHÚA!’ Nhưng nếu các ngươi thật lòng sửa đổi lối sống và việc làm mình, nếu các ngươi thật lòng đối xử với nhau cách công bình, nếu các ngươi không hiếp đáp ngoại kiều, cô nhi và quả phụ, nếu các ngươi không làm đổ máu vô tội tại nơi này, nếu các ngươi không đi theo các thần khác để tự chuốc họa vào thân, thì Ta sẽ cho các ngươi sống tại nơi này, trong xứ mà Ta ban cho tổ phụ các ngươi từ nghìn xưa cho đến đời đời. Thế mà các ngươi vẫn tiếp tục tin cậy những lời giả dối, không giúp ích chi. Các ngươi trộm cắp, giết người, gian dâm, thề dối, cúng tế thần Ba-anh, đi theo các thần khác mà các ngươi chưa hề biết, rồi các ngươi đến đứng trước mặt Ta, tại trong đền thờ này, là nơi mang danh Ta, và nói: ‘Chúng ta an toàn rồi!’ an toàn để tiếp tục làm những việc gớm ghiếc kia! Các ngươi xem đền thờ này, là nơi mang danh Ta, như sào huyệt bọn cướp sao? Này, chính Ta đây, Ta đã nhìn thấy hết mọi sự.” Đấy là lời CHÚA. “Các ngươi hãy đi đến Si-lô, nơi Ta đặt danh Ta từ ban đầu, và xem điều gì Ta đã làm cho nó, vì tội ác của dân Y-sơ-ra-ên Ta.” CHÚA phán: “Và bây giờ, vì các ngươi đã làm tất cả những việc ấy, và dù Ta đã nhiều lần khuyên bảo các ngươi, các ngươi không chịu nghe, dù Ta đã kêu gọi các ngươi, các ngươi vẫn không đáp lời Ta, cho nên điều gì Ta đã làm cho Si-lô, Ta cũng sẽ làm cho đền thờ này, là đền thờ mang danh Ta, là đền thờ mà các ngươi tin cậy, và Ta cũng sẽ làm y như vậy cho nơi mà Ta ban cho các ngươi và tổ phụ các ngươi. Và Ta sẽ đuổi các ngươi đi khuất mặt Ta, như Ta đã đuổi hết thảy anh em các ngươi, hết thảy dòng giống Ép-ra-im. Về phần con, đừng cầu thay cho dân này. Con cũng đừng vì chúng cất tiếng kêu xin hay cầu khẩn. Con đừng nài nỉ Ta, vì Ta sẽ không nghe con đâu. Con có thấy điều gì chúng nó làm trong các thành xứ Giu-đa, và các đường phố thành Giê-ru-sa-lem không? Con cái lượm củi, cha nhóm lửa, còn vợ thì nhồi bột làm bánh ngọt tế nữ vương trên trời. Chúng cũng dâng rượu cho các thần khác. Hậu quả đương nhiên là chúng xúc phạm đến Ta.” CHÚA phán hỏi: “Có phải chúng làm cho Ta bị tổn thương, hay chúng tự làm cho chúng bị tổn thương, và do đó chuốc lấy tủi nhục?” Vì thế, CHÚA phán như vầy: “Này, Ta sẽ trút cơn thịnh nộ Ta xuống nơi này, trên người và thú, trên cây cối ngoài đồng và hoa quả của đất. Cơn thịnh nộ Ta sẽ cháy phừng, và không tắt.” CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: “Hãy dâng tế lễ toàn thiêu kèm với các sinh tế! Hãy ăn thịt sinh tế! Khi Ta đem tổ phụ các ngươi ra khỏi xứ Ai-cập, nào Ta có phán bảo hoặc truyền dạy chúng về tế lễ toàn thiêu hoặc sinh tế đâu? Ta chỉ truyền dạy chúng mỗi điều này: ‘Hãy vâng theo tiếng Ta, rồi Ta sẽ là thần các ngươi, và các ngươi là dân Ta. Hãy sống theo trọn đường lối Ta chỉ dạy, để các ngươi được phúc.’ Nhưng chúng không nghe, không chú ý. Chúng sống theo ý riêng, theo lòng gian ác, cứng cỏi của chúng. Chúng đã lùi lại phía sau thay vì tiến tới phía trước. Từ ngày tổ phụ các ngươi ra khỏi xứ Ai-cập cho đến ngày nay, Ta tiếp tục nhẫn nại sai hết các đầy tớ Ta, các tiên tri, đến với chúng. Nhưng chúng cứng cổ, không nghe Ta, không chú ý, lại làm điều ác tệ hơn tổ phụ chúng. Con sẽ nói với chúng mọi điều này, nhưng chúng sẽ không nghe con. Con sẽ gọi chúng, nhưng chúng sẽ không đáp lời con. Con hãy nói với chúng: ‘Đây là một dân không chịu vâng theo tiếng của CHÚA, Đức Chúa Trời mình, cũng không chịu sửa sai. Lòng thành tín đã tiêu tan, đã biến mất trên môi miệng chúng.’” Hãy cạo đầu, vứt tóc! Hãy cất tiếng khóc than trên các đồi trọc! Vì CHÚA đã từ, Ngài đã bỏ thế hệ chọc Ngài giận. CHÚA phán: “Vì dân Giu-đa đã làm điều ác trước mặt Ta, chúng đã đặt những vật gớm ghiếc ngay trong đền thờ mang dang Ta, do đó, làm ô uế đền thờ. Chúng tiếp tục xây miếu tại Tô-phết, trong thung lũng Ben Hin-nôm, để thiêu con trai và con gái chúng trong lửa. Đó là điều Ta chẳng hề truyền dạy, cũng chẳng hề nghĩ đến.” CHÚA phán: “Vì thế cho nên sẽ có ngày không ai còn nhắc đến Tô-phết hoặc thung lũng Ben Hin-nôm nữa, nhưng chỉ nói đến thung lũng Tàn Sát, vì họ sẽ chôn người chết tại Tô-phết cho đến khi không còn chỗ để chôn nữa. Xác của dân này sẽ trở thành thức ăn cho chim trời và thú rừng, và không có ai đuổi chúng đi. Và trong các thành xứ Giu-đa và các đường phố Giê-ru-sa-lem, Ta sẽ chấm dứt tiếng vui mừng rộn rã, tiếng chú rể và cô dâu, vì đất nước sẽ điêu tàn.” CHÚA phán: “Lúc ấy, hài cốt các vua Giu-đa, các quan chức, các thầy tế lễ, các tiên tri, và dân cư thành Giê-ru-sa-lem sẽ bị đem ra khỏi mộ, và phơi dưới mặt trời, mặt trăng, và hết thảy các tinh tú trên trời mà chúng yêu thương, phục vụ, đi theo, cầu hỏi, và thờ phượng. Các hài cốt không được gom lại để cải táng, nhưng sẽ trở thành phân trên mặt đất. Hết thảy những người trong dòng dõi gian ác này còn sống sót ở khắp nơi nào Ta đày họ tới đều sẽ chọn thà chết hơn là sống.” Đấy là lời của CHÚA Vạn Quân. Con hãy nói với chúng: “CHÚA phán như vầy:‘Người ngã xuống, có đứng dậy không?Người lạc lối, có quay về không? Thế sao dân này quay đi luôn?Thế sao Giê-ru-sa-lem lạc lối mãi?Chúng ôm chặt điều giả dối,Không chịu quay về. Ta chú ý lắng nghe.Nhưng chúng nói không thành thật.Không người nào ăn năn tội ác mình,Tự hỏi: Tôi đã làm gì vậy?Ai nấy miệt mài theo đường riêng,Như ngựa chiến xông vào trận mạc. Ngay cả chim hạc trên trời caoCòn biết thời tiết;Chim cu, chim én, chim nhạn,Đều giữ thì giờ bay về.Nhưng dân Ta không biếtSắc lệnh của CHÚA. Sao các ngươi dám nói: Chúng tôi khôn ngoan,Chúng tôi có kinh luật của CHÚA?Kìa, ngòi bút dối gạt của người ghi chépĐã biến luật Ta thành điều giả dối! Người khôn ngoan sẽ bị xấu hổ,Kinh hoàng, và sa bẫy.Này, họ đã khước từ lời CHÚA,Còn khôn ngoan nỗi gì? Vì thế, Ta sẽ giao vợ chúng cho kẻ khác,Ruộng chúng cho người chủ mới.Vì từ kẻ hèn đến người sang,Hết thảy đều lo trục lợi.Từ tiên tri đến thầy tế lễ,Hết thảy đều gian lận. Chúng chữa vết thương dân Ta, con gái Ta,Cách sơ sài,Chúng hô hào: Bình an! Tốt đẹp!Trong khi chẳng có bình an.’” CHÚA phán:“Đáng lẽ chúng phải xấu hổ vì làm điều gớm ghiếc,Thế nhưng chúng chẳng biết xấu hổ,Cũng chẳng biết nhục nhã là gì.Vì thế chúng sẽ ngã với những kẻ ngã,Đến ngày Ta thăm phạt chúng, chúng sẽ ngã sải dài.” CHÚA phán:“Ta sẽ thu gom mùa màng của chúng:Không còn nho trên cây nho,Không còn vả trên cây vả,Lá cũng tàn héo.Những gì Ta đã ban cho chúngĐều tuột khỏi tay chúng. Sao chúng ta lại ngồi thừ thế này!Hãy gom lại!Chúng ta cùng nhau trốn sang các thành kiên cố!Và cùng chết tại đấy,Vì CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta, đã định cho chúng ta phải chết!Ngài đã cho chúng ta uống nước độc,Vì chúng ta phạm tội với CHÚA. Chúng tôi trông được an ninh, thịnh vượng,Nhưng chẳng gặp điều lành.Chúng tôi trông được chữa lành,Nhưng lại bị khủng bố! Từ xứ Đan, đã nghe tiếng ngựa chúng nó khịt mũi;Chiến mã chúng nó hí lên,Khắp đất đều rung chuyển,Chúng xông vào,Ăn nuốt đất đaiVà sản vật của đất,Thành phố và dân cư trong đó.” CHÚA phán:“Này, Ta sai rắn đến giữa các ngươi,Rắn độc không chịu bùa mê,Và chúng sẽ cắn các ngươi.” Niềm vui tôi tan biến,Đau khổ giày vò tôi,Tâm thần tôi rã rượi. Kìa, tiếng kêu cứu của dân tôi, con gái tôi,Từ khắp nơi xa gần trong đất nước!“Có CHÚA tại Si-ôn không?Có Vua của Si-ôn tại đó không?”“Tại sao chúng dám chọc giận Ta với những hình tượng chạm trổ của chúng,Những thần tượng nước ngoài?” Mùa gặt đã qua,Mùa hạ đã dứt,Nhưng chúng tôi chưa được cứu. Lòng tôi tan nát vì cảnh đổ nát tang thương của dân tôi, con gái tôi.Tôi khóc than sầu muộn, tôi kinh hồn khiếp vía. Xứ Ga-la-át có còn dầu xoa dịu vết thương không?Có bác sĩ tại đó không?Thế sao vết thương của dân tôi, con gái tôi,Chưa kéo da non? Ôi! Ước gì đầu tôi là suối nước,Mắt tôi là nguồn lệ!Tôi sẽ khóc suốt ngày đêm,Khóc những người bị tàn sát trong dân tôi, con gái tôi. Ôi! Ước gì Ta có đượcMột chỗ trọ trong sa mạc,Để Ta có thể bỏ dân TaVà đi xa khỏi chúng!Vì hết thảy chúng đều gian dâm,Một bè lũ xảo quyệt. “Chúng uốn lưỡiNhư người ta giương cung,Chúng nắm quyền trong xứNhờ dối gạt chứ không vì trung tín.Chúng làm hết gian ác này đến gian ác nọ,Còn Ta, chúng chẳng màng nghĩ đến.”Đấy là lời CHÚA. “Mỗi người hãy đề phòng bạn bè mình,Cũng đừng tin cậy anh em mình,Vì anh em cũng gạt gẫm như Gia-cốp,Và bạn bè nào cũng đi rong nói xấu. Bạn bè lừa bịp lẫn nhau,Chúng không nói điều chân thật.Chúng luyện lưỡi nói điều dối gạt,Chúng phạm tội ác đến phát mệt. Con đang sống giữa sự gian dối,Cũng vì gian dối mà chúng không chịu nhận biết Ta.”Đấy là lời CHÚA. Vì thế CHÚA Vạn Quân phán như vầy:“Này, Ta sẽ thử và luyện chúng nó,Vì Ta có làm gì khác được với dân Ta, con gái Ta? Lưỡi chúng nó là mũi tên sắc lẻm,Nói ra gian dối trong miệng chúng.Ai nấy chúc bình an cho bạn bè mình,Nhưng trong lòng thì bố trí phục kích. Lẽ nào Ta không đoán phạt chúng vì những điều ấy sao?Đối với một dân tộc như thế,Lẽ nào Ta không thi hànhLẽ công chính sao?”Đấy là lời CHÚA. “Ta sẽ khóc lóc kêu than vì đồi núi,Vì đồng cỏ nơi sa mạc, ta sẽ ca lời ai oán:‘Ôi! Khắp nơi tiêu điều, không người qua lại,Không tiếng bò rống;Từ chim trời đến thú rừng,Thảy đều trốn biệt, mất luôn.’ Ta sẽ biến Giê-ru-sa-lem thành đống đổ nát,Thành hang chó rừng,Và các thành của Giu-đa sẽ điêu tàn,Không người ở.” Người nào có đủ sự khôn ngoan để hiểu điều này? Người nào nhận được lời từ chính miệng CHÚA để giải thích việc này? Tại sao đất nước tan hoang, điêu tàn như sa mạc, không người qua lại? CHÚA phán:“Vì chúng đã bỏ luật pháp Ta ban cho, không vâng theo tiếng Ta, và cũng không sống theo luật Ta, nhưng lại sống theo lòng cứng cỏi mình, đi theo các thần Ba-anh như tổ phụ chúng đã dạy.” Vì thế, CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: “Này, Ta sẽ cho dân này ăn ngải cứu và uống nước độc. Ta sẽ tản mát chúng giữa các dân mà chúng và tổ phụ chúng chưa hề biết. Và Ta sẽ sai gươm giáo đuổi theo chúng cho đến khi Ta tuyệt diệt chúng.” CHÚA Vạn Quân phán như vầy:“Hãy chú ý! Hãy cho gọi các bà khóc thuê,Hãy mời các bà khéo kể lể đến! Hãy để các bàVội cất tiếng khóc than,Cho mắt chúng tôi giọt lệ tuôn tràn,Cho con ngươi chúng tôi đầm đìa nước mắt! Vì từ Si-ôn có tiếng khóc than vọng về:‘Than ôi! Xong đời chúng tôi rồi!Chúng tôi tủi nhục vô cùng!Chúng tôi phải xa lìa đất nước!Nhà cửa chúng tôi phá đổ tan hoang!’ Hỡi các bà, hãy lắng nghe lời của CHÚA!Hãy mở tai ra nhận lãnh lời từ miệng Ngài!Hãy dạy cho con gái các bà bài khóc than kể lể,Hãy dạy cho nhau bài ca ai oán! Thần Chết đã leo qua cửa sổ,Đã lẻn vào các đền đài chiến lũy chúng ta,Để giết hại con trẻ ngoài đường phố,Thanh niên giữa quảng trường.” CHÚA phán như vầy: “Hãy loan báo:Thây người sẽ ngã xuốngNhư phân ngoài đồng ruộng,Như cọng lúa rớt lại phía sau con gặt,Không người mót lượm!” CHÚA phán như vầy:“Người khôn ngoan đừng tự hào về sự khôn ngoan mình,Người mạnh sức đừng tự hào về sức mạnh mình,Người giầu có, đừng tự hào về sự giầu có mình. Nhưng người nào tự hào, hãy tự hào về điều này:Người ấy hiểu biết và xưng nhận Ta,Biết Ta là CHÚA, Ta ban bố tình yêu không dời đổi,Ta thi hành sự công bình và công chính trên đất,Vì Ta ưa thích những điều ấy.”Đấy là lời CHÚA. CHÚA phán: “Này, sẽ có ngày Ta thăm phạt tất cả những người chỉ cắt bao quy đầu trong thân xác mà thôi, những người Ai-cập, Giu-đa, Ê-đôm, Am-môn và Mô-áp, và tất cả những người sống trong sa mạc, cạo tóc màng tang, vì tất cả những dân tộc đó, cũng như toàn thể nhà Y-sơ-ra-ên, đều chưa cắt bao quy đầu của lòng họ.” Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, hãy nghe lời CHÚA phán với các ngươi, CHÚA phán như vầy:“Đừng học đòi lối sống của các dân,Đừng khiếp sợ các hiện tượng trên trời,Vì các dân khiếp đảm trước các hiện tượng đó. Thật tập tục các dân chỉ là hư không:Người thợ lấy rìu đốn cây trong rừng về,Dùng chính tay mình đẽo gọt, Chạm bạc trổ vàng cho đẹp,Dùng búa đóng đinh vào cho chặt,Để tượng khỏi ngã đổ. Các thần tượng sống như bù nhìn trong ruộng dưa chuột,Không biết nói,Phải nhờ người khiêng,Vì chúng không biết đi.Đừng sợ các thần ấy,Vì chúng không có khả năng gây họa,Cũng không có quyền ban phúc. Ôi! Lạy CHÚA, chẳng có thần nào giống như Ngài,Ngài thật vĩ đại,Danh Ngài vĩ đại, quyền năng. Ngài là Vua của các nước,Ai mà không kính sợ Ngài?Vì Ngài đáng được tôn kính,Vì giữa hết thảy các bật hiền triết trong các nước,Giữa hết thảy các bậc vua chúa,Không ai giống như Ngài! Cả thảy đều u mê, khờ dại,Học điều hư không từ khúc gỗ! Bạc dát mỏng nhập từ Tạc-sít,Vàng từ U-pha,Công trình của thợ thủ công, của tay người thợ vàng,Khoác vào lớp áo mầu tím và đỏ thẫm,Toàn là công trình của thợ khéo! Nhưng CHÚA thật sự là Đức Chúa Trời,Ngài là Đức Chúa Trời hằng sống, là vua đời đời.Đất rúng động khi Ngài nổi giận,Các nước không chịu nổi cơn thịnh nộ Ngài. Các ngươi hãy nói với chúng thế này: ‘Các thần không tạo dựng trời và đất, các thần ấy sẽ bị hủy diệt khỏi mặt đất và dưới bầu trời.’ Chính Ngài tạo dựng địa cầu bởi quyền năng Ngài,Sáng lập thế giới bởi sự khôn ngoan Ngài,Và giương các tầng trời bởi trí thức Ngài. Khi Ngài lên tiếng, các nguồn nước trên trời báo động,Ngài khiến hơi nước bốc lên từ nơi đầu cùng đất,Ngài khiến chớp loé lên trong cơn mưa,Và lùa gió ra khỏi kho tàng của Ngài. Mọi người đều u mê, thiếu hiểu biết,Người thợ đúc tượng nào cũng xấu hổ vì tượng chạm mình,Vì thần tượng người đúc chỉ là thần giả để lừa bịp,Chẳng có hơi thở bên trong. Các thần tượng đều không giá trị, chỉ là vật nhạo báng gạt gẫm,Đến ngày đoán phạt, chúng sẽ bị tiêu diệt. Nhưng Phần Cơ Nghiệp của Gia-cốp chẳng giống chúng đâu,Vì chính Ngài nắn tạo vạn vật,Và Y-sơ-ra-ên là chi tộc của cơ nghiệp Ngài,Danh Ngài là CHÚA Vạn Quân. Hỡi thành bị vây,Hãy gom nhặt của cải, lìa khỏi xứ!” Vì CHÚA phán như vầy:“Lần này, Ta sẽ némDân cư trong nước ra,Ta sẽ siết chặt vòng vây,Để không ai thoát khỏi.” Khốn cho tôi vì nỗi đau đổ vỡ,Vết thương tôi không thể chữa lành!Thế mà tôi những tưởng:“Đây chỉ là một cơn đau tôi đủ sức gánh chịu.” Lều trại tôi sụp đổ,Mọi dây căng lều đều bứt hết,Con cái tôi lìa khỏi tôi đi mất,Không còn ai căng lều cho tôi,Cũng không còn ai treo màn. Các người chăn ngu dại,Không cầu hỏi ý CHÚA.Vì thế chúng thất bại,Cả bầy chiên tan tác. Kìa! Tiếng đồn bay đến,Tiếng chuyển động ào ào từ phương bắc,Để làm cho các thành xứ Giu-đa nên hoang vu,Nên hang chó rừng. Ôi! Lạy CHÚA, con biết loài người không làm chủ số phận mình,Người đi, nhưng không định được các bước mình. Lạy CHÚA, xin Ngài sửa dạy con, nhưng vừa phải thôi,Xin đừng sửa phạt con khi Ngài nổi giận,E Ngài diệt con mất! Xin Ngài trút cơn thịnh nộ Ngài xuốngCác nước không nhận biết Ngài,Và các dân tộc không cầu khẩn danh Ngài,Vì chúng đã ăn nuốt Gia-cốp,Chúng ăn nuốt và tiêu diệt nó,Chúng phá tan hoang nhà cửa đất đai nó. Đây là lời của CHÚA phán với Giê-rê-mi: “Con hãy lắng nghe các điều khoản của giao ước này và nói lại cho dân Giu-đa và dân thành Giê-ru-sa-lem. Con hãy nói với chúng: ‘CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy:Người nào không vâng giữ các điều khoản trong giao ước này sẽ bị nguyền rủa. Đấy là giao ước Ta lập với tổ phụ các ngươi trong ngày Ta đem chúng ra khỏi Ai-cập, là lò luyện sắt. Ta truyền bảo chúng: Nếu các ngươi vâng lời Ta và làm trọn mọi điều Ta truyền dạy các ngươi, các ngươi sẽ là dân Ta, và Ta sẽ là Đức Chúa Trời các ngươi.’ Bấy giờ Ta sẽ thực hiện lời Ta thề hứa ban cho tổ phụ các ngươi một đất nước tuôn tràn sữa và mật, như đã có ngày nay.”Tôi đáp: “Vâng, thưa CHÚA.” CHÚA phán với tôi: “Con hãy công bố tất cả những điều khoản này ra trong các thành phố Giu-đa và các ngõ ngách thành Giê-ra-sa-lem. Con hãy nói: ‘Hãy lắng nghe và làm theo các điều khoản trong giao ước này.’ Ta đã nghiêm nghị cảnh cáo tổ phụ các ngươi từ ngày Ta đem chúng ra khỏi Ai-cập cho đến ngày nay. Ta đã không ngừng cảnh cáo chúng: ‘Hãy vâng lời Ta.’ Nhưng chúng không vâng lời, cũng không lắng tai; trái lại, ai nấy sống theo lòng cứng cỏi gian ác mình. Vì thế Ta đã giáng hình phạt trên chúng theo như tất cả các điều khoản trong giao ước này, là giao ước ta truyền chúng vâng giữ, nhưng chúng không làm theo.” CHÚA phán với tôi: “Dân Giu-đa và dân cư thành Giê-ru-sa-lem âm mưu phản loạn: chúng đã quay về với tội ác của tổ phụ chúng trước kia là những người không chịu vâng lời Ta. Chúng đã theo các thần khác và phục vụ các thần ấy. Nhà Y-sơ-ra-ên và nhà Giu-đa đã bội giao ước Ta lập với tổ phụ chúng.” Vì thế, CHÚA phán như vầy: “Này, Ta sẽ giáng tai họa trên chúng, chúng không thể tránh khỏi. Chúng sẽ kêu cầu Ta, nhưng Ta sẽ không nghe. Bấy giờ dân cư trong các thành của Giu-đa và thành Giê-ru-sa-lem sẽ đi kêu cầu các thần chúng cúng tế. Chắc chắn là các thần ấy không thể nào cứu giúp chúng trong giờ hoạn nạn. Vì ngươi, hỡi Giu-đa, ngươi có bao nhiêu thành là có bấy nhiêu thần! Và Giê-ru-sa-lem có bao nhiêu đường phố, là các ngươi lập bấy nhiêu bàn thờ cúng thần Xấu Hổ, bàn thờ cúng tế thần Ba-anh! Về phần con, đừng cầu thay cho dân này. Con cũng đừng vì chúng cất tiếng kêu xin hay cầu khẩn, vì Ta sẽ không nghe khi chúng kêu cầu Ta trong giờ hoạn nạn. Dân Ta yêu dấu làm gì trong nhà Ta?Chúng đã làm việc đồi bại.Lời hứa nguyện và thịt sinh tế có thể nào ngăn ngừa tai họa xảy đến cho ngươi không?Ngươi vui mừng hớn hở được sao? CHÚA đã từng gọi tên ngươiLà cây ô-liu rậm lá, đẹp đẽ, sai trái tốt tươi.Nhưng nay, có tiếng gầm thét inh ỏi,Ngài đốt cháy lá nó,Bẻ gẫy nhành nó. CHÚA Vạn Quân, là Đấng đã trồng ngươi, chính Ngài đã tuyên bố tai họa sẽ giáng xuống ngươi, vì sự gian ác của nhà Y-sơ-ra-ên và nhà Giu-đa. Chúng đã chọc Ta giận khi chúng cúng tế thần Ba-anh.” CHÚA đã báo cho tôi biết, và tôi đã biết. Bấy giờ Ngài cho con thấy việc làm gian ác của họ. Về phần con, con giống như cừu non dễ tin bị dắt đến lò sát sinh. Con không hề biết họ âm mưu sát hại con:“Chúng ta hãy đốn cây đang còn nhựa bên trong,Chúng ta hãy trừ diệt hắn khỏi đất người sống,Để không ai nhớ đến tên hắn nữa.” Lạy CHÚA Vạn Quân, Ngài là thẩm phán công minh,Đấng dò xét lòng dạ và ý tưởng,Xin cho con thấy Ngài báo thù họ,Vì con đã giao phó việc con cho Ngài. Vì thế, CHÚA phán như vầy: “Về phần dân làng A-na-tốt, là những người tìm cách sát hại con, và bảo con: ‘Ông không được nhân danh CHÚA nói tiên tri nữa, bằng không, ông sẽ chết về tay chúng tôi.’” CHÚA Vạn Quân phán như vầy: “Này, Ta sẽ trừng phạt chúng. Thanh niên sẽ chết vì gươm giáo, con trai, con gái chúng sẽ chết vì đói kém. Sẽ không còn một người nào sống sót, vì Ta sẽ giáng họa trên dân làng A-na-tốt trong năm chúng bị trừng phạt.” “Lạy CHÚA, nếu con biện luận với Ngài,Ngài sẽ thắng.Tuy nhiên, con vẫn xin trình bầy lời biện luận.Tại sao người gian ác hưng thịnh?Tại sao người phản phúc lại sống ung dung? Ngài đã trồng chúng nó, chúng đâm rễ,Lớn lên, sinh hoa kết quả.Ngài ở gần miệng lưỡi chúng,Nhưng cách xa lòng dạ chúng. Nhưng lạy CHÚA, Ngài đã biết con, Ngài nhìn thấy con,Ngài đã thử và biết lòng con ở với Ngài.Xin Ngài tách chúng nó ra như cừu dành cho lò sát sinh,Xin Ngài biệt riêng chúng ra cho ngày chém giết. Đất nước phải khô héo cho đến bao giờ?Cỏ khắp đồng phải úa tàn cho đến khi nào?Thú rừng và chim chóc bị quét sạchVì dân cư gian ác,Vì chúng nói:‘Ngài không thấy điều gì chúng ta làm.’ Nếu con chạy đua với người chạy bộMà còn mỏi mệt vì họ,Thì làm sao đua nổi với ngựa?Nếu con chỉ vững tin trong đất nước trù phú,Thì con sẽ ra sao trong rừng rậm sông Giô-đanh? Ngay cả dòng họ con và nhà cha con,Ngay cả họ cũng phản bội con,Ngay cả họ cũng gọi sau lưng con: ‘Đồ say rượu!’Con đừng tin họKhi họ dùng lời ngon ngọt nói với con.” Ta đã từ bỏ dân Ta,Ta đã bỏ cơ nghiệp Ta,Ta đã giao dân Ta yêu quýVào tay kẻ thù chúng. Dân Ta nghịch lại TaNhư sư tử trong rừng rậm.Chúng lớn tiếng chống lại Ta,Vì thế Ta ghét bỏ chúng. Dân Ta có phải là diều hâu có đốm,Bị diều hâu khác vây quanh?Hỡi tất cả các loài thú rừng,Hãy đến, hãy tụ tập lại,Hãy đến dự tiệc! Nhiều người chăn đã hủy phá vườn nho Ta,Giầy đạp phần đất của Ta.Chúng đã biến phần đất đẹp đẽ của TaThành đồng hoang tiêu điều. Chúng đã làm cho nó điêu tàn,Nó xơ xác khóc than với Ta.Cả đất nước điêu tàn,Nhưng không ai màng để tâm. Quân thù cướp phá đã tràn đếnKhắp các đồi trọc trong sa mạc.Vì lưỡi gươm của CHÚA cắn nuốt cả đất,Từ đầu này đến đầu kia,Không sinh vật nào an toàn cả. Chúng gieo lúa mì, nhưng chỉ gặt gai gốc,Chúng làm việc khổ nhọc luống công.Chúng sẽ xấu hổ vì thu hoạch mình,Vì cơn giận cháy phừng của CHÚA! CHÚA phán như vầy: “Về phần tất cả những người láng giềng gian ác của Ta đã xâm phạm cơ nghiệp Ta ban cho dân Y-sơ-ra-ên Ta, này, Ta sẽ bứng chúng khỏi đất mình, và Ta sẽ bứng nhà Giu-đa khỏi giữa chúng. Nhưng sau khi Ta đã bứng chúng đi, Ta lại sẽ thương xót chúng và Ta sẽ đem chúng trở về quê hương mình, mỗi người nhận lại cơ nghiệp mình. Và nếu chúng sốt sắng học hỏi nếp sống của dân Ta, học biết nhân danh Ta mà thề, ‘Thật như CHÚA hằng sống!’ như ngày trước chúng đã dạy dân Ta thề nhân danh Ba-anh, lúc ấy chúng sẽ vững lập giữa dân Ta. Còn nếu dân tộc nào không vâng lời Ta, Ta sẽ bứng hẳn và tiêu diệt dân ấy.” Đấy là lời CHÚA. CHÚA phán với tôi như vầy: “Con hãy đi mua một dải thắt lưng bằng vải lanh, quấn nó ngang lưng con, nhưng đừng ngâm nó trong nước.” Theo lời CHÚA truyền, tôi mua một dải thắt lưng và quấn nó ngang lưng tôi. CHÚA phán với tôi lần thứ nhì: “Con hãy lấy dải thắt lưng mà con đã mua và hiện đang quấn ngang lưng con, đem đến Phơ-rát và giấu nó tại đó, trong một kẽ đá.” Tôi đem dãi thắt lưng giấu tại Phơ-rát, y như lời CHÚA dặn bảo tôi. Sau đó một thời gian khá lâu, CHÚA phán với tôi: “Con hãy đến Phơ-rát lấy dải thắt lưng Ta đã bảo con giấu tại đó.” Vậy tôi đi đến Phơ-rát, đào dải thắt lưng lên khỏi nơi tôi đã chôn giấu nó. Nhưng dải thắt lưng đã mục nát, không dùng được nữa. CHÚA phán với tôi. CHÚA phán như vầy: “Ta cũng sẽ phá đổ sự kiêu ngạo của Giu-đa và sự kiêu ngạo lớn của Giê-ru-sa-lem như vậy. Dân gian ác này từ chối không chịu vâng lời Ta, sống theo lòng cứng cỏi mình, phụng sự và thờ lạy các thần khác; chúng sẽ giống như dải thắt lưng này, không dùng vào việc chi được nữa; vì như dải thắt lưng thắt sát vào lưng mỗi người thể nào, Ta cũng đã đem trọn nhà Y-sơ-ra-ên và trọn nhà Giu-đa thắt sát vào Ta thể ấy, để họ trở thành dân Ta, làm vinh danh Ta, ca ngợi Ta, và mang vinh quang về cho Ta, nhưng chúng không chịu vâng lời Ta.” Đấy là lời CHÚA. Con hãy nói lời ấy với chúng.CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: “Mỗi bình rượu phải đổ đầy rượu.” Và khi chúng nói với con: “Lẽ nào chúng tôi không biết rõ mỗi bình rượu phải đổ đầy rượu?” Con hãy nói với chúng: CHÚA phán như vầy: “Này, Ta sẽ đổ rượu đầy miệng hết thảy dân cư đất này, các vua ngồi trên ngai Đa-vít, các thầy tế lễ, các tiên tri, và tất cả dân thành Giê-ru-sa-lem cho đến khi chúng say nhừ. Và Ta sẽ đập bể chúng, đập người này vào người kia, cả cha lẫn con. Ta sẽ không nương tay, không tiếc nuối, không thương xót khi Ta hủy diệt chúng.” “Xin nghe đây, xin lắng tai,Đừng kiêu ngạo,Vì CHÚA đã phán! Xin ông bà dâng vinh quang cho CHÚA, Đức Chúa Trời mình,Trước khi Ngài cho bóng tối phủ xuống,Trước khi chân ông bà vấp phảiCác sườn núi vào lúc trời chạng vạng,Trước khi Ngài biến ánh sáng ông bà trông đợiRa bóng tối tử vong dày đặc. Nhưng nếu ông bà không chịu nghe,Trong nơi kín, tôi sẽ khócVề sự kiêu ngạo của ông bà,Tôi sẽ khóc dầm dề,Nước mắt tôi chảy ràn rụa,Vì bầy chiên của CHÚA bị bắt đi. Con hãy nói với vua và thái hậu:‘Xin bước xuống khỏi ngai, ngồi dưới đất,Vì vương miện vinh quangĐã rơi khỏi đầu. Các thành vùng Nê-ghép bị vây kín,Không ai giải vây.Toàn dân Giu-đa bị bắt đi đày,Không sót một ai. Hãy ngước mắt lên nhìnNhững kẻ đến từ phương bắc!Bầy chiên Ta giao cho ngươi,Ngươi tự hào về bầy chiên ấy, nó đầu rồi? Ngươi sẽ nói gì khi những kẻ ngươi từng dạy dỗ,Từng là bạn tin cẩn của ngươi,Được đặt lên thống trị ngươi?Lẽ nào ngươi không đau đớn quặn thắt như sản phụ chuyển dạ?’ Và khi ngươi tự hỏi:‘Tại sao điều này xảy đến cho tôi?’Chính vì tội ác ngươi nặng nềMà chúng lột váy ngươi,Và cưỡng hiếp ngươi vằm giập. Người Ê-thi-ô-bi có đổi được mầu da,Con beo có đổi được đốm nó không?Các ngươi cũng vậy, đã quen làm ác,Có thể nào làm lành được? Vì thế, Ta sẽ rải tung các ngươi ra như trấuBay trước gió sa mạc.” CHÚA phán:“Đây là số phận của ngươi,Phần Ta lường riêng ra cho ngươi.Vì ngươi đã quên Ta,Và tin cậy các thần giả, Chính Ta sẽ lột tung váy ngươi ra, phủ lên mặt ngươi,Và phơi trần sự lõa lồ ngươi. Ta đã nhìn thấy việc làm gớm ghiếc của ngươi:Ngươi ngoại tình, sàm sỡ như ngựa hí khi động dục,Bán dâm bừa bãiTrên các đồi, nơi đồng nội.Khốn cho ngươi, hỡi Giê-ru-sa-lem,Ngươi không chịu tẩy sạch cho đến khi nào?” Đây là lời CHÚA phán với Giê-rê-mi về nạn hạn hán. Giu-đa tang tóc,Các thành phố tiêu điều,Dân chúng mặc mầu u tối, cúi rạp xuống đất,Tiếng kêu ai oán vang lên từ thành Giê-ru-sa-lem. Các nhà quyền quý sai đầy tớ đi xách nước,Chúng ra ao hồ, nhưng không có nước,Bình không quay về;Các nhà quyền quý xấu hổ,Nhục nhã,Trùm đầu lại. Đất kinh hoàng vì thu hoạch hiếm hoi,Vì trong xứ không có mưa.Các nông dân xấu hổTrùm đầu lại. Ngay cả nai cái phải đẻ con ngoài đồng trống,Rồi bỏ đi,Vì thiếu cỏ cây. Lừa rừng đứng sững trên các gò trọc,Thở hổn hển như chó rừng,Mắt chúng đờ dần,Vì thiếu cỏ cây. Lạy CHÚA, dù tội ác chúng con có làm chứng nghịch lại chúng con,Xin Ngài ra tay hành động vì danh Ngài!Thật chúng con bội bạc quá nhiều,Chúng con có phạm tội cùng Ngài. Lạy CHÚA, Nguồn Hy Vọng của Y-sơ-ra-ên,Là Đấng giải cứu trong thời hoạn nạn,Tại sao Ngài trở thành như ngoại kiều ở trong xứ,Như lữ khách trọ qua đêm? Tại sao Ngài lại giống như một người bị tấn công đột ngột,Một chiến sĩ dũng cảm không giải cứu được ai?Nhưng, lạy CHÚA, Ngài vẫn ở giữa chúng con,Chúng con mang danh Ngài,Xin đừng lìa bỏ chúng con! CHÚA phán về dân này như vầy:“Chúng nó ưa đi rong như thế,Không biết kiềm chế mình,Nên CHÚA không tiếp nhận chúng.Bây giờ, Ngài nhớ lại tội ác chúng,Ngài sẽ trừng phạt tội lỗi chúng.” CHÚA phán với tôi: “Con đừng cầu phúc lành cho dân này. Ngay cả khi chúng kiêng ăn, Ta cũng chẳng nghe tiếng chúng kêu xin. Ngay cả khi chúng dâng tế lễ toàn thiêu và tế lễ chay, Ta cũng không đoái nhận chúng. Nhưng Ta sẽ tiêu diệt chúng bằng gươm đao, đói kém và ôn dịch.” Tôi thưa: “Ôi, lạy CHÚA, các tiên tri luôn nói với chúng: ‘Các ngươi sẽ không nhìn thấy gươm đao, cũng chẳng gặp đói kém, vì Ta sẽ ban cho các ngươi bình an vững bền tại nơi này.’” Nhưng CHÚA phán với tôi: “Các tiên tri ấy đã nhân danh Ta nói lời dối gạt. Ta chẳng từng sai chúng, chẳng truyền lệnh, cũng chẳng phán với chúng. Chúng đã nói cho các ngươi một khải tượng bịa đặt, một lời bói toán hão huyền, những lời dối gạt tự chúng suy ra.” Vì thế, CHÚA phán như vầy: “Về phần các tiên tri đã nhân danh Ta nói tiên tri dù Ta chẳng hề sai chúng, và chúng đã nói: ‘Gươm đao và đói kém sẽ không xảy ra trong đất này,’ chính các tiên tri ấy sẽ chết vì gươm đao và đói kém. Còn những người đã nghe chúng nói tiên tri cũng sẽ cùng vợ, con trai, và con gái mình chết vì đói kém và gươm đao. Xác chúng nó sẽ bị ném la liệt ngoài đường phố Giê-ru-sa-lem, không ai chôn cất. Ta sẽ khiến tội ác chúng đổ lại trên đầu chúng.” Con hãy nói lời ấy với chúng.Xin cho mắt tôi trào lệĐêm ngày không ngưng,Vì dân tôi, trinh nữ của tôi,Phải đổ nát tan hoang,Nàng bị thương tích trầm trọng,Không thể chữa lành. Nếu tôi ra ngoài đồng trống,Kìa là thây người ngã vì gươm đao!Nếu tôi vào trong thành phố,Kìa là nạn nhân của đói kém!Cả tiên tri lẫn thầy tế lễ tiếp tục hành nghề dạoĐến vùng đất họ chưa hề biết. Lẽ nào Ngài từ bỏ hẳn Giu-đa?Lẽ nào lòng Ngài gớm ghét Si-ôn?Sao Ngài lại đánh chúng conĐến nỗi không thể chữa lành?Chúng con trông được an ninh, thịnh vượng,Nhưng chẳng gặp điều lành.Chúng con trông được chữa lành,Nhưng lại bị khủng bố! Lạy CHÚA, chúng con xin nhận tội, tội gian ác của chúng con,Tội ác của tổ phụ chúng con.Thật chúng con có phạm tội với Ngài. Vì danh Ngài, xin đừng coi thường,Xin đừng khinh rẻ ngai vinh quang của Ngài.Xin Ngài nhớ lại, xin đừng hủy bỏ giao ướcNgài đã lập với chúng con. Trong các thần rỗng tuếch của các dân, có thần nào làm cho mưa rơi được không?Bầu trời có thể nào tự nó cho mưa sa xuống không?Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời chúng con, chỉ có Ngài thôi!Chúng con trông mong vào Ngài,Vì chính Ngài làm nên mọi điều ấy. CHÚA phán với tôi: “Dù Môi-se hoặc Sa-mu-ên có đứng cầu thay trước mặt Ta, Ta cũng chẳng thương xót dân này. Hãy đuổi chúng đi khuất mắt Ta. Nếu chúng hỏi con: ‘Chúng tôi phải đi đâu?’, con hãy bảo chúng: ‘CHÚA phán như vầy:Ai bị định cho ôn dịch, phải chịu ôn dịch,Ai bị định cho gươm đao, phải chịu gươm đao,Ai bị định cho đói kém, phải chịu đói kém,Ai bị định cho tù đày, phải chịu tù đày.’” CHÚA phán: “Ta định cho chúng bốn loại hình phạt: gươm sát hại, chó tha đi, chim trời và thú rừng ăn nuốt và hủy diệt. Ta sẽ làm cho mọi dân trên đất kinh tởm chúng vì tội ác Ma-na-se, con Ê-xê-chia, vua Giu-đa, đã phạm tại Giê-ru-sa-lem. Hỡi Giê-ru-sa-lem, ai sẽ thương xót ngươi?Ai sẽ than khóc ngươi?Ai sẽ quay lại hỏi thăm ngươi?” CHÚA phán:“Chính ngươi đã bỏ Ta,Đã tiếp tục thối lui,Nên Ta đã đưa tay ra hủy diệt ngươi;Ta đã chán sự đổi ý. Ta sẽ dùng sàng mà sàng chúng trước gió;Rải chúng ra khắp các thành trên đất.Ta sẽ diệt sạch dân Ta, cất con cái chúng đi,Vì chúng không chịu bỏ lối sống cũ, quay về với Ta. Ta sẽ làm cho quả phụ của dân TaĐông hơn cát biển,Ta sẽ sai kẻ hủy diệt đếnHại mẹ người chiến sĩ lúc giữa trưa,Ta sẽ đổ ụp xuống nàngTâm thần hoang mang, hoảng sợ. Người mẹ sinh bảy con bủn rủn,Thở ngắc ngoải.Mặt trời nàng đã lặn giữa ban ngày,Nàng xấu hổ, tủi nhục.Những người sống sót,Ta sẽ phó cho gươm kẻ thù chúng sát hại.”Đấy là lời CHÚA. Mẹ ơi, khốn khổ cho con, vì mẹ sinh con raLàm người phải tranh cãi và biện luận với cả đất nước!Con không cho ai vay mượn, cũng không vay mượn ai,Thế mà mọi người đều khinh rẻ con. CHÚA phán:“Ta chắc sẽ giải cứu con vì phúc lợi chung,Ta chắc sẽ khiến kẻ thù van xin conTrong thời hoạn nạn khó khăn. Ai có thể bẽ gãy sắt được,Sắt và đồng từ phương bắc? Ta sẽ cho quân thù cướp sạch của cải kho báu các ngươi,Khỏi phải đền bù,Vì mọi tội lỗi các ngươi phạmTrong khắp bờ cõi các ngươi. Ta sẽ khiến các ngươi phục vụ kẻ thù mìnhTrong một xứ các ngươi chưa hề biết,Vì cơn giận Ta đã bốc lửa,Cháy phừng thiêu đốt các ngươi.” Lạy CHÚA, Ngài biết con!Xin Ngài nhớ đến con và chăm sóc con,Xin Ngài báo thù những kẻ khủng bố con,Xin Ngài nhẫn nại với con và cho con được sống,Xin Ngài nhớ con đã chịu sỉ nhục vì Ngài. Con tìm gặp và ăn nuốt lời Ngài.Lời Ngài mang đến cho lòng con niềm vui mừng rộn rã,Vì con mang danh Ngài,Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời Vạn Quân! Con không dự phần cũng không cười đùa với đám người vui chơi tiệc tùng.Bàn tay Ngài đặt trên con,Nên con sống tách biệt, cô đơn,Vì cơn giận của Ngài đổ đầy lòng con. Tại sao nỗi đau đớn của con không dứt,Vết thương con trầm trọng, không thể chữa lành?Lẽ nào Ngài đối với con giống như lòng suối lừa bịp,Dòng nước cạn khô? Vì thế, CHÚA phán như vầy:Nếu con ăn năn, quay về, Ta sẽ nhận con lại,Cho con đứng trước mặt Ta.Nếu con nói lời quý giá thay vì lời thấp hèn,Con sẽ trở nên giống như miệng của Ta.Chúng nó phải quay về với con,Nhưng con không được quay về phía chúng. CHÚA phán:“Đối với dân này,Ta sẽ lập con làm tường đồng kiên cố.Chúng sẽ tranh chiến với con,Nhưng không thắng được,Vì Ta hằng ở với conĐể cứu giúp con và giải thoát con. Ta sẽ giải thoát con khỏi tay kẻ độc ác,Chuộc con ra khỏi nanh vuốt kẻ bạo tàn.” CHÚA phán với tôi: “Con đừng bao giờ cưới vợ hoặc sinh con trai con gái tại nơi này. Vì CHÚA có phán như vầy về những con trai con gái sinh tại nơi này, và về những cha mẹ đã sinh ra chúng trong đất nước này: Chúng sẽ chết thê thảm, không ai than khóc, cũng không ai chôn cất. Chúng sẽ trở thành phân trên mặt đất. Chúng sẽ chết vì gươm đao và đói kém. Thây chúng sẽ làm thức ăn cho chim trời và thú rừng.” CHÚA phán như vầy: “Con đừng vào nhà có việc tang chế; con đừng đến than khóc hoặc chia buồn với chúng nó, vì Ta đã rút phước lành, tình yêu bền vững, và lòng thương xót của Ta khỏi dân này.” Đấy là lời CHÚA. “Người sang kẻ hèn đều sẽ chết trong đất nước này. Không ai chôn cất, cũng không ai than khóc chúng. Không ai tự rạch mình hoặc cạo đầu vì chúng. Không ai dọn thức ăn cho người chịu tang để an ủi người về người quá cố. Cũng không ai trao chén an ủi cho người về sự chết của cha hoặc mẹ người. Con cũng đừng vào nhà có tiệc tùng ngồi ăn uống với chúng nó.” Vì CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: “Này, ngay trước mắt các ngươi, trong đời các ngươi, Ta sẽ chấm dứt tiếng vui mừng rộn rã, tiếng chú rể và cô dâu tại nơi này.” “Khi con rao mọi lời ấy cho dân này, chúng sẽ hỏi con: ‘Tại sao CHÚA định giáng mọi tai họa khủng khiếp này trên chúng tôi? Tội ác chúng tôi là gì? Chúng tôi phạm lỗi gì với CHÚA, Đức Chúa Trời chúng tôi?’ Con hãy nói với chúng: ‘CHÚA phán: Vì tổ phụ các ngươi đã lìa bỏ Ta, theo phụng sự và thờ lạy các thần khác. Chúng đã bỏ ta và không vâng giữ kinh luật Ta. Nhưng các ngươi lại càng tệ hại hơn tổ phụ các ngươi, vì các ngươi, ai nấy sống theo lòng cứng cỏi và gian ác mình thay vì vâng lời Ta. Vì thế Ta sẽ ném các ngươi ra khỏi đất nước này, vào một xứ các ngươi lẫn tổ phụ các ngươi cũng chưa hề biết. Tại đó, các ngươi sẽ phụng sự các thần khác suốt ngày đêm, vì Ta sẽ không thương xót các ngươi.’” CHÚA phán: “Sẽ có ngày không còn ai thề như vầy nữa: ‘Thật như CHÚA Hằng Sống, là Đấng đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập,’ nhưng người ta sẽ thề: ‘Thật như CHÚA hằng sống, là Đấng đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi nước phương bắc và khỏi tất cả những nước mà Ngài đã đày họ đến,’ vì Ta sẽ đem chúng trở về mảnh đất Ta ban cho tổ phụ chúng.” CHÚA phán: “Này, Ta sẽ sai nhiều tay đánh cá đến, và họ sẽ bắt chúng nó. Sau đó, Ta sẽ sai nhiều tay thợ săn đến, và họ sẽ săn đuổi chúng ra khỏi mọi núi, mọi đồi và các khe đá. Vì mắt Ta theo dõi mọi đường lối chúng. Chúng không trốn khuất mặt Ta được. Tội ác chúng cũng không giấu khỏi mắt Ta. Trước hết, Ta sẽ báo trả chúng gấp đôi vì tội ác và tội lỗi chúng phạm: chúng đã làm ô uế đất Ta, chúng đã làm cho cơ nghiệp Ta đầy dẫy thây của các thần tượng ghê tởm và các vật gớm ghiếc.” Lạy CHÚA, Ngài là sức mạnh và đồn lũy của con,Là nơi ẩn náu của con trong ngày gian truân.Từ nơi đầu cùng đất,Các dân tộc sẽ đến và thưa với Ngài:“Tổ phụ chúng con chỉ thừa hưởng các thần giả,Không ra gì, không giúp ích chi. Loài người có thể nào tự làm nên thần cho mình?Đó cũng chỉ là thần tượng, không phải thần. Vì thế Ta sẽ tỏ cho chúng biết,Tỏ cho chúng biết một lần đủ cả,Quyền năng Ta và sức mạnh Ta,Và chúng sẽ biếtDanh Ta là CHÚA!” Tội lỗi dân Giu-đa được ghi bằng bút sắt,Khắc bằng ngòi kim cương trên bia lòng họ,Và trên các sừng nơi góc bàn thờDâng sinh tế, Cũng như con cái chúng nhớ lạiCác bàn thờ dâng sinh tế và các trụ thờ nữ thần A-sê-raBên các cây rậm lá,Trên các đồi cao, Trên núi giữa đồng.Ta sẽ cho quân thù cướp sạchMọi của cải kho báu các ngươi,Vì tội lỗi các ngươi phạm tại các miếuTrong khắp bờ cõi các ngươi. Các ngươi đành phảiBuông mất cơ nghiệp Ta ban cho các ngươi.Và Ta sẽ khiến các ngươi phục vụ kẻ thù mìnhTrong một xứ các ngươi chưa hề biết,Vì các ngươi đã nhen lửa cơn giận của Ta,Lửa sẽ cháy phừng mãi mãi. CHÚA phán như vầy:“Khốn cho kẻ tin cậy loài người,Dựa vào người phàm làm sức mạnh,Và trở lòng lìa bỏ CHÚA. Kẻ ấy giống như cây bách xù trong đồng hoang,Mọc nơi sỏi đá trong sa mạc,Nơi đất mặn, không người ở.Người ấy không hề nhận thấy phúc lành. Phước cho người tin cậy CHÚA,Có CHÚA làm nguồn tin cậy mình. Người ấy giống như cây trồng gần nước,Đâm rễ bên dòng sông,Không sợ nắng hạ đến,Lá vẫn xanh tươi,Gặp năm hạn hán cũng chẳng lo,Không ngừng ra trái. Lòng người xảo quyệt hơn cả,Và bại hoại, không thể chữa lành.Ai dò được lòng người? Ta là CHÚA, Ta dò xét lòng dạ,Thử nghiệm tâm can,Để báo trả mọi người tùy theo nếp sống họ,Tùy theo kết quả việc họ làm. Kẻ làm giầu phi nghĩaGiống như gà gô ấp trứng nó không đẻ.Giữa đời người, của cải bỏ đi,Và cuối đời, người bị chê là ngu dại. Ngai vinh quang ở trên cao,Đền thánh của chúng tôi có từ ban đầu. Lạy CHÚA, Ngài là Nguồn Hy Vọng của dân Y-sơ-ra-ên!Mọi người lìa bỏ Ngài sẽ bị hổ nhục.Những người quay khỏi Ngài sẽ bị ghi tên trong sổ Âm Phủ,Vì chúng đã lìa bỏ CHÚA,Là Nguồn nước sống trào tuôn.” “Lạy CHÚA, xin Ngài chữa lành con, cho con được chữa lành!Xin Ngài giải cứu con, cho con được giải cứu!Vì Ngài là Đấng con ca ngợi. Kìa, chúng nó tiếp tục nhạo báng con:‘Lời CHÚA phán đâu rồi?Sao không thấy ứng nghiệm?’ Con không nài nỉ Ngài giáng tai họa,Con không mong đợi ngày tang thương.Ngài biết lời môi miệng con nói ra,Lời con hằng ở trước mặt Ngài. Xin Ngài đừng làm con khiếp sợ,Ngài là nơi con trú ẩn trong ngày tai ương. Cầu xin những kẻ khủng bố con bị hổ nhục,Nhưng xin Ngài đừng để con bị hổ nhục.Cầu xin chúng phải khiếp sợ,Nhưng xin Ngài đừng để con khiếp sợ.Xin giáng xuống chúng ngày tai họa,Xin đập chúng tan tành.” CHÚA phán với tôi như vầy: “Con hãy ra đứng tại cổng Dân, nơi các vua Giu-đa ra vào, và lần lượt tại mọi cổng thành Giê-ru-sa-lem, nói với chúng: ‘Hỡi các vua Giu-đa, hỡi toàn thể dân Giu-đa, và toàn thể dân cư thành Giê-ru-sa-lem, là những người vào thành qua các cổng này, xin hãy lắng nghe lời CHÚA.’” CHÚA phán như vầy: “Nếu các ngươi muốn bảo toàn mạng sống mình, hãy cẩn thận, đừng khiêng, cũng đừng mang vật gì vào thành Giê-ru-sa-lem qua các cổng này trong ngày Sa-bát. Cũng đừng khiêng vật gì ra khỏi nhà các ngươi trong ngày Sa-bát. Đừng làm bất cứ công việc gì, nhưng hãy biệt riêng ngày Sa-bát làm ngày thánh, y như Ta đã truyền dạy tổ phụ các ngươi. Nhưng chúng không nghe, không lắng tai, lại cứng cổ để khỏi vâng theo hoặc chịu sửa dạy.” CHÚA phán: “Bây giờ, nếu các ngươi thật lòng vâng lời Ta, không mang vật gì vào thành qua các cổng này trong ngày Sa-bát, nhưng biệt riêng ngày Sa-bát làm ngày thánh, không làm bất cứ việc gì trong ngày ấy, thì các vua nối ngôi Đa-vít sẽ đi xe ngựa hoặc cưỡi ngựa vào thành qua các cổng này, có quan tướng theo hầu. Dân Giu-đa và dân cư thành Giê-ru-sa-lem cũng sẽ vào thành; và thành này sẽ mãi mãi đông đúc dân cư. Từ các thành xứ Giu-đa, vùng phụ cận thành Giê-ru-sa-lem, xứ Bên-gia-min, vùng Sơ-phê-la, vùng đồi núi, vùng Nê-ghép, dân chúng sẽ mang đến dâng tại đền thờ CHÚA tế lễ toàn thiêu, sinh tế, tế lễ chay, và nhũ hương, cùng với tế lễ cảm tạ. Nhưng nếu các ngươi không vâng theo lời Ta truyền dạy là phải biệt riêng ngày Sa-bát làm ngày thánh, và đừng khiêng vật gì vào thành Giê-ru-sa-lem qua các cổng này trong ngày Sa-bát, thì Ta sẽ nhen lửa tại cổng thành, và lửa sẽ thiêu hủy các đền đài chiến lũy thành Giê-ru-sa-lem, không ai dập tắt được.” Đây là lời CHÚA phán với Giê-rê-mi: “Con hãy đi xuống lò gốm, tại đó Ta sẽ cho con nghe lời Ta.” Tôi đi xuống lò gốm, gặp người thợ gốm đang làm tại bàn xoay. Khi nào bình đang nắn bị hỏng, như thường xảy ra với đất sét trong tay người thợ gốm, anh nắn lại một bình khác, vừa ý mình. CHÚA phán với tôi: “Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, Ta không thể nào đối xử với các ngươi như người thợ gốm này sao?” CHÚA phán: “Này, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, các ngươi ở trong tay Ta như đất sét trong tay người thợ gốm. Có khi Ta tỏ ý định bứng gốc, phá hủy, và tiêu diệt một dân tộc hoặc một quốc gia, nếu dân tộc Ta định giáng họa xây khỏi điều ác, Ta sẽ đổi ý về tai họa Ta định giáng xuống chúng. Có khi Ta tỏ ý định xây dựng và vun trồng một dân tộc hoặc một quốc gia, nếu dân tộc đó làm điều ác, không vừa ý Ta, không vâng lời Ta, Ta sẽ đổi ý về phúc lành Ta định ban cho chúng. Bây giờ, con hãy nói với dân Giu-đa và dân cư thành Giê-ru-sa-lem: ‘CHÚA phán như vầy: Này, Ta dự định gây họa cho các ngươi, Ta sắp đặt chương trình hại các ngươi. Các ngươi ai nấy hãy xây bỏ đường ác, cải thiện nếp sống và việc làm mình.’ Nhưng chúng vẫn nói: ‘Để mặc chúng tôi. Chúng tôi cứ tiếp tục theo chương trình riêng của chúng tôi, ai nấy làm theo lòng cứng cỏi và gian ác mình.’” Vì thế, CHÚA phán như vầy:“Hãy hỏi các quốc gia,Có ai đã từng nghe sự việc thể này?Dân Y-sơ-ra-ên, cô gái đồng trinh,Đã làm một việc vô cùng khủng khiếp. Đỉnh núi Li-banCó bao giờ không phủ tuyết?Thác nước mát chảy dọc theo sườn núiCó bao giờ khô cạn? Thế mà dân Ta đã quên Ta,Đốt hương cúng tế cho thần giả;Chúng đi trên đường xa xưa,Nhưng vấp ngã vì thần giả,Nên phải rẽ vào các ngõ phụ,Các lối đi chưa xây đắp. Đất nước chúng sẽ điêu tàn,Đến nỗi ngàn đời phải bị chê cườiMọi người qua lại đều sững sờ,Lắc đầu kinh hãi. Ta sẽ làm cho chúng chạy tán loạn trước mặt quân thùNhư cơn gió đông thổi bụi mịt mù.Ta sẽ xây lưng, ngoảnh mặt đi,Trong ngày chúng gặp hoạn nạn.” Những người chống nghịch con nói: “Nào, chúng ta hãy bàn mưu chống lại tên Giê-rê-mi, vì chúng ta vẫn còn thầy tế lễ để dạy Kinh Luật, vẫn còn người thông sáng để cố vấn, vẫn còn tiên tri để rao truyền lời CHÚA cho chúng ta. Chúng ta hãy tìm cách buộc tội nó qua lời nói, và đừng để ý đến bất cứ lời nào của nó cả.” Lạy CHÚA, xin để ý đến con,Xin Ngài lắng nghe tiếng của những người chống nghịch con! Có nên lấy ác báo thiện không?Sao chúng lại đào hố hại mạng sống con?Xin Ngài nhớ con đã từng đứng trước mặt Ngài,Cầu xin hộ cho chúng,Xin Ngài xây cơn giận Ngài khỏi chúng. Nhưng bây giờ, xin Ngài phó con cái chúng cho đói kém,Trao chúng dưới quyền gươm đao;Xin Ngài cho đàn bà gặp cảnh mất con, lại thêm góa bụa;Đàn ông chết đi vì dịch lệ,Thanh niên vì gươm giáo ngoài chiến trận. Xin cho tiếng kêu cứu vang lên từ nhà chúng,Khi Ngài sai bọn cướp xông đánh chúng bất ngờ,Vì chúng đã đào hố để bắt con,Gài bẫy dưới chân con. Lạy CHÚA, Ngài biết rõMọi âm mưu chúng lập để giết con.Xin Ngài đừng tha thứ tội ác chúng,Xin đừng bôi xóa tội lỗi chúng khỏi trước mặt Ngài,Xin cho chúng vấp ngã trước mặt Ngài,Xin trừng phạt chúng trong giờ Ngài nổi giận. CHÚA phán như vầy: “Con hãy đến lò gốm, mua một bình sành loại cổ hẹp. Con hãy dẫn theo một vài trưởng lão trong dân chúng và một vài thầy trưởng tế, đi đến thung lũng Ben Hin-nôm, nơi lối vào cổng Gốm, và tại đó, con hãy công bố những lời Ta phán với con. Con hãy nói: ‘Hỡi các vua Giu-đa và dân cư thành Giê-ru-sa-lem, hãy lắng nghe lời CHÚA. CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Này, Ta sẽ giáng tai họa xuống nơi này đến nỗi ai nghe đến, cũng phải ù tai, vì chúng nó, cùng tổ phụ chúng, và các vua Giu-đa đã lìa bỏ Ta, biến nơi này thành xa lạ, dâng sinh tế cho các thần khác mà chúng chưa hề biết, làm cho nơi này đầy dẫy máu vô tội. Chúng tiếp tục xây miếu cúng thần Ba-anh, thiêu con cái chúng trong lửa để dâng tế lễ toàn thiêu cho Ba-anh. Đó là điều Ta chẳng hề truyền dạy hay phán bảo, cũng chẳng hề nghĩ đến.’” CHÚA phán: “Vì thế cho nên sẽ có ngày chốn này không còn gọi là Tô-phết hoặc thung lũng Ben Hin-nôm nữa, nhưng chỉ gọi là thung lũng Tàn Sát. Tại chốn này, Ta sẽ phá vỡ chương trình của dân Giu-đa và dân thành Giê-ru-sa-lem. Ta sẽ khiến chúng ngã dưới lưỡi gươm trước mặt quân thù, ngã bởi tay những kẻ tìm hại mạng sống chúng. Và Ta sẽ thí thây chúng nó làm thức ăn cho chim trời và thú rừng. Ta sẽ làm cho thành này điêu tàn, khiến cho người ta phải chê cười. Mọi người qua lại đều sững sờ, chê cười vì tất cả những cảnh thương tích nát tan. Ta sẽ khiến chúng ăn thịt con trai, con gái chúng. Chúng nó sẽ ăn thịt lẫn nhau trong cảnh khắc khoải cùng quẫn do quân thù, những kẻ tìm hại mạng sống chúng, vây hãm. Con hãy đập bể bình sành cổ hẹp trước mắt những người cùng đi với con, và nói với họ: ‘CHÚA Vạn Quân phán: Ta cũng sẽ đập tan dân này và thành này y như vậy, như người ta đập bể bình sành, không thể nào hàn gắn lại được. Chúng sẽ chôn thây tại Tô-phết cho đến khi không còn chỗ để chôn nữa.’” CHÚA phán: “Ta sẽ làm cho chốn này và dân cư nó y như vậy: Ta sẽ làm cho thành phố này giống như Tô-phết. Nhà cửa trong thành Giê-ru-sa-lem và cung điện các vua Giu-đa, nghĩa là tất cả những nhà nào mà trên mái nhà có cúng tế hết thảy các tinh tú trên trời, và cúng rượu cho các thần khác, đều sẽ bị ô uế như Tô-phết.” Sau khi Giê-rê-mi trở về từ Tô-phết, nơi CHÚA đã sai ông đi nói tiên tri, ông đứng trong sân đền thờ CHÚA và công bố với toàn thể dân chúng: “CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Này, Ta sắp giáng xuống thành này và tất cả những thành phụ cận mọi tai họa Ta đã phán, vì chúng nó cứng cổ, không chịu vâng lời Ta.” Thầy tế lễ Phát-hua, con trai Y-mê, đang giữ chức quản đốc đền thờ CHÚA, nghe Giê-rê-mi rao truyền những lời ấy. Phát-hua liền đánh tiên tri Giê-rê-mi và cùm chân ông tại cổng thượng Bên-gia-min, trong đền thờ CHÚA. Ngày hôm sau, khi Phát-hua tháo cùm cho Giê-rê-mi, Giê-rê-mi nói với ông: “CHÚA không gọi ông là Phát-hua nữa, nhưng gọi là Ma-go Mít-sa-bíp.” Vì CHÚA phán như vầy: “Này, Ta sẽ khiến ngươi trở thành nỗi kinh hoàng cho chính mình và hết thảy bạn hữu ngươi. Chúng sẽ ngã dưới gươm quân thù trước mắt ngươi. Ta sẽ phó toàn dân Giu-đa vào tay vua Ba-by-lôn, vua sẽ đầy chúng về Ba-by-lôn, và dùng gươm giết chúng. Và Ta sẽ phó mọi của cải thành này, mọi thu nhập, mọi bảo vật, cùng mọi kho báu các vua Giu-đa vào tay quân thù chúng. Quân thù sẽ cướp làm chiến lợi phẩm, đem về Ba-by-lôn. Còn ngươi, Phát-hua, cùng với mọi người sống trong nhà ngươi, các ngươi sẽ đi đày. Ngươi sẽ đến Ba-by-lôn, chết tại đó, chôn tại đó, ngươi và hết thảy bạn hữu ngươi, đã từng nghe lời tiên tri dối gạt.” Lạy CHÚA, Ngài đã dụ dỗ con, và con đã để cho mình bị dụ,Ngài đã uy hiếp con, và đã thắng!Con trở thành trò cười suốt ngày,Mọi người chế nhạo con. Mỗi khi con rao truyền, con phải kêu lên,Con phải gào lên: “Bạo ngược và tàn phá!”Thật lời CHÚA đã khiến cho conBị sỉ nhục và nhạo cười suốt ngày! Mỗi khi con tự nhủ: “Tôi sẽ không nhắc đến lời Ngài,Hoặc nhân danh Ngài rao truyền nữa,”Thì lời Ngài dồn nén trong xương cốt con,Như lửa cháy trong lòng con.Con không thể dằn lòng được nữa,Con không thể thắng được! Con nghe lắm người thì thầm“Kinh hoàng tứ phía!Hãy loan tin ra, phải, chúng ta hãy loan tin ra!”Hết thảy bạn bè conMong chờ con vấp ngã:“Biết đâu nó sẽ bị dụ,Chúng ta sẽ thắng nó,Và trả thù nó.” Nhưng CHÚA, Ngài ở với con như một chiến sĩ mạnh bạo,Vì thế, những kẻ khủng bố con sẽ vấp ngã, không thắng được,Chúng sẽ xấu hổ vô cùng, vì sẽ không thành công,Nhục nhã đời đời, không sao quên được. Lạy CHÚA Vạn Quân, Ngài là Đấng dò xét người công chính,Đấng nhìn thấu lòng dạ và ý tưởng,Xin cho con thấy Ngài báo thù họ,Vì con đã giao phó việc con cho Ngài. Hãy hát mừng CHÚA!Hãy tôn vinh CHÚA!Vì Ngài giải cứu người khốn cùngKhỏi tay kẻ làm ác. Ngày tôi sinh ra đời là ngày khốn nạn!Ngày mẹ tôi sinh tôi ra, làm thể nào là ngày phúc lành được? Khốn nạn thay cho người báo tin mừng cho cha tôi,Làm cho cha tôi tràn ngập niềm vui:“Con ông đã ra đời, một con trai!” Người ấy sẽ giống như các thànhCHÚA phá đổ, chẳng nuối tiếc.Sáng ngày người sẽ nghe tiếng kêu la cầu cứu,Đến giữa trưa, tiếng hò hét xung phong. Sao tôi không chết phắt đi trong bụng mẹ,Và dạ con mẹ tôi trở thành nấm mồ cho tôi,Mang thai tôi suốt đời? Sao tôi phải lọt lòng mẹ,Để thấy cảnh nhọc nhằn đau khổ,Và đời tôi qua đi trong tủi nhục? CHÚA có phán với Giê-rê-mi khi vua Sê-đê-kia sai Phát-hua, con trai Manh-ki-gia, và thầy tế lễ Sô-phô-ni, con trai Ma-a-sê-gia, đến nhờ Giê-rê-mi: “Xin ông cầu hỏi ý CHÚA giúp chúng tôi vì Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, đang hãm đánh chúng ta. Biết đâu CHÚA sẽ vì chúng ta làm một phép mầu như Ngài đã từng làm và khiến Nê-bu-cát-nết-sa rút quân đi.” Giê-rê-mi đáp: “Xin các ông tâu lại với nhà vua: CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: ‘Này, Ta sẽ đảo ngược binh khí các ngươi cầm trong tay để đánh đuổi vua Ba-by-lôn và quân Canh-đê đang vây hãm các ngươi ngoài tường thành, và Ta sẽ thâu chúng lại, chất thành đống ngay giữa thành này. Chính Ta sẽ chiến đấu chống lại các ngươi với bàn tay mở rộng và cánh tay mạnh mẽ, trong cơn giận lôi đình và phẫn nộ mãnh liệt. Ta sẽ giết hại dân cư thành này, người và cả thú vật đều sẽ chết về bệnh dịch kinh khiếp.’” CHÚA phán: “Sau đó, Ta sẽ phó Sê-đê-kia, vua Giu-đa, các triều thần, và dân chúng, những người còn sống sót trong thành này, chưa chết vì bệnh dịch, gươm dao, hoặc đói kém, vào tay Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, vào tay kẻ địch, vào tay những người tìm hại mạng sống chúng. Vua sẽ dùng gươm giết chúng, không tiếc nuối, không nương tay, cũng không thương xót.” “Con hãy nói với dân này: CHÚA phán như vầy: ‘Này, Ta đặt trước mặt các ngươi con đường dẫn đến sự sống, và con đường dẫn đến sự chết. Ai ở lại trong thành này sẽ chết vì gươm đao, đói kém, hoặc bệnh dịch. Nhưng ai ra khỏi thành, đầu hàng quân Canh-đê đang vây hãm các ngươi, sẽ sống. Người ấy ít ra cũng thoát thân được.’” CHÚA phán: “Ta đã quyết tâm giáng họa thay vì ban phúc lành xuống thành này. Thành sẽ bị nộp vào tay vua Ba-by-lôn, và vua sẽ phóng hỏa đốt thành.” Con hãy nói với hoàng triều Giu-đa: “Hãy lắng nghe lời của CHÚA!” CHÚA phán như vầy: “Hỡi nhà Đa-vít!Sáng ngày hãy phân xử công minh,Giải thoát người bị bóc lộtKhỏi tay kẻ hà hiếp,Kẻo cơn giận Ta bừng lên như lửa, thiêu cháyMà không ai dập tắt nổi,Vì điều ác các ngươi đã làm.” CHÚA phán:“Này, Ta chống lại ngươi,Thành ngự chễm chệ trên cao, nhìn xuống thung lũng,Hòn đá giữa vùng cao nguyên!Dân ngươi nói: ‘Ai có thể xuống đây đánh chúng ta?Ai có thể tiến vào nơi trú ẩn của chúng ta?’” CHÚA phán:“Ta sẽ trừng phạt các ngươi tùy theo kết quả việc làm các ngươi.Ta sẽ phóng hỏa đốt cung điện ngươi,Và lửa sẽ thiêu nuốt mọi vật chung quanh.” CHÚA phán như vầy: “Con hãy đi xuống cung điện vua Giu-đa, và tại đó công bố lời này. Con hãy nói: ‘Tâu vua Giu-đa ngự trên ngai Đa-vít, xin vua cùng các triều thần và dân chúng vào ra qua các cổng này lắng nghe lời của CHÚA.’ CHÚA phán như vầy: ‘Hãy thi hành công bình chính trực. Hãy giải thoát người bị bóc lột khỏi tay kẻ hiếp đáp. Đừng bóc lột, cũng đừng hành hung ngoại kiều, cô nhi, hay quả phụ. Đừng làm đổ máu vô tội tại nơi này. Nếu các ngươi thật lòng làm theo lời này, thì sẽ có vua nối ngôi Đa-vít, đi xe ngựa hoặc cưỡi ngựa, cùng với triều thần và dân chúng vào ra qua các cổng cung điện này. CHÚA phán: Còn nếu các ngươi không vâng theo những lời này, Ta chỉ chính mình Ta thề rằng cung điện này sẽ điêu tàn.’” Vì CHÚA phán như vầy về cung điện vua Giu-đa:“Dù Ta coi ngươi, cây cối sum sê như Ga-la-át,Hùng vĩ như đỉnh núi Li-ban,Ta thề quyết sẽ biến ngươi thành sa mạc,Thành phố không người ở. Ta sẽ sai đạo quân hủy diệtCầm binh khí đánh chiếm ngươi,Chúng sẽ đốn những cây tùng chọn lọc của ngươi,Quăng vào lửa. Dân của các nước sẽ đi ngang qua thành này, và hỏi nhau: ‘Tại sao CHÚA lại khiến thành vĩ đại này ra nông nỗi này?’ Người ta sẽ đáp: ‘Vì chúng nó bội giao ước với CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng, đi thờ lạy và phụng sự các thần khác.’” Đừng khóc người quá cố, đừng than tiếc người đã mất!Thà hãy khóc người phải ra đi,Vì người sẽ không bao giờ trở về,Nhìn lại quê hương xứ sở. Vì CHÚA phán thế này về Sa-lum đã lên ngai nối ngôi cha mình là Giô-si-a, vua Giu-đa, và đã ra đi khỏi nơi này: “Người sẽ không trở về đây nữa, nhưng sẽ chết tại chốn lưu đày, và sẽ không nhìn lại đất này nữa.” Khốn cho kẻ xây cung điện trên nền tảng phi nghĩa,Dựng lầu gác với phương tiện bất công,Bắt đồng loại phục dịch không công,Không trả thù lao cho họ! Khốn cho kẻ tự hào: “Ta sẽ xây cho ta cung điện nguy nga,Lầu gác khoảng khoát.”Rồi nó trổ cửa sổ,Lát ván tùng,Sơn mầu đỏ rực. Có phải ngươi là vua vì ngươi đua tranhĐể có nhiều gỗ tùng sao?Không lẽ cha ngươi không ăn uống sao?Người làm điều công bình chính trực,Và bấy giờ được hưng thịnh mọi bề. CHÚA phán:Người xét lẽ phải cho người nghèo khổ khốn cùng,Và bấy giờ đất nước hưng thịnh.Có phải làm như vậy là biết Ta không? Nhưng mắt ngươi và lòng ngươiChỉ chăm lo trục lợi,Làm đổ máu vô tội,Bóc lột và hiếp đáp. Vì thế, CHÚA phán như vầy về Giê-hô-gia-kim, con trai Giô-si-a, vua Giu-đa:Sẽ không ai than khóc nó:“Than ôi, anh tôi! Than ôi, chị tôi!”Sẽ không ai than khóc nó:“Than ôi, chúa tôi! Than ôi, vua tôi!” Người ta sẽ chôn nó như chôn con lừa,Kéo lết và quăng xaBên ngoài cổng thành Giê-ru-sa-lem. Hãy lên núi Li-ban mà kêu la,Hãy cất tiếng khóc than trên đồi Ba-san,Hãy khóc than từ rặng núi A-ba-rim,Vì mọi tình nhân của ngươi đều bị đánh tan tành. Ta đã phán dạy ngươi trong khi ngươi phè phỡn,Ngươi nói: “Tôi không muốn nghe.”Đó là lối sống của ngươi từ thuở thiếu thời,Ngươi vẫn không vâng lời Ta. Gió sẽ lùa đi mọi kẻ chăn dắt ngươi,Các tình nhân ngươi sẽ bị đi đày;Bấy giờ ngươi sẽ xấu hổ nhục nhãVì mọi việc gian ác của ngươi. Ngươi ngự chễm chệ trên núi Li-ban,An ninh trong tổ ấm giữa rừng cây tùng,Ôi! Ngươi sẽ rên rỉ biết bao khi cơn đau ập đến,Quặn thắt như sản phụ chuyển bụng. CHÚA phán: “Thật như Ta hằng sống, dù Cô-nia, con trai Giê-hô-gia-kim, vua Giu-đa, là chiếc nhẫn làm ấn trên tay hữu Ta, thật vậy, Ta cũng sẽ lột ngươi ra. Ta sẽ phó ngươi vào tay những kẻ tìm hại mạng sống ngươi, vào tay những kẻ ngươi kinh sợ, vào tay Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, và vào tay quân Canh-đê. Ta sẽ ném ngươi và mẹ ngươi đã sinh ngươi vào một nước khác, không phải là nơi sinh quán của hai ngươi, và hai ngươi sẽ chết tại đó. Các ngươi không bao giờ được trở về xứ mà các ngươi ao ước trở về. Cô-nia này, ngươi có phải là một bình đất bị khinh dể,Một bình không ai ưa thích?Vì sao ngươi và dòng dõi ngươi bị ném bỏ,Quăng xa vào một nước họ chưa từng biết? Đất nước ơi! Đất nước hỡi! Đất nước!Hãy lắng nghe lời CHÚA!” CHÚA phán như vầy:“Hãy ghi người này như là người tuyệt tự,Không thành đạt trong đời,Vì dòng dõi người không ai được nối ngôi Đa-vít,Cai trị Giu-đa nữa.” CHÚA phán: “Khốn cho những kẻ chăn hủy diệt và làm tan tác bầy chiên của đồng cỏ Ta.” Vì thế, CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy về những người chăn có trách nhiệm chăn giữ dân Ta: “Chính các ngươi đã làm bầy chiên Ta tan tác và xua đuổi chúng đi, không thăm nom chúng.” CHÚA phán: “Này, Ta sẽ thăm phạt các ngươi vì những hành động gian ác của các ngươi. Chính Ta sẽ tập họp những chiên Ta còn sống sót từ khắp mọi nước, nơi Ta đuổi chúng đến. Ta sẽ đem chúng về đồng cỏ của chúng, và chúng sẽ sinh sôi, nảy nở.” CHÚA phán: “Ta sẽ lập lên những người chăn để chăn giữ chúng, chúng sẽ không còn sợ hãi hoặc kinh hoàng nữa, và sẽ không thiếu mất một con chiên nào.” CHÚA phán:“Trong những ngày đến,Ta sẽ khiến cho nhà Đa-vít nảy ra một nhánh chính trựcMột vua trị vì cách khôn ngoan,Thi hành sự công bình chính trực trong nước. Trong đời vua ấy, Giu-đa sẽ được giải cứu,Và Y-sơ-ra-ên sẽ sống an toàn.Và đây là tên của vua:‘CHÚA là sự chính trực của chúng tôi.’” CHÚA phán: “Vì thế, trong những ngày đến, người ta sẽ không thề như vầy nữa: ‘Thật như CHÚA Hằng Sống, là Đấng đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai-cập,’ nhưng là thề: ‘Thật như CHÚA hằng sống, là Đấng đem con cháu nhà Y-sơ-ra-ên về từ vùng đất phương bắc, và từ mọi đất nước nơi Ngài đã đuổi chúng đến.’ Và chúng sẽ sống trong đất nước mình. Về các tiên tri:Tâm trí tôi bấn loạn,Xương cốt tôi rã rời,Tôi giống như một người say,Người bị rượu chế ngự,Vì CHÚA,Vì các lời thánh của Ngài: ‘Đất nước đầy bọn gian dâm,Đất khô cằn vì lời rủa sả,Đồng cỏ nơi sa mạc úa tàn.Chúng chạy theo đường ác,Lạm dụng uy quyền.’” CHÚA phán:“Cả tiên tri lẫn thầy tế lễ đều phạm tội phạm thượng,Ta bắt gặp chúng làm điều gian ác ngay trong nhà Ta,” CHÚA phán:“Vì thế, đường chúng đi trơn trợt,Chúng sẽ bị đuổi vào bóng tối,Và ngã nằm dài tại đấy,Vì đến năm TaThăm phạt chúng.” “Ta thấy điều sai quấyNơi các tiên tri Sa-ma-ri:Chúng nhân danh Ba-anh nói tiên tri,Và dẫn dân Y-sơ-ra-ên Ta đi lạc. Nhưng Ta lại thấy một điều rùng rợnNơi các tiên tri Giê-ru-sa-lem:Chúng phạm tội gian dâm, bước đi trong sự dối trá,Khuyến khích kẻ làm ác,Cho nên không ai xây bỏ đường ác mình.Ta coi hết thảy bọn chúng như thành Sô-đôm,Và dân cư Giê-ru-sa-lem như thành Gô-mô-rơ.” Vì thế, CHÚA Vạn Quân phán về các tiên tri như vầy:“Này, Ta sẽ cho chúng ăn ngải cứu,Và uống nước độc,Vì từ các tiên tri Giê-ru-sa-lem,Tội phạm thượng đã lan tràn khắp đất nước.” CHÚA Vạn Quân phán như vầy:“Đừng nghe lời các tiên tri ấy nói với các ngươi,Chúng cho các ngươi nghe toàn chuyện phù phiếm,Chúng nói lên cảnh tượng tâm trí chúng suy ra,Chứ không do miệng CHÚA phán dạy. Chúng tiếp tục nói với những kẻ khinh lờn Ta:‘CHÚA phán: Các ngươi sẽ sống bình an.’Chúng nói với mọi người sống theo lòng cứng cỏi mình:‘Các ngươi sẽ chẳng gặp tai họa đâu.’ Vì ai đã đứng chầu trong hội đồng của CHÚAĐể nghe thấy lời Ngài?Ai đã chú ý nghe để công bố lời Ngài? Kìa, trận cuồng phong của CHÚA,Cơn giận Ngài đã bừng lên,Cuồng phong xoáy dữ dội,Xoáy cuộn trên đầu kẻ ác. CHÚA sẽ không nguôi giậnCho đến khi nào Ngài thực hiệnHoàn toàn ý định Ngài.Trong những ngày đến,Các ngươi sẽ hiểu tận tường. Ta không sai phái các tiên tri ấy,Thế nhưng chúng vẫn chạy!Ta không phán bảo chúng,Thế mà chúng vẫn nói tiên tri! Nếu chúng có đứng trong hội đồng của Ta,Ắt chúng đã rao truyền lời Ta cho dân Ta,Khiến cho dân Ta xây bỏ đường ác,Và việc làm gian trá.” CHÚA phán:“Ta có phải là Đức Chúa Trời ở gần,Mà không phải là Đức Chúa Trời ở xa sao?” CHÚA phán:“Có ai ẩn mình nơi kín đáoĐến nỗi Ta không thấy được sao?”CHÚA phán:“Có phải Ta hiện diện khắp nơi,Đầy dẫy các tầng trời và đất không? Ta có nghe các tiên tri nhân danh Ta nói tiên tri dối gạt: ‘Tôi chiêm bao! Tôi chiêm bao!’ Điều này tiếp tục trong lòng các tiên tri dối gạt, nói lên sự giả dối của lòng chúng, cho đến khi nào? Chúng chủ mưu làm cho dân Ta quên danh Ta qua những chiêm bao chúng kể cho nhau nghe, y như tổ phụ chúng đã quên danh Ta, theo thần Ba-anh. Tiên tri nào có chiêm bao, hãy kể chiêm bao! Tiên tri nào có lời Ta, hãy rao truyền lời Ta cách trung thực!” CHÚA phán: “Rơm có thể nào ví với thóc được không? CHÚA phán: Lời Ta há không giống như lửa sao? như búa đập tan đá tảng sao?” CHÚA phán: “Này, Ta chống lại các tiên tri ăn cắp lẫn nhau những lời chúng tự xưng là lời Ta.” CHÚA phán: “Này, Ta chống lại các tiên tri dùng lưỡi mình tuyên bố: ‘CHÚA phán.’” CHÚA phán: “Này, Ta chống lại các tiên tri thuật chiêm bao dối gạt, dẫn dân Ta đi lạc với những lời giả dối khinh xuất, trong khi Ta chẳng sai phái, cũng chẳng truyền bảo chúng.” CHÚA phán: “Thật chúng chẳng giúp ích chi cho dân này. Khi dân này, hoặc tiên tri, hoặc thầy tế lễ, hỏi con: ‘Gánh nặng từ CHÚA là gì?’, con hãy đáp: ‘CHÚA phán: chính các ngươi là gánh nặng. Và Ta sẽ ném các ngươi đi.’ Còn tiên tri, thầy tế lễ, hoặc người dân nào nói: ‘Đây là gánh nặng từ CHÚA,’ Ta sẽ phạt người ấy cùng với cả gia đình. Đây là điều các ngươi phải hỏi nhau, người này hỏi người kia: ‘CHÚA giải đáp thế nào?’ hoặc ‘CHÚA phán dạy điều gì?’ Nhưng các ngươi không được nhắc đến ‘gánh nặng từ CHÚA nữa’ vì ‘gánh nặng’ ấy chỉ là lời riêng của mỗi các ngươi, và như vậy, các ngươi bóp méo lời của Đức Chúa Trời Hằng Sống, CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của chúng ta. Đây là điều các ngươi phải hỏi tiên tri: ‘CHÚA trả lời ông thế nào?’ hoặc ‘CHÚA phán dạy điều gì?’ Còn nếu như các ngươi tiếp tục nói: ‘Đây là gánh nặng từ CHÚA,’ thì CHÚA phán như vầy: ‘Vì các ngươi nói lời này: Đây là gánh nặng từ CHÚA,’ trong khi Ta đã sai người đến dạy các ngươi: ‘Đừng nói: Đây là gánh nặng từ CHÚA,’ vì thế, này, chắc chắn Ta sẽ nhấc các ngươi lên, và Ta sẽ ném các ngươi luôn với thành Ta ban cho các ngươi và tổ phụ các ngươi xa khỏi mặt Ta. Và Ta sẽ khiến cho các ngươi chuốc lấy xấu hổ đời đời, nhục nhã mãi mãi, không sao quên được.” Sau khi Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, đem Giê-cô-nia, con trai Giê-hô-gia-kim, vua Giu-đa, cùng với các quan chức Giu-đa, các thợ thủ công, và thợ kim loại, ra khỏi thành Giê-ru-sa-lem, lưu đày qua Ba-by-lôn, CHÚA cho tôi thấy hai giỏ vả đặt trước đền thờ CHÚA. Một giỏ đựng trái vả rất tốt, giống như vả chín đầu mùa, còn giỏ kia đựng trái vả rất xấu, không ăn được vì quá xấu. CHÚA hỏi tôi: “Giê-rê-mi con thấy gì?”Tôi thưa: “Con thấy trái vả, trái tốt thì rất tốt, còn trái xấu thì rất xấu, không ăn được vì quá xấu.” CHÚA phán với tôi: “CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: ‘Ta sẽ lưu ý đến dân Giu-đa, Ta đã đem ra khỏi chốn này, đày qua nước người Canh-đê, để ban phúc lành cho họ giống như loại vả tốt này. Ta sẽ quan tâm đến họ và ban phúc cho họ. Ta sẽ đem họ trở về đất nước này. Ta sẽ xây dựng chứ không lật đổ, Ta sẽ vun trồng chứ không bứng gốc. Ta sẽ ban cho họ tấm lòng để nhận biết Ta là CHÚA. Họ làm dân Ta, và Ta sẽ làm Đức Chúa Trời của họ, vì họ sẽ hết lòng quay về với Ta.’” CHÚA phán như vầy: “Ta sẽ xử Sê-đê-kia, vua Giu-đa, các quan chức, và dân Giê-ru-sa-lem còn sót lại, kể cả những người ở lại trong xứ này, và những người định cư tại Ai-cập, như loại vả xấu, không ăn được vì quá xấu. Ta sẽ làm cho mọi nước trên thế giới kinh tởm chúng, coi chúng như một tai họa, một điều sỉ nhục, một câu tục ngữ, một lời mắng nhiếc, một lời nguyền rủa, ở khắp nơi nào Ta đuổi chúng đến. Ta sẽ sai gươm đao, đói kém, và bệnh dịch hành hại chúng cho đến khi chúng tuyệt diệt khỏi mặt đất mà Ta đã ban cho chúng và tổ phụ chúng.” Năm thứ tư đời Giê-hô-gia-kim, con trai Giô-si-a, vua Giu-đa, tức là năm thứ nhất đời Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, có lời phán với Giê-rê-mi về toàn dân Giu-đa. Tiên tri Giê-rê-mi rao truyền như vầy về toàn dân Giu-đa, và toàn thể dân cư thành Giê-ru-sa-lem: “Từ năm thứ mười ba đời Giô-si-a, con trai A-môn, vua Giu-đa, đến nay, tức là suốt hai mươi ba năm qua, CHÚA có phán dạy tôi; và tôi đã bền lòng rao truyền lời Ngài cho các ông bà, nhưng các ông bà không chịu nghe. CHÚA cũng tiếp tục nhẫn nại sai hết thảy các tôi tớ Ngài, là các tiên tri, đến với các ông bà, nhưng các ông bà không lắng nghe, cũng không chú ý. CHÚA phán: ‘Các ngươi ai nấy hãy xây bỏ con đường tội ác và việc làm gian tà, rồi các ngươi sẽ được sống trên mảnh đất Ta đã ban cho các ngươi và tổ phụ các ngươi, từ nghìn xưa cho đến đời đời. Đừng đi theo phụng sự và thờ lạy các thần khác, cũng đừng xúc phạm đến Ta bằng những công trình tay các ngươi làm ra. Như thế, Ta sẽ không giáng họa cho các ngươi.’ CHÚA phán: ‘Nhưng các ngươi không vâng lời Ta, lại xúc phạm đến Ta bằng những công trình bàn tay các ngươi làm ra. Các ngươi đã tự chuốc họa vào thân.’ Vì thế, CHÚA Vạn Quân phán như vầy: ‘Vì các ngươi không vâng lời Ta, này, Ta sẽ sai toàn thể các bộ lạc phương bắc, luôn cả tôi tớ Ta là Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn. Ta sẽ đem chúng đến đánh xứ này và dân cư trong xứ, cùng tất cả các dân chung quanh đây. Ta sẽ tuyệt diệt chúng, làm cho đất nước chúng tan hoang, đổ nát đến ngàn đời, khiến mọi người phải xuýt xoa kinh hoàng. CHÚA phán vậy. Ta sẽ dập tắt khỏi chúng tiếng vui mừng rộn rã, tiếng chú rể và cô dâu, tiếng xay cối, và ánh đèn. Toàn bộ đất nước này sẽ thành đống đổ nát, điêu tàn, và các dân tộc này sẽ phục dịch vua Ba-by-lôn suốt bảy mươi năm.’ CHÚA phán: ‘Mãn bảy mươi năm, Ta sẽ phạt vua Ba-by-lôn và dân tộc ấy về tội ác của chúng, và Ta sẽ khiến đất nước Canh-đê muôn đời tan hoang. Ta sẽ thực hiện mọi lời Ta phán về đất nước này, mọi lời ghi chép trong sách này, do tiên tri Giê-rê-mi rao truyền nghịch lại mọi dân tộc. Ngay cả chúng cũng phải phục dịch các quốc gia hùng cường và các vua vĩ đại; như vậy, Ta sẽ báo trả chúng tùy theo việc làm của chúng và công trình tay chúng làm ra.’” CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán với tôi: “Con hãy cầm lấy chén rượu, chén thịnh nộ này nơi tay Ta, và cho tất cả các dân tộc Ta sai con đến uống chén ấy. Chúng sẽ uống vào, rồi sẽ ói ra, và hành động điên dại vì lưỡi gươm Ta sai đến giữa chúng.” Vậy tôi nhận chén từ tay CHÚA và cho tất cả các dân tộc CHÚA sai tôi đến uống chén ấy: Thủ đô Giê-ru-sa-lem và các thành phố Giu-đa, cùng các vua và quan chức, để làm chúng trở thành đống đổ nát, điêu tàn, khiến người ta phải xuýt xoa kinh hoàng, và dùng chúng làm câu nguyền rủa, như vẫn còn ngày nay; Pha-ra-ôn, vua Ai-cập, các triều thần, các quan chức, toàn dân Ai-cập, và tất cả các dân hỗn tạp trong xứ; tất cả các vua xứ U-xơ, tất cả các vua xứ Phi-li-tin, gồm các thành Ách-ca-lôn, Ga-xa, Éc-rôn, và phần còn lại của Ách-đốt; Ê-đôm, Mô-áp, và dân Am-môn; tất cả các vua Ty-rơ, tất cả các vua Si-đôn, và các vua vùng hải đảo ngoài biển khơi; xứ Đê-đan, Thê-ma, Bu-xơ, và tất cả các dân cạo tóc ở màng tang; tất cả các vua Ả-rập, và tất cả các vua của những giống dân hỗn tạp sống ở sa mạc; tất cả các vua Xim-ri, tất cả các vua Ê-lam, tất cả các vua Mê-đi; tất cả các vua các nước phương bắc, dù gần hay xa, và tất cả các vương quốc trên mặt đất. Cuối cùng, vua Si-sách sẽ phải uống chén ấy. Con hãy nói với chúng: “CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: ‘Hãy uống cho say sưa, rồi mửa ra, hãy ngã vật xuống, đừng đứng dậy nữa, vì lưỡi gươm Ta sai đến giữa các ngươi. Còn nếu chúng từ chối, không nhận chén nơi tay con và uống, con hãy nói với chúng: CHÚA Vạn Quân phán: Các ngươi phải uống.’” CHÚA Vạn Quân phán: “Này, Ta khởi sự giáng họa xuống chính thành mang danh Ta. Lẽ nào các ngươi thoát khỏi hình phạt? Không đâu! Các ngươi sẽ bị hình phạt, vì Ta đang sai gươm giáo đến với tất cả dân cư trên đất. Về phần con, hãy rao truyền cho chúng mọi lời ấy, và hãy nói:CHÚA gầm lên từ trên cao,Từ cung điện thánh Ngài gào thét,Ngài gầm rống trên chuồng chiên Ngài,Có tiếng giống như tiếng hò khoan thợ đạp nhoVọng lại trên tất cả dân cư trên đất. Tiếng ầm ầm vọng đến đầu cùng trái đất,Vì CHÚA buộc tội các dân tộc,Ngài xét xử mọi người,Ngài thí kẻ ác cho gươm đao.”CHÚA phán vậy. CHÚA Vạn Quân phán như vầy:“Này, tai họa lan trànTừ nước này đến nước nọ,Bão tố ác liệt nổi dậyTừ các miền cực địa.” Trong ngày ấy, những kẻ bị CHÚA tàn sát sẽ nằm la liệt khắp mặt đất, từ đầu này đến đầu kia, không ai than khóc chúng, cũng không ai gom xác chết lại chôn cất. Chúng sẽ trở thành phân trên mặt đất. “Hỡi những kẻ chăn bầy, hãy than khóc, hãy kêu la,Hỡi các chủ đàn chiên, hãy lăn lộn!Vì đã đến ngày các ngươi phải vào lò sát sinh,Các ngươi sẽ ngã gục như cừu đực chọn lọc. Kẻ chăn bầy không trốn khỏi,Chủ đàn chiên không thoát được. Kìa! Kẻ chăn bầy kêu la,Chủ đàn chiên than khóc,Vì CHÚA phá tan đồng cỏ chúng, Chuồng chiên an lạc nằm tan nátTrước cơn thịnh nộ của CHÚA. Như sư tử rời khỏi hang động,Ngài làm cho đất nước chúng điêu tàn,Trước lưỡi gươm bạo hành,Trước cơn phẫn nộ của CHÚA.” Ngay sau khi Giê-hô-gia-kim, con trai Giô-si-a, vua Giu-đa, vừa lên ngôi trị vì, CHÚA phán lời này với Giê-rê-mi. CHÚA phán như vầy: “Con hãy đứng nơi sân đền thờ, loan báo cho toàn dân Giu-đa đến thờ phượng tại đền thờ tất cả những lời Ta truyền con phải nói với chúng. Con đừng cắt xén lời nào. Biết đâu chúng sẽ nghe theo, ai nấy từ bỏ đường ác mình, quay về với Ta. Bấy giờ Ta sẽ đổi ý về tai họa Ta định giáng xuống chúng vì hành vi gian ác của chúng. Con hãy nói với chúng: CHÚA phán như vầy: ‘Nếu các ngươi không vâng lời Ta, không sống theo Kinh Luật Ta ban cho các ngươi, không nghe lời các tôi tớ Ta, là các tiên tri Ta thường xuyên sai đến với các ngươi nhưng các ngươi vẫn không nghe Ta sẽ khiến đền thờ này giống như Si-lô, và thành này sẽ trở nên lời nguyền rủa cho mọi dân trên đất.’” Các thầy tế lễ, các tiên tri, và toàn dân đều nghe Giê-rê-mi nói những lời ấy ngay trong đền thờ. Khi Giê-rê-mi vừa nói xong mọi lời CHÚA truyền dạy ông nói cho toàn dân, các thầy tế lễ, các tiên tri, và toàn dân đều túm lấy ông, và nói: “Ngươi đáng phải chết! Sao ngươi dám nhân danh CHÚA nói tiên tri rằng đền thờ này sẽ giống như Si-lô, và thành này sẽ tan hoang, không người ở?” Và toàn dân xúm lại vây quanh Giê-rê-mi trong đền thờ. Các quan chức Giu-đa nghe tin ấy liền đi từ hoàng cung lên đền thờ, và ngồi lại mở phiên tòa nơi lối ra vào, tại cổng Mới của đền thờ. Các thầy tế lễ và các tiên tri nói với các quan chức và toàn dân: “Người này đáng bị xử tử vì đã nói tiên tri chống nghịch lại thành này, như chính tai ông đã nghe.” Giê-rê-mi nói với toàn thể các quan chức và toàn dân: “Chính CHÚA đã sai tôi rao truyền mọi lời chống nghịch lại đền thờ này và thành này mà các ông vừa nghe. Vậy bây giờ các ông hãy sửa đổi lối sống và việc làm mình, vâng theo lời CHÚA, Đức Chúa Trời của các ông, rồi CHÚA sẽ đổi ý về tai họa Ngài đã báo trước cho các ông. Về phần tôi, tôi hiện ở trong tay các ông. Các ông hãy xử với tôi theo như các ông cho là đúng và phải. Tuy nhiên, xin các ông nhớ rằng nếu các ông giết tôi chết, thì các ông, thành này, và dân cư trong thành đều mắc phải tội làm đổ huyết vô tội, vì thật chính CHÚA đã sai tôi đến rao mọi lời này vào tai các ông.” Các quan chức và toàn dân tuyên bố với các thầy tế lễ và các tiên tri: “Không được xử tử người này, vì người đã rao báo cho chúng ta, nhân danh CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta.” Vài trưởng lão trong xứ cũng đứng lên nói với toàn thể đám đông: “Dưới triều Ê-xê-chia, vua Giu-đa, có Mi-ca, người làng Mô-rê-sết, đã từng nói tiên tri với toàn dân Giu-đa như vầy: ‘CHÚA Vạn Quân phán:Si-ôn sẽ bị cầy như đồng ruộng,Giê-ru-sa-lem sẽ đổ nát tan hoang,Và hòn núi nơi xây đền thờ chỉ còn trơ một đỉnh cao giữa rừng.’ ‘Vua Ê-xê-chia và toàn dân Giu-đa có ra lệnh xử tử Mi-ca không? Trái lại, có phải vua đã kính sợ CHÚA, và cầu khẩn Ngài, cho nên CHÚA đổi ý, không giáng xuống họ tai họa Ngài đã báo trước, Còn chúng ta đây, chúng ta suýt chuốc họa lớn vào thân!’” Có một người khác cũng đã từng nhân danh CHÚA nói tiên tri. Người này là U-ri, con trai Sê-ma-gia, xuất thân từ thành Ki-ri-át Giê-a-rim. U-ri rao giảng về thành này và đất nước này y như mọi lời Giê-rê-mi đã nói. Khi vua Giê-hô-gia-kim, toàn bộ quân hộ vệ, và toàn thể các quan chức nghe những lời U-ri nói, vua tìm cách thủ tiêu U-ri. Nhưng U-ri nghe tin ấy, hoảng sợ, chạy trốn sang Ai-cập. Vua Giê-hô-gia-kim liền sai En-na-than, con trai Ạc-bồ, cùng vài người nữa qua Ai-cập; họ đem U-ri ra khỏi Ai-cập, giải về cho vua Giê-hô-gia-kim. Vua ra lệnh xử tử U-ri và quăng thây ông vào nghĩa địa thường dân. Tuy nhiên A-hi-cam, con trai Sa-phan, binh vực Giê-rê-mi, không để ông sa vào tay dân chúng. Sau khi Sê-đê-kia, con trai Giô-si-a, vua Giu-đa, lên ngôi trị vì, CHÚA phán lời này với Giê-rê-mi. CHÚA phán với tôi như vầy: “Con hãy chuẩn bị dây bằng da và thanh gỗ ngang làm ách, quàng vào cổ. Con hãy gởi thông điệp này cho các vua Ê-đôm, Mô-áp, Am-môn, Ty-rơ, và Si-đôn, qua các đại sứ đến thành Giê-ru-sa-lem yết kiến Sê-đê-kia, vua Giu-đa. Con hãy bảo các đại sứ tâu lại với chúa của họ như sau: ‘CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Các ngươi hãy tâu lại với chúa các ngươi thế này: Chính Ta đã dùng quyền năng vĩ đại và cánh tay mạnh mẽ làm nên đất cùng loài người và thú vật trên mặt đất. Ta có quyền ban đất cho ai tùy ý. Nay Ta giao tất cả các đất nước này vào tay Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, đầy tớ Ta. Ngay cả các thú rừng Ta cũng ban cho người để phục dịch người. Mọi dân tộc sẽ phục dịch người và con cháu người cho đến khi chính đất nước người phải phục dịch các quốc gia hùng cường và các vua vĩ đại.’” CHÚA phán: “Nhưng dân tộc nào, hoặc quốc gia nào không chịu phục dịch Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, không chịu quàng ách của vua Ba-by-lôn vào cổ mình, Ta sẽ dùng gươm đao, đói kém, và bệnh dịch phạt dân tộc ấy cho đến khi Ta phó chúng cho Nê-bu-cát-nết-sa tận diệt. Về phần các ngươi, đừng nghe lời các tiên tri, thầy bói toán, thầy đoán mộng, thầy chiêm tinh, hoặc thầy phù thủy của các ngươi. Họ luôn nói các ngươi sẽ không phải phục dịch vua Ba-by-lôn đâu. Họ rao truyền cho các ngươi lời tiên tri giả dối, hậu quả là các ngươi sẽ bị diệt vong.” CHÚA phán: “Nhưng dân tộc nào quàng ách vua Ba-by-lôn vào cổ mình, và phục dịch người, Ta sẽ cho dân tộc ấy ở lại trong đất nước mình. Chúng sẽ canh tác và cư trú tại đó.” Tôi cũng nói những lời ấy với Sê-đê-kia, vua Giu-đa: “Xin vua và quần thần quàng vào cổ mình ách của vua Ba-by-lôn, phục dịch người và dân tộc người, để vua và quần thần được sống. Tại sao vua và quần thần phải chết vì gươm đao, đói kém, và bệnh dịch, như CHÚA đã phán dân tộc nào không chịu phục dịch vua Ba-by-lôn phải bị hình phạt thể ấy? Xin vua và quần thần đừng nghe lời các tiên tri tuyên bố rằng vua và quần thần sẽ không phải phục dịch vua Ba-by-lôn đâu, vì họ nói tiên tri giả dối.” CHÚA phán: “Ta không sai phái chúng. Chúng nhân danh Ta nói tiên tri giả dối, hậu quả là Ta sẽ đuổi các ngươi đi, và các ngươi cùng với các tiên tri ấy sẽ bị diệt vong.” Tôi cũng nói với các thầy tế lễ và toàn dân này: “CHÚA phán như vầy: ‘Đừng nghe lời các tiên tri nói với các ngươi rằng các dụng cụ trong đền thờ sẽ sớm được Ba-by-lôn’ trả về, vì chúng nói tiên tri giả dối. Đừng nghe lời chúng. Hãy phục dịch vua Ba-by-lôn để các ngươi được sống. Tại sao thành này phải đổ nát? Nếu thật sự chúng là tiên tri, và có lời của CHÚA, hãy để chúng cầu xin CHÚA Vạn Quân cho các dụng cụ còn lại trong đền thờ, trong cung điện vua Giu-đa, và tại Giê-ru-sa-lem khỏi bị đem qua Ba-by-lôn. Vì CHÚA Vạn Quân phán như vầy về các cột trụ bằng đồng, chậu chứa nước to gọi là bể đồng, và các giá đồng có bánh xe đẩy để kê các chậu nước nhỏ hơn, và các dụng cụ khác còn lại trong thành này, mà Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, không mang theo khi vua đày Giê-cô-nia, con Giê-hô-gia-kim, vua Giu-đa, đi khỏi Giê-ru-sa-lem, qua Ba-by-lôn, cùng với mọi nhà quý tộc trong Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy về các dụng cụ còn sót lại trong đền thờ, trong cung điện vua Giu-đa, và tại Giê-ru-sa-lem: ‘Chúng sẽ bị đem về Ba-by-lôn và giữ tại đó cho đến khi Ta ra lệnh mang chúng trả lại chốn này.’” Ngay trong năm ấy, tức năm thứ tư triều Sê-đê-kia, vua Giu-đa, vào tháng năm, tiên tri Ha-na-nia ở Ghi-bê-ôn, con trai A-xua, nói với tôi tại đền thờ, trước mặt các thầy tế lễ và toàn dân: CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: “Ta đã bẻ ách của vua Ba-by-lôn. Trong vòng hai năm tới, Ta sẽ hoàn lại chốn này mọi dụng cụ trong đền thờ mà Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn đã tước đoạt khỏi chốn này, đem về Ba-by-lôn.” CHÚA phán: “Ta cũng sẽ đem Giê-cô-nia, con trai Giê-hô-gia-kim, vua Giu-đa, và tất cả những người Giu-đa bị đầy qua Ba-by-lôn trở về chốn này, vì Ta sẽ bẻ ách của vua Ba-by-lôn.” Tiên tri Giê-rê-mi đáp lại tiên tri Ha-na-nia trước mặt các thầy tế lễ và toàn dân đang đứng trong đền thờ: “Tốt lắm! Ước gì CHÚA thực hiện điều ấy! Ước gì CHÚA làm ứng nghiệm lời ông nói, đem các dụng cụ trong đền thờ và tất cả những người bị lưu đày trở về nơi này từ Ba-by-lôn. Tuy nhiên, xin ông lắng nghe lời tôi sắp nói với ông và với toàn dân đây: Các đấng tiên tri từ thời xa xưa, trước đời tôi và ông, đã báo trước nạn chiến tranh, thảm họa, và bệnh dịch cho nhiều nước và quốc gia vĩ đại. Còn vị tiên tri nào rao truyền về bình an, thịnh vượng, người ta sẽ biết vị tiên tri ấy thật sự do CHÚA sai phái khi lời ông ta được ứng nghiệm.” Tiên tri Ha-na-nia giật ách ra khỏi cổ tiên tri Giê-rê-mi, bẻ gẫy, và tuyên bố trước mặt toàn dân: “CHÚA phán như vầy: Trong vòng hai năm tới, Ta cũng sẽ cất ách của Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, khỏi cổ mọi dân tộc, và bẻ gẫy y như vậy.” Tiên tri Giê-rê-mi ra về. Sau khi tiên tri Ha-na-nia bẻ gẫy ách ra khỏi cổ tiên tri Giê-rê-mi, CHÚA phán với Giê-rê-mi: “Con hãy đi nói với Ha-na-nia: CHÚA phán như vầy: Ngươi đã bẻ gẫy ách bằng gỗ, nhưng ngươi sẽ làm ách bằng sắt thế vào đó. Vì CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Ta sẽ đặt ách sắt trên cổ mọi dân tộc này, để chúng phục dịch Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn. Chúng sẽ phục dịch người. Ngay cả các thú rừng Ta cũng ban cho người.” Bấy giờ, tiên tri Giê-rê-mi nói với tiên tri Ha-na-nia: “Ông Ha-na-nia, xin ông nghe đây. CHÚA không hề sai phái ông. Chính ông đã làm cho dân này tin cậy những lời giả dối. Vì thế, CHÚA phán như vầy: Này, Ta sẽ đem ngươi đi khỏi dương gian. Ngươi sẽ chết nội trong năm nay, vì ngươi đã rao giảng sự nổi loạn nghịch lại CHÚA.” Tiên tri Ha-na-nia qua đời ngay chính năm ấy, vào tháng bảy. Đây là lời lẽ bức thư tiên tri Giê-rê-mi gửi từ Giê-ru-sa-lem cho các vị trưởng lão bị lưu đày còn sống sót, các thầy tế lễ, các tiên tri, và toàn dân đã bị Nê-bu-cát-nết-sa đày từ Giê-ru-sa-lem qua Ba-by-lôn. Thư viết sau khi vua Giê-cô-nia, bà thái hậu, các thái giám, các quan chức trong Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, các thợ thủ công và kim loại đã bị đày đi khỏi Giê-ru-sa-lem. Thư do Ê-la-sa, con trai Sa-phan, và Ghê-ma-ria, con trai Hinh-kia, chuyển đạt, khi hai ông này được Sê-đê-kia, vua Giu-đa, cử đi qua Ba-by-lôn yết kiến vua Nê-bu-cát-nết-sa. Thư lời lẽ như sau: CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: “Gửi cho tất cả những người Ta đã đày từ Giê-ru-sa-lem qua Ba-by-lôn. Hãy xây nhà mà ở. Hãy trồng vườn cây mà ăn trái. Hãy cưới vợ, sinh con cái. Hãy dựng vợ, gả chồng cho con cái các ngươi, để chúng cũng sinh con cái. Hãy sinh sôi nẩy nở tại đấy, đừng giảm dân số. Hãy tìm cầu sự bình an thịnh vượng cho thành phố, nơi Ta đày các ngươi đến. Hãy vì thành ấy cầu khẩn CHÚA, vì sự bình an thịnh vượng của các ngươi tùy thuộc vào sự bình an thịnh vượng của thành ấy.” Thật vậy, CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: “Đừng để các tiên tri, các thầy bói, ở giữa các ngươi lừa gạt các ngươi. Cũng đừng chú ý đến các điềm chiêm bao chúng nằm mộng thấy, vì chúng nhân danh Ta nói tiên tri dối gạt. Ta không hề sai phái chúng.” CHÚA phán vậy. CHÚA phán như vầy: “Khi thời hạn trọn bảy mươi năm dành cho Ba-by-lôn kết thúc, Ta sẽ thăm viếng các ngươi và thực hiện lời hứa tốt lành Ta ban cho các ngươi: Ta sẽ đem các ngươi trở về nơi này.” CHÚA phán: “Vì chính Ta biết rõ chương trình Ta hoạch định cho các ngươi. Ta có chương trình bình an thịnh vượng cho các ngươi, chứ không phải tai họa. Ta sẽ ban cho các ngươi một tương lai đầy hy vọng. Khi các ngươi kêu cầu Ta, khi các ngươi đến với Ta và nài khẩn Ta, Ta sẽ nhậm lời các ngươi. Các ngươi sẽ tìm kiếm Ta và gặp được, khi các ngươi tìm kiếm Ta hết lòng.” CHÚA phán: “Ta sẽ cho các ngươi gặp được Ta, Ta sẽ phục hồi các ngươi, Ta sẽ tập họp các ngươi lại từ mọi nước và mọi nơi nào Ta đã đuổi các ngươi đi.” CHÚA phán: “Ta sẽ đem các ngươi trở về nơi mà Ta đã đày các ngươi ra đi.” Vì các ngươi nói: “CHÚA có ban tiên tri cho chúng tôi tại Ba-by-lôn.” CHÚA phán như vầy về vua đang ngự trên ngai Đa-vít, và về toàn dân đang sống trong thành này, tức thân bằng quyến thuộc các ngươi không phải đi đày cùng với các ngươi. CHÚA Vạn Quân phán như vầy: “Này, Ta sẽ sai gươm đao, đói kém, và bệnh dịch hành hại chúng, Ta sẽ khiến chúng nên giống như những trái vả hư thối đến nỗi không ăn được. Ta sẽ sai gươm đao, đói kém, và bệnh dịch hành hại chúng, Ta sẽ làm cho mọi nước trên thế giới kinh tởm chúng, coi chúng như một lời nguyền rủa, một vật khủng khiếp, bị xuýt xoa, khinh chê, ở khắp nơi nào Ta đuổi chúng đến.” CHÚA phán: “Vì chúng không vâng lời Ta. Ta đã tiếp tục bền lòng sai các tiên tri, là đầy tớ Ta, đến với chúng, nhưng chúng vẫn không nghe. Nhưng các ngươi là tất cả những người Ta đã đày từ Giê-ru-sa-lem qua Ba-by-lôn, hãy lắng nghe lời của CHÚA.” CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy về A-háp, con trai Cô-la-gia, và Sê-đê-kia, con trai Ma-a-sê-gia, là những kẻ nhân danh Ta nói với các ngươi lời tiên tri dối gạt: “Này, Ta sẽ phó chúng vào tay Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, và chúng sẽ bị hành hình ngay trước mắt các ngươi. Hết thảy những người Giu-đa bị đày đang sống ở Ba-by-lôn sẽ dùng chúng làm lời nguyền rủa: ‘CHÚA phạt ngươi như Sê-đê-kia và A-háp, bị vua Ba-by-lôn quay chín trong lửa.’ Vì chúng đã phạm tội đồi bại giữa cộng đồng dân Y-sơ-ra-ên, chúng đã thông dâm với vợ người lân cận, và nhân danh Ta nói lời dối gạt mà Ta không phán dạy chúng. Chính Ta đã biết và làm chứng về điều ấy.” CHÚA phán vậy. Con hãy bảo Sê-ma-gia ở Nê-hê-lam: “CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Ngươi đã nhân danh mình viết thư cho toàn dân tại Giê-ru-sa-lem, cho thầy tế lễ Sô-phô-ni, con trai Ma-a-sê-gia, và cho tất cả các thầy tế lễ như sau: CHÚA đã lập ông làm thầy tế lễ thay cho Giê-hô-gia-đa, để quản đốc đền thờ. Ông có trách nhiệm ra lệnh cùm tay chân và tra gông vào cổ bất cứ người nào điên dại dở trò nói tiên tri. Thế tại sao ông không khiển trách Giê-rê-mi ở A-na-tốt là người đang giở trò nói tiên tri giữa vòng các ông? Hắn dám viết thư cho chúng tôi tại Ba-by-lôn bảo rằng: ‘Thời gian lưu đày còn dài. Hãy xây nhà mà ở, hãy trồng vườn cây mà ăn trái.’” Khi thầy tế lễ Sô-phô-ni đọc thư này cho tiên tri Giê-rê-mi, CHÚA phán với Giê-rê-mi: “Con hãy viết thư gửi toàn dân lưu đày như vầy: CHÚA phán như vầy về Sê-ma-gia ở Nê-hê-lam: ‘Vì Sê-ma-gia nói tiên tri với các ngươi, làm cho các ngươi tin lời giả dối, dù Ta không hề sai phái nó,’ vì thế CHÚA phán như vầy: ‘Ta sẽ phạt Sê-ma-gia ở Nê-hê-lam và dòng dõi nó. Nó sẽ không còn ai sống sót giữa vòng dân này, và nó sẽ không thấy được phúc lành Ta ban cho dân Ta, vì nó đã rao giảng sự nổi loạn nghịch lại CHÚA.’” CHÚA phán vậy. Đây là lời CHÚA phán với Giê-rê-mi. CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: “Con hãy ghi chép mọi lời Ta truyền dạy con vào một cuộn da.” CHÚA phán: “Vì sẽ có ngày Ta phục hưng dân Ta, cả Y-sơ-ra-ên và Giu-đa.” CHÚA phán: “Và Ta sẽ đem chúng trở về chiếm hữu đất nước Ta đã ban cho tổ phụ chúng.” Đây là lời CHÚA phán với dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa. CHÚA phán như vầy:“Ta nghe tiếng hét kinh hoàng,Tiếng hoảng sợ, chẳng có sự bình an. Hãy dò hỏi, xem xét:Đàn ông có sinh đẻ không?Thế tại sao Ta thấy mọi người nam,Mặt tái xanh,Hai tay ôm bụng như phụ nữ chuyển dạ? Ôi! Ngày ấy kinh khiếp làm sao!Chưa hề có ngày nào như vậy!Đó là thời kỳ hoạn nạn cho Gia-cốp,Nhưng nó sẽ được cứu thoát.” CHÚA Vạn Quân phán:“Ngày ấy, Ta sẽ bẻ ách khỏi cổ ngươi,Ta sẽ bứt dây ngươi,Ngươi sẽ không còn phục dịch người nước ngoài nữa. Nhưng các ngươi sẽ phụng sự CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi,Và Đa-vít là vuaTa sẽ lập lên cho các ngươi.” CHÚA phán:“Còn ngươi, hỡi Gia-cốp, đầy tớ Ta, đừng sợ!Hỡi Y-sơ-ra-ên, đừng kinh khiếp!Vì Ta sẽ giải thoát ngươi khỏi miền xa xăm,Dòng dõi ngươi khỏi đất lưu đày.Gia-cốp lại sẽ được an cư lạc nghiệp,Không còn sợ hãi ai cả.” CHÚA phán:“Vì Ta hằng ở với ngươi để giải cứu ngươi.Ta tuyệt diệt mọi dân tộc,Ở nơi Ta tản mát các ngươi,Nhưng Ta sẽ chẳng tuyệt diệt ngươi.Ngươi sẽ không tránh khỏi hình phạt,Nhưng Ta sẽ sửa phạt ngươi cách chừng mực.” CHÚA phán như vầy:“Sự đổ nát của ngươi không thể hàn gắn,Vết thương ngươi không thể chữa lành. Không ai bào chữa cho ngươi,Không có thuốc trị cơn đau nhức của ngươi,Vết thương ngươi không kéo da non. Mọi tình nhân ngươi đã quên ngươi,Chúng không còn đoái hoài đến ngươi nữa.Ta đã đánh ngươi như kẻ thù đánh,Ta đã phạt ngươi như kẻ hung bạo phạt,Vì tội ác ngươi quá nặng,Tội lỗi ngươi quá nhiều. Sao ngươi còn kêu than vì sự đổ nát của ngươi,Vì cơn đau ngươi vô phương cứu chữa?Ta đã đối xử với ngươi như thếVì tội ác ngươi quá nặng, tội lỗi ngươi quá nhiều. Nhưng mọi kẻ ăn nuốt ngươi sẽ bị ăn nuốt,Mọi kẻ thù ngươi sẽ phải đi đày,Những kẻ cướp giật ngươi sẽ bị cướp giật,Mọi kẻ cướp bóc ngươi Ta sẽ phó cho kẻ cướp bóc.” CHÚA phán:“Dù chúng gọi ngươi là: ‘Si-ôn bị ruồng bỏ,Không ai đoái hoài đến nó,’Ta sẽ khiến cho vết thương ngươi kéo da non,Ta sẽ chữa lành thương tích ngươi.” CHÚA phán như vầy:“Này, Ta sẽ phục hồi các lều trại của Gia-cốp,Ta sẽ thương xót nơi cư trú của nó.Thủ đô sẽ được xây lại trên gò đổ nát xưa,Đền đài sẽ được dựng lại đúng vị trí cũ. Từ giữa chúng sẽ vang lên bài ca cảm tạVà tiếng reo mừng hoan hỉ.Ta sẽ cho chúng sinh sôi nẩy nở,Chứ không giảm dân số,Ta sẽ cho chúng được tôn trọng,Chứ không yếu hèn. Con cái chúng sẽ lại như thuở xưa,Cộng đồng chúng sẽ được vững lập trước mặt Ta.Ta sẽ trừng phạt mọi kẻ hà hiếp chúng. Lãnh tụ của chúng sẽ xuất phát từ dòng dõi chúng,Người cai trị chúng sẽ ra từ giữa vòng chúng.Ta sẽ cho phép người đến gần,Để người có thể đến gần Ta.Vì ai dám liều mạng mình đến gần Ta?”CHÚA phán vậy. “Như thế, các ngươi sẽ là dân Ta,Và Ta sẽ là Đức Chúa Trời các ngươi. Kìa, trận cuồng phong của CHÚA,Cơn giận Ngài đã bừng lên,Cuồng phong quét sạch,Xoáy cuộn trên đầu kẻ ác. CHÚA sẽ không nguôi giậnCho đến khi nào Ngài thực hiệnHoàn toàn ý định Ngài.Trong những ngày đến,Các ngươi sẽ hiểu tận tường.” CHÚA phán: “Đến thời ấy, Ta sẽ là Đức Chúa Trời của mọi chi tộc Y-sơ-ra-ên, và chúng sẽ là dân Ta.” CHÚA phán như vầy:“Một dân tộc thoát khỏi gươm đaoĐã nhận được ân huệ trong sa mạc.Khi dân Y-sơ-ra-ên khao khát tìm nơi an nghỉ, thời xa xưa ấy, CHÚA đã hiện ra với chúng:‘Ta đã yêu con với tình yêu muôn thuở,Vì thế, Ta vẫn tiếp tục bền lòng yêu con. Hỡi Y-sơ-ra-ên, con gái đồng trinh của Ta!Ta sẽ xây dựng con lại, để rồi con sẽ được xây dựng lại,Con lại sẽ trang sức bằng trống cơm,Và ra đi nhảy múa với đoàn người hoan hỉ. Con lại sẽ trồng vườn nhoTrên các sườn đồi Sa-ma-ri,Và người trồngSẽ được ăn quả.’ Vì sẽ có ngày những người canh gácTrên núi Ép-ra-im sẽ kêu lên:‘Nào, chúng ta hãy lên núi Si-ônThờ phượng CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta!’” Vì CHÚA phán như vầy:“Hãy vì Gia-cốp mà vui mừng ca hát,Hãy reo hò vì dân tộc hàng đầu này.Hãy tôn vinh chúc tụng vang rền:‘CHÚA đã giải cứu dân Ngài,Những người còn sống sót trong dân Y-sơ-ra-ên!’ Này, Ta sẽ đem chúng về từ phương bắc,Ta sẽ tập họp chúng từ nơi đầu cùng đất,Cả người mù lẫn người què,Đàn bà thai nghén và đàn bà chuyển bụng,Một đoàn người đông đảo sẽ trở về đây. Chúng sẽ khóc lóc trở về,Nhưng Ta sẽ an ủi chúng và dẫn dắt chúng.Ta sẽ dìu chúng bên các dòng sông,Trên con đường bằng phẳng, chúng sẽ không vấp ngã.Vì Ta là cha của Y-sơ-ra-ên,Và Ép-ra-im là con đầu lòng của Ta. Hỡi các dân, hãy lắng nghe lời CHÚA!Hãy rao lời Ngài ra tận các hải đảo xa xăm!Đấng đã làm tản mát dân Y-sơ-ra-ên sẽ tập họp chúng lại,Và chăm sóc chúng như người chăn canh giữ bầy chiên của mình. Vì CHÚA đã giải cứu Gia-cốp,Và chuộc chúng khỏi tay những kẻ mạnh hơn chúng. Chúng sẽ đến reo vui trên đỉnh núi Si-ôn,Mặt mày sáng rỡ vì CHÚA ban phúc lành dồi dào:Nào thóc, rượu mới, và dầu,Nào chiên con và bê.Chúng sẽ như vườn cây đượm nước,Không còn u sầu tàn héo nữa. Bấy giờ, các trinh nữ sẽ vui mừng nhảy múa,Thanh niên và bô lão sẽ hoan hỉ.Ta sẽ biến tang chế ra vui mừng,Ta sẽ an ủi chúng, và ban cho chúng niềm vui thay vì sầu thảm.” CHÚA phán:“Ta sẽ cho các thầy tế lễ no nê với chất béo,Và dân Ta thỏa dạ với thức ăn dư dật.” CHÚA phán như vầy:“Có tiếng than khóc tại Ra-ma,Tiếng khóc lóc xót xa.Đó là Ra-chên thương khóc con cái mình,Nỗi buồn thương khôn nguôi,Vì con cái bà không còn nữa.” CHÚA phán như vầy:“Con hãy ngưng tiếng khóc,Mắt con hãy ráo lệ.”CHÚA phán:“Vì sẽ có phần thưởng cho công khó của con,Con cái con sẽ trở về từ đất quân thù.” CHÚA phán:“Có hy vọng cho thế hệ mai sau,Con cái con sẽ trở về bờ cõi mình. Ta thật có nghe tiếng Ép-ra-im than khóc:‘Con giống như con bê chưa thuần ách,Chúa đã sửa dạy con, và con đã chịu sửa dạy.Xin Chúa đem con về, để rồi con sẽ được trở về,Vì CHÚA là Đức Chúa Trời của con. Sau khi con quay đi khỏi Chúa,Con đã ăn năn,Sau khi con hiểu biết,Con vỗ đùi tiếc nuối,Con xấu hổ tủi nhục,Con chịu sỉ nhục do tội phạm thời niên thiếu.’” CHÚA phán:“Ép-ra-im có phải là con trai Ta yêu quý,Nâng niu không?Mỗi khi Ta nhắc đến nó,Ta nhớ nó da diết,Lòng Ta xúc động vì nó,Ta chắc chắn sẽ thương xót nó. Hãy đắp đá làm mốc,Hãy dựng bảng chỉ đường.Hãy kiểm soát đường cái quan,Là đường con đã đi qua.Hỡi trinh nữ Y-sơ-ra-ên, hãy trở về!Hãy về lại các thành của con! Hỡi con gái bội bạc,Con còn phân tâm cho đến khi nào?Vì CHÚA đã tạo dựng một điều mới lạ trên đất:Người nữ sẽ bảo bọc người nam.” CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: “Khi Ta khôi phục vận mạng đất nước chúng, chúng lại sẽ nói lời này trong các thành trì xứ Giu-đa: ‘Hỡi nơi cư trú công chính, hỡi núi thánh, cầu xin CHÚA ban phúc lành cho ngươi! Tá điền và người chăn bầy sẽ sống chung tại đấy, trong Giu-đa và khắp các thành trì. Vì Ta sẽ cho người mệt xỉu hết khát, và mọi người mòn sức được no đủ.’” Lúc ấy, tôi thức giấc, nhìn quanh. Tôi đã ngủ một giấc thật ngon lành. CHÚA phán: “Trong những ngày tới, Ta sẽ gieo giống người và giống súc vật trong nhà Y-sơ-ra-ên và nhà Giu-đa.” CHÚA phán: “Y như Ta đã thức canh để bứng gốc và phá sập, để phá đổ và hủy diệt, để giáng họa, Ta sẽ thức canh để xây dựng và vun trồng. Đến ngày ấy, sẽ không còn ai nói nữa:Cha mẹ ăn nho chua,Con cái ê răng. Nhưng mỗi người sẽ chết vì tội mình phạm. Người nào ăn nho chua phải chịu ê răng.” CHÚA phán:“Trong những ngày tới,Ta sẽ lập giao ước mớiVới nhà Y-sơ-ra-ênVà nhà Giu-đa. Giao ước này sẽ không giống như giao ướcTa đã lập với tổ phụ chúngNgày Ta cầm tay dìu họ ra khỏi Ai-cập.Họ đã bội giao ước Ta, trong khi Ta là Chúa họ.”CHÚA phán vậy. CHÚA phán:“Nhưng đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Y-sơ-ra-ênSau những ngày ấy.Ta sẽ đặt luật Ta trong lòng chúng.Ta sẽ viết luật ấy trên tim chúng.Ta sẽ là Đức Chúa Trời của chúng,Và chúng sẽ là dân Ta.” CHÚA phán:“Bạn bè hàng xómHoặc anh em họ hàng không cần phải dạy bảo nhau: ‘Hãy nhìn biết CHÚA.’Từ người thấp hèn nhất đến người sang trọng nhất,Hết thảy chúng đều sẽ biết Ta,Vì Ta sẽ tha thứ tội ác chúng,Và Ta sẽ không còn nhớ tội lỗi chúng nữa.” CHÚA, là Đấng ban mặt trờiChiếu sáng ban ngày,Là Đấng định cho mặt trăng và ngôi saoSoi sáng ban đêmLà Đấng khuấy động biển cả,Khiến cho sóng gió gào,Danh Ngài là CHÚA Vạn Quân,phán như vầy: “Nếu khi nào Ta hủy bỏ các định luật này,Thì bấy giờ dòng dõi Y-sơ-ra-ên đời đờiSẽ không còn là một dân tộc trước mặt Ta nữa.”CHÚA phán vậy. CHÚA phán như vầy:“Nếu có ai đo được các tầng trời trên cao,Hoặc dò thấu các nền móng địa cầu bên dưới,Thì bấy giờ Ta sẽ từ bỏ hết thảy dòng dõi Y-sơ-ra-ênVì mọi điều chúng làm.”CHÚA phán vậy. CHÚA phán: “Sẽ có ngày, vì Ta, thành này sẽ được xây lại từ Tháp Ha-na-nên cho đến cổng Góc. Dây đo sẽ kéo thẳng đến đồi Ga-rép đối ngang đấy, và bọc quanh Gô-a. Toàn thung lũng, nơi chứa xác chết và tro, và hết thảy các vườn đắp dọc theo sườn đồi đến suối Khít-rôn, và góc Cổng Ngựa ở phía đông, đều sẽ được thánh hóa cho CHÚA. Thành sẽ không bao giờ bị đào móng hoặc phá đổ nữa.” CHÚA phán dạy Giê-rê-mi vào năm thứ mười triều Sê-đê-kia, vua Giu-đa, tức năm thứ mười tám triều Nê-bu-cát-nết-sa. Lúc ấy, quân đội vua Ba-by-lôn đang vây hãm thành Giê-ru-sa-lem, còn tiên tri Giê-rê-mi bị giam giữ tại sân vệ binh, gắn liền với cung điện vua Giu-đa. Sê-đê-kia, vua Giu-đa, đã ra lệnh tống giam Giê-rê-mi, vì vua có hỏi Giê-rê-mi: “Tại sao ngươi dám nói tiên tri: CHÚA phán như vầy: ‘Ta sẽ phó thành này vào tay vua Ba-by-lôn, và thành sẽ bị chiếm đóng. Còn Sê-đê-kia, vua Giu-đa, sẽ không thoát khỏi tay quân Canh-đê, nhưng chắc chắn sẽ bị phó vào tay vua Ba-by-lôn, sẽ nhìn thấy người tận mắt, và sẽ đối đáp với người, mặt đối mặt. Sê-đê-kia sẽ bị giải về Ba-by-lôn, và sẽ ở tại đấy cho đến khi Ta xử lý nó. Các ngươi có kháng cự anh dũng đến đâu cũng không thắng được quân Canh-đê. CHÚA phán vậy.’” Giê-rê-mi thuật: “CHÚA phán dạy tôi: ‘Này, Ha-na-mê-ên, con Sa-lum, chú con, sẽ đến gặp con và nói: Xin anh mua lại thửa ruộng của tôi tại A-na-tốt, vì anh có quyền chuộc lại thửa ruộng ấy.’” Đúng như lời CHÚA phán dạy, Ha-na-mê-ên, con chú tôi, đến sân vệ binh gặp tôi và nói: “Xin anh mua lại thửa ruộng của tôi tại A-na-tốt, thuộc địa phận Bên-gia-min, vì anh có quyền chuộc lại và sở hữu ruộng ấy. Xin anh mua giúp tôi.”Bấy giờ tôi nhận biết đấy là lời CHÚA. Thế là tôi mua thửa ruộng của Ha-na-mê-ên, con chú tôi, tại A-na-tốt, và tôi cân cho nó mười bẩy sê-ken bạc. Tôi viết tờ khế, đóng dấu niêm phong, mời người làm chứng, và cân đủ số bạc. Tôi cầm tờ khế mua, gồm cả bản niêm phong có ghi điều kiện mua bán, và bản để ngỏ, giao cho Ba-rúc, con trai Nê-ri-gia, cháu Ma-a-sê-gia, trước mặt Ha-na-mê-ên, con chú tôi, và các nhân chứng ký tên trong tờ khế mua, và hết thảy những người Giu-đa đang ngồi trong sân vệ binh. Tôi căn dặn Ba-rúc trước mặt họ: “CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Người hãy cầm lấy các bản này, tức tờ khế mua này, bản niêm phong và bản để ngỏ, đem cất trong một bình gốm, để có thể lưu lại một thời gian dài về sau.” Vì CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: “Người ta sẽ lại mua bán nhà cửa, ruộng đất, và vườn nho trong xứ này.” Sau khi tôi giao tờ khế mua cho Ba-rúc, con Nê-ri-gia, tôi cầu nguyện với CHÚA: “Ôi! Lạy CHÚA, Ngài đã dùng quyền năng vĩ đại và cánh tay dang thẳng tạo dựng trời đất. Không có việc chi quá khó cho Ngài. Ngài hằng bày tỏ tình yêu bền vững đến ngàn đời, nhưng Ngài phạt tội của cha mẹ đến đời con cháu. Ngài là Đức Chúa Trời vĩ đại, quyền năng. Danh Ngài là CHÚA Vạn Quân. Ngài có chương trình cao cả, Ngài thực hiện những việc diệu kỳ. Mắt Ngài nhìn thấy mọi đường lối của loài người. Ngài thưởng phạt mọi người tùy theo nếp sống và công việc họ làm. Ngài đã thực hiện những điều kỳ diệu và những việc nhiệm mầu tại xứ Ai-cập. Ngài vẫn tiếp tục thi thố quyền phép cho đến ngày nay, cả trong xứ Y-sơ-ra-ên, cũng như trên toàn thế giới, đến nỗi ngày nay, mọi người đều biết đến danh Ngài. Ngài đã dùng những điềm kỳ diệu và những việc nhiệm mầu, bàn tay mạnh mẽ và cánh tay dang thẳng, gây ra nỗi kinh khiếp lớn lao để dẫn dắt dân Ngài, tức dân Y-sơ-ra-ên, ra khỏi Ai-cập. Ngài đã ban cho chúng đất nước này, mà Ngài đã hứa ban cho tổ phụ chúng, một xứ tuôn tràn sữa và mật. Nhưng khi chúng tiến vào và chiếm được xứ, chúng không vâng lời Ngài. Chúng không sống theo kinh luật của Ngài. Chúng không thi hành bất cứ một điều gì trong mọi điều Ngài truyền dạy. Vì thế Ngài đã giáng tất cả những tai họa này xuống. Kìa quân Canh-đê vây đánh thành đang đắp mô để chiếm thành. Thành sẽ rơi vào tay chúng đang khi chiến tranh, đói kém, và bệnh dịch hoành hành. Điều Ngài phán đã xảy ra, và chính Ngài nhìn thấy. Thế mà, ôi lạy CHÚA, trong khi thành đã bị phó vào tay quân Canh-đê, chính Ngài lại bảo con: ‘Con hãy dùng bạc mua thửa ruộng, và mời người làm chứng.’” CHÚA phán với Giê-rê-mi: “Này, Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của cả nhân loại. Có việc chi khó quá cho Ta chăng?” Vì thế, CHÚA phán như vầy: “Ta sẽ phó thành này vào tay quân Canh-đê, và vào tay Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn. Người sẽ chiếm lấy thành. Quân Canh-đê đang vây đánh thành này sẽ phóng hỏa đốt thành, và thiêu trụi nhà cửa nơi dân chúng xúc phạm đến Ta, lên sân thượng cúng tế cho Ba-anh, và cúng rượu lễ cho các thần khác.” CHÚA phán: “Thật vậy, ngay từ khi mới dựng nước, dân Y-sơ-ra-ên và dân Giu-đa chỉ làm toàn điều ác trước mặt Ta. Thật dân Y-sơ-ra-ên chỉ biết xúc phạm đến Ta với công trình tay chúng làm. Thật từ ngày được xây dựng cho đến nay, thành này đã gây cho Ta nổi giận và phẫn nộ đến nỗi Ta phải quyết định loại trừ nó ra khỏi mặt Ta, vì dân Y-sơ-ra-ên và dân Giu-đa đã xúc phạm đến Ta với mọi điều ác chúng làm, nào chúng, nào các vua, các quan chức, các thầy tế lễ, và các tiên tri của chúng, cùng với dân Giu-đa và dân cư thành Giê-ru-sa-lem. Chúng đã quay lưng lại với Ta, thay vì quay mặt. Dù Ta tiếp tục nhẫn nại khuyên dạy chúng, chúng vẫn không nghe theo, không chịu sửa dạy. Chúng đã đặt những vật gớm ghiếc ngay trong đền thờ mang danh Ta, và do đó làm ô uế đền thờ, chúng xây miếu thờ Ba-anh trong thung lũng Ben Hin-nôm, để dâng con trai con gái chúng cho Mô-léc. Đó là điều Ta chẳng hề truyền dạy. Ta cũng chẳng hề nghĩ chúng có thể làm việc gớm ghiếc dường ấy để gây cho dân Giu-đa phạm tội. Vì thế, bây giờ CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy về thành này, mà con đã nói, ‘Thành sẽ rơi vào tay vua Ba-by-lôn đang khi chiến tranh, đói kém, và bệnh dịch hoành hành;’ Này, Ta sẽ tập họp chúng lại từ mọi đất nước Ta đã đuổi chúng đến trong khi Ta nổi giận, phẫn nộ, và đùng đùng thịnh nộ. Ta sẽ đem chúng trở về chốn này, cho chúng lập nghiệp yên ổn tại đây. Bấy giờ, chúng sẽ là dân Ta, và Ta sẽ là Đức Chúa Trời của chúng. Ta sẽ ban cho chúng cùng một ý chí và một mục đích duy nhất, ấy là kính sợ Ta trọn đời, để chúng và con cháu chúng sau này được phước lành. Ta sẽ lập với chúng một giao ước đời đời, Ta sẽ không hề lìa bỏ chúng, hoặc ngưng ban phước cho chúng. Ta sẽ đặt vào lòng chúng niềm kính sợ Ta, để chúng không xây khỏi Ta. Ta sẽ vui mừng vì chúng, Ta sẽ vui mà ban phước cho chúng. Với tất cả ý chí và tấm lòng của Ta, Ta quyết chắc sẽ trồng chúng trong đất nước này.” CHÚA phán như vầy: “Như Ta đã giáng tất cả những tai họa thảm khốc đó xuống dân này, Ta sẽ ban cho chúng mọi phước lành Ta hứa với chúng hiện giờ. Người ta lại sẽ mua bán ruộng nương trong đất nước này mà con đã nói, ‘Không một bóng người và thú. Đất nước điêu tàn, bị phó vào tay quân Canh-đê.’ Người ta sẽ dùng bạc mua ruộng, viết khế ước mua bán, đóng dấu, niêm phong, và mời người làm chứng, tại trong lãnh thổ Bên-gia-min, các vùng phụ cận thành Giê-ru-sa-lem, các thành phố Giu-đa, các thành vùng đồi núi, vùng Sơ-phê-la, và vùng Nê-ghép. Vì Ta sẽ cho chúng được hưng thịnh trở lại.” CHÚA phán vậy. CHÚA phán với Giê-rê-mi lần thứ nhì, trong khi ông vẫn còn bị giam giữ tại sân vệ binh. CHÚA, là Đấng tạo dựng, nắn nên, và lập cho vững bền mọi vật, danh Ngài là CHÚA, phán như vầy: “Con hãy kêu cầu Ta, Ta sẽ đáp lời con. Ta sẽ tỏ cho con những việc con chưa từng biết, những việc lớn lao và cao siêu, không ai đạt thấu.” CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy về nhà cửa trong thành này và cung điện các vua Giu-đa đã bị phá đổ để làm tuyến phòng thủ chống lại các mô và gươm giáo của quân Canh-đê đang vây hãm thành. Những nơi nhà cửa bị phá sập này lại đầy xác chết của những người bị Ta đánh phạt trong cơn phẫn nộ, khi Ta che mặt, không thèm nhìn thành này nữa, vì tất cả việc ác chúng làm: “Ta sẽ phục hồi sức khỏe, chữa lành cho thành; Ta sẽ chữa lành cho dân chúng, và ban cho chúng thái bình thịnh vượng. Ta sẽ cho Giu-đa và Y-sơ-ra-ên được hưng thịnh trở lại; Ta sẽ xây dựng đất nước chúng như thuở trước. Ta sẽ tẩy sạch mọi tội ác chúng đã phạm, và tha thứ mọi việc gian ác chúng đã làm chống nghịch Ta. Thành phố này sẽ mang lại cho Ta danh tiếng, sự vui mừng, ca ngợi, và vinh quang trước mặt tất cả các nước khác trên thế giới, khi chúng nghe tin về mọi phước lành Ta ban cho Giu-đa và Y-sơ-ra-ên. Các nước ấy cũng sẽ run sợ trước tất cả những phước lành và an ninh thịnh vượng Ta ban cho thành này.” CHÚA phán như vầy: “Con nói về chốn này, ‘Nó đổ nát, không một bóng người và thú.’ Chính trong các thành Giu-đa và các đường phố Giê-ru-sa-lem điêu tàn, không người ở, cũng chẳng có một con thú nào, sẽ lại nghe tiếng vui mừng rộn rã, tiếng chú rể và cô dâu, tiếng của những người mang tế lễ cảm tạ vào đền thờ CHÚA, vừa đi vừa hát:‘Hãy cảm tạ CHÚA Vạn Quân,Vì CHÚA nhân từ,Vì tình yêu bền vững của Ngài còn đến đời đời!’”CHÚA phán: “Vì Ta sẽ cho đất nước này hưng thịnh trở lại như xưa.” CHÚA Vạn Quân phán: “Tại chốn đổ nát này, không một bóng người và thú, và trong tất cả các thành, lại sẽ có đồng cỏ cho người chăn dẫn bầy mình đến nghỉ ngơi.” CHÚA phán: “Trong các thành vùng đồi núi, vùng Sơ-phê-la, vùng Nê-ghép, các thành thuộc lãnh thổ Bên-gia-min, vùng phụ cận thành Giê-ru-sa-lem, và các thành phố Giu-đa, bầy cừu lại sẽ đi ngang qua dưới bàn tay người đếm.” CHÚA phán: “Trong những ngày đến, Ta sẽ làm trọn lời tốt lành Ta hứa với nhà Y-sơ-ra-ên và nhà Giu-đa.” “Trong những ngày ấy, đến lúc ấy,Ta sẽ khiến cho nhà Đa-vít đâm ra một chồi chính trực,Người sẽ thi hành sự công bình chính trực trong nước. Trong những ngày ấy, Giu-đa được giải cứu,Giê-ru-sa-lem sẽ ở yên ổn,Và sẽ mang tên‘CHÚA là sự chính trực của chúng tôi.’” Vì CHÚA phán như vầy: “Dòng dõi Đa-vít sẽ không bao giờ thiếu người ngự trên ngai của nhà Y-sơ-ra-ên. Các thầy tế lễ dòng Lê-vi cũng sẽ không bao giờ thiếu người túc trực trước mặt Ta để dâng tế lễ toàn thiêu, tế lễ chay, và các tế lễ khác.” CHÚA phán với Giê-rê-mi: CHÚA phán như vầy: “Nếu giao ước Ta lập với ngày và đêm bị phá hủy đến nỗi ngày và đêm không xuất hiện theo kỳ hẹn, bấy giờ giao ước Ta lập với Đa-vít, tôi tớ Ta, mới bị phá hủy, nghĩa là người sẽ không có con cháu ngự trên ngai mình trị vì, và giao ước Ta lập với các thầy tế lễ dòng Lê-vi phụng sự Ta cũng vậy. Ta sẽ làm cho dòng dõi Đa-vít, tôi tớ Ta, và dòng dõi những người Lê-vi phụng sự Ta gia tăng thêm nhiều như sao trên trời không thể đếm được, như cát bãi biển không ai lường được.” CHÚA phán với Giê-rê-mi: “Con có nghe thấy các dân này nói: ‘CHÚA đã chọn hai chi tộc, rồi lại bỏ đi?’ Chúng nó khinh dể dân Ta, không xem dân Ta như là một nước nữa. CHÚA phán như vầy: Nếu Ta không có lập giao ước với ngày và đêm, không ấn định các luật lệ cai quản trời và đất, bấy giờ Ta sẽ từ bỏ dòng dõi Gia-cốp và Đa-vít, tôi tớ Ta, và sẽ không chọn ai trong dòng dõi người để trị vì trên con cháu Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp. Thật Ta sẽ cho chúng được hưng thịnh trở lại, và Ta sẽ thương xót chúng.” CHÚA phán với Giê-rê-mi trong khi Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, và toàn quân đội người, cùng với mọi vương quốc trên đất, và mọi dân tộc dưới quyền người đang vây hãm thành Giê-ru-sa-lem và tất cả các thành phụ cận. CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: “Con hãy đi nói với Sê-đê-kia, vua Giu-đa: ‘CHÚA phán như vầy: Này, Ta sắp nộp thành này vào tay vua Ba-by-lôn, người sẽ phóng hỏa đốt thành. Còn ngươi, ngươi sẽ không thoát khỏi tay người, nhưng chắc chắn ngươi sẽ bị bắt và nộp vào tay người. Ngươi sẽ nhìn thấy vua Ba-by-lôn tận mắt, và sẽ đối đáp với người, mặt đối mặt. Và ngươi sẽ bị giải về Ba-by-lôn. Tuy nhiên, hỡi Sê-đê-kia, vua Giu-đa, hãy lắng nghe lời của CHÚA. CHÚA phán về ngươi như vầy: Ngươi sẽ không tử trận. Ngươi sẽ qua đời bình an. Như dân chúng đã đốt hương an táng các tổ phụ ngươi, tức các vua trị vì trước ngươi, họ cũng sẽ đốt hương an táng ngươi và than khóc: Than ôi, chúa tôi! Chính Ta đã phán lời hứa này.’ Đấy là lời của CHÚA.” Tiên tri Giê-rê-mi thuật lại với Sê-đê-kia, vua Giu-đa, tất cả những lời ấy tại trong thành Giê-ru-sa-lem, trong khi đội quân vua Ba-by-lôn vây đánh thành Giê-ru-sa-lem và tất cả những thành còn đang kháng cự trong Giu-đa, tức La-ki và A-xê-ka. Đó là những thành trì kiên cố duy nhất còn sót lại trong Giu-đa. CHÚA phán với Giê-rê-mi sau khi vua Sê-đê-kia lập giao ước với toàn dân tại Giê-ru-sa-lem, công bố trả tự do cho nô lệ. Mỗi người phải trả tự do cho các nô lệ người Hy-bá, nam hoặc nữ, của mình; không ai được quyền bắt anh chị em người Do Thái mình làm nô lệ. Tất cả các quan chức và toàn dân vâng theo, ký giao ước trả tự do cho nô lệ nam hoặc nữ, không bắt giữ ai làm nô lệ nữa. Chúng vâng theo và trả tự do cho nô lệ mình. Nhưng sau đó chúng đổi ý, bắt những người nô lệ nam và nữ được trả tự do trở về làm nô lệ như cũ. Bấy giờ CHÚA phán với Giê-rê-mi: “CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Khi Ta đem tổ phụ các ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi nhà nô lệ, Ta đã lập giao ước với chúng, dạy rằng: Đến năm thứ bảy, mỗi người trong các ngươi phải trả tự do cho anh chị em người Hy-bá bán thân làm tôi cho mình. Sau khi người ấy giúp việc ngươi được sáu năm, ngươi phải trả tự do cho người. Nhưng tổ phụ các ngươi không vâng lời Ta, cũng không lắng tai nghe. Gần đây các ngươi đã ăn năn và làm điều phải trước mắt Ta. Các ngươi công bố mỗi người trả tự do cho anh chị em mình. Và các ngươi đã lập giao ước trước mặt Ta, ngay trong đền thờ mang danh Ta. Nhưng rồi các ngươi lại đổi ý và làm nhục danh Ta. Mỗi người trong các ngươi bắt các nô lệ nam và nữ được các ngươi trả tự do theo ý muốn trở về làm nô lệ như cũ.” Vì thế, CHÚA phán như vầy: “Chính các ngươi không vâng lời Ta, các ngươi không công bố mỗi người trả tự do cho anh chị em, bạn bè mình. CHÚA phán: Này Ta công bố cho các ngươi tự do sa vào gươm đao, bệnh dịch, và đói kém. Ta sẽ làm cho mọi vương quốc trên đất kinh tởm các ngươi. Những người vi phạm giao ước Ta, không thi hành các điều kiện trong giao ước chúng đã lập trước mặt Ta, Ta sẽ làm cho chúng giống như con bê bị chúng xẻ đôi để đi ngang qua giữa hai phần. Các quan chức Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, các quan thái giám, các thầy tế lễ, và toàn dân trong nước, hết thảy những người nào đi ngang qua giữa hai phần của con bê đều sẽ bị nộp vào tay quân thù chúng, vào tay những kẻ tìm hại mạng sống chúng. Thây chúng sẽ làm thức ăn cho chim trời và thú rừng. Ta cũng sẽ phó Sê-đê-kia, vua Giu-đa, và các quan chức người vào tay quân Ba-by-lôn đang rút đi khỏi các ngươi.” CHÚA phán: “Này Ta sẽ truyền lệnh kéo quân ấy về đánh thành này. Chúng sẽ chiếm được và phóng hỏa đốt thành. Ta sẽ làm cho các thành phố Giu-đa điêu tàn, không người ở.” CHÚA phán với Giê-rê-mi dưới triều Giê-hô-gia-kim, con Giô-si-a, vua Giu-đa: “Con hãy đến nhà gia tộc Rê-cáp, thăm hỏi họ, rồi đưa họ lên đền thờ, vào trong một phòng, mời họ dùng rượu.” Vậy tôi mời Gia-a-xa-nia, con Giê-rê-mi, cháu Ha-bát-xi-nia, anh em ông, và tất cả các con trai ông, cùng toàn thể gia tộc Rê-cáp, và đưa họ lên đền thờ, vào phòng các con trai của Ha-nan, con Gi-đa-lia, người của Đức Chúa Trời, bên cạnh phòng các quan chức triều đình, và ngay trên phòng của Ma-a-sê-gia, con Sa-lum, người canh cổng. Tôi dọn tách và những bầu đầy rượu ra trước mặt những người nam trong gia tộc Rê-cáp, và mời họ: “Mời anh em dùng rượu.” Nhưng họ đáp: “Chúng tôi không hề dùng rượu, vì tổ phụ chúng tôi là Giô-na-đáp, con Rê-cáp, đã truyền dạy chúng tôi: ‘Các con và con cháu các con đừng bao giờ uống rượu. Cũng đừng xây nhà, gieo giống, trồng vườn nho, hoặc tậu những thứ đó. Nhưng các con cứ sống trong lều trại suốt đời để được sống lâu trên đất nơi các con chỉ là khách trọ.’ Và chúng tôi đã vâng theo mọi điều tổ phụ chúng tôi là Giô-na-đáp, con Rê-cáp, truyền dạy. Chúng tôi, vợ chúng tôi, con trai con gái chúng tôi, trọn đời không hề dùng rượu. Chúng tôi cũng không xây nhà để ở, cũng không tậu vườn nho, hoặc ruộng để gieo trồng. Nhưng chúng tôi sống trong lều trại. Chúng tôi đã vâng giữ mọi điều tổ phụ Giô-na-đáp chúng tôi truyền dạy. Nhưng khi Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, tấn công vào đất nước, chúng tôi rủ nhau: ‘Nào, chúng ta hãy đi vào thành Giê-ru-sa-lem để thoát khỏi quân Canh-đê và quân A-ram.’ Vì thế, chúng tôi hiện đang sống trong thành Giê-ru-sa-lem.” Bấy giờ, CHÚA phán với Giê-rê-mi. CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: “Con hãy đi nói với dân Giu-đa và dân cư thành Giê-ru-sa-lem: CHÚA phán: ‘Các ngươi không chịu sửa dạy và vâng lời Ta sao? Giô-na-đáp, con Rê-cáp, đã truyền dạy con cháu đừng uống rượu, và chúng đã vâng theo, không uống rượu cho đến ngày nay. Chúng đã vâng giữ lời truyền dạy của tổ phụ chúng. Còn Ta, Ta đã bền lòng phán dạy các ngươi, nhưng các ngươi không vâng lời Ta. Ta tiếp tục nhẫn nại sai tất cả các đầy tớ Ta là các tiên tri đến khuyên nài các ngươi: Các ngươi ai nấy hãy bỏ đường ác, cải thiện việc làm mình, cũng đừng đi theo phụng sự các thần khác, để các ngươi được sống tiếp tục trên đất Ta ban cho các ngươi và tổ phụ các ngươi. Nhưng các ngươi không lắng tai nghe, cũng không vâng lời Ta. Thật con cháu Giô-na-đáp, con Rê-cáp, đã vâng giữ lời truyền dạy của tổ phụ chúng, nhưng dân này không vâng lời Ta.’ Vì thế, CHÚA, Đức Chúa Trời Toàn Năng, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: ‘Này Ta sẽ giáng xuống dân Giu-đa và dân cư thành Giê-ru-sa-lem mọi tai họa Ta đã báo trước, vì Ta đã phán dạy chúng, nhưng chúng không vâng theo, Ta đã kêu gọi chúng, nhưng chúng không đáp lời.’” Giê-rê-mi nói với gia tộc Rê-cáp: “CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Vì các ngươi đã nghe lời truyền dạy của Giô-na-đáp, tổ phụ các ngươi, vâng giữ và thi hành mọi điều người dạy bảo, cho nên CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: ‘Dòng họ Giô-na-đáp, con Rê-cáp, sẽ mãi mãi có người phụng sự Ta.’” Năm thứ tư triều Giê-hô-gia-kim, con Giô-si-a, vua Giu-đa, CHÚA phán với Giê-rê-mi lời này: “Con hãy lấy một cuộn sách, viết xuống mọi điều Ta phán dạy về Y-sơ-ra-ên, Giu-đa, và tất cả các nước khác, kể từ ngày Ta khởi phán dạy con dưới triều Giô-si-a cho đến ngày nay. Có lẽ khi dân Giu-đa nghe về mọi tai họa Ta định giáng xuống chúng, chúng sẽ ăn năn, ai nấy xây bỏ đường ác mình, và Ta sẽ tha thứ gian ác và tội lỗi chúng.” Giê-rê-mi gọi Ba-rúc đến, và Ba-rúc ghi chép vào cuộn sách mọi điều CHÚA phán với Giê-rê-mi, do chính miệng Giê-rê-mi thuật lại. Giê-rê-mi bảo Ba-rúc: “Tôi bị quản chế, không được phép vào đền thờ. Chính anh hãy lên đền thờ, và trong ngày lễ kiêng ăn, anh hãy đọc những lời CHÚA phán do chính miệng tôi thuật lại và anh đã ghi chép xuống cuộn sách này, cho dân chúng nghe. Anh cũng đọc cho toàn dân Giu-đa từ các thành kéo về nghe nữa. Có lẽ chúng sẽ ăn năn, ai nấy xây bỏ đường ác mình, và CHÚA sẽ nhậm lời chúng cầu khẩn, vì cơn giận và thịnh nộ của CHÚA thật khủng khiếp khi Ngài cảnh cáo dân này.” Ba-rúc, con Nê-ri-gia, làm y theo mọi điều tiên tri Giê-rê-mi dặn bảo, ông lên đền thờ, đọc lời CHÚA trong cuộn sách. Tháng chín, năm thứ năm, triều Giê-hô-gia-kim, con Giô-si-a, vua Giu-đa, toàn dân tại Giê-ru-sa-lem, và hết thảy những người từ các thành khác trong Giu-đa tựu về Giê-ru-sa-lem đều giữ lễ kiêng ăn trước mặt CHÚA. Ba-rúc lên đền thờ, vào phòng của Ghê-ma-ria, con Sa-phan, thư ký triều đình, trên sân thượng, cạnh lối ra vào Cổng Mới của đền thờ. Tại đây, Ba-rúc đọc cho toàn dân nghe lời của Giê-rê-mi trong cuộn sách. Khi Mi-cai-gia, con Ghê-ma-ria, cháu Sa-phan, nghe đọc mọi lời của CHÚA trong cuộn sách, ông liền đi xuống cung vua, vào văn phòng thư ký triều đình, gặp tất cả các quan chức đang ngồi họp: Thư ký triều đình Ê-li-sa-ma, Đê-la-gia, con Sê-ma-gia, En-na-than, con Ạc-bồ, Ghê-ma-ria, con Sa-phan, Sê-đê-kia, con Ha-na-nia, và tất cả quan chức khác. Mi-cai-gia thuật lại cho họ tất cả những lời ông vừa nghe Ba-rúc đọc cho dân chúng trong cuộn sách. Bấy giờ tất cả các quan chức đều sai Giê-hu-đi, con Nê-tha-nia, cháu Sê-lê-mia, chắt Cu-si, đến thưa với Ba-rúc: “Xin ông cầm theo cuộn sách vừa đọc cho dân chúng nghe đó, và đi với tôi.” Ba-rúc, con Nê-ri-gia, cầm cuộn sách đến gặp họ. Họ nói: “Mời ông ngồi. Và xin ông đọc cho chúng tôi nghe.” Vậy Ba-rúc đọc cho họ nghe. Vừa nghe xong mọi lời ấy, họ hoảng sợ nhìn nhau, và nói với Ba-rúc: “Chúng tôi phải tâu lên vua mọi điều này.” Họ hỏi Ba-rúc: “Xin ông cho chúng tôi biết làm sao ông viết được mọi điều này? Có phải ông ta đọc cho ông chép không?” Ba-rúc đáp: “Phải. Ông ấy đọc mọi lời này, và tôi dùng mực chép vào cuộn sách.” Các quan chức nói với Ba-rúc: “Ông và Giê-rê-mi hãy đi ẩn mình, và đừng cho ai biết các ông ở đâu.” Họ cất cuộn sách trong phòng thư ký triều đình Ê-li-sa-ma, rồi đến sân chầu tâu mọi sự lên vua. Vua liền sai Giê-hu-đi đem cuộn sách về. Giê-hu-đi lấy cuộn sách từ phòng thư ký triều đình Ê-li-sa-ma về đọc cho vua nghe và tất cả các quan chức đứng chầu bên vua đều nghe. Bấy giờ là tháng chín, Vua đang ngồi trong cung mùa đông, và lửa đang cháy trong lò sưởi trước mặt vua. Mỗi khi Giê-hu-đi đọc được ba hoặc bốn cột chữ, vua liền dùng dao rọc giấy rọc đứt ra, ném vào lửa trong lò sưởi, cho đến khi trọn cuốn sách cháy rụi trong lò. Vua và tất cả quần thần nghe mọi lời ấy, nhưng không ai hoảng sợ hoặc xé áo. Hơn nữa, En-na-than, Đê-la-gia, và Ghê-ma-ria có nài xin vua đừng đốt cuộn sách, nhưng vua vẫn không nghe. Vua lại truyền lệnh cho hoàng tử Giê-ra-mên, cùng với Sê-ra-gia, con Ách-ri-ên, và Sê-lê-mia, con Áp-đê-ên, đi bắt thư ký Ba-rúc và tiên tri Giê-rê-mi. Nhưng CHÚA đã giấu hai người. Sau khi vua đốt cuộn sách do Ba-rúc ghi chép theo lời Giê-rê-mi đọc, CHÚA phán với Giê-rê-mi: “Con hãy lấy một cuộn sách khác, chép lại y mọi lời đã ghi trong cuộn trước mà Giê-hô-gia-kim, vua Giu-đa, đã đốt rụi. Con hãy nói về Giê-hô-gia-kim, vua Giu-đa, như vầy: ‘CHÚA phán: Ngươi đã đốt cuộn sách này và hỏi: Tại sao ngươi dám viết trong sách rằng vua Ba-by-lôn chắc chắn sẽ đến phá hủy đất nước này, và diệt sạch người và thú?’ Vì thế CHÚA phán về Giê-hô-gia-kim, vua Giu-đa, như vầy: Con cháu nó sẽ không được ngự trên ngai Đa-vít. Thây nó sẽ bị ném ra ngoài, phơi nắng ban ngày và dầm sương giá ban đêm. Ta sẽ hình phạt nó, dòng dõi nó, và quần thần nó vì tội ác của chúng. Ta sẽ giáng xuống chúng nó, xuống dân cư thành Giê-ru-sa-lem, và dân Giu-đa tất cả những tai họa Ta đã báo trước cho chúng, nhưng chúng không chịu nghe.” Giê-rê-mi lấy một cuộn sách khác, trao cho thư ký Ba-rúc, con Nê-ri-gia. Giê-rê-mi đọc lại cho Ba-rúc chép tất cả những lời trong cuộn sách mà Giê-hô-gia-kim, vua Giu-đa, đã đốt. Ông cũng đọc thêm nhiều lời khác tương tự như vậy nữa. Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, lập Sê-đê-kia, con Giô-si-a, làm vua nước Giu-đa thế cho Cô-nia, con Giê-hô-gia-kim. Nhưng cả vua Sê-đê-kia, quần thần, và dân trong nước, không một ai chú ý đến lời CHÚA phán qua tiên tri Giê-rê-mi. Tuy nhiên, vua Sê-đê-kia sai Giê-hu-can, con Sê-lê-mia, và thầy tế lễ Sô-phô-ni, con Ma-a-sê-gia, đến thưa với tiên tri Giê-rê-mi: “Xin ông vì chúng tôi cầu khẩn CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta.” Lúc ấy, Giê-rê-mi chưa bị giam cầm nên còn đi lại tự do giữa dân chúng. Quân Canh-đê đang vây hãm thành Giê-ru-sa-lem, nghe tin quân của Pha-ra-ôn đã tiến ra khỏi Ai-cập, liền rút đi khỏi thành. Bấy giờ CHÚA phán với tiên tri Giê-rê-mi: “CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Vua Giu-đa đã sai các ngươi đến cầu hỏi ý Ta. Hãy tâu lại như vầy: ‘Quân đội của Pha-ra-ôn đã tiến lên cứu giúp các ngươi sẽ quay trở về xứ mình, về Ai-cập. Quân Canh-đê sẽ trở lại vây đánh thành này, chúng sẽ chiếm được và phóng hỏa đốt thành.’” CHÚA phán: “Các ngươi đừng tự dối mình, đừng tự nhủ: ‘Quân Canh-đê thế nào cũng rút đi khỏi chúng ta!’ vì chúng sẽ không rút khỏi đâu. Dù cho các ngươi có đánh tan quân Canh-đê đang hãm đánh các ngươi, đến nỗi chỉ còn lại những thương binh trong lều, chúng cũng sẽ vùng dậy, phóng hỏa đốt trụi thành này.” Sau khi quân Canh-đê rút khỏi thành Giê-ru-sa-lem vì quân của Pha-ra-ôn đang tiến về thành, Giê-rê-mi định ra khỏi thành Giê-ru-sa-lem, đi về địa phận Bên-gia-min để nhận phần cơ nghiệp của mình giữa dân tại đấy. Nhưng khi tiên tri Giê-rê-mi vừa đến cổng Bên-gia-min thị bị Di-rê-gia (con Sê-lê-mia, cháu Ha-na-nia), viên đội trưởng tuần cảnh tại đấy, chặn lại, buộc tội: “Ông đào ngũ theo quân Canh-đê!” Giê-rê-mi đáp: “Không phải vậy! Tôi không có đào ngũ theo quân Canh-đê.” Nhưng Di-rê-gia vẫn không nghe, cứ bắt Giê-rê-mi giải về cho các quan chức. Các quan giận Giê-rê-mi lắm, ra lệnh đánh đòn và giam trong nhà thư ký Giô-na-than, vì nhà này đã chuyển thành nhà tù. Vậy Giê-rê-mi bị giam trong xà lim dưới hầm, và giữ tại đó lâu ngày. Sau đó, vua Sê-đê-kia ra lệnh giải Giê-rê-mi về cung, vua hỏi kín Giê-rê-mi: “CHÚA có phán lời gì không?”Giê-rê-mi đáp: “Muôn tâu bệ hạ, có.” Ông nói tiếp: “Bệ hạ sẽ bị nộp vào tay vua Ba-by-lôn.” Và Giê-rê-mi thưa với vua Sê-đê-kia: “Tôi có phạm lỗi gì với bệ hạ, hoặc với quần thần, hay dân chúng này mà bệ hạ lại bỏ tù tôi? Còn các tiên tri đã từng rao báo là vua Ba-by-lôn sẽ không bao giờ tấn công bệ hạ và đất nước này, các tiên tri ấy hiện ở đâu? Muôn tâu bệ hạ, giờ đây xin bệ hạ nghe lời tôi khẩn nài. Xin bệ hạ đừng trả tôi về nhà của thư ký Giô-na-than, kẻo tôi chết mất tại đấy.” Vua Sê-đê-kia truyền lệnh giữ Giê-rê-mi tại sân vệ binh, và phát cho ông mỗi ngày một khoanh bánh mì từ phố lò bánh, cho đến khi trong thành không còn bánh nữa. Vậy Giê-rê-mi bị giam tại sân vệ binh. Sê-pha-tia, con Mát-tan, Ghê-đa-lia, con Phát-hua, Giu-can, con Sê-lê-mia, và Phát-hua, con Manh-ki-gia, đều có nghe lời Giê-rê-mi giảng cho toàn dân: “CHÚA phán như vầy: ‘Ai ở lại trong thành này sẽ chết vì gươm đao, đói kém, hoặc bệnh dịch. Nhưng ai ra đầu hàng quân Canh-đê sẽ được sống. Người ấy ít ra cũng thoát thân được.’” CHÚA phán: “Thành này chắc chắn sẽ bị nộp vào tay quân đội vua Ba-by-lôn, và vua sẽ chiếm đóng thành.” Các quan chức này tâu vua: “Tâu bệ hạ, tên này đáng bị xử tử, vì nó nói những lời đó làm nhụt chí các chiến sĩ còn lại trong thành, và cũng làm cho toàn dân nản lòng nữa. Tên này không tìm phúc lợi cho dân chúng, nhưng chỉ gây thiệt hại cho họ thôi.” Vua Sê-đê-kia đáp: “Này, Ta giao nó cho các ngươi.” Vì vua không thể làm gì ngăn chặn họ cả. Vậy họ bắt Giê-rê-mi thả xuống giếng trong sân vệ binh. Giếng này thuộc về Manh-ki-gia, một người trong hoàng tộc. Họ dòng dây thừng thả Giê-rê-mi xuống. Giếng không có nước, chỉ có bùn lầy, và Giê-rê-mi lún xuống bùn. Thái giám E-bết Mê-léc, người Ê-thi-ô-bi, làm việc trong hoàng cung, nghe tin họ thả Giê-rê-mi xuống giếng. Bấy giờ vua đang ngự tại cổng Bên-gia-min. E-bết Mê-léc rời hoàng cung đến chầu vua: “Muôn tâu bệ hạ! Những người ấy đối xử với tiên tri Giê-rê-mi thật là ác độc! Họ thả tiên tri xuống giếng để ông chết đói dưới đó, vì trong thành không còn thực phẩm nữa.” Vua truyền lệnh cho E-bết Mê-léc, người Ê-thi-ô-bi: “Hãy đem theo ba mươi người từ đây đến kéo tiên tri Giê-rê-mi lên khỏi giếng trước khi ông ta chết.” E-bết Mê-léc đem người theo với mình về hoàng cung, xuống kho quần áo lấy giẻ rách và quần áo cũ, dùng dây thừng dòng xuống giếng cho Giê-rê-mi. E-bết Mê-léc, người Ê-thi-ô-bi nói với Giê-rê-mi: “Ông nhét mấy miếng giẻ rách và quần áo cũ này giữa nách và dây thừng.” Giê-rê-mi làm y như vậy. Họ dùng dây thừng kéo Giê-rê-mi lên khỏi giếng. Sau đó, Giê-rê-mi được giữ trong sân vệ binh. Vua Sê-đê-kia sai giải tiên tri Giê-rê-mi đến lối vào đền thờ, cửa thứ ba. Vua nói với Giê-rê-mi: “Trẫm có việc muốn hỏi ngươi. Ngươi đừng giấu trẫm điều chi hết.” Giê-rê-mi đáp lời vua Sê-đê-kia: “Nếu tôi nói ra, bệ hạ chắc sẽ giết tôi. Nếu tôi có khuyên bệ hạ, bệ hạ cũng không nghe.” Vua Sê-đê-kia kín đáo thề với Giê-rê-mi: “Trẫm chỉ CHÚA hằng sống, là Đấng ban sự sống cho chúng ta, mà thề rằng trẫm sẽ không giết ngươi, cũng không nộp ngươi vào tay những người đang tìm hại mạng sống ngươi.” Giê-rê-mi tâu vua Sê-đê-kia: “CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Ngươi chỉ cần ra đầu hàng các tướng lãnh vua Ba-by-lôn thì ngươi sẽ được sống. Thành này cũng không bị thiêu hủy. Ngươi và gia đình ngươi sẽ sống. Nhưng nếu ngươi không đầu hàng các tướng lãnh vua Ba-by-lôn, thành này sẽ rơi vào tay quân Canh-đê, chúng sẽ đốt thành, và ngươi sẽ không thoát khỏi tay chúng.” Vua Sê-đê-kia nói với Giê-rê-mi: “Trẫm ngại nhóm người Do Thái đã đào ngũ theo quân Canh-đê, e quân Canh-đê nộp trẫm cho chúng hành hạ.” Giê-rê-mi đáp: “Quân Canh-đê sẽ không nộp bệ hạ cho chúng đâu. Tôi xin bệ hạ vâng theo lời CHÚA, lời tôi đang trình bầy với bệ hạ đây, để bệ hạ được phúc lành và được sống. Còn nếu bệ hạ không chịu đầu hàng, thì CHÚA cho tôi thấy điều này: Hết thảy những phụ nữ còn lại trong cung vua Giu-đa đều bị dẫn ra nộp cho các tướng lãnh vua Ba-by-lôn. Họ vừa đi vừa nói:‘Bạn bè thân tín của bệ hạĐã dối gạt bệ hạ và thắng thế!Khi chân bệ hạ lún xuống bùn,Họ quay lưng bỏ đi.’ Hết thảy các hoàng hậu, cung phi, công chúa và hoàng tử đều sẽ bị nộp cho quân Canh-đê. Chính bệ hạ cũng không thoát khỏi tay chúng. Bệ hạ sẽ rơi vào tay vua Ba-by-lôn, và thành này sẽ bị thiêu hủy.” Vua Sê-đê-kia dặn Giê-rê-mi: “Đừng cho ai biết về cuộc hội kiến này, kẻo ngươi bị xử tử. Nếu các quan chức nghe tin trẫm có tiếp xúc với ngươi, và họ đến hạch hỏi ngươi: ‘Xin cho chúng tôi biết ông đã nói gì với vua, và vua đã nói gì với ông. Xin đừng giấu chúng tôi điều gì cả, để ông khỏi phải chết,’ ngươi hãy đáp lời họ: ‘Tôi khẩn xin vua đừng trả tôi về nhà ngục Giô-na-than, kẻo tôi chết tại đấy.’” Và khi hết thảy các quan chức đến hạch hỏi Giê-rê-mi, ông đáp lời họ theo như mọi điều vua dặn. Vậy họ ngừng gạn hỏi, vì không ai nghe biết gì về cuộc hội kiến giữa ông và vua. Giê-rê-mi bị giam giữ tại sân vệ binh cho đến ngày thành Giê-ru-sa-lem thất thủ.Khi thành Giê-ru-sa-lem thất thủ... Tháng mười, năm thứ chín triều vua Sê-đê-kia nước Giu-đa, Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, dốc toàn quân tấn công và vây hãm thành Giê-ru-sa-lem. Ngày mồng chín tháng tư, năm thứ mười một triều vua Sê-đê-kia, tường thành bị chọc thủng. Khi thành Giê-ru-sa-lem thất thủ, tất cả các tướng lãnh vua Ba-by-lôn tiến vào ngồi chỉ huy tại cổng Giữa: Nẹt-gan Sa-rết-se, người thành Sam-ga, Nê-bô Sa-sê-kim, chỉ huy trưởng quân sự, Nẹt-gan Sa-rết-se, một sĩ quan cao cấp, và tất cả các quan tướng khác của vua Ba-by-lôn. Khi Sê-đê-kia, vua Giu-đa, nhìn thấy tình hình, vua và toàn quân tìm đường tẩu thoát. Ban đêm, họ ra khỏi thành, đi ngang qua vườn ngự uyển, xuyên qua cổng giữa hai bức tường, hướng về thung lũng sông Giô-đanh. Nhưng quân Canh-đê đuổi theo họ, và đuổi kịp vua Sê-đê-kia nơi vùng đồng bằng khô hạn gần thành Giê-ri-cô. Chúng bắt vua, giải lên cho Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, xét xử tại Ríp-lát, thuộc lãnh thổ Ha-mát. Vua Sê-đê-kia nhìn thấy tận mắt các con trai mình bị hành quyết tại Ríp-lát, theo lệnh vua Ba-by-lôn; vua Ba-by-lôn cũng ra lệnh hành quyết tất cả những người thuộc dòng dõi quý tộc của Giu-đa. Kế đến vua Sê-đê-kia bị móc cả hai mắt, xiềng bằng xích đồng, và giải về Ba-by-lôn. Trong khi đó, quân Canh-đê đốt rụi hoàng cung, nhà cửa dân chúng, và phá sập tường thành Giê-ru-sa-lem. Tướng Nê-bu-xa A-đan, chỉ huy trưởng đoàn vệ sĩ, ra lệnh lưu đày qua Ba-by-lôn những người dân còn sót lại trong thành cùng với những người đã đào ngũ theo ông, và những người thợ thủ công còn lại. Lúc ấy, ông chừa lại trong xứ Giu-đa những người nghèo khổ nhất, không có tài sản chi hết, và cấp phát vườn nho và ruộng đất cho họ. Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, truyền lệnh cho tướng Nê-bu-xa A-đan, chỉ huy trưởng đoàn vệ sĩ, về Giê-rê-mi như sau: “Hãy đem ông ấy về, lo liệu chu đáo. Đừng làm gì hại ông hết, nhưng hãy chấp thuận bất cứ điều gì ông yêu cầu.” Vậy Nê-bu-xa A-đan, chỉ huy trưởng đoàn vệ sĩ, cùng với Nê-bu-sa-ban, chỉ huy trưởng quân sự, Nẹt-gan Sa-rết-se, một sĩ quan cao cấp, và hết thảy các tướng lãnh vua Ba-by-lôn sai tìm Giê-rê-mi, đem ông ra khỏi sân vệ binh, giao cho Ghê-đa-lia (con A-hi-cam, cháu Sa-phan) đưa ông về nhà. Và Giê-rê-mi sống giữa dân mình. CHÚA phán với Giê-rê-mi trong khi ông còn bị giam giữ tại sân vệ binh: “Con hãy đi nói cho E-bết Mê-léc người Ê-thi-ô-bi: ‘CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Này Ta sẽ giáng tai họa chứ không phải phúc lành xuống thành này, theo như lời Ta đã phán. Đến lúc ấy ngươi sẽ chứng kiến sự kiện tận mắt.’” CHÚA phán: “Nhưng đến lúc ấy Ta sẽ giải cứu ngươi. Ngươi sẽ không rơi vào tay những người ngươi đang sợ.” CHÚA phán: “Vì Ta chắc chắn sẽ giải cứu ngươi. Ngươi sẽ không ngã dưới lưỡi gươm, nhưng ngươi sẽ thoát thân được, vì ngươi đã tin cậy Ta.” CHÚA phán với Giê-rê-mi sau khi tướng Nê-bu A-đan, chỉ huy trưởng đoàn vệ sĩ, trả tự do cho ông tại Ra-ma, đang khi ông bị xiềng và cùng với cả đoàn dân từ thành Giê-ru-sa-lem và xứ Giu-đa trên đường lưu đày qua Ba-by-lôn. Viên chỉ huy trưởng đoàn vệ sĩ dẫn Giê-rê-mi đi riêng ra và nói: “CHÚA, Đức Chúa Trời của ông, đã cảnh cáo trước, Ngài sẽ giáng tai họa xuống chốn này. Và bây giờ Ngài đã giáng họa xuống. CHÚA đã thực hiện điều Ngài phán, vì dân chúng phạm tội với CHÚA, không chịu vâng lời Ngài. Vì thế mà việc này đã xảy ra. Bây giờ tôi tháo xiềng ra khỏi tay ông. Nếu ông muốn qua Ba-by-lôn với tôi, mời ông đi, tôi sẽ lo liệu cho ông chu đáo. Còn nếu ông không muốn, thì đừng đi. Kìa, toàn cõi đất nước này ở trước mặt ông. Ông muốn đi nơi nào tùy ý.” Giê-rê-mi chưa đáp lời, Nê-bu A-đan lại nói tiếp: “Hay là ông về với Ghê-đa-lia, con A-hi-cam, cháu Sa-phan. Hoàng thượng vừa bổ nhiệm người làm tổng trấn các thành xứ Giu-đa. Ông có thể ở với Ghê-đa-lia và sống giữa dân mình. Hoặc ông thấy cần đi nơi nào khác thì cứ tùy nghi mà đi.”Viên chỉ huy trưởng đoàn vệ sĩ cấp thực phẩm và vật dụng cho Giê-rê-mi rồi thả ông đi. Giê-rê-mi đi về Mích-ba, ở với Ghê-đa-lia, con A-hi-cam, và sống giữa dân chúng còn lại trong xứ. Tất cả các sĩ quan chỉ huy các lực lượng ở vùng quê, cấp chỉ huy và quân lực của họ, đều nghe tin vua Ba-by-lôn đã lập Ghê-đa-lia, con A-hi-cam, làm tổng trấn trong nước, để cai trị những người gồm cả đàn ông, đàn bà, và trẻ con, thuộc thành phần nghèo khổ nhất trong xứ không bị đày qua Ba-by-lôn. Các sĩ quan chỉ huy này gồm có Ích-ma-ên (con Nê-tha-nia), Giô-ha-nan và Giô-na-than (con Ca-rê-át), Sê-ra-gia (con Tan-hu-mết), các con trai của Ê-phai ở Nê-tô-pha, và Giê-xa-nia (con một người Ma-a-ca). Họ đem quân theo đến yết kiến Ghê-đa-lia tại Mích-ba. Ghê-đa-lia, con A-hi-cam, cháu Sa-phan, dùng lời thề trấn an họ: “Anh em đừng ngại phục vụ người Ba-by-lôn. Anh em cứ ở trong nước, phục vụ vua Ba-by-lôn, rồi sẽ được an cư lạc nghiệp. Tôi phải ở lại Mích-ba để đại diện cho anh em tiếp xúc với người Ba-by-lôn mỗi khi họ đến. Nhưng anh em được quyền thu hoạch rượu, các loại trái cây mùa hạ, dầu, và trữ trong lọ, bình. Hãy định cư trong các thành anh em đã chiếm đóng.” Hết thảy những người Do Thái ở Mô-áp, Am-môn, Ê-đôm, và ở khắp các nước khác cũng nghe tin vua Ba-by-lôn đã chừa lại một số dân trong xứ Giu-đa, và đã lập Ghê-đa-lia, con A-hi-cam, cháu Sa-phan, cai trị họ. Hết thảy những người Do Thái này tản mát khắp nơi đều trở về Giu-đa, đến yết kiến Ghê-đa-lia tại Mích-ba, và thu hoạch được một số lượng dồi dào rượu và trái cây mùa hạ. Giô-ha-nan, con Ca-rê-át, và hết thảy các sĩ quan chỉ huy các lực lượng ở vùng thôn quê đến gặp Ghê-đa-lia tại Mích-ba, và báo tin: “Chắc hẳn tổng trấn biết tin Ba-a-lít, vua Am-môn, đã sai Ích-ma-ên, con Nê-tha-nia, về ám sát tổng trấn?” Nhưng Ghê-đa-lia, con A-hi-cam, không tin lời họ. Giô-ha-nan, con Ca-rê-át, cũng gặp kín Ghê-đa-lia tại Mích-ba và đề nghị: “Xin cho tôi thủ tiêu Ích-ma-ên, con Nê-tha-nia, mà không ai biết hết. Sao lại để cho nó ám sát tổng trấn, để rồi toàn dân Do Thái tụ họp chung quanh tổng trấn phải tản lạc, và dân còn sót lại trong xứ Giu-đa cũng chết mất?” Nhưng Ghê-đa-lia, con A-hi-cam, can ngăn Giô-ha-nan, con Ca-rê-át: “Đừng làm vậy! Điều anh nói về Ích-ma-ên không đúng đâu!” Tuy nhiên, đến tháng bảy, Ích-ma-ên, con Nê-tha-nia, cháu Ê-li-sa-ma, vốn dòng tôn thất, cũng là một trong các tướng lãnh của nhà vua, đem theo mười bộ hạ đến yết kiến tổng trấn Ghê-đa-lia, con A-hi-cam, tại Mích-ba. Trong khi họ cùng dùng bữa tại đó, Ích-ma-ên, con Nê-tha-nia, và mười bộ hạ theo mình vụt đứng dậy, rút kiếm đâm chết Ghê-đa-lia, con A-hi-cam, cháu Sa-phan, là người vua Ba-by-lôn lập làm tổng trấn trong nước. Ích-ma-ên cũng hạ sát luôn tất cả những người Do Thái hầu cận Ghê-đa-lia tại Mích-ba và những người lính Ba-by-lôn có mặt tại đó. Ngày hôm sau, khi chưa ai biết về vụ ám sát tổng trấn Ghê-đa-lia, có tám mươi người đến từ Si-chem, Si-lô, và Sa-ma-ri. Họ đã cạo râu, xé rách áo, và rạch da thịt. Họ mang theo tế lễ chay và nhũ hương để lên đền thờ dâng cho Chúa. Ích-ma-ên, con Nê-tha-nia, từ Mích-ba lên đón họ, vừa đi vừa khóc. Khi gặp họ, Ích-ma-ên ân cần: “Mời các ông ghé vào đây chào tổng trấn Ghê-đa-lia, con A-hi-cam.” Vào được giữa thành, Ích-ma-ên và bộ hạ liền tàn sát họ và quăng thây xuống giếng. Nhưng mười người trong nhóm nói với Ích-ma-ên: “Xin đừng giết chúng tôi, vì chúng tôi còn dự trữ lương thực giấu ngoài đồng: lúa mì, lúa mạch, dầu ô-liu và mật ong.” Vậy Ích-ma-ên tha, không giết họ chung với các bạn đồng hành. Ích-ma-ên quăng thây của tất cả những người anh ta tàn sát xuống một hồ to do vua A-sa đào để phòng thủ trong khi nguy cơ chiến tranh với Ba-i-sa, vua Y-sơ-ra-ên, đe dọa. Ích-ma-ên, con Nê-tha-nia, lấy thây người lấp đầy hồ. Ích-ma-ên bắt tất cả những người còn lại tại Mích-ba, gồm các công chúa và hết thảy dân chúng mà tướng Nê-bu-xa A-đan, chỉ huy trưởng quân sự, chừa lại ở Mích-ba, dưới quyền cai trị của Ghê-đa-lia, con A-hi-cam. Ích-ma-ên, con Nê-tha-nia, bắt họ, dẫn đi về hướng Am-môn. Giô-ha-nan, con Ca-rê-át, và tất cả các sĩ quan đi theo ông nghe về mọi việc tàn ác Ích-ma-ên, con Nê-tha-nia, đã làm. Họ liền tập họp toàn thể lực lượng, đi đánh Ích-ma-ên, con Nê-tha-nia. Họ đuổi kịp anh ta gần ao lớn ở Ghi-bê-ôn. Hết thảy đoàn dân bị Ích-ma-ên dẫn đi đều mừng rỡ khi họ nhìn thấy Giô-ha-nan, con Ca-rê-át, và tất cả các sĩ quan đi cùng với ông. Tất cả những người bị Ích-ma-ên bắt dẫn đi khỏi Mích-ba đều quay lại, chạy về phía Giô-ha-nan, con Ca-rê-át. Nhưng Ích-ma-ên, con Nê-tha-nia, cùng với tám bộ hạ, thoát khỏi tay Giô-ha-nan, và trốn qua xứ Am-môn Hết thảy người còn lại bị Ích-ma-ên, con Nê-tha-nia, bắt đi khỏi Mích-ba sau khi anh ta ám sát Ghê-đa-lia, con A-hi-cam, gồm có binh sĩ, đàn bà, trẻ con, và thái giám. Giô-ha-nan, con Ca-rê-át, và tất cả các sĩ quan đi theo ông dẫn hết thảy những người này ra khỏi Ghi-bê-ôn. Họ tiếp tục đi, và dừng lại tại Ghê-rút Kim-ham, gần Bết-lê-hem, trên đường xuống Ai-cập. Họ sợ quân Canh-đê vì Ích-ma-ên, con Nê-tha-nia, đã ám sát Ghê-đa-lia, con A-hi-cam, là người vua Ba-by-lôn đã lập làm tổng trấn trong nước. Tất cả các sĩ quan chỉ huy, kể cả Giô-ha-nan, con Ca-rê-át, và Giê-xa-nia, con Hô-sa-gia, và toàn thể dân chúng, thượng lưu hay thấp hèn, đều đến nài nỉ tiên tri Giê-rê-mi: “Chúng tôi van ông! Xin ông nhậm lời chúng tôi. Xin ông cầu khẩn CHÚA, Đức Chúa Trời của ông, cho chúng tôi, cho tất cả những người còn sót lại này. Như chính mắt ông thấy, chúng tôi xưa vốn đông đảo, nhưng bây giờ chỉ còn lại một số ít thôi. Xin ông cầu khẩn CHÚA, Đức Chúa Trời của ông, dạy chúng tôi biết phải đi đường nào và phải làm điều gì.” Tiên tri Giê-rê-mi đáp: “Được rồi! Tôi sẽ cầu khẩn CHÚA, Đức Chúa Trời của các ông bà để biết mọi điều CHÚA phán dạy. Tôi sẽ không giữ lại một điều nào cả.” Họ liền thề: “Cầu xin CHÚA chân thật và thành tín làm chứng rằng Ngài sẽ trừng phạt chúng tôi nếu chúng tôi không làm y theo mọi điều CHÚA, Đức Chúa Trời của ông, sai ông truyền lại cho chúng tôi. Chúng tôi đã nhờ ông cầu khẩn Ngài. Dù muốn dù không, chúng tôi xin vâng lời CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng tôi, để được phúc lành. Phải, chúng tôi sẽ vâng theo lời CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng tôi.” Mười ngày sau, CHÚA phán với Giê-rê-mi. Ông triệu tập Giô-ha-nan, con Ca-rê-át, tất cả các sĩ quan chỉ huy, và toàn thể dân chúng, từ cao sang đến thấp hèn. Ông nói: “Các ông bà có nhờ tôi trình dâng lên CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, lời cầu xin của các ông bà. Đây là lời Ngài phán: ‘Nếu các ngươi bằng lòng sống trong đất nước này, Ta sẽ không phá đổ, nhưng Ta sẽ xây dựng các ngươi; Ta sẽ không bứng gốc, nhưng Ta sẽ vun trồng các ngươi. Ta đau lòng vì tai họa Ta đã giáng xuống các ngươi. Đừng sợ vua Ba-by-lôn mà các ngươi hiện đang sợ. Đừng sợ nữa.’” CHÚA phán: “Vì Ta ở với các ngươi. Ta sẽ cứu giúp các ngươi, Ta sẽ giải cứu các ngươi ra khỏi tay vua. Ta sẽ thương xót các ngươi, khiến cho vua cũng thương xót các ngươi và cho các ngươi ở lại trong đất nước mình. Còn nếu các ngươi không vâng lời CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi, nếu các ngươi tiếp tục nói: ‘Chúng tôi không muốn sống trong xứ này; không đâu! nhưng chúng tôi sẽ đi xuống Ai-cập, nơi đó chúng tôi sẽ không thấy chiến tranh, không nghe tù và thổi, cũng không đói khát thức ăn; chúng tôi muốn sống tại đó,’ thì các ngươi là những người còn sống sót trong xứ Giu-đa, hãy lắng nghe lời CHÚA. CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: ‘Nếu các ngươi quyết định đi xuống Ai-cập, trú ngụ tại đó, thì gươm đao mà các ngươi sợ sẽ bắt kịp các ngươi trong xứ Ai-cập, và đói kém mà các ngươi lo ngại cũng sẽ bám sát các ngươi tại Ai-cập, và các ngươi sẽ chết tại đó. Tất cả những người nào quyết định đi xuống Ai-cập trú ngụ tại đó, sẽ chết vì gươm dao, đói kém và bệnh dịch. Không một người nào sống sót, không một người nào thoát khỏi tai họa Ta sẽ giáng xuống chúng.’” CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: “Như Ta đã trút cơn giận và cơn thịnh nộ Ta xuống dân cư thành Giê-ru-sa-lem thể nào, Ta cũng sẽ trút cơn thịnh nộ Ta xuống các ngươi khi các ngươi đi xuống Ai-cập. Người ta sẽ chửi rủa, kinh tởm các ngươi, dùng các ngươi làm câu rủa độc, lời nhục mạ. Các ngươi sẽ không bao giờ được nhìn lại chốn này nữa. Các ông bà là những người còn sống sót trong xứ Giu-đa, CHÚA đã phán dạy các ông bà: ‘Đừng đi xuống Ai-cập.’ Các ông bà biết rõ ngày nay tôi đã cảnh cáo các ông bà. Các ông bà đã liều mạng tự dối mình khi các ông bà sai tôi đến với CHÚA, Đức Chúa Trời của các ông bà: ‘Xin ông cầu khẩn CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta giùm chúng tôi, rồi truyền cho chúng tôi biết mọi điều CHÚA phán dạy chúng tôi. Chúng tôi sẽ vâng theo.’ Ngày nay tôi đã trình bầy cho các ông bà, nhưng các ông bà không chịu vâng lời CHÚA, Đức Chúa Trời của các ông bà, không chịu làm theo mọi điều Ngài đã sai tôi nói lại với các ông bà. Vậy bây giờ, các ông bà hãy biết chắc rằng các ông bà sẽ chết vì gươm đao, đói kém, và bệnh dịch tại chính nơi mà các ông bà ước ao đi đến để trú ngụ.” Giê-rê-mi vừa công bố xong cho toàn dân mọi lời ấy, mọi lời của CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng, truyền ông nói lại với chúng, A-xa-ria, con Hô-sa-gia, và Giô-ha-nan, con Ca-rê-át, và hết thảy những người ngạo mạn liền nói: “Ông nói dối! Đức Chúa Trời của chúng tôi không có sai ông bảo chúng tôi: ‘Các ngươi đừng bao giờ xuống Ai-cập trú ngụ.’ Chính Ba-rúc, con Nê-ri-gia, đã xúi ông chống lại chúng tôi, để nộp chúng tôi vào tay quân Ba-by-lôn: chúng sẽ giết chúng tôi, hoặc đầy chúng tôi qua Ba-by-lôn.” Vậy Giô-ha-nan, con Ca-rê-át, và tất cả các sĩ quan chỉ huy, cùng toàn dân nhất quyết không vâng lời CHÚA dạy phải ở lại sinh sống trong xứ Giu-đa. Giô-ha-nan, con Ca-rê-át, và tất cả các sĩ quan chỉ huy bắt tất cả những người còn lại trong xứ Giu-đa, gồm có những người tản lạc khắp mọi nước đã trở về sinh sống trong xứ Giu-đa, và tất cả những người mà tướng Nê-bu-xa A-đan, chỉ huy trưởng quân sự, đặt dưới quyền cai trị của Ghê-đa-lia, con A-hi-cam, cháu Sa-phan, nào đàn ông, đàn bà, trẻ con, và các công chúa, luôn cả tiên tri Giê-rê-mi và Ba-rúc, con Nê-ri-gia, và dẫn đi xuống Ai-cập, vì họ không vâng lời CHÚA. Họ đi đến thành Tác-pha-nết. Tại Tác-pha-nết, CHÚA phán bảo Giê-rê-mi: “Con hãy khuân vài tảng đá lớn, đem chôn dưới xi-măng, dưới sân gạch, nơi lối vào cơ quan chính quyền tại Tác-pha-nết, ngay trước mắt người Do Thái, cho họ thấy. Rồi con hãy nói với chúng: CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: ‘Này, Ta sẽ sai gọi Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, đầy tớ Ta. Ta sẽ đặt ngai nó trên tảng đá này mà Ta đã chôn giấu, và nó sẽ căng tán ra che trên đó. Nó sẽ đến và đánh bại Ai-cập, giết chết những kẻ bị định phải chết, bắt tù đày những kẻ bị định cho tù đày, và dùng gươm đao đâm chém những kẻ bị định cho gươm đao. Nó sẽ phóng hỏa đốt các miếu đền của các thần Ai-cập. Nó sẽ thiêu hủy các thần tượng hoặc đem chúng đi lưu đày. Nó sẽ cướp sạch xứ Ai-cập như người chăn bắt rận sạch áo mình. Nó sẽ ra về bình an. Nó sẽ đập phá các cột trụ hình tháp ở Bết Sê-mết trong xứ Ai-cập, và nó sẽ thiêu rụi các miếu đền của các thần Ai-cập.’” CHÚA phán với Giê-rê-mi về hết thảy những người Do Thái đang sống tại Ai-cập, ở Mích-đôn, Tác-pha-nết, và Mem-phít, và vùng Pha-trô: CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: “Các ngươi đã thấy tất cả các tai họa Ta đổ xuống thành Giê-ru-sa-lem và toàn bộ các thành xứ Giu-đa. Kìa, ngày nay các thành ấy vẫn còn đổ nát, không người ở, vì điều ác dân cư trong thành đã làm. Chúng đã xúc phạm đến Ta, chúng đi theo phụng sự và dâng sinh tế cho các thần khác mà chúng, hoặc các ngươi, hoặc tổ phụ các ngươi cũng chưa hề biết. Dù Ta đã bền lòng tiếp tục sai hết thảy các tiên tri đầy tớ Ta đến khuyên dạy: ‘Các ngươi đừng làm điều gớm ghiếc này, là điều Ta ghê tởm!’ chúng vẫn không nghe, không lắng tai, không từ bỏ điều ác chúng làm, là dâng sinh tế cho các thần khác. Vì thế Ta trút cơn thịnh nộ lôi đình xuống, đốt cháy các thành Giu-đa và các đường phố thành Giê-ru-sa-lem. Ngày nay, các thành ấy vẫn còn đổ nát, tiêu điều.” Và bây giờ, CHÚA, Đức Chúa Trời Toàn Năng, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: “Sao các ngươi lại tự gây cho mình tai họa lớn lao này, đến nỗi đàn ông, đàn bà, trẻ em, và con nít còn bú phải bị diệt trừ khỏi xứ Giu-đa, không còn một người nào sống sót giữa các ngươi? Sao các ngươi lại xúc phạm đến Ta với công việc tay các ngươi làm? Tại xứ Ai-cập, nơi các ngươi đến tị nạn, các ngươi dâng sinh tế cho các thần khác, để rồi phải bị diệt vong, và trở thành một lời nguyền rủa, một điều ô nhục giữa mọi dân trên đất. Lẽ nào các ngươi quên những việc gian ác mà tổ phụ các ngươi đã làm trong xứ Giu-đa và các đường phố thành Giê-ru-sa-lem? Đến ngày nay, các ngươi vẫn chưa ăn năn, chưa kinh sợ, chưa sống theo kinh luật và quy luật Ta ban cho các ngươi và tổ phụ các ngươi.” Vì thế, CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: “Này, Ta đã quyết định giáng họa xuống các ngươi và diệt trừ cả xứ Giu-đa. Ta sẽ cất đi hết những người còn sót lại trong xứ Giu-đa mà đã quyết định xuống Ai-cập tị nạn. Chúng sẽ bị tiêu diệt hết trong xứ Ai-cập. Chúng sẽ ngã xuống vì gươm dao. Chúng sẽ tiêu hao mất vì đói kém. Từ kẻ hèn đến người sang, mọi người đều sẽ chết vì gươm đao hoặc đói kém. Người ta sẽ chửi rủa, kinh tởm chúng, dùng chúng làm câu rủa độc, lời nhục mạ. Ta sẽ dùng gươm đao, đói kém và bệnh dịch hình phạt những người sống ở Ai-cập cũng như Ta đã hình phạt thành Giê-ru-sa-lem. Trong số những người Giu-đa còn sót lại đã xuống tị nạn tại Ai-cập, sẽ không có một người nào thoát khỏi hoặc sống sót để trở về xứ Giu-đa, là nơi chúng hằng mong mỏi quay về sinh sống. Chúng sẽ không được trở về, ngoại trừ vài người thoát nạn.” Bấy giờ, hết thảy những người biết vợ mình cúng tế cho các thần khác, và hết thảy những phụ nữ hiện diện, một hội chúng đông đảo, và hết thảy những người ngụ ở Ai-cập và vùng Pha-trô, cùng đáp lời Giê-rê-mi: “Chúng tôi sẽ không vâng theo lời ông nhân danh CHÚA truyền lại cho chúng tôi. Nhưng chúng tôi quyết định làm y theo mọi điều chúng tôi đã hứa nguyện. Chúng tôi sẽ tiếp tục cúng sinh tế, và dâng rượu lễ cho Nữ Vương trên trời, y như chúng tôi, tổ phụ chúng tôi, các vua quan chúng tôi đã từng làm trong các thành xứ Giu-đa và các đường phố thành Giê-ru-sa-lem. Lúc ấy, chúng tôi ăn uống thỏa thuê, làm ăn phát đạt, và không hề bị hoạn nạn. Nhưng từ khi chúng tôi ngừng cúng sinh tế và dâng rượu cho Nữ Vương trên trời, chúng tôi thiếu thốn mọi điều, và chết dần chết mòn vì gươm đao, đói kém.” Các bà phụ thêm: “Khi chúng tôi cúng tế và dâng rượu cho Nữ Vương trên trời, lẽ nào chồng chúng tôi không đồng ý mà chúng tôi lại dám nặn bánh nướng theo tượng Nữ Vương mà dâng rượu lễ cho Nữ Vương hay sao?” Giê-rê-mi nói với mọi người, cả đàn ông lẫn đàn bà, hết thảy những người vừa đáp lời ông như trên: “Việc các ông bà, tổ phụ và vua quan các ông bà, cùng dân chúng trong nước, cúng tế trong các thành xứ Giu-đa và các đường phố thành Giê-ru-sa-lem, CHÚA không nhớ, không nghĩ đến sao? Vì CHÚA không chịu đựng nổi việc làm gian ác và gớm ghiếc của các ông bà nên đất nước các ông bà phải đổ nát, điêu tàn, không người ở, và bị người ta dùng làm câu rủa độc như ngày nay. Tai họa này đã giáng xuống các ông bà như vẫn còn hiện nay, vì các ông bà phạm tội với CHÚA, lo cúng tế, không vâng lời CHÚA, không sống theo kinh luật, quy luật, và lời răn dạy của Ngài.” Giê-rê-mi lại nói tiếp với cả đoàn dân, kể cả các bà: “Xin mọi người Do Thái đang sống ở Ai-cập lắng nghe lời của CHÚA. CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Các ngươi và vợ các ngươi, các ngươi thật đã hành động y theo lời các ngươi nói: ‘Chúng tôi quyết định giữ trọn lời hứa nguyện cúng tế và dâng rượu lễ cho Nữ Vương trên trời.’ Phải, hãy giữ trọn lời hứa! Hãy hoàn thành điều các ngươi hứa! Tuy nhiên, hết thảy những người Do Thái đang sống tại Ai-cập, hãy lắng nghe lời CHÚA. CHÚA phán: ‘Này, Ta nhân danh vĩ đại của Ta mà thề rằng sẽ chẳng còn một người Do Thái nào trên toàn xứ Ai-cập kêu cầu danh Ta như vầy nữa: Thật như CHÚA hằng sống!’ Này, Ta sẽ thức canh để giáng họa xuống chúng, chứ không phải ban phúc lành. Mọi người Do Thái sống ở Ai-cập đều sẽ chết vì gươm đao, hoặc đói kém, cho đến khi chúng bị tận diệt. Chỉ một số ít thoát khỏi gươm đao sẽ từ Ai-cập trở về Giu-đa. Bấy giờ, hết thảy những người còn sót lại trong xứ Giu-đa mà đã xuống Ai-cập tị nạn sẽ biết rõ lời ai đúng, lời Ta hoặc lời họ.” CHÚA phán: “Và đây là dấu hiệu Ta sẽ hình phạt các ngươi tại chốn này, để các ngươi biết Ta chắc chắn sẽ thực hiện lời Ta hứa sẽ giáng họa xuống các ngươi.” CHÚA phán như vầy: “Ta sẽ phó Pha-ra-ôn Hốp-ra, vua Ai-cập, vào tay kẻ thù nó, vào tay những kẻ tìm hại mạng sống nó, như Ta đã phó Sê-đê-kia, vua Giu-đa, vào tay Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, là kẻ thù tìm hại mạng sống nó.” Sau khi Ba-rúc, con Nê-ri-gia, chép vào cuộn sách những lời tiên tri Giê-rê-mi đọc cho ông vào năm thứ tư triều Giê-hô-gia-kim, con Giô-si-a, vua Giu-đa, Giê-rê-mi nói với Ba-rúc: “CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán với Ba-rúc như vầy: Con than trách: ‘Khốn khổ cho tôi! CHÚA lại chồng chất phiền muộn vào nỗi đau buồn của tôi. Tôi mệt mỏi vì rên rỉ, tôi không nghỉ yên.’ Con hãy nói với Ba-rúc: ‘CHÚA phán như vầy: Ta phá đổ những gì Ta xây, Ta bứng gốc những gì Ta trồng. Ta sẽ làm như vậy trên khắp cả đất nước. Thế mà con lại tìm kiếm danh vọng cho mình sao?’ CHÚA phán: ‘Đừng tìm kiếm nữa. Này, Ta sẽ giáng họa xuống mọi người, nhưng Ta sẽ cho con được thoát thân bất cứ nơi nào con đi.’” CHÚA phán với tiên tri Giê-rê-mi về các nước ngoài: Về Ai-cập, liên quan đến quân đội của Pha-ra-ôn Nê-cô, vua Ai-cập, bị Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, đánh bại tại Cạt-kê-mít, gần sông Ơ-phơ-rát, vào năm thứ tư triều vua Giê-hô-gia-kim, con Giô-si-a, vua Giu-đa. Hãy chuẩn bị khiên và thuẫn,Tiến ra trận! Hỡi các kỵ binh,Hãy thắng yên ngựa, cưỡi lên!Hãy đội mũ,Đứng vào hàng,Chùi bóng ngọn giáo,Mặc áo giáp vào! CHÚA phán:“Sao Ta thấy chúng hoảng sợ,Quay lưng bỏ chạy?Các chiến sĩ bị đánh tan tành,Trốn chạy tán loạn,Không dám ngoảnh lại!Kinh hoàng tứ phía! Người nhanh chân không trốn kịp,Người mạnh sức không thoát khỏi!Trên miền Bắc, bên bờ sông Ơ-phơ-rát,Chúng lảo đảo ngã xuống. Ai kia, dâng trào lên như sông Ninh,Như các dòng sông nước chảy cuồn cuộn? Ai-cập dâng trào lên như sông Ninh,Như các dòng sông nước chảy cuồn cuộn!Ai-cập tự hào: Ta sẽ dâng lên, tràn ngập đất,Tiêu diệt thành phố và dân cư trong thành! Ngựa chiến, hãy phóng lên!Xe chiến mã, hãy lao tới!Các chiến sĩ, hãy tấn công!Các chiến sĩ Ê-thi-ô-bi và Ly-bi chuyên cầm khiên,Các chiến sĩ Ly-đi có tài bắn cung. Nhưng ngày ấy thuộc về CHÚA Vạn Quân,Ngày Chúa báo trả những kẻ thù nghịch Ngài.Lưỡi gươm sẽ ăn nuốt đến thỏa dạ,Uống máu đến đã khát,Vì đó là tế lễ dâng lên CHÚA Vạn Quân,Tại miền đất phương Bắc, bên bờ sông Ơ-phơ-rát. Hỡi nàng Ai-cập, trinh nữ kia,Hãy đi lên Ga-la-át tìm dầu xoa!Ngươi có chữa trị bao nhiêu thuốc cũng vô hiệu,Vết thương ngươi chẳng kéo da non! Các nước ngoài nghe tin ngươi bị ô nhục,Tiếng ngươi kêu cứu vang dội khắp đất.Chiến sĩ vấp phải chiến sĩ,Cả hai cùng ngã dài.” CHÚA phán với tiên tri Giê-rê-mi về việc Nê-bu-cát-nết-sa tiến đánh Ai-cập: “Hãy loan tin khắp Ai-cập, hãy rao ra tại Mích-đôn,Mem-phít, và Tác-pha-nết:‘Hãy đứng vào hàng, chuẩn bị sẵn sàng,Vì lưỡi gươm chém giết tứ phía chung quanh ngươi!’ Tại sao thần A-bít trốn chạy?Thần bò đực của ngươi không đứng nổi vì CHÚA đã xô nó xuống! Ngài làm cho nhiều người vấp ngã.Người này rủ người kia:‘Đứng dậy mau, ta trở về với dân tộc ta,Trở về nơi chúng ta sinh ra,Tránh xa lưỡi gươm kẻ ức hiếp!’ Tại đấy, chúng sẽ gọi Pha-ra-ôn, vua Ai-cập,‘Cái miệng huênh hoang đã đánh mất cơ hội!’” Đức Vua, danh Ngài là CHÚA Vạn Quân, phán:“Thật như Ta hằng sống,Kẻ thù sẽ đến, như ngọn Tha-bô giữa các núi,Như núi Cạt-mên bên bờ biển cả.” Hỡi nàng Ai-cập ngự chễm chệ,Hãy chuẩn bị hành trang đi đày!Vì thành Mem-phít sẽ nên hoang vu,Bị thiêu trụi, không người ở. Ai-cập là bò cái tơ đẹp đẽ,Nhưng lại bị ruồi trâuTừ phương Bắc chích! Ngay cả bọn lính đánh thuê ở giữa quân đội Ai-cập,Giống như bò con béo tốt,Cũng quay lưng, trốn chạy,Không giữ nổi vị trí.Vì ngày hoạn nạn đã đến với chúng,Giờ phán xét chúng đã điểm! Nàng kêu lên như tiếng rắn trườn đi,Vì kẻ thù tràn đến với đội quân hùng mạnh.Chúng cầm rìu xông tớiNhư đoàn phu đốn củi. CHÚA phán:“Chúng chặt ngã rừng nàng,Vì rừng sâu không xuyên qua được.Chúng đông hơn cào cào,Không thể đếm được. Nàng Ai-cập nhục nhã,Vì nàng bị nộp vào tay quân phương bắc.” CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán: “Này, Ta sẽ hình phạt thần A-môn ở thành Thê-bê, nước Ai-cập, các tà thần và các vua Ai-cập, Pha-ra-ôn và những kẻ tin cậy người. Ta sẽ phó chúng vào tay những kẻ tìm hại mạng sống chúng, vào tay Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, và vào tay các cận thần của người. Nhưng sau đó, dân cư Ai-cập sẽ sống trở lại như ngày xưa.” CHÚA phán vậy. “Còn ngươi, hỡi Gia-cốp, đầy tớ Ta, đừng sợ!Hỡi Y-sơ-ra-ên, đừng kinh khiếp!Vì Ta sẽ giải thoát ngươi khỏi miền xa xăm,Dòng dõi ngươi khỏi đất lưu đày.Gia-cốp lại sẽ được an cư lạc nghiệp,Không còn sợ hãi ai cả. CHÚA phán:Còn ngươi, hỡi Gia-cốp, đầy tớ Ta, đừng sợ,Vì Ta hằng ở với ngươi.Ta sẽ tuyệt diệt mọi dân tộc,Nơi nào Ta tản mát các ngươi,Nhưng Ta sẽ chẳng tuyệt diệt ngươi.Ngươi sẽ không tránh khỏi hình phạt,Nhưng Ta sẽ sửa phạt ngươi cách chừng mực.” CHÚA phán với tiên tri Giê-rê-mi về dân Phi-li-tin trước khi Pha-ra-ôn tiến đánh Ga-xa. CHÚA phán như vầy:“Kìa, nước dâng lên từ phương Bắc,Biến thành dòng sông tuôn tràn,Tràn ngập đất nước và sản vật của đất,Các thành phố và dân cư trong thành.Dân chúng sẽ kêu gào,Mọi dân cư trong nước đều than khóc. Nghe tiếng vó ngựa chiến đập thình thịch,Xe ngựa chạy ào ào,Bánh xe lăn rầm rầm,Cha mẹ kinh hoàng bủn rủn tay chân,Không quay lại giúp đỡ con cái. Vì đã đến ngàyHủy diệt hết thảy dân Phi-li-tin,Diệt trừ mọi người sống sótCó thể cứu giúp được từ thành Ty-rơ và Si-đôn.CHÚA sẽ hủy diệt dân Phi-li-tin,Dân sót lại từ đảo Cáp-tô. Dân Ga-xa cạo đầu chịu tang,Dân Ách-ca-lôn nín lặng.Hỡi dân sót lại vùng đồng bằng,Các ngươi tự rạch cắt mình cho đến khi nào? Ôi, gươm của CHÚA,Ngươi không chịu nghỉ yên cho đến bao giờ?Hãy rút về trong vỏ,Nằm yên, không động đậy! Làm thế nào nó nghỉ yên được,Khi CHÚA đã truyền dặn nó,Khi Ngài đã giao cho nó nhiệm vụHình phạt Ách-ca-lôn và miền duyên hải?” Về Mô-áp.CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy:“Đáng thương thay cho thành Nê-bô đổ nát!Thành Ki-ri-a-tha-im xấu hổ vì bị chiếm đóng,Thành trì kiên cố nhục nhã, tan hoang! Danh tiếng Mô-áp không còn nữa.Tại Hết-bôn, chúng bàn mưu hại Mô-áp:‘Nào, chúng ta hãy tận diệt dân này, xóa bỏ Mô-áp trên bản đồ các nước!’Thành Mát-mên, ngươi cũng sẽ than khóc,Gươm đao sẽ đuổi theo ngươi! Dân thành Hô-rô-na-im kêu than:‘Điêu tàn và đổ nát tan hoang! Mô-áp sụp đổ rồi!’Tiếng kêu than vang đến thành Xoa. Trên đường lên thành Lu-hít,Chúng không ngừng khóc lóc.Trên đường xuống thành Hô-rô-na-im,Sự tàn phá gây nên bao tiếng la thất thanh. Hãy trốn chạy thoát mạng!Hãy sống như lừa rừng trong sa mạc! Vì ngươi cậy vào công lao của cải mình,Nên chính ngươi cũng sẽ bị chiếm đóng.Thần Kê-mốt của ngươi cũng sẽ đi đàyCùng với các thầy tế lễ và quan cận thần. Kẻ hủy diệt sẽ tàn phá mọi thành phố,Không thành nào thoát khỏi.Thung lũng sẽ điêu tàn,Vùng cao nguyên cũng tan nát,Y như lời CHÚA phán. Hãy rải muối trên xứ Mô-áp,Vì nó chắc sẽ bị hủy diệt tan tành.Các thành phố nó điêu tàn,Không người ở. Khốn nạn cho kẻ làm công việc CHÚA cách dối trá!Khốn nạn cho kẻ không cho gươm mình vấy máu! Mô-áp quen sống an nhàn từ thuở nhỏ,Giống như rượu nằm yên trên cặn,Chưa chắt gạn từ bình này sang bình khác,Chưa hề đi lưu đày,Cho nên mùi rượu còn y nguyên,Vì rượu chưa dịu xuống.” CHÚA phán:“Vì thế, sẽ có ngày Ta sai thợ chắt rượu đến,Chúng sẽ gạn chắt sạch bìnhRồi đập tan cả vò. Và Mô-áp sẽ xấu hổ về thần Kê-mốtCũng như nhà Y-sơ-ra-ên xấu hổVề Bê-tên mà chúng tin cậy. Sao các ngươi dám tự hào:‘Chúng tôi là chiến sĩ dũng cảm, anh hùng thiện chiến?’ Kẻ hủy diệt xông lên tàn phá Mô-áp và các thành phố nó,Các thanh niên ưu tú bị đưa xuống lò sát sinh.Đó là lời của Đức Vua, danh Ngài là CHÚA Vạn Quân. Mô-áp sắp đến thời nguy kịch,Tai họa hối hả kéo đến. Hết thảy các nước lân bang,Và mọi người nghe danh Mô-áp,Hãy chia buồn với nó:‘Ôi, gậy uy quyền, gậy vinh quang đã gẫy đổ!’ Hỡi nàng Đi-bôn ngự chễm chệ,Hãy bước xuống khỏi ngai vinh hiển,Ngồi dưới đất khô cằn.Vì kẻ hủy diệt Mô-ápĐã xông lên đánh ngươi,Tàn phá các thành trì kiên cố của ngươi. Hỡi nàng A-rô-e ngự chễm chệ,Hãy đứng nơi đường cái trông chờ,Hãy hỏi những người chạy thoát, cả nam lẫn nữ:‘Chuyện gì đã xảy ra?’” “Mô-áp nhục nhã vì đã bị tàn phá.Hãy khóc lóc kêu than!Hãy loan báo khắp vùng sông Ạt-nôn:Mô-áp bị hủy diệt!” Cả vùng cao nguyên bị trừng phạt:Các thành Hô-long, Gia-xa, Mê-phát, Đi-bôn, Nê-bô, Bết Đíp-lát-tha-im, Ki-ri-a-tha-im, Bết Ga-num, Bết Mê-ôn, Kê-ri-giốt, Bốt-ra,Và tất cả các thành xa gần trong xứ Mô-áp. CHÚA phán:“Sừng của Mô-áp đã bị chặt đứt,Cánh tay nó đã gẫy. Hãy cho Mô-áp uống say túy lúy,Vì nó đã xấc xược chống lại CHÚA.Mô-áp sẽ nôn mửa lai lángVà chính nó sẽ thành trò cười. Có phải ngươi cũng đã từng xem Y-sơ-ra-ên như trò cười sao?Y-sơ-ra-ên có bao giờ bị bắt quả tang cùng với bọn trộm cướp không?Mà sao hễ khi nào ngươi nhắc đến nó,Ngươi cũng lắc đầu chế nhạo? Hỡi dân Mô-áp, hãy lìa bỏ nơi đô thị,Hãy ẩn náu nơi các khe đá!Hãy nên như chim bồ câu,Xây tổ nơi sườn vực sâu! Chúng tôi có nghe về tính kiêu căng của Mô-áp,Kiêu căng vô cùng,Kiêu ngạo, kiêu căng,Tự đắc, tự cao, tự đại!” CHÚA phán:“Chính Ta biết tính xấc xược của nó,Lời nó khoe khoang không nền tảng,Việc nó làm không giá trị. Vì thế tôi sẽ than khóc Mô-áp,Tôi sẽ kêu la vì toàn cõi Mô-áp,Tôi sẽ rên xiết vì dân thành Kiệt Hê-re. Hỡi cây nho Síp-ma,Ta khóc ngươi nhiều hơn ta khóc Gia-xe!Các nhánh ngươi vươn xa tận bờ biển,Vươn lên tận thành Gia-xe.Kẻ hủy diệt đã đáp xuống,Phá hại trái cây mùa hạ và mùa nho của ngươi. Vui mừng hoan hỉ không còn nữaTrong xứ Mô-áp,Vốn là đất ruộng mầu mỡ.Ta đã khiến cho các bể đạp nho cạn hết rượu,Không còn ai đạp nho với tiếng hò reo vui nữa,Tiếng hò hét không phải là tiếng hò vui. Dân chúng kêu gào vang dội từ thành Hết-bônĐến thành Ê-lê-a-lê và Gia-hát,Chúng cất tiếng kêu la từ thành Xoa, đến thành Hô-rô-na-im và Ê-lát Sê-li-sia.Ngay cả nước sông Nim-rim cũng khô cạn.” CHÚA phán:“Ta sẽ dứt khỏi Mô-ápNhững kẻ nào cúng tế tại các miếu đền,Những kẻ dâng sinh tế cho thần tượng.” Vì thế, tôi than khóc Mô-áp như tiếng sáo rên da diết,Tôi than khóc dân thành Kiệt Hê-re như tiếng sáo ủ ê,Vì của cải chúng thâu góp đã tiêu tan. Mọi người đều cạo trọc đầu,Cạo sạch râu,Cắt rạch tay,Quấn vải tang ngang lưng. CHÚA phán:“Trong toàn xứ Mô-áp, mọi người đều khóc than tang chếTrên mọi sân thượng,Tại các quảng trường,Vì Ta đã đập bể Mô-ápNhư một cái bình không ai ưa thích. Ôi, Mô-áp tan nát! Chúng khóc lóc thảm thương!Ôi, Mô-áp quay lưng, tủi nhục!Mô-áp đã thành trò cười,Nỗi khiếp sợ cho mọi nước lân bang.” Vì CHÚA phán như vầy:“Kìa, kẻ thù bay vút lên cao như chim đại bàng,Xòe cánh ra bao phủ đất Mô-áp! Thành Kê-ri-giốt bị chiếm đóng,Các đồn lũy thất thủ.Ngày ấy, các chiến sĩ Mô-áp dũng cảm đều mất hết hồn víaNhư thiếu phụ chuyển bụng đẻ. Dân tộc Mô-áp sẽ bị tiêu diệt,Vì chúng dám tự cao tự đại chống nghịch CHÚA.” CHÚA phán:“Hỡi dân Mô-áp,Kinh hoàng, vực sâu, cạm bẫy đang chờ các ngươi!” CHÚA phán:“Người nào thoát khỏi kinh hoàng sẽ rơi xuống vực sâu.Người nào leo lên khỏi vực sâu sẽ sa vào cạm bẫy.Vì Ta sẽ giáng mọi điều ấy xuống dân Mô-ápVào năm Ta trừng phạt chúng. Dân tỵ nạn kiệt sứcDừng lại dưới bóng thành Hết-bôn.Vì lửa đã phát ra từ Hết-bôn,Ngọn lửa từ giữa cung Si-hôn,Thiêu nuốt toàn dân Mô-áp,Sọ của dân ồn ào xấc xược. Hỡi Mô-áp, khốn cho ngươi!Dân của thần Kê-mốt đã bị hủy diệt,Vì con trai ngươi bị bắt đi đày,Con gái ngươi cũng vậy.” CHÚA phán:“Tuy nhiên, đến thời cuối cùng,Ta sẽ phục hồi dân tộc Mô-áp.”Lời tiên tri về sự trừng phạt dân Mô-áp chấm dứt tại đây. Về dân Am-môn.CHÚA phán như vầy:“Phải chăng Y-sơ-ra-ên không có con trai?Không người thừa kế?Tại sao thần Minh-côm xâm chiếm tỉnh Gát,Và dân nó định cư trong các thành của Gát?” CHÚA phán:“Vì thế, sẽ có ngày,Ta sẽ khiến tiếng hò hét của chiến trận vang dộiKhắp thủ đô Ráp-ba của dân Am-môn:Thủ đô sẽ thành gò đổ nát hoang tàn,Các làng mạc xung quanh sẽ bị lửa thiêu hủy,Và Y-sơ-ra-ên sẽ đánh đuổiQuân xâm lược.”CHÚA phán vậy. “Hỡi Hết-bôn, hãy gào than, vì thành A-hi điêu tàn!Hỡi các làng mạc xung quanh Ráp-ba, hãy kêu la,Hãy quấn vải tang ngang lưng, hãy đấm ngực,Hãy rạch cắt mình, chạy tới chạy lui!Vì thần Minh-côm sẽ đi đàyCùng với các thầy tế lễ và quan cận thần. Hỡi cô gái bội bạc,Sao ngươi tự hào về thung lũng,Về thung lũng phì nhiêu của mình?Ngươi tin cậy vào của cải mình, và thách thức:‘Ai dám tấn công ta?’” CHÚA Vạn Quân phán: “Này, Ta sẽ khiến kinh hoàng đổ ập xuống ngươiTừ mọi nước xung quanh.Các ngươi sẽ tháo chạy tán loạn, mỗi người mỗi ngả,Không ai tập hợp dân tỵ nạn.” CHÚA phán: “Tuy nhiên, sau này, Ta sẽ phục hồi dân Am-môn.” Về dân Ê-đôm.CHÚA Vạn Quân phán:“Phải chăng vùng Thê-man không còn người khôn ngoan?Người thông sáng đã mất tài cố vấn?Trí khôn ngoan của họ đã mòn? Hỡi dân Đê-đan, hãy quay đi, trốn chạy,Hãy ẩn mình nơi sâu kín,Vì Ta sẽ giáng tai họa xuống nhà I-sau,Đến thời Ta trừng phạt nó. Nếu thợ hái nho đến vườn ngươi,Chúng sẽ không chừa sót lại quả nào cho người mót.Nếu bọn trộm đến ban đêm,Chúng sẽ cướp phá thỏa thuê. Thật vậy, chính Ta đã lột trần I-sau,Phơi bầy chỗ ẩn núp của nó,Để nó không thể trú ẩn được.Con cháu, họ hàng, láng giềng nó đều chết mất.Không ai ra tay cứu giúp: ‘Hãy giao cô nhi cho tôi lo liệu,Các quả phụ hãy tin cậy tôi.’” Vì CHÚA phán như vầy: “Nếu những kẻ không đáng tội uống chén này vẫn phải uống, lẽ nào ngươi tránh khỏi sự trừng phạt? Không đâu, ngươi sẽ bị trừng phạt. Ngươi chắc chắn phải uống chén này.” CHÚA phán: “Ta chỉ chính mình Ta thề rằng thành Bốt-ra sẽ điêu tàn, đổ nát, bị khinh chê, nguyền rủa, và hết thảy các thành xung quanh nó đều sẽ thành đống vụn đổ nát mãi mãi.” Tôi nghe tin từ CHÚA,Ngài đã sai sứ giả đến với các nước:“Hãy tập hợp lại, tấn công nó!Hãy chuẩn bị ra trận! Này, Ta sẽ khiến ngươi nên hèn mọn nhất giữa các nước,Bị nhân loại khinh chê. Sự kinh hoàng ngươi gieo rắc,Và lòng ngạo mạn của ngươi đã lừa gạt ngươi;Ngươi sống trong khe đá,Ngươi chiếm đỉnh đồi cao;Dù ngươi xây tổ mình trên cao như chim đại bàng,Ta cũng sẽ hạ ngươi xuống.”CHÚA phán vậy. Ê-đôm sẽ hoang vắng đến phát khiếp;Mọi người đi ngang qua đều kinh hồn xuýt xoaTrước tất cả những cảnh tượng tàn khốc ấy. CHÚA phán:“Ê-đôm sẽ bị hủy diệt giống như Sô-đôm và Gô-mô-rơ,Và các thành phụ cận.Sẽ không có người sống tại đó,Cũng không ai đến đó định cư. Này, như sư tử từ rừng rậm sông Giô-đanhPhóng vào đồng cỏ bốn mùa xanh tươi,Ta sẽ đuổi người chăn ra khỏi nước trong chốc lát,Và Ta sẽ lập người Ta chọn lên cai trị.Vì ai giống như Ta? Ai dám đòi Ta khai báo?Có kẻ chăn nào dám chống đối Ta? Vì thế, hãy nghe điều CHÚA dự định làm cho Ê-đôm,Và kế hoạch Ngài dự trù cho dân Thê-man:Ngay cả những con chiên nhỏ cũng sẽ bị lôi đi,Và đồng cỏ sẽ kinh hoàng vì số phận của chúng. Đất rúng động khi nghe chúng sụp đổ,Tiếng kêu la vang dội đến Biển Đỏ. Này, kẻ thù giống như chim đại bàng bay vút lên cao,Dang cánh ra bủa đánh Bốt-ra;Trong ngày ấy, tinh thần các chiến sĩ Ê-đômGiống như lòng người phụ nữ đang chuyển bụng.” Về Đa-mách.Dân thành Ha-mát và Ạt-bát đều bối rốiVì chúng nghe tin dữ;Chúng lo âu thấp thỏmNhư biển cả không lặng sóng. Dân thành Đa-mách bủn rủnQuay lưng bỏ chạy;Chúng khiếp vía kinh hồn,Đau đớn quặn thắtNhư người phụ nữ đang chuyển bụng. Ôi, thành phố danh tiếng, đô thị nhộn nhịp,Đã rơi vào quên lãng! Vì thế, trong ngày ấy, những người trai trẻ sẽ ngã xuống ngoài đường phố,Và hết thảy các chiến sĩ sẽ nằm yên, không động đậy.CHÚA Vạn Quân phán vậy. Ta sẽ nhen lửa đốt tường thành Đa-mách,Và lửa sẽ thiêu nuốt các thành trì kiên cố của Bên Ha-đát. Về dân Kê-đa và các làng định cư trong sa mạc bị vua Nê-bu-cát-nết-sa xâm chiếm.CHÚA phán:“Hãy nổi dậy tiến đánh Kê-đa,Tàn phá dân phương đông. Chúng sẽ đem đi lều trại và bầy súc vật,Luôn cả màn trại và hết thảy các vật dụng khác,Lạc đà chúng cũng cưỡi đi,Và từ trên lưng lạc đà chúng la hét:‘Kinh hoàng tứ phía!’” CHÚA phán:“Hãy bỏ chạy, lánh đi thật xa,Hãy ẩn náu nơi sâu kín với dân các làng định cư,Vì Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, dự trù hại các ngươi,Và lập kế hoạch chống lại các ngươi.” CHÚA phán:“Hãy nổi dậy tiến đánh một dân tộc sống nhàn hạ, yên ổn,Sống tách biệt, không cần cửa đóng, then gài.” CHÚA phán:“Nhưng lạc đà của chúng sẽ cướp đi,Bầy bò đông đảo sẽ thành chiến lợi phẩm;Ta sẽ rải dân cạo tóc màng tang ra khắp các hướng gió;Ta sẽ giáng tai họa trên chúng từ mọi phía. Làng định cư sẽ thành hang chó rừng,Tiêu điều hoang vắng đến muôn đời.Không ai sống tại đó,Cũng không người nào đến đó định cư.” Đây là lời CHÚA phán với tiên tri Giê-rê-mi về Ê-lam, vào đầu triều vua Sê-đê-kia, nước Giu-đa. CHÚA Vạn Quân phán như vầy:“Này, Ta sẽ bẻ gẫy cung của Ê-lam,Là rường cột của sức mạnh chúng. Ta sẽ kéo đến Ê-lamBốn ngọn gió từ bốn phương trời,Ta sẽ rải dân Ê-lam ra theo tất cả các ngọn gió ấy,Đến nỗi sẽ không còn nước nàoMà dân tị nạn Ê-lam không kéo đến. Ta sẽ khiến Ê-lam kinh hãi trước kẻ thù,Và những kẻ tìm hại mạng sống chúng.”CHÚA phán:“Ta sẽ giáng họa trên chúng,Giáng cơn phẫn nộ phừng phừng của Ta,Ta sẽ sai gươm đuổi theo chúng,Cho đến khi nào Ta tận diệt chúng.” CHÚA phán:“Ta sẽ đặt ngai Ta tại Ê-lam,Và Ta sẽ tiêu diệt vua quan khỏi nước.” CHÚA phán:“Tuy nhiên, trong những ngày đến,Ta sẽ phục hồi dân Ê-lam.” Đây là lời CHÚA phán qua tiên tri Giê-rê-mi về Ba-by-lôn, đất nước người Canh-đê. “Hãy rao ra giữa các nước, hãy thông báo,Hãy giương cờ và thông báo,Đừng che giấu gì cả, hãy nói lên:‘Ba-by-lôn sẽ bị xâm chiếm,Thần Bên xấu hổ,Thần Mê-rô-đác khiếp đảm,Các tượng đúc xấu hổ,Các thần tượng khiếp đảm.’ Vì một dân từ phương bắc tấn công đánh nó,Làm cho đất nước nó tiêu điều hoang vắng,Đến nỗi không một ai sống tại đó nữa,Cả người và thú đều trốn chạy, mất biệt.” CHÚA phán:“Trong những ngày ấy, vào lúc ấy,Dân Y-sơ-ra-ên và dân Giu-đa sẽ cùng nhau đến,Chúng vừa đi vừa khóc lóc,Tìm kiếm CHÚA, Đức Chúa Trời mình. Chúng sẽ hỏi đường về Si-ôn,Chúng sẽ quay mặt về hướng ấy:‘Hãy đến, chúng ta hãy kết hiệp với CHÚA,Với một giao ước đời đờiKhông hề quên lãng.’ Dân Ta là đàn cừu đang chết mất;Bọn chăn dẫn chúng đi lạc,Rẽ loanh quanh trên núi;Chúng lang thang từ núi đến đồi,Quên mất ràn của mình. Ai gặp chúng cũng ăn nuốt chúng;Kẻ thù chúng còn bảo: ‘Chúng tôi sẽ không bị buộc tội,Vì chúng đã phạm tội với CHÚA, chính Ngài là đồng cỏ chân chính,Và nguồn hy vọng của tổ phụ chúng; Ngài là CHÚA.’ Hãy trốn khỏi Ba-by-lôn,Hãy ra khỏi đất nước người Canh-đê,Hãy trở nên như dê đực dẫn đầu bầy dê cừu. Này, Ta sẽ dấy lên một liên hiệp các nước lớn từ phương bắc;Chúng sẽ tiến đánh Ba-by-lôn,Chúng sẽ dàn binh,Đánh chiếm thành;Mũi tên chúng là mũi tên của chiến sĩ gieo tang tóc,Không trở về tay không.” CHÚA phán:Đất nước Canh-đê sẽ bị cướp phá,Tất cả những người cướp phá nó sẽ no nê. Hỡi những kẻ cướp bóc tài sản của Ta,Dù các ngươi vui mừng hí hửng,Dù các ngươi nhảy nhót như bò cái tơ đạp lúa,Và hí lên như ngựa giống, Mẹ các ngươi sẽ xấu hổ vô cùng,Người sinh đẻ các ngươi sẽ mang tủi nhục,Vì này, đất nước các ngươi sẽ trở nên hèn yếu nhất,Một sa mạc, khô hạn và hoang vu. Vì cơn phẫn nộ của CHÚA,Toàn cõi đất nước sẽ hoang vu, không người ở;Ai đi ngang qua Ba-by-lôn cũng kinh hoàng xuýt xoaVì tất cả đều hoàn toàn đổ nát. Hỡi tất cả những chiến sĩ bắn cung,Hãy dàn quân bao vây Ba-by-lôn!Hãy bắn vào thành, đừng tiếc mũi tên nào,Vì nó phạm tội chống nghịch CHÚA! Hãy reo hò tứ phía!Nó giơ tay đầu hàng; Các tháp canh sụp đổ,Các tường thành bị phá sập.Đây là sự báo trả của CHÚA.Hãy báo trả nó!Hãy xử với nó y như nó đã xử! Người gieo giống và người cầm lưỡi liềm vào mùa gặt,Hãy rời khỏi Ba-by-lôn!Vì lưỡi gươm ức hiếp,Ai nấy hãy quay về với dân tộc mình,Hãy trốn về quê hương mình! Dân Y-sơ-ra-ên là đàn cừu tản lạc,Bị sư tử rượt đuổi;Trước kia, vua A-si-ri ăn nuốt chúng,Sau này, Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, gặm xương chúng. Vì thế, CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy:“Này, Ta sẽ trừng phạt vua Ba-by-lôn và đất nước nó,Như Ta đã trừng phạt vua A-si-ri. Nhưng Ta sẽ đem dân Y-sơ-ra-ên trở về đồng cỏ chúng,Chúng sẽ ăn cỏ trên núi Cạt-mên và đồi Ba-san,Chúng sẽ ăn thỏa thuêTrên núi Ép-ra-im và Ga-la-át.” CHÚA phán:“Trong những ngày ấy, đến lúc ấy,Không ai tìm đượcTội ác của Y-sơ-ra-ên,Cũng chẳng ai kiếm đượcLỗi của Giu-đa,Vì Ta sẽ tha thứ những người Ta cho phép sống.” CHÚA phán:“Hãy tiến lên đánh phá đất nước Mê-ra-tha-imVà những người sống ở Phê-cốt!Hãy tàn sát, hãy tận diệt chúng,Hãy thi hành mọi điều Ta phán dạy. Trong nước vang rền tiếng giặc giã,Tàn phá khốc liệt khắp mọi nơi. Ôi, cây búa của toàn thế giớiBị chặt gẫy và đập nát tan tành!Ôi, Ba-by-lôn nằm giữa các nước,Hoang vu rùng rợn! Hỡi Ba-by-lôn, Ta đã gài bẫy ngươi,Và ngươi bị sập bẫy mà không biết;Ngươi đã bị lùng bắtVì ngươi thách thức CHÚA. CHÚA đã mở toang kho vũ khí,Ném ra ngoài các khí giới phẫn nộ;Vì CHÚA Vạn Quân có việc phải làmTrong đất nước Canh-đê. Hãy tiến vào đất nó từ mọi phía,Hãy mở toang các vựa lúa,Hãy chất thành đống như đống lúa,Hãy diệt sạch,Đừng chừa sót một ai! Hãy giết tất cả những con bò đực,Hãy đưa chúng xuống lò sát sinh!Khốn thay cho chúng,Vì ngày đoán phạt chúng đã đến! Nghe này, dân tị nạn trốn khỏi Ba-by-lôn,Đến Si-ôn thuật lạiVề sự báo trả của CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta;Ngài báo thù cho đền thờ của Ngài, Hãy triệu tập tất cả những người bắn cungĐánh lại Ba-by-lôn!Hãy đóng quân bao vây thành,Đừng cho ai chạy thoát!Hãy báo trả nó tùy theo việc nó làm,Hãy xử với nó y như nó đã xử,Vì nó xấc xược với CHÚA,Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.” CHÚA phán:“Vì thế, những kẻ trai trẻ của nó sẽ ngã xuống ngoài đường phố,Và tất cả những lính chiến của nó bị giết chết trong ngày ấy.” CHÚA Vạn Quân phán:“Này, Ta chống nghịch ngươi, hỡi kẻ xấc xược!Vì ngày của ngươi đã đến,Giờ Ta trừng phạt ngươi đã tới. Kẻ xấc xược sẽ vấp ngã,Không ai đỡ nó dậy.Ta sẽ nhen lửa đốt các thành nó,Và lửa sẽ thiêu nuốt mọi vật xung quanh.” CHÚA Vạn Quân phán như vầy:“Dân Y-sơ-ra-ên bị ức hiếp,Dân Giu-đa cũng vậy.Tất cả những người đã bắt giữ chúngĐều nắm chặt lấy chúng, không chịu thả chúng đi. Nhưng Đấng Cứu Chuộc chúng thật quyền oai,Danh Ngài là CHÚA Vạn Quân.Ngài chắc chắn sẽ bênh vực chúng,Cho đất nước chúng thanh bình,Nhưng dân Ba-by-lôn lại gặp rối loạn.” CHÚA phán:“Lưỡi gươm chống nghịch dân Canh-đê,Và những người sống ở Ba-by-lôn,Các quan chức và những kẻ khôn ngoan trong nước. Lưỡi gươm chống nghịch bói toán,Khiến chúng ra ngu dại.Lưỡi gươm chống nghịch các chiến sĩ,Làm cho chúng khiếp vía. Lưỡi gươm chống nghịch các ngựa chiến và xe chiến mã,Và tất cả bọn lính thuê,Khiến chúng thành đàn bà.Lưỡi gươm chống nghịch các kho châu báu,Khiến chúng bị cướp phá. Cơn hạn hán giáng xuống các mạch nước,Khiến chúng cạn khô.Vì đây là đất thờ hình tượng,Và dân chúng điên cuồng chạy theo các tượng ghê rợn. Vì thế, mèo rừng và chó rừng sẽ ở đó,Cùng với đà điểu;Không hề có người đến đó ở nữa,Từ đời này qua đời kia, không ai đến đó định cư.” CHÚA phán:“Như khi Đức Chúa Trời hủy diệt Sô-đôm, Gô-mô-rơ,Và các thành phụ cận,Sẽ không có người ở đó,Cũng chẳng ai đến đó lập cư. Này, một dân kéo đến từ phương bắc,Một dân tộc hùng mạnh,Và nhiều vua dấy lên từ các đầu cùng đất. Chúng nắm chặt cung và lao,Chúng hung ác, không thương xót,Tiếng chúng hét tựa như biển cả gào thét,Chúng cưỡi ngựa,Chúng trang bị như chiến sĩ sẵn sàng xông trận đánh ngươi,Hỡi Ba-by-lôn, cô gái mỹ miều! Vua Ba-by-lôn nghe tiếng đồn về bọn chúng,Tay vua rụng rời,Vua lo sợ, lòng vua quặn thắtNhư người sản phụ chuyển dạ. Này, như sư tử từ rừng rậm sông Giô-đanhPhóng vào đồng cỏ bốn mùa xanh tươi,Ta sẽ đuổi chúng ra khỏi nước trong chốc lát;Và Ta sẽ lập người Ta chọn lên cai trị.Vì ai giống như Ta? Ai dám đòi Ta khai báo?Có kẻ chăn nào dám chống đối Ta? Vì thế, hãy nghe điều CHÚA dự định làm cho Ba-by-lôn,Và kế hoạch Ngài dự trù cho đất nước Canh-đê:Ngay cả những con chiên nhỏ cũng sẽ bị lôi đi,Và đồng cỏ sẽ kinh hoàng vì số phận của chúng. Đất rúng động khi nghe Ba-by-lôn thất thủ,Tiếng kêu la vang dội giữa các nước.” CHÚA phán như vầy:“Này, Ta sẽ khiến gió nổi lênHủy diệt Ba-by-lôn và dân Canh-đê. Ta sẽ sai bọn rê thóc đến, chúng sẽ rê sạch Ba-by-lôn,Làm cho đất nước điêu tàn,Vì chúng vây đánh nó tứ phía,Trong ngày hoạn nạn. Người bắn cung hãy giương cung,Mặc áo giáp đứng sẵn sàng.Đừng thương xót những kẻ trai tráng,Hãy giết sạch toàn đội quân. Kẻ bị đâm ngã xuống đất Canh-đê,Người bị thương ngã xuống ngoài đường phố. Vì Y-sơ-ra-ên và Giu-đa không gặp cảnh góa bụa,Không thiếu vắng Đức Chúa Trời, CHÚA Vạn Quân;Nhưng đất Canh-đê đầy dẫy tội lỗi,Chống nghịch Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên. Hãy trốn khỏi Ba-by-lôn!Ai nấy phải lo cứu mạng sống mình!Đừng chết lây vì tội ác nó!Vì đây là thời kỳ báo ứng của CHÚA,Ngài sẽ báo trả nó xứng đáng. Ba-by-lôn vốn là một cái chén vàng trong tay CHÚA,Làm cho thế giới say mèm;Các dân tộc uống rượu của Ba-by-lôn,Vì thế chúng phát điên. Bỗng chốc Ba-by-lôn sụp đổ tan tành.Hãy khóc than nó!Hãy xoa dầu lên vết thương nó!Biết đâu nó sẽ lành. Chúng ta cố gắng cứu chữa Ba-by-lôn,Nhưng nó vẫn không lành.Hãy bỏ mặc nó! Chúng ta ai nấy hãy trở về quê hương mình,Vì sự đoán phạt nó lên đến tận trời,Cao đến tận mây. CHÚA đã báo thù cho chúng ta.Hãy đến, chúng ta hãy rao truyền tại Si-ônCông việc của CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta. Hãy chuốt mũi tên, bỏ đầy bao!CHÚA đã giục lòng các vua Mê-điXông đánh Ba-by-lôn,Vì Ngài có chương trình hủy diệt nó;Vì đây là sự báo trả của CHÚA,Ngài báo trả cho đền thờ của Ngài. Hãy giương cờ chống lại tường thành Ba-by-lôn,Hãy tăng cường trạm gác,Hãy đặt lính canh,Chuẩn bị quân phục kích!Vì CHÚA đã hoạch định,Và Ngài sẽ thi hành điều Ngài phán về dân Ba-by-lôn. Ngươi sống giữa nhiều dòng sông,Ngươi có nhiều kho của báu,Đời ngươi đã kết thúc,Phần lời bất lương của ngươi đã bị cắt. CHÚA Vạn Quân lấy chính mình Ngài mà thề:Chắc chắn Ta sẽ khiến quân địch tràn ngập thành như châu chấu,Tiếng chúng reo hò chiến thắng vang dội khắp nơi. Chính Ngài tạo dựng địa cầu bởi quyền năng Ngài,Sáng lập thế giới bởi sự khôn ngoan Ngài,Và giương các tầng trời bởi trí thức Ngài. Khi Ngài lên tiếng, các nguồn nước trên trời náo động,Ngài khiến hơi nước bốc lên từ nơi đầu cùng đất,Ngài khiến chớp lóe lên trong cơn mưa,Và lùa gió ra khỏi kho tàng của Ngài. Mọi người đều u mê, thiếu hiểu biết,Người thợ đúc tượng nào cũng xấu hổ vì tượng chạm mình,Vì thần tượng người đúc chỉ là thần giả để lừa bịp,Chẳng có hơi thở bên trong. Các thần tượng đều không có giá trị, chỉ là vật nhạo báng gạt gẫm,Đến ngày đoán phạt, chúng sẽ bị tiêu diệt. Nhưng phần cơ nghiệp của Gia-cốp chẳng giống chúng đâu,Vì chính Ngài nắn tạo vạn vật,Và Y-sơ-ra-ên là chi tộc của cơ nghiệp Ngài,Danh Ngài là CHÚA Vạn Quân. Ngươi là cây búa,Là vũ khí chiến trận của Ta,Ta dùng ngươi đập tan các nước,Tiêu diệt các vương quốc. Ta dùng ngươi đập tan ngựa chiến và kỵ binh,Ta dùng ngươi đập tan xe ngựa và người đánh xe; Ta dùng ngươi đập tan đàn ông và đàn bà,Ta dùng ngươi đập tan già và trẻ,Ta dùng ngươi đập tan thanh niên và thiếu nữ; Ta dùng ngươi đập tan người chăn và bầy dê cừu,Ta dùng ngươi đập tan người cầy ruộng và bò kéo cầy,Ta dùng ngươi đập tan tỉnh trưởng và quận trưởng.” CHÚA phán: “Nhưng Ta sẽ báo trả Ba-by-lôn và toàn dân Canh-đê tất cả những công việc ác chúng làm cho Si-ôn, ngay trước mắt các ngươi.” CHÚA phán:“Này, hỡi núi hủy diệt, Ta chống nghịch ngươi,Ngươi hủy diệt cả thế giới,Nhưng Ta sẽ dang tay đánh ngươi,Ta sẽ khiến ngươi lăn xuống hốc đá,Ngươi sẽ thành một núi gạch vụn cháy đen.” CHÚA phán:“Không ai sẽ moi ra được từ ngươi một tảng đá dùng làm đá góc nhàHoặc để xây nền,Vì ngươi sẽ điêu tàn mãi mãi. Hãy giương cờ lên cao trên đất!Hãy thổi tù và vang khắp các nước!Hãy biệt riêng các dân tộc ra tranh chiến với nó!Hãy điều động các vương quốc A-ra-rát, Minh-ni,Và Ách-kê-na chống lại nó!Hãy cử tổng tư lệnh!Ngựa chiến hãy xung trận như châu chấu lởm chởm đầy mặt đất! Hãy biệt riêng các dân tộc ra tranh chiến với nó:Vua Mê-điVà các tỉnh trưởng, quận trưởng,Và tất cả các lãnh thổ dưới quyền vua. Đất rúng động trong cơn đau quặn thắt,Vì CHÚA thực hiện ý định của Ngài,Biến đất nước Ba-by-lôn thành sa mạc hoang vu,Không người ở. Các chiến sĩ Ba-by-lôn ngừng giao chiến,Nép mình trong đồn lũy;Họ cạn sức,Trở nên như đàn bà;Nhà cửa trong thành bị đốt cháy,Then cài cổng thành bị bẻ gẫy. Người đưa tin chạy gặp người đưa tin,Sứ giả chạy gặp sứ giả,Báo cáo lên vua Ba-by-lôn:Cả kinh thành đều thất thủ. Những khúc sông cạn, có lối đi băng qua, đều bị chiếm giữ;Các ao sậy đều bị đốt cháy;Các chiến sĩ kinh hồn khiếp vía.” Vì CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy:“Ba-by-lôn giống như sân đạp lúaTrong giờ đạp lúa;Mùa gặt sẽ đến trong chốc lát. Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn,Ăn nuốt tôi và phá rối tôi,Vét sạch tôi như một cái nồi trống,Nuốt chửng tôi như rắn nuốt mồi,Ăn đầy bụng những món cao lương mỹ vị của tôi,Rồi đuổi tôi đi. Dân thành Si-ôn nói: ‘Cầu xin sự tàn ác gây cho tôi và dòng họ tôiĐổ lại trên dân Ba-by-lôn!’Giê-ru-sa-lem nói:‘Cầu xin huyết tôi đổ lại trên dân Canh-đê!’” Vì thế CHÚA phán như vầy:“Này, Ta sẽ biện hộ cho con,Ta sẽ báo thù cho con;Ta sẽ làm cho biển nó khô,Và mạch nước nó cạn. Ba-by-lôn sẽ đổ nát thành đống đá,Thành hang chó rừng,Chốn hoang vu kinh rợn, không người ở;Ai đi ngang qua phải xuýt xoa. Chúng đều rống lên như sư tử,Gầm gừ như sư tử con.” CHÚA phán:“Khi chúng nóng tiết,Ta sẽ dọn tiệc cho chúng,Cho chúng say sưa vui thỏa,Để rồi chúng ngủ giấc ngủ ngàn thu,Không bao giờ thức dậy nữa. Ta sẽ đem chúng xuống lò thịtNhư chiên con,Như cừu đực và dê đực. Ôi, thành Si-sách đã thất thủ!Kinh thành cả thế giới từng ca ngợi đã bị chiếm đóng!Ôi, Ba-by-lôn hoang vu rùng rợnGiữa các nước! Biển nổi dậy,Các lượn sóng gào thét tràn ngập Ba-by-lôn. Các thành phố điêu tàn,Đất nước Ba-by-lôn khô hạn, hoang vu,Không người ở,Cũng không người qua lại. Ta sẽ trừng phạt thần Bên tại Ba-by-lôn,Bắt nó nhả ra những gì nó đã nuốt;Các dân tộc không còn lũ lượt kéo về cúng bái nữa,Ngay cả tường thành Ba-by-lôn cũng sụp đổ. Hỡi dân Ta, hãy ra khỏi Ba-by-lôn,Ai nấy hãy chạy thoát thân,Tránh khỏi cơn phẫn nộ của CHÚA! Đừng ngã lòng, cũng đừng hoảng sợVì tin đồn trong nước.Năm nay, tin thế này, năm sau lại có tin thế kia.Cảnh bạo ngược tàn khốc xảy ra trong nước,Các tướng lãnh tranh giành quyền thế sát hại lẫn nhau. Vì thế, sẽ có ngàyTa trừng phạt các tượng hình Ba-by-lôn,Cả đất nước sẽ nhục nhã ê chề,Mọi người sẽ bị đâm, ngã xuống chết giữa thành.” CHÚA phán:“Trời và đất, cùng mọi vật trên trời, dưới đất,Đều reo mừng,Vì quân tàn phá hủy diệt từ phương bắcXông vào đánh Ba-by-lôn. Hỡi dân Y-sơ-ra-ên bị đâm chết, phải, dân Ba-by-lôn sẽ ngã xuống chết,Cũng như những người bị Ba-by-lônĐâm chết ngã xuống khắp cả đất. Hỡi những kẻ thoát khỏi lưỡi gươm,Hãy đi, đừng dừng lại!Từ xa, hãy tưởng nhớ CHÚA,Hãy gợi lại trong tâm trí hình ảnh Giê-ru-sa-lem. Chúng con xấu hổVì chúng con bị chế nhạo,Chúng con nhục nhã trùm mặt lại,Khi quân nước ngoài xông vàoĐền thánh của CHÚA.” CHÚA phán:“Vì thế, sẽ có ngàyTa trừng phạt các tượng hình Ba-by-lôn,Và khắp đất nước,Kẻ bị thương sẽ rên xiết.” CHÚA phán:“Dù Ba-by-lôn có lên cao đến tận trời,Dù nó xây tường thành kiên cố cao chót vót,Ta cũng sẽ sai quân tàn phá hủy diệt xông đánh nó. Hãy lắng nghe!Tiếng kêu la vang lên từ Ba-by-lôn,Tiếng tàn phá khốc liệt từ đất nước Canh-đê. Vì CHÚA đang hủy diệt Ba-by-lôn,Các lượn sóng quân thù như nước lũ gào thét,Chúng reo hò át mấtTiếng kêu la của Ba-by-lôn. Vì kẻ hủy diệt xông đánh Ba-by-lôn;Các chiến sĩ nó bị bắt,Gẫy cung;Vì CHÚA là Đức Chúa Trời thưởng phạt,Ngài chắc chắn sẽ báo trả.” Đức Vua, danh Ngài là CHÚA Vạn Quân, phán:“Ta sẽ khiến cho các cấp lãnh đạo và cố vấn,Các tỉnh trưởng, quận trưởng, và các chiến sĩ đều say mèm,Để rồi chúng ngủ giấc ngàn thu, không hề thức dậy.” CHÚA Vạn Quân phán như vầy:“Các tường thành dày chắc của Ba-by-lôn sẽ bị san bằng,Các cổng thành cao vút sẽ bị đốt cháy,Dân chúng khổ nhọc luống công,Các dân tộc lao lực mệt mỏi, công trình họ chỉ dành cho lửa.” Đây là lời tiên tri Giê-rê-mi dặn Sê-ra-gia, con Nê-ri-gia, cháu Ma-ha-sê-gia, khi ông đi qua Ba-by-lôn với vua Sê-đê-kia, nước Giu-đa, vào năm thứ tư triều vua Sê-đê-kia. Lúc ấy, Sê-ra-gia giữ chức tổng trưởng cục quân nhu. Giê-rê-mi chép vào một cuộn sách tất cả những tai họa sẽ xảy đến cho Ba-by-lôn, tức là tất cả những lời ghi chép ở trên về Ba-by-lôn. Giê-rê-mi bảo Sê-ra-gia: “Khi ông đến Ba-by-lôn, ông nhớ đọc lớn tiếng tất cả lời này, rồi cầu nguyện: ‘Lạy CHÚA, chính Ngài phán rằng Ngài sẽ hủy diệt thành này, đến nỗi không người nào ở nữa, thậm chí thú cũng không, và nơi này sẽ hoang vu mãi mãi. Khi ông đọc xong, ông hãy cột một hòn đá vào sách này, rồi quăng xuống sông Ơ-phơ-rát và nói: Ba-by-lôn sẽ chìm xuống như vậy, chẳng bao giờ nổi lên nữa, vì tai họa Ta sẽ giáng xuống trên nó.’”Lời của Giê-rê-mi chấm dứt ở đây. Sê-đê-kia được hai mươi mốt tuổi khi lên ngôi, và trị vì mười một năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là Ha-mu-ta, con gái của Giê-rê-mi, người Líp-na. Vua làm điều ác trước mặt CHÚA, theo như mọi điều vua Giê-hô-gia-kim đã làm. Những việc này xảy ra tại thành Giê-ru-sa-lem và trong nước Giu-đa đã gây cho CHÚA nổi giận đến nỗi Ngài quay lưng khỏi chúng.Vua Sê-đê-kia nổi loạn chống lại vua Ba-by-lôn. Ngày mồng mười tháng mười, năm thứ chín đời vua Sê-đê-kia, Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, kéo toàn quân xuống đánh Giê-ru-sa-lem. Chúng xây đồn đắp lũy bao vây thành. Thành bị vây mãi đến năm thứ mười một đời vua Sê-đê-kia. Ngày mồng chín tháng tư năm ấy, nạn đói trong thành trầm trọng đến nỗi dân chúng không còn thức ăn; tường thành bị chọc thủng. Ban đêm, trong khi quân Canh-đê vẫn còn bao vây thành, toàn quân trốn ra khỏi thành, xuyên qua cổng giữa hai bức tường, gần vườn ngự uyển, hướng về trũng A-ra-ba. Nhưng quân Canh-đê đuổi theo vua Sê-đê-kia, và đuổi kịp vua nơi vùng đồng bằng, chỗ khô cạn gần thành Giê-ri-cô, trong khi quân lính bỏ vua chạy tán loạn. Quân Canh-đê bắt vua Sê-đê-kia, giải về Ríp-lát thuộc lãnh thổ Ha-mát, cho vua Ba-by-lôn xét xử. Vua Sê-đê-kia, nhìn thấy tận mắt các con trai mình bị hành quyết cùng với tất cả các vương hầu quan chức Giu-đa tại Ríp-lát, theo lệnh vua Ba-by-lôn. Kế đến, vua Ba-by-lôn sai móc cả hai mắt vua Sê-đê-kia, rồi xiềng vua lại bằng xích đồng, giải về Ba-by-lôn, giam trong ngục cho đến chết. Ngày mồng mười tháng năm, nhằm năm thứ mười chín đời Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, Nê-bu-xa A-đan, chỉ huy trưởng đoàn vệ sĩ, đại diện vua Ba-by-lôn, đến Giê-ru-sa-lem. Ông ra lệnh thiêu hủy đền thờ, cung điện, và mọi nhà cửa trong thành Giê-ru-sa-lem. Bất kỳ dinh thự nào cũng bị lửa thiêu rụi. Hết thảy quân Canh-đê đi cùng với tướng chỉ huy trưởng đoàn vệ sĩ phá sập tất cả các bức tường bao bọc thành Giê-ru-sa-lem. Nê-bu-xa A-đan, chỉ huy trưởng đoàn vệ sĩ, ra lệnh lưu đày những người dân nào còn lại trong thành, cùng với bọn đào ngũ đầu hàng vua Ba-by-lôn, và những thợ thủ công còn sót lại. Nê-bu-xa A-đan, chỉ huy trưởng đoàn vệ sĩ, chừa lại thành phần nghèo nhất trong dân, những người nghèo nhất trong nước, để trồng nho và làm ruộng. Quân Canh-đê đập bể các trụ đồng của đền thờ, đế, và biển đồng trong đền thờ, rồi chở hết đồng về Ba-by-lôn. Chúng cũng khuân đi nào là nồi, xẻng, kéo, chậu, đĩa, và tất cả những dụng cụ khác bằng đồng dùng trong việc thờ phượng. Chỉ huy trưởng đoàn vệ sĩ cũng đem đi các dụng cụ bằng vàng và bằng bạc, tùy theo loại: chén, nồi đựng than, chậu, nồi, chân đèn, đĩa, chén dâng rượu. Không thể nào cân nổi khối lượng đồng của hai cột trụ, một cái biển, mười hai con bò đực bên dưới cái bể, và các đế khác do vua Sa-lô-môn cung cấp tại đền thờ. Mỗi cột trụ cao khoảng chín mét, chu vi sáu mét, rỗng ruột, dầy độ bảy cen-ti mét rưỡi. Trên đầu cột có chóp đồng, cao khoảng hai mét rưởi, chạm trổ đường viền tinh vi hình mạng lưới và trái lựu toàn bằng đồng chung quanh chóp. Cột thứ nhì cũng y như vậy, chạm trổ hình trái lựu, mỗi nửa mét chạm tám trái lựu, cứ thế suốt sáu mét. Thế là có chín mươi sáu trái lựu, thêm vào bốn trái lựu cho bốn hướng, tất cả là một trăm trái lựu trên đường viền mạng lưới chung quanh chóp. Chỉ huy trưởng đoàn vệ sĩ bắt Sê-ra-gia, thầy trưởng tế, Sô-phô-ni, phó trưởng tế, và ba thầy tế lễ gác cổng đền thờ. Trong thành Giê-ru-sa-lem, ông cũng bắt thêm một viên thái giám chỉ huy quân đội, bảy cận thần của nhà vua có mặt trong thành, viên bí thư của tổng chỉ huy quân đội lo việc động viên quân ngũ, và sáu mươi người vùng ngoại ô đang có mặt trong thành. Nê-bu-xa A-đan, chỉ huy trưởng đoàn vệ sĩ, bắt những người này, giải về cho vua Ba-by-lôn tại Ríp-lát. Vua Ba-by-lôn ra lệnh đánh và xử tử họ tại Ríp-lát, thuộc lãnh thổ Ha-mát.Thế là dân Giu-đa bị lưu đày xa quê hương. Đây là số người bị Nê-bu-cát-nết-sa lưu đày:Năm thứ bảy, 3.023 người Giu-đa; Năm thứ mười tám đời Nê-bu-cát-nết-sa,832 Người từ Giê-ru-sa-lem; Năm thứ hai mươi ba đời Nê-bu-cát-nết-sa,Nê-bu-xa A-đan, chỉ huy trưởng đoàn vệ sĩ,Lưu đày 745 người Giu-đa.Tổng cộng là bốn ngàn sáu trăm người. Sau khi Giê-hô-gia-kin, cựu hoàng Giu-đa, bị lưu đày ba mươi bảy năm, Ê-vin Mê-rô-đác, vua Ba-by-lôn, lên ngôi. Ngày hai mươi lăm tháng chạp, năm vua lên ngôi, vua ra lệnh ân xá và thả Giê-hô-gia-kin, cựu hoàng Giu-đa, ra khỏi ngục. Vua nói năng từ tốn với Giê-hô-gia-kin, và đặt ông ngồi cao hơn ngôi các cựu hoàng khác cũng đang bị lưu đày tại Ba-by-lôn. Giê-hô-gia-kin thay bỏ áo tù và thường xuyên ngồi ăn đồng bàn với vua trong suốt những ngày còn lại trong đời mình. Vua Ba-by-lôn ra lệnh cung cấp lương thực đều đặn cho Giê-hô-gia-kin, theo nhu cầu từng ngày, suốt những ngày còn lại của đời ông, cho đến khi ông qua đời. Ôi, nàng ngồi cô đơn,Dù xưa là thành đông đúc dân cư!Nay là một quả phụ,Xưa đầy quyền thế giữa các dân!Xưa là nữ vương thống trị các thành,Nay nô lệ, phải lao công cưỡng bách! Nàng khóc thảm thiết thâu đêm,Lệ đầm đìa đôi má.Những kẻ xưa kia yêu mến nàng,Nay không ai đến bên nàng với lời an ủi.Bạn bè thảy đều phản bội,Chúng trở thành những kẻ nghịch thù. Giu-đa đi lưu đầy,Lắm nỗi thống khổ nhục nhằn.Nàng ngồi than khóc giữa các dân,Không nơi an nghỉ.Mọi kẻ săn đuổi nàng,Bắt được nàng khi nàng cùng đường túng quẫn. Đường dẫn đến Si-ôn tang tóc,Vì không người đến trong ngày lễ hội.Mọi cổng thành vắng vẻ hoang vu,Các thầy tế lễ thở than.Các cô gái đồng trinh bị bắt đi nức nở,Thân phận nàng, cay đắng xót xa. Kẻ thù nàng hôm nay làm chủ,Đối thủ nàng phè phỡn, sướng vui.CHÚA đã đầy đọa nàng,Vì cớ nàng gây nhiều tội ác.Con cái nàng đi khuất,Làm tù binh lê bước trước kẻ thù. Sự vinh hiển của Thiếu Nữ Si-ôn thảy đều tan biến.Các vua chúa nàng khác nào đàn naiKhông tìm ra đồng cỏ.Họ đuối sức lê chânPhải bước đi trước kẻ thù thúc đuổi. Trong ngày lưu đày khốn khổ, nhục nhằn,Giê-ru-sa-lem nhớ lại mọi kho tàng quý báu,Từ thuở xa xưa.Khi dân nàng rơi vào tay quân địch,Không ai giúp đỡ nàng.Kẻ thù nhìn nàng, ngạo nghễ,Chúng cười nàng sụp đổ tan tành. Giê-ru-sa-lem đã phạm tội trọng,Nên nàng phải trở thành một thứ trò cười.Mọi kẻ xưa kính trọng nàng, nay khinh dể cười chê,Vì chúng nhìn thấy nàng mình trần thân trụi.Chính nàng cũng rên rỉ,Và che mặt quay đi. Váy nàng nhơ nhớp,Vì nàng chẳng hề nghĩ đến tương lai,Cho nên nàng đã rơi xuống thấp, thấp tận cùng đất đen;Nay không ai an ủi nàng.“Lạy CHÚA, xin đoái xem chúng con đau thương khốn khổ,Vì quân thù đắc thắng vênh vang!” Kẻ thù đã giang tay cướp đoạt,Lấy hết mọi báu vật kho tàng.Nàng cũng nhìn thấy quân ngoại xâmLấn vào đền thánh.Dù chính Ngài đã cấm chúngKhông được vào nơi công hội của Ngài. Toàn dân nàng rên xiếtĐi tìm bánh nuôi thân.Họ mang cả báu vật đổi lấy thức ăn,Hầu mạng mình được sống.“Lạy CHÚA, xin đoái xem,Chúng con bị khinh chê, tủi hổ dường nào!” “Này những kẻ qua đường,Hãy đến đây, nhìn kỹ mà xem,Có nỗi khổ nào bằng nỗi khổ,Tôi đang gánh chịu bởi CHÚA,Trong ngày Ngài giận dữ,Ngài đã giáng trên tôi? Từ trên cao Ngài cho lửa trời giáng xuống,Giáng sâu vào đến xương cốt của tôi.Dưới chân tôi, Ngài cho bủa lưới,Khiến tôi quay ngược lại đằng sau.Ngài bỏ tôi một mình, cô quạnh,Suốt cả ngày, đau đớn hao mòn. Ngài theo dõi lỗi lầm tôi vấp phạm,Bàn tay Ngài buộc chặt tội ác tôi;Tội lỗi tôi thành gông cùm đeo cổ,Ngài khiến sức tôi ngày một mỏi mòn.Chúa phó tôi vào tay quân cường bạo,Quân thù nghịch, tôi không thể đối đầu. Những dũng sĩ của tôi,Ngài chất lại thành đống như bó lúa.Chúa nhóm quân thùĐến nghiền nát các chàng trai.Nàng trinh nữ Giu-đa đã bị Chúa chà đạpNhư thể ép nho trong bồn rượu. Vì cớ mọi sự đó mà tôi khóc lóc,Nước mắt đầm đìa.Nhưng không ai gần tôi để mà an ủi,Không ai đem lại sức sống cho tôi.Con cái tôi đơn côi, sửng sốt,Vì kẻ thù đắc thắng tràn lan.” Si-ôn đã giơ tay lên cầu cứu,Nhưng không ai đến an ủi nàng.CHÚA ra lệnh cho các nước láng giềngTrở nên thù địch của nhà Gia-cốp.Giê-ru-sa-lem đã thànhMột thứ trò cười giữa vòng chúng. CHÚA là Đấng công bình,Chính tôi là người phản nghịch.Hỡi các dân tộc, hãy lắng tai nghe,Hãy nhìn xem nỗi khổ đau tôi đang chịu đựng.Các con trai và con gái tôiĐã bị lưu đày. Tôi kêu cầu những người đồng bạn,Chúng lừa gạt tôi, chúng phản bội tôi rồi.Các thầy tế lễ và các trưởng lão của tôiNgã gục trong thành phố,Khi cố sức tìm thức ănHầu kéo dài mạng sống. “Lạy CHÚA, xin đoái xem con khốn khổ chừng nào,Lòng dạ con bối rối bất an,Tâm hồn con điêu đứng, loạn cuồng,Vì con phản nghịch, cứng đầu, cứng cổ.Bên ngoài, gươm giáo giết hại,Bên trong, chết chóc tràn lan. Xin Chúa nghe con rên xiết,Không ai an ủi cho con.Kẻ thù nghe tin con khốn khổ,Chúng reo mừng vì Ngài đã trừng phạt con,Xin giáng xuống chúng ngày tai họa mà Ngài từng rao báo,Hầu cho chúng cũng đồng khốn khổ như con. Nguyện trước mặt Ngài, chúng lộ ra gian ác.Xin Ngài trừng phạt chúng nặng nề.Như con đã bị Ngài mạnh tay đối xử,Vì sự cứng đầu phản nghịch của con.Con đã than thở nhiều,Và tim con trở nên héo hắt.” Ôi, vì đâu Chúa nổi giận lôi đình,Làm Thiếu Nữ Si-ôn tối mày tối mặt!Từ trời cao Ngài quăngSự vinh hiển của Y-sơ-ra-ên xuống đất.Ngài chẳng màng nhớ đến bệ chân NgàiTrong ngày Ngài nổi cơn thịnh nộ. Chúa hủy diệt không chút xót thương,Mọi đồng cỏ cư dân nhà Gia-cốp.Với lòng giận dữ, Ngài phá tanCác đồn lũy của nàng Thiếu Nữ Giu-đa.Ngài hạ xuống sát đất, Ngài lăng nhụcCả vương quốc lẫn vua chúa. Trong cơn lửa giận, Ngài bẻ gẫyTất cả mọi sừng, sức mạnh của Y-sơ-ra-ên.Ngài rút tay hữu lại,Cho quân thù xông tới.Trong vòng Gia-cốp, Ngài đốt cháy lên một ngọn lửa hừng,Thiêu nuốt mọi vật chung quanh. Ngài giương cung lên như người cừu địch,Tay hữu giơ ra trong tư thế sẵn sàng.Không khác kẻ thù, Ngài cho sát hạiCác trang tuấn kiệt đáng chiêm ngưỡng.Ngài trút cơn giận như trút lửa,Xuống trại quân Thiếu Nữ Si-ôn. Chúa trở thành thù nghịch,Ngài hủy diệt Y-sơ-ra-ên.Ngài hủy diệt các thành trì, dinh thự,Ngài phá đổ các đồn lũy, tháp canh.Ngài gia tăng trong cả xứ Giu-đaCảnh khóc than và tang tóc thương đau. Ngài hủy phá cả lều lẫn vườn,Ngài triệt hạ cả nhà hội họp.Tại Si-ôn, CHÚA làm cho quên ngày Sa-bátLẫn ngày lễ hội.Trong cơn phẫn nộ, Ngài loại bỏCả vua lẫn thầy tế lễ. Chúa từ khước bàn thờ Ngài,Khinh dể luôn đền thánh.Ngài phó vào tay kẻ thùCác thành trì, dinh thự.Chúng hò hét trong nhà của CHÚANhư trong ngày lễ hội mừng vui. CHÚA quyết định phá đổCác thành trì bao bọc Thiếu Nữ Si-ôn.Ngài giăng dây đo thành,Ngài hủy diệt không chút nương tay.Ngài khiến cho cả thành trong, lũy ngoài than khóc,Cả hai cùng ảm đạm thê lương. Cổng thành lún sâu xuống đất,Ngài phá tung, Ngài đập nát then cài.Vua và các thủ lĩnh bị đày đi biệt xứ,Luật pháp cũng chẳng còn.Ngay cả các tiên triCũng không được CHÚA cho khải tượng. Các trưởng lão của Thiếu Nữ Si-ônIm lặng ngồi trên mặt đất.Họ rải bụi lên đầu,Quanh mình họ quấn áo tang sô.Các cô gái đồng trinh thành Giê-ru-sa-lem,Cúi đầu sát đất. Mắt tôi hao mòn vì suối lệ,Lòng dạ tôi rối loạn.Tâm can tôi tuôn tràn mặt đất,Vì con gái dân tôi bị hủy diệt,Vì trẻ em và trẻ sơ sinhNgất đi giữa đường phố, quảng trường. Chúng không ngừng hỏi mẹ:“Thức ăn đâu? Thức uống ở đâu?”Giữa lúc chúng ngất đi như người bị thươngNgoài đường phố,Trong khi chúng trút hơi tànTrong vòng tay người mẹ thân yêu. Ta có chứng cớ gì nói với ngươi?Ta ví ngươi với ai,Hỡi Giê-ru-sa-lem?Ta so sánh ngươi với ai,Để có thể an ủi ngươi,Hỡi Si-ôn?Vì sự đổ nát ngươi nặng nề như sự thất bại của biển cả,Ai có thể chữa lành ngươi? Các tiên tri ngươi đã xem cho ngươiNhững sự hiện thấy giả dối và lừa đảo.Họ không vạch trần tội lỗi ngươiĐể phục hồi vận mạng ngươi.Nhưng họ lại xem cho ngươiNhững sự hiện thấy giả dối và gạt gẫm. Những kẻ qua lại trên đường cáiPhủi tay chế nhạo ngươi.Chúng xuýt xoa, lắc đầu,Nhạo báng Giê-ru-sa-lem;“Có phải đây là thành phố mà người ta gọi là:‘Đẹp đẽ trọn vẹn,Niềm vui của cả thế giới’ không?” Mọi kẻ thù địch ngươiHả toác miệng chọc ngươi.Chúng xuýt xoa, nghiến răngChúng thét lên: “Chúng ta đã hủy diệt nó!A! Đây chính là ngày chúng ta trông đợi!Chúng ta đã đạt tới đích! Chúng ta đã thấy tận mắt!” CHÚA đã thi hành điều Ngài dự định.Ngài đã thực hiện lời Ngài cảnh cáo.Như Ngài đã truyền dạy từ những ngày xa xưa,Ngài phá đổ, chẳng xót thương.Ngài khiến kẻ thù vui mừng vì cớ ngươi.Ngài nâng cao sừng kẻ địch ngươi. Hãy dốc lòngKêu cầu với Chúa,Hỡi Si-ôn có tường thành vây quanh!Hãy để giọt lệ ngươi trào tuôn như thác nước,Ngày và đêm!Ngươi chớ nghỉ yên!Con ngươi của mắt ngươi chớ nín lặng! Hãy chỗi dậy, kêu cầu trong đêm tối,Vào mỗi đầu canh!Hãy trút đổ lòng ngươi ra như nước,Trước sự hiện diện của Chúa!Hãy giơ tay lên cầu khẩn NgàiVì sự sống của con cái ngươi!Chúng ngất đi vì đóiỞ mọi góc đường. Hỡi CHÚA, xin đoái xemNgài trừng phạt ai nặng nề dường nầy!Lẽ nào đàn bà phải ăn thịt bông trái của dạ mình?Ăn thịt con cái mà họ nâng niu?Lẽ nào thầy tế lễ và nhà tiên tri phải chịu sát hại ngay trong đền thờ Chúa? Trẻ và giàNằm la liệt trên mặt đất, ngoài đường phố.Con trai và con gái tôiNgã gục dưới lưỡi gươm.Ngài sát hại trong ngày Ngài nổi giận.Ngài tàn sát, chẳng xót thương. Ngài nhóm họp như trong ngày lễ trọng thể,Những kẻ chung quanh làm tôi khiếp sợ.Và trong ngày CHÚA nổi giận,Không ai thoát khỏi hoặc sống sót.Những kẻ tôi nâng niu và nuôi nấng,Kẻ thù địch tiêu nuốt hết! Tôi là người nếm biết sự khổ nạnDưới làn roi phẫn nộ của Ngài. Ngài dẫn tôi, Ngài đưa tôi điVào nơi tối tăm, không ánh sáng. Thật Ngài trở tay chống lại tôi,Liên tục suốt ngày. Ngài khiến da thịt tôi hao mòn,Ngài bẻ gãy xương cốt tôi. Ngài dùng cay đắng và hoạn nạnBao vây tôi, bao phủ tôi. Ngài bỏ tôi nơi tối tăm,Như người chết lâu đời. Ngài đắp lũy chung quanh tôi, tôi không thoát ra được,Ngài xiềng tôi bằng dây xích nặng. Mặc tôi kêu la cầu cứu.Ngài bịt tai, chẳng nghe lời cầu nguyện tôi. Ngài dùng đá chặn đường tôi,Bẻ cong đường lối tôi. Ngài đối với tôi khác nào gấu rình mồi,Sư tử núp chực sẵn. Ngài lôi tôi ra khỏi đường cái, xé tôi tan nát.Ngài bỏ tôi cô quạnh. Ngài giương cung, và đặt tôi xuống,Làm mục tiêu cho mũi tên Ngài. Ngài bắn vào tim tôiCác mũi tên trong bao Ngài. Tôi thành trò cười cho mọi người,Chúng hát chế nhạo tôi suốt ngày. Ngài cho tôi ăn cỏ đắng chán chê,Uống ngải cứu đến phát ngấy. Ngài mài răng tôi trên sỏi,Khiến tôi nằm co quắp trong tro. Ngài ném tôi ra khỏi sự an lành,Tôi quên, không còn biết phước hạnh là gì. Tôi tự nhủ: Sức chịu đựng tôi tiêu tan,Tôi không còn hy vọng gì nơi CHÚA cả. Xin nhớ đến cảnh lưu đầy khốn khổ của tôi,Ngải cứu và cỏ đắng. Tôi thật nhớ mãi,Và lòng tôi chùn xuống. Nhưng điều này tôi sực nhớ,Do đó tôi hy vọng. Vì cớ tình yêu thương thành tín của CHÚA, chúng tôi không bị tiêu diệt,Lòng thương xót Ngài chẳng dứt. Nhưng tươi mới luôn mỗi buổi sáng;Sự thành tín Ngài lớn thay! Tôi tự nhủ: “CHÚA là phần sản nghiệp của tôi,Do đó tôi hy vọng nơi Ngài. CHÚA nhân từ đối với người trông đợi Ngài,Đối với người tìm kiếm Ngài. Tốt thay cho người yên lặng hy vọng nơiSự cứu giúp từ CHÚA! Tốt thay cho người mang ách khi còn tráng kiện! Người hãy ngồi riêng ra, yên lặng,Khi Ngài đặt ách trên người. Người hãy đặt miệng kề bụi đất,Biết đâu còn hy vọng! Người hãy đưa má cho người khác vả,Nín chịu sỉ nhục ê chề. Vì Chúa không từ bỏ mãi mãi, Nhưng dù Ngài gây đau khổ, Ngài sẽ thương xótTùy theo tình yêu thành tín dư dật của Ngài. Vì Ngài không vui lòng hành hạ,Hoặc gây đau khổ cho loài người. Giày đạp dưới chânMọi tù nhân trên đất. Tước đoạt quyền lợi của ngườiTrước sự hiện diện của Đấng Tối Cao. Bóp méo công lý của người,Chúa há không thấy sao? Ai phán, và điều ấy xảy ra?Chúa há chẳng ra lịnh sao? Há chẳng phải từ miệng Đấng Tối CaoMà ra tai họa, phước lành sao? Cớ sao người đang sống lại than phiềnKhi bị sửa phạt vì tội mình phạm? Chúng ta khá xét và thử đường lối mình,Và trở về cùng CHÚA! Chúng ta khá giơ cả lòng và tay lênHướng về Đức Chúa Trời trên trời cao! Chúng tôi có phạm tội và bội nghịch,Ngài không tha thứ. Ngài bao phủ mình bằng thịnh nộ và săn đuổi chúng tôi.Ngài sát hại, chẳng xót thương. Ngài bao phủ mình bằng đám mây,Hầu cho không lời khấn nguyện nào vượt qua khỏi. Ngài khiến chúng tôi nên cặn bã và rác rướiGiữa các dân. Mọi kẻ thù địch chúng tôiHá toác miệng nhạo báng chúng tôi. Hoảng sợ và cạm bẫy,Điêu tàn và đổ nát giáng trên chúng tôi. Mắt tôi tuôn tràn giọt lệ như dòng nước,Vì con gái dân tôi bị hủy diệt. Mắt tôi trào lệ không ngừng,Không nghỉ. Cho đến khi CHÚA từ trời cao nhìn xuốngVà xem thấy. Mắt tôi khiến tôi đau xótVì số phận các thiếu nữ trong thành. Kẻ thù vô cớSăn đuổi tôi ráo riết như săn chim. Chúng tìm cách diệt mạng sống tôi trong hố,Chúng ném đá tôi. Nước phủ lút đầu tôi;Tôi tự nhủ: ‘Tôi chết mất rồi!’ Tôi kêu cầu danh Ngài, hỡi CHÚA,Từ nơi hố sâu. Ngài nghe tiếng tôi.‘Xin chớ bịt tai Ngài khỏi tiếng kêu xin cứu giúp của tôi!’ Ngài đến gần trong ngày tôi kêu cầu.Ngài phán: ‘Chớ sợ!’ Chúa binh vực duyên cớ tôi.Ngài cứu mạng sống tôi. Hỡi CHÚA, Ngài nhìn thấy tôi bị áp bức,Xin Ngài xét lẽ công bình cho tôi! Ngài nhìn thấy sự trả thù của chúng,Mọi âm mưu chúng chống lại tôi. Hỡi CHÚA. Ngài nghe lời chúng mắng nhiếc tôi,Mọi âm mưu chúng chống lại tôi. Môi miếng và tư tưởng của kẻ thù địch tôiChống nghịch tôi suốt ngày. Xin Ngài đoái xem, khi chúng ngồi khi chúng đứng,Chúng hát chế nhạo tôi. Hỡi CHÚA, xin báo trả chúngTùy theo công việc tay chúng làm! Xin ban cho chúng lòng cứng cỏi.Xin giáng tai họa trên chúng! Xin săn đuổi chúng trong cơn giận của Ngài,Xin hủy diệt chúng khỏi dưới bầu trời, hỡi CHÚA.” Ôi, vàng lu mờ,Vàng ròng đã đổi sắc!Những hòn đá thánhĐổ ra ở mọi góc đường! Ôi, con cái quý chuộng của Si-ôn,Đáng giá ngàn vàng.Nhưng nay coi như đồ sành,Việc làm của tay người thợ gốm! Ngay cả chó rừng cũng đưa vú ra cho con mình bú.Nhưng con gái dân tôi trở nên độc ácKhác nào đà điểu trong đồng vắng! Lưỡi con trẻ còn búDính vào họng vì khát.Trẻ con xin bánh,Nhưng không ai chia bánh. Những kẻ xưa ăn cao lương mỹ vị,Nay nằm gục ngoài đường phố.Những kẻ xưa lớn lên trong nhung lụa.Nay ôm đống rác bươi móc. Sự hình phạt con gái dân tôiNặng hơn hình phạt thành Sô-đôm.Thành ấy sụp đổ trong chốc lát,Bàn tay người không xen vào. Các bậc quyền thế nàng sạch hơn tuyết, trắng hơn sữa.Da thịt hồng hào hơn san hô,Râu tóc như đá lam bửu. Nhưng nay diện mạo họ đen hơn lọ,Không ai nhận ra họ ngoài đường phố.Da họ nhăn nheo trên lớp xương,Khô héo như củi. Những kẻ chết vì gươm giáo có phướcHơn những kẻ chết vì đói kém:Họ chết dần mòn, họ bị thương tích,Vì thiếu hoa quả của đồng ruộng. Bàn tay của những bà hay thương xótNấu con cái của chính họ.Thành thức ăn cho chính mình.Khi con gái tôi bị hủy diệt. CHÚA đổ hết cơn thịnh nộ.Ngài trút hết cơn giận;Ngài nhen lửa tại Si-ôn,Lửa thiêu rụi nền móng thành. Các vua trên đất không tin,Mọi người sống trên trần gian cũng không tin.Rằng kẻ thù địch có thể xâm chiếmCổng thành Giê-ru-sa-lem. Vì cớ tội lỗi của các tiên tri nàng,Vì cớ sự gian ác của các thầy tế lễ nàng.Là kẻ làm đổ ra, ngay giữa thành,Máu của người công bình. Chúng đi lảo đảoNhư người mù ngoài đường phố,Ô uế vì dính máu.Đến nỗi không ai dám sờ đến quần áo chúng. “Đi chỗ khác! Ô uế!” họ thét lên với chúng;“Đi! Đi! Chớ sờ đến ta!”Thế là chúng sống lang thang, trốn chui trốn nhũi,Họ nói: “Chúng không được định cư giữa các dân!” Chính CHÚA đã phân tán chúng,Ngài không còn đoái xem chúng nữa.Họ không tôn trọng các thầy tế lễ,Cũng không ưu đãi các trưởng lão. Mắt chúng tôi trông đợi mỏi mòn,Sự cứu giúp chẳng hề đến.Chúng tôi ngóng trông, từ vọng canh,Một dân tộc chẳng hề cứu giúp. Chúng bám sát chúng tôi từng bước,Đến nỗi chúng tôi không thể bước đi ngoài đường phố.Sự cuối cùng chúng tôi gần kề,Số những ngày chúng tôi đã trọn,Sự cuối cùng chúng tôi đã đến. Những kẻ săn đuổi chúng tôi nhanh hơnChim đại bàng trên trời,Chúng lùng bắt chúng tôi trên núi,Rình rập chúng tôi trong đồng vắng. Hơi thở chúng tôi, người mà CHÚA xức dầu,Đã sập bẫy của chúng.Chúng tôi từng nói về người:“Chúng tôi sẽ sống, núp dưới bóng người, giữa các dân.” Hãy đắc chí reo mừng, hỡi Ê-đôm,Hỡi ngươi là kẻ sống trong miền đất U-xơ!Nhưng rồi chén thịnh nộ cũng sẽ trao sang tay ngươi,Ngươi sẽ say và tự lột trần ra! Sự hình phạt ngươi đã trọn, hỡi Si-ôn!Ngài không còn bắt ngươi sống lưu đầy nữa!Nhưng Ngài sẽ trừng phạt gian ác ngươi, hỡi Ê-đôm!Ngài sẽ vạch trần tội lỗi ngươi ra! Hỡi CHÚA, xin Ngài nhớ lại điều đã xảy ra cho chúng tôi,Xin đoái xem sự sỉ nhục của chúng tôi! Sản nghiệp chúng tôi, Ngài đã trao cho kẻ lạ,Nhà cửa chúng tôi, cho người nước ngoài. Chúng tôi trở nên mồ côi, không có cha,Mẹ chúng tôi là quả phụ. Nước chúng tôi uống, phải đổi bằng bạc,Củi mang về phải trả tiền. Chúng tôi bị săn đuổi ráo riết,Chúng tôi mệt mỏi nhưng không được nghỉ. Chúng tôi xòe tay ra xin Ai-cập và A-sua,Hầu có đủ bánh ăn. Tổ phụ chúng tôi phạm tội, họ qua đời rồi.Chúng tôi phải gánh chịu hình phạt tội lỗi họ. Tôi mọi cai trị chúng tôi,Không ai giải thoát chúng tôi khỏi tay chúng. Chúng tôi liều mạng sống để được bánh,Trước lưỡi gươm trong đồng vắng. Da chúng tôi nóng cháy như lò nướng bánh,Vì cơn sốt do đói kém gây ra. Chúng hãm hiếp phụ nữ tại Si-ôn,Các thiếu nữ trong các thành của Giu-đa. Bàn tay chúng treo cổ các bậc vua chúa,Chúng không kính nể các vị trưởng lão. Kẻ trai tráng phải xay cối,Thiếu niên đi xiểng liểng dưới bó củi. Các trưởng lão từ bỏ cổng thành,Kẻ trai tráng ngừng chơi âm nhạc. Niềm vui trong lòng chúng tôi đã tắt,Nhảy múa biến thành tang chế. Mão miện rơi xuống khỏi đầu chúng tôi,Khốn thay cho chúng tôi, vì chúng tôi phạm tội! Vì cớ đó, lòng chúng tôi đau xót,Vì cớ những sự đó, mắt chúng tôi mờ đi. Trên núi Si-ôn điêu tàn,Chó rừng đi lảng vảng. Nhưng Ngài, hỡi CHÚA, Ngài trị vì đời đời,Ngôi Ngài còn từ đời này đến đời kia! Cớ sao Ngài quên chúng tôi mãi,Cớ sao Ngài bỏ chúng tôi lâu dường ấy? Hỡi CHÚA, xin kéo chúng tôi về với Ngài, hầu chúng tôi quay về;Xin làm mới lại những ngày của chúng tôi y như xưa. Nhưng Ngài hoàn toàn từ bỏ chúng tôi,Ngài giận chúng tôi quá đỗi. Vào năm thứ ba mươi, ngày năm tháng tư; tôi đang ở giữa những người bị lưu đày tại kinh Kê-ba; các tầng trời mở ra và tôi thấy một khải tượng của Đức Chúa Trời. Ngày năm tháng ấy, vào năm thứ năm từ khi vua Giê-hô-gia-kin bị lưu đày Lời của CHÚA đến cùng Ê-xê-chi-ên, con trai của Bu-xi thầy tế lễ đang ở trong xứ của người Canh-đê, bên bờ kinh Kê-ba; tại đó bàn tay của CHÚA đặt trên người. Tôi nhìn và kìa một trận cuồng phong từ phương bắc thổi đến; một đám mây lớn và lửa chớp nhoáng sáng rực chung quanh; từ giữa nó có cái gì như kim loại bóng loáng ở giữa lửa. Tại trung tâm, có cái gì giống như bốn con sinh vật và hình dạng thế nầy: Nó giống như hình người. Mỗi con có bốn mặt và bốn cánh; các chân thẳng, bàn chân như bàn chân bò, sáng rực như đồng thau bóng loáng; dưới các cánh ở bốn bên đều có tay người. Bốn con thú có mặt và cánh như sau: Cánh của con này tiếp giáp với cánh của con kia; mỗi con cứ đi thẳng tới trước mặt, khi đi không quay lui. Mặt chúng giống như thế này: mỗi con có mặt người; mỗi con trong bốn con có mặt sư tử bên phải, mỗi con trong bốn con có mặt bò bên trái, mỗi trong bốn con có mặt chim ưng; mặt của chúng là như thế. Các cánh giương lên cao; mỗi con có một cặp cánh tiếp giáp với cánh của con kia; cặp cánh kia che thân mình. Mỗi con đi thẳng tới trước mặt; đi tới nơi nào thần dẫn dắt và không quay lui khi đi. Hình dạng con sinh vật giống như than lửa cháy; như bó đuốc đi tới đi lui giữa con sinh vật; lửa sáng rực và có chớp từ lửa phát ra. Con sinh vật chạy tới, chạy lui như ánh chớp. Khi tôi nhìn xem các sinh vật, kìa có một bánh xe trên đất bên cạnh sinh vật, mỗi bánh xe cho một con sinh vật bốn mặt. Hình dáng và cấu trúc của các bánh xe giống như bích ngọc sáng ngời; bốn bánh xe đều giống nhau. Hình dáng và cấu trúc các bánh xe như một bánh xe lồng trong một bánh xe khác. Khi sinh vật đi, nó đi theo hướng của một trong bốn mặt và không quay qua quay lại trong khi đi. Vòng bánh xe to lớn và dễ sợ; cả bốn vòng bánh xe đều đầy mắt chung quanh. Khi các sinh vật di chuyển, các bánh xe cũng di chuyển bên cạnh; khi các sinh vật cất lên khỏi đất, các xe cũng cất lên theo. Bất cứ nơi nào thần muốn đi, các sinh vật đi đến và các bánh xe cất lên theo bên cạnh; vì thần của các sinh vật ở trong các bánh xe. Khi các sinh vật di chuyển, các bánh xe di chuyển; khi các sinh vật đứng lại, các bánh xe cũng đứng lại; khi các sinh vật cất lên khỏi đất, các bánh xe cũng cất lên bên cạnh, vì thần của các sinh vật ở trong các bánh xe. Trên đầu các sinh vật có cái gì giống cái vòm thủy tinh sáng ngời, dễ sợ; giải rộng trên đầu chúng. Dưới vòm là hai cánh giương thẳng ra, cái này hướng về cái kia; mỗi con sinh vật có hai cánh che thân thể bên này và bên kia. Khi chúng đi, tôi nghe tiếng của các cánh chúng nó như tiếng nước lớn, như tiếng Đấng Toàn Năng, tiếng ồn ào của một đoàn quân. Khi chúng đứng lại, các cánh rủ xuống. Có một tiếng nói trên vòm phía trên đầu sinh vật. Khi chúng đứng lại, các cánh rủ xuống. Phía trên cái vòm ở trên đầu các sinh vật có cái gì giống như cái ngai bằng ngọc bích, trên cái giống như ngai đó có cái gì giống như hình người. Tôi thấy từ thắt lưng trở lên giống như đồng thau sáng loáng, như lửa bao quanh; từ thắt lưng trở xuống, tôi thấy giống như lửa và hào quang chung quanh. Tôi thấy hào quang chung quanh như cái mống trên mây khi trời mưa.Sự ấy giống như vinh quang của CHÚA. Khi tôi thấy điều ấy, tôi cúi mặt xuống và nghe tiếng phán. Ngài phán cùng tôi: “Hỡi con người, hãy đứng dậy trên chân ngươi; Ta sẽ phán với ngươi.” Khi Ngài phán với tôi, thần vào trong tôi, làm cho tôi đứng lên trên chân mình. Tôi nghe Ngài phán với tôi: “Hỡi con người, Ta sai ngươi đến cùng con dân Y-sơ-ra-ên, đến cùng một nước phản nghịch, chúng đã phản nghịch cùng Ta, chúng nó và tổ tiên chúng nó đã phạm tội nghịch Ta cho đến ngày nay. Ta sai ngươi đến cùng các con dân mặt mày lì lợm, tấm lòng chai đá; hãy đến cùng chúng và phán rằng CHÚA phán như vầy: Dù chúng chịu nghe hay không chịu nghe, vì chúng là nhà phản nghịch, thì chúng cũng biết rằng có một tiên tri ở giữa vòng chúng. Còn ngươi, hỡi con người, đừng sợ chúng nó, cũng đừng sợ những lời chúng nó nói; dù gai góc bao quanh ngươi, ngươi ngồi trên bọ cạp, đừng sợ các lời chúng nói, chớ kinh hoảng vì bộ mặt chúng nó vì chúng là nhà phản nghịch. Ngươi hãy phán lời của Ta cho chúng nó, dù chúng nó chịu nghe hay không chịu nghe, vì chúng nó là những kẻ phản nghịch. Còn ngươi, hỡi con người, hãy nghe lời Ta phán cùng ngươi, đừng phản nghịch như nhà phản nghịch ấy, hãy há miệng và ăn điều Ta ban cho ngươi.” Tôi nhìn, kìa có một bàn tay chìa ra cho tôi; trong tay có một cuộn sách. Cuộn sách mở ra trước mặt tôi, có chữ viết cả mặt trong lẫn mặt ngoài; ấy là những lời than vãn, khóc lóc và khốn nạn. Ngài phán cùng tôi: “Hỡi con người, hãy ăn cái gì ngươi thấy, hãy ăn cuộn sách này và đi nói cho nhà Y-sơ-ra-ên.” Tôi mở miệng và ăn cuộn sách ấy. Ngài phán cùng tôi: “Hỡi con người, hãy ăn cuộn sách này vào bụng, hãy làm cho đầy ruột gan cuộn sách mà Ta ban cho ngươi.” Tôi ăn cuộn sách và nó ngọt như mật trong miệng tôi. Ngài phán cùng tôi: “Hỡi con người, hãy đi đến nhà Y-sơ-ra-ên và phán cùng chúng các lời của Ta. Vì ngươi không phải được sai đến cùng một dân tộc ngoại quốc, nói tiếng khó hiểu nhưng đến cùng nhà Y-sơ-ra-ên. Ngươi không phải được sai đến cùng các dân tộc ngoại quốc, nói tiếng khó hiểu và lời nói của họ ngươi không hiểu được. Nếu Ta sai ngươi đến với chúng nó ắt chúng nó đã nghe ngươi. Nhà Y-sơ-ra-ên sẽ không nghe ngươi vì chúng nó không muốn nghe Ta. Vì cả nhà Y-sơ-ra-ên đều cứng đầu và lòng chai đá. Này, Ta sẽ làm mặt ngươi cứng như mặt chúng nó và trán ngươi cứng như trán chúng nó. Ta sẽ ban cho ngươi trán cứng như kim cương, cứng hơn đá lửa. Đừng sợ chúng nó, chớ kinh hoảng vì bộ mặt chúng nó, vì chúng là nhà phản nghịch.” Ngài phán cùng tôi: “Hỡi con người, hãy nhận vào lòng và lấy tai nghe tất cả những lời Ta phán cùng ngươi. Hãy đi đến cùng những người bị lưu đày, đến cùng dân ngươi, hãy phán cùng chúng nó, nói với chúng rằng: CHÚA phán như vầy, dù chúng chịu nghe hay không chịu nghe.” Bấy giờ thần cất tôi lên, tôi nghe phía sau tôi có tiếng động lớn ầm ầm rằng: Đáng chúc tụng sự vinh quang của CHÚA ở nơi Ngài. Tôi nghe tiếng động lớn ầm ầm, tiếng vỗ cánh của con sinh vật chạm vào nhau và tiếng bánh xe bên hông chúng. Thần cất tôi lên, đem tôi đi; tôi đi trong lòng cay đắng, tức giận. Tay của CHÚA đặt mạnh trên tôi. Tôi đến cùng những người bị lưu đày ở Tên-a-víp, bên bờ kinh Kê-ba là nơi họ định cư; tôi ngồi đó choáng váng đến bảy ngày ở giữa họ. Cuối bảy ngày, có lời của CHÚA phán cùng tôi: “Hỡi con người, Ta đặt ngươi làm người canh giữ nhà Y-sơ-ra-ên. Khi nào ngươi nghe lời Ta phán, hãy cảnh cáo chúng nó cho Ta. Khi Ta phán với kẻ ác rằng: Ngươi chắc sẽ chết nhưng ngươi không cảnh cáo nó, không nói lời cảnh cáo kẻ ác để nó tránh con đường ác hầu được sống. Kẻ ác đó sẽ chết vì tội lỗi nó nhưng Ta sẽ đòi máu nó nơi tay ngươi. Nhưng nếu ngươi cảnh cáo kẻ ác mà nó không từ bỏ điều ác cùng đường dữ, nó sẽ chết vì tội lỗi nó, nhưng ngươi được thoát mạng. Khi một người công chính từ bỏ công chính và phạm tội; Ta sẽ đặt chướng ngại trước mặt nó và người ấy sẽ chết vì tội lỗi. Nhưng ngươi không cảnh cáo nó; việc công chính người ấy đã làm sẽ không còn được nhớ đến, nhưng Ta sẽ đòi máu nó nơi tay ngươi. Nếu ngươi cảnh cáo người công chính đừng phạm tội; người ấy không phạm tội nên sẽ sống vì đã nghe lời cảnh cáo, còn ngươi được thoát mạng.” Tay CHÚA đặt trên tôi và Ngài phán với tôi: “Hãy đứng dậy, đi ra ngoài cánh đồng và tại đó Ta sẽ phán với ngươi.” Tôi đứng dậy và đi ra ngoài cánh đồng. Kìa vinh quang của CHÚA ở tại đó, như vinh quang mà tôi đã thấy bên bờ kinh Kê-ba, tôi cúi mặt xuống. Thần vào trong tôi, nâng tôi đứng lên trên chân và phán bảo tôi: “Hãy vào và giam mình trong nhà. Hỡi con người, này, chúng nó sẽ cột ngươi bằng dây, ngươi sẽ bị cột với chúng nó và không thể đi ra giữa chúng nó. Lưỡi ngươi sẽ dính vào hàm và ngươi sẽ câm; ngươi sẽ không còn là người quở trách chúng nó nữa vì chúng nó là nhà phản nghịch. Nhưng khi Ta phán với ngươi, Ta sẽ mở miệng ngươi và ngươi hãy phán cùng chúng nó: ‘CHÚA phán như vầy,’ ai chịu nghe, hãy nghe; ai không chịu nghe, sẽ không nghe. Vì chúng nó là nhà phản nghịch. Còn ngươi, hỡi con người, hãy lấy một viên gạch để trước mặt ngươi và khắc trên ấy thành Giê-ru-sa-lem. Ngươi hãy công hãm thành, xây tường bao vây, đắp mô chung quanh, dựng trại đóng quân tấn công và đặt máy phá thành xung quanh nó. Hãy lấy một cái chảo sắt, đặt nó như bức tường sắt giữa ngươi và thành, ngươi hãy xoay mặt hướng về phía nó, nó sẽ bị vây và ngươi sẽ vây hãm nó. Đây là một dấu hiệu cho nhà Y-sơ-ra-ên. Ngươi hãy nằm nghiêng bên trái, đặt tội lỗi nhà Y-sơ-ra-ên trên ngươi; Ngươi nằm như thế bao nhiêu ngày thì mang lấy tội lỗi chúng nó bấy nhiêu ngày. Ta đã định cho ngươi số ngày bằng với số năm tội lỗi, ba trăm chín mươi ngày và ngươi sẽ mang tội lỗi nhà Y-sơ-ra-ên như vậy. Khi các ngày này chấm dứt, một lần nữa, ngươi hãy nằm nghiêng mình bên phải; ngươi sẽ mang tội lỗi nhà Giu-đa. Ta đã định cho ngươi bốn mươi ngày, mỗi ngày cho một năm. Ngươi hãy xoay mặt hướng về sự vây hãm thành Giê-ru-sa-lem và với cánh tay trần phán tiên tri nghịch cùng nó. Này Ta sẽ lấy dây cột ngươi để ngươi không thể xoay qua bên này hay bên kia cho đến khi các ngày vây hãm ngươi chấm dứt. Ngươi hãy lấy lúa mì, lúa mạch, đậu, đậu lăng, kê và lúa đại mạch, để chúng vào trong một bình, dùng làm bánh ăn. Ngươi nằm nghiêng bao nhiêu ngày thì ăn bánh ấy trong bấy nhiêu ngày, tức là ba trăm chín mươi ngày. Đồ ăn ngươi sẽ ăn cân nặng hai mươi shê-ken mỗi ngày; ngươi phải ăn vào cùng một thì giờ nhất định mỗi ngày. Nước cũng sẽ được lường, ngươi sẽ uống một phần sáu hin vào cùng một thì giờ nhất định. Ngươi sẽ ăn bánh lúa mạch được nướng bằng phân người ở trước mắt chúng.” CHÚA phán: “Con dân Y-sơ-ra-ên sẽ ăn bánh ô uế như vậy tại giữa vòng các nước mà Ta đuổi chúng nó đến.” Nhưng tôi nói: “Ôi, lạy CHÚA, tôi chưa hề tự làm ô uế mình; từ nhỏ đến giờ tôi không hề ăn con vật chết tự nhiên hay bị thú dữ cắn xé; thịt ô uế cũng không vào miệng tôi.” Ngài phán với tôi: “Này, Ta cho ngươi dùng phân bò thay cho phân người để nướng bánh.” Ngài phán với tôi: “Hỡi con người, này, Ta sẽ phá vỡ nguồn cung cấp thực phẩm trong Giê-ru-sa-lem. Chúng nó sẽ ăn bánh theo cân lượng khẩu phần và sợ sệt; chúng sẽ uống nước bị đong lường và kinh hoàng. Như thế, thực phẩm và nước uống khan hiếm; người Ta nhìn nhau kinh hoàng và bị tiêu diệt trong tội lỗi mình. Còn ngươi, hỡi con người, hãy lấy một cây gươm bén như dao thợ cạo; hãy cạo đầu và râu rồi lấy một cái cân để cân và chia tóc. Ngươi hãy đốt một phần ba tóc trong thành khi những ngày bao vây chấm dứt; lấy gươm chặt một phần ba kia ở chung quanh thành và rải một phần ba còn lại trong gió, còn Ta sẽ rút gươm ra đuổi theo chúng. Ngươi cũng lấy một ít sợi tóc ở đó cột vào vạt áo mình. Ngươi lại lấy một số từ các sợi tóc ấy và ném vào giữa đám lửa để đốt đi; từ đó ngọn lửa sẽ phát cháy trên khắp nhà Y-sơ-ra-ên. CHÚA phán như vầy: Đây là Giê-ru-sa-lem mà Ta đã đặt giữa các quốc gia, các nước bao quanh nó. Y-sơ-ra-ên đã phản nghịch chống lại các sắc lệnh và quy luật của Ta; gian ác hơn các quốc gia, các nước chung quanh; chúng từ khước, không sống theo các sắc lệnh và quy luật của Ta. Cho nên, CHÚA phán như vầy: Vì các ngươi rối loạn hơn các nước chung quanh; không sống theo các quy luật Ta, không làm theo các mạng lệnh Ta; cũng không theo nổi luật lệ của các nước chung quanh. Cho nên, CHÚA phán như vầy: Này, Ta, chính Ta chống lại các ngươi; Ta sẽ phán xét các ngươi trước mắt các nước. Vì mọi sự ghê tởm của ngươi, Ta sẽ làm giữa ngươi một điều mà Ta chưa bao giờ làm và cũng sẽ không bao giờ làm như thế nữa. Cho nên, giữa vòng ngươi, cha sẽ ăn thịt con cái, con cái ăn thịt cha; Ta sẽ phán xét ngươi và rải những kẻ sống sót của ngươi ra khắp mọi phương. Cho nên, CHÚA phán: Chắc chắn như Ta hằng sống, vì các ngươi đã làm ô uế đền thánh Ta bằng các đồ gớm ghiếc, ghê tởm; Ta cũng sẽ cắt bỏ ngươi, mắt Ta sẽ không đoái nhìn và Ta cũng không thương xót. Một phần ba các ngươi sẽ chết vì dịch lệ hoặc bị hủy diệt vì đói kém giữa vòng các ngươi; một phần ba sẽ ngã chết vì gươm giáo xung quanh ngươi; một phần ba bị tản lạc khắp các phương và Ta sẽ rút gươm đuổi theo chúng. Cơn giận của Ta sẽ được tỏ ra, Ta sẽ đổ cơn giận Ta trên chúng nó rồi Ta sẽ thỏa giận. Chúng nó sẽ biết rằng chính Ta, CHÚA, đã phán với chúng trong sự ghen tuông khi Ta đổ cơn giận Ta trên chúng. Hơn thế nữa, Ta sẽ làm cho ngươi trở nên hoang phế, làm cớ chế nhạo cho những nước chung quanh và trước mắt mọi kẻ qua lại. Ngươi sẽ là sự chế nhạo, chê cười, cảnh cáo và kinh hoàng cho những nước chung quanh khi Ta dùng sự thịnh nộ, giận dữ và trừng phạt nặng nề để phán xét ngươi; chính Ta, CHÚA đã phán như vậy. Khi Ta bắn mũi tên đói kém và chết chóc vào các ngươi là những kẻ đáng bị hủy diệt; Ta bắn để hủy diệt các ngươi, Ta cũng thêm đói kém cho các ngươi và phá bỏ nguồn thực phẩm của các ngươi. Ta sẽ sai đói kém và thú dữ đến với các ngươi; chúng sẽ cướp mất con cái các ngươi; dịch lệ và máu sẽ tràn qua các ngươi; Ta sẽ đem gươm giáo đến cùng các ngươi. Chính Ta là CHÚA, đã phán như vậy.” Lời của CHÚA đến với tôi rằng: “Hỡi con người, hãy hướng mặt về phía các núi của Y-sơ-ra-ên và phán tiên tri nghịch lại chúng. Hãy nói với các núi của Y-sơ-ra-ên: ‘Hãy nghe lời của CHÚA phán như vầy cùng các núi, các đồi, khe núi và thung lũng: Này, chính Ta sẽ đem gươm giáo chống các ngươi; Ta sẽ hủy diệt những nơi thờ tự của các ngươi. Những bàn thờ của các ngươi sẽ bị phá hủy; những hương án của các ngươi sẽ bị đập bể; Ta sẽ ném những kẻ bị giết của các ngươi trước mặt các tượng thần các ngươi. Ta sẽ đặt các xác chết của dân Y-sơ-ra-ên trước mặt các tượng thần của chúng nó và Ta sẽ rải xương các ngươi chung quanh bàn thờ của các ngươi. Nơi nào ngươi cư trú, các thành của ngươi sẽ bị hoang phế, những nơi thờ tự của ngươi sẽ bị phá hủy; vậy, những bàn thờ của ngươi sẽ bị hoang tàn và phá hủy, các tượng thần của các ngươi sẽ bị đập phá và hủy hoại, các hương án của các ngươi sẽ bị chặt xuống và công việc của các ngươi sẽ bị quét sạch. Những kẻ bị giết trong vòng các ngươi sẽ ngã gục và các ngươi sẽ biết rằng Ta là CHÚA. Nhưng Ta sẽ chừa lại một số trong các ngươi, là những người thoát khỏi gươm giáo ở các quốc gia khi các ngươi bị tản lạc ra các nước. Những kẻ được thoát sẽ nhớ đến Ta tại các nước chúng bị lưu đày; thế nào lòng Ta đã tan nát vì tấm lòng tà dâm của chúng nó khi chúng nó lìa bỏ Ta; mắt tà dâm của chúng nó chạy theo các tượng thần. Chúng nó sẽ gớm chính chúng nó vì những điều ác chúng đã làm và mọi hành động ghê tởm của mình. Rồi chúng sẽ biết rằng chính Ta là CHÚA, lời Ta đã phán về việc đem tai họa này đến cùng chúng nó không phải là lời hư không. CHÚA phán như vầy: Hãy vỗ tay, giậm chân và kêu lên: Hỡi ôi! về tất cả những điều gian ác, ghê tởm của nhà Y-sơ-ra-ên. Chúng nó sẽ ngã vì gươm giáo, đói kém và dịch lệ. Những kẻ ở xa sẽ chết vì dịch lệ, những kẻ ở gần sẽ ngã vì gươm giáo, những kẻ sống sót và còn lại sẽ chết vì đói kém; Ta sẽ làm thành cơn giận của Ta đối với chúng nó như thế. Các ngươi sẽ biết rằng Ta là CHÚA khi những kẻ chết của các ngươi nằm giữa các tượng thần, chung quanh các bàn thờ, trên mọi đồi cao, trên các đỉnh núi, dưới mọi cây xanh, dưới mọi cây sồi rậm rạp; là những nơi chúng nó dâng hương thơm ngào ngạt cho các tượng thần của chúng nó. Ta sẽ giương tay chống chúng nó, Ta sẽ làm cho đất, nơi chúng cư trú, trở nên hoang vu, hủy hoại từ sa mạc cho đến Đíp-lát, bấy giờ chúng sẽ biết rằng Ta là CHÚA.’” Lời của CHÚA phán cùng Ta: “Ngươi, hỡi con người, CHÚA phán như vầy với đất Y-sơ-ra-ên: Tận cùng đã đến, sự tận cùng đã đến trên bốn phương đất. Giờ đây, sự tận cùng ngươi đã đến. Ta sẽ đổ cơn thịnh nộ Ta trên ngươi. Ta sẽ đoán phạt ngươi tùy theo đường lối ngươi, Ta sẽ báo trả ngươi mọi điều ghê tởm ngươi đã làm. Mắt Ta sẽ không đoái nhìn ngươi và không thương xót ngươi; Ta sẽ trừng phạt ngươi vì các đường lối ngươi và những điều ghê tởm ở giữa ngươi. Bấy giờ ngươi sẽ biết rằng chính Ta là CHÚA. CHÚA phán như vầy: Tai họa này đến tai họa khác, kìa tai họa đã đến. Tận cùng đã đến, tận cùng đã đến, kìa sự tận cùng đã đến trên ngươi. Hỡi dân cư trong vùng, sự bất hạnh của ngươi đã đến, thì giờ đã đến, ngày đã gần; sẽ có sự náo động chứ không phải reo hò trên núi. Giờ đây Ta sẽ đổ ngay cơn thịnh nộ trên ngươi, Ta sẽ làm thành cơn giận Ta trên ngươi. Ta sẽ đoán phạt ngươi tùy theo đường lối ngươi, Ta sẽ báo trả ngươi mọi điều ghê tởm ngươi đã làm. Mắt Ta sẽ không đoái nhìn ngươi và không thương xót ngươi; Ta sẽ trừng phạt ngươi vì các đường lối ngươi và những điều ghê tởm ở giữa ngươi. Bấy giờ ngươi sẽ biết rằng chính Ta là CHÚA, Đấng đã đánh phạt. Này, ngày ấy đây; kìa nó đã đến, sự bất hạnh ngươi đã xuất hiện; gậy đã trổ bông, sự kiêu căng đã nứt lộc. Sự cường bạo đã nổi lên như cây gậy gian ác; không một ai trong chúng nó sẽ tồn tại; không còn đám đông, không còn của cải, không còn gì xuất sắc giữa vòng chúng. Thì giờ đã tới, ngày đã đến. Kẻ mua chớ vui mừng, người bán chớ than khóc, vì cơn thịnh nộ đổ xuống trên cả đám. Vì kẻ bán sẽ không trở lại chuộc vật mình đã bán khi cả hai vẫn còn sống. Vì khải tượng về cả đám đông sẽ không bị thu hồi và vì tội lỗi của mình, không ai giữ được mạng sống. Chúng nó đã thổi kèn và mọi sự đều sẵn sàng nhưng không ai ra trận vì cơn thịnh nộ Ta đổ xuống trên cả đám. Bên ngoài có gươm giáo, bên trong thì dịch lệ và đói kém. Kẻ ở ngoài đồng sẽ chết vì gươm giáo, còn kẻ ở trong thành sẽ bị đói kém và dịch lệ tiêu diệt. Nếu có ai sống sót thoát nạn, chúng sẽ ở trên các núi như bồ câu nơi thung lũng; tất cả chúng nó mỗi người sẽ than khóc vì tội lỗi mình. Mọi bàn tay sẽ trở nên yếu đuối, mọi đầu gối mềm nhũn như nước. Chúng sẽ mặc áo vải gai thô và sự kinh hoàng bao phủ họ. Mọi mặt đều hổ thẹn và đầu bị cạo trọc. Chúng sẽ ném bạc ra đường và vàng của chúng trở nên ô uế. Vàng bạc sẽ không giải cứu được chúng trong ngày thịnh nộ của CHÚA, không làm cho chúng hết đói, không làm cho chúng no bụng. Vì ấy là vật làm chúng vấp ngã vào tội lỗi. Từ những đồ nữ trang đẹp đẽ mà chúng rất kiêu hãnh, chúng làm thành những tượng thần ghê tởm, những vật gớm ghiếc. Cho nên Ta sẽ làm các vật ấy thành đồ ô uế cho chúng. Ta sẽ trao những đồ ấy cho những người ngoại quốc như của cướp, cho những kẻ gian ác trên đất như chiến lợi phẩm, chúng sẽ làm cho ô uế. Ta sẽ quay mặt Ta khỏi chúng nó, chúng nó sẽ làm ô uế nơi quí giá của Ta, kẻ cướp sẽ vào đó và làm ô uế nó. Hãy chuẩn bị xiềng xích vì đất đầy dẫy tội đổ máu và thành thì đầy cường bạo. Ta sẽ đem dân độc ác nhất trong các dân đến chiếm lấy nhà cửa chúng nó. Ta sẽ tiêu diệt sự kiêu căng của những kẻ hùng mạnh và các nơi thánh của chúng sẽ bị làm ô uế. Khi thống khổ đến, chúng tìm kiếm sự bình an nhưng không thấy. Tai họa này đến tai họa khác kéo đến; tin đồn này đến tin đồn khác dồn dập. Chúng sẽ luống công tìm khải tượng nơi đấng tiên tri; lời giáo huấn của thầy tế lễ cùng sự cố vấn của các trưởng lão đều bị hủy diệt. Vua sẽ than khóc, hoàng tử sẽ mặc lấy sự sụp đổ hoàn toàn, bàn tay của dân chúng trong nước sẽ run rẩy. Ta sẽ đối xử với chúng tùy theo các đường lối của chúng; Ta sẽ phán xét chúng nó theo tiêu chuẩn đoán xét của chúng nó, rồi chúng sẽ biết rằng chính Ta là CHÚA.” Vào ngày năm tháng sáu, năm thứ sáu, khi tôi đang ngồi trong nhà và các trưởng lão Giu-đa ngồi trước mặt tôi; lúc ấy tay của CHÚA giáng trên tôi. Tôi nhìn, kìa, có gì như hình dạng một người; từ thắt lưng trở xuống giống như lửa, từ thắt lưng trở lên sáng ngời giống như đồng thau bóng loáng. Người đưa ra cái gì như hình dạng một bàn tay, nắm lấy lọn tóc trên đầu tôi; thần nâng tôi lên giữa trời và đất, và trong khải tượng của Đức Chúa Trời, đem tôi vào thành Giê-ru-sa-lem, đến lối vào cổng phía bắc của sân trong là nơi đặt tượng ghen tuông, tức tượng gây ra sự ghen tuông. Và kìa, vinh quang của Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên hiện diện tại đó như khải tượng mà tôi thấy nơi thung lũng. Ngài phán cùng tôi: “Hỡi con người, hãy ngước mắt nhìn về phía bắc;” tôi ngước mắt nhìn về phía bắc, kìa, ở phía bắc cổng bàn thờ có tượng ghen tuông kia tại lối vào. Ngài lại phán cùng tôi: “Hỡi con người, ngươi có thấy những điều chúng nó đang làm không? Những điều ghê tởm lớn lao mà nhà Y-sơ-ra-ên đang làm tại đây để đẩy Ta rời xa nơi thánh của Ta. Thật vậy, ngươi sẽ còn thấy những điều ghê tởm lớn lao hơn nữa.” Ngài đem tôi đến lối vào trong sân đền, tôi nhìn, kìa có một lỗ trên tường. Ngài phán cùng tôi: “Hỡi con người, hãy đục xuyên qua tường.” Tôi đục xuyên qua tường và kìa, có một cửa vào. Ngài phán cùng tôi: “Hãy vào xem những điều bại hoại ghê tởm mà chúng nó đang làm ở đây.” Tôi vào và xem, kìa, mọi loài bò sát, mọi thú vật gớm ghiếc, mọi hình tượng của nhà Y-sơ-ra-ên được chạm khắc trên khắp tường thành chung quanh. Bảy mươi trưởng lão nhà Y-sơ-ra-ên đứng trước các hình tượng đó, có Gia-a-xa-nia, con trai Sa-phan đứng giữa họ. Mỗi người cầm lư hương trong tay, khói hương thơm ngát bay lên. Ngài phán cùng tôi: “Hỡi con người, ngươi có thấy những điều các trưởng lão nhà Y-sơ-ra-ên đang làm trong bóng tối không? Mỗi người trong phòng đầy hình tượng của mình. Vì chúng nói rằng: ‘CHÚA không thấy chúng ta đâu; CHÚA đã từ bỏ đất nước này.’” Ngài phán cùng tôi: “Ngươi sẽ còn thấy những điều ghê tởm lớn lao hơn nữa chúng đang làm.” Ngài đem tôi đến lối vào cổng phía bắc của đền thờ CHÚA; kìa, tại đó các phụ nữ đang ngồi than khóc cho Tha-mu. Ngài phán cùng tôi: “Hỡi con người, ngươi có thấy không? Ngươi sẽ còn thấy những điều ghê tởm lớn lao hơn những điều này nữa.” Ngài đem tôi vào sân trong nhà CHÚA, kìa, tại cổng đền thờ CHÚA, ở giữa hiên cửa và bàn thờ có khoảng 25 người đàn ông, lưng quay về phía đền thờ CHÚA, mặt hướng về phía đông và thờ lạy mặt trời ở phương đông. Ngài phán cùng tôi: “Hỡi con người, ngươi có thấy không? Những điều ghê tởm mà nhà Giu-đa làm ở đây là việc nhỏ chăng? Vì đất nước đầy bạo động; chúng nó còn chọc giận Ta nữa! Này, chúng cũng xỏ cây vào lỗ mũi chúng. Vậy, Ta cũng hành động giận dữ; mắt Ta sẽ không đoái xem và không thương xót. Dù chúng kêu khóc lớn tiếng bên tai, Ta cũng không nghe.” Ngài kêu lớn tiếng bên tai tôi rằng: “Những kẻ hành quyết trong thành hãy đến đây, mỗi người cầm vũ khí hủy diệt trên tay.” Kìa, có sáu người vào từ hướng cổng thượng, là cổng hướng về phía bắc. Mỗi người cầm vũ khí giết hại trên tay; một người trong số họ mặc áo vải gai, mang hộp bút mực bên hông. Những người này vào và đứng bên bàn thờ bằng đồng. Sự vinh quang của Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên cất lên khỏi chê-ru-bim, là nơi vẫn ngự, để đến ngưỡng cửa đền. Ngài phán cùng người mặc áo vải gai, mang hộp bút mực bên hông; CHÚA phán cùng người ấy: “Hãy đi khắp thành, tức là khắp Giê-ru-sa-lem, đánh dấu trên trán những người đã than thở, khóc lóc về mọi việc ghê tởm đã phạm trong thành.” Tai tôi nghe Ngài bảo những người kia: “Hãy theo sau người, đi khắp thành và giết; mắt không đoái thương, không thương xót. Hãy giết hết người già, thanh niên, thiếu nữ, trẻ con, đàn bà, nhưng đừng giết những người có dấu trên trán. Hãy bắt đầu từ nơi thánh Ta;” vậy những người ấy bắt đầu từ những trưởng lão ở trước đền. Ngài phán cùng những người ấy: “Hãy làm cho đền ô uế, làm các sân đền đầy những xác chết, hãy đi.” Thế là họ đi và giết trong thành. Trong khi họ đang giết, tôi còn lại một mình, tôi quì gối, sấp mặt kêu khóc. Tôi nói: “Ôi, lạy CHÚA, Ngài sẽ đổ cơn giận xuống Giê-ru-sa-lem và hủy diệt hết tất cả những người sống sót của Y-sơ-ra-ên sao?” Ngài phán cùng tôi: “Tội lỗi nhà Y-sơ-ra-ên và Giu-đa thật quá lớn, đất đầy máu đổ, thành đầy bất công vì chúng nói rằng: ‘CHÚA đã từ bỏ đất nước này và CHÚA không thấy.’ Còn Ta, mắt Ta sẽ không đoái thương, không thương xót. Ta sẽ đổ trên đầu chúng nó điều chúng đã làm.” Kìa, người mặc áo vải và mang hộp bút mực bên hông trở lại trình rằng: Tôi đã làm y như điều Ngài truyền. Tôi nhìn, kìa, phía trên vòm ở trên đầu các chê-ru-bim có cái gì như ngọc bích hình dạng giống như cái ngai được thấy trên ấy. Ngài phán cùng người mặc áo vải gai: “Hãy vào trong các bánh xe ở dưới các chê-ru-bim, lấy đầy tay ngươi than lửa từ các chê-ru-bim và rải ra trên thành.” Người ấy đi vào trước mắt tôi. Khi người ấy đi vào, các chê-ru-bim đã đứng ở phía nam đền và sân trong của đền đầy mây. Bấy giờ sự vinh quang của CHÚA cất lên từ các chê-ru-bim lên vòm của đền thờ. Đền thờ đầy mây và sân đền đầy ánh sáng vinh quang của CHÚA. Từ sân ngoài của đền, người ta nghe tiếng đập cánh của các chê-ru-bim như tiếng của Đức Chúa Trời Toàn Năng khi Ngài phán. Khi Ngài truyền cùng người mặc áo vải gai: “Hãy lấy lửa từ nơi các bánh xe của các chê-ru-bim.” Người ấy vào và đứng bên cạnh bánh xe. Bấy giờ một trong các chê-ru-bim đưa tay ra lấy lửa từ giữa các chê-ru-bim và bỏ vào tay người mặc áo vải gai; người này lấy và đi ra. Các chê-ru-bim có cái gì hình như tay người dưới cánh. Tôi nhìn xem, kìa, bốn bánh bên cạnh các chê-ru-bim. Mỗi bánh bên cạnh một trong các chê-ru-bim; hình dạng các bánh xe như ánh ngọc thạch anh. Về hình dạng, bốn bánh xe giống như nhau; bánh xe này lồng trong bánh xe kia. Khi chúng di chuyển, chúng đi theo một trong bốn hướng, không xoay qua xoay lại trong khi đi; vì một trong các đầu hướng về hướng nào thì các chê-ru-bim đi về hướng đó không xoay qua xoay lại khi đi. Toàn thân thể, lưng, tay, cánh và bánh xe, tức là các bánh xe của bốn sinh vật đều đầy mắt chung quanh. Tôi nghe các bánh xe được gọi là “các bánh xe quay.” Mỗi con có bốn mặt, mặt thứ nhất là mặt chê-rúp, mặt thứ hai là mặt người, mặt thứ ba là mặt sư tử và mặt thứ tư là mặt chim ưng. Bấy giờ các chê-ru-bim cất lên. Đó là các sinh vật tôi đã thấy bên bờ sông Kê-ba. Khi các chê-ru-bim di chuyển, các bánh xe cũng di chuyển bên cạnh chúng; khi các chê-ru-bim cất cánh bay lên khỏi đất, các bánh xe không quay rời khỏi bên chúng. Khi các chê-ru-bim đứng các bánh xe cũng đứng, khi các chê-ru-bim bay lên các bánh xe cũng bay lên, vì thần của sinh vật ở giữa chúng. Bấy giờ vinh quang của CHÚA rời khỏi vòm đền thờ và đứng trên các chê-ru-bim. Các chê-ru-bim cất cánh bay lên khỏi đất ngay trước mắt tôi; các bánh xe cũng đi theo bên cạnh. Chúng đứng lại tại lối vào cổng phía đông đền CHÚA; vinh quang của Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên ở trên chúng. Đây là những sinh vật mà tôi thấy phía dưới Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên bên bờ sông Kê-ba và tôi biết rằng đây là các chê-ru-bim. Mỗi con có bốn mặt, mỗi con có bốn cánh, và dưới các cánh có gì giống như tay người. Gương mặt các sinh vật là mặt và hình dạng mà tôi thấy bên bờ sông Kê-ba. Mỗi con đi thẳng về phía trước mặt. Thần cất tôi lên, đem tôi đến cổng phía đông đền CHÚA, là cổng hướng về phía đông. Kìa, tại lối vào cổng có hai mươi lăm người; giữa vòng họ tôi thấy Gia-a-xa-nia, con trai A-xua và Phê-la-tia, con trai Bê-na-gia; họ là những người lãnh đạo trong dân. Ngài phán cùng tôi: “Hỡi con người, đây là những người lập kế hoạch tội lỗi và âm mưu gian ác trong thành này. Chúng nói: ‘Đâu có phải gần đến lúc xây nhà. Thành là cái nồi, chúng ta là thịt.’ Cho nên, hỡi con người, hãy phán tiên tri, hãy phán tiên tri nghịch cùng chúng nó.” Thần của CHÚA giáng xuống trên tôi, Ngài bảo tôi: CHÚA phán như vầy: “Đây là điều các ngươi nghĩ, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên. Ta biết những điều trong tâm trí ngươi. Ngươi đã giết nhiều người trong thành này, đường phố đầy xác chết. Cho nên, CHÚA phán như vầy: Những người chết mà ngươi đã chất đống trong thành sẽ là thịt và thành là nồi, nhưng các ngươi sẽ bị đem ra khỏi thành. Các ngươi sợ gươm giáo, nhưng Ta sẽ đem gươm giáo nghịch các ngươi. CHÚA tuyên bố như vậy. Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi thành, trao vào tay những kẻ ngoại quốc và trừng phạt các ngươi. Các ngươi sẽ bị giết bằng gươm, Ta sẽ trừng phạt các ngươi tại biên giới Y-sơ-ra-ên và các ngươi sẽ biết Ta là CHÚA. Thành này không phải là cái nồi cho các ngươi; các ngươi không phải là thịt trong đó. Ta sẽ trừng phạt các ngươi tại biên giới Y-sơ-ra-ên. Bấy giờ các ngươi sẽ biết rằng Ta là CHÚA. Các quy luật Ta các ngươi không làm theo, các sắc lệnh của Ta các ngươi không thi hành nhưng các ngươi thi hành những sắc lệnh của các nước chung quanh”. Đang khi tôi phán tiên tri, Phê-la-tia, con trai Bê-na-gia chết. Tôi quì gối sấp mặt kêu lớn tiếng: “Ôi CHÚA, Ngài sẽ tuyệt diệt dân sống sót của Y-sơ-ra-ên sao?” Bấy giờ lời của CHÚA đến cùng tôi; “Hỡi con người, dân cư thành Giê-ru-sa-lem đã bảo với anh em ngươi, chính anh em ngươi, tức là bà con ngươi, cả nhà Y-sơ-ra-ên rằng: ‘Họ ở xa cách CHÚA, đất này đã được ban cho chúng ta sở hữu.’ Cho nên hãy nói với chúng: ‘CHÚA phán như vầy: Dù Ta đem chúng nó đi xa tận các nước, dù Ta làm chúng nó lưu lạc nơi các quốc gia; nhưng Ta vẫn một phần nào là nơi thánh cho chúng tại những nước mà chúng đi đến.’ Cho nên CHÚA phán như vầy: ‘Ta sẽ thâu các ngươi lại từ các dân, Ta sẽ tập họp các ngươi từ các nước mà các ngươi bị lưu lạc đến, Ta sẽ ban đất Y-sơ-ra-ên cho các ngươi.’ Chúng nó sẽ trở về đất ấy và trừ khử hết các vật đáng ghét, mọi vật ghê tởm khỏi đó. Ta sẽ ban cho chúng nó một tấm lòng; Ta sẽ ban cho chúng nó một tinh thần mới; Ta sẽ lấy tấm lòng bằng đá ra khỏi thân thể chúng nó và ban cho chúng nó tấm lòng bằng thịt. Để chúng làm theo các quy luật của Ta, giữ các sắc lệnh của Ta và thi hành. Bấy giờ chúng sẽ là dân Ta và chính Ta sẽ là Đức Chúa Trời của chúng nó. Còn những kẻ lòng dạ đi theo những đồ đáng ghét, ghê tởm; Ta sẽ báo trả điều chúng làm lên đầu chúng nó. CHÚA tuyên bố như vậy.” Bấy giờ các chê-ru-bim cất cánh lên cùng các bánh xe bên cạnh chúng; vinh quang của Đức Chúa Trời Y-sơ-ra-ên ở phía trên chúng. Vinh quang của CHÚA cất lên từ giữa thành và dừng lại ở trên núi phía đông thành phố. Thần cất tôi lên, và trong khải tượng, thần của Đức Chúa Trời, đem tôi đến với những người bị lưu đày ở Canh-đê.Bấy giờ khải tượng tôi thấy cất lên và biến mất. Tôi nói cho những người bị lưu đày mọi việc CHÚA đã cho tôi thấy. Lời của CHÚA phán cùng ta: “Hỡi con người, ngươi đang cư ngụ ở giữa một nhà phản nghịch, chúng có mắt để nhìn nhưng không thấy, chúng có tai để nghe nhưng không nghe vì chúng nó là nhà phản nghịch. Hỡi con người, chính ngươi hãy chuẩn bị hành trang lưu đày rồi ra đi giữa ban ngày trước mắt chúng; hãy đi lưu đày từ chỗ ngươi đến một chỗ khác trước mắt chúng; may ra chúng sẽ thấy, vì chúng nó là nhà phản nghịch. Hãy đem hành trang của ngươi ra như hành trang lưu đày vào ban ngày cho chúng thấy; ban đêm ngươi hãy ra đi như những kẻ đi lưu đày cho chúng thấy. Ngươi hãy đục tường trước mắt chúng nó và đem hành trang ngươi chui qua tường. Trước mắt chúng nó ngươi hãy vác hành trang trên vai, đi ra trong đêm tối. Hãy che mặt ngươi lại để không thấy đất nước này vì Ta làm cho ngươi thành dấu hiệu cho nhà Y-sơ-ra-ên.” Tôi làm y như điều Ngài đã truyền. Ban ngày tôi đem hành trang lưu đày ra; ban đêm tôi đục tường bằng tay; trước mắt chúng nó, tôi vác hành trang lưu đày trên vai và đi ra trong đêm tối. Buổi sáng, có lời CHÚA phán cùng tôi: “Hỡi con người, nhà Y-sơ-ra-ên, nhà phản nghịch có hỏi ngươi rằng: ‘Ông làm gì vậy?’ Hãy nói với chúng: ‘CHÚA đã phán như vầy: Sấm ngôn này chỉ về hoàng tử ở Giê-ru-sa-lem cùng cả nhà Y-sơ-ra-ên trong ấy.’ Hãy nói: ‘Tôi là dấu hiệu cho các người,’ tôi đã làm gì thì chúng nó sẽ bị như vậy; chúng nó sẽ đi lưu đày, sẽ bị bắt làm tù binh. Hoàng tử giữa vòng chúng nó sẽ vác hành trang trên vai, ra đi trong đêm tối; chúng nó sẽ đục tường để chui qua; người sẽ che mặt vì mắt người sẽ không thấy đất nước này. Ta sẽ giăng lưới trên người và người sẽ bị sa vào bẫy của Ta. Ta sẽ đem người qua Ba-by-lôn, đất của người Canh-đê nhưng người sẽ không thấy xứ ấy và chết ở đó. Ta sẽ làm cho quân đội người cùng những kẻ phục vụ quanh người tản lạc khắp nơi; Ta sẽ rút gươm ra đuổi theo chúng nó. Bấy giờ chúng nó sẽ biết rằng chính Ta là CHÚA, Ta đã đuổi chúng nó ra các nước và làm chúng nó tản lạc khắp các quốc gia. Nhưng Ta sẽ chừa lại một số ít người trong vòng chúng nó, cho thoát khỏi gươm đao, đói kém và dịch lệ để chúng thuật lại những điều ghê tởm của chúng giữa các nước mà chúng sẽ đến và chúng sẽ biết rằng Ta là CHÚA.” Lời của CHÚA phán cùng tôi rằng: “Hỡi con người, hãy ăn bánh trong sự kinh khủng và uống nước trong sự run rẩy sợ hãi. Hãy nói với dân cư trong xứ, CHÚA phán như vầy về dân cư Giê-ru-sa-lem trong nước Y-sơ-ra-ên: ‘Chúng nó sẽ ăn bánh trong sợ hãi, uống nước trong kinh hoàng vì sự cường bạo của cả dân cư ở đó, đất nước chúng nó sẽ bị tước đoạt mọi sự. Các thành có dân cư sẽ bị hủy diệt và đất nước sẽ trở nên hoang phế, rồi các ngươi sẽ biết rằng Ta là CHÚA.’” Lời của CHÚA phán cùng tôi rằng: “Hỡi con người, câu châm ngôn giữa vòng người Y-sơ-ra-ên rằng: ‘Ngày tháng trôi qua và mọi khải tượng đều không ứng nghiệm’ nghĩa là gì? Vậy nên, hãy bảo chúng nó, CHÚA phán như vầy: ‘Ta sẽ hủy bỏ câu châm ngôn này; người ta sẽ không dùng nó nữa giữa vòng Y-sơ-ra-ên,’ Nhưng hãy bảo chúng nó: ‘Các ngày đã gần, mọi khải tượng đều sẽ ứng nghiệm. Vì sẽ không còn một khải tượng giả dối hay bói toán xu nịnh nào nữa trong nhà Y-sơ-ra-ên. Vì chính Ta là CHÚA, sẽ phán lời của Ta và nó sẽ ứng nghiệm không trì hoãn nữa. Hỡi nhà phản loạn, ngay trong các ngày của các ngươi Ta sẽ phán lời của Ta và nó sẽ ứng nghiệm. CHÚA tuyên bố như vậy.’” Lời của CHÚA phán cùng tôi: “Hỡi con người, kìa, nhà Y-sơ-ra-ên nói rằng: ‘Khải tượng mà người thấy là cho nhiều ngày về sau; người nói tiên tri về tương lai lâu dài.’ Cho nên hãy nói với chúng nó: ‘CHÚA phán như vầy: Mọi lời Ta phán sẽ không còn trì hoãn nữa nhưng sẽ ứng nghiệm. CHÚA tuyên bố như vậy.’” Lời của CHÚA phán với tôi rằng: “Hỡi con người, hãy nói tiên tri nghịch cùng những tiên tri của Y-sơ-ra-ên đang nói tiên tri, hãy nói với những tiên tri đã nói tiên tri theo ý riêng rằng: ‘Hãy nghe lời của CHÚA. CHÚA phán như vầy: Khốn cho các tiên tri ngu dại, là những kẻ đi theo tâm thần riêng của mình, không thấy khải tượng gì cả. Hỡi Y-sơ-ra-ên, các tiên tri của ngươi như những con cáo ở nơi hoang phế. Các ngươi đã không đi đến những tường thành đổ nát và sửa chữa tường cho nhà Y-sơ-ra-ên để chúng nó có thể đứng lên chiến đấu trong ngày của CHÚA. Chúng thấy khải tượng giả, bói toán láo; chúng bảo CHÚA tuyên bố như thế này, nhưng CHÚA không có sai phái chúng. Chúng lại mong rằng lời của chúng sẽ ứng nghiệm. Không phải các ngươi đã thấy khải tượng giả, đã nói bói toán láo, rồi bảo CHÚA đã tuyên bố thế này, trong khi Ta không có phán hay sao? Cho nên CHÚA phán như vầy: Vì các ngươi nói lời giả mạo, thấy khải tượng dối trá nên Ta chống lại các ngươi. CHÚA tuyên bố như thế. Tay Ta sẽ chống lại những tiên tri thấy khải tượng giả, bói toán láo. Chúng nó sẽ không được ở trong hội dân Ta; chúng nó sẽ không được ghi vào sổ nhà Y-sơ-ra-ên; chúng nó sẽ không được vào đất Y-sơ-ra-ên. Chúng nó sẽ biết rằng chính Ta là CHÚA. Vì thật vậy, chúng đã làm dân Ta lầm lạc khi tuyên bố rằng: “Hòa bình.” Nhưng không có hòa bình. Và ai xây tường, thì kìa, chúng sơn phết vôi cho tường. Hãy nói với kẻ phết vôi lên tường rằng nó sẽ đổ xuống. Sẽ có mưa lụt. Còn ngươi, mưa đá sẽ đổ xuống và bão tố lớn sẽ xảy ra. Kìa, khi tường sụp đổ, người ta sẽ không hỏi các ngươi: “Vôi mà các ngươi phết lên tường đâu rồi sao?” Cho nên, CHÚA phán như vầy: Trong cơn thịnh nộ, Ta làm cho bão tố lớn xảy ra; trong cơn giận Ta, sẽ có mưa lụt; mưa đá sẽ phá hủy nó dữ dội. Ta sẽ đánh đổ xuống đất tường mà các ngươi phết vôi, chân tường phơi bày ra. Khi tường đổ, các ngươi sẽ bị hủy diệt trong đó và các ngươi sẽ biết rằng Ta là CHÚA. Ta sẽ đổ hết cơn thịnh nộ Ta trên tường cùng những kẻ phết vôi cho tường. Ta sẽ tuyên bố cùng các ngươi: “Tường không còn nữa mà người phết vôi cũng không; tức là những tiên tri của Y-sơ-ra-ên đã nói tiên tri về Giê-ru-sa-lem và thấy khải tượng bình an mà không có bình an gì cả. CHÚA tuyên bố như vậy.”’ Còn ngươi, hỡi con người, hãy hướng mặt nghịch cùng các con gái dân Ta. Hãy phán tiên tri nghịch cùng chúng nó. Hãy nói với chúng: ‘CHÚA phán như vầy: Khốn cho các ngươi, người may bùa đeo trên mọi cổ tay, làm khăn đóng đủ cở đội trên đầu mọi người để săn bắt linh hồn. Các ngươi săn bắt linh hồn dân Ta nhưng sẽ bảo toàn linh hồn các ngươi sao? Các ngươi vì vài nắm lúa mạch, vì vài miếng bánh mì, làm ô danh Ta giữa vòng dân Ta. Các ngươi đã nói láo với dân Ta và chúng đã nghe theo để giết người không đáng chết và cho sống người không đáng sống. Cho nên CHÚA phán như vầy: Nầy, Ta chống lại các lá bùa mà các ngươi đã dùng để săn linh hồn như săn chim; Ta sẽ xé những lá bùa ấy khỏi cánh tay các ngươi và thả tự do những linh hồn mà các ngươi đã săn như chim. Ta sẽ xé rách những khăn đóng của các ngươi và giải thoát dân Ta khỏi cánh tay các ngươi. Chúng nó sẽ không còn làm mồi cho cánh tay các ngươi săn bắt nữa và các ngươi sẽ biết rằng Ta là CHÚA. Vì các ngươi đã lấy lời dối trá làm cho lòng người công chính lo phiền dù Ta không làm cho họ lo phiền và các ngươi đã khuyến khích kẻ ác để chúng nó không ăn năn từ bỏ con đường ác của mình để được sống. Cho nên các ngươi sẽ không còn thấy khải tượng giả và không bói toán nữa. Ta sẽ giải cứu dân Ta ra khỏi tay các ngươi và các ngươi sẽ biết rằng Ta là CHÚA.’” Một vài trưởng lão của Y-sơ-ra-ên đến cùng tôi và ngồi trước mặt tôi. Lời của CHÚA phán cùng tôi: “Hỡi con người, những người này đã để thần tượng trong lòng, đã đặt tội lỗi gây vấp ngã ngay trước mặt họ. Ta có nên để họ cầu khẩn Ta không? Vậy hãy nói và bảo chúng rằng: ‘CHÚA phán như vầy: Người nào thuộc nhà Y-sơ-ra-ên để thần tượng trong lòng và đặt tội lỗi gây vấp ngã ngay trước mặt họ rồi đến gặp một tiên tri thì chính Ta, CHÚA sẽ trả lời nó xứng với nhiều thần tượng của nó. Như vậy Ta sẽ nắm được lòng nhà Y-sơ-ra-ên, là tất cả những người đã vì các thần tượng mình lìa xa Ta.’ Cho nên hãy nói với nhà Y-sơ-ra-ên: ‘CHÚA phán như vầy: Hãy ăn năn, hãy quay trở lại khỏi các thần tượng các ngươi, hãy ăn năn từ bỏ mọi điều ghê tởm trước mặt các ngươi. Vì người nào thuộc nhà Y-sơ-ra-ên và kiều dân cư ngụ trong Y-sơ-ra-ên mà lìa xa Ta, để thần tượng trong lòng và đặt tội lỗi gây vấp ngã ngay trước mặt họ rồi đến gặp một tiên tri để nhờ người cầu khẩn Ta thì chính Ta, CHÚA sẽ trả lời người. Ta sẽ hướng mặt Ta nghịch cùng người ấy, làm cho nó thành một dấu hiệu, một lời tục ngữ và loại bỏ nó khỏi giữa vòng dân Ta. Bấy giờ các ngươi sẽ biết rằng Ta là CHÚA. Nếu một tiên tri bị dụ dỗ mà nói lời nào, thì Ta là CHÚA đã để cho tiên tri ấy bị dụ dỗ. Nhưng Ta sẽ giương tay lên chống lại kẻ đó và tiêu diệt nó khỏi giữa vòng dân Y-sơ-ra-ên Ta. Chúng nó sẽ mang lấy hình phạt của chúng, hình phạt của người cầu xin và hình phạt của tiên tri sẽ bằng nhau. Như thế nhà Y-sơ-ra-ên sẽ không còn đi lạc xa Ta nữa; cũng không còn làm ô uế mình bằng mọi vi phạm nữa và chúng sẽ làm dân Ta và Ta sẽ là Đức Chúa Trời của chúng. CHÚA tuyên bố như vậy.’” Lời của CHÚA phán cùng tôi: “Hỡi con người, nếu một đất nước nào phạm tội cùng Ta, bất trung với Ta và Ta giương tay phạt nó. Ta phá vỡ kho thực phẩm, đem đói kém đến và trừ bỏ cả người lẫn vật khỏi đất ấy; Nếu có ba người này là Nô-ê, Đa-ni-ên và Gióp ở trong đất ấy thì họ nhờ sự công chính của họ, chỉ có thể giải cứu mạng sống mình mà thôi. CHÚA tuyên bố như vậy. Nếu Ta sai thú dữ đi qua và tàn phá đất ấy; đất trở nên hoang tàn và không ai đi qua đó nữa vì có thú dữ; CHÚA tuyên bố, như Ta hằng sống, dù có ba người ấy ở giữa đó, họ sẽ chỉ cứu được chính mình chứ không giải cứu được con trai, con gái họ và đất sẽ trở nên hoang tàn. Hoặc Ta sai gươm giáo đến trên đất nước ấy và bảo: ‘Hãy để gươm giáo chém giết cả người lẫn thú ở đó.’ CHÚA tuyên bố, như Ta hằng sống, dù có ba người ấy ở giữa đó, họ sẽ chỉ cứu được chính mình chứ không giải cứu được con trai, con gái họ. Hoặc Ta sai dịch lệ đến trong đất ấy và đổ cơn thịnh nộ bằng máu của Ta xuống trên xứ ấy để trừ bỏ cả người lẫn vật khỏi đất. CHÚA tuyên bố, như Ta hằng sống, nếu có Nô-ê, Đa-ni-ên và Gióp ở giữa đó thì họ nhờ sự công chính mình chỉ giải cứu được mạng sống mình mà thôi, chứ không cứu được con trai, con gái họ. Vì CHÚA phán như vầy: Thật vậy, tình trạng càng thảm khốc hơn nữa khi Ta sai bốn hình phạt dữ dội đến trên Giê-ru-sa-lem là gươm giáo, đói kém, thú dữ và dịch lệ để tiêu diệt cả người lẫn vật khỏi đó. Này sẽ có một số người sống sót, những con trai, con gái được đem ra khỏi đó. Chúng nó sẽ đến cùng ngươi và khi ngươi thấy các đường lối và công việc của chúng nó ngươi sẽ được an ủi vì tai họa mà Ta đã đem đến trên Giê-ru-sa-lem, mọi tai họa Ta đã đem đến cho thành ấy. Chúng nó sẽ an ủi ngươi khi ngươi thấy các đường lối và công việc của chúng nó và ngươi sẽ biết rằng không phải vô cớ mà Ta đã làm tất cả những điều ấy cho nó. CHÚA tuyên bố như vậy.” Lời của CHÚA phán cùng tôi: “Hỡi con người, gỗ cây nho thì có hơn gì gỗ các cành cây khác trong rừng không? Gỗ nó có làm được gì không? Người ta có dùng nó làm móc treo vật gì không? Này, nếu cây nho bị ném vào lửa làm củi đốt; nếu hai đầu đều bị thiêu đốt, khúc giữa bị cháy xém thì cây nho đó còn ích lợi gì không? Này, khi nó còn nguyên vẹn nó không được dùng làm gì cả; huống gì khi nó đã bị lửa thiêu đốt và cháy xém thì nó còn được dùng để làm việc gì nữa? Vậy, CHÚA phán như vầy: Như Ta đã lấy gỗ cây nho giữa những cây khác trong rừng làm củi đốt, Ta cũng sẽ làm như vậy với dân cư Giê-ru-sa-lem. Ta sẽ hướng mặt Ta nghịch cùng chúng nó; dù chúng nó thoát khỏi lửa thì lửa cũng sẽ thiêu đốt chúng và chúng nó sẽ biết rằng Ta là CHÚA khi Ta hướng mặt nghịch cùng chúng nó. Ta sẽ làm cho đất hoang phế vì chúng nó đã bất trung. CHÚA tuyên bố như vậy.” Lời của CHÚA phán cùng tôi: “Hỡi con người, hãy làm cho Giê-ru-sa-lem biết những điều ghê tởm của nó. CHÚA phán như vầy: ‘Hãy nói với Giê-ru-sa-lem rằng, nguồn gốc và nơi sinh trưởng ngươi là từ đất Ca-na-an. Cha ngươi là người A-mô-rít, mẹ ngươi là người Hê-tít. Về việc sinh ra ngươi; ngày ngươi mới sinh ra, cuốn rốn chưa được cắt, chưa tắm trong nước cho sạch, chưa được xát bằng muối, chưa được bọc khăn. Không có mắt nào thương hại ngươi, không ai thương xót ngươi để làm cho ngươi những điều ấy. Ngươi bị ném bỏ ngoài đồng hoang vì ngươi bị ghê tởm khi mới sinh ra. Khi Ta đi ngang qua, thấy ngươi cựa quậy trong máu; Ta phán cùng ngươi: Dù ở trong máu, hãy sống; thật, Ta phán cùng ngươi: “Dù ở trong máu, hãy sống.” Ta làm cho ngươi lớn lên như cây ngoài đồng. Ngươi lớn lên và cao lớn; ngươi đến độ dậy thì; ngực ngươi nở nang, tóc dài ra. Nhưng ngươi vẫn còn trần truồng và trơ trọi. Ta lại đi qua và thấy ngươi, nầy, ngươi đã đến tuổi yêu đương. Ta trải vạt áo che chở ngươi, che đi sự trần truồng của ngươi. Ta hứa cùng ngươi và kết ước với ngươi. CHÚA tuyên bố: Ngươi thuộc về Ta. Ta tắm cho ngươi trong nước, rửa sạch máu trên ngươi và xức dầu cho ngươi. Ta mặc áo dài thêu cho ngươi, mang giày da, vấn khăn vải mịn và mặc vải lụa cho ngươi. Ta trang sức cho ngươi bằng nữ trang, đeo vòng nơi tay, đeo dây chuyền trên cổ; đeo khoen trên mũi, đeo hoa tai nơi tai và đội mão đẹp trên đầu. Ngươi được trang sức bằng vàng và bạc; mặc đồ vải mịn, hàng lụa và hàng thêu; ngươi ăn bột ngon, mật ong và dầu ô-liu; ngươi trở nên rất xinh đẹp và xứng đáng với hàng vương giả. Nhờ sắc đẹp mình, ngươi đã được nổi tiếng khắp các nước; ấy là vẻ đẹp tuyệt mỹ vì Ta ban sự huy hoàng Ta cho ngươi. CHÚA tuyên bố như vậy. Nhưng ngươi cậy sắc đẹp mình; vì danh tiếng mình trở nên dâm đãng; ngươi trổ ngón dâm đãng với mọi người qua lại, ban sắc đẹp ngươi cho nó. Ngươi đã lấy y phục mình lập đàn tế sặc sỡ rồi làm điều dâm đảng ở đó. Ấy là điều không nên xảy ra và sẽ không bao giờ nên. Ngươi cũng lấy nữ trang đẹp đẽ bằng vàng, bằng bạc mà Ta đã ban cho ngươi để làm hình tượng người nam rồi làm điều dâm ô với chúng. Ngươi lấy áo thêu của ngươi mặc cho các tượng ấy và dâng dầu ô-liu và hương trầm của Ta trước mặt chúng. Thực phẩm Ta ban cho ngươi, bột ngon, dầu ô-liu và mật ong để nuôi ngươi thì ngươi đem dâng làm vật tế lễ có mùi thơm trước mặt các tượng ấy. Đó là việc các ngươi làm. CHÚA tuyên bố như vậy. Ngươi cũng bắt con trai, con gái ngươi, những đứa con ngươi sinh cho Ta, đem dâng cho các thần tượng ấy ăn nuốt. Điều dâm đảng ấy còn chưa đủ, ngươi cũng giết con cái Ta làm tế lễ thiêu dâng lên cho chúng. Trong mọi sự ghê tởm và dâm đảng đó, ngươi không nhớ những ngày thơ ấu trần truồng, trơ trụi, cựa quậy trong máu của ngươi. CHÚA tuyên bố như vầy: Khốn cho ngươi, khốn cho ngươi. Sau mọi điều gian ác của ngươi, ngươi còn xây cho mình đền và làm cho mình những đài cao khắp các phố. Ngươi đã xây đài cao nơi mỗi đầu đường và dùng sắc đẹp bán dâm ở đó; ngươi đã hiến thân cho mọi khách qua đường và làm nhiều điều dâm đảng. Ngươi đã làm điếm cho người Ai Cập, là những người láng giềng đầy dâm dục; ngươi cũng làm nhiều điều dâm đảng để chọc giận Ta. Này, Ta giương tay nghịch ngươi, cắt giảm phần thực phẩm cho ngươi. Ta sẽ giao ngươi cho những kẻ ghét ngươi, những con gái Phi-li-tin, là kẻ mắc cở vì đường lối dâm đảng của ngươi. Ngươi làm điếm cho người A-si-ri vì ngươi chưa thỏa mãn. Thật, ngươi đã làm điều dâm đảng nhưng vẫn chưa thỏa mãn. Ngươi cũng làm nhiều điều dâm đảng với người Canh-đê, là vùng đất thương mãi, dù vậy ngươi vẫn chưa thỏa mãn. CHÚA tuyên bố: Sao lòng ngươi mê muội đến thế! Ngươi đã làm tất cả những điều này, ngươi hành động như một con điếm lì lợm. Ngươi xây cho mình đền khắp các đầu đường và làm đài cao khắp các phố; nhưng ngươi không giống như những con điếm vì ngươi coi thường tiền công. Ngươi là đàn bà ngoại tình, ngươi chuộng những người đàn ông lạ thay vì chồng ngươi. Mọi gái điếm thường được đàn ông tặng quà, nhưng ngươi tặng quà cho tất cả người tình của ngươi; hối lộ cho họ để họ đến từ khắp nơi mà làm điều dâm đãng với ngươi. Vậy, ngươi trái với những người đàn bà khác trong hành động dâm đảng ngươi; người ta không mua dâm nơi ngươi, ngươi trả tiền công thay vì được người ta trả công; ngươi thì trái ngược với những kẻ khác. Cho nên, hỡi kẻ dâm đảng, hãy nghe lời của CHÚA. CHÚA phán như vầy: Vì ngươi tỏ sự dâm dục ngươi ra; phô bày sự trần truồng khi ngươi làm điều dâm đãng với người tình ngươi; cũng vì những thần tượng ghê tởm và vì máu con cái ngươi đã dâng cho những thần tượng đó. Nên Ta sẽ tụ họp tất cả tình nhân mà ngươi ưa thích, tất cả những người ngươi yêu cùng tất cả những người ngươi ghét. Ta sẽ tụ họp chúng nó từ khắp nơi chống lại ngươi; Ta sẽ lột truồng ngươi trước mặt chúng và chúng sẽ thấy ngươi trần truồng. Ta sẽ phán xét ngươi với hình phạt dành cho người đàn bà ngoại tình và đổ máu; Ta sẽ đổ máu thịnh nộ và ghen tuông trên ngươi. Ta sẽ trao các ngươi vào tay chúng nó. Chúng sẽ phá sập đền và lật đổ các đài cao của ngươi; chúng nó sẽ lột trần quần áo ngươi, tước đoạt nữ trang của ngươi và để ngươi trần truồng, trơ trẽn. Chúng nó sẽ đem một đám đông đến chống lại ngươi; họ sẽ ném đá giết ngươi và dùng gươm chặt ngươi ra từng mảnh. Chúng sẽ thiêu đốt nhà của ngươi và trừng phạt ngươi trước mắt nhiều người đàn bà. Ta sẽ làm cho ngươi hết làm điều dâm đãng và cũng sẽ không còn trả tiền công nữa. Ta sẽ nguôi cơn giận Ta đối với ngươi; và hết ghen tương cùng ngươi; Ta sẽ trầm tĩnh và không giận nữa. Vì ngươi không nhớ những ngày thơ ấu của mình nhưng chọc giận Ta bằng những điều này nên Ta cũng đổ lại lên đầu ngươi những việc này; CHÚA tuyên bố. Không phải ngươi đã thêm những điều dâm ô với mọi việc ghê tởm kia sao? Này, mọi người sử dụng châm ngôn sẽ dùng châm ngôn ám chỉ ngươi rằng: “Mẹ nào con nấy.” Ngươi chính là con gái của mẹ ngươi, kẻ chán bỏ chồng con; ngươi đúng là chị em với chị em ngươi, những kẻ chán bỏ chồng con mình. Mẹ ngươi là người Hê-tít, cha ngươi là người A-mô-rít. Chị ngươi là Sa-ma-ri, sống với các con gái nó ở phía bắc ngươi; em ngươi là Sô-đôm, sống với các con gái nó ở phía nam của ngươi. Ngươi đã không theo các đường lối chúng nó sao? Không làm những điều ghê tởm như chúng nó sao? Chỉ trong ít lâu ngươi đã trở nên xấu xa hơn chúng trong mọi đường lối ngươi. CHÚA tuyên bố: Như Ta hằng sống, em gái ngươi, Sô-đôm và các con gái nó còn chưa làm những điều ngươi và các con gái ngươi đã làm. Nầy, tội của Sô-đôm, em gái ngươi và các con gái nó là kiêu ngạo, thừa mứa thực phẩm, sống phè phỡn nhưng không giúp đỡ những người nghèo nàn, khốn khổ. Chúng nó kiêu căng và làm điều ghê tởm trước mặt Ta nên Ta loại trừ chúng như ngươi thấy. Sa-ma-ri phạm chưa đến một nửa số tội ngươi phạm; và ngươi đã làm nhiều điều ghê tởm hơn chúng. Qua mọi điều ghê tởm ngươi đã làm; ngươi làm cho chị em gái ngươi có vẻ như công chính. Ngươi cũng mang lấy nhục nhã khi biện hộ cho chị em ngươi. Vì các tội lỗi ngươi phạm còn ghê tởm hơn chúng nó; chúng nó còn công chính hơn ngươi. Vậy, hãy hổ thẹn và mang lấy nhục nhã vì ngươi làm cho chị em ngươi ra vẻ công chính. Ta sẽ phục hồi vận mệnh chúng nó, vận mệnh của Sô-đôm và các con gái nó, vận mệnh của Sa-ma-ri và các con gái nó và vận mệnh của ngươi ở giữa chúng, để ngươi mang lấy nhục nhã và xấu hổ vì tất cả những điều ngươi đã làm; như thế ngươi sẽ an ủi chúng. Chị em ngươi là Sô-đôm cùng các con gái nó sẽ được phục hồi tình trạng cũ; Sa-ma-ri và các con gái nó sẽ được phục hồi tình trạng cũ; ngươi và các con gái ngươi cũng sẽ được phục hồi tình trạng cũ. Chẳng phải em gái ngươi, Sô-đôm, là lời bàn tán nơi miệng ngươi khi ngươi còn kiêu căng và trước khi tội ác ngươi bị lột trần sao? Còn bây giờ, các con gái A-ram và mọi kẻ láng giềng của chúng chế giễu ngươi; các con gái Phi-li-tin cũng khinh bỉ ngươi mọi bề. CHÚA tuyên bố: Ngươi phải mang lấy hậu quả các hành động dâm đãng và ghê tởm của ngươi. Vì CHÚA phán như vầy: Ta sẽ đối xử với ngươi xứng với điều ngươi đã làm; ngươi đã khinh bỉ lời thề và hủy bỏ giao ước. Dù sao, Ta sẽ nhớ giao ước Ta đã lập với ngươi khi ngươi còn trẻ và Ta sẽ lập một giao ước đời đời với ngươi. Ngươi sẽ nhớ lại đường lối ngươi và hổ thẹn khi tiếp đón các chị và các em gái ngươi. Ta ban chúng nó làm con gái ngươi dù chúng nó không có trong giao ước giữa Ta với ngươi. Ta sẽ lập giao ước Ta với ngươi và ngươi sẽ biết rằng Ta là CHÚA. Như vậy, ngươi sẽ nhớ lại và hổ thẹn; khi Ta tha thứ mọi điều ngươi đã làm, ngươi sẽ không bao giờ mở miệng nói gì được nữa vì xấu hổ. CHÚA tuyên bố như vậy.’” Lời của CHÚA phán cùng tôi: “Hỡi con người, hãy ra câu đố, hãy kể chuyện ngụ ngôn về nhà Y-sơ-ra-ên. Ngươi hãy nói, CHÚA phán như vầy: ‘Có một con chim phượng hoàng to lớn, cánh rộng, lông cánh dài, bộ lông đầy đặn, rực rỡ màu sắc. Chim đến Li-ban, lấy ngọn cây tùng. Nó ngắt chồi ngọn cây, đem về vùng đất thương mãi, đặt trong một thành phố buôn bán. Nó lấy giống cây của vùng đất ấy, trồng trên một cánh đồng phì nhiêu; nó trồng cây nơi có nhiều nước như cây liễu. Cây mọc lên thành cây nho rậm rạp nhưng thấp; các cành hướng về phía chim phượng hoàng nhưng rễ vẫn ở phía dưới cây. Như thế, nó trở thành một cây nho, trổ cành, ra lá. Có một con chim phượng hoàng khác to lớn, cánh rộng, lông nhiều. Kìa, cây nho này từ luống đất mình được trồng, đâm rễ, trổ cành hướng về phía chim phượng hoàng này để được tưới nước. Cây nho đã được trồng trên cánh đồng tốt, bên chỗ có nhiều nước để trổ cành, ra trái và trở nên cây nho quí.’ Ngươi hãy nói: ‘CHÚA phán như vầy: Cây nho đó sẽ trở nên tươi tốt được không? Chim phượng hoàng kia lại không nhổ rễ, cắt bỏ trái nó để cả cây lẫn lá đều khô héo đi sao? Bấy giờ, chẳng phải cánh tay mạnh hay nhiều quân để nhổ rễ nó lên. Này, dù cây đã được trồng, nó sẽ trở nên tươi tốt được không? Nó sẽ chẳng hoàn toàn khô héo khi gió đông thổi qua sao? Khô héo ngay trên luống đất nó đã mọc lên.’” Lời CHÚA phán cùng tôi rằng: “Bây giờ hãy nói cùng nhà phản nghịch: ‘Các ngươi không hiểu những điều này nghĩa là gì sao? Này, vua Ba-by-lôn đã đến Giê-ru-sa-lem, bắt vua cùng các quan đem về với mình tại Ba-by-lôn. Vua bắt một người thuộc hoàng tộc, lập giao ước với người và bắt người tuyên thệ. Vua cũng bắt đi những người lãnh đạo trong xứ; để vương quốc này trở nên thấp kém, không thể tự mình vươn lên nhưng phải giữ giao ước với vua để tồn tại. Nhưng vị vương này chống lại vua, gởi sứ giả xuống Ai-cập xin ngựa chiến và nhiều binh lính cứu viện. Kẻ hành động như thế sẽ thành công không? Sẽ thoát nạn không? Kẻ phá hủy giao ước sẽ thoát nạn chăng? CHÚA tuyên bố: Như Ta hằng sống, vị vương này sẽ chết tại Ba-by-lôn là nơi vua đã phong vương cho người và người đã bội lời thề và phá hủy giao ước với vua. Vua Ai-cập với lực lượng hùng mạnh, quân đội đông đảo sẽ không cứu giúp người trong trận chiến khi người ta đắp mô, xây lũy bao vây để giết hại nhiều sinh mạng. Này, vì người đã bội lời thề, phá hủy giao ước; người đã đưa tay làm mọi điều này nên sẽ không thoát nạn được. Cho nên, CHÚA phán như vầy: Như Ta hằng sống, Ta sẽ giáng xuống đầu nó lời thề nó đã phản bội và giao ước Ta mà nó đã phá hủy. Ta sẽ bủa lưới trên nó, nó sẽ mắc vào bẫy lưới của Ta; Ta sẽ đem nó qua Ba-by-lôn và trừng phạt nó tại đó vì tội bất trung nó phạm cùng Ta. Tất cả những lính tinh nhuệ nhất trong cả quân đội người sẽ bị ngã vì gươm và những kẻ sống sót sẽ bị lưu lạc khắp các phương trời. Bấy giờ ngươi sẽ biết rằng, Ta, CHÚA đã phán như thế. CHÚA phán như vầy: Chính Ta sẽ lấy ra ngọn cây tùng cao cả, Ta sẽ ngắt cái đọt non mềm mại và trồng nó trên núi cao vút. Ta sẽ trồng nó trên núi cao của Y-sơ-ra-ên; nó sẽ đâm chồi, sinh trái. Nó sẽ trở thành một cây tùng cao cả, mọi chim chóc sẽ sống nương vào cây và mọi loài có cánh đều làm tổ dưới bóng cành nó. Mọi cây nơi đồng đều sẽ biết rằng Ta là CHÚA, Ta hạ thấp cây cao, nâng cao cây thấp; làm cây xanh khô héo và cây khô héo trở nên xanh tươi. Ta, CHÚA đã phán và sẽ làm điều đó.’” Lời của CHÚA phán cùng tôi rằng: “Câu tục ngữ này được truyền tụng về đất nước Y-sơ-ra-ên nghĩa là gì?‘Đời cha ăn nho chua,Đời con ê răng.’ CHÚA tuyên bố: Như Ta hằng sống, ngươi sẽ không còn trích câu tục ngữ này trong Y-sơ-ra-ên nữa. Vì mọi linh hồn đều thuộc về Ta. Này, linh hồn cha cũng như linh hồn con đều thuộc về Ta, vậy, linh hồn nào phạm tội, linh hồn đó sẽ chết. Nếu có một người công chính,Làm điều ngay thẳng, công chính: Không ăn đồ cúng trên núi;Mắt không chiêm ngưỡng các tượng thần của nhà Y-sơ-ra-ên;Không ngoại tình với vợ người lân cận,Không gần gủi đàn bà trong kỳ kinh nguyệt; Không áp bức ai;Trao trả của cầm cho người mắc nợ;Không cướp bóc;Ban bánh cho kẻ đói;Ban áo che thân cho người trần trụi. Không cho vay lấy lời trướcHoặc cho vay nặng lãi;Không nhúng tay vào việc ác;Xét xử công minh giữa người với người; Sống theo quy luật và sắc lệnh của Ta;Trung tín cẩn thận thi hành chúng.Đó là người công chính,Nó sẽ sống,CHÚA tuyên bố. Nếu người có một đứa con trai hung dữ, gây đổ máu và phạm một trong những điều ác này cùng một anh em; Nhưng chính người không phạm một điều nào cả,Tức là ăn đồ cúng trên núi,Ngoại tình với vợ người lân cận, Áp bức người nghèo khổ, cùng khốn;Cướp bóc,Không trao trả của cầm,Chiêm ngưỡng các tượng thần,Phạm những điều ghê tởm; Cho vay lấy lời trước hoặc cho vay nặng lãi; đứa con đó sẽ sống không? Chắc chắn là không. Nó đã phạm tất cả những điều ghê tởm này, nó sẽ chết, máu nó sẽ đổ lại trên mình nó. Kìa, một người có đứa con, nó thấy tất cả những tội lỗi cha nó đã phạm. Thấy vậy, nó không phạm tội như thế; Tức là không ăn đồ cúng trên núi,Không chiêm ngưỡng các tượng thần của nhà Y-sơ-ra-ên,Không ngoại tình với vợ người lân cận, Không áp bức ai,Không xiết nợ,Không cướp bóc,Ban bánh cho người đói,Ban áo che thân cho người trần trụi. Không nhúng tay vào việc ác,Không lấy tiền lời trước hoặc cho vay nặng lãi;Nó làm điều ngay thẳng, sống theo sắc luật Ta; Nó sẽ không chết vì tội lỗi của cha nó; chắc chắn nó sẽ sống. Nhưng cha nó vì phạm tội tống tiền, cướp bóc anh em mình, làm những điều không tốt giữa vòng dân chúng; này, người sẽ chết vì tội lỗi mình. Còn các ngươi lại nói: ‘Tại sao con không mang tội của cha?’ Nếu một đứa con làm điều ngay thẳng và công chính, gìn giữ và thi hành mọi quy luật của Ta, chắc chắn nó sẽ sống. Linh hồn nào phạm tội, linh hồn đó sẽ chết. Con không mang tội của cha, cha cũng không mang tội của con. Sự công chính của người công chính sẽ được kể cho người công chính ấy; sự gian ác của người gian ác sẽ bị gán cho người gian ác ấy. Nhưng nếu kẻ ác ăn năn tất cả tội lỗi đã phạm và gìn giữ mọi quy luật của Ta cùng làm điều ngay thẳng, công chính, chắc chắn nó sẽ sống và không chết; Mọi tội lỗi nó đã phạm sẽ không bị ghi nhận cho nó; nhờ sự công chính nó đã làm, nó sẽ sống. CHÚA tuyên bố: Chẳng lẽ Ta lại vui vì sự chết của kẻ ác? Ta há không muốn nó ăn năn con đường ác của mình và sống sao? Nhưng nếu người công chính từ bỏ sự công chính và làm điều ác, tức là cũng làm mọi điều ghê tởm mà kẻ gian ác đã làm, người sẽ sống chăng? Mọi điều công chính người đã làm sẽ không được ghi nhớ; người sẽ chết vì những điều bất trung và những tội lỗi người đã phạm. Các ngươi nói: ‘Đường lối của Chúa không công bình.’ Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, hãy nghe đây, đường lối của Ta không công bình hay đường lối các ngươi không công bình? Nhưng nếu người công chính từ bỏ sự công chính và làm điều ác, nó sẽ chết. Nó sẽ chết vì sự ác nó đã phạm. Nếu kẻ ác ăn năn những điều ác nó đã phạm và làm điều ngay thẳng, công chính, nó sẽ cứu được linh hồn mình. Nó đã thấy và ăn năn mọi điều vi phạm nó đã làm thì chắc chắn nó sẽ sống và không chết. Nhà Y-sơ-ra-ên lại nói: ‘Đường lối của Chúa không công bình.’ Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, đường lối của Ta không công bình hay đường lối các ngươi không công bình? Vậy, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, Ta sẽ phán xét ngươi, mỗi người tùy đường lối mình; CHÚA tuyên bố. Hãy ăn năn, hãy từ bỏ tất cả những vi phạm của các ngươi; để chúng không còn là chướng ngại tội lỗi cho các ngươi. Hãy ném bỏ khỏi các ngươi mọi vi phạm mà các ngươi đã phạm; hãy làm cho các ngươi một tấm lòng mới và một tâm thần mới. Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, tại sao ngươi phải chết? Vì Ta không vui về cái chết của một người phải chết. CHÚA tuyên bố: Hãy ăn năn để được sống. Còn ngươi, hãy cất tiếng than vãn về các hoàng tử Y-sơ-ra-ên. ‘Mẹ ngươi quả là một sư tử cáiGiữa vòng các sư tử đực,Nằm giữa đám sư tử tơ,Nuôi nấng bầy sư tử con. Nó nuôi dưỡng một trong những sư tử conThành một sư tử tơ.Nó tập bắt mồi,Ăn thịt người ta. Các nước nghe về con sư tử ấy;Rồi nó bị bắt vì sập bẫy của họ,Bị người ta xiềngVà đem vào xứ Ai-cập. Thấy mình chờ đợi vô ích,Hy vọng tan vỡ;Sư tử cái bắt một con khác trong bầy sư tử con,Nuôi thành sư tử tơ. Nó đi lại giữa vòng các sư tử,Trở thành sư tử tơ;Nó tập bắt mồi,Ăn thịt người ta. Nó phá hủy các thành trìVà làm hoang phế các thành của chúng.Đất nước và cư dânĐều hoảng sợ vì tiếng gầm của nó. Các nước từ các vùng chung quanhNổi lên chống nó,Chúng bủa lưới trên nó,Nó bị bắt vì sập bẫy của họ. Người ta xiềng nó lại, nhốt vào cũi,Đem đến cho vua Ba-by-lôn.Nó bị giam vào ngục,Nên người ta không còn nghe thấy tiếng nóTrên các núi Y-sơ-ra-ên nữa. Mẹ ngươi như cây nho trong vườn nho,Trồng bên dòng nước.Cành lá sum sê, kết nhiều hoa quảVì có nhiều nước. Cây nho có các cành lớn,Trở thành vương trượng;Thân cây cao vútGiữa các cành lá rậm rạp;Người ta thấy nóVì nó cao hơn nhiều nhánh khác. Nhưng nó bị nhổ lên trong cơn thịnh nộVà ném xuống đất;Gió đông làm cho cây khô héoVà trái rụng hết;Các cành lớn khô héoVà bị lửa thiêu đốt. Nay nó bị trồng trong sa mạc,Nơi đất khô khan, thiếu nước. Thế rồi lửa phát ra từ cànhThiêu đốt trái cây;Cây không còn cành cứngĐể làm vương trượng.’ Ấy là lời than thở đã trở thành bài ca than vãn.” Vào ngày mười tháng Năm năm thứ Bảy, một số người trong các trưởng lão Y-sơ-ra-ên đến cầu khẩn CHÚA; họ ngồi trước mặt tôi. Lời CHÚA phán cùng tôi rằng: “Hỡi con người, hãy nói với các trưởng lão Y-sơ-ra-ên rằng: ‘CHÚA phán như vầy: Có phải các ngươi đến để cầu khẩn Ta chăng? CHÚA tuyên bố: Như Ta hằng sống, Ta sẽ không để các ngươi cầu khẩn Ta.’ Ngươi sẽ phán xét chúng nó chăng? Hỡi con người, ngươi sẽ phán xét không? Hãy cho chúng nó biết những điều ghê tởm của cha ông chúng nó. Hãy nói với chúng: ‘CHÚA phán như vầy: Trong ngày Ta chọn Y-sơ-ra-ên, Ta đã đưa tay thề với dòng dõi nhà Gia-cốp, cho chúng nó biết Ta tại Ai-cập. Ta đã đưa tay thề với chúng nó rằng: “Chính Ta là CHÚA,” Đức Chúa Trời của các ngươi. Vào ngày ấy, Ta đã đưa tay thề với chúng rằng Ta sẽ đem chúng ra khỏi đất Ai-cập, đến một vùng đất Ta đã tìm cho chúng, vùng đất đượm sữa và mật, một nơi huy hoàng hơn tất cả các xứ. Ta bảo chúng: “Mỗi người hãy ném bỏ những tượng ghê tởm mà mắt các ngươi chiêm ngưỡng; đừng làm mình ô uế vì các tượng thần Ai-cập. Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi.” Nhưng chúng phản loạn cùng Ta, không muốn nghe Ta. Mọi người không ném bỏ các tượng ghê tởm mà mắt chúng chiêm ngưỡng, cũng không từ bỏ các tượng thần Ai-cập. Bấy giờ Ta định đổ cơn thịnh nộ Ta trên chúng, trút cơn giận hình phạt chúng nó ngay tại giữa Ai-cập. Nhưng vì danh Ta, Ta đã hành động để không bị xúc phạm trước mắt các nước, nơi chúng đang sinh sống. Trước mắt các dân ấy Ta đã cho Y-sơ-ra-ên biết rằng Ta sẽ đem chúng ra khỏi đất Ai-cập. Thế rồi Ta đã đem chúng ra khỏi đất Ai-cập và đưa vào sa mạc. Ta đã ban cho chúng nó các quy luật, dạy chúng nó các sắc luật Ta, là những điều người nào làm theo thì sẽ nhờ đó mà sống. Ta cũng ban cho chúng nó những ngày Sa-bát làm dấu hiệu giữa Ta và chúng nó, để chúng biết rằng chính Ta là CHÚA, đấng thánh hóa chúng. Nhưng nhà Y-sơ-ra-ên phản loạn chống Ta trong sa mạc; chúng nó không theo các quy luật Ta, từ khước các sắc lệnh Ta, là những điều người nào làm theo thì sẽ nhờ đó mà sống; chúng nó cũng làm ô uế những ngày Sa-bát của Ta nữa. Ta định đổ cơn thịnh nộ Ta trên chúng để tiêu diệt chúng trong sa mạc. Nhưng vì danh Ta, Ta đã hành động để không bị xúc phạm trước mắt các nước, tức là trước mắt các dân mà Ta đã đem Y-sơ-ra-ên ra khỏi. Ta cũng đã đưa tay thề cùng chúng trong sa mạc rằng Ta sẽ không đem chúng vào đất mà Ta đã ban cho chúng, là đất đượm sữa và mật, một nơi huy hoàng hơn tất cả các xứ. Vì chúng từ khước các sắc lệnh Ta, không theo các quy luật Ta, làm ô uế các ngày Sa-bát Ta; vì lòng chúng đi theo các thần tượng của chúng nó. Tuy nhiên mắt Ta đoái thương, không tàn sát chúng; Ta đã không tận diệt chúng trong sa mạc. Ta phán cùng các con cái chúng trong sa mạc: “Đừng đi theo các quy luật của cha ông các ngươi, đừng tuân theo các sắc lệnh của họ, chớ để bị ô uế vì các thần tượng của chúng. Chính Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của các ngươi, hãy đi theo các quy luật Ta, tuân theo các sắc lệnh Ta, hãy thi hành chúng. Hãy giữ các ngày Sa-bát của Ta thánh khiết để nó làm dấu hiệu giữa Ta và các ngươi, để các ngươi biết rằng Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi.” Nhưng con cái họ phản loạn chống Ta, không theo các quy luật Ta, không tuân giữ các sắc lệnh Ta, là những điều người nào làm theo thì sẽ nhờ đó mà sống; chúng làm ô uế các ngày Sa-bát Ta. Ta định đổ cơn thịnh nộ Ta trên chúng nó, trút cơn giận hình phạt chúng nó trong sa mạc. Nhưng Ta đã rút tay lại, vì danh Ta, Ta đã hành động để không bị xúc phạm trước mắt các nước; tức là trước mắt các dân mà Ta đã đem Y-sơ-ra-ên ra khỏi. Ta cũng đưa tay thề cùng chúng trong sa mạc rằng Ta sẽ làm chúng tản lạc giữa các dân và phân tán chúng giữa các nước. Vì chúng nó không làm theo các sắc lệnh Ta, từ khước các quy luật Ta, làm ô uế các ngày Sa-bát Ta; mắt chúng mãi nhìn theo các tượng thần của cha ông chúng nó. Nên Ta cũng cho chúng nó các quy luật không tốt và những sắc lệnh không đem lại sự sống. Khi chúng dâng tế mọi con đầu lòng của mình, Ta làm cho chúng thành ô uế vì chính các tế lễ đó và làm cho chúng kinh hoàng để chúng biết rằng Ta là CHÚA.’ Vậy, hỡi con người, hãy nói với nhà Y-sơ-ra-ên, nói với chúng rằng: ‘CHÚA phán như vầy: Còn điều này nữa, cha ông các ngươi đã phạm thượng cùng Ta khi bất trung với Ta. Ta đã đem chúng vào đất mà Ta đã đưa tay thề ban cho chúng nó. Nhưng khi thấy mọi đồi cao, mọi cây rậm lá, chúng dâng tế lễ hy sinh tại đó; chúng dâng những tế lễ xúc phạm Ta ở đó. Chúng cũng dâng hương thơm và rượu tế ở đó. Ta đã phán cùng chúng: Đồi cao này là gì mà các ngươi đến viếng tại đó?’” Nên chỗ ấy được gọi là “Ba-ma” cho đến ngày nay. “Vậy, hãy nói với nhà Y-sơ-ra-ên: ‘CHÚA phán như vầy: Các ngươi theo đường lối của cha ông các ngươi làm mình ô uế và đàng điếm theo các thần tượng ghê tởm đó sao? Khi các ngươi dâng tế lễ và dâng tế con cái các ngươi qua lửa, các ngươi đã làm mình ô uế vì mọi thần tượng của các ngươi cho đến ngày nay. Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, Ta sẽ không để các ngươi cầu khẩn Ta. CHÚA tuyên bố: Như Ta hằng sống, Ta sẽ không để các ngươi cầu khẩn Ta. Điều ngươi nghĩ trong tâm trí sẽ không bao giờ xảy ra; ngươi nói rằng: “Chúng ta sẽ thờ cây, thờ đá như các nước, các bộ lạc trong vùng.” CHÚA tuyên bố: Như Ta hằng sống, chắc chắn, Ta sẽ cai trị ngươi bằng bàn tay mạnh mẽ, cánh tay giương lên và cơn thịnh nộ đổ xuống. Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi các dân, tụ họp các ngươi từ các xứ mà các ngươi bị tản lạc bằng bàn tay mạnh mẽ, cánh tay giương lên và cơn thịnh nộ đổ xuống. Ta sẽ đem các ngươi vào sa mạc của các dân và tại đó Ta sẽ phán xét các ngươi mặt đối mặt. Như Ta đã phán xét cha ông các ngươi trong sa mạc của xứ Ai-cập, Ta cũng sẽ phán xét các ngươi như vậy, CHÚA tuyên bố. Ta sẽ làm cho các ngươi ở dưới sự kiểm soát, và đem các ngươi vào vòng giao ước. Ta sẽ thanh lọc khỏi các ngươi những kẻ phản loạn và những kẻ phạm tội cùng Ta. Ta sẽ đem chúng ra khỏi đất mà chúng đang kiều ngụ nhưng chúng sẽ không được vào đất Y-sơ-ra-ên; bấy giờ các ngươi sẽ biết rằng Ta là CHÚA. Còn ngươi, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, CHÚA phán như vầy: Mỗi người hãy đi phục vụ các thần tượng của mình. Nhưng sau đó chắc chắn các ngươi sẽ nghe theo Ta và không còn làm ô danh thánh của Ta bằng những tế lễ và thần tượng nữa. Vì tại núi thánh Ta, tại trên núi cao của Y-sơ-ra-ên, CHÚA tuyên bố, tại đó cả nhà Y-sơ-ra-ên, tất cả chúng nó trong xứ sẽ phục vụ Ta. Ở đó Ta sẽ đón tiếp chúng, Ta sẽ thâu nhận các tiền dâng, các lễ vật tốt nhất cùng các vật thánh của các ngươi. Ta sẽ chấp nhận các ngươi như hương thơm khi Ta đem các ngươi ra khỏi các dân và tập họp các ngươi từ các xứ mà các ngươi bị tản lạc. Ta sẽ bày tỏ sự thánh khiết của Ta qua các ngươi trước mắt các nước. Bấy giờ các ngươi sẽ biết rằng Ta là CHÚA khi Ta đem các ngươi vào đất Y-sơ-ra-ên, là đất Ta đã đưa tay thề ban cho cha ông các ngươi. Tại đó, các ngươi sẽ nhớ lại tất cả những đường lối và tất cả những hành động làm ô uế mình, bấy giờ các ngươi sẽ ghê tởm chính mình vì những hành động gian ác các ngươi đã phạm. Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, các ngươi sẽ biết rằng Ta là CHÚA khi Ta vì danh Ta mà đối xử với các ngươi, chứ không phải vì đường lối gian ác, vì hành động đồi bại của các ngươi, CHÚA tuyên bố.’” Lời CHÚA phán cùng tôi, “Hỡi con người, hãy hướng mặt về phía Nam, giảng nghịch cùng hướng Nam và phán tiên tri chống lại rừng trong đồng bằng phía Nam. Hãy nói cùng khu rừng phía Nam: ‘Hãy nghe lời Chúa tôi, CHÚA phán như vầy: Nầy, Ta sẽ nhen một ngọn lửa giữa các ngươi; lửa sẽ thiêu đốt tất cả các cây tươi cũng như cây khô. Ngọn lửa hừng sẽ không tắt, mọi khuôn mặt từ Nam chí Bắc đều sẽ bị cháy sém. Mọi người sẽ thấy rằng, chính Ta, CHÚA đã nhen ngọn lửa ấy và nó sẽ không tắt.’” Thế rồi tôi thưa: “Ôi, lạy CHÚA, chúng nói với tôi: ‘Không phải ông ấy nói ngụ ngôn sao?’” Lời của CHÚA phán với tôi: “Hỡi con người, hãy hướng mặt về phía Giê-ru-sa-lem, hãy giảng nghịch cùng thánh điện, hãy phán tiên tri chống lại đất Y-sơ-ra-ên. Hãy nói với đất Y-sơ-ra-ên: ‘CHÚA phán như vầy: Nầy, Ta đến phạt ngươi, Ta sẽ rút gươm ra khỏi vỏ và loại trừ người công chính lẫn kẻ gian ác giữa các ngươi. Bởi vì Ta sẽ loại trừ người công chính lẫn kẻ gian ác giữa các ngươi cho nên Ta sẽ rút gươm ra khỏi vỏ chống lại mọi người từ Nam chí Bắc. Mọi người sẽ biết rằng Ta, CHÚA sẽ rút gươm ra khỏi vỏ và sẽ không thu gươm lại nữa.’ Còn ngươi, hỡi con người, hãy than thở với tấm lòng tan vỡ, hãy than thở cay đắng trước mắt chúng nó. Khi chúng nó hỏi ngươi: ‘Tại sao ông than thở?’ Hãy bảo chúng: ‘Tin tức đã đến. Mọi tấm lòng sẽ tan chảy; mọi bàn tay sẽ yếu đuối; mọi tâm thần sẽ ngất xỉu; mọi đầu gối bước đi run rẩy.’ CHÚA tuyên bố: Kìa, điều ấy đang đến và sẽ ứng nghiệm.” Lời của CHÚA phán với tôi: “Hỡi con người, hãy phán tiên tri, hãy phán, Chúa phán như vầy:‘Lưỡi gươm, lưỡi gươm,Mài bén và đánh bóng loáng; Để sát hại, mài bén để sát hại;Bóng loáng như ánh chớp.Chúng ta nên vui mừng chăng? Các ngươi đã coi thường cây trượng của con Ta và mọi cây roi. Lưỡi gươm được đánh bóng,Được trao vào tay người ta;Lưỡi gươm được mài bén, được đánh bóng,Để trao vào tay kẻ giết người. Hỡi con người, hãy khóc lóc, than van,Vì lưỡi gươm ấy dành cho dân Ta,Cho mọi kẻ lãnh đạo của Y-sơ-ra-ên.Họ sẽ bị phó cho gươm giáoCùng với dân Ta.Vậy hãy bày tỏ sự đau đớn tuyệt vọng. CHÚA Toàn Năng tuyên bố: Vì có một cuộc thử thách nhưng nếu các ngươi cũng coi thường cây roi, thì tai họa ấy sẽ không đến sao?’ Còn ngươi, hỡi con người, hãy phán tiên tri,Hãy vỗ tay;Gươm sẽ chém xuống hai,Ba lần;Lưỡi gươm giết chết,Lưỡi gươm tàn sát nhiều,Lưỡi gươm bao phủ chúng nó. Cho nên những tấm lòng tan vỡ,Nhiều người ngã gục;Ta đã đặt gươm chém giếtTại mọi cổng.Ôi, lưỡi gươm được làm để chém như chớp nhoáng,Được đánh bóng để chém giết. Hãy mài bén lên, chém bên phải,Tấn công bên trái;Bất cứ ở đâu lưỡi gươm hướng về. Ta cũng sẽ vỗ tay,Ta sẽ thỏa cơn giận.Ta, CHÚA đã phán như vậy.” Lời của CHÚA phán cùng tôi: “Còn ngươi, hỡi con người, hãy vạch hai con đường cho gươm của vua Ba-by-lôn đến; cả hai sẽ đến từ cùng một nước. Hãy làm bảng chỉ đường ở mỗi đầu đường vào thành. hãy vạch đường để gươm đến Ráp-ba của dân A-môn và vào Giu-đê, đến Giê-ru-sa-lem kiên cố. Vì vua Ba-by-lôn đứng ở ngã ba đường, ở đầu hai con đường để bói quẻ. Người xóc mũi tên để bói, cầu các thần, xem xét lá gan. Tay phải vua bói được quẻ về Giê-ru-sa-lem: hãy đặt chiến cụ phá thành, ra lệnh chém giết, reo hò chiến đấu, đặt chiến cụ phá các cổng thành, đắp mô, xây lũy bao vây. Nhưng trước mắt dân Giê-ru-sa-lem, quẻ bói dường như quẻ bói sai; họ đã có lời thề long trọng trung thành với người. Nhưng quẻ bói nhắc lại tội lỗi của họ khiến họ bị bắt làm tù binh. Cho nên CHÚA Toàn Năng phán như vầy: ‘Vì các ngươi làm cho tội lỗi mình bị nhớ lại, sự vi phạm mình bị tỏ bày và người ta thấy rõ những tội lỗi các ngươi qua mọi hành động của các ngươi. Vì các ngươi đã nhớ lại, các ngươi sẽ bị bắt làm tù binh. Còn ngươi, hỡi hoàng tử xấu xa gian ác của Y-sơ-ra-ên, ngày của ngươi đã đến, thì giờ cho hình phạt cuối cùng. CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Hãy cất mũ tế đi, lột bỏ vương miện; tình hình sẽ không như xưa nữa, cái gì thấp hãy nâng cao, cái gì cao hãy hạ thấp. Đổ nát, đổ nát, Ta sẽ làm đổ nát; điều này cũng sẽ không xảy ra nữa cho đến khi Đấng có quyền đoán xét đến, Ta sẽ ban cho người quyền đó.’ Còn ngươi, hỡi con người, hãy phán tiên tri: ‘CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Hãy nói về dân A-môn, về những điều đáng trách của chúng nó.Hãy nói: Lưỡi gươm,Lưỡi gươm đã được rút ra để sát hại;Được đánh bóng như ánh chớpĐể ăn nuốt. Vì chúng đã thấy những khải tượng sai,Coi những quẻ bói dối cho các ngươi;Chúng đặt các ngươi trên cổNhững kẻ xấu xa gian ác,Là kẻ mà ngày của chúng đã đến,Thì giờ cho hình phạt cuối cùng. Hãy bỏ gươm vào vỏ,Là nơi ngươi được tạo ra,Là xứ sở gốc của ngươi,Ta sẽ đoán xét ngươi. Ta sẽ đổ cơn giận Ta trên ngươi,Ta sẽ thổi lửa thịnh nộ Ta trên ngươi,Ta sẽ trao ngươi vào tay những kẻ dã man,Chuyên hủy diệt. Ngươi sẽ là nhiên liệu để đốt cháy,Máu ngươi sẽ đổ ở giữa xứ,Người ta sẽ không còn nhớ đến ngươi nữaVì chính Ta, CHÚA đã phán như vậy.’” Lời của CHÚA phán cùng tôi rằng: “Hỡi con người, ngươi sẽ phán xét, phán xét cái thành đổ máu đó không? Hãy cho nó biết tất cả những việc ghê tởm của nó. Hãy nói: ‘CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Một thành gây đổ máu ở giữa nó nên thì giờ nó đã đến. Thành làm các tượng thần nên tự làm ô uế mình. Ngươi đã phạm tội vì làm đổ máu, ngươi đã bị ô uế vì làm các hình tượng. Ngày của các ngươi đã gần, năm của các ngươi đã tận, vì thế Ta đã làm cho các ngươi thành điều sỉ nhục giữa các nước và trò chế nhạo trong mọi dân. Những kẻ ở gần lẫn những kẻ ở xa sẽ nhục mạ ngươi, một thành ô danh và đầy hổn loạn. Kìa, những ông hoàng của Y-sơ-ra-ên, mỗi người ở giữa ngươi đều dùng quyền để làm đổ máu. Ở giữa ngươi, cha mẹ bị khinh dể; kiều dân bị bóc lột; trẻ mồ côi, người góa bụa bị ngược đãi ở nơi ngươi. Ngươi đã khinh bỉ các vật thánh của Ta và làm ô uế các ngày Sa-bát của Ta. Ở giữa ngươi có những kẻ vu khống để làm đổ máu, ăn đồ cúng trên núi, sống dâm dục. Ở giữa ngươi có kẻ ăn nằm với thê thiếp của cha mình; phụ nữ trong thời kỳ kinh nguyệt cũng bị ép buộc chăn gối giữa ngươi. Ở giữa ngươi, người thì phạm tội ngoại tình với vợ người lân cận, người thì phạm điều dâm dục với con dâu, người thì phạm tội với em gái, tức là con gái của cha mình. Ở giữa ngươi, người ta ăn hối lộ để làm đổ máu, cho vay lấy lời trước và cho vay nặng lãi, ngươi lợi dụng để bóc lột người lân cận mình và ngươi đã quên Ta, CHÚA tuyên bố. Này, Ta đập tay vì những nguồn lợi bất chính ngươi lấy và trên máu mà ngươi đã đổ ở giữa ngươi. Liệu lòng ngươi có vững vàng, tay ngươi có mạnh mẽ trong ngày Ta xét xử ngươi chăng? Ta là CHÚA, Ta đã phán thì Ta sẽ làm. Ta sẽ làm các ngươi tản lạc nơi các nước, phân tán các ngươi giữa các dân và Ta sẽ thanh lọc sự ô uế nơi ngươi. Chính ngươi sẽ bị khinh bỉ trước mắt các nước, bấy giờ ngươi sẽ biết rằng Ta là CHÚA.’” Lời của CHÚA phán cùng tôi rằng: “Hỡi con người, nhà Y-sơ-ra-ên đã trở thành kim loại cặn bã đối với Ta. Tất cả chúng nó là đồng, thiếc, sắt, chì trong lò. Chúng là cặn bạc. Cho nên CHÚA Toàn Năng phán như vầy: ‘Vì tất cả các ngươi đã trở nên cặn bã kim loại, cho nên, này Ta sẽ thu góp các ngươi vào giữa Giê-ru-sa-lem. Như người ta thu góp bạc, đồng, sắt, chì và thiếc vào trong lò, thổi lửa để nung chảy thể nào thì Ta, trong cơn giận và thịnh nộ của Ta, cũng sẽ thu góp các ngươi, bỏ vào lò và nung chảy các ngươi. Ta sẽ thu góp các ngươi, thổi lửa thịnh nộ trên các ngươi, nên các ngươi sẽ tan chảy trong đó. Như bạc tan chảy trong lò thể nào, các ngươi cũng sẽ tan chảy trong đó thể ấy, rồi các ngươi sẽ biết rằng chính Ta là CHÚA, đã đổ cơn thịnh nộ Ta trên các ngươi.’” Lời của CHÚA phán cùng ta rằng: “Hỡi con người, hãy nói với đất: ‘Mầy là đất không được tẩy sạch, không có mưa trong ngày phẫn nộ.’ Những tiên tri giữa vòng các ngươi thông đồng với nhau như sư tử gầm thét, xé mồi. Chúng ăn thịt người ta, cướp lấy kho tàng, của cải quí giá, làm cho nhiều người trở thành góa phụ trong thành. Các thầy tế lễ vi phạm kinh luật Ta, làm ô uế các đồ vật thánh Ta. Chúng không phân biệt giữa thánh và phàm tục, chúng cũng không dạy sự khác nhau giữa ô uế và thanh sạch; chúng nhắm mắt không tuân giữ các ngày Sa-bát của Ta nên Ta bị xúc phạm ở giữa chúng. Các ông hoàng giữa vòng chúng như chó sói xé mồi, gây đổ máu, giết người để thủ lợi. Các tiên tri của chúng tô phết vôi trắng cho chúng; thấy khải tượng giả, bói khoa dối. Chúng nói rằng: ‘CHÚA Toàn Năng phán như vầy,’ nhưng CHÚA không có phán. Dân trong xứ bóc lột, cướp bóc, áp bức người cùng khốn, nghèo nàn và bóc lột ngoại kiều không kể gì đến công bình. Ta tìm kiếm một người ở giữa họ để xây tường thành, để đại diện cho xứ sở đứng trám vào lỗ hổng trước mặt Ta hầu cho Ta khỏi hủy diệt xứ, nhưng Ta không tìm thấy. Nên Ta đã đổ cơn giận Ta trên chúng, tiêu hủy chúng bằng ngọn lửa thịnh nộ của Ta; Ta sẽ báo trả lên đầu chúng đường lối của chúng, CHÚA Toàn Năng tuyên bố.” Lời của CHÚA phán cùng tôi rằng: “Hỡi con người, có hai người đàn bà là con gái của cùng một mẹ. Chúng nó làm điếm tại Ai-cập, từ thời son trẻ chúng đã làm điếm ở đó. Vú chúng nó bị bóp, trinh tiết bị phá ở đó. Tên của cô chị là Ô-hô-la, tên cô em là Ô-hô-li-ba Chúng nó đã thuộc về Ta và sinh sản con trai, con gái. Tên của chúng: Ô-hô-la là Sa-ma-ri và Ô-hô-li-ba là Giê-ru-sa-lem. Ô-hô-la làm điếm trong khi nó thuộc về Ta; nó mê người tình của nó là A-si-ri, những binh sĩ, mặc áo xanh, những thống đốc và tướng lãnh. Tất cả chúng nó đều trẻ trung, tài hoa, là kỵ sĩ cỡi ngựa. Nó đàng điếm với chúng nó, tất cả đều là những kẻ ưu tú của A-si-ri. Nó tự làm ô uế mình với tất cả những thần tượng của những người nó si mê. Nó không từ bỏ đàng điếm với Ai-cập vì từ khi còn trẻ người ta đã ăn ngủ với nó, phá bỏ trinh tiết của nó và trút đổ dâm dục của chúng trên nó. Cho nên Ta trao nó vào tay người tình của nó, vào tay những con cái A-si-ri; những kẻ nó si mê. Chúng lột trần nó, bắt con trai, con gái nó rồi dùng gươm giết nó. Người ta đã trừng phạt nó và nó trở thành nổi danh trong giới phụ nữ. Em gái nó là Ô-hô-li-ba thấy vậy nhưng còn phóng đảng hơn, đàng điếm hơn chị nó. Nó si mê những người A-si-ri, những thống đốc, tướng lãnh, những binh sĩ mặc đồng phục oai nghi, những kỵ sĩ cưỡi ngựa; tất cả đều trẻ trung, tài hoa. Ta thấy nó tự làm ô uế mình. Cả hai chị em đều theo một đường. Thêm vào chuyện đàng điếm, nó còn nhìn những người đàn ông khắc trên tường, hình ảnh những người Canh-đê vẽ màu đỏ, nai nịt ngang lưng, khăn vấn trên đầu buông thõng; tất cả đều giống như quan viên, hình ảnh của người Ba-by-lôn, dân xứ Canh-đê. Nhìn thấy thế, nó si mê những người ấy và sai sứ giả đến với chúng tại Canh-đê. Những người Ba-by-lôn đến ăn ngủ với nó, làm nó thành ô uế vì sự đàng điếm của chúng. Nó cũng tự làm mình ra ô uế rồi chán bỏ chúng nó. Khi nó công khai đàng điếm và phô trương sự trần truồng của nó ra, Ta chán bỏ nó như Ta đã chán bỏ chị nó. Nhưng nó càng dâm đảng hơn khi nhớ lại những ngày trẻ trung nó đã sống dâm đảng tại đất Ai-cập. Nó si mê những người tình của nó, là những kẻ tình dục thể xác mạnh như lừa, dâm như ngựa. Ngươi mong muốn điều dâm đảng của thời son trẻ tại Ai-cập khi người ta ăn ngủ với ngươi và bóp vú trẻ trung của ngươi. Cho nên, hỡi Ô-hô-li-ba, CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Nầy, Ta sẽ thúc đẩy những người tình của ngươi, những kẻ ngươi đã chán bỏ, chống lại ngươi. Ta sẽ đem chúng nó đến tấn công ngươi từ khắp nơi. Những người Ba-by-lôn, mọi người Canh-đê, Phê-cốt, Soa và Coa, hết thảy người A-si-ri cùng với chúng, những thanh niên tài hoa, thống đốc, tướng lãnh, tất cả đều là kỵ binh, chiến sĩ, tất cả đều cưỡi ngựa. Chúng nó sẽ từ phương bắc đem xe chiến mã, xe cộ cùng đoàn quân liên minh đến đánh ngươi. Chúng nó dùng thuẫn, khiên, mũ chiến tấn công ngươi từ khắp nơi. Ta sẽ cho chúng nó quyền phán xét và chúng sẽ phán xét ngươi theo tiêu chuẩn xét đoán của chúng. Ta sẽ nổi ghen chống lại ngươi; chúng nó sẽ đối xử với ngươi một cách giận dữ. Chúng nó sẽ cắt mũi, cắt tai các ngươi. Những kẻ sống sót của ngươi sẽ ngã gục vì gươm. Chúng nó sẽ bắt con trai, con gái các ngươi và những kẻ sống sót của ngươi sẽ bị lửa thiêu nuốt. Chúng sẽ lột quần áo và lấy hết nữ trang của ngươi. Ta sẽ làm cho thói dâm đảng và đàng điếm của ngươi từ đất Ai-cập chấm dứt để ngươi không ngưỡng trông chúng nó và không còn nhớ đến Ai-cập nữa. Vì CHÚA Toàn Năng đã phán như vầy: Nầy, Ta sẽ trao ngươi vào tay những kẻ mà ngươi ghét, vào tay những kẻ ngươi chán bỏ. Chúng sẽ lấy hận thù đối xử với ngươi, chiếm lấy tất cả công lao của ngươi, để ngươi trần truồng, trơ trọi; sự trần truồng dâm đảng của ngươi sẽ bị phô bày. Thói dâm đảng và đàng điếm của ngươi đã đem lại điều này cho ngươi. Vì ngươi đã chạy theo đàng điếm với các nước và tự làm cho mình ô uế với các thần tượng của chúng. Ngươi đã đi theo con đường của chị ngươi nên Ta cũng trao chén của nó vào tay ngươi. CHÚA Toàn Năng phán như vầy:Ngươi sẽ uống chén của chị ngươi,Chén sâu và rộng.Ngươi sẽ trở nên trò cười và chế nhạoVì chén ấy chứa quá nhiều. Ngươi sẽ chứa đầy say sưa và buồn thảm;Chén đầy kinh hoàng và đổ nát,Chén của chị ngươi: Sa-ma-ri. Ngươi sẽ uống chén ấy và uống cạn chén;Ngươi sẽ gặm các mảnh sành,Và rạch nát đôi vú ngươi. Vì chính Ta đã phán, CHÚA Toàn Năng đã tuyên bố. Cho nên CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Vì ngươi đã quên Ta, đã bỏ Ta sau lưng nên ngươi sẽ mang lấy hậu quả của sự dâm đảng và đàng điếm ngươi.” CHÚA phán cùng tôi: “Hỡi con người, ngươi sẽ phán xét Ô-hô-la và Ô-hô-li-ba chăng? Hãy công bố những điều ghê tởm của chúng. Vì chúng đã ngoại tình, tay chúng vấy máu. Chúng đã ngoại tình với các thần tượng và còn dâng con của chúng, những đứa con chúng sinh cho Ta, làm thức ăn cho các thần tượng. Chúng còn làm điều này phạm đến Ta nữa, chúng làm ô uế đền thánh Ta đồng thời cũng vi phạm các ngày Sa-bát Ta. Chúng giết con cái mình dâng cho thần tượng rồi cũng trong ngày ấy vào đền thánh Ta làm ô uế đền. Kìa, chúng đã làm như thế trong nhà Ta. Hơn thế nữa, chúng cử người đi tìm kiếm người từ xa. Một sứ giả được sai đến với những người ấy; kìa, họ đã đến. Ngươi vì họ tắm rửa, kẻ mắt và đeo đồ trang sức. Ngươi ngồi trên giường lộng lẫy, bàn kê trước mặt có dầu và hương của Ta để trên ấy. Tiếng của đám đông vô tư chung quanh ngươi; những kẻ say sưa từ sa mạc đến cùng những kẻ phàm nhân. Chúng đeo vòng vào tay và đội mão đẹp trên đầu các phụ nữ. Bấy giờ tôi tự hỏi về người đàn bà phờ phạc đi vì ngoại tình: ‘Giờ đây chúng vẫn đàng điếm với nó chăng?’ Chúng đến với nó như đến với một con điếm. Vậy, chúng đến với Ô-hô-la và Ô-hô-li-ba, hai người đàn bà dâm đảng. Nhưng những người công chính sẽ phán xét chúng về tội ngoại tình và tội gây đổ máu. Vì thật vậy, chúng ngoại tình và tay vấy máu. Vì CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Hãy tụ họp hội chúng để trừng phạt chúng nó, hãy phó chúng nó cho kinh hoàng và cướp bóc. Hội chúng sẽ ném đá chúng nó, dùng gươm chém chúng nó, giết con trai con gái chúng nó và phóng hỏa thiêu hủy nhà cửa chúng nó. Ta sẽ làm cho chấm dứt thói dâm đảng trong xứ và tất cả phụ nữ sẽ được cảnh cáo để không hành động dâm đảng như các ngươi đã làm. Họ sẽ báo trả các ngươi về tội dâm đảng của các ngươi. Các ngươi sẽ mang hình phạt về tội thờ thần tượng của mình, và các ngươi sẽ biết rằng chính Ta là CHÚA Toàn Năng.” Vào ngày mười tháng mười năm thứ chín, lời của CHÚA phán với tôi rằng: “Hỡi con người, hãy ghi xuống ngày này, chính ngày này. Vua Ba-by-lôn sẽ bao vây thành Giê-ru-sa-lem vào ngày này. Hãy kể cho nhà phản loạn một ngụ ngôn, nói với chúng: ‘CHÚA Toàn Năng phán như vầy:Đặt nồi lên, đặt nồiVà đổ nước vào; Bỏ thịt vào nồi,Tất cả thịt ngon, thịt đùi, thịt vai;Bỏ đầy nồi những xương ngon lành. Hãy bắt con tốt nhất trong bầy súc vật,Chất xương làm củi phía dưới,Nấu cho thật sôi;Cũng hầm xương trong đó. Cho nên CHÚA Toàn Năng phán như vầy:Khốn cho thành đổ máu,Là cái nồi rỉ sét,Vết rỉ không rửa sạch được,Phải lấy ra từng miếng,Không phải chọn lựa gì cả. Vì máu vẫn còn ở giữa thành,Nó làm đổ máu trên mặt đá nhẵn,Nó không đổ xuống đấtĐể bụi đất lấp đi. Ta để cho máu đổ trên mặt đá nhẵn,Để không có gì che lấp,Để Ta nổi giận và ra tay báo thù. Cho nên, CHÚA Toàn Năng phán như vầy:Khốn cho thành đổ máu,Ta sẽ làm cho đống củi lớn hơn; Hãy chất nhiều củi,Nhóm lửa lên,Nấu thịt cho sôi,Chêm thêm gia vị,Hãy để xương cốt cháy thiêu. Hãy đặt cái nồi không trên than lửa,Để nồi nóng lên, cho đồng nóng đỏ,Để cặn bẩn tan chảy,Để rỉ sét tiêu tan. Nhưng chỉ nhọc công vô ích,Lớp rỉ sét dày vẫn không tróc ra khỏi nồi,Dù nung đốt trong lửa. Vì sự ô uế dâm đảng của ngươi, Ta muốn thanh tẩy ngươi. Nhưng ngươi không để sự ô uế mình được thanh tẩy, nên ngươi sẽ không được thanh tẩy nữa cho đến khi cơn giận Ta đối với ngươi nguôi đi. Chính Ta, CHÚA đã phán thì điều ấy sẽ đến. Ta sẽ hành động, Ta sẽ không nương tay, Ta sẽ không tiếc, không đổi ý. Ta sẽ trừng phạt ngươi tùy theo đường lối, công việc của ngươi, CHÚA Toàn Năng tuyên bố.’” Lời của CHÚA phán cùng tôi rằng: “Hỡi con người, này, bất thần Ta sẽ cất niềm vui mừng trong mắt ngươi đi nhưng ngươi không được than vãn, khóc lóc và không được chảy nước mắt. Hãy than thở âm thầm, đừng than khóc cho người chết; hãy đội khăn, mang giày; đừng che râu, không ăn bánh của những người khách an ủi.” Buổi sáng, tôi nói với dân chúng, buổi chiều vợ tôi qua đời. Sáng hôm sau, tôi làm y như tôi đã được truyền. Dân chúng nói với tôi: “Ông không giải thích cho chúng tôi điều mà ông làm nghĩa là gì sao?” Tôi bảo họ: “Lời của CHÚA phán với tôi rằng: Hãy nói với nhà Y-sơ-ra-ên: ‘CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Nầy, Ta sẽ làm ô uế đền thánh Ta, đền ấy là sự hãnh diện của quyền năng ngươi, niềm vui của mắt ngươi, sự mong ước của linh hồn ngươi. Các con trai, con gái ngươi để lại sẽ ngã gục vì gươm. các ngươi sẽ làm như tôi đã làm, không che râu, không ăn bánh của những người khách an ủi. Các ngươi hãy đội khăn trên đầu, hãy đi giày, không than vãn, không khóc lóc; các ngươi sẽ mòn mỏi trong tội lỗi mình và than thở với nhau. Ê-xê-chi-ên sẽ là dấu hiệu cho các ngươi, tất cả những gì người đã làm, các ngươi cũng sẽ làm. Khi điều này xảy đến, các ngươi sẽ biết rằng Ta là CHÚA Toàn Năng.’ Còn ngươi, hỡi con người, vào ngày Ta cất đi khỏi chúng nó thành trì, sự vui mừng, vinh quang, niềm vui của mắt chúng nó, sự mong ước của linh hồn chúng nó cùng con trai, con gái chúng. Vào ngày ấy, có người chạy thoát, đến báo tin cho ngươi; Ngày ấy, miệng ngươi sẽ mở và nói với người thoát nạn kia; ngươi không còn câm nữa. Ngươi sẽ là dấu hiệu cho chúng nó và chúng sẽ biết rằng Ta là CHÚA Toàn Năng.” Lời của CHÚA phán cùng tôi: “Hỡi con người, hãy hướng mặt về phía dân Am-môn và phán tiên tri nghịch cùng chúng. Hãy nói với dân Am-môn: ‘Hãy nghe lời của CHÚA Toàn Năng, CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Vì ngươi đã nói “A ha!” về đền thánh của Ta khi nó bị ô uế, về đất đai Y-sơ-ra-ên khi nó bị hoang tàn, về nhà Giu-đa khi nó phải đi lưu đày. Cho nên, nầy, Ta sẽ trao ngươi cho dân đông phương làm tài sản. chúng sẽ đóng trại ở giữa ngươi, cư trú giữa ngươi; chúng sẽ ăn hoa quả và uống sữa của ngươi. Ta sẽ làm Ra-ba thành đồng cỏ cho lạc đà và Am-môn thành nơi nghỉ ngơi của súc vật; bấy giờ các ngươi sẽ biết rằng Ta là CHÚA. Thật vậy, CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Vì ngươi đã vỗ tay, dậm chân vui mừng và lòng hết sức khinh bỉ đất Y-sơ-ra-ên; cho nên, nầy, Ta sẽ giương tay phạt ngươi, Ta sẽ trao ngươi cho các nước như của cướp; Ta sẽ loại bỏ ngươi khỏi các dân; Ta sẽ diệt ngươi khỏi các nước. Ta sẽ hủy diệt ngươi và ngươi sẽ biết rằng Ta là CHÚA.’” “CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Vì Mô-áp và Sê-i-rơ nói rằng: ‘Kìa, nhà Giu-đa khác gì tất cả các nước khác; cho nên, nầy, Ta sẽ phá tan Mô-áp, các thành của chúng cho đến thành cuối cùng, tức là Bết-giê-si-mốt, Ba-anh-Mê-ôn và Ki-ri-a-tha-im, là vinh quang của xứ ấy. Ta sẽ trao Mô-áp cùng với dân Am-môn cho dân đông phương làm tài sản; như thế dân Am-môn sẽ bị quên lãng giữa vòng các nước. Ta sẽ trừng phạt Mô-áp và chúng sẽ biết rằng Ta là CHÚA.’” “CHÚA Toàn Năng phán như vầy: ‘vì dân Ê-đôm đã hành động báo thù nhà Giu-đa và mắc tội khi báo thù chúng. Cho nên CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Ta sẽ giương tay phạt Ê-đôm, loại bỏ người và thú vật ở đó. Ta sẽ làm cho nó hoang tàn; từ Thê-man đến Đê-đan, người ta sẽ ngã gục vì gươm. Ta sẽ dùng tay dân Ta, là Y-sơ-ra-ên để báo thù Ê-đôm. Dân ấy sẽ đối xử với Ê-đôm theo như cơn thịnh nộ và tức giận của Ta, bấy giờ chúng sẽ nếm biết sự báo thù của Ta, CHÚA Toàn Năng tuyên bố.’” “CHÚA Toàn Năng phán như vầy: ‘Vì dân Phi-li-tin đã hành động báo thù; vì mối thù truyền kiếp và lòng khinh bỉ chúng báo thù để hủy diệt. Cho nên CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Nầy, Ta sẽ giương tay phạt Phi-li-tin. Ta sẽ loại bỏ dân Cơ-rết và hủy diệt những kẻ sống sót dọc bờ biển. Ta sẽ trừng phạt chúng nó trong cơn thịnh nộ để thi hành cuộc báo thù lớn lao; khi Ta báo thù, chúng sẽ biết rằng Ta là CHÚA.’” Vào ngày đầu tháng, năm thứ mười một, lời của CHÚA phán cùng tôi: “Hỡi con người, vì thành Ty-rơ nói về Giê-ru-sa-lem rằng: ‘A ha! Cái cổng dẫn đến các dân đã đổ vỡ. Nó đã mở ra cho ta, ta sẽ được đầy dẫy, nó đã bị hoang tàn.’ Vì thế CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Nầy, thành Ty-rơ, Ta sẽ phạt ngươi, Ta sẽ đem nhiều nước đến trừng phạt ngươi như biển cả dậy sóng. Chúng nó sẽ phá hủy các tường thành của Ty-rơ và đập đổ các tháp canh. Còn Ta sẽ cạo sạch lớp đất khỏi thành và biến nó thành núi đá trọc. Nó sẽ trở thành nơi phơi lưới ở giữa biển; làm mồi cho các nước vì Ta là CHÚA, Ta đã phán, Chúa tôi tuyên bố. Các con gái nó ở nơi đồng nội sẽ bị giết bằng gươm, chúng nó sẽ biết rằng Ta là CHÚA. Vì CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Nầy, từ phương bắc, Ta sẽ đem Nê-bu-cát-nết-sa đến đánh thành Ty-rơ, người là vua Ba-by-lôn, vua của các vua, cùng với ngựa, xe chiến mã, lính kỵ và đoàn quân đông đảo. Các con gái ngươi nơi đồng nội sẽ bị giết bằng gươm; nó sẽ xây lũy đắp ụ chống ngươi; nó sẽ nâng thuẫn tấn công ngươi. Nó sẽ hướng những máy phá thành về phía ngươi và dùng búa đánh đổ các tháp canh. Ngựa của người nhiều đến nỗi tung bụi che lấp ngươi. Tiếng của lính kỵ, bánh xe và xe chiến mã làm tường thành ngươi rung chuyển; người sẽ vào cổng thành ngươi như người vào thành đã bị phá. Vó ngựa của người sẽ giẫm nát mọi đường phố ngươi; dân ngươi sẽ bị sát hại bằng gươm và các cột trụ kiên cường của ngươi sẽ ngã xuống đất. Chúng nó sẽ cướp đoạt tài sản ngươi, giựt lấy hàng hóa ngươi, đạp đổ tường thành, hủy diệt nhà cửa tốt đẹp của ngươi; chúng sẽ đổ hết đá, gỗ và đất của ngươi xuống dưới biển. Ta sẽ làm cho tiếng hát của ngươi im bặt và không ai nghe tiếng đàn hạc của ngươi nữa. Ta sẽ làm cho ngươi trở nên tảng đá trọc; ngươi sẽ thành nơi phơi lưới, không còn được xây dựng nữa, vì chính Ta, CHÚA đã phán. CHÚA Toàn Năng tuyên bố như thế. CHÚA Toàn Năng phán như vầy cùng thành Ty-rơ: Nghe tiếng sụp đổ của ngươi, lời rên la của kẻ bị thương vong cùng sự sát hại giữa vòng ngươi, các hải đảo không rúng động sao? Mọi ông hoàng của biển cả sẽ bước xuống khỏi ngai, cởi áo choàng, lột bỏ áo thêu. Chúng sẽ mặc lấy sự run rẩy, ngồi trên đất run rẩy liên hồi, bàng hoàng về ngươi. Chúng cất tiếng than khóc về ngươi rằng:‘Hỡi thành danh tiếng, sao ngươi bị hủy diệt?Thành do người đi biển cư ngụ,Ngươi và cư dân của ngươiVốn là thành cường thịnh nơi biển cả.Ngươi đã từng làm cư dânTrong miền kinh hoàng. Giờ đây các hải đảo kinh hoàngTrong ngày ngươi sụp đổ.Những hải đảo nơi biểnRun sợ vì ngươi suy tàn.’ Vì CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Khi Ta làm cho một thành trở nên hoang vu như thành không người ở; khi Ta đem vực sâu và nước lớn tràn ngập ngươi. Bấy giờ Ta sẽ đem ngươi xuống, cùng với những kẻ đi xuống vực sâu, cùng với dân cổ đại. Ta sẽ cho ngươi cư trú ở nơi sâu thẳm của đất giống như những nơi hoang tàn cổ xưa cùng với những kẻ đi xuống vực sâu để ngươi không còn được người ta cư ngụ và là nơi vinh hiển trong đất người sống. Ta sẽ đem ngươi đến chỗ tận cùng kinh khiếp; ngươi sẽ không còn tồn tại. Dù tìm kiếm, người ta sẽ không bao giờ tìm thấy ngươi nữa. CHÚA Toàn Năng tuyên bố.” Lời CHÚA phán cùng tôi rằng: “Nầy ngươi, hỡi con người, hãy cất tiếng than khóc cho thành Ty-rơ. Hãy nói với Ty-rơ, thành tọa lạc nơi cửa biển, buôn bán với các dân thuộc nhiều hải đảo: ‘CHÚA Toàn Năng phán như vầy:Hỡi Ty-rơ, ngươi tự bảo:Ta xinh đẹp tuyệt hảo. Biên cương của ngươi ở giữa biển cả,Những tay thợ của ngươi làm cho ngươi xinh đẹp tuyệt hảo. Người ta dùng toàn thôngTừ Sê-nia làm ván thuyền cho ngươi,Người ta lấy tùng từ Li-banLàm cột buồm cho ngươi. Chúng làm mái chèo của ngươiBằng gỗ sồi Ba-san;Cẩn ngà voi trên boong tàuLàm bằng gỗ bá hương từ đảo Kít-tim. Cánh buồm của ngươi là vải gai thêu từ Ai-cậpNhư cờ hiệu;Bạt che ngươi là vải xanh vải tímTừ đảo Ê-li-sa. Dân cư thành Si-đôn và A-vát là các tay chèo cho ngươi;Hỡi Ty-rơ, những tay thợ lành nghề, những thủy thủ ở cùng ngươi. Những người thợ lão luyện, lành nghề từ Gê-ban đều ở cùng ngươi,Tu bổ thuyền cho ngươi.Mọi tàu biển và thủy thủ đều đến với ngươiTrong việc giao thương hàng hóa. Người Ba-tư, Lút, Phút ở trong quân đội ngươi,Họ là những chiến binh dũng mãnh;Họ treo thuẫn và mũ chiến nơi ngươi;Họ đem vinh quang về cho ngươi. Người A-vát và Hê-lếtỞ trên các tường thành chung quanh,Người Ga-mátỞ trên các tháp canh;Họ treo khiên trên tường thành chung quanh;Chúng làm cho ngươi xinh đẹp tuyệt hảo. Người Ta-rê-si buôn bán với ngươi vì ngươi có đủ mọi hàng hóa; chúng dùng bạc, sắt, thiết và kẽm để trao đổi lấy hàng hóa của ngươi. Người Hy-lạp, Tu-banh, Mê-siếc giao thương với ngươi; chúng dùng nô lệ và đồ đồng để trao đổi lấy hàng của ngươi. Người Ta-gô-ma dùng ngựa, ngựa chiến và la để trao đổi lấy hàng hóa của ngươi. Người Đê-đan là khách hàng của ngươi; dân nhiều hải đảo cũng giao thương với ngươi. Chúng nộp cống cho ngươi ngà voi và gỗ mun. Người Sy-ri giao thương với ngươi vì ngươi có nhiều sản phẩm. Chúng dùng ngọc lam, vải tía, đồ thêu, vải gai mịn, san hô và hồng ngọc để trao đổi lấy hàng hóa của ngươi. Giu-đa và vùng Y-sơ-ra-ên là khách hàng của ngươi. Chúng dùng lúa mì Min-nít, bánh, mật ong, dầu và hương liệu để trao đổi lấy hàng hóa của ngươi. Đa-mách buôn bán với ngươi vì ngươi có đủ mọi hàng hóa; nó cung cấp cho ngươi rượu Hê-bôn và vải len trắng. Người Vê-đan và Hy-lạp từ U-dan giao thương với ngươi; họ đem sắt luyện, quế và trầm hương để trao đổi lấy hàng hóa của ngươi. Người Đê-đan dùng vải làm yên ngựa để buôn bán với ngươi. Người Ả-rập và mọi ông hoàng xứ Kê-đa đều giao thương với ngươi; họ buôn bán với ngươi chiên con, chiên và dê. Các thương gia từ Sê-ba và Ra-a-ma dùng những hương liệu quí nhất, tất cả loại đá quí và vàng để trao đổi lấy hàng hóa của ngươi. Ha-ran, Ca-nê và Ê-đen, các thương gia từ Sê-ba, A-si-ri và Kin-mát đều giao thương với ngươi. Họ đem y phục đắt tiền, vải tía, đồ thêu, thảm dệt nhiều màu và dây thừng bện chắc chắn buôn bán với ngươi. Các tàu từ Ta-ri-siChuyên chở hàng hóa cho ngươi,Nên ngươi đầy trànVà chở nặng giữa biển cả. Những tay chèo của ngươiĐã đưa ngươi ra biển cả.Cơn gió đông đánh tan ngươiGiữa lòng biển. Tài sản, hàng hóa, sản phẩm,Thủy thủ, tài công, thợ sửa buồm, thương gia,Tất cả binh sĩ của ngươiCùng mọi người trên tàu với ngươi,Đều sẽ chìm xuống lòng biểnTrong ngày ngươi sụp đổ. Nghe tiếng kêu la của thủy thủ,Dân trên vùng duyên hải đều rúng động. Bấy giờ mọi kẻ chèo,Thủy thủ, tài côngĐều xuống khỏi thuyền,Đứng trên bờ. Họ cất tiếng than van về ngươi,Khóc lóc cay đắng,Họ rắc bụi lên đầu,Lăn mình trong tro bụi. Họ cạo đầu,Mặc đồ tang chế vì ngươi.Lòng đau đớn, họ khóc lóc,Than vãn đắng cay. Trong khi khóc thươngChúng cất lên một bài điếu văn, ca rằng:Ai giống như thành Ty-rơ,Như bị lặng yên trong lòng biển cả? Khi hàng hóa ngươi được đưa ra qua các đại dương;Ngươi làm nhiều dân thỏa mãn;Với tài sản lớn lao và nhiều sản phẩm,Ngươi làm giàu cho nhiều vua trên đất. Giờ đây ngươi bị tan vỡVà chìm sâu nơi biển cả,Hàng hóa và mọi kẻ ở với ngươiCùng chìm xuống theo ngươi. Mọi cư dân trên các hải đảoĐều kinh ngạc về ngươi;Các vua của họ hết sức kinh hoàng,Mặt mày thất sắc. Thương gia các nước huýt sáo chế giễu ngươiVì ngươi đã đến chỗ tận cùng khủng khiếp.Ngươi sẽ không còn tồn tại nữa đến muôn đời.’” Lời của CHÚA phán cùng tôi: “Hỡi con người, hãy nói cùng ông hoàng Ty-rơ: ‘CHÚA Toàn Năng phán như vầy:Vì lòng ngươi kiêu ngạo,Ngươi bảo rằng: “Ta là một thần,Ngự giữa các thần,Ngồi giữa biển cả.”Nhưng ngươi chỉ là một người, không phải thần,Dù ngươi cho rằng tâm trí mình như tâm trí các thần. Này, ngươi khôn ngoan hơn Đa-ni-ên,Mọi bí mật đều không giấu được ngươi. Nhờ khôn ngoan và hiểu biết,Ngươi tạo nên tài sản cho ngươi;Ngươi cũng tích trữ vàng, bạcTrong kho. Nhờ rất khôn ngoan trong việc buôn bán,Ngươi trở nên giàu có lớn,Và lòng ngươi trở nên kiêu ngạoVì mình giàu. Cho nên CHÚA Toàn Năng phán như vầy:Vì ngươi cho rằng tâm trí mìnhNhư tâm trí các thần. Cho nên, này, Ta sẽ đem những người ngoại quốc,Là dân hung dữ nhất trong các nước, tấn công ngươi.Chúng sẽ rút gươm đánh sự khôn ngoan hoa mỹ của ngươiVà làm ô uế sự vinh hiển ngươi. Chúng sẽ đẩy ngươi xuống vực sâuVà ngươi sẽ chết bằng cái chết thảm khốcNơi lòng biển. Liệu ngươi vẫn còn nói: “Ta là một thần”Trước mặt những kẻ giết ngươi không?Thật, ngươi chỉ là một người, không phải thầnTrong tay những kẻ giết ngươi. Ngươi sẽ chết như người không cắt bìTrong tay những kẻ ngoại quốc. Vì Ta đã phán, CHÚA Toàn Năng tuyên bố.’” Lời CHÚA phán cùng tôi: “Hỡi con người, hãy cất tiếng ai ca về vua Ty-rơ, hãy nói với người: ‘CHÚA Toàn Năng phán như vầy:Ngươi là mẫu người hoàn toàn,Đầy khôn ngoan và tuyệt mỹ. Ngươi ở trong Ê-đen,Vườn của Đức Chúa Trời,Ngươi trang sức toàn bằng đá quí:Hồng ngọc, hoàng ngọc, lục bảo ngọc,Kim lục ngọc, ngọc mã não, ngọc thạch anh,Bích ngọc, lam ngọc, lục ngọc;Khung và ổ nhận ngọc đều khảm vàng.Từ ngày ngươi được tạo nên, chúng đã sẵn sàng. Ngươi được xức dầuĐể làm Chê-ru-bim che chở;Ta đặt ngươi trên núi thánh của Đức Chúa Trời;Ngươi đi lại giữa những đá sáng rực như lửa. Từ ngày ngươi được tạo nên,Đường lối ngươi không có gì đáng tráchCho đến khi gian ác xuất hiện nơi ngươi. Vì công việc buôn bán lớn của ngươi hưng thịnh,Ngươi đầy bạo hànhVà tội lỗi;Cho nên, hỡi Chê-ru-bim che chở,Ta đuổi ngươi ra khỏi núi của Đức Chúa TrờiVà diệt ngươi khỏi những đá sáng rực như lửa. Lòng ngươi kiêu ngạoVì vẻ đẹp của mình;Sự huy hoàng ngươiLàm hư hỏng trí khôn ngoan ngươi.Ta ném ngươi xuống đất trước mặt các vua,Ta phó ngươi cho họ xem. Vì nhiều tội lỗi và buôn bán gian dối,Ngươi đã làm ô uế những nơi thánh ngươi.Vì thế, Ta cho một ngọn lửa phát ra từ giữa ngươiĐể thiêu đốt ngươi,Và biến ngươi thành tro bụi trên đấtTrước mắt mọi người xem. Tất cả những người biết ngươi từ các dânSẽ kinh ngạc về ngươi.Ngươi sẽ đi đến chỗ tận cùng khủng khiếp,Và sẽ không còn tồn tại nữa đến muôn đời.’” Lời của CHÚA phán cùng tôi: “Hỡi con người, hãy hướng về phía thành Si-đôn và phán tiên tri nghịch cùng nó. Hãy nói cùng nó: ‘CHÚA Toàn Năng phán như vầy:Này, hỡi Si-đôn, Ta chống lại ngươi.Ta sẽ được vinh hiển ở giữa ngươi;Khi Ta thi hành án phạt ngươiVà bày tỏ sự thánh khiết TaThì ngươi sẽ biết rằng chính Ta là CHÚA. Ta sẽ đem dịch lệ đến trong thành;Máu đổ khắp phố phường,Những kẻ tử vong ngã gục ở giữa thành;Gươm đao chống lại nó khắp bốn bên;Bấy giờ chúng nó sẽ biết rằng chính Ta là CHÚA. Lúc ấy nhà Y-sơ-ra-ên sẽ không còn bị gai đâm, dằm chích bởi mọi nước lân bang, là các nước vẫn khinh bỉ chúng nó. Bấy giờ chúng sẽ biết rằng chính Ta là CHÚA Toàn Năng. CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Khi Ta tập họp nhà Y-sơ-ra-ên về từ các dân, là nơi chúng bị tản lạc, Ta sẽ bày tỏ sự thánh khiết Ta giữa chúng trước mắt các nước. Bấy giờ chúng sẽ cư ngụ trong đất mà Ta đã ban cho tôi tớ Ta là Gia-cốp. Chúng sẽ sống an toàn nơi đó, xây nhà và trồng vườn nho. Chúng sẽ sống an toàn trong khi Ta thi hành án phạt mọi nước lân bang đã khinh bỉ chúng. Bấy giờ chúng nó sẽ biết rằng chính Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng.’” Vào ngày mười hai, tháng mười năm thứ mười, có lời của CHÚA phán với tôi rằng: “Hỡi con người, hãy quay mặt nghịch cùng Pha-ra-ôn, vua Ai Cập và phán tiên tri nghịch cùng toàn thể Ai Cập. Hãy nói, hãy bảo nó: ‘CHÚA Toàn Năng phán rằng:Này, hỡi Pha-ra-ôn, vua Ai Cập, Ta chống lại ngươi.Ngươi, con cá sấu vĩ đại đang nằm giữa các dòng sông;Ngươi bảo: Sông Ninh là của Ta,Chính Ta đã tạo ra nó. Ta sẽ tra móc vào hàm ngươi,Làm cho cá các sông bám vào vẩy ngươi.Ta sẽ kéo ngươi cùng tất cả cá nơi sôngĐã bám vào vẩy ngươi ra khỏi các dòng sông. Ta sẽ ném ngươi vào sa mạc,Ngươi và cả những cá dưới các sông của ngươi.Ngươi sẽ ngã gục nơi đồng trống,Không thu lại được và cũng không được chôn cất.Ta sẽ ban ngươi làm mồiCho thú vật dưới đất và chim chóc trên trời. Bấy giờ cả dân cư Ai Cập sẽ biết rằng chính Ta là CHÚA.Vì ngươi chỉ là cây gậy bằng lau đối với nhà Y-sơ-ra-ên. Khi chúng dùng tay nắm lấy ngươi thì ngươi vỡ ra từng mảnh và làm chúng rách cả vai. Khi chúng dựa vào ngươi thì ngươi gẫy và làm chúng gẫy gập lưng. Cho nên, CHÚA Toàn Năng phán: Này, Ta đem gươm giáo đến phạt ngươi, Ta sẽ diệt cả người lẫn thú khỏi ngươi. Bấy giờ đất Ai Cập sẽ trở nên hoang vu, đổ nát và chúng sẽ biết rằng Ta chính là CHÚA.Bởi vì ngươi bảo: Sông Ninh là của Ta, Ta đã tạo ra nó. Cho nên, này, Ta chống lại ngươi và các sông của ngươi. Ta sẽ làm cho đất Ai Cập, từ Mích-đôn đến Sy-e-nê ra tận bờ cõi Ê-thi-ô-bi, trở thành hoang vu đổ nát. Chân người sẽ không đi qua đó, chân thú vật cũng không đi qua và không ai cư trú ở đó trong bốn mươi năm. Trong bốn mươi năm Ta sẽ làm cho đất Ai Cập thành hoang vu giữa những đất nước hoang vu và các thành chúng nó đổ nát giữa các thành đổ nát. Ta sẽ làm cho dân Ai Cập tản lạc giữa các dân và phân tán chúng nó giữa các nước. Thật vậy, CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Mãn hạn bốn mươi năm, Ta sẽ tập họp dân Ai Cập từ các dân mà chúng đã bị tản lạc. Ta sẽ hoàn lại cơ đồ cho Ai Cập, đem chúng trở về đất Pha-trô, là nguyên quán của chúng. Tại đó chúng sẽ thành một vương quốc thấp hèn. Ai Cập sẽ là một vương quốc thấp bé nhất trong các vương quốc và sẽ không bao giờ vươn cao hơn các nước khác nữa. Ta sẽ làm cho nó bé nhỏ đi để nó không bao giờ cai trị các nước nữa. Ai Cập sẽ không còn là nơi nhờ cậy cho nhà Y-sơ-ra-ên nữa nhưng chỉ gợi cho họ nhớ lại tội lỗi của họ khi chạy theo Ai Cập. Bấy giờ chúng sẽ biết rằng chính Ta là CHÚA.’” Vào ngày một tháng thứ nhất năm thứ hai mươi bảy, lời của Chúa phán với tôi rằng: “Hỡi con người, Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn đã đem quân vất vả tấn công thành Ty-rơ. Mọi đầu đều trọc, mọi vai đều trầy, nhưng dù vất vả đánh thành Ty-rơ, người và đạo binh người đều chẳng được gì. Cho nên CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Nầy, Ta sẽ ban đất Ai Cập cho Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn. Người sẽ đem của cải đi, chiếm đoạt các chiến lợi phẩm và cướp phá đất; những thứ ấy là tiền công cho quân đội người. Ta đã ban đất Ai Cập cho người để đền bù công lao người đã đánh nó vì người đã hành động cho Ta. CHÚA Toàn Năng tuyên bố. Vào ngày ấy Ta sẽ làm cho sừng nhà Y-sơ-ra-ên mọc lên. Còn ngươi, Ta sẽ cho môi miệng mở ra giữa chúng nó; bấy giờ chúng sẽ biết rằng chính Ta là CHÚA.” Lời của CHÚA phán cùng tôi rằng: “Hỡi con người, hãy phán tiên tri: ‘CHÚA phán như vầy:Hãy than khóc:Than ôi! Cái ngày ấy. Vì ngày ấy đã gần,Ngày của CHÚA đã gần.Ấy là ngày u ám,Là thì giờ của các nước. Gươm giáo sẽ kéo đến Ai Cập,Lo âu sẽ ở với Ê-thi-ô-bi,Kẻ bị giết sẽ ngã gục tại Ai Cập,Của cải bị lấy điVà nền móng nó bị phá hủy. Ê-thi-ô-bi, Phút, Lút, toàn thể A-ra-bia, Ly-bi, các dân đồng minh trong vùng đều cùng Ai Cập ngã gục vì gươm. CHÚA phán như vầy:Những kẻ hỗ trợ Ai Cập sẽ ngã,Sức mạnh kiêu hùng của nó sẽ sụp đổ.Từ Mích-đôn đến Sy-e-nê,Chúng nó sẽ ngã gục tại đó vì gươm đao.CHÚA tuyên bố. Chúng nó sẽ trở nên hoang vuGiữa những đất nước hoang vuVà các thành của chúng sẽ đổ nátGiữa những thành đổ nát. Bấy giờ chúng sẽ biết rằng chính Ta là CHÚAKhi Ta cho lửa cháy tại Ai CậpVà mọi kẻ hỗ trợ nó đều bị tan vỡ. Vào ngày ấy, các sứ giả sẽ từ Ta đi thuyền đến báo tin kinh hoàng cho dân Ê-thi-ô-bi yên ổn. Trong ngày tai họa của Ai Cập, lo lắng sẽ đến với chúng; vì nầy, ngày ấy đang đến. CHÚA Toàn Năng phán như vầy:Ta sẽ dùng tay Nê-bu-cát-nết-sa,Vua Ba-by-lôn tiêu diệt đám dân Ai Cập. Người và quân đội người, là dân tộc tàn ác nhất trong các dân tộc,Sẽ được dẫn đến tàn phá đất.Chúng sẽ rút gươm tấn công Ai CậpVà đất sẽ đầy dẫy kẻ bị giết. Ta sẽ làm cho sông ngòi khô cạn,Bán đất vào tay những kẻ ác.Ta sẽ dùng tay người ngoại quốc làm cho đấtVà mọi vật trong đó hoang tàn. Chính Ta là CHÚA đã phán lời này. CHÚA Toàn Năng phán như vầy:Ta sẽ phá hủy các tượng thầnVà tiêu diệt các hình tượng tại Nốp;Sẽ không còn các ông hoàng ở Ai Cập nữa.Ta sẽ đem sợ hãi vào đất Ai Cập. Ta sẽ làm cho Pha-trô trở nên hoang tàn,Châm lửa cháy ở Xô-anVà thi hành án phạt tại Thê-bết. Ta sẽ đổ cơn thịnh nộ Ta xuống thành Sin,Là thành kiên cố của Ai Cập;Ta sẽ tiêu diệt đám dân thành Thê-bết. Ta sẽ cho lửa đốt cháy tại Ai Cập,Thành Sin sẽ đau đớn quằn quại,Thành Nô sẽ bị phá vỡ,Thành Thê-bết phải đối diện với kẻ thù mỗi ngày. Thanh niên thành A-ven và Phi-bê-sếtSẽ ngã gục vì gươm,Thiếu nữ phải đi lưu đày. Tại Tác-pha-nết, ngày sẽ trở nên tối tămKhi Ta đập tan cái ách của Ai Cập;Ở đó sức mạnh kiêu hùng của nó cũng sẽ tiêu tan.Mây đen sẽ bao phủ nóVà các con gái của nó phải đi lưu đày. Ta sẽ thi hành án phạt nước Ai Cập,Bấy giờ chúng nó sẽ biết rằng chính Ta là CHÚA.’” Vào ngày bảy tháng thứ nhất, năm thứ mười một, lời của CHÚA phán cùng tôi rằng: “Hỡi con người, Ta đã bẻ gãy cánh tay của Pha-ra-ôn, vua Ai Cập và nầy, nó không được bó lại cho lành và băng lại cho mạnh để cầm gươm. Cho nên, CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Nầy, Ta chống lại Pha-ra-ôn, vua Ai Cập, Ta sẽ bẻ gãy hai cánh tay nó, cả cánh tay mạnh lẫn cánh tay gãy; Ta sẽ làm cho gươm nơi tay nó rớt xuống. Ta sẽ làm cho dân Ai Cập tản lạc giữa các nước, phân tán chúng giữa các dân. Ta sẽ tăng cường sức mạnh cho cánh tay của vua Ba-by-lôn và trao gươm của Ta vào tay người. Ta sẽ bẻ gãy các cánh tay của Pha-ra-ôn và vua Ai Cập sẽ than khóc trước mặt người như một kẻ tử thương. Ta sẽ tăng cường sức mạnh cho các cánh tay của vua Ba-by-lôn nhưng những cánh tay của Pha-ra-ôn phải buông xuôi. Bấy giờ chúng sẽ biết rằng chính Ta là CHÚA. Ta đã đặt gươm vào tay vua Ba-by-lôn và người sẽ vung gươm tấn công đất Ai Cập. Ta sẽ làm cho dân Ai Cập tản lạc giữa các nước, phân tán chúng giữa các dân. Bấy giờ, chúng sẽ biết rằng chính Ta là CHÚA.” Ngày một tháng ba năm thứ mười một, lời của CHÚA phán cùng tôi rằng: “Hỡi con người, hãy nói với Pha-ra-ôn, vua Ai Cập cùng đám dân của nó:‘Ngươi sẽ so sánh với ai về sự vĩ đại của mình? Kìa, A-si-ri như cây tùng ở Li-ban,Cành lá xinh tươi, bóng cây rậm rạp như rừng,Thân cao lớn,Ngọn cao vút giữa các cành lá sum sê. Nước nuôi cho nó lớn,Vực sâu làm cho nó cao;Các sông chảyChung quanh nơi nó được trồng;Các sông nhánh chảy raKhắp các cây trong đồng. Nhờ nước tưới dồi dàoCho nên thân cây cao lớnHơn tất cả các cây trong đồng;Cành lá rậm rạp;Các nhánh vươn dài. Mọi giống chim trờiLàm tổ trên cành;Dưới bóng cây,Mọi thú đồng sinh con cáiVà mọi dân lớn đềuCư trú dưới bóng nó. Nó xinh đẹp vì to lớn,Cành lá dàiVà rễ đâm vàoNơi có nhiều nước. Những cây tùng trong vườn Đức Chúa TrờiKhông sánh được;Các cây thông cũng khôngBằng các cành lá nó;Những cây tiêu huyềnKhông so được với các cành nó;Không một cây nào trong vườn Đức Chúa TrờiSánh bằng vẻ đẹp của nó. Ta làm cho nó xinh đẹpVới cành lá sum sê đến nỗiMọi cây trong vườn Ê-đen,Là vườn của Đức Chúa Trời đều ganh tị. Cho nên CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Vì nó có thân to lớn, ngọn vươn lên cao vút giữa các cành lá sum sê nên lòng nó sinh tự cao vì sự cao lớn của mình. Vì thế Ta sẽ trao nó vào tay kẻ quyền uy của các nước để đối xử xứng đáng với sự gian ác của nó. Ta đã bỏ nó. Những kẻ ngoại quốc từ những nước hung dữ nhất sẽ chặt ngã và bỏ mặc chúng nó. Nhánh nó sẽ rơi trên các núi đồi và thung lũng; cành lá nó tan tác khắp các khe trong xứ. Mọi dân trên đất lìa xa bóng nó và từ bỏ nó. Mọi chim trời sẽ đậu trên thân cây ngã của nó; mọi thú đồng sẽ ở nơi cành lá nó. Cho nên không cây nào bên dòng nước sẽ mọc lên cao lớn, ngọn vươn cao vút giữa các cành lá sum sê. Mọi thứ cây đượm nước sẽ không mọc lên cao lớn như thế vì tất cả đều đã bị phó cho sự chết, cho âm giới cùng với những kẻ phàm nhân sa vào vực thẳm. CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Trong ngày nó sa xuống Âm Phủ, Ta sẽ làm cho người Ta than khóc, đóng các vực sâu, chận các con sông, ngăn các dòng nước lớn. Ta sẽ làm cho Li-ban ảm đạm; mọi cây cối ngoài đồng sẽ tàn héo vì nó. Ta làm cho các nước run rẩy khi nghe tiếng nó sụp đổ, khi Ta phó nó xuống Âm phủ cùng với những kẻ sa xuống vực thẳm. Bấy giờ tất cả những cây trong vườn Ê-đen, những cây chọn lọc và tốt tươi, những cây được tưới đượm nước đều được an ủi nơi âm giới. Chúng nó cũng sa xuống Âm phủ cùng với nó, đến với những kẻ bị chết bằng gươm, những đồng minh giữa các nước đã cư ngụ dưới bóng nó. Về sự vinh hiển và vĩ đại, ngươi sẽ so sánh với cây nào trong vườn Ê-đen? Ngươi sẽ bị đem xuống âm giới cùng với các cây trong vườn Ê-đen; bị nằm giữa những kẻ không cắt bì và những kẻ bị giết bằng gươm.Ấy là Pha-ra-ôn cùng mọi đám dân đông đảo của người. CHÚA Toàn Năng tuyên bố.’” Vào ngày một tháng mười hai năm thứ mười hai, lời của CHÚA phán cùng tôi: “Hỡi con người, hãy cất lên khúc ai ca về Pha-ra-ôn, vua Ai cập, hãy nói với người:‘Ngươi giống như con sư tử giữa các nước,Ngươi giống như con cá sấu dưới nước,Làm bắn tung tóe nước trên các sông.Ngươi lấy chân quậy nước,Làm đục các dòng sông. CHÚA Toàn Năng phán như vầy:Ta sẽ bủa lưới trên ngươiKhi nhiều dân đang hội họp;Chúng sẽ kéo ngươi lên trong mãnh lưới của Ta. Ta sẽ ném ngươi trên đất,Quăng ngươi nơi đồng trống;Mọi loài chim trời sẽ đậu trên ngươi;Thú đồng khắp nơi sẽ ăn thịt ngươi no nê. Ta sẽ để thịt ngươi trên các núi,Lấp đầy các thung lũng bằng xác thối rữa của ngươi. Ta sẽ làm cho đất ướt đẫm máu ngươi,Lên tận các núiVà các khe sẽ đầy xác ngươi. Khi Ta diệt ngươi, Ta sẽ che khuất bầu trời,Làm cho tinh tú tối tăm;Ta sẽ lấy mây che lấp mặt trờiVà mặt trăng không chiếu sáng. Ta sẽ làm cho mọi vì sao sáng trên trờiTrở nên tối tăm ở trên ngươi;Ta sẽ đem bóng tối đến xứ sở ngươi.CHÚA Toàn Năng tuyên bố. Ta sẽ làm cho lòng của nhiều dân tộc bối rốiKhi Ta đem tin tức tan nát của ngươi giữa các nướcĐến các xứ ngươi chưa hề biết. Ta sẽ làm cho nhiều dân tộc kinh ngạc về ngươi;Vì chuyện ngươi, các vua chúa của chúng vô cùng kinh hoàngKhi Ta vung gươm trước mặt chúng.Vào ngày ngươi sụp đổ,Chúng run rẩy liên hồi,Mỗi người lo cho mạng sống của mình. Vì CHÚA Toàn Năng phán như vầy:Gươm của vua Ba-by-lônSẽ tấn công ngươi. Dân ngươi sẽ ngãVì gươm của những kẻ dũng mãnh,Là những kẻ tàn bạo nhất trong các nước.Chúng sẽ đánh tan sự kiêu căng của Ai CậpVà cả đoàn dân đông của nó sẽ bị hủy diệt. Ta cũng sẽ hủy diệt tất cả súc vậtBên các dòng nước dồi dào;Chân người lẫn vó súc vậtSẽ không còn khuấy đục chúng nữa. Bấy giờ Ta sẽ làm cho các dòng nước yên tịnhVà các sông sẽ chảy như dầu;CHÚA tuyên bố. Khi Ta làm cho đất Ai Cập trở nên hoang vu,Quét sạch sự trù phú khỏi đất ấy;Khi Ta đánh mọi người cư trú trên đất ấy,Chúng sẽ biết rằng Ta chính là CHÚA.’ Ấy là bài ai ca người ta sẽ hát; con gái của các nước sẽ hát bài ai ca đó; người ta sẽ hát bài ai ca đó cho Ai Cập và cho cả đám dân đông của nó. CHÚA Toàn Năng tuyên bố.” Vào ngày mười lăm tháng Giêng năm thứ mười hai, lời của CHÚA phán cùng tôi: “Hỡi con người, hãy than khóc cho đoàn dân đông Ai Cập, hãy đẩy nó cùng những con gái của các nước hùng mạnh xuống âm giới chung với những kẻ đi xuống vực sâu. Ngươi xinh đẹp hơn ai chăng? Hãy đi xuống và nằm chung với những kẻ không cắt bì. Chúng sẽ ngã gục giữa vòng những kẻ chết vì gươm. Ai Cập sẽ bị phó cho gươm và bị kéo đi cùng với cả đoàn dân đông của nó. Những lãnh tụ hùng mạnh cùng những kẻ đồng minh của chúng từ nơi Âm Phủ bảo: ‘Những kẻ không cắt bì, những kẻ bị giết bằng gươm đã xuống đây và nằm yên.’ A-si-ri với cả đồng bọn của chúng đều ở đó, mồ mã chúng ở khắp chung quanh; tất cả chúng nó đều bị giết, bị ngã gục vì gươm. Mộ của nó bị để ở đáy vực sâu; đồng bọn ở chung quanh mộ nó. Tất cả chúng nó đều bị giết, bị ngã gục vì gươm; chúng vốn là những kẻ đã đem kinh hoàng đến vùng đất người sống. Ê-lam với cả đồng bọn của chúng đều ở đó, mồ mã chúng ở khắp chung quanh; tất cả chúng nó đều bị giết, bị ngã gục vì gươm. Chúng là những kẻ không cắt bì đi xuống âm giới, chúng vốn là những kẻ đã đem kinh hoàng đến vùng đất người sống. Chúng mang lấy điều nhục nhã cùng những kẻ sa xuống vực sâu. Người ta đã làm cho nó một cái giường giữa những kẻ bị giết; tất cả đám dân đông ở chung quanh mộ nó. Tất cả chúng nó là những kẻ không cắt bì, bị giết bằng gươm. Vì chúng đã đem kinh hoàng đến vùng đất người sống; chúng mang lấy điều nhục nhã cùng những kẻ sa xuống vực sâu; chúng bị đặt giữa những kẻ bị giết. Mê-siếc, Tu-banh cùng tất cả đồng bọn chúng nó ở đó, mồ mã chúng ở chung quanh. Chúng đều là những kẻ không cắt bì, bị giết bằng gươm vì chúng đã đem kinh hoàng đến vùng đất người sống. Chẳng phải chúng cũng nằm chung với những lính chiến mạnh bạo, những kẻ không cắt bì đã gục ngã, những kẻ đã đi xuống Âm Phủ với vũ khí chiến tranh và gươm đặt dưới đầu mình sao? Nhưng tội lỗi chúng nó sẽ chất trên xương cốt chúng nó, vì những lính chiến mạnh bạo này đã đem kinh hoàng đến vùng đất người sống. Nhưng ngươi sẽ bị đánh tan và nằm chung với những kẻ không cắt bì, là những kẻ bị giết bằng gươm. Ê-đôm cũng ở đó; các vua và hoàng tử của nó dù dũng mãnh cũng bị kể vào số những kẻ bị giết bằng gươm. Chúng nằm chung với những kẻ không cắt bì, là những kẻ sa xuống vực sâu. Tất cả các ông hoàng phương bắc cùng toàn thể dân Si-đôn đều ở đó. Chúng mang nhục nhã đi xuống cùng với những kẻ bị giết dù nhờ sức mạnh chúng đã gây kinh hoàng. Chúng nằm xuống như những kẻ không cắt bì, là kẻ bị giết bằng gươm, những kẻ mang nhục nhã sa xuống vực sâu. Pha-ra-ôn sẽ thấy chúng như vậy và được an ủi cho đám dân đông của mình đã bị giết bằng gươm, Pha-ra-ôn và cả đạo binh của người. CHÚA Toàn Năng tuyên bố. Dù Ta để người đem kinh hoàng đến vùng đất người sống nhưng Pha-ra-ôn cùng tất cả đám dân đông của người sẽ nằm chung với những kẻ không cắt bì, những kẻ bị giết bằng gươm. CHÚA Toàn Năng tuyên bố.” Lời của CHÚA phán với tôi: “Hỡi con người, hãy nói với con cái dân ngươi rằng: ‘Khi Ta đem gươm giáo đến một xứ và người xứ ấy cử một người ở giữa họ làm người canh gác. Khi người thấy gươm giáo đến trong xứ thì thổi kèn lên cảnh cáo dân chúng. Bấy giờ, hễ ai nghe tiếng kèn nhưng không cảnh giác, để gươm giáo đến cất mạng sống mình đi, thì máu nó lại đổ trên đầu nó. Người đã nghe tiếng kèn nhưng không cảnh giác, nên máu nó sẽ đổ trên nó. Nhưng ai cảnh giác sẽ cứu được mạng sống mình. Nếu người canh gác thấy gươm giáo đến nhưng không thổi kèn nên dân không được cảnh giác và gươm giáo đến cất đi mạng sống của một người nào thì người đó chết vì tội lỗi của mình; nhưng Ta sẽ đòi nợ máu nơi tay người canh gác.’ Còn ngươi, hỡi con người, Ta cử ngươi làm người canh gác cho nhà Y-sơ-ra-ên, vậy hãy nghe lời từ miệng Ta và thay Ta cảnh giác chúng nó. Khi Ta phán với kẻ ác: ‘Hỡi kẻ gian ác, ngươi chắc chắn sẽ chết’, nhưng ngươi không cảnh cáo để kẻ ác từ bỏ con đường của nó thì kẻ ác đó sẽ chết trong tội lỗi nó nhưng Ta sẽ đòi máu nó nơi tay ngươi. Còn ngươi, nếu ngươi cảnh cáo kẻ ác để nó quay trở lại khỏi con đường ác nhưng nó không chịu quay trở lại thì nó sẽ chết vì tội lỗi của nó, nhưng ngươi sẽ cứu được mạng sống mình. Hỡi con người, ngươi hãy nói với nhà Y-sơ-ra-ên: ‘Các ngươi nói rằng: “Những vi phạm và tội lỗi chúng tôi đè nặng trên chúng tôi, chúng tôi chết mòn vì chúng, làm thế nào chúng tôi sống được?”’ Hãy nói với chúng nó: ‘Như Ta hằng sống, CHÚA Toàn Năng tuyên bố: Ta chẳng vui vẻ gì về cái chết của kẻ ác, nhưng vui khi nó quay trở lại khỏi đường ác và sống. Hãy quay trở lại, hãy quay trở lại khỏi con đường ác của các ngươi. Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, tại sao ngươi phải chết?’ Còn ngươi, hỡi con người, hãy nói với dân ngươi: ‘Sự công chính của người công chính sẽ không cứu được người trong ngày người phạm tội. Sự gian ác của kẻ ác không làm cho người sa ngã trong ngày người quay trở lại khỏi đường ác của mình; người công chính không thể sống nhờ sự công chính của mình trong ngày người phạm tội.’ Khi Ta nói với người công chính rằng, chắc chắn ngươi sẽ sống, nhưng vì cậy sự công chính của mình, nó phạm tội, thì tất cả sự công chính của nó sẽ không được nhớ đến nữa và nó sẽ chết vì tội lỗi đã phạm. Khi Ta nói với kẻ ác: ‘Chắc chắn ngươi sẽ chết,’ nhưng nó từ bỏ tội lỗi, làm điều công bình và công chính; nếu kẻ ác trả lại của cầm, bồi thường đồ đã ăn cướp, sống theo quy luật sự sống, không phạm tội thì chắc chắn nó sẽ sống và không chết. Mọi tội lỗi nó đã phạm sẽ không bị ghi nhớ; nó đã làm điều công bình và công chính nên chắc chắn nó sẽ sống. Con cái dân ngươi nói: ‘Đường lối của Chúa không ngay thẳng’; trong khi đường lối của chúng nó không ngay thẳng. Khi người công chính từ bỏ điều công chính và làm điều tội lỗi thì nó sẽ chết vì tội lỗi. Khi kẻ ác từ bỏ điều gian ác mà làm điều công bình và công chính, thì nhờ những điều ấy nó sẽ sống. Các ngươi nói: ‘Đường lối của Chúa không ngay thẳng’. Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, Ta sẽ xét đoán các ngươi mỗi người tùy theo đường lối mình.” Ngày năm tháng mười, năm thứ mười hai sau khi chúng tôi bị lưu đày, một người thoát nạn từ Giê-ru-sa-lem đến báo tin cho tôi hay: “Thành đã thất thủ rồi!” Tay của CHÚA ở trên tôi vào buổi chiều trước khi người thoát nạn đến, nhưng Ngài đã mở miệng cho tôi khi người thoát nạn đến cùng tôi vào buổi sáng; miệng tôi mở ra và không bị câm nữa. Lời của CHÚA phán với tôi rằng: “Hỡi con người, những kẻ cư trú chỗ hoang tàn này ở trên đất Y-sơ-ra-ên cứ nói rằng: ‘Tổ Áp-ra-ham chỉ có một mình mà người được sở hữu đất này, còn chúng ta đông người, chắc phải được đất làm sở hữu.’ Cho nên, hãy phán cùng chúng nó: ‘CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Các ngươi ăn thịt còn máu, mắt chiêm ngưỡng các tượng thần và làm đổ máu, thế mà các ngươi sẽ sở hữu đất này sao? Các ngươi cậy gươm giáo mình, làm điều ghê tởm, mỗi người làm ô uế vợ người lân cận mình, thế mà các ngươi sẽ sở hữu đất này sao?’ CHÚA Toàn Năng phán như vầy: ‘Hãy phán điều này cùng chúng nó, Như Ta hằng sống, những kẻ ở trong nơi hoang tàn sẽ ngã vì gươm, những kẻ ở nơi đồng trống sẽ bị làm mồi cho thú dữ, những kẻ ở trong thành lũy hay hầm hố sẽ chết vì dịch lệ. Ta sẽ làm đất này đổ nát, hoang tàn, sức mạnh kiêu hùng của nó sẽ chấm dứt. Núi non Y-sơ-ra-ên sẽ trở nên hoang tàn, không còn ai qua lại đó. Bấy giờ chúng sẽ biết rằng chính Ta là CHÚA, Ta đã làm đất này hoang tàn, đổ nát vì những điều ghê tởm chúng đã phạm.’ Còn ngươi, hỡi con người, con cái dân ngươi nói về ngươi dọc theo tường thành, tại cửa nhà. Người này nói với người kia, mỗi người nói với nhau: ‘Chúng ta hãy đến nghe xem CHÚA phán điều gì.’ Chúng đến cùng ngươi như dân Ta vẫn thường đến, chúng ngồi trước mặt ngươi và nghe như dân Ta, nhưng chúng không thực hành vì chúng bày tỏ tình thương ngoài miệng nhưng lòng thì đi trục lợi. Đối với chúng, ngươi như là một bài ca trữ tình, người có giọng hát thanh tao, nhạc phụ họa êm ái. Nhưng chúng chỉ nghe lời ngươi nói mà không thực hành. Này, khi điều này xảy đến và nó sẽ đến thì chúng sẽ biết rằng có một tiên tri ở giữa chúng.” Lời CHÚA phán cùng tôi rằng: “Hỡi con người, hãy phán tiên tri chống lại những người chăn dân Y-sơ-ra-ên. Hãy nói tiên tri cùng chúng, hãy nói với những người chăn rằng: ‘CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Ôi, những kẻ chăn giữ Y-sơ-ra-ên là kẻ chỉ chăm lo cho mình. Không phải những người chăn chiên là người chăn giữ bầy chiên sao? Các ngươi ăn thịt béo, mặc đồ len, làm thịt súc vật mập nhưng không chăn dắt bầy chiên. Những con chiên yếu, các ngươi không làm cho mạnh; những con bệnh tật các ngươi không chữa lành; những con bị thương, các ngươi không băng bó; những con bị tản mác, các ngươi không đem về; những con lạc mất, các ngươi không tìm kiếm. Các ngươi đã cai trị chúng bằng bạo lực và hà khắc. Bầy chiên bị tản mác vì không có người chăn; chúng bị tản lạc và trở thành mồi cho mọi thú dữ. Chiên Ta tản mác trên khắp núi non, trên mọi đồi cao; chiên Ta lạc loài trên cả mặt đất nhưng không ai tìm, chẳng ai kiếm. Cho nên, hỡi những người chăn, hãy nghe lời của CHÚA. CHÚA Toàn Năng tuyên bố: Như Ta hằng sống, vì bầy chiên Ta trở thành mồi, chiên Ta trở thành đồ ăn cho mọi loài thú dữ vì không có người chăn; kẻ chăn chiên đã không tìm kiếm chiên Ta, chúng chỉ lo cho chúng nhưng không chăn giữ bầy chiên Ta. Cho nên, hỡi những kẻ chăn chiên, hãy nghe lời của CHÚA. CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Này, Ta chống lại những người chăn, Ta đòi chiên Ta lại từ tay chúng nó, chúng sẽ không còn chăn chiên Ta nữa nên chúng sẽ không thể nuôi mình được. Ta sẽ giải cứu chiên Ta ra khỏi miệng chúng nó và chiên Ta sẽ không còn làm mồi cho chúng nữa. Vì CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Nầy, chính Ta sẽ tìm chiên Ta và kiếm chúng nó. Như người chăn chiên ở giữa bầy và kiểm điểm đàn chiên tản mác, Ta cũng sẽ kiểm điểm bầy chiên của Ta. Ta sẽ giải cứu chúng ra khỏi mọi nơi chúng bị tản lạc trong ngày tối tăm, u ám. Ta sẽ đem chúng ra khỏi các dân, tập họp chúng lại từ các nước, đưa chúng về đất của chúng và chăn giữ chúng trên các núi của Y-sơ-ra-ên, bên các suối và ở mọi nơi cư trú trong xứ. Ta sẽ chăn giữ chúng nơi đồng cỏ tốt tươi; chuồng của chúng sẽ ở trên các đỉnh núi Y-sơ-ra-ên; ở đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng tử tế, ăn nơi đồng cỏ phì nhiêu trên các núi Y-sơ-ra-ên. Chính Ta sẽ chăn giữ chiên Ta và chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ ngơi, CHÚA Toàn Năng tuyên bố. Ta sẽ tìm kiếm những con tản mác, Ta sẽ đem về những con đi lạc, Ta sẽ băng bó những con bị thương và thêm sức cho những con đau yếu. Nhưng những con mập, mạnh Ta sẽ hủy diệt; Ta sẽ chăn giữ chúng một cách công bình. Còn phần các ngươi, bầy chiên của Ta, CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Này, Ta xét giữa chiên với chiên và giữa chiên đực và dê đực. Phải chăng được nuôi nơi đồng cỏ tốt tươi vẫn chưa đủ, nên các ngươi lấy chân giày đạp phần đồng cỏ còn lại? Đã uống nước trong, các ngươi lại lấy chân quậy đục phần nước còn lại? Chiên Ta phải ăn cỏ chân các ngươi đã giày đạp, uống nước chân các ngươi đã quậy đục sao? Cho nên CHÚA Toàn Năng phán cùng chúng như vầy: Này, chính Ta sẽ xét xử giữa chiên mập và chiên ốm. Vì các ngươi dùng hông và vai mà thúc và lấy sừng húc tất cả những con chiên yếu đuối đến nỗi chúng phải tản mác ra ngoài. Nên Ta sẽ cứu bầy chiên Ta; chúng nó sẽ không còn bị làm mồi cho kẻ cướp nữa và Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên. Ta sẽ lập một người chăn cho chúng nó, tôi tớ Ta là Đa-vít sẽ chăn giữ chúng nó. Người sẽ nuôi dưỡng chúng nó vì người là kẻ chăn giữ chúng nó. Ta là CHÚA, sẽ là Đức Chúa Trời của chúng nó; tôi tớ Ta là Đa-vít, sẽ là một hoàng tử giữa vòng chúng; chính Ta, CHÚA đã phán. Ta sẽ lập một giao ước bình an với chúng, Ta sẽ đuổi thú dữ khỏi đất nên chúng có thể cư trú nơi đồng hoang và ngủ an lành trong rừng. Ta sẽ ban phước cho chúng và những vùng chung quanh ngọn đồi Ta. Ta sẽ ban mưa đúng mùa, là mưa phước lành. Cây cối ngoài đồng sẽ sinh bông trái, đất sẽ sinh hoa lợi, chúng sẽ sống an lành trên đất mình và biết rằng chính Ta là CHÚA khi Ta bẻ gãy các ách trên chúng và giải cứu chúng khỏi tay những kẻ bắt chúng làm nô dịch. Chúng sẽ không còn là miếng mồi cho các nước; thú dữ trong xứ cũng sẽ không ăn thịt chúng. Chúng sẽ cư ngụ an toàn và không còn sợ hãi. Ta sẽ thiết lập cho chúng một nông trại danh tiếng, sẽ không còn đói kém trong xứ và chúng sẽ không còn bị các nước nhục mạ. Chúng sẽ biết rằng chính Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời chúng nó, Ta ở cùng chúng nó và chúng nó, nhà Y-sơ-ra-ên là dân Ta; CHÚA Toàn Năng tuyên bố. Còn các ngươi là chiên của Ta, chiên của đồng cỏ Ta, là loài người và Ta là Đức Chúa Trời của các ngươi, CHÚA Toàn Năng tuyên bố.’” Lời CHÚA phán cùng tôi rằng: “Hỡi con người, hãy quay mặt về hướng núi Sê-i-rơ và phán tiên tri chống lại nó. Hãy nói với nó: ‘CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Hỡi núi Sê-i-rơ, Ta chống lại ngươi; Ta dang tay nghịch ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi hoàn toàn hoang tàn. Ta sẽ làm cho các thành của ngươi đổ nát, ngươi sẽ trở nên hoang tàn và ngươi sẽ biết rằng chính Ta là CHÚA. Vì ngươi cưu mang mối thù xưa và trao con cái Y-sơ-ra-ên cho gươm đao chém giết khi chúng lâm nạn, vào thời trừng phạt cuối cùng. Cho nên, CHÚA Toàn Năng tuyên bố: Như Ta hằng sống, Ta sẽ làm cho ngươi đổ máu và máu sẽ theo đuổi ngươi. Vì ngươi không ghét sự đổ máu nên máu sẽ theo đuổi ngươi. Ta sẽ làm cho núi Sê-i-rơ hoàn toàn đổ nát; Ta sẽ khiến nơi đó không còn ai qua lại. Các núi của ngươi sẽ đầy xác chết. Trên đồi, dưới thung lũng, tại mọi dòng suối đều có người ngã gục vì gươm. Ta sẽ làm cho ngươi hoang tàn mãi mãi; các thành của ngươi sẽ không có người cư trú và ngươi sẽ biết rằng Ta là CHÚA. Vì ngươi nói rằng: “Hai nước này, hai xứ này sẽ thuộc về Ta, Ta sẽ sở hữu chúng dù có CHÚA ở đó.” Cho nên, CHÚA Toàn Năng tuyên bố: Như Ta hằng sống, Ta sẽ đối xử với ngươi theo như cơn giận và lòng ghen ghét mà ngươi đã đối xử với chúng khi ngươi thù ghét chúng. Bấy giờ, chúng sẽ biết đến Ta khi Ta xét xử ngươi. Ngươi sẽ biết rằng chính Ta là CHÚA, Ta đã nghe tất cả những lời nhục mạ ngươi nói với núi non Y-sơ-ra-ên rằng: “Chúng nó sẽ bị hoang tàn và chúng nó sẽ làm mồi cho chúng ta.” Miệng ngươi ăn nói cao kỳ chống Ta; ngươi cũng thêm lời nghịch Ta, Ta đã nghe cả. CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Toàn xứ đều vui mừng khi Ta làm cho ngươi hoang tàn. Vì ngươi đã vui mừng khi cơ nghiệp nhà Y-sơ-ra-ên bị hoang tàn nên Ta cũng sẽ đối xử với ngươi như vậy. Núi Sê-i-ra và toàn thể Ê-đôm sẽ bị hoang tàn và chúng nó sẽ biết rằng chính Ta là CHÚA.’” “Phần ngươi, hỡi con người, hãy phán tiên tri cùng núi non Y-sơ-ra-ên, bảo núi non Y-sơ-ra-ên hãy nghe lời CHÚA. ‘CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Vì kẻ thù bảo các ngươi: “A ha, những đỉnh cao xa xưa sẽ thuộc quyền sở hữu của chúng ta.”’ Cho nên hãy phán tiên tri rằng: ‘CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Vì chúng đã làm cho ngươi trở nên hoang tàn, tấn công ngươi từ bốn phía, khiến ngươi trở thành vật sở hữu của các nước còn lại, là đề tài cho người ta bàn tán, chê bai. Cho nên, hỡi núi non Y-sơ-ra-ên, hãy nghe lời của CHÚA Toàn Năng. CHÚA Toàn Năng phán như vầy cùng núi non, các đồi, các suối, thung lũng, các nơi hoang tàn đổ nát, các thành bị hoang phế, bị cướp phá và chế nhạo bởi các nước còn lại chung quanh. Này, CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Trong lửa ghen tuông Ta tuyên bố nghịch cùng các nước còn lại, nghịch cùng toàn thể Ê-đôm, là nước đã hết sức vui mừng và với lòng khinh bỉ chiếm đất Ta làm sở hữu và cướp phá các đồng cỏ.’ Cho nên hãy phán tiên tri về đất Y-sơ-ra-ên, hãy nói với núi non, các đồi, các suối, thung lũng: ‘CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Nầy, Ta phán trong cơn ghen tuông thịnh nộ vì các ngươi bị các nước khinh bỉ. Này, CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Ta đưa tay thề rằng chính các nước chung quanh sẽ phải bị khinh bỉ. Còn các ngươi, hỡi núi non Y-sơ-ra-ên, các ngươi hãy trổ cành, ra trái cho dân Y-sơ-ra-ên Ta vì chúng nó sắp trở về. Vì Ta sẽ chăm sóc các ngươi, Ta hướng về các ngươi; các ngươi sẽ được cày cấy và gieo hạt. Ta sẽ tăng tất cả dân số các ngươi lên, cả nhà Y-sơ-ra-ên. Các thành của ngươi sẽ có người cư ngụ và những nơi đổ nát sẽ được tái thiết. Ta sẽ làm cho người lẫn súc vật các ngươi gia tăng; chúng sẽ gia tăng và sinh sản. Ta sẽ cho các ngươi cư ngụ như thời xưa và thịnh vượng hơn thuở ban đầu; bấy giờ các ngươi sẽ biết rằng chính Ta là CHÚA. Ta sẽ cho loài người, tức là dân Y-sơ-ra-ên Ta bước đi trên ngươi; chúng nó sẽ sở hữu ngươi và ngươi sẽ trở thành cơ nghiệp của chúng nó, không còn làm cho chúng nó thiếu con cái. CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Vì người ta nói với ngươi rằng: “Các ngươi ăn nuốt người ta và làm cho quốc gia các ngươi không con cái.” Cho nên, ngươi sẽ không còn ăn nuốt người ta và quốc gia các ngươi sẽ không còn thiếu con cái nữa. CHÚA Toàn Năng tuyên bố. Ta sẽ không để ngươi nghe lời nhục mạ từ các nước, mang mối nhục của các dân nữa; ngươi cũng sẽ không bao giờ gây cho đất nước ngươi vấp ngã nữa. CHÚA Toàn Năng tuyên bố.’” Lời của CHÚA phán với tôi rằng: “Hỡi con người, khi còn cư ngụ trên đất mình, các đường lối và hành vi của nhà Y-sơ-ra-ên đã làm đất ô uế; đường lối của chúng trước mặt Ta cũng ô uế như người đàn bà trong thời kinh nguyệt. Nên Ta đã đổ cơn thịnh nộ Ta trên chúng vì máu chúng đã làm đổ ra trên đất và vì các tượng thần mà chúng đã làm ô uế đất. Ta đã phân tán chúng nó giữa các nước; chúng nó bị tản lạc giữa các xứ; Ta đã phán xét chúng nó tùy theo đường lối và hành vi của chúng. Tại các nước mà chúng đã đến, chúng làm danh thánh Ta bị xúc phạm vì người ta nói về chúng: Những người này là dân của CHÚA nhưng chúng phải rời khỏi đất của Ngài. Ta quan tâm về danh thánh của Ta, là danh mà nhà Y-sơ-ra-ên đã xúc phạm tại các nước chúng nó đi đến. Cho nên hãy nói với nhà Y-sơ-ra-ên: ‘CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, không phải vì cớ ngươi mà Ta sắp hành động, nhưng vì cớ danh thánh của Ta mà ngươi đã xúc phạm tại các nước các ngươi đi đến. Ta sẽ thánh hóa đại danh của Ta, danh đã bị xúc phạm giữa các nước, là danh các ngươi đã xúc phạm giữa chúng nó. Bấy giờ các nước sẽ biết rằng chính Ta là CHÚA khi Ta bày tỏ sự thánh thiện của Ta giữa các ngươi trước mắt chúng nó, CHÚA Toàn Năng tuyên bố. Ta sẽ rút các ngươi từ các nước, tập họp các ngươi từ khắp các xứ và đem các ngươi về quê hương của các ngươi. Ta sẽ rảy nước trong sạch trên các ngươi, các ngươi sẽ được thanh sạch. Các ngươi sẽ được sạch hết mọi ô uế và các thần tượng của mình. Ta sẽ ban cho các ngươi một tấm lòng mới và đặt một thần linh mới trong các ngươi; Ta sẽ bỏ đi tấm lòng bằng đá khỏi xác thịt các ngươi và ban cho các ngươi tấm lòng bằng thịt. Ta sẽ đặt thần Ta trong các ngươi, khiến cho các ngươi đi theo các quy luật và cẩn thận làm theo các sắc luật của Ta. Bấy giờ các ngươi sẽ cư ngụ trong đất nước mà Ta đã ban cho tổ tiên các ngươi, các ngươi sẽ là dân Ta và chính Ta sẽ là Đức Chúa Trời của các ngươi. Ta sẽ cứu các ngươi khỏi mọi ô uế; Ta sẽ gọi lúa mì đến và làm tăng thêm nhiều; Ta sẽ không đem đói kém đến. Ta sẽ cho trái cây và nông phẩm nơi đồng ruộng gia tăng nhiều để các ngươi không còn bị nhục nhã với các nước vì nạn đói. Bấy giờ các ngươi sẽ nhớ lại các đường lối xấu xa và những hành động không tốt của mình. Các ngươi sẽ ghê tởm chính bản thân mình vì những tội lỗi và những điều ghê tởm của các ngươi. CHÚA Toàn Năng tuyên bố: Không phải vì cớ các ngươi mà Ta hành động, hãy biết rõ điều đó. Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, các ngươi phải cảm thấy xấu hổ và nhục nhã vì đường lối của mình. CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Trong ngày Ta thanh tẩy các ngươi hết mọi tội lỗi, khiến những thành của các ngươi có người cư ngụ và tái thiết những nơi đổ nát của các ngươi. Bấy giờ đất hoang phế sẽ được cày cấy thay vì bỏ hoang trước mắt mọi người qua lại. Người ta sẽ nói: “Đất hoang phế này đã trở nên như vườn Ê-đen và các thành bị đổ nát, hoang phế và tàn phá kia nay được củng cố và có người cư ngụ.” Bấy giờ các nước còn lại chung quanh ngươi sẽ biết rằng chính Ta là CHÚA, Ta sẽ xây dựng lại những nơi bị phá hủy, sẽ trồng trọt lại những nơi hoang phế; chính Ta là CHÚA, Ta đã phán thì Ta sẽ làm.’ CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Ta cũng sẽ cho nhà Y-sơ-ra-ên xin Ta làm cho chúng điều này, ấy là gia tăng số người chúng nó lên như đàn chiên; như đàn chiên làm sinh tế, như đàn chiên tại Giê-ru-sa-lem vào các dịp lễ. Các thành đổ nát sẽ đầy những đoàn người như thế và người ta sẽ biết rằng chính Ta là CHÚA.” Tay của CHÚA ở trên tôi; bởi Thần của CHÚA, Ngài đem tôi ra, đặt tôi ở giữa một thung lũng; thung lũng ấy đầy hài cốt. Ngài dẫn tôi đi vòng quanh các hài cốt đó; kìa, có rất nhiều hài cốt trên mặt thung lũng và rất khô. Ngài phán cùng tôi: “Hỡi con người, những hài cốt này có thể sống không?”Tôi đáp: “Lạy CHÚA, Chúa biết điều ấy.” Ngài phán cùng tôi: “Hãy phán tiên tri cùng những hài cốt này, hãy bảo chúng: ‘Hỡi những hài cốt khô, hãy nghe lời CHÚA. CHÚA Toàn Năng phán như vầy cùng các hài cốt: Này, Ta phú thần khí nhập vào trong các ngươi và các ngươi sẽ sống. Ta sẽ ban gân cho các ngươi, cho thịt trên các ngươi, lấy da bọc các ngươi và ban thần khí trong các ngươi, bấy giờ các ngươi sẽ sống và biết rằng chính Ta là CHÚA.’” Vậy, tôi phán tiên tri như tôi đã được truyền. Khi tôi vừa phán tiên tri thì có tiếng động, này có tiếng rung chuyển và những xương cốt ráp lại với nhau, xương với xương. Tôi nhìn, kìa, gân xuất hiện, thịt mọc lên và da bao bọc ở bên ngoài nhưng không có thần khí trong chúng. Ngài phán cùng tôi: “Hãy phán tiên tri cùng thần khí. Hỡi con người, hãy phán tiên tri, hãy nói với thần khí: ‘CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Hỡi thần khí, hãy đến từ gió bốn phương, hãy thở vào các xác chết này để chúng được sống.’” Vậy, tôi phán tiên tri như đã được truyền. Thần khí nhập vào trong các xác chết; chúng sống lại và đứng lên trên chân mình. Ấy là một đạo quân đông vô số. Ngài phán cùng tôi: “Hỡi con người, những xương này là cả nhà Y-sơ-ra-ên. Kìa, chúng nói: ‘Xương cốt chúng ta khô héo, hy vọng của chúng ta tiêu tan, chúng ta bị tuyệt diệt.’ Cho nên, hãy nói tiên tri, hãy nói với chúng: ‘CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Chính Ta sẽ mở mồ mả các ngươi, đem các ngươi lên khỏi mồ mã. Hỡi dân Ta, Ta sẽ đem các ngươi trở về đất Y-sơ-ra-ên. Hỡi dân Ta, bấy giờ các ngươi sẽ biết rằng Ta là CHÚA khi Ta mở mồ mả các ngươi, đem các ngươi lên khỏi mồ mả. Ta sẽ ban thần Ta trong các ngươi và các ngươi sẽ sống. Ta sẽ cho các ngươi định cư trên đất mình và biết rằng chính Ta là CHÚA; Ta đã phán thì Ta sẽ làm; CHÚA tuyên bố.’” Lời của CHÚA phán với tôi: “Hỡi con người, ngươi hãy lấy một cây gậy và viết lên trên ấy: ‘Cho Giu-đa và cho các con cái Y-sơ-ra-ên liên hiệp với nó.’ Hãy lấy một cây gậy khác và viết lên trên ấy: ‘Cho Giô-sép, cây gậy của Ép-ra-im, và cả nhà Y-sơ-ra-ên liên hiệp với nó.’ Hãy hợp hai cây gậy lại làm một để chúng trở thành một cây gậy trong tay ngươi. Khi con cái dân ngươi hỏi: ‘Ông không cho chúng tôi biết điều này nghĩa là gì sao?’ Hãy nói với chúng: ‘CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Này, Ta sẽ lấy cây gậy của Giô-sép, tức là cây gậy ở trong tay Ép-ra-im, cùng những chi tộc Y-sơ-ra-ên liên hiệp với nó và hiệp chúng cùng cây gậy của Giu-đa để làm thành một cây gậy, như vậy chúng trở thành một cây gậy trong tay Ta.’ Hãy cầm lên những cây gậy mà ngươi đã viết trên ấy cho chúng xem. Hãy nói với chúng: ‘CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Này, chính Ta sẽ đem con cái Y-sơ-ra-ên từ các nước chúng đã đi đến, Ta sẽ hợp chúng lại từ khắp nơi và đem chúng về vùng đất của chúng. Ta sẽ làm cho chúng thành một nước trong xứ, trên các đồi núi Y-sơ-ra-ên. Chúng sẽ chỉ có một vua cai trị; sẽ không bao giờ là hai nước và sẽ không chia rẽ thành hai vương quốc nữa. Chúng nó sẽ không làm mình ô uế vì các thần tượng, những điều ghê tởm và mọi vi phạm nữa. Ta sẽ giải cứu chúng khỏi mọi sự sa ngã mà chúng đã phạm. Ta sẽ thanh tẩy chúng, bấy giờ chúng sẽ là dân Ta và Ta là Đức Chúa Trời của chúng nó. Tôi tớ Ta, Đa-vít sẽ làm vua chúng nó, chúng nó sẽ có một người chăn giữ. Chúng nó sẽ đi theo các sắc lệnh, nghe và thực hành các quy luật của Ta. Chúng sẽ sống tại đất mà Ta đã ban cho Gia-cốp, tôi tớ Ta, nơi tổ tiên chúng đã sống; chúng và con cháu, dòng dõi chúng sẽ sống ở đó mãi mãi. Đa-vít, tôi tớ Ta sẽ là hoàng tử của chúng đời đời. Ta sẽ lập giao ước bình an với chúng, đó là giao ước đời đời cho chúng. Ta sẽ thiết lập và làm cho chúng gia tăng và Ta sẽ đặt thánh điện Ta ở giữa chúng đời đời. Nơi cư ngụ của Ta sẽ ở giữa chúng; Ta sẽ là Đức Chúa Trời của chúng và chúng nó sẽ làm dân Ta. Bấy giờ các nước sẽ biết rằng chính Ta là CHÚA, Đấng thánh hóa Y-sơ-ra-ên, khi thánh điện Ta sẽ ở giữa chúng đời đời.’” Lời của CHÚA phán với tôi: “Hỡi con người, hãy hướng mặt nghịch cùng Gót, vùng đất của Ma-gót, là lãnh tụ của Rốt, Mê-siếc và Tu-banh, và hãy phán tiên tri nghịch cùng nó. Hãy nói: ‘CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Hỡi Gót, lãnh tụ của Rốt, Mê-siếc và Tu-banh, Ta nghịch cùng ngươi. Ta sẽ làm ngươi quay lại, đặt móc sắt nơi hàm ngươi, đem ngươi ra cùng với toàn thể quân đội ngươi, nào những ngựa và kỵ binh, tất cả đều mang áo giáp, một đoàn quân đông đảo với thuẫn lớn, thuẫn nhỏ; tất cả đều cầm gươm. Ba-tư, Ê-thi-ô-bi và Phút cùng đi ra với chúng; tất cả đều mang thuẫn, đội mũ chiến. Gô-me và tất cả đoàn quân của nó, Bết Tô-ga-ma ở phía cực bắc cùng toàn quân của nó; nhiều dân tộc cùng đi với ngươi. Hãy sẵn sàng, hãy chuẩn bị, ngươi và toàn thể đoàn quân tụ họp chung quanh ngươi; ngươi sẽ là người canh giữ chúng nó. Sau nhiều ngày ngươi sẽ được triệu tập, trong những năm sau cùng, ngươi sẽ đến một xứ có dân đã được giải cứu khỏi cảnh gươm đao, được qui tụ từ nhiều dân tộc đến vùng núi đồi Y-sơ-ra-ên, là nơi lâu nay vẫn hoang phế. Dân ấy được đem ra từ các dân và tất cả đang sống yên lành. Ngươi sẽ tiến tới, tấn công như bão táp, như đám mây che phủ cả đất, ngươi với cả đoàn quân và nhiều dân tộc đi theo ngươi. CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Vào ngày ấy, ngươi có những tư tưởng trong trí; ngươi mưu đồ một kế hoạch độc ác. Ngươi nói: “Ta sẽ tiến đánh một xứ không thành quách; Ta sẽ tấn công những người hiền hòa đang sống yên lành. Tất cả chúng nó đang cư ngụ nơi không thành lũy, không bờ rào cũng không cổng. Ngươi cướp của, tước đoạt đồ đạc, lấy tay đánh phá những nơi xưa kia đã bị hoang phế nay có người định cư, và đánh một dân đã được qui tụ từ các nước, một dân có đàn súc vật và tài sản đang cư ngụ tại trung tâm của xứ.” Sê-ba, Đê-đan, những thương gia từ Ta-rê-si và tất cả các sư tử tơ của nó sẽ nói với ngươi: “Có phải ông đến để cướp của, tước đoạt đồ đạc không? Có phải ông tập họp đoàn quân của ông để cướp đoạt vàng bạc, để chiếm lấy đàn súc vật, tài sản và cướp đi một số lớn của cải không?”’ Cho nên, hỡi con người, hãy phán tiên tri, hãy nói với Gót: ‘CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Vào ngày ấy, khi dân Y-sơ-ra-ên Ta đang cư ngụ yên lành, ngươi không biết sao? Từ nơi ngươi ở, về miền cực bắc, ngươi sẽ đến; nhiều dân tộc cũng sẽ đến theo ngươi; tất cả đều cưỡi ngựa, một đoàn quân vĩ đại, một quân đội hùng mạnh. Ngươi sẽ tấn công dân Y-sơ-ra-ên Ta như đám mây che phủ đất. Vào những ngày sau cùng, hỡi Gót, Ta sẽ đem ngươi đến đánh đất Ta, để các nước nhận biết Ta khi Ta bày tỏ sự thánh khiết của Ta qua ngươi trước mắt chúng nó. CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Có phải ngươi là người ta đã nói đến từ những ngày xa xưa; Ta đã dùng các tôi tớ Ta, các tiên tri của Y-sơ-ra-ên, vào những ngày ấy, từ nhiều năm, họ đã phán tiên tri rằng Ta sẽ đem ngươi đến đánh chúng? Vào ngày ấy, ngày Gót đến tấn công đất Y-sơ-ra-ên, CHÚA Toàn Năng tuyên bố, cơn thịnh nộ của Ta bừng bừng nổi lên. Trong cơn ghen, trong lửa giận Ta tuyên bố: Chắc chắn vào ngày ấy sẽ có một cơn rung chuyển dữ dội trên đất Y-sơ-ra-ên. Trước mặt Ta, loài cá biển, chim trời, thú đồng, mọi loài bò sát trên đất và mọi người trên mặt đất đều run rẩy. Núi non sụp đổ, các vách đá bị vỡ và mọi thành lũy đều sụp đổ xuống đất. CHÚA Toàn Năng tuyên bố: Ta sẽ gọi gươm trên mọi núi đồi Ta tấn công nó; gươm của mỗi người sẽ chống lại anh em mình. Ta sẽ trừng phạt nó bằng gươm đao và đổ máu; Ta sẽ cho mưa bão, mưa đá, lửa và diêm sinh đổ xuống trên nó, trên đoàn quân của nó và trên nhiều dân theo nó. Ta sẽ biểu dương sự vĩ đại và thánh khiết của Ta; Ta sẽ làm cho Ta được biết trước mắt nhiều nước và chúng sẽ nhận biết rằng chính Ta là CHÚA.’ Hỡi con người, hãy phán tiên tri nghịch cùng Gót. Hãy nói với nó: ‘CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Hỡi Gót, lãnh tụ của Rốt, của Mê-siếc và Tu-banh, Ta nghịch cùng ngươi. Ta sẽ làm ngươi quay lại, dẫn ngươi ra, cho ngươi tiến lên từ miền cực bắc và tấn công các núi đồi Y-sơ-ra-ên. Ta sẽ bẻ gãy cung nơi tay trái ngươi và đánh rơi các mũi tên trong tay phải ngươi. Ngươi, cả đoàn quân ngươi và các dân theo ngươi sẽ ngã gục trên các đồi núi Y-sơ-ra-ên. Ta sẽ phó ngươi làm mồi cho mọi loài chim và thú dữ ngoài đồng. Ngươi sẽ ngã gục nơi đồng trống vì chính Ta đã phán, CHÚA Toàn Năng tuyên bố. Ta sẽ sai lửa đốt Ma-gót và những kẻ đang sống an toàn tại các vùng duyên hải; bấy giờ chúng sẽ biết rằng chính Ta là CHÚA. Ta sẽ làm cho danh thánh Ta được nhận biết giữa vòng dân Y-sơ-ra-ên của Ta và không để cho danh thánh Ta bị xúc phạm nữa. Bấy giờ các nước sẽ nhận biết chính Ta là CHÚA, Đấng Thánh trong Y-sơ-ra-ên. Nầy, điều ấy đang đến, nó sẽ xảy ra. Đó là ngày mà Ta đã phán, CHÚA Toàn Năng tuyên bố. Bấy giờ dân cư trong các thành của Y-sơ-ra-ên sẽ đi ra lấy vũ khí làm nhiên liệu đốt và thiêu hủy chúng; nào là khiên nhỏ, khiên lớn, cung tên và giáo mác, họ sẽ dùng làm nhiên liệu đốt trong bảy năm. Chúng sẽ không cần kiếm củi ngoài đồng hay chặt cây trong rừng nhưng sẽ dùng vũ khí làm nhiên liệu đốt. Bấy giờ chúng sẽ cướp những kẻ cướp phá chúng và tước đoạt những kẻ tước đoạt chúng, CHÚA Toàn Năng tuyên bố. Vào ngày ấy, Ta sẽ cho Gót một chỗ làm mồ chôn tại Y-sơ-ra-ên, nơi thung lũng của người qua lại về phía đông của biển; chỗ đó sẽ ngăn trở những người qua lại. Gót và tất cả đồng bọn của nó sẽ được chôn tại đó và người ta sẽ gọi thung lũng đó là Ha-môn Gót. Trong bảy tháng, nhà Y-sơ-ra-ên chôn cất chúng để thanh tẩy đất đai. Toàn dân trong nước sẽ chôn cất chúng. Ấy sẽ là một ngày vẻ vang danh tiếng cho họ vì Ta đã bày tỏ vinh quang Ta; CHÚA Toàn Năng tuyên bố. Người ta sẽ cử những người thường trực đi lại khắp xứ để chôn cất những xác chết còn lại trên mặt đất hầu thanh tẩy đất đai. Sau bảy tháng họ bắt đầu cuộc tìm kiếm này. Khi những người ấy đi khắp xứ và người nào thấy xương người thì dựng một dấu hiệu bên cạnh, cho đến khi những người chôn cất chôn nó tại thung lũng Ha-môn Gót. (Thành Ha-mô-na cũng ở đó); như vậy, họ thanh tẩy đất đai.’ Còn ngươi, hỡi con người, CHÚA Toàn Năng phán như vầy: hãy nói với mọi loài chim, mọi thú đồng: ‘Hãy tụ họp, hãy đến, từ bốn phương hãy qui tụ lại chỗ sinh tế mà Ta đã chuẩn bị cho các ngươi, tức là một sinh tế lớn trên núi đồi Y-sơ-ra-ên; các ngươi sẽ ăn thịt và uống máu. Các ngươi sẽ ăn thịt các dũng sĩ, uống máu các ông hoàng trên đất như ăn thịt chiên đực, chiên con, dê, bò, mọi súc vật mập béo của Ba-san. Các ngươi sẽ ăn mỡ đến ớn, uống máu đến say, từ vật sinh tế mà Ta đã chuẩn bị cho các ngươi. Tại bàn tiệc của Ta, các ngươi sẽ ăn no những ngựa, người lái xe ngựa, dũng sĩ và mọi loại binh lính;’ CHÚA Toàn Năng tuyên bố. Ta sẽ bày tỏ vinh quang Ta giữa các nước; mọi nước sẽ thấy sự phán xét Ta đã thi hành và thấy bàn tay Ta đặt trên chúng nó. Từ ngày ấy về sau, nhà Y-sơ-ra-ên sẽ nhận biết chính Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng. Các nước cũng sẽ biết rằng nhà Y-sơ-ra-ên bị lưu đày vì tội lỗi của chúng; vì chúng đã bội tín cùng Ta nên Ta ẩn mặt đi, Ta trao chúng vào tay kẻ thù của chúng và tất cả đều ngã gục vì gươm. Ta đã đối xử với chúng tùy theo sự ô uế và vi phạm của chúng và Ta đã ẩn mặt Ta khỏi chúng nó. Cho nên, CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Nay Ta sẽ phục hồi vận mệnh của Gia-cốp và thương xót cả nhà Y-sơ-ra-ên. Ta cũng sẽ ghen cho danh thánh của Ta. Chúng sẽ mang lấy xấu hổ và mọi điều bội tín chúng đã phạm cùng Ta khi chúng định cư trong xứ yên lành và không ai làm cho chúng sợ hãi. Khi Ta đem chúng về từ các dân, tập họp chúng lại từ những đất nước thù nghịch, và bởi chúng, Ta sẽ bày tỏ sự thánh khiết của Ta trước mắt nhiều nước. Bấy giờ chúng sẽ biết rằng chính Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng nó, dù Ta đã lưu đày chúng đến các nước nhưng lại tụ họp chúng về đất của chúng và không để một người nào trong chúng nó ở lại đó. Ta sẽ không còn ẩn mặt Ta khỏi chúng nó nữa, vì Ta sẽ đổ thần Ta trên nhà Y-sơ-ra-ên, CHÚA Toàn Năng tuyên bố.” Năm thứ hai mươi lăm sau khi chúng tôi bị lưu đày; vào đầu năm, ngày mười trong tháng, tức là năm thứ mười bốn sau khi thành thất thủ, vào chính ngày ấy, tay CHÚA ở trên tôi, Ngài đem tôi vào nơi ấy. Trong khải tượng của Đức Chúa Trời, Ngài đem tôi vào đất Y-sơ-ra-ên, đặt tôi trên một ngọn núi rất cao, trên núi về phía nam, dường như có một số kiến trúc của một thành. Ngài đem tôi đến đó, kìa có một người hình dạng như đồng thau; người đứng ở cổng, tay cầm sợi dây và thước đo. Người ấy nói với tôi: “Hỡi con người, hãy nhìn chăm chú, hãy nghe cẩn thận, hãy để tâm vào mọi điều tôi chỉ cho ông, vì ông được đem đến đây để xem những điều này, hãy công bố tất cả những gì ông thấy cho nhà Y-sơ-ra-ên.” Kìa, có một bức tường phía ngoài bao chung quanh khu vực đền thờ. Người ấy cầm trong tay một thước đo dài sáu thước, mỗi thước dài hơn thước thường một gang tay. Bấy giờ người đo bề dầy của bức tường: một thước, bề cao: một thước. Người đi đến cổng hướng về phía đông, bước lên các bậc và đo ngưỡng cửa, bề rộng một thước, một ngưỡng cửa rộng một thước. Phòng cảnh vệ dài một thước, rộng một thước. Khoảng giữa các phòng cảnh vệ dài năm thước; ngưỡng cửa của hành lang trong rộng một thước. Kế đến người đo hành lang trong của cổng, một thước. Người cũng đo hành lang cổng, tám thước; các trụ chống, hai thước. Hành lang cổng ở phía trong hướng về đền thờ. Các phòng cảnh vệ nơi cổng hướng về phía đông: mỗi bên có ba phòng, cả ba phòng cùng một kích thước; các cột mỗi bên cũng cùng kích thước. Người đo chiều rộng lối vào cổng: mười thước; chiều dài của cổng: mười ba thước. Trước các phòng cảnh vệ có một rào cản, mỗi bên rộng một thước; còn phòng cảnh vệ mỗi chiều sáu thước. Người đo cổng, từ nóc của phòng cảnh vệ bên này đến nóc phòng cảnh vệ bên kia rộng hai mươi lăm thước; các lối vào đối diện nhau. Người đo các cột bên cạnh: sáu mươi thước. Bốn phía cổng đều có sân chung quanh. Từ mặt tiền của cổng, ở lối vào, đến tận cùng của mặt tiền bên trong cổng là năm mươi thước. Các phòng cảnh vệ và các cột bên cạnh có những cửa sổ chấn song hướng về phía bên trong cổng, bao khắp chung quanh. Các hành lang cũng có cửa sổ hướng về phía bên trong, bao khắp chung quanh; trên các cột có hình cây chà là. Người đem tôi ra sân ngoài. Kìa, có các phòng và một nền đá bao chung quanh sân; có ba mươi phòng trên nền đá. Nền đá chạy dọc theo một bên cổng, tương ứng với chiều dài của cổng; đó là nền đá dưới. Người đo chiều rộng từ mặt tiền cổng dưới đến mặt tiền phía ngoài của sân trong, một trăm thước về phía đông và phía bắc. Người đo chiều dài và chiều rộng của cổng sân ngoài hướng về phía bắc. Các phòng cảnh vệ, ba cái mỗi bên; các cột bên cạnh và hành lang có cùng một kích thước như cổng thứ nhất; chiều dài năm mươi thước, chiều rộng hai mươi lăm thước. Các cửa sổ, các hành lang và hình các cây chà là có cùng kích thước như cổng hướng về phía đông. Có bảy bậc cấp dẫn lên đó và hành lang ở ngay trước mặt. Có một cổng của sân trong, đối diện với cổng bắc, ở về phía đông. Người đo từ cổng này đến cổng kia, một trăm thước. Bấy giờ người dẫn tôi đến phía nam; kìa có cổng hướng về phía nam. Người đo các cột bên cạnh và hành lang; chúng đều có cùng một kích thước như các cổng kia. Cổng và các hành lang đều có cửa sổ bao quanh như cửa sổ của các cổng kia; chiều dài năm mươi thước, chiều rộng hai mươi lăm thước. Cầu thang có bảy bậc cấp đi lên và hành lang ở ngay trước mặt. Mỗi bên của những cây cột bên cạnh đều có hình cây chà là. Sân trong cũng có một cổng hướng về phía nam. Người đo từ cổng này đến cổng kia, về phía nam, một trăm thước. Người đem tôi vào sân trong bằng cổng phía nam. Người đo cổng phía nam; cổng có cùng một kích thước như các cổng kia. Những phòng cảnh vệ, cột bên cạnh, hành lang có cùng một kích thước như những cái trước. Cổng và hành lang có cửa sổ bao quanh; bề dài là năm mươi thước và rộng hai mươi lăm thước. Chung quanh có hành lang, chiều dài hai mươi lăm thước, rộng năm thước. Các hành lang hướng về sân ngoài; có hình cây chà là trên các cột và cầu thang có tám bậc cấp đi lên. Người đem tôi vào sân trong về hướng đông; người đo cổng; cổng có cùng một kích thước như các cổng trước. Các phòng cảnh vệ, cột bên cạnh và hành lang có cùng một kích thước như những cái trước. Cổng và hành lang có cửa sổ bao quanh; bề dài là năm mươi thước và rộng hai mươi lăm thước. Các hành lang hướng về sân ngoài; mỗi bên của các cột bên cạnh đều có hình cây chà là và cầu thang có tám bậc cấp đi lên. Người đem tôi vào cổng phía bắc; người đo cổng; cổng có cùng kích thước như các cổng kia. Các phòng cảnh vệ, các cột bên cạnh và các hành lang cũng vậy. Cổng có các cửa sổ bao quanh; chiều dài là năm mươi thước, chiều rộng hai mươi lăm thước. Các cột bên cạnh hướng về sân ngoài; mỗi bên của các cột đều có hình cây chà là; cầu thang có tám bậc cấp đi lên. Có một căn phòng, cửa ở bên cạnh các cột của cổng; tại đó người ta rửa các vật tế lễ thiêu. Nơi hành lang của cổng, mỗi bên có hai bàn; ở đó người ta giết các sinh vật tế lễ thiêu, tế lễ chuộc tội và tế lễ chuộc lỗi. Ở bên ngoài, về phía lối vào cổng bắc có hai cái bàn và phía bên kia, về phía các cột của cổng, cũng có hai bàn. Bốn bàn ở bên này và bốn bàn ở bên kia của cổng, tức là tám cái bàn dùng để giết các sinh tế. Cũng có bốn cái bàn bằng đá đẽo dùng để dâng tế lễ thiêu, dài một thước rưỡi, rộng một thước rưỡi, cao một thước; người ta để trên đó các dụng cụ dùng để giết các sinh tế cho tế lễ thiêu và các tế lễ khác. Có những kệ rộng một gang tay, gắn chung quanh ở phía trong. Thịt sinh tế được để trên các bàn. Ở phía ngoài của cổng trong, nơi sân trong, có các phòng cho ban hát, một ở bên cạnh cổng bắc hướng về phía nam, một ở bên cạnh cổng đông hướng về phía bắc. Người nói với tôi: “Phòng hướng về phía nam này dành cho các thầy tế lễ coi sóc đền thờ. Phòng hướng về phía bắc dành cho các thầy tế lễ coi sóc bàn thờ. Họ là con cháu ông Xa-đốc, giữa vòng con cháu Lê-vi, được phép đến gần phục vụ CHÚA.” Người đo sân, dài một trăm thước, rộng một trăm thước, sân hình vuông; còn bàn thờ thì ở trước mặt đền thờ. Bấy giờ người đem tôi vào hành lang đền thờ và đo các cột của hành lang. Năm thước mỗi bên; chiều dày của cổng là ba thước mỗi bên. Hành lang dài hai mươi thước, rộng mười một thước; có bậc cấp dẫn lên đó; bên cạnh các trụ có các cột, mỗi bên một cột. Người đem tôi vào chính điện; người đo các cột, mỗi bên rộng sáu thước; ấy là chiều rộng của các cột Chiều rộng của lối vào là mười thước; tường của lối vào dày năm thước mỗi bên. Kế đến người đo chiều dài chính điện, bốn mươi thước, chiều rộng, hai mươi thước. Người vào bên trong và đo các cột của lối vào, hai thước; chính lối vào, sáu thước; tường của lối vào rộng bảy thước. Người đo chiều dài của điện, hai mươi thước, chiều rộng trước mặt chính điện, hai mươi thước và người bảo tôi: “Đây là nơi chí thánh.” Người đo tường của đền thờ, dày sáu thước; chiều rộng của các phòng phụ bao khắp chung quanh đền thờ là bốn thước. Các phòng phụ gồm có ba tầng chồng lên nhau; mỗi tầng có ba mươi phòng. Có những chân chống các phòng phụ chung quanh tường đền thờ, do đó các phòng phụ không tựa lên trên tường đền thờ. Các phòng phụ chung quanh đền thờ, từ tầng này đến tầng kia, càng lên cao càng rộng hơn. Vì cấu trúc bao quanh đền thờ tăng dần từ tầng này lên tầng kia cho nên chiều rộng của đền thờ cũng tăng lên khi lên cao. Người ta đi từ tầng thấp nhất lên tầng cao nhất qua tầng giữa. Tôi thấy đền thờ có một thềm cao bao quanh, đó là nền của các phòng phụ, thềm đo đúng một thước, tức là dài sáu thước. Bề dày của bức tường ngoài các phòng phụ là năm thước. Khoảng trống giữa các phòng phụ của đền thờ và các phòng là hai mươi thước, bao chung quanh đền thờ khắp các phía. Cửa của các phòng phụ thông ra khoảng trống, một cửa ở hướng bắc, một cửa ở hướng nam. Chiều rộng của khoảng trống là năm thước bao quanh. Tòa nhà hướng về sân đền, phía tây, rộng bảy mươi thước; tường bao quanh tòa nhà dày năm thước, dài chín mươi thước. Bấy giờ người ấy đo đền thờ, dài một trăm thước, sân đền, tòa nhà và tường cũng dài một trăm thước. Chiều ngang của mặt tiền đền thờ và sân đền phía đông là một trăm thước. Bấy giờ người đo chiều dài của tòa nhà hướng về sân đền phía tây cùng với hành lang hai bên, một trăm thước.Bên trong đền thờ, các hành lang trong sân, các ngưỡng cửa, cửa sổ chấn song, các hành lang chung quanh ba mặt đối diện với ngưỡng cửa đều được đóng gỗ bao quanh, từ đất lên đến các cửa sổ, các cửa sổ được bao lại, Trên các lối vào, đến tận bên trong đền và phía ngoài, trên tất cả các tường chung quanh, cả bên trong lẫn bên ngoài đều có những hình chạm các chê-ru-bim và cây chà là, một cây chà là ở giữa hai chê-ru-bim và mỗi chê-ru-bim có hai mặt. Mặt người ta hướng về cây chà là phía bên này và mặt sư tử hướng về cây chà là phía bên kia; trên khắp chung quanh đền thờ đều chạm như vậy. Các chê-ru-bim và cây chà là được chạm từ nền cho đến phía trên cửa và cả tường đền thờ. Các khung cửa đền thờ hình vuông và cái ở phía trước nơi thánh điện cũng giống như vậy. Một bàn thờ bằng gỗ cao ba thước, dài hai thước, ngang hai thước; các góc, bệ và cạnh bàn thờ đều bằng gỗ. Người ấy nói với tôi: “Đây là cái bàn ở trước mặt CHÚA.” Đền và nơi thánh đều có cửa đôi. Mỗi cửa có hai cánh, đó là các cánh cửa xoay; hai cánh cho cửa này và hai cánh cho cửa kia. Người ta đã chạm trổ hình các chê-ru-bim và cây chà là trên các cửa của đền thờ cũng như đã chạm trên các tường vậy. Có một cái hiên bằng gỗ phía trước hành lang phía ngoài. Có các cửa sổ chấn song và hình các cây chà là ở cả hai bên, ở trên thành cột, trên các phòng phụ của đền thờ và các hiên. Bấy giờ người ấy dẫn tôi đến sân ngoài, về phía bắc và đem tôi đến các phòng đối diện với sân đền, tức là đối diện với tòa nhà về phía bắc. Mặt tiền của nhà rộng một trăm thước có cửa hướng về phía bắc, chiều ngang năm mươi thước. Trên một khoảng rộng hai mươi thước đối diện với sân trong và nền đá sân ngoài, có các hành lang chồng lên nhau ba tầng. Trước các phòng là một lối đi rộng mười thước, dài một trăm thước và các lối vào hướng về phía bắc. Các phòng trên hẹp hơn các phòng dưới và phòng giữa của tòa nhà vì các hành lang choán chỗ. Vì các phòng có ba tầng nhưng không có cột như các cột của sân, cho nên các phòng trên hẹp hơn các phòng dưới đất và phòng ở tầng giữa. Có một bức tường bên ngoài song song với các phòng, hướng về sân ngoài, đối diện với các phòng, dài năm mươi thước. Vì chiều dài của các phòng ở sân ngoài là năm mươi thước, trong khi các phòng đối diện đền thờ là một trăm thước. Phía dưới các phòng này có một lối vào ở phía đông dành cho những người vào từ sân ngoài. Ở đầu của bức tường thuộc sân đền, về phía đông, đối diện với khoảng trống và đối diện với tòa nhà cũng có các phòng; Có một đường đi phía trước các phòng ấy, giống như đường đi trước các phòng phía bắc; các phòng ấy dài như nhau, rộng như nhau, tất cả các lối ra vào, cách sắp xếp và cửa như nhau. Các cửa phòng ở phía nam cũng vậy; có một cửa ở đầu đường đi để người ta ra vào, song song với bức tường đối diện ở hướng đông. Bấy giờ người ấy nói với tôi: “Các phòng phía bắc và phía nam, đối diện với sân trống là các phòng thánh nơi các thầy tế lễ đến gần CHÚA, sẽ ăn những vật tế lễ rất thánh. Họ cũng đặt các tế lễ rất thánh ở đó, tế lễ chay, tế lễ chuộc tội, tế lễ chuộc lỗi, vì chỗ đó là thánh. Khi các thầy tế lễ đã vào nơi thánh, họ không được ra khỏi nơi thánh mà đến sân ngoài nhưng phải để lại y phục tế lễ mà họ mặc để phụng vụ vì các y phục đó là đồ thánh; họ phải mặc y phục khác để ra ngoài nơi dành cho dân chúng.” Khi đo xong bên trong đền thờ, người ấy dẫn tôi ra bằng cửa phía đông và đo chung quanh đền thờ. Người đo cạnh phía đông bằng thước đo, năm trăm thước chung quanh theo thước đo. Người đo cạnh phía bắc bằng thước đo, năm trăm thước chung quanh theo thước đo. Người đo cạnh phía nam, năm trăm thước theo thước đo. Người xoay qua đo cạnh phía tây, năm trăm thước theo thước đo. Người ấy đo bốn cạnh bức tường bao chung quanh, chiều dài năm trăm thước, chiều rộng năm trăm thước; tường này phân cách giữa nơi thánh và nơi phàm. Bấy giờ người ấy đem tôi đến cổng hướng về phía đông. Kìa, sự vinh quang của Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đến từ phía đông. Bấy giờ có tiếng như tiếng nước lớn và đất rạng rỡ vinh quang của Chúa. Khải tượng tôi thấy giống như khải tượng tôi đã thấy khi Ngài đến hủy diệt thành, giống như khải tượng tôi đã thấy bên bờ sông Kê-ba; bấy giờ tôi sấp mặt xuống đất. Vinh quang của CHÚA vào đền thờ bằng cổng hướng về phía đông. Thần cất tôi lên và đem tôi vào sân trong. Kìa vinh quang của CHÚA đầy đền thờ. Trong khi người ấy đứng bên cạnh tôi; tôi nghe có tiếng nói với tôi từ đền thờ. Người nói với tôi rằng: “Hỡi con người, đây là nơi Ta đặt ngai Ta, là nơi Ta để chân; tại đây Ta sẽ ở giữa con dân Y-sơ-ra-ên đời đời. Nhà Y-sơ-ra-ên sẽ không còn vi phạm danh thánh của Ta nữa, chúng nó lẫn các vua của chúng nó, trong sự đàng điếm của chúng và bởi những xác chết của các vua chúng nó trên các nơi cao. Khi chúng đặt ngưỡng cửa của chúng sát bên ngưỡng cửa của Ta, cột cửa của chúng bên cạnh cột cửa của Ta và chỉ có một bức tường phân cách giữa Ta và chúng nó, chúng nó đã vi phạm danh thánh của Ta khi chúng nó làm những điều ghê tởm. Nên Ta đã hủy diệt chúng nó trong cơn thịnh nộ Ta. Giờ đây chúng nó hãy bỏ sự đàng điếm của chúng nó và những xác của vua chúng nó khỏi Ta thì Ta sẽ ở giữa chúng nó đời đời. Còn ngươi, hỡi con người, hãy mô tả đền thờ này cho nhà Y-sơ-ra-ên để chúng phải xấu hổ về những tội lỗi chúng đã phạm, hãy để chúng đo theo cái mẫu này. Nếu chúng nó xấu hổ về mọi điều chúng đã phạm, hãy cho chúng biết sơ đồ của đền thờ, mẫu mực, các cửa ra, lối vào, tất cả các sơ đồ và mọi quy luật của nó, tất cả các sơ đồ và mọi luật lệ cho nó. Hãy ghi chép trước mắt chúng nó tất cả các sơ đồ và qui luật của nó để chúng tuân giữ và làm theo. Đây là luật về đền thờ: Tất cả vùng chung quanh đỉnh núi là nơi rất thánh. Đó là luật về đền thờ. Đây là kích thước của bàn thờ đo bằng thước dài một thước và một gang. Cái bệ chân cao một thước, rộng một thước, cái gờ viền quanh rãnh: một gang tay. Đây là chiều cao của bàn thờ: Từ bệ chân dưới đất đến bệ dưới, hai thước, rộng một thước; từ bệ nhỏ đến bệ lớn, bốn thước, rộng một thước. Mặt bàn thờ cao bốn thước; từ mặt bàn thờ có bốn sừng đâm lên. Mặt bàn thờ dài mười hai thước, rộng mười hai thước, vuông vức bốn cạnh. Bệ dài mười bốn thước, rộng mười bốn thước, vuông vức bốn cạnh. Gờ bao quanh bệ, nửa thước; bệ chân bao quanh, một thước. Các bậc cấp của nó hướng về phía đông.” Bấy giờ người ấy nói với tôi: “Hỡi con người, CHÚA phán như vầy: Đây là những quy luật về bàn thờ khi xây xong để dâng tế lễ thiêu và rảy huyết trên đó. CHÚA tuyên bố: Hãy trao cho các thầy tế lễ họ Lê-vi, thuộc dòng họ Xa-đốc, là những người đến gần để phục vụ Ta, một con bò tơ để làm lễ chuộc tội. Hãy lấy một ít huyết của nó bôi lên bốn sừng của bàn thờ, bốn góc của bệ và gờ chung quanh để thanh tẩy và chuộc tội cho bàn thờ. Hãy lấy con bò tơ dâng làm lễ chuộc tội ấy, đem đốt tại một nơi định sẵn của đền thờ nhưng ở ngoài nơi thánh. Vào ngày thứ hai, ngươi hãy dâng một con dê đực không tì vết để làm lễ chuộc tội, bàn thờ sẽ được thanh tẩy như đã dâng bò đực để làm thanh tẩy vậy. Khi đã thanh tẩy xong bàn thờ, hãy dâng một con bò tơ đực không tì vết và một con chiên đực không tì vết từ trong bầy. Hãy đem chúng đến trước mặt CHÚA; các thầy tế lễ rảy muối trên chúng và dâng chúng làm tế lễ thiêu cho CHÚA. Trong bảy ngày, mỗi ngày ngươi phải dâng một con dê đực để làm lễ chuộc tội; người ta cũng dâng một con bò tơ đực và một con chiên đực không tì vết từ trong bầy. Trong bảy ngày người ta sẽ làm lễ chuộc tội, thanh tẩy và như thế dâng hiến bàn thờ. Sau khi những ngày ấy đã mãn, từ ngày thứ tám về sau các thầy tế lễ sẽ dâng các tế lễ thiêu và tế lễ cầu an của các ngươi trên bàn thờ, bấy giờ Ta sẽ nhậm các tế lễ ấy, CHÚA tuyên bố.” Bấy giờ người ấy đem tôi trở lại cổng ngoài của nơi thánh, cổng hướng về phía đông và đóng kín. CHÚA phán cùng tôi: “Cổng này phải đóng lại, không được mở và không ai được vào cổng này vì CHÚA, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã vào cổng này, nên nó phải đóng lại. Chỉ có hoàng tử, vì người là hoàng tử mới được ngồi tại đó và ăn bánh trước mặt CHÚA. Hoàng tử sẽ vào bằng hành lang của cổng và ra cũng bằng đường ấy.” Rồi người ấy đem tôi đến trước đền thờ bởi cổng phía bắc. Tôi nhìn, kìa, vinh quang của CHÚA đầy đền thờ CHÚA; và tôi sấp mặt xuống đất. CHÚA phán với tôi: “Hỡi con người, hãy chú tâm, hãy nhìn cho kỹ, hãy lắng tai nghe tất cả những điều Ta dặn bảo ngươi về mọi quy luật liên quan đến đền thờ CHÚA và mọi luật lệ của đền thờ; hãy chú tâm đến những người vào đền thờ và tất cả những người ra khỏi nơi thánh Hãy nói với những kẻ phản loạn, với nhà Y-sơ-ra-ên: ‘CHÚA phán như vầy: Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, những điều ghê tởm ngươi đã làm là đủ lắm rồi. Các ngươi đã đem người ngoại quốc không cắt bì lòng, cũng chẳng cắt bì xác, vào nơi thánh của Ta, làm ô uế đền Ta khi các ngươi dâng lương thực cho Ta, mỡ và huyết. Các ngươi đã vi phạm giao ước Ta bằng mọi điều ghê tởm của các ngươi. Các ngươi không đảm trách các nhiệm vụ về những công việc thánh của Ta nhưng các ngươi đã lập những kẻ khác đảm trách những nhiệm vụ đó trong nơi thánh thay cho các ngươi. CHÚA phán như vầy: Không một người ngoại quốc nào, lòng không cắt bì và xác không cắt bì, được vào nơi thánh của Ta, ngay cả mọi người ngoại quốc ở giữa vòng con cái Y-sơ-ra-ên. Còn những người Lê-vi đã lìa xa Ta, khi người Y-sơ-ra-ên lầm lạc xa cách Ta để chạy theo các hình tượng của chúng, thì sẽ phải gánh lấy tội lỗi mình. Họ sẽ là những người phục vụ trong nơi thánh Ta, canh giữ các cổng đền thờ, phục vụ trong đền thờ. Họ sẽ giết các tế lễ thiêu và các sinh tế cho dân chúng; họ sẽ đứng trước mặt dân và phục vụ dân. Vì họ đã giúp dân phục vụ trước mặt những hình tượng của chúng, gây cho nhà Y-sơ-ra-ên sa ngã phạm tội nên Ta đã giơ tay lên trừng phạt họ, chúng nó phải gánh lấy tội lỗi mình, CHÚA tuyên bố. Chúng sẽ không được đến gần Ta để làm thầy tế lễ cho Ta; không được đến gần mọi vật thánh cũng như vật chí thánh nhưng chúng phải gánh lấy sự xấu hổ của chúng và những điều ghê tởm mà chúng đã phạm. Nhưng Ta sẽ giao cho chúng nhiệm vụ phục vụ đền thờ, tất cả những dịch vụ và công việc phải làm nơi đó. Nhưng các thầy tế lễ Lê-vi, con cháu Xa-đốc, là những người đã đảm trách phục vụ nơi thánh Ta khi con cái Y-sơ-ra-ên lầm lạc xa cách Ta, chính họ sẽ đến gần để phục vụ Ta; họ sẽ đứng trước mặt Ta để dâng cho Ta mỡ và huyết; CHÚA tuyên bố. Chính họ sẽ vào nơi thánh Ta, chính họ đến gần bàn Ta để phục vụ Ta; họ sẽ đảm trách việc phục vụ Ta. Khi vào cổng sân trong, họ phải mặc y phục vải gai, không được mặc đồ nỉ khi phục vụ tại cổng sân trong và bên trong đền thờ. Họ sẽ đội khăn vải gai trên đầu, mặc quần đùi vải gai ngang lưng; họ không được mặc đồ gì làm đổ mồ hôi. Khi đi ra sân ngoài, là sân có dân chúng, họ phải cởi y phục họ mặc khi phục vụ, để lại nơi phòng thánh, mặc y phục khác, như thế họ sẽ không làm cho dân chúng nên thánh vì y phục tế lễ của mình. Họ sẽ không được cạo đầu, để tóc dài nhưng phải cắt tỉa tóc. Không một thầy tế lễ nào được uống rượu khi vào sân trong. Họ không được cưới đàn bà góa hoặc đàn bà ly dị làm vợ nhưng phải cưới trinh nữ thuộc dòng dõi Y-sơ-ra-ên; nhưng đàn bà góa của thầy tế lễ thì họ được phép cưới. Họ phải chỉ bảo dân Ta biết phân biệt giữa thánh và phàm, dạy chúng biết phân biệt giữa ô uế và thanh sạch. Trong các vụ kiện tụng họ phải đứng ra làm thẩm phán. Họ sẽ xét xử theo các phán quyết của Ta. Họ sẽ giữ gìn luật lệ, quy luật về mọi lễ hội của Ta và giữ các ngày Sa-bát của Ta làm thánh. Thầy tế lễ không được đến gần người chết kẻo bị ô uế, nhưng có thể để bị ô uế vì đến gần cha, mẹ, con trai, con gái, anh em hay chị em chưa cưới gã khi họ chết. Sau khi được thanh sạch, thầy tế lễ đó phải chờ cho mình bảy ngày. Vào ngày người vào nơi thánh, vào sân trong để phục vụ trong nơi thánh, người sẽ dâng một tế lễ chuộc tội cho mình. CHÚA tuyên bố. Đây là phần cơ nghiệp của họ, chính Ta là cơ nghiệp của chúng nó; các ngươi sẽ không phân chia sản nghiệp cho họ giữa vòng Y-sơ-ra-ên; chính Ta là sản nghiệp của họ. Họ sẽ ăn những vật phẩm của tế lễ ngũ cốc, tế lễ chuộc tội, tế lễ chuộc lỗi; và mọi lễ vật dâng hiến trong Y-sơ-ra-ên đều thuộc về họ. Phần tốt nhất của mọi hoa quả đầu mùa đủ loại, mỗi lễ vật dâng hiến đủ loại từ mọi lễ vật dâng hiến, đều thuộc về thầy tế lễ. Các ngươi cũng dâng cho các thầy tế lễ bột tốt nhất của các ngươi để phúc lành an nghỉ trong nhà các ngươi. Thầy tế lễ không được ăn vật chết tự nhiên hay bị thú xé xác, mặc dù vật ấy là chim hay thú vật. Khi các ngươi bắt thăm phân chia đất làm sản nghiệp, hãy dâng một phần đất cho CHÚA làm vùng đất thánh trong xứ, dài hai mươi lăm ngàn thước, rộng mười ngàn thước, toàn thể diện tích vùng này sẽ là thánh. Trong phần đất ấy, hãy để ra một phần đất vuông vức mỗi cạnh năm trăm thước cho nơi thánh; chung quanh cũng có một khoảng đường biên rộng năm mươi thước. Trong phần đất thánh ấy, hãy đo một khoảng dài hai mươi lăm ngàn thước, rộng mười ngàn thước; đây sẽ là nơi thánh điện, chỗ chí thánh. Đó sẽ là phần đất thánh trong xứ dành cho các thầy tế lễ phục vụ nơi thánh, những người đến gần phục vụ CHÚA. Chỗ đó sẽ là nơi để họ cất nhà ở và là nơi thánh cho thánh điện. Một phần đất khác dài hai mươi lăm ngàn thước, rộng mười ngàn thước dành cho người Lê-vi, những người phục vụ đền thờ, làm sản nghiệp và xây thành ở. Các ngươi sẽ dành ra một phần đất rộng năm ngàn thước, dài hai mươi lăm ngàn thước bên cạnh phần đất thánh làm sản nghiệp của thành phố; đó sẽ là sản nghiệp của cả nhà Y-sơ-ra-ên. Về phần của hoàng tử, người sẽ được đất hai bên phần đất thánh và sản nghiệp của thành phố, dọc theo phần đất thánh và phần sản nghiệp của thành phố; mặt phía tây chạy về hướng tây, mặt phía đông chạy về hướng đông; chiều dài phần đất từ ranh giới phía tây đến ranh giới phía đông của xứ, song song với một trong những phần đất của các chi tộc. Đó là phần sản nghiệp của người trong Y-sơ-ra-ên. Các hoàng tử của Ta sẽ không còn áp bức dân Ta nữa nhưng sẽ phân chia đất cho nhà Y-sơ-ra-ên tùy theo chi tộc của chúng. CHÚA phán như vầy: Hỡi các ông hoàng của Y-sơ-ra-ên, đủ rồi! Hãy chấm dứt hành động bạo tàn và áp bức, hãy thi hành công bình và công chính, đừng xô đuổi dân Ta nữa; CHÚA tuyên bố. Các ngươi phải dùng cân đúng, “ê-pha” đúng và “bát” đúng. Cái “ê-pha” và cái “bát” phải có cùng dung tích; “bát” chứa bằng một phần mười “hô-me”, và “ê-pha” cũng chứa được một phần mười “hô-me”. Cái “hô-me” sẽ là hệ đo lường tiêu chuẩn cho cả hai. Một “shê-ken” bằng hai mươi “ghê-ra”; hai mươi shê-ken cọng với hai mươi lăm shê-ken và mười lăm shê-ken sẽ bằng một “min.” Đây là phần dâng hiến mà các ngươi phải dâng, một phần sáu ê-pha cho mỗi hô-me lúa mì, mỗi hô-me lúa mạch thì trích một phần sáu ê-pha. Còn phần dâng hiến về dầu, một phần mười bát cho mỗi “cô-rơ” dầu mà một cô-rơ bằng mười bát hay một hô-me, vì một hô-me bằng mười bát. Từ bầy súc vật nơi đồng cỏ xanh tươi của Y-sơ-ra-ên, cứ hai trăm con thì lấy một con chiên làm tế lễ chay, tế lễ thiêu, tế lễ cầu an để chuộc tội cho dân chúng; CHÚA tuyên bố. Toàn dân trong xứ phải cung cấp phần dâng hiến này cho hoàng tử của Y-sơ-ra-ên. Nhưng hoàng tử phải chịu trách nhiệm về các tế lễ thiêu, tế lễ chay, tế lễ quán cho các ngày lễ, ngày trăng mới, ngày Sa-bát cùng mọi lễ hội của nhà Y-sơ-ra-ên. Người sẽ cung cấp tế lễ chuộc tội, tế lễ chay, tế lễ thiêu, tế lễ cầu an để chuộc tội cho nhà Y-sơ-ra-ên. CHÚA phán như vầy: Vào ngày đầu của tháng thứ nhất, hãy lấy một con bò tơ đực không tì vết trong bầy để làm thanh khiết nơi thánh. Thầy tế lễ sẽ lấy máu của sinh tế chuộc tội mà bôi lên cột đền thờ, lên bốn góc bệ chân bàn thờ và lên cột cổng sân trong đền thờ. Vào ngày thứ bảy của tháng, ngươi cũng hãy làm như thế cho người nào phạm tội vì vô ý hay thiếu hiểu biết; như thế ngươi sẽ chuộc tội cho đền thờ. Vào ngày mười bốn của tháng thứ nhất các ngươi sẽ giữ lễ Vượt Qua; các ngươi sẽ ăn bánh không men trong bảy ngày. Vào ngày ấy, hoàng tử sẽ dâng một con bò tơ để làm tế lễ chuộc tội cho mình và cho toàn dân trong xứ. Trong bảy ngày của kỳ lễ, mỗi ngày trong suốt bảy ngày ấy, người sẽ dâng bảy con bò đực tơ và bảy con chiên đực không tì vết để làm tế lễ thiêu cho CHÚA; và mỗi ngày một con dê đực làm tế lễ chuộc tội. Về tế lễ chay, cứ mỗi con bò, người sẽ dâng một ê-pha, mỗi con chiên đực một ê-pha; còn về dầu, một “hin” cho mỗi ê-pha. Vào ngày mười lăm tháng thứ bảy của kỳ lễ (Lễ Lều Tạm), trong suốt bảy ngày, người cũng dâng y như thế cho tế lễ chuộc tội, tế lễ thiêu, tế lễ chay và dầu. CHÚA phán như vầy: Cổng sân trong hướng về phía đông sẽ phải đóng lại trong sáu ngày làm việc nhưng mở vào ngày Sa-bát và ngày trăng mới. Hoàng tử từ bên ngoài sẽ vào theo hướng hành lang của cổng; người sẽ đứng bên trụ cổng. Bấy giờ các thầy tế lễ sẽ dâng tế lễ thiêu, tế lễ cầu an của người; hoàng tử sẽ sấp mình lạy trước thềm cổng rồi đi ra. Cổng sẽ không đóng lại cho đến tối. Dân trong xứ cũng sấp mình thờ lạy trước mặt CHÚA tại lối vào của cổng ấy trong những ngày Sa-bát và ngày trăng mới. Tế lễ thiêu mà hoàng tử dâng cho CHÚA vào ngày Sa-bát sẽ gồm có sáu con chiên con không tì vết và một con dê đực không tì vết. Phần tế lễ chay dâng kèm với con chiên là một ê-pha; phần tế lễ chay dâng kèm với chiên con thì tùy ý; còn dầu thì mỗi ê-pha dâng một hin. Vào ngày trăng mới, người sẽ dâng một con bò tơ đực không tì vết, sáu con chiên con và một con chiên đực không tì vết. Phần tế lễ chay dâng kèm với bò tơ là một ê-pha, một ê-pha cho chiên đực, phần tế lễ chay cho các chiên con thì tùy ý; còn dầu thì mỗi ê-pha một hin. Khi hoàng tử vào, người sẽ vào theo đường hành lang của cổng và ra cũng bằng đường ấy. Khi dân trong xứ đến trước mặt CHÚA vào những dịp lễ, người nào vào thờ lạy bằng cổng phía bắc sẽ ra bằng cổng phía nam, người nào vào cổng phía nam sẽ ra bằng cổng phía bắc; không ai được trở ra bằng cổng mình đã vào nhưng phải ra bằng cổng đối diện. Hoàng tử sẽ ở giữa vòng dân chúng, khi họ vào, người cũng vào và khi họ ra người sẽ đi ra. Vào những ngày lễ và đại lễ phần tế lễ chay dâng kèm với con bò tơ là một Ê-pha; một ê-pha cho chiên đực; phần tế lễ chay cho các chiên con thì tùy ý; còn dầu thì mỗi ê-pha một hin. Khi hoàng tử dâng tế lễ thiêu tự nguyện hay tế lễ cầu an tự nguyện cho CHÚA, cổng phía đông sẽ mở ra cho người; người sẽ dâng tế lễ thiêu và tế lễ cầu an như đã làm trong ngày Sa-bát, rồi người đi ra và khi ra khỏi, cổng sẽ đóng lại phía sau người. Mỗi ngày, vào buổi sáng, ngươi hãy dâng một con chiên con một tuổi, không tì vết, làm tế lễ thiêu cho CHÚA. Vào mỗi buổi sáng ngươi cũng dâng tế lễ chay cùng với tế lễ kia, một phần sáu ê-pha và một phần ba hin dầu để hòa bột làm tế lễ chay dâng cho CHÚA; đây là quy luật đời đời mãi mãi. Như vậy mỗi buổi sáng người ta sẽ dâng chiên con, tế lễ chay và dầu để làm tế lễ thiêu thường xuyên. CHÚA phán như vầy: Nếu hoàng tử lấy một phần gia nghiệp mình tặng cho một trong những đứa con, thì phần gia nghiệp ấy sẽ thuộc về đứa con; ấy là tài sản của nó bởi thừa kế. Nhưng nếu hoàng tử lấy một phần gia nghiệp mình tặng cho một trong những người tôi tớ, thì phần gia nghiệp ấy sẽ thuộc về người tôi tớ đó cho đến năm ân xá; bấy giờ nó phải hoàn trả lại cho ông hoàng. Chỉ có con cháu hoàng tử mới sở hữu gia nghiệp người mà thôi. Gia nghiệp đó thuộc về chúng nó. Hoàng tử không được lấy gia nghiệp của dân chúng, tước đoạt tài sản của họ; người phải lấy tài sản của mình cho con cái làm gia nghiệp, như vậy không một tài sản của ai trong dân Ta bị tước đoạt.’” Bấy giờ người đem tôi vào theo lối bên cạnh cổng, đến các phòng thánh hướng về phía bắc dành cho thầy tế lễ; kìa, ở đó có một chỗ ở tận cùng, về phía tây. Người ấy nói với tôi: “Đây là nơi các thầy tế lễ luộc vật tế lễ chuộc tội, vật tế lễ chuộc lỗi, nướng tế lễ chay để khỏi đem ra sân ngoài kẻo truyền sự thánh khiết cho dân chúng.” Người cũng đem tôi ra sân ngoài, dẫn tôi đi quanh bốn góc sân; tôi thấy trong mỗi góc lại có một sân khác. Trong bốn góc sân đều có những sân nhỏ, dài bốn mươi thước, rộng ba mươi thước; cả bốn sân trong bốn góc đều có cùng một kích thước. Bên trong bốn sân ấy có tường gạch bao quanh và lò nấu được xây chung quanh chân tường. Bấy giờ người ấy nói với tôi: “Đây là nhà bếp, nơi những người phục vụ trong đền thờ luộc các sinh tế của dân.” Người ấy đem tôi trở lại lối vào đền thờ; kìa, có nước tuôn ra từ dưới thềm cửa đền thờ và chảy về phía đông vì mặt tiền đền thờ hướng về phía đông. Nước từ bên dưới phía nam của đền thờ chảy xuống phía nam bàn thờ. Người ấy đem tôi ra ngoài bằng cổng phía bắc, dẫn tôi đi vòng phía ngoài đến cổng ngoài, là cổng hướng về phía đông, và kìa, nước chảy ra từ phía nam. Người ấy đi về hướng đông, tay cầm thước đo và đo một ngàn thước; người dẫn tôi đi qua nước, nước cao đến mắt cá chân. Người ấy đo một ngàn thước rồi dẫn tôi đi qua nước, nước cao đến đầu gối; người lại đo một ngàn thước và dẫn tôi đi qua nước, nước cao đến thắt lưng. Người ấy lại đo một ngàn thước nữa, bấy giờ là một con sông, tôi không thể đi qua được vì nước sông dâng cao; nước sông sâu phải bơi, không thể đi qua được. Người ấy nói với tôi: “Hỡi con người, ngươi có thấy không?”Người dẫn tôi trở lại bờ sông. Khi tôi trở lại, kìa, ở hai bên bờ sông có rất nhiều cây cối. Người ấy bảo tôi: “Nước này chảy về vùng phía đông, xuống miền A-ra-ba, đổ vào biển; khi đổ vào biển, nước biển sẽ trở nên lành. Sông chảy đến đâu thì mọi sinh vật bò sát ở đó sẽ sống. Sẽ có rất nhiều cá khi nước này chảy đến đó và nước sẽ trở nên lành; sông này chảy đến đâu thì mọi vật ở đó đều sống. Ngư phủ sẽ đứng trên bờ, từ Ên Ghê-đi cho đến Ên Ê-la-im, sẽ có những chỗ để giăng lưới; cá rất nhiều và đủ loại như cá ở Biển Lớn. Nước trong những đầm lầy sẽ không thành ngọt nhưng để làm muối. Dọc theo hai bên bờ sông, người ta sẽ trồng đủ loại cây ăn trái, lá sẽ không tàn, trái không dứt; mỗi tháng cây đều sinh trái nhờ nước từ đền thờ chảy ra. Trái sẽ dùng làm thực phẩm và lá làm thuốc.” CHÚA phán như vầy: “Đây là ranh giới để các ngươi phân chia đất làm sản nghiệp cho mười hai chi tộc Y-sơ-ra-ên, Giô-sép sẽ được hai phần. Mỗi người đều sẽ được phân chia sản nghiệp bằng nhau vì Ta đã đưa tay thề ban đất cho tổ tiên các ngươi nên đất này sẽ thuộc về các ngươi để làm sản nghiệp. Đây là ranh giới của đất:Về phía bắc, từ Biển Lớn theo con đường Hết-lon qua Lê-bô Xê-đát, Ha-mát, Bê-rốt và Síp-ra-im nằm giữa ranh giới Đa-mách và Ha-mát, Hát-se Hát-thi-côn nằm trên ranh giới Ha-vơ-ran. Vậy, ranh giới sẽ chạy từ biển tới Hát-se Ê-nôn tại biên giới Đa-mách; từ miền bắc đi lên hướng bắc là ranh giới Ha-mát, ấy là ranh giới phía bắc. Phía đông, từ Ha-vơ-ran đến Đa-mách, dọc theo sông Giô-đanh từ Ga-la-át và đất Y-sơ-ra-ên ra biển đông, đến tận Ta-ma; ấy là ranh giới phía đông. Phía nam, từ Ta-ma đến dòng nước Ma-ri-ba tại Ca-đê, dọc theo con suối Ai Cập đến Biển Lớn; ấy là ranh giới phía nam. Phía tây, Biển Lớn sẽ là ranh giới đến tận điểm đối diện Lê-bô Ha-mát; ấy là ranh giới phía tây. Vậy, các ngươi hãy phân chia xứ này giữa vòng các ngươi tùy theo chi tộc Y-sơ-ra-ên. Các ngươi hãy bắt thăm chia đất này làm sản nghiệp cho các ngươi và cho những ngoại kiều định cư giữa các ngươi và sinh con cái giữa các ngươi. Các ngươi sẽ coi họ như người bản xứ Y-sơ-ra-ên; họ cũng sẽ được bắt thăm chia phần sản nghiệp với các ngươi giữa các chi tộc Y-sơ-ra-ên. Người ngoại kiều định cư trong chi tộc nào, thì các ngươi phải cho nó sản nghiệp ở đó;” CHÚA tuyên bố. “Đây là tên của các chi tộc: Phần của Đan từ cực bắc chạy theo con đường Hết-lon đến Lê-bô Ha-mát, Hát-se Ê-nôn ở vùng ranh giới Đa-mách, về phía bắc giáp Ha-mát, ranh giới từ đông sang tây. Dọc theo bờ cõi của Đan, từ ranh giới phía đông đến ranh giới phía tây là phần của A-se. Dọc theo bờ cõi của A-se, từ ranh giới phía đông đến ranh giới phía tây là phần của Nép-ta-li. Dọc theo bờ cõi của Nép-ta-li, từ ranh giới phía đông đến ranh giới phía tây là phần của Ma-na-se. Dọc theo bờ cõi của Ma-na-se, từ ranh giới phía đông đến ranh giới phía tây là phần của Ép-ra-im. Dọc theo bờ cõi của Ép-ra-im, từ ranh giới phía đông đến ranh giới phía tây là phần của Ru-bên. Dọc theo bờ cõi của Ru-bên, từ ranh giới phía đông đến ranh giới phía tây là phần của Giu-đa. Dọc theo bờ cõi của Giu-đa, từ ranh giới phía đông đến ranh giới phía tây, các ngươi phải trích ra một phần đặc biệt, chiều ngang hai mươi lăm ngàn thước, chiều dài từ ranh giới phía đông đến ranh giới phía tây bằng một phần của các chi tộc; thánh điện sẽ ở giữa phần này. Phần đặc biệt mà các ngươi dâng cho CHÚA sẽ dài hai mươi lăm ngàn thước, rộng mười ngàn thước. Đây sẽ là phần trích dâng thánh dành cho các thầy tế lễ; phía bắc dài hai mươi lăm ngàn thước, phía tây rộng mười ngàn thước, phía đông rộng mười ngàn thước, phía nam dài hai mươi lăm ngàn thước. Đền thánh của CHÚA sẽ ở giữa phần đất này. Phần này dành cho các thầy tế lễ đã được thánh hóa thuộc dòng dõi Xa-đốc, những người đã trung tín phục vụ Ta, không lầm lạc như những người Lê-vi đã lầm lạc khi dân Y-sơ-ra-ên đi lầm lạc. Họ sẽ có một phần, là phần đất trích ra rất thánh, kế bên ranh giới phần đất của người Lê-vi. Người Lê-vi có phần đất dọc theo ranh giới phần đất của các thầy tế lễ, dài hai mươi lăm ngàn thước, rộng mười ngàn thước; tức là cả chiều dài hai mươi lăm ngàn thước và rộng mười ngàn thước. Không một phần nào của phần đất tốt nhất này sẽ được bán, trao đổi hay chuyển nhượng vì đó là đất thánh dâng cho CHÚA. Phần đất còn lại rộng năm ngàn thước, dài hai mươi lăm ngàn thước, để sử dụng thông thường trong thành phố, làm nhà ở, làm đồng cỏ; thành phố thì ở chính giữa. Kích thước của nó như sau: Phía bắc bốn ngàn năm trăm thước, phía nam bốn ngàn năm trăm thước, phía đông bốn ngàn năm trăm thước và phía tây bốn ngàn năm trăm thước. Đồng cỏ của thành phố, phía bắc hai trăm năm mươi thước, phía nam hai trăm năm mươi thước, phía đông hai trăm năm mươi thước và phía tây hai trăm năm mươi thước. Phần đất còn lại, chiều ngang giáp ranh với phần đất thánh, phía đông mười ngàn thước, phía tây mười ngàn thước giáp ranh với phần đất thánh; nông sản của phần đất này dùng làm lương thực cho nhân viên thành phố. Những nhân viên thành phố từ mọi chi tộc Y-sơ-ra-ên sẽ canh tác phần đất này. Các ngươi phải để ra trọn một phần đất vuông vức mỗi cạnh hai mươi lăm ngàn thước làm phần đất thánh cùng với tài sản của thành phố. Phần còn lại dọc hai bên cạnh phần đất thánh và phần tài sản của thành phố sẽ thuộc về hoàng tử. Từ mặt phía đông, dài hai mươi lăm ngàn thước, ra đến tận ranh giới phía đông; từ mặt phía tây, dài hai mươi lăm ngàn thước, đến ranh giới phía tây, song song với các phần đất của các chi tộc. Phần đất thánh và đền thánh sẽ ở giữa phần đất ấy. Như thế, sản nghiệp của người Lê-vi và sản nghiệp của thành phố sẽ nằm giữa phần đất của hoàng tử. Phần đất của hoàng tử ở giữa, giáp ranh với phần đất của Giu-đa và Bên-gia-min. Phần còn lại của các chi tộc: Bên-gia-min một phần từ đông sang tây. Giáp ranh Bên-gia-min, từ đông sang tây, là phần của Si-mê-ôn. Giáp ranh Si-mê-ôn, từ đông sang tây, là phần của Y-sa-ca. Giáp ranh Y-sa-ca, từ đông sang tây, là phần của Sa-bu-luân. Giáp ranh Sa-bu-luân, từ đông sang tây, là phần của Gát. Ranh giới phía nam của Gát chạy về phía nam, từ Tha-ma đến dòng nước Mê-ri-ba ở Ca-đê, dọc theo suối Ai Cập cho đến Biển Lớn. Đây là đất các ngươi sẽ bắt thăm, chia cho các chi tộc Y-sơ-ra-ên làm sản nghiệp và đó là các phần đất cho chúng nó;” CHÚA tuyên bố. “Đây là các lối ra của thành, cạnh phía bắc, 4.500 thước. Các cổng thành sẽ mang tên các chi tộc Y-sơ-ra-ên. Ba cổng phía bắc là cổng Ru-bên, cổng Giu-đa và cổng Lê-vi. Cạnh phía đông, 4.500 thước. Ba cổng sẽ là cổng Giô-sép, cổng Bên-gia-min và cổng Đan. Cạnh phía nam, 4.500 thước. Ba cổng sẽ là cổng Si-mê-ôn, cổng Y-sa-ca và cổng Sa-bu-luân. Cạnh phía tây, 4.500 thước. Ba cổng sẽ là cổng Gát, cổng A-se và cổng Nép-ta-li. Chu vi thành sẽ là 18.000 thước. Từ nay tên của thành sẽ là:CHÚA Ở TẠI ĐÓ.” Năm thứ ba dưới triều vua Giê-hô-gia-kim nước Giu-đa, Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn, đem quân bao vây thành Giê-ru-sa-lem. Chúa giao vua Giê-hô-gia-kim, nước Giu-đa, vào tay vua Nê-bu-cát-nết-sa, luôn với một số dụng cụ dùng trong đền thờ Đức Chúa Trời; vua Nê-bu-cát-nết-sa đem những dụng cụ ấy về Si-nê-a, cất trong kho tại miếu thần mình. Sau đó, vua ra lệnh cho Át-bê-na, quan cận thần trưởng, chọn một số thanh niên trong vòng hoàng tộc và quý tộc Do-thái, và dạy họ ngôn ngữ và văn học Canh-đê. Các thanh niên này phải đẹp trai, không tật nguyền, khôn ngoan về mọi mặt, có kiến thức, có khả năng học hỏi, để có thể phục vụ tại triều đình. Vua cũng ra lệnh ban cho họ mỗi ngày thức ăn y như thức ăn dọn cho vua dùng và rượu vua uống. Sau ba năm học tập, họ sẽ được bổ nhiệm vào triều. Trong số các thanh niên được chọn thuộc chi tộc Giu-đa có Đa-ni-ên, Ha-na-nia, Mi-sa-ên, và A-xa-ria. Nhưng quan cận thần trưởng đặt tên khác cho họ. Ông gọi Đa-ni-ên là Bên-tơ-sát-xa, Ha-na-nia là Sa-đơ-rắc, Mi-sa-ên là Mê-sác, và A-xa-ria là A-bết Nê-gô. Đa-ni-ên quyết tâm không để cho mình bị ô uế vì thức ăn và rượu của vua, nên xin quan cận thần trưởng miễn cho chàng những thứ ấy để chàng khỏi bị ô uế. Đức Chúa Trời khiến cho Đa-ni-ên được lòng quan cận thần trưởng. Tuy nhiên, ông đáp lời Đa-ni-ên: “Tôi sợ nhà vua. Nhà vua đã chỉ định thức ăn thức uống cho các anh. Nếu nhà vua thấy các anh tiều tụy hơn các thanh niên cùng lứa tuổi, thì chẳng khác nào các anh nộp đầu tôi cho nhà vua.” Nhưng, Đa-ni-ên xin người quản lý được quan cận thần trưởng giao nhiệm vụ coi sóc chàng và các bạn Ha-na-nia, Mi-sa-ên, và A-xa-ria: “Xin ông thử nghiệm chúng tôi là tôi tớ ông trong vòng mười ngày, chỉ cho chúng tôi ăn rau và uống nước thôi. Sau đó, xin ông so sánh diện mạo chúng tôi với diện mạo các thanh niên kia, là những người dùng thức ăn của nhà vua. Và xin ông đối xử với chúng tôi căn cứ theo điều ông nhận xét.” Viên quản lý chấp thuận đề nghị ấy và thử nghiệm Đa-ni-ên và các bạn chàng trong vòng mười ngày. Sau mười ngày, trông họ khỏe mạnh và đầy đặn hơn các thanh niên dùng thức ăn của vua. Vậy viên quản lý tiếp tục cất phần thức ăn và rượu vua cấp cho họ, và chỉ cho họ ăn rau mà thôi. Đức Chúa Trời ban cho bốn thanh niên này khả năng học hỏi, và hiểu biết mọi ngành văn học và khoa học. Ngoài ra, Đức Chúa Trời còn ban cho Đa-ni-ên biết giải nghĩa mọi khải tượng và chiêm bao. Sau thời gian huấn luyện do vua ấn định, quan cận thần trưởng đem tất cả thanh niên vào triều bệ kiến vua Nê-bu-cát-nết-sa. Vua khảo hạch họ, và trong toàn nhóm, không ai bằng Đa-ni-ên, Ha-na-nia, Mi-sa-ên và A-xa-ria. Vậy bốn thanh niên này được phục vụ trong triều. Khi vua tham khảo họ về bất cứ vấn đề gì đòi hỏi sự khôn ngoan thông sáng, vua nhận thấy họ giỏi hơn bội phần tất cả các pháp sư và thuật sĩ trong toàn đế quốc. Đa-ni-ên tiếp tục phục vụ trong triều cho đến năm thứ nhất đời vua Si-ru. Năm thứ hai triều vua Nê-bu-cát-nết-sa, vua thấy chiêm bao khiến tinh thần vua bối rối đến nỗi mất giấc ngủ. Vì thế, vua ra lệnh triệu tập các pháp sư, thuật sĩ, thầy phù thủy, và người Canh-đê, để họ thuật lại cho vua nghe chiêm bao của vua. Khi họ đến chầu trước mặt vua, vua phán: “Ta thấy chiêm bao, và tinh thần ta bối rối muốn biết chiêm bao ấy có nghĩa gì.” Những người Canh-đê tâu bằng tiếng A-ram: “Hoàng đế vạn tuế! Xin bệ hạ thuật lại chiêm bao rồi chúng tôi sẽ giải thích ý nghĩa.” Vua đáp: “Lệnh ta đã công bố. Nếu các ngươi không thuật lại chiêm bao và giải thích ý nghĩa cho rõ, thân các ngươi sẽ bị lăng trì, nhà cửa các ngươi sẽ bị tịch thu. Còn nếu các ngươi cho ta biết chiêm bao và giải thích ý nghĩa, ta sẽ ban thưởng nhiều và vinh dự lớn lao. Vậy các ngươi hãy thuật lại chiêm bao và giải thích ý nghĩa ngay đi!” Họ lại tâu một lần nữa: “Cúi xin bệ hạ cho bề tôi biết chiêm bao, rồi chúng tôi xin giải thích ý nghĩa.” Vua đáp: “Bây giờ ta biết rõ ràng các ngươi chỉ tìm cách trì hoãn! Vì các ngươi nhận thức lệnh ta đã công bố: nếu các ngươi không cho ta biết chiêm bao, chỉ có một hình phạt chung cho tất cả các ngươi. Các ngươi đã toa rập với nhau đem lời dối trá gạt gẫm ta cho đến khi tình hình thay đổi. Vậy bây giờ hãy thuật chiêm bao cho ta, rồi ta mới biết các ngươi có khả năng giải nghĩa chiêm bao.” Những người Canh-đê tâu: “Không một ai trên thế gian này có khả năng bầy tỏ điều bệ hạ yêu cầu. Chưa hề có một vua vĩ đại nào hoặc quyền uy đến đâu, ra lệnh cho bất cứ một pháp sư, thuật sĩ, hoặc người Canh-đê nào làm việc ấy. Việc bệ hạ đòi khó quá, không ai có thể thực hiện được, ngoại trừ các vị thần linh, nhưng các vị ấy không sống giữa loài người phàm tục.” Nghe vậy, vua nổi giận lôi đình, truyền lệnh xử tử tất cả các nhà thông thái Ba-by-lôn kia. Lệnh xử tử các nhà thông thái vừa ban hành, người ta đi tìm Đa-ni-ên và các bạn của chàng để xử tử luôn một thể. Nhưng Đa-ni-ên khôn khéo tiếp xúc với A-ri-óc, chỉ huy trưởng đoàn vệ binh hoàng cung, đang khi ông này trên đường thi hành bản án xử tử các nhà thông thái Ba-by-lôn. Đa-ni-ên hỏi A-ri-óc: “Thưa quan, tại sao đức vua ra lệnh khắc nghiệt như vậy?” Sau khi A-ri-óc thuật lại đầu đuôi câu chuyện, Đa-ni-ên liền vào chầu vua, xin vua cho mình thêm một thời hạn nữa để giải nghĩa chiêm bao cho vua. Khi Đa-ni-ên về nhà, trình bầy vấn đề cho các bạn Ha-na-nia, Mi-sa-ên, và A-xa-ria biết, và yêu cầu họ nài xin Đức Chúa Trời thương xót bầy tỏ điều huyền nhiệm này, để Đa-ni-ên và các bạn, cùng với các nhà thông thái khác ở Ba-by-lôn khỏi phải chết. Ngay đêm ấy, Chúa bầy tỏ cho Đa-ni-ên biết điều huyền nhiệm ấy trong một khải tượng. Và Đa-ni-ên ca ngợi Đức Chúa trên trời. Đa-ni-ên nói:“Chúc tụng danh Đức Chúa Trời đời đời mãi mãi,Vì sự khôn ngoan và quyền năng đều thuộc về Ngài! Chính Ngài thay đổi thời kỳ và mùa tiết,Phế và lập các vua.Sự khôn ngoan của người khôn ngoan là do Ngài ban,Và tri thức của người thông sáng cũng đến từ Ngài. Chính Ngài bầy tỏ những điều sâu xa kín nhiệm,Ngài biết mọi sự xảy ra trong tối tăm,Vì Ngài là nguồn sáng. Lạy Chúa là Đức Chúa Trời của tổ phụ con, con cảm tạ và ca ngợi Ngài,Vì Ngài ban cho con sự khôn ngoan và quyền năng,Vì bây giờ Ngài đã bầy tỏ cho con điều chúng con cầu xin,Ngài cho chúng con biết mối lo âu của vua.” Sau đó, Đa-ni-ên đến gặp quan A-ri-óc, là người vua chỉ định thi hành bản án xử tử các nhà thông thái Ba-by-lôn. Đa-ni-ên thưa với A-ri-óc: “Xin quan đừng xử tử các nhà thông thái Ba-by-lôn. Xin quan đưa tôi vào triều, tôi sẽ tâu đức vua ý nghĩa điềm chiêm bao.” A-ri-óc vội vã đưa Đa-ni-ên vào triều và tâu: “Muôn tâu bệ hạ, tôi vừa tìm được một thanh niên trong vòng các phu tù Giu-đa. Anh ta sẽ tâu trình bệ hạ ý nghĩa điềm chiêm bao.” Vua hỏi Đa-ni-ên, cũng gọi là Bên-tơ-sát-xa: “Ngươi có thật sự đủ khả năng cho ta biết điềm chiêm bao ta thấy và ý nghĩa của nó không?” Đa-ni-ên tâu: “Tâu bệ hạ, điều huyền nhiệm mà bệ hạ hỏi, thật sự không một nhà thông thái, thuật sĩ, pháp sư, hoặc chiêm tinh nào có khả năng giải thích cho bệ hạ. Tuy nhiên, có Đức Chúa Trời trên trời, Ngài giải bầy điều huyền nhiệm. Ngài cho bệ hạ biết việc gì sẽ xảy ra trong những ngày cuối cùng. Đây là chiêm bao, là khải tượng trong tâm trí bệ hạ đang khi bệ hạ ngủ trên giường: Muôn tâu bệ hạ, khi bệ hạ ngủ trên giường, bệ hạ có những tư tưởng về những việc sẽ xảy ra sau này; và Đấng tiết lộ những điều huyền nhiệm đã tỏ cho bệ hạ biết việc gì sẽ xảy ra. Về phần tôi, Đức Chúa Trời đã bầy tỏ điều huyền nhiệm này cho tôi không phải vì tôi khôn ngoan hơn người, nhưng để trình bày ý nghĩa chiêm bao cho bệ hạ và giúp bệ hạ thấu hiểu các tư tưởng trong lòng mình. Muôn tâu, bệ hạ đang nhìn, thì kìa, một pho tượng lớn xuất hiện. Pho tượng này đứng trước mặt bệ hạ, khổng lồ và sáng chói lạ thường, nhưng hình thù trông thật kinh khiếp. Đầu tượng bằng vàng ròng, ngực và cánh tay bằng bạc, bụng và hông bằng đồng, đùi và ống chân bằng sắt, bàn chân nửa bằng sắt, nửa bằng sành. Khi bệ hạ đang nhìn, thì một tảng đá, không do tay người đục ra, đập vào hai bàn chân nửa bằng sắt nửa bằng sành của pho tượng, khiến chúng bể tan tành. Ngay lúc đó, sắt, sành, đồng, bạc và vàng đều bị nghiền nát như trấu trên sân đạp lúa mùa hè, và bị gió đùa đi mất tăm. Nhưng tảng đá đập bể pho tượng biến thành một ngọn núi lớn, đầy dẫy khắp địa cầu. Đó là chiêm bao bệ hạ đã thấy. Bây giờ chúng tôi xin trình bầy ý nghĩa. Muôn tâu, bệ hạ là vua vĩ đại nhất trong các vua! Chúa trên trời đã ban cho bệ hạ đế quốc, lực lượng, uy quyền, và vinh quang. Ngài ban cho bệ hạ quyền cai trị tất cả mọi loài ở khắp mọi nơi, từ loài người đến thú rừng, đến chim trời. Bệ hạ chính là cái đầu bằng vàng. Theo sau bệ hạ, một đế quốc khác sẽ nổi lên, thua kém đế quốc của bệ hạ, rồi sau đó, một đế quốc thứ ba, bằng đồng, sẽ cai trị cả thế giới. Kế đó, một đế quốc thứ tư mạnh như sắt, vì sắt đập bể và nghiền nát mọi vật. Y như sắt đập tan mọi vật, đế quốc này sẽ đập tan và nghiền nát mọi đế quốc trước. Như bệ hạ đã thấy các bàn chân và ngón chân nửa bằng sành của thợ gốm, nửa bằng sắt, đế quốc này sẽ bị phân chia, nhưng vẫn còn phần nào sức mạnh của sắt, vì như bệ hạ thấy sắt pha sành. Còn các ngón chân nửa bằng sắt, nữa bằng sành, có nghĩa là đế quốc này có phần mạnh cũng có phần yếu. Như bệ hạ thấy sắt pha sành, các dân trong đế quốc sẽ sống lẫn lộn với nhau, nhưng vẫn không kết hợp được, y như sắt không thể nào kết dính với sành. Trong đời các vua chúa ấy, Chúa trên trời sẽ thiết lập một vương quốc đời đời không bao giờ sụp đổ, và không hề bị một dân tộc nào khác tước đoạt chủ quyền. Vương quốc này sẽ nghiền nát và tiêu diệt tất cả các vương quốc khác trong khi chính nó sẽ trường tồn mãi mãi, y như bệ hạ thấy tảng đá không do tay người đục ra từ ngọn núi và nghiền nát sắt, đồng, sành, bạc và vàng. Đức Chúa Trời vĩ đại đã bầy tỏ cho bệ hạ biết điều gì sẽ xảy ra sau này. Tôi đã thuật chiêm bao đúng như bệ hạ thấy, và lời giải hoàn toàn đáng tin cậy.” Ngay sau đó, vua Nê-bu-cát-nết-sa sấp mặt xuống đất, lạy Đa-ni-ên, và ra lệnh đem lễ vật và trầm hương tặng cho Đa-ni-ên. Vua tuyên bố: “Đức Chúa Trời của ngươi thật là thần vĩ đại nhất trong các thần, là Chúa Tể trên các vua chúa, là Đấng tiết lộ điều huyền nhiệm, vì Ngài đã ban cho ngươi khả năng giải bầy điều huyền nhiệm này.” Vua thăng chức cho Đa-ni-ên và ban cho chàng nhiều tặng phẩm quý giá. Vua giao cho Đa-ni-ên cai trị toàn tỉnh Ba-by-lôn và cử chàng làm tham mưu trưởng lãnh đạo tất cả các nhà thông thái Ba-by-lôn. Theo lời thỉnh cầu của Đa-ni-ên, vua bổ nhiệm Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết Nê-gô quản lý nha hành chánh tỉnh Ba-by-lôn, còn Đa-ni-ên phục vụ tại triều. Vua Nê-bu-cát-nết-sa truyền đúc một pho tượng vàng, cao hai mươi bảy mét, ngang hai mét bảy, và dựng tượng trong đồng bằng Đu-ra, thuộc tỉnh Ba-by-lôn. Vua ra lệnh triệu tập các tổng trấn, các quan tham mưu, và các tỉnh trưởng, cùng các cố vấn, các giám đốc ngân khố, các thẩm phán, các cảnh sát trưởng, và tất cả các quan chức khác trong tỉnh để cử hành lễ khánh thành pho tượng mà vua đã truyền dựng lên. Khi tất cả các quan chức tụ về dự lễ khánh thành đứng trước pho tượng, quan chủ lễ lớn tiếng thông báo: “Đức vua truyền lệnh cho mọi người thuộc mọi quốc gia, dân tộc, và ngôn ngữ. Ngay khi các ngươi nghe tiếng kèn, sáo, đàn lia, đàn tam giác, đàn hạc, trống, và tất cả các nhạc khí khác thổi lên, các ngươi phải sấp mình xuống đất thờ lạy pho tượng vàng đức vua đã truyền dựng lên. Người nào không sấp mình xuống thờ lạy pho tượng lập tức sẽ bị quăng vào lò lửa cháy phừng phừng.” Vì thế, ngay khi nghe tiếng kèn, sáo, đàn lia, đàn tam giác, đàn hạc, và tất cả các nhạc khí khác trổi lên, tất cả mọi người thuộc mọi quốc gia, dân tộc, và ngôn ngữ đều sấp mình xuống thờ lạy pho tượng vàng vua Nê-bu-cát-nết-sa đã truyền dựng lên. Lúc ấy, một số người Canh-đê chụp cơ hội ra mặt tố cáo người Giu-đa. Họ tâu vua Nê-bu-cát-nết-sa: “Bệ hạ vạn tuế! Muôn tâu, bệ hạ ra lệnh mọi người khi nghe tiếng kèn, sáo, đàn lia, đàn tam giác, đàn hạc, trống và tất cả các loại nhạc khí khác, phải sấp mình xuống thờ lạy pho tượng vàng; còn người nào không sấp mình xuống thờ lạy pho tượng sẽ bị quăng vào lò lửa cháy phừng phừng. Mấy người Giu-đa được bệ hạ phong làm quản lý nha hành chánh tỉnh Ba-by-lôn là Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết Nê-gô đã phạm tội khi quân. Chúng không thờ các thần của bệ hạ, cũng không quỳ lạy pho tượng vàng bệ hạ cho dựng lên.” Bấy giờ vua Nê-bu-cát-nết-sa nổi giận, ra lệnh điệu Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết Nê-gô đến. Vừa khi điệu đến, vua tra hỏi: “Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết Nê-gô, có phải thật sự các ngươi không thờ thần ta, cũng không quỳ lạy pho tượng vàng ta đã dựng lên không? Bây giờ, khi nghe tiếng kèn, sáo, đàn lia, đàn tam giác, đàn hạc, trống và tất cả các loại nhạc khí khác, các ngươi có sẵn sàng sấp mình xuống thờ lạy pho tượng vàng ta truyền đúc nên không? Nếu các ngươi không chịu lạy pho tượng, các ngươi sẽ bị quăng ngay lập tức vào lò lửa cháy phừng phừng. Thế thì thần nào có thể giải cứu các ngươi khỏi tay ta?” Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết Nê-gô đáp: “Muôn tâu bệ hạ, chúng tôi không cần phải biện minh về vấn đề này. Nếu có một thần có quyền giải cứu chúng tôi, thì đó chính là Đức Chúa Trời chúng tôi đang phục vụ. Ngài có khả năng giải cứu chúng tôi khỏi lò lửa cháy phừng phừng và Ngài sẽ giải cứu chúng tôi khỏi tay bệ hạ. Còn nếu như Ngài không giải cứu chúng tôi, xin bệ hạ biết chắc rằng chúng tôi vẫn một mực không thờ các thần của bệ hạ, cũng không quỳ lạy pho tượng vàng bệ hạ đã cho dựng lên.” Đến đây, vua Nê-bu-cát-nết-sa biến sắc vì giận Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết Nê-gô. Vua ra lệnh đốt lò lửa nóng hơn bình thường gấp bảy lần, và truyền cho các binh sĩ mạnh nhất trong quân đội trói chặt Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết Nê-gô, quăng vào lò lửa cháy phừng phừng. Vậy ba người này bị trói với đầy đủ quần, áo, khăn xếp, và các thứ y phục khác trên mình, và quăng vào lò lửa đang cháy phừng phừng. Vì lệnh vua quá nghiêm khắc, bảo đốt lò nóng quá độ, nên luồng lửa phực lên thiêu chết các binh sĩ khi khiêng Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết Nê-gô quăng vào lò; còn ba người này, Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết Nê-gô, vẫn bị trói, rơi vào lò lửa cháy phừng phừng. Vua Nê-bu-cát-nết-sa bổng sửng sốt đứng phắt dậy, hỏi các quần thần: “Có phải chúng ta quăng ba người bị trói vào lò lửa hay không?” Quần thần thưa: “Muôn tâu bệ hạ, đúng như vậy.” Vua bảo: “Nhưng ta thấy bốn người không bị trói đi lại giữa lò lửa hực, không ai bị cháy cả, và hình dáng người thứ tư giống như một vị thần.” Rồi vua Nê-bu-cát-nết-sa tiến đến gần cửa lò đang cháy phừng phừng, gọi vọng vào: “Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết Nê-gô, đầy tớ của Thần Tối Cao, hãy ra đây!”Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết Nê-gô liền bước ra khỏi lò lửa. Các tổng trấn, các quan tham mưu, các tỉnh trưởng, và các quần thần xúm lại chung quanh ba người này và nhận thấy lửa không có quyền gì trên cơ thể họ cả. Tóc trên đầu họ không sém, quần áo họ không nám, ngay cả mùi khói cũng không dính vào người họ. Vua Nê-bu-cát-nết-sa tuyên bố: “Ngợi khen Đức Chúa Trời của Sa-đơ-rắc, A-bết Nê-sác và A-bết Nê-gô! Ngài đã sai thiên sứ Ngài giải cứu đầy tớ Ngài, là những người tin cậy Ngài, thà bất tuân lệnh vua, hy sinh tính mạng hơn là cúng thờ quỳ lạy thần nào khác ngoài Đức Chúa Trời của họ. Vì thế, ta ban hành nghị định này cho mọi quốc gia, dân tộc, và ngôn ngữ: bất cứ ai xúc phạm đến Đức Chúa Trời của Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết Nê-gô thì thân thể sẽ bị lăng trì, và nhà cửa bị tịch thu. Vì không có thần nào khác có quyền giải cứu như vậy.” Sau đó, vua thăng chức cho Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết Nê-gô trong tỉnh Ba-by-lôn. Vua Nê-bu-cát-nết-sa gởi cho mọi người, thuộc mọi quốc gia, dân tộc, và ngôn ngữ khắp thế giới:“Chúc các ngươi an khang thịnh vượng! Ta vui mừng công bố cho các ngươi biết các phép lạ và việc kỳ diệu mà Đấng Tối Cao đã làm cho ta. Ôi, phép lạ của Ngài thật vĩ đại,Việc kỳ diệu Ngài làm đầy quyền uy!Ngài là vua đời đời,Cai trị mãi mãi! Ta, Nê-bu-cát-nết-sa, đang sống an nhàn vui thỏa trong cung điện ta. Bỗng, đang khi ngủ trên giường, ta thấy chiêm bao làm ta sợ hãi, và những hình ảnh ta thấy trong tâm trí khiến ta kinh hoàng. Vậy ta ra lệnh triệu tập tất cả các nhà thông thái Ba-by-lôn để giải thích chiêm bao cho ta rõ. Khi các pháp sư, thuật sĩ, người Canh-đê, và các nhà chiêm tinh vào chầu, ta thuật chiêm bao cho họ nghe, nhưng không ai giải được ý nghĩa chiêm bao cả. Cuối cùng, Đa-ni-ên vào chầu ta. Người này đã được đổi tên là Bên-tơ-sát-xa, theo danh hiệu của thần ta. Linh các bậc thần thánh ngự trong người. Ta thuật lại chiêm bao cho người: Này, Bên-tơ-sát-xa, trưởng đoàn pháp sư. Vì ta biết linh các bậc thần thánh ngự trong ngươi, và không có điều huyền nhiệm nào khó quá cho ngươi, nên hãy nghe chiêm bao ta thấy và giải thích ý nghĩa cho ta rõ. Đây là khải tượng ta nhìn thấy đang khi ngủ trên giường: Kìa, một cây rất cao mọc lên ngay trung tâm địa cầu. Cây lớn mạnh, đến nỗi ngọn vươn lên tận trời, và mọi nơi trên khắp cả đất đều trông thấy. Lá cây sum sê, cây sai trái đến nỗi cung cấp thức ăn cho mọi loài; thú rừng núp dưới bóng cây, chim trời làm tổ trên cành, mọi loài sinh vật đều nhờ cây nuôi sống. Đang khi ngủ trên giường, ta thấy, trong khải tượng, một thiên sứ từ trời ngự xuống. Thiên sứ lớn tiếng ra lệnh: ‘đốn cây này đi, chặt hết các cành; ngắt trụi lá, rải trái ra khắp nơi. Hãy làm cho thú rừng núp dưới bóng cây bỏ chạy, và chim trời bay xa khỏi cành. Nhưng hãy chừa lại gốc cây và rễ dưới lòng đất; xiềng gốc cây lại bằng xiềng sắt và đồng, giữa cánh đồng cỏ. Cho người này dầm thấm sương móc từ trời, và sống với thú ngoài đồng. Hãy cất lòng người khỏi nó, và cho nó lòng thú vật, suốt bảy năm.’ Quyết định này do các thiên sứ truyền lại, bản án này do các bậc thánh rao ra, để mọi người biết rõ rằng Đấng Tối Cao cầm quyền trên mọi nước, Ngài muốn giao quyền thống trị cho ai tùy ý Ngài, Ngài có thể đem người ở địa vị thấp nhất lên cai trị. Ta, vua Nê-bu-cát-nết-sa, đã thấy chiêm bao ấy. Vậy bây giờ, ngươi, Bên-tơ-sát-xa, hãy giải nghĩa cho ta. Tất cả các nhà thông thái trong vương quốc ta đều không thể giải ý nghĩa cho ta rõ, nhưng ngươi có khả năng làm điều ấy, vì linh các bậc thần thánh ngự trong ngươi.” Bấy giờ Đa-ni-ên, cũng gọi là Bên-tơ-sát-xa, kinh hoàng vì ý nghĩa của chiêm bao, sững người trong chốc lát. Vua bảo: “Bên-tơ-sát-xa, đừng để chiêm bao và ý nghĩa của nó làm cho ngươi kinh hãi.”Bên-tơ-sát-xa thưa: “Muôn tâu bệ hạ, ước gì chiêm bao này ứng cho người nào nghịch lại bệ hạ, và ý nghĩa của nó dành cho kẻ thù của bệ hạ! Bệ hạ thấy một cây lớn mạnh, đến nỗi ngọn vươn lên tận trời, khắp đất đều trông thấy; lá cây sum sê, cây sai trái đến nỗi cung cấp thức ăn cho mọi loài; thú rừng sống dưới bóng cây, và chim trời làm tổ trên cành. Muôn tâu, bệ hạ chính là cây đó. Bệ hạ đã trở nên vĩ đại và cường thịnh. Sự vĩ đại của bệ hạ vươn lên tận trời, và uy quyền bệ hạ bao trùm khắp đất. Bệ hạ cũng thấy thiên sứ từ trời ngự xuống ra lệnh: ‘Đốn cây này đi, hủy diệt nó, nhưng hãy chừa lại gốc và rễ trong lòng đất. Xiềng gốc cây lại bằng xiềng sắt và đồng, giữa đồng cỏ. Cho người này dầm thấm xương móc từ trời, cho nó sống với loài thú ngoài đồng suốt trọn bảy năm.’ Tâu bệ hạ, đây là ý nghĩa của điềm chiêm bao. Đấng Tối Cao đã truyền lệnh này về bệ hạ: bệ hạ sẽ bị đuổi ra khỏi xã hội loài người, và sống với thú rừng; bệ hạ sẽ ăn cỏ như bò và dầm thấm sương móc từ trời suốt trọn bảy năm, cho đến khi bệ hạ nhận biết rõ rằng Đấng Tối Cao cầm quyền trên mọi quốc gia, và Ngài muốn giao quyền thống trị cho ai tùy ý Ngài. Lệnh truyền chừa lại gốc và rễ cây có nghĩa là vương quốc của bệ hạ sẽ giao lại cho bệ hạ khi bệ hạ nhận thức rằng Đức Chúa Trời trên trời tể trị mọi loài. Vì thế, tâu bệ hạ, nguyền xin lời khuyên của tôi đẹp lòng bệ hạ. Xin bệ hạ từ bỏ tội ác, làm việc lành, và thương xót người bị đàn áp; may ra sự bình an thịnh vượng của bệ hạ có thể kéo dài thêm.” Mọi việc ấy đều xảy ra cho vua Nê-bu-cát-nết-sa. Một năm sau, đang khi dạo chơi trên sân thượng hoàng cung tại Ba-by-lôn, vua tuyên bố: “Kìa, xem Ba-by-lôn vĩ đại dường nào! Há chẳng phải chính ta đã xây thủ đô này với sức mạnh và quyền năng của ta, làm nơi ta ngự, để bầy tỏ sự vinh hiển và uy quyền của ta sao?” Vua chưa dứt lời, bỗng có tiếng phán từ trời: “Vua Nê-bu-cát-nết-sa, đây là điều đã định cho ngươi: Ta đã tước bỏ vương quyền của ngươi. Ngươi sẽ bị đuổi ra khỏi xã hội loài người, sống với thú rừng, và ăn cỏ như bò suốt trọn bảy năm, cho đến khi ngươi nhận biết rằng Đấng Tối Cao cầm quyền trên mọi quốc gia, và Ngài muốn giao quyền thống trị cho ai tùy ý Ngài.” Ngay giờ đó, lời phán được ứng nghiệm. Vua Nê-bu-cát-nết-sa bị đuổi ra khỏi xã hội loài người; vua ăn cỏ như bò; thân thể vua dầm thấm sương móc từ trời, trong khi tóc vua mọc dài như lông chim đại bàng, và móng tay móng chân vua dài quặp lại như móng chim. “Đến cuối thời hạn đó, ta, Nê-bu-cát-nết-sa, ngước mắt lên trời: trí khôn ta bình phục, ta chúc tụng Đấng Tối Cao, ca ngợi và tôn vinh Đấng sống đời đời.Ngài tể trị mãi mãi,Vương quốc Ngài tồn tại đời đời. Trước mặt Ngài, mọi người sống trên đất đều không ra gì,Ngài thi hành ý muốn Ngài đối với đạo binh trên trờiCũng như loài người dưới đất.Không ai có quyền ngăn chận ý muốn Ngài,Hoặc chất vấn việc Ngài làm. Ngay khi trí khôn ta bình phục, ta nhận lại quyền uy rực rỡ và sự vinh hiển của vương quốc ta. Các bậc cố vấn và quyền thế của ta ngày trước mời ta về trao trả ngai vàng cho ta, và ta trở nên sang trọng hơn trước nhiều. Vì thế cho nên, bây giờ, ta, Nê-bu-cát-nết-sa, ca ngợi, tán dương, và tôn vinh vua trời: mọi việc Ngài làm đều ngay thẳng, đường lối Ngài đều công bình; Ngài có quyền hạ thấp người nào sống kiêu căng.” Vua Bên-sát-xa tổ chức yến tiệc linh đình đãi một ngàn đại thần. Vua mời họ uống rượu. Vừa thấm rượu, vua Bên-sát-xa truyền lệnh đem các ly chén bằng vàng và bạc mà vua cha Nê-bu-cát-nết-sa mang về từ đền thờ tại Giê-ru-sa-lem, để vua cùng các đại thần, các hoàng hậu, và các cung phi dùng uống rượu. Vậy khi các ly chén vàng mang về từ đền thờ, tức là nhà của Đức Chúa Trời, được dọn ra, vua cùng các đại thần, hoàng hậu, và cung phi dùng các ly chén ấy uống rượu. Họ vừa uống rượu, vừa tán tụng các thần tượng bằng vàng, bạc, đồng, sắt, gỗ và đá. Ngay lúc ấy, những ngón tay của một bàn tay người xuất hiện và viết trên vách tường quét vôi của hoàng cung, đối ngang trụ đèn. Khi vua nhìn thấy phần bàn tay đang viết, mặt vua biến sắc, vua kinh hoảng, xương cốt vua rã rời, hai đầu gối run lập cập. Vua lớn tiếng ra lệnh triệu tập các thuật sĩ, người Canh-đê, và các nhà chiêm tinh. Vua phán với các nhà thông thái này của xứ Ba-by-lôn: “Ai đọc được hàng chữ này và giải nghĩa cho ta rõ, ta sẽ cho mặc cẩm bào đỏ thẫm, đeo kiềng vàng vào cổ, và người ấy sẽ là người thứ ba trong bộ ba thống trị vương quốc.” Tuy nhiên, dù tất cả các nhà thông thái của vua đều tập họp lại, không một ai đọc được hàng chữ để giải nghĩa cho vua rõ. Vì thế, vua Bên-sát-xa càng thêm hoảng sợ, mặt vua tái xanh, trong khi các đại thần sững sờ. Nghe tiếng vua và các đại thần xôn xao, bà thái hậu bước vào phòng tiệc. Bà lên tiếng: “Chúc vua vạn tuế! Xin vua đừng hoảng sợ, cũng đừng biến sắc. Trong vương quốc của vua có một người được linh các bậc thần thánh ngự trong mình. Dưới đời vua cha, người này tỏ ra sáng suốt, thông hiểu, và khôn ngoan, ví như sự khôn ngoan của các thần, cho nên vua cha là vua Nê-bu-cát-nết-sa đã phong người làm trưởng các pháp sư, thuật sĩ, người Canh-đê, và các nhà chiêm tinh. Vì nguời, tức là Đa-ni-ên, mà vua cha đổi tên là Bên-tơ-sát-xa, có tài trí vượt bực, tri thức và sự thông hiểu để giải nghĩa chiêm bao, giải thích những điều huyền nhiệm, và giải quyết các vấn đề gút mắc, nên xin vua truyền gọi Đa-ni-ên đến để ông ấy giải nghĩa cho vua rõ” Vậy Đa-ni-ên được mời vào chầu vua. Vua bảo Đa-ni-ên: “Có phải ngươi là Đa-ni-ên, thuộc nhóm phu tù Giu-đa mà vua cha ta đã giải về từ Giu-đa không? Ta nghe nói linh các thần ngự trong ngươi, và ngươi có sự sáng suốt, thông hiểu và khôn ngoan vượt bực. Các nhà thông thái, các pháp sư, được triệu đến để đọc hàng chữ viết này và giải nghĩa cho ta rõ, nhưng không ai giải nghĩa được cả. Nhưng ta có nghe nói về ngươi, rằng ngươi có khả năng giải thích chiêm bao, và giải quyết các vấn đề gút mắc. Vậy nếu ngươi đọc được hàng chữ viết này và giải nghĩa cho ta rõ, ta sẽ cho ngươi mặc cẩm bào đỏ thẫm, đeo kiềng vàng vào cổ, và ngươi sẽ là người thứ ba trong bộ ba thống trị vương quốc.” Bây giờ Đa-ni-ên tâu với vua: “Kính xin bệ hạ giữ lại phần thưởng hoặc trao cho người khác. Tuy nhiên tôi xin đọc hàng chữ viết và giải nghĩa cho vua rõ. Muôn tâu bệ hạ, Đức Chúa Trời Tối Cao đã ban cho vua cha bệ hạ là vua Nê-bu-cát-nết-sa vương quốc cùng với uy quyền vĩ đại, vinh dự, và oai phong. Chính vì uy quyền vĩ đại Đức Chúa Trời ban cho vua cha mà mọi người thuộc mọi quốc gia, dân tộc, và ngôn ngữ đều run sợ. Vua muốn giết ai hoặc cho ai sống, tùy ý. Vua muốn nâng ai lên hoặc hạ ai xuống, tùy ý. Nhưng khi vua cứng lòng tự tôn mình lên, vua bị truất ngôi và tước hết vinh dự. Vua bị đuổi ra khỏi xã hội loài người, tâm trí vua trở nên như tâm trí loài thú, vua sống với lừa rừng, ăn cỏ như bò, và thân thể vua dầm thấm sương móc từ trời, cho đến khi vua nhận biết rằng Đức Chúa Trời Tối Cao tể trị vương quốc loài người, và Ngài giao quyền thống trị cho ai tùy ý Ngài. Nhưng bệ hạ là con vua cha, dù bệ hạ đã biết tất cả những điều ấy, bệ hạ vẫn không chịu hạ mình. Nhưng bệ hạ lại tự tôn mình lên chống nghịch Đức Chúa Trời trên trời, rồi bệ hạ cùng các đại thần, hoàng hậu, và cung phi dùng các ly chén ấy uống rượu. Bệ hạ tán tụng các thần bằng bạc, vàng, đồng, sắt, gỗ và đá, là các thần không thấy, không nghe, không hiểu, trong khi Đức Chúa Trời, là Đấng nắm trong tay Ngài hơi thở và các lối đi nước bước của bệ hạ, bệ hạ lại không tôn vinh. Vì thế, chính Ngài đã sai phần bàn tay viết này viết những lời ấy. Hàng chữ viết thế này:MÊ-NÊ, MÊ-NÊ, TÊ-KEN, VÀ PHÁC-SIN. Và đây là ý nghĩa hàng chữ.Mê-nê, nghĩa là Đức Chúa Trời đã đếm và chấm dứt số ngày vua trị vì. Tê-ken, nghĩa là vua đã bị cân trên bàn cân, và thấy là thiếu kém. Phê-rết, nghĩa là vương quốc vua bị chia đôi và giao cho các dân Mê-đi và Ba-tư.” Vua Bên-sát-xa tức khắc truyền lệnh mặc cẩm bào đỏ thẫm cho Đa-ni-ên, đeo kiềng vàng vào cổ, và thông báo ông được tấn phong ngôi thứ ba trong bộ ba thống trị vương quốc. Ngay đêm ấy, Bên-sát-xa, vua dân Canh-đê, bị giết chết. Và Đa-ri-út, người Mê-đi chiếm ngôi vua. Lúc ấy ông sáu mươi hai tuổi. Vua Đa-ri-út quyết định bổ nhiệm một trăm hai mươi tổng trấn cai trị toàn vương quốc dưới quyền ba thượng thư, trong đó có Đa-ni-ên. Các tổng trấn phải phúc trình mọi việc cho ba vị này để nhà vua khỏi bị thiệt hại. Nhưng Đa-ni-ên vượt hẳn các thượng thư và tổng trấn kia, nhờ có tâm trí siêu phàm, nên vua dự định giao cho ông trông coi toàn vương quốc. Do đó, các thuợng thư và tổng trấn cố tìm cớ để tố cáo Đa-ni-ên trong vấn đề quản lý việc nước, nhưng họ không tìm được cớ hoặc lỗi lầm nào, vì Đa-ni-ên vốn là người trung tín, không hề sơ suất hoặc mắc phải lỗi gì. Vậy những người này nói với nhau: “Chúng ta sẽ chẳng tìm được cớ nào để buộc tội tên Đa-ni-ên này; ngoại trừ lý do liên quan đến tôn giáo của nó.” Sau khi bàn mưu định kế, các thượng thư và tổng trấn này kéo đến chầu vua và tâu: “Chúc bệ hạ vạn tuế! Tất cả các thượng thư, quan tham mưu, tổng trấn, quần thần và tỉnh trưởng đều nhất trí kính xin bệ hạ ban hành sắc chỉ nghiêm cấm bất cứ ai cầu xin một thần nào hay người nào ngoài bệ hạ, trong vòng ba mươi ngày; người nào vi phạm sắc chỉ cấm ấy sẽ bị quăng xuống hầm sư tử. Kính xin bệ hạ ký tên vào sắc chỉ và truyền lệnh ban hành, để sắc chỉ này trở thành bất di bất dịch như các luật không thể hủy bỏ khác của dân Mê-đi và Ba-tư.” Thế là vua Đa-ri-út ký sắc chỉ. Sau khi Đa-ni-ên nghe tin vua đã ký sắc chỉ, ông về nhà, lên một phòng trên cao, nơi có cửa sổ mở hướng về thành Giê-ru-sa-lem, quỳ gối cầu nguyện và ca ngợi Đức Chúa Trời của ông, như ông vẫn làm trước nay, mỗi ngày ba lần. Bấy giờ những người ấy hẹn nhau kéo đến và bắt gặp Đa-ni-ên đang khẩn thiết cầu nguyện Đức Chúa Trời mình. Họ liền vào triều nhắc lại lệnh cấm của vua: “Muôn tâu bệ hạ, có phải bệ hạ đã ký sắc chỉ cấm bất cứ ai cầu xin một thần nào hoặc người nào ngoài bệ hạ, trong vòng ba mươi ngày, và người nào vi phạm sẽ bị quăng xuống hầm sư tử không?”Vua đáp: “Đúng, sắc chỉ tuyệt đối không thể hủy bỏ, y như các luật khác của dân Mê-đi và Ba-tư.” Bấy giờ họ thưa với vua: “Muôn tâu bệ hạ, trong nhóm dân lưu đày Giu-đa, có Đa-ni-ên là người chẳng hề tôn trọng bệ hạ hoặc sắc chỉ cấm bệ hạ đã ký, nhưng cứ tiếp tục cầu nguyện với thần mình mỗi ngày ba lần.” Nghe những lời ấy, vua rất đau lòng. Vua quyết tâm cứu Đa-ni-ên nhưng cố gắng mãi đến khi mặt trời lặn vẫn chưa tìm được cách nào. Bấy giờ những người kia lại họp nhau đến chầu vua: “Muôn tâu bệ hạ, bệ hạ biết rằng chiếu theo luật của dân Mê-đi và Ba-tư, mọi lệnh cấm và sắc chỉ nhà vua ban hành đều bất di bất dịch.” Vì thế, vua đành hạ lệnh triệu Đa-ni-ên đến để quăng xuống hầm sư tử. Vua bảo Đa-ni-ên: “Vị thần mà ngươi bền lòng phụng sự, chính vị ấy sẽ giải cứu ngươi.” Người ta khiêng một tảng đá tới đặt trên miệng hầm. Vua đóng ấn của mình và ấn của các đại thần niêm phong tảng đá để không còn thay đổi gì được nữa về số phận của Đa-ni-ên. Sau đó, vua về cung. Vua thức trắng đêm, không ăn gì hết, cũng không chịu dùng một hình thức giải khuây nào. Vừa lúc rạng đông, vua chổi dậy, vội vàng đi đến hầm sư tử. Đến gần miệng hầm, vua đau xót gọi: “Đa-ni-ên, tôi tớ của Thần Hằng Sống, vị thần mà ngươi bền lòng phụng sự có cứu ngươi khỏi hàm sư tử được không?” Đa-ni-ên đáp: “Chúc bệ hạ vạn tuế! Đức Chúa Trời mà tôi phụng sự đã sai thiên sứ Ngài khóa hàm sư tử nên chúng không hại tôi được, vì Ngài đã xét thấy tôi vô tội. Chính bệ hạ cũng biết tôi không hề làm điều sai quấy.” Bấy giờ vua mừng rỡ quá đỗi, truyền kéo Đa-ni-ên lên khỏi hầm. Khi Đa-ni-ên được kéo lên khỏi hầm, không có dấu vết thương tích gì trên người cả, vì ông tin cậy Đức Chúa Trời mình. Rồi vua truyền điệu những người đã vu cáo Đa-ni-ên đến cùng với vợ con họ, và quăng tất cả xuống hầm sư tử. Khi họ chưa đụng tới đáy hầm đã bị sư tử vồ lấy ăn nghiến cả xương. Bấy giờ vua Đa-ri-út gởi thông điệp cho mọi người thuộc mọi quốc gia, dân tộc, và ngôn ngữ ở khắp mọi nơi trên đất:“Chúc các ngươi an khang thịnh vượng! Ta truyền mọi người trên toàn lãnh thổ vương quốc ta phải tôn thờ và kính sợ Đức Chúa Trời của Đa-ni-ên.Vì Ngài là Đức Chúa Trời hằng sống,Ngài tồn tại mãi mãi;Vương quốc Ngài chẳng hề suy vong,Quyền thống trị của Ngài chẳng hề dứt. Ngài cứu sống và giải thoát,Ngài thực hiện phép lạ nhiệm mầuTrên trời và dưới đất,Ngài cứu sống Đa-ni-ên khỏi nanh vuốt sư tử.” Vậy Đa-ni-ên được trọng dụng và ưu đãi dưới triều vua Đa-ri-út và dưới triều Si-ru, người Ba-tư. Vào năm thứ nhất triều vua Bên-sát-xa, xứ Ba-by-lôn, Đa-ni-ên nằm chiêm bao. Ông thấy khải tượng trong tâm trí đang khi nằm ngủ trên giường. Sau đó, ông ghi lại chiêm bao ấy và thuật câu chuyện từ đầu. Đa-ni-ên kể: “Trong khải tượng ban đêm, tôi thấy gió bốn phương trời khuấy động biển cả bao la. Bốn con thú khổng lồ từ biển lên, mỗi con mỗi khác. Con thú thứ nhất giống như sư tử, nhưng lại mang cánh giống như cánh chim đại bàng. Tôi còn đang nhìn thì cánh nó bị bẻ gẫy, nó được nhấc lên khỏi mặt đất và đặt đứng trên hai chân như người. Rồi nó được ban cho tâm trí loài người. Và này, một con thú khác, con thứ hai, giống như con gấu. Một bên thân nó được nhấc cao lên. Miệng nó ngậm ba chiếc xương sườn giữa hai hàm răng. Có tiếng bảo nó: ‘Đứng lên, ăn thịt cho nhiều!’ Sau đó, tôi đang nhìn, thì kìa, một con thú khác, giống như con beo, nhưng lại mang bốn cánh giống như cánh chim trên lưng. Nó có bốn đầu và được quyền thống trị. Sau đó, vẫn trong khải tượng ban đêm, tôi tiếp tục nhìn, thì kìa, một con thú thứ tư trông khủng khiếp, ghê rợn, và mạnh mẽ phi thường. Nó có răng to, bằng sắt. Nó nuốt, nó nghiền, rồi dùng chân chà nát phần còn sót lại. Nó khác hẳn tất cả các con thú trước. Nó có đến mười sừng. Tôi đang chăm chú nhìn các sừng ấy, thì kìa, một cái sừng khác, nhỏ hơn, mọc lên giữa các sừng kia, khiến cho ba trong các sừng trước bị nhổ bật gốc. Sừng nhỏ này có nhiều mắt giống như mắt người, và miệng khoe khoang xấc xược. Tôi nhìn thấyCác ngai được xếp đặt hẳn hoi,Vị Thái Cổ an tọa.Áo Ngài trắng như tuyết,Tóc trên đầu Ngài như lông cừu tinh sạch.Ngai của Ngài giống như ngọn lửa,Bánh xe của Ngài như lửa cháy hừng. Một sông lửa phát xuất từ nơi ngaiCuồn cuộn chảy ra.Ngàn ngàn hầu hạ Ngài,Vạn vạn phục vụ Ngài.Tòa bắt đầu phiên xử,Các sách đều mở ra. Bấy giờ, khi tôi đang nhìn, tôi nghe tiếng cái sừng nói lời ngạo mạn. Tôi tiếp tục nhìn khi con thú bị giết, thây nó bị hủy diệt, phó cho lửa thiêu đốt. Những con thú còn lại bị tước quyền thống trị, nhưng đời chúng được kéo dài thêm một thời và một kỳ. Trong khải tượng ban đêm, tôi nhìn thấy một vị hình dáng như con người ngự đến với mây trời. Người tiến lại gần, và được đưa vào trình vị Thái Cổ. Ngài trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương quốc. Mọi người thuộc mọi quốc gia, dân tộc và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người còn đời đời, chẳng hề chuyển dịch; vương quốc Người chẳng hề suy vong. Về phần tôi, Đa-ni-ên, tâm thần tôi xao xuyến về những điều ấy, những khải tượng trong đầu làm tôi kinh hoàng. Vậy tôi đến gần một trong những vị đứng hầu tại đấy và hỏi xem tất cả những điều ấy thật sự có nghĩa gì.Người giải thích cho tôi biết ý nghĩa những việc ấy: ‘Bốn con thú khổng lồ ấy là bốn vua nổi lên cầm quyền trên đất. Nhưng rồi dân thánh của Đấng Tối Cao sẽ nhận lãnh vương quốc và nắm giữ vương quyền đời đời mãi mãi.’ Bấy giờ tôi muốn biết con thú thứ tư thật sự có ý nghĩa gì. Nó khác hẳn tất cả các con thú kia. Trông nó khủng khiếp vô cùng, với răng bằng sắt và vuốt bằng đồng. Nó nuốt, nó nghiền, rồi dùng chân chà nát phần còn sót lại. Tôi cũng muốn biết thêm về mười cái sừng trên đầu con thú và về cái sừng kia khi mọc lên khiến cho ba cái sừng trước phải ngã. Sừng này có nhiều mắt và miệng khoe khoang xấc xược. Trông nó mạnh dạn hơn các sừng khác. Khi tôi nhìn, sừng này giao chiến với dân thánh và thắng họ cho đến khi vị Thái Cổ ngự đến, xét xử và minh oan cho dân thánh của Đấng Tối Cao. Đã đến lúc dân thánh nhận lãnh vương quốc. Vị đứng hầu bên ngai giải thích cho tôi: ‘Con thú thứ tư là vương quốc thứ tư xuất hiện trên mặt đất, khác hẳn mọi vương quốc kia. Nó sẽ ăn nuốt, đập tan, và dẫm nát toàn thế giới. Còn mười sừng là mười vua sẽ lần lượt nổi lên cai trị vương quốc ấy. Nhưng sau đó, một vua khác sẽ nổi lên, khác hẳn các vua trước, và sẽ hạ ba vua trong số các vua ấy. Vua này sẽ nói phạm đến Đấng Tối Cao và áp bức dân thánh của Ngài. Vua định thay đổi kinh luật và các ngày lễ. Dân thánh sẽ bị nộp vào tay vua trong ba năm rưỡi. Nhưng khi tòa mở phiên xét xử, vua sẽ bị tước quyền thống trị, và tiêu diệt hoàn toàn. Rồi dân thánh của Đấng Tối Cao sẽ nhận lãnh vương quyền, quyền thống trị, và vinh quang cao cả của tất cả các vương quốc trên đất. Vương quyền của dân thánh sẽ tồn tại mãi mãi, mọi quyền thống trị sẽ phụng sự và vâng phục Ngài.’ Khải tượng kết thúc tại đây. Về phần tôi, Đa-ni-ên, các tư tưởng trong tôi làm tôi kinh hoàng đến nỗi mặt tôi biến sắc. Nhưng tôi giữ kín sự việc trong lòng.” Năm thứ ba triều vua Bên-sát-xa, tôi là Đa-ni-ên được thấy một khải tượng. Khải tượng này xảy ra sau khải tượng tôi thấy trước đây. Trong khải tượng, tôi thấy mình đang ở tại kinh đô Su-san kiên cố, thuộc tỉnh Ê-lam. Tôi đang đứng bên bờ kinh U-lai. Tôi ngước mắt lên nhìn và thấy một con cừu đực đứng bên bờ kinh. Cừu có hai sừng cao, nhưng sừng cao hơn lại mọc lên sau sừng kia. Tôi thấy con cừu đực lấy sừng húc về phía tây, phía bắc, và phía nam. Không một con thú nào chống lại nó được, hoặc thoát khỏi tay nó. Nó muốn làm gì tùy ý, và sinh ra kiêu căng. Tôi đang ngẫm nghĩ về điều ấy, thì kìa, một con dê đực vụt tới từ phía tây, băng ngang qua khắp cả đất mà chân không hề đụng đất. Con dê có sừng to lồ lộ giữa hai mắt. Nó tiến lại chỗ con cừu có hai sừng tôi vừa thấy đứng bên bờ kinh. Nó hùng hổ phóng về phía con cừu. Tôi thấy nó xông vào con cừu, giận dữ húc cừu làm gẫy luôn cả hai sừng cừu. Con cừu không đủ sức chống cự. Dê quật cừu ngã xuống đất, rồi lấy chân đạp lên. Không ai cứu cừu khỏi tay dê. Dê đực sinh ra cực kỳ kiêu căng. Nhưng khi uy quyền nó lên đến tột đỉnh, cái sừng lớn của nó bật gẫy. Thay vào đó, bốn sừng khác lồ lộ mọc lên, hướng theo gió bốn phương trời. Từ một trong các sừng ấy, một sừng nhỏ nhú lên, rồi lớn mạnh cực kỳ về phía nam, phía đông, và miền đất xinh đẹp. Nó lớn mạnh đến nỗi tấn công đạo binh trên trời, làm cho một phần đạo binh, và một phần các vì sao, rơi xuống đất, rồi nó dẫm chân lên. Nó xấc xược thách thức ngay cả vị Nguyên Soái đạo binh. Nó bãi bỏ việc dâng tế lễ hằng ngày và làm ô uế đền thánh Ngài. Đạo binh bị nộp cho tội ác cùng với tế lễ hằng ngày. Cái sừng đó quăng lẽ thật xuống đất. Nó làm mọi việc đều thành công. Bấy giờ tôi nghe một vị thánh lên tiếng, và một vị thánh khác hỏi vị thánh vừa lên tiếng: “Những biến cố trong khải tượng sẽ kéo dài đến bao giờ? Tội ác kinh hoàng sẽ thay thế việc dâng tế lễ hằng ngày trong bao lâu? Đền thánh và đạo binh sẽ bị chà đạp đến bao giờ?” Vị này đáp: “Tế lễ sẽ không được dâng suốt hai ngàn ba trăm buổi chiều và buổi sáng. Bấy giờ đền thánh sẽ được thanh tẩy và phục hồi.” Trong khi tôi, Đa-ni-ên, đang tìm hiểu khải tượng tôi vừa thấy, bỗng dưng có một hình dạng đứng trước mặt tôi, trông giống như một người đàn ông. Và tôi nghe tiếng người gọi vọng vào từ giữa dòng kinh U-lai: “Gáp-ri-ên, hãy giải thích khải tượng cho người này hiểu.” Khi Gáp-ri-ên đến gần nơi tôi đứng, tôi kinh hãi ngã sấp mặt xuống. Nhưng thiên sứ bảo tôi: “Hỡi con người, hãy hiểu rằng khải tượng này liên quan đến thời cuối cùng.” Thiên sứ còn đang nói thì tôi đã ngất xỉu, mặt hãy còn sấp xuống đất. Thiên sứ lay tôi dậy và đỡ tôi đứng lên. Thiên sứ bảo: “Này, ta cho ngươi biết điều sẽ xảy ra trong những ngày cuối của thời thịnh nộ. Vì khải tượng liên quan đến thời cuối cùng và thời này đã được ấn định rồi. Con cừu đực có hai sừng mà ngươi thấy tượng trưng cho các vương quốc Mê-đi và Ba-tư. Con dê đực tượng trưng cho vương quốc Hy-lạp, và cái sừng lớn giữa hai mắt là vua đầu tiên. Khi sừng này bị gẫy, bốn sừng mọc lên thay vào đó, có nghĩa là đất nước này chia thành bốn vương quốc, nhưng không còn sức mạnh của vương quốc đầu tiên. Vào cuối triều đại chúng, khi những kẻ phạm pháp đã vi phạm quá mức, một vua sẽ nổi dậy, mặt mày hung bạo, vô cùng xảo quyệt. Vua càng thêm mạnh mẽ, nhưng không bởi sức riêng. Vua sẽ hủy diệt tàn khốc, và thành công trong mọi việc mình làm. Vua sẽ hủy diệt người hùng mạnh cùng với dân thánh. Nhờ tài xảo quyệt, vua thành công trong những thủ đoạn gian manh. Vua sinh lòng tự cao tự đại, bất ngờ hủy diệt nhiều người. Vua dám nổi dậy chống lại ngay cả Chúa của các chúa nhưng vua sẽ bị hủy diệt, không do tay con người. Khải tượng ta vừa giải thích về tế lễ buổi chiều và buổi sáng là sự thật. Phần ngươi, hãy giữ kín khải tượng, vì phải đợi một thời gian dài mới thực hiện.” Về phần tôi, Đa-ni-ên, tôi đờ đẫn như người mất hồn. Tôi đau ốm nhiều ngày. Sau khi bình phục, tôi tiếp tục làm công việc của vua giao cho tôi. Nhưng tôi vẫn còn kinh hoàng vì khải tượng ấy và vẫn không hiểu. Năm thứ nhất triều vua Đa-ri-út, con trai A-suê-ru, thuộc dòng giống người Mê-đi, khi Đa-ri-út làm vua nước Canh-đê, năm thứ nhất triều vua ấy, tôi, Đa-ni-ên, nghiên cứu Kinh Thánh và suy ngẫm về con số bảy mươi năm mà thành Giê-ru-sa-lem phải chịu điêu tàn, theo lời CHÚA phán với tiên tri Giê-rê-mi. Tôi kiêng ăn, quấn vải thô ngang lưng, ngồi trên đống tro, và ngước mắt lên Chúa là Đức Chúa Trời, khẩn thiết cầu xin. Tôi cầu nguyện và xưng tội với CHÚA, Đức Chúa Trời tôi:“Lạy Chúa là Đức Chúa Trời vĩ đại, đáng kính, đáng sợ, Ngài giữ giao ước và bền lòng yêu thương những người yêu mến Ngài và giữ điều răn Ngài. Nhưng chúng con đã phạm tội, chúng con làm điều quấy, và cư xử gian ác; chúng con đã phản nghịch và lìa bỏ các điều răn và luật lệ Ngài. Chúng con đã không vâng lời các tôi tớ Ngài là các vị tiên tri đã nhân danh Ngài nói với các vua chúa và tổ phụ chúng con, cùng với toàn dân trong xứ. Lạy Chúa, Ngài chính là Đấng Công Chính, còn chúng con bị sỉ nhục cho đến ngày nay; chúng con là những người Giu-đa, và dân cư thành Giê-ru-sa-lem, cùng toàn dân Y-sơ-ra-ên, những người ở gần cũng như ở xa, trong mọi xứ Ngài đã đuổi chúng con đến, vì tội bất trung phản nghịch lại Ngài. Lạy CHÚA, chúng con, kể cả các vua chúa và tổ phụ chúng con, đều đáng bị sỉ nhục vì chúng con đã phạm tội với Ngài. Lạy Chúa là Đức Chúa Trời chúng con, Ngài đầy lòng thương xót và sẵn sàng tha thứ, dù chúng con đã phản nghịch lại Ngài. Chúng con không vâng lời CHÚA, Đức Chúa Trời chúng con, chúng con không sống theo các luật lệ Ngài bảo các vị tiên tri là tôi tớ Ngài dạy cho chúng con. Toàn dân Y-sơ-ra-ên đều không vâng lời Ngài nên vi phạm kinh luật của Ngài và đi lạc; Do đó, Ngài đã trút xuống chúng con lời nguyền rủa đi đôi với lời thề ghi trong Kinh Luật Môi-se, tôi tớ Đức Chúa Trời, vì chúng con đã phạm tội với Ngài. Ngài đã thực hiện lời Ngài cảnh cáo chúng con và các bậc cầm quyền cai trị chúng con khi Ngài giáng đại họa xuống chúng con tại Giê-ru-sa-lem, một đại họa chưa hề xảy ra dưới bầu trời. Tất cả những tai họa này đã trút xuống chúng con đúng như đã chép trong Kinh Luật Môi-se. Vì chúng con không cố gắng làm vui lòng CHÚA, Đức Chúa Trời chúng con, không lìa bỏ tội ác, quay về với Ngài, không chú tâm đến lòng thành tín của Ngài, nên CHÚA canh chừng cho đến đúng lúc thì Ngài đã giáng tai họa này xuống chúng con. Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời chúng con, Ngài thật công bình trong mọi việc Ngài làm, còn chúng con lại chẳng vâng lời Ngài. Lạy Chúa là Đức Chúa Trời chúng con, Ngài đã bầy tỏ quyền năng Ngài khi Ngài đem dân Ngài ra khỏi Ai-cập, làm cho tiếng tăm Ngài lừng lẫy cho đến ngày nay. Chúng con xin xưng nhận tội ác chúng con. Lạy Chúa, vì Ngài đã từng hành động theo sự công bình và thành tín của Ngài để giải cứu chúng con, xin Ngài nguôi cơn phẫn nộ đối với Giê-ru-sa-lem, là thành trì và núi thánh của Ngài. Vì tội lỗi chúng con và tội ác của tổ phụ chúng con, thành Giê-ru-sa-lem và dân Ngài bị tất cả các nước lân bang chế nhạo. Giờ đây, lạy Đức Chúa Trời chúng con, xin Ngài nghe lời tôi tớ Ngài khẩn nguyện nài xin. Vì danh Chúa, xin Ngài ban ơn cho đền thánh điêu tàn của Ngài được xây cất lại. Lạy Đức Chúa Trời của con, xin Ngài lắng tai nghe, xin Ngài mở mắt nhìn cảnh hoang tàn của thành đô chúng con, là thành mang danh Ngài. Chúng con không dựa vào việc làm công chính nào của chúng con, nhưng dựa vào lòng thương xót bao la của Ngài mà dâng lên Ngài lời nài xin khẩn thiết. Lạy Chúa, xin lắng nghe chúng con! Lạy Chúa, xin tha thứ cho chúng con! Lạy Chúa, xin đoái thương chúng con! Lạy Đức Chúa Trời của con, vì danh Ngài, xin ra tay và đừng trì hoãn, vì thành và dân của Ngài mang danh Ngài.” Tôi tiếp tục cầu nguyện, xưng tội của chính mình và tội của Y-sơ-ra-ên, dân tôi. Tôi dâng lên CHÚA, Đức Chúa Trời tôi, lời cầu xin khẩn thiết về núi thánh của Đức Chúa Trời tôi. Tôi đang cầu nguyện bỗng Gáp-ri-ên, con người mà tôi đã thấy trong khải tượng trước đây, bay nhanh đến bên tôi vào giờ dâng tế lễ buổi chiều. Thiên sứ giải thích: “Đa-ni-ên, ta đến đây để giúp ngươi hiểu rõ lời tiên tri. Ngay khi ngươi khởi sự cầu xin, Đức Chúa Trời đã đáp lời ngươi, và ta đến để loan báo, vì Ngài yêu quý ngươi. Vậy, hãy lưu tâm đến lời giải đáp, hãy am hiểu khải tượng. Bảy mươi tuần đã được ấn định cho dân và thành thánh của ngươi để chấm dứt sự vi phạm, diệt trừ tội lỗi, xóa bỏ tội ác, để thiết lập sự công chính đời đời, để khải tượng trong lời tiên tri được ứng nghiệm, và để xức dầu Nơi Chí Thánh. Vậy, hãy để tâm và hiểu rõ: từ khi lệnh tái thiết thành Giê-ru-sa-lem được ban hành cho đến khi vị thủ lãnh được xức dầu xuất hiện, có bảy tuần và sáu mươi hai tuần lễ; thành sẽ được tái thiết với phố xá và thành lũy, nhưng đó là thời buổi hoạn nạn. Sau sáu mươi hai tuần, vị được xức dầu sẽ bị sát hại và không có gì. Quân đội của một vị thủ lãnh sẽ hủy diệt thành đô và đền thánh. Nhưng sự cuối cùng sẽ đến như nước lụt. Chiến tranh và cảnh tàn phá mà Đức Chúa Trời đã dự định tiếp tục diễn ra cho đến cuối cùng. Trong một tuần, vị thủ lãnh ấy sẽ củng cố hiệp ước với nhiều người; nhưng vừa được nửa tuần, hắn hủy bỏ việc dâng tế lễ bằng thú vật và tế lễ chay. Tại chỗ đó, vật gớm ghiếc tàn khốc được dựng lên cho đến khi kẻ gây cảnh tàn khốc bị hủy diệt theo như đã định.” Năm thứ ba triều vua Si-ru, nước Ba-tư, Đa-ni-ên, cũng gọi là Bên-tơ-sát-xa, nhận được sự mặc khải. Sự mặc khải này đáng tin cậy và liên quan đến một cuộc chiến lớn. Đa-ni-ên chú tâm đến lời mặc khải nên am hiểu khải tượng. Trong những ngày ấy, tôi, Đa-ni-ên, kiêng ăn buồn thảm như thể chịu tang suốt ba tuần liền: tôi không ăn cao lương mỹ vị, tôi không hề nếm thịt và rượu, tôi cũng không xức dầu thơm cho đến khi đầy ba tuần. Ngày hai mươi bốn tháng giêng, tôi đang đứng bên bờ sông lớn, tức là sông Tích-rít, bỗng tôi ngước mắt lên nhìn, thấy một người mặc áo vải sợi lanh, lưng thắt đai vàng U-pha, thân mình sáng như bích ngọc, mặt chói như chớp nhoáng, đôi mắt rực lên như đuốc cháy hừng, cánh tay và đôi bàn chân như đồng đánh bóng, và tiếng nói vang ầm như tiếng đám đông. Chỉ một mình tôi, Đa-ni-ên, thấy khải tượng này. Còn những người ở bên tôi tuy không thấy khải tượng, nhưng đều sợ hãi run rẩy chạy đi tìm chỗ ẩn. Vậy chỉ mình tôi còn lại khi tôi nhìn thấy khải tượng trọng đại này. Tôi không còn sức nữa. Mặt tôi tái xanh như người sắp chết. Tôi đã kiệt sức. Bấy giờ tôi nghe tiếng người phán. Vừa khi nghe, tôi ngã sấp mặt xuống đất, bất tỉnh. Nhưng một bàn tay đụng đến tôi và nâng tôi quỳ dậy trên hai bàn tay và hai đầu gối. Người bảo tôi: “Đa-ni-ên, Chúa yêu quý ngươi, hãy chú tâm đến những lời ta sắp truyền cho ngươi. Hãy đứng thẳng lên, vì ta đã được sai đến cùng ngươi.” Khi người phán lời ấy với tôi, tôi run rẩy đứng dậy. Người nói tiếp: “Đa-ni-ên, đừng sợ. Ngay từ ngày đầu, khi ngươi quyết tâm tìm hiểu và hạ mình xuống trước mặt Đức Chúa Trời ngươi, Ngài đã nghe lời ngươi cầu xin, và chính vì lời cầu nguyện của ngươi mà ta đã đến. Hoàng tử bảo vệ vương quốc Ba-tư đã chống nghịch lại ta hai mươi mốt ngày, cho đến khi Mi-ca-ên, một trong các thiên sứ trưởng, đến giúp đỡ ta, vì ta đã bị kẹt lại đấy, trong vương quốc Ba-tư. Và bây giờ ta đến đây để giúp ngươi hiểu việc gì sẽ xảy ra cho dân ngươi trong ngày cuối cùng, vì sẽ có một khải tượng về những ngày ấy.” Nghe những lời ấy, tôi cúi mặt xuống đất, nín lặng, không thốt nên lời. Bấy giờ, một vị hình dáng như con người sờ môi tôi. Tôi liền mở miệng thưa với vị đứng trước mặt tôi: “Thưa chúa, khải tượng làm tôi đau quặn đến nỗi kiệt sức. Làm thể nào tôi tớ của chúa như tôi đây có thể thưa chuyện cùng chúa tôi được, vì hiện giờ tôi không còn sức, còn hơi gì nữa.” Bấy giờ vị hình dáng như con người lại chạm đến tôi một lần nữa và thêm sức cho tôi. Người bảo: “Người được yêu quý, đừng sợ. Hãy an tâm. Hãy mạnh mẽ và can đảm lên.”Trong khi người nói với tôi, tôi được thêm sức và thưa: “Lạy chúa, xin truyền dạy tôi, vì ngài đã thêm sức cho tôi.” Người nói: “Ngươi có biết vì sao ta đến với ngươi không? Bây giờ ta phải quay lại nghênh chiến với hoàng tử bảo vệ Ba-tư. Ta vừa thắng xong, hoàng tử bảo vệ Hy-lạp lại đến. Nhưng ta sẽ báo cho ngươi biết điều đã ghi chép trong sách sự thật. Chẳng có ai hiệp sức với ta chống lại các người này, ngoại trừ Mi-ca-ên là thiên sứ bảo vệ dân ngươi. Về phần ta, kể từ năm thứ nhất triều vua Đa-ri-út, người Mê-đi, ta đã đứng cạnh bên để giúp đỡ và trợ sức cho Mi-ca-ên. Bây giờ ta sẽ cho người biết sự thật. Có ba vua nữa sẽ lên ngôi trị vì nước Ba-tư. Kế đến vua thứ tư, giầu có hơn tất cả các vua trước. Khi vua nhờ của cải củng cố sức mạnh đủ rồi, vua xúi giục mọi dân chống lại vương quốc Hy-lạp. Rồi một vua hùng mạnh sẽ nổi dậy, chiếm quyền thống trị một vương quốc rộng lớn, và muốn làm gì tùy ý. Nhưng khi vua vững mạnh, vương quốc của vua lại tan rã, và phân chia theo hướng gió bốn phương trời, nhưng không chia cho dòng dõi vua, và cũng không rộng lớn như khi vua cai trị. Vì vương quốc của vua sẽ bị nhổ tận gốc và chia cho những người khác, không thuộc dòng dõi vua. Bấy giờ vua phương nam sẽ nên hùng mạnh. Nhưng một trong các tướng lãnh của vua sẽ hùng mạnh hơn vua và chiếm được quyền thống trị một vương quốc rộng lớn hơn vương quốc của vua. Nhiều năm sau, họ kết ước với nhau. Vua phương nam gả công chúa cho vua phương bắc để bảo đảm hiệp ước hòa bình hữu nghị. Nhưng công chúa sẽ không giữ vững được quyền lực, cả vua và con vua cũng không đứng vững nổi. Vì công chúa cùng người hỗ trợ, thân sinh và những người theo hầu công chúa đều sẽ bị thủ tiêu. Chẳng bao lâu một mầm non cùng gốc với công chúa sẽ lên ngôi thay thế vua cha. Vua này sẽ tấn công đội quân của vua phương bắc, tiến vào các thành trì kiên cố, và chiến thắng họ. Ngay cả các thần của họ, tức là các tượng đúc, cùng với các đồ dùng quý giá bằng vàng và bạc, vua cũng đem về Ai-cập làm chiến lợi phẩm. Rồi vua để yên cho vua phương bắc một thời gian. Bấy giờ vua này sẽ xâm nhập lãnh thổ vua phương nam, nhưng rồi phải rút về xứ mình. Các con trai vua phương bắc sẽ chuẩn bị gây chiến. Họ chiêu mộ một đoàn quân đông đảo. Một trong những người con ấy sẽ kéo quân tràn xuống như nước lũ và tấn công thành trì vua phương nam. Vua này phẫn nộ xông ra giao chiến. Dù vua phương bắc chiêu mộ đội quân đông đảo, đội quân này vẫn rơi vào tay vua phương nam. Khi dẹp tan đội quân đông đảo này, vua phương nam sinh lòng kiêu ngạo. Vua hạ được hàng ngàn hàng vạn địch quân, nhưng vua không chiến thắng. Vì vua phương bắc lại chiêu mộ một đoàn quân đông đảo hơn trước. Sau một thời gian, vua tiến công với một đội quân hùng hậu, trang bị đầy đủ. Vào thời ấy, nhiều người sẽ nổi dậy chống lại vua phương nam. Những người bạo động ngay trong chính dân ngươi cũng sẽ nổi dậy để làm ứng nghiệm khải tượng họ thấy, nhưng họ sẽ thất bại. Khi vua phương bắc đến, vua sẽ cho đắp mô bao vây và chiếm được thành trì kiên cố. Các lực lượng phương nam sẽ không đương đầu nổi, ngay cả đoàn quân tinh nhuệ cũng không đủ sức chống cự. Vì thế, vua tấn công sẽ làm theo ý mình; không ai đương đầu nổi với vua. Vua sẽ chiếm cứ đất nước xinh đẹp, và nắm trọn quyền sinh sát. Vua sẽ quyết định chiếm trọn vương quốc phương nam. Vua sẽ ký hòa ước và gả công chúa cho vua phương nam nhằm thôn tính vương quốc ấy, nhưng ý định vua sẽ không thành, vua sẽ thất bại. Sau đó, vua quay về tấn công miền duyên hải và chiếm được nhiều vùng. Nhưng một tướng lãnh sẽ chấm dứt thái độ ngạo mạn của vua. Vua sẽ phải trả giá vì lòng ngạo mạn của mình. Bấy giờ vua trở về các thành trì kiên cố của xứ mình, nhưng rồi vua sẽ vấp ngã và mất tăm. Vua nối ngôi sẽ phái người thu thuế đến tận nơi huy hoàng của vương quốc. Nhưng chẳng bao lâu, vua sẽ bị sát hại, không phải cách công khai hoặc nơi chiến trận.” Vua kế vị là một người đáng khinh miệt, không được quyền thừa kế, nhưng đột ngột lẻn vào, dùng thủ đoạn xảo quyệt chiếm ngôi vua. Vua tiến đến đâu thì các lực lượng chống đối đều bị dẹp tan và cuốn đi như nước lũ, kể cả vị lãnh đạo giao ước. Sau khi ký hiệp ước, vua dùng mưu mô xảo trá củng cố quyền hành ngày càng thêm mạnh dù chỉ có ít thuộc hạ. Vua sẽ đột nhập những vùng trù phú nhất trong tỉnh, và vua sẽ làm điều mà các cha ông hoặc tổ tiên vua chưa hề làm: chiến lợi phẩm và của cải chiếm đoạt, vua sẽ phân phát rời rộng cho thuộc hạ. Vua lập mưu xâm chiếm các thành trì kiên cố, nhưng chỉ được một thời gian thôi. Vua dốc lòng dốc sức đem một đạo quân lớn ra đánh vua phương nam. Vua này cũng chống cự lại với một đạo quân lớn và hùng hậu vô cùng. Nhưng vua không đương đầu nổi vì âm mưu bội phản của chính những kẻ hưởng lộc vua muốn hủy diệt vua. Đạo quân của vua sẽ tan rã, nhiều người sẽ tử trận. Bấy giờ cả hai vua đều có ác tâm, ngồi ăn đồng bàn, nhưng nói với nhau những lời dối trá. Tuy nhiên, mưu tính của họ sẽ không thành, vì giai đoạn cuối sẽ đến vào thời hạn ấn định. Rồi vua phương bắc sẽ quay về xứ mình, mang theo nhiều chiến lợi phẩm. Vua quyết tâm chống lại giao ước thánh khi vua đi ngang qua trên đường về xứ. Đúng thời hạn, vua trở lại xâm lăng phương nam, nhưng lần này sẽ không như lần trước. Khi tầu bè La-mã đến tấn công, vua hoảng sợ rút về. Khi đi ngang qua, vua nổi giận chống lại giao ước thánh. Vua sẽ lưu ý những người bỏ giao ước thánh. Vua sẽ đặt quân canh gác, chúng sẽ làm ô uế đền thánh là thành trì kiên cố, bãi bỏ việc dâng tế lễ hằng ngày, và dựng lên vật gớm ghiếc tàn khốc. Vua dùng lời xảo trá dụ dỗ những kẻ bội giao ước, còn những người trung thành với Đức Chúa Trời mình sẽ chống cự mạnh mẽ. Những người lãnh đạo khôn sáng sẽ dạy dỗ quần chúng, dù họ phải ngã bởi gươm hoặc lửa, dù bị tù đày hoặc cướp bóc trong một thời gian. Trong khi con dân Chúa ngã xuống, họ sẽ nhận được chút ít hỗ trợ. Nhiều người sẽ liên kết với họ, nhưng không thực tâm. Một số người lãnh đạo khôn sáng sẽ ngã xuống, nhờ đó, con dân Chúa được thử lửa, thanh luyện, và tẩy trắng cho đến giai đoạn cuối, vì còn phải chờ thời hạn ấn định. Vua phương bắc sẽ tha hồ làm theo ý mình. Vua sẽ tự cao tự đại, tôn mình lên trên hết các thần. Vua sẽ nói lời xấc xược xúc phạm đến Đức Chúa Trời Tối Cao. Nhưng vua sẽ thành công cho đến khi thời thịnh nộ chấm dứt, vì điều gì Chúa đã quyết định sẽ được thi hành. Vua không quan tâm đến các thần của tổ tiên, cũng chẳng đếm xỉa đến thần mà giới phụ nữ sùng bái, hoặc bất cứ một thần nào khác, vì vua tự tôn mình lên trên hết mọi thần. Thay vào đó, vua tôn sùng thần bảo vệ các thành trì kiên cố; vua cúng vàng, bạc, đá quý, và báu vật cho thần mà tổ tiên vua chưa hề biết. Vua nhờ một thần lạ chiếm đóng các thành trì kiên cố nhất. Trong giai đoạn cuối, vua phương nam sẽ tấn công vua phương bắc. Vua này đem chiến xa, kỵ binh, và tầu bè hùng hậu phản công lại như vũ bão. Vua kéo quân tràn qua nhiều nước khác như thác lũ. Vua cũng xâm nhập đất nước xinh đẹp. Hàng vạn người sẽ ngã xuống, nhưng dân Ê-đôm, Mô-áp, và phần chính của dân Am-môn sẽ thoát khỏi tay vua. Khi vua xâm chiếm các nước, ngay cả Ai-cập cũng không thoát khỏi. Vua sẽ nắm quyền làm chủ các kho vàng, bạc, và mọi báu vật khác của Ai-cập. Các nước Ly-bi và Ê-thi-ô-bi cũng sẽ đầu phục vua. Nhưng tin từ phương đông và phương bắc làm vua hoảng sợ. Vua giận dữ rút quân đi sát hại nhiều người. Tuy nhiên, khi vua đã dựng lều ngự khang trang giữa biển và núi thánh xinh đẹp, giờ cuối cùng của vua sẽ đến, nhưng không ai cứu giúp. Lúc bấy giờ, Mi-ca-ên, thiên sứ bảo vệ dân ngươi, sẽ can thiệp. Sẽ có một thời kỳ hoạn nạn chưa từng thấy, từ khi các nước được thành lập cho đến lúc ấy. Nhưng lúc bấy giờ, tất cả những ai trong dân ngươi có tên ghi trong sách đều sẽ được giải cứu. Nhiều người ngủ trong bụi đất sẽ thức dậy, người thì được sống đời đời, kẻ thì chịu tủi nhục gớm ghiếc muôn đời. Còn những người khôn sáng sẽ chói lọi như bầu trời rực sáng, những ai dạy dỗ nhiều người sống công chính sẽ chiếu sáng như các vì sao, đời đời mãi mãi. Về phần ngươi, Đa-ni-ên, hãy giữ kín những lời này và niêm phong sách lại cho đến thời kỳ cuối cùng. Nhiều người sẽ đi đây đó và sự hiểu biết sẽ gia tăng. Tôi, Đa-ni-ên, đang nhìn, bỗng tôi thấy hai vị thiên sứ khác, mỗi vị đứng một bên bờ sông. Một trong hai vị hỏi người mặc áo vải lanh đứng phía thượng lưu dòng sông: “Đến khi nào những điều kinh khiếp ấy mới chấm dứt?” Người mặc áo vải lanh đứng phía thượng lưu dòng sông giơ hai tay lên trời, và tôi nghe vị ấy thề nhân danh Đấng Hằng Sống: “Phải chờ ba năm rưỡi mọi điều ấy mới chấm dứt, khi sức mạnh dân thánh bị đập tan.” Tôi nghe, nhưng không hiểu nên hỏi lại: “Thưa Ngài, cuối cùng những điều ấy sẽ ra sao?” Thiên sứ đáp: “Đa-ni-ên, đừng lo nghĩ nữa, vì những lời này được giữ kín và niêm phong cho đến thời cuối cùng. Nhiều người sẽ được thanh luyện, tẩy trắng và thử lửa, trong khi kẻ ác tiếp tục làm ác, vì không ai có sự hiểu biết. Nhưng người khôn sáng sẽ hiểu. Từ khi bãi bỏ việc dâng tế lễ hằng ngày, và từ khi dựng lên vật gớm ghiếc tàn khốc, sẽ có 1.290 ngày. Phước cho người nào bền lòng chờ đợi suốt 1.335 ngày. Về phần ngươi, hãy trung tín cho đến cùng. Bấy giờ ngươi sẽ an nghỉ. Nhưng rồi ngươi sẽ sống lại để hưởng phần thưởng dành cho ngươi trong ngày chung kết.” Đây là lời CHÚA phán với Ô-sê, con trai Bê-ê-ri, dưới triều các vua Ô-xia, Giô-tham, A-cha và Ê-xê-chia, nước Giu-đa, và triều vua Giê-rô-bô-am, con trai Giô-ách, nước Y-sơ-ra-ên. CHÚA khởi sự phán với Ô-sê như sau: “Con hãy đi lấy một người vợ gian dâm, sanh ra con cái gian dâm, vì đất nước này phạm tội gian dâm rất nặng, lìa bỏ CHÚA.” Thế là Ô-sê đi cưới Gô-me, con gái Đíp-la-im. Nàng thụ thai và sanh cho ông một bé trai. CHÚA bảo Ô-sê: “Con hãy đặt tên nó là Gít-rê-ên, vì chẳng còn bao lâu nữa, Ta sẽ phạt dòng họ Giê-hu về tội đổ máu tại Gít-rê-ên, và Ta sẽ chấm dứt ngôi vua trong nước Y-sơ-ra-ên. Rồi đây, trong ngày ấy, Ta sẽ bẻ gãy cung của Y-sơ-ra-ên tại thung lũng Gít-rê-ên.” Nàng lại thụ thai và sanh một bé gái. CHÚA bảo ông: “Con hãy đặt tên nó là Lô-ru-ha-ma, vì Ta sẽ không còn thương xót dân Y-sơ-ra-ên nữa; trái lại, Ta sẽ cất lòng thương xót Ta xa khỏi chúng. Nhưng Ta sẽ thương xót dân Giu-đa, và Ta sẽ giải cứu chúng, vì Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng. Ta sẽ không dùng cung hoặc gươm, tức là chiến tranh, ngựa chiến hoặc kỵ binh, mà giải cứu chúng.” Sau khi dứt sữa Lô-ru-ha-ma, Gô-me thụ thai, và sanh một bé trai. CHÚA bảo: “Con hãy đặt tên nó là Lô-Am-mi, vì dân tộc các con không còn là dân Ta nữa, và Ta không còn là CHÚA của các con nữa.” Tuy nhiên, sẽ có ngày dân số Y-sơ-ra-ên đông đảo như cát bờ biển, không thể lường, cũng không thể đếm được. Đến lúc ấy, thay vì bảo chúng: “Các con không còn là dân Ta nữa,” Ta sẽ gọi chúng là “con cái của Đức Chúa Trời hằng sống.” Dân Giu-đa và dân Y-sơ-ra-ên sẽ tụ họp lại, cùng nhau chọn chung một vị lãnh tụ, và chiếm lại đất nước, vì đó sẽ là một ngày trọng đại tại thung lũng Gít-rê-ên. “Hãy gọi anh em các con là ‘Dân Ta,’ và chị em các con là ‘Được thương xót.’ Hãy buộc tội mẹ các con, hãy buộc tội nàng,Vì nàng không còn là vợ Ta nữa,Và Ta cũng chẳng còn là chồng nàng.Hãy bảo nàng lột bỏ các dấu hiệu gian dâm khỏi mặt nàng,Và các dấu hiệu ngoại tình khỏi ngực nàng. Kẻo Ta lột trần nàngNhư trong ngày nàng mới sanh ra,Kẻo Ta khiến nàng giống như đồng hoang,Như đất khô cạn,Mặc cho nàng chết khát. Ta sẽ không thương xót con cái nàng,Vì chúng là con cái gian dâm. Thật vậy, mẹ chúng phạm tội gian dâm;Người cưu mang chúng đã làm điều nhục nhã,Vì nàng nói:‘Tôi sẽ đi theo các tình nhân của tôi;Họ cho tôi thức ăn và nước uống,Len và vải,Dầu và rượu.’ Vì thế, này, Ta sẽ dùng gai gốcRào lối đi nàng lại;Và Ta sẽ chất đá đắp tường chung quanhĐể nàng không thể tìm được lối ra. Nàng sẽ chạy theo các tình nhân mình, nhưng không đuổi kịp,Nàng sẽ tìm kiếm họ, nhưng không gặp được.Bấy giờ, nàng tự nhủ:Tôi sẽ trở về với người chồng trước của tôi,Vì lúc đó tôi sung sướng hơn bây giờ. Thật nàng đã không ý thức rằng chính Ta đã ban cho nàngThóc, rượu mới, và dầu ô-liu;Chính Ta đã cho nàng bạc vàng vô số,Nhưng nàng lại đem cúng cho Ba-anh. Vì thế, Ta sẽ lấy lại thóc của Ta trong mùa gặt,Rượu mới của Ta trong mùa hái nho;Ta sẽ rút về len và vải của Ta,Dùng để che kín sự trần truồng nàng. Này, Ta sẽ phơi trần sự nhơ nhuốc nàng raTrước mắt các tình nhân nàng,Và không ai có thể cứu nàng ra khỏi tay Ta. Ta sẽ chấm dứt mọi dịp vui mừng,Những ngày hội, ngày trăng mới, và ngày sa-bát,Tất cả những ngày lễ lạc. Ta sẽ hủy hoại cây nho và cây vả của nàng;Nàng nói về các cây ấy:‘Đây là tiền côngCác tình nhân tôi cho tôi.’Ta sẽ khiến cây nho và cây vả mọc hoang thành rừng rậm,Và thú rừng sẽ ăn nuốt chúng. Ta sẽ trừng phạt nàngVì nàng thắp hương cho Ba-anhTrong những ngày lễ lạc,Nàng đeo hoa tai, vòng vàng,Chạy theo các tình nhân mình,Nhưng Ta, nàng lại quên hẳn.”Đây là lời CHÚA phán. “Vì thế, này, Ta sẽ dỗ dành nàng,Đưa nàng ra sa mạc,Nói ngọt ngào với nàng. Từ đó, Ta sẽ ban lại cho nàng các vườn nho của nàng,Và biến trũng A-cô thành Cửa Hy Vọng.Tại đó, nàng sẽ đáp lại tình yêu của Ta,Như trong thời thanh xuân,Như khi nàng vừa ra khỏi Ai-cập.” CHÚA phán:“Ngày ấy, con sẽ gọi Ta là: ‘Chồng tôi,’Và không gọi Ta là: ‘Ba-anh của tôi,’ nữa. Ta sẽ trừ bỏ tên của các thần tượng Ba-anh khỏi miệng nàng,Tên chúng nó sẽ không được nhắc đến nữa. Ngày ấy, Ta sẽ lập giao ước giữa các conVới thú rừng, chim trời,Và các loài bò sát trên đất;Ta sẽ hủy diệt cung, gươm, và chiến tranhKhỏi mặt đất.Ta sẽ cho các con nằm nghỉ yên ổn. Ta sẽ cưới con cho Ta đời đời,Ta sẽ cưới con cho Ta, và trả giá cô dâu bằng sự công bình, chính trực,Lòng nhân từ, và thương xót, Ta sẽ cưới con cho Ta, và trả giá cô dâu bằng sự thành tín.Bấy giờ, con sẽ biết CHÚA.” CHÚA phán:“Ngày ấy, Ta sẽ đáp lời cầu xin,Ta sẽ đáp lời cầu xin của bầu trời,Và bầu trời sẽ đáp lời cầu xin của đất; Đất sẽ đáp lại lúa thóc,Rượu mới, và dầu ô-liu;Lúa thóc, rượu mới, và dầu ô-liu sẽ đáp lời cầu xin của Gít-rê-ên. Ta sẽ gieo con cái cho Ta trong đất,Và Ta sẽ thương xót Lô-ru-ha-ma,Ta sẽ bảo Lô-Am-mi: ‘Con là dân Ta,’Và nó sẽ đáp: ‘Ngài là Đức Chúa Trời con.’” CHÚA bảo tôi: “Con hãy bày tỏ tình yêu một lần nữa đối với một người vợ có tình nhân, một người vợ ngoại tình, như CHÚA yêu dân Y-sơ-ra-ên, mặc dù chúng hướng về các thần khác và thích ăn bánh nho khô.” Vậy tôi chuộc nàng về với giá mười lăm miếng bạc và một hô-me rưỡi lúa mạch. Tôi bảo nàng: “Em thuộc về anh, em hãy giữ mình trong một thời gian dài, đừng hành nghề mãi dâm, đừng ngủ với một người đàn ông nào khác. Chính anh cũng sẽ không ngủ với em.” Vì trong nhiều ngày người Y-sơ-ra-ên không dâng của lễ, không trụ thờ, không ê-phót, cũng không Thê-ra-phim. Sau đó, dân Y-sơ-ra-ên sẽ quay về tìm kiếm CHÚA, Đức Chúa Trời mình, và Đa-vít, vua mình. Trong những ngày cuối cùng, họ sẽ kính sợ CHÚA, là Đấng ban phước lành cho họ. Hỡi dân Y-sơ-ra-ên, hãy lắng nghe lời CHÚA,Vì CHÚA buộc tội dân cư trên đất này,Vì trong cả nước, không ai đáng tin cậy,Không ai có tình yêu chân thật,Không ai hiểu biết Đức Chúa Trời. Nguyền rủa, dối gạt, giết người,Trộm cắp và ngoại tình,Nổ bùng khắp nơi;Các vụ đổ máu xảy ra liên tục. Vì thế, đất đai khô hạn,Mọi người sống trong nước đều cằn cỗi;Thú rừng và chim trời cũng vậy;Ngay cả cá biển cũng chết luôn. Thật vậy, đừng ai buộc tội,Đừng ai trách mắng.Nhưng Ta buộc tội ngươi,Hỡi thầy tế lễ! Ngươi sẽ vấp ngã giữa ban ngày, ban đêm,Vị tiên tri cũng sẽ vấp ngã với ngươi.Và Ta sẽ hủy diệt mẹ ngươi. Dân Ta bị hủy diệt vì thiếu hiểu biết.Vì ngươi từ chối, không chịu hiểu biết Ta,Nên Ta cũng chối bỏ, không nhận ngươi làm thầy tế lễ cho Ta.Vì ngươi quên Kinh Luật của Đức Chúa Trời ngươi,Nên Ta cũng sẽ quên các con ngươi. Các thầy tế lễ càng đông,Càng phạm tội thêm nhiều.Chúng đổi vinh quang ra ô nhục. Chúng sống nhờ tội lỗi dân Ta,Chúng khao khát cho dân Ta phạm tội. Rồi đây, dân chúng thế nào, thầy tế lễ cũng thể ấy.Ta sẽ phạt các thầy tế lễ vì lối sống của chúng,Ta sẽ báo trả việc chúng làm. Chúng sẽ ăn, nhưng không no,Chúng hành động dâm ô, nhưng không sinh sản,Vì chúng đã lìa bỏ CHÚA,Để tuân theo các lề thói dâm đảng. Rượu và rượu mới đã làm mờ tâm trí dân Ta. Chúng cầu hỏi khúc gỗ,Cây gậy chúng phán dạy chúng!Vì tinh thần dâm ô đã làm chúng lầm lạc,Chúng sống dâm loạn, bội nghịch Đức Chúa Trời mình. Chúng dâng sinh tế trên đỉnh núi, thiêu của lễ trên ngọn đồi,Dưới bóng rậm cây sồi, cây dương, và cây sến.Vì thế, con gái các ngươi làm điếm,Dâu các ngươi ngoại tình. Nhưng Ta không phạt con gái các ngươiVì chúng làm điếm,Cũng không phạt dâu các ngươiVì chúng ngoại tình,Vì chính đàn ông các ngươi đi lại với gái điếm,Dâng sinh tế với bọn mãi dâm.Dân tộc nào thiếu hiểu biết sẽ suy sụp. Hỡi Y-sơ-ra-ên, dù ngươi sống dâm loạn,Đừng để Giu-đa phạm tội.Đừng đến Ghinh-ganh,Đừng lên Bết A-ven,Cũng đừng lấy danh “CHÚA hằng sống” mà thề thốt. Thật dân Y-sơ-ra-ên ngoan cốNhư bò cái tơ!Bây giờ, lẽ nào CHÚA lại dẫn chúngVào đồng cỏ mênh mông như Ngài dẫn chiên sao? Ép-ra-im gắn bó với hình tượng,Hãy để mặc nó. Chúng chè chén say sưa,Rồi đi lại với gái điếm.Chúng ưa thích sỉ nhục hơn vinh quang. Một cơn gió lốc quấn lấy chúng, cuốn đi xa.Chúng sẽ xấu hổ vì của lễ cúng thần tượng của mình. Các thầy tế lễ, hãy nghe đây!Các nhà lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên, hãy lưu ý!Cả hoàng tộc, hãy lắng tai!Các ngươi có trách nhiệm ban hành sự chính trực,Nhưng các ngươi lại là cái bẫy tại Mích-ba,Là lưới giăng trên núi Tha-bô, Là hố sâu tại Si-tim.Vậy Ta sẽ trừng trị tất cả các ngươi. Ta, chính Ta, biết rõ Ép-ra-im,Y-sơ-ra-ên không che giấu khỏi Ta được.Ép-ra-im, vì bây giờ ngươi sống dâm loạn,Cho nên Y-sơ-ra-ên bị ô uế. Việc làm của chúng ngăn trở chúngQuay về với Đức Chúa Trời mình.Chúng không nhận biết CHÚAVì tinh thần gian dâm ở trong chúng. Sự kiêu ngạo của Y-sơ-ra-ên đã tố cáo nó,Ép-ra-im sẽ vấp ngã trong tội ác mình,Giu-đa cũng sẽ vấp ngã theo. Chúng sẽ đem chiên và bòĐi tìm kiếm CHÚA,Nhưng chúng sẽ không tìm được,Vì Ngài đã tránh mặt chúng. Chúng đã phản bội CHÚA,Vì chúng đã sanh ra con hoang.Vậy bây giờ, ngày Trăng Mới sẽ ăn nuốt chúngVà đất đai vườn tược chúng. Hãy thổi tù và ở Ghi-bê-a,Hãy thổi còi ở Ra-ma,Hãy lớn tiếng báo động ở Bết A-ven,Bên-gia-min, hãy coi chừng! Ép-ra-im sẽ điêu tànTrong ngày sửa phạt;Ta đã thông báo cho các chi tộc Y-sơ-ra-ênBiết điều chắc chắn sẽ xảy ra. Các nhà lãnh đạo dân Giu-đa giống nhưBọn dời mộc giới,Ta sẽ trút cơn phẫn nộ Ta xuống trên chúngNhư thác đổ. Ép-ra-im bị áp bức,Quyền lợi nó bị chà đạp,Vì nó đã quyết lòng chạy theo điều vô nghĩa. Nhưng Ta, Ta giống như là chất mủ đối với Ép-ra-im.Chất làm cho mục nát đối với dân Giu-đa. Khi Ép-ra-im thấy mình mắc bệnh,Và Giu-đa thấy vết thương mình cương mủ,Ép-ra-im liền phái người qua A-si-ri,Cầu cứu với vua vĩ đại.Nhưng vua ấy không thể chữa lành bệnh các ngươi,Cũng không thể rịt lành thương tích các ngươi. Vì chính Ta sẽ giống như sư tử đối với Ép-ra-im,Như sư tử tơ đối với dân Giu-đa.Phải, chính Ta sẽ xé nát và bỏ đi,Ta sẽ tha mồi đi, và không ai tiếp cứu được. Ta sẽ đi về nơi Ta ngự,Cho đến khi nào chúng gánh hết hậu quả tội lỗi mình,Và tìm kiếm Ta.Trong cơn hoạn nạn, chúng sẽ tìm kiếm Ta tha thiết. Nào, chúng ta hãy quay về với CHÚA,Vì dù Ngài đã xé nát chúng ta,Nhưng Ngài sẽ chữa lành,Dù Ngài đã đánh chúng ta,Nhưng Ngài sẽ băng bó lại. Sau hai ngày, Ngài sẽ chữa lành chúng ta,Đến ngày thứ ba, Ngài sẽ nâng chúng ta dậy,Cho chúng ta sống trước mặt Ngài. Chúng ta hãy tìm biết,Hãy gắng sức tìm biết CHÚA.Ngài sẽ ra khỏi nơi ngự Ngài, và đến với chúng ta,Chắc chắn như hừng đông đến,Như mưa đầu mùa thu, như mưa cuối mùa xuân,Tưới nhuần đất đai. Hỡi Ép-ra-im, Ta phải làm gì với con đây?Hỡi Giu-đa, Ta phải làm gì với con đây?Tình yêu của các con đối với Ta khác nào sương mù buổi sáng,Khác nào sương móc chóng tan. Vì thế, Ta đã chặt các con ra từng khúc qua lời các tiên tri,Ta đã giết các con qua lời từ miệng Ta;Sự xét đoán của Ta chiếu rạng như ánh sáng. Vì Ta vui nhận tình yêu chân thành chứ không phải sinh tế,Và sự hiểu biết Đức Chúa Trời thay vì tế lễ toàn thiêu. Nhưng chúng nó vi phạm giao ước Ta tại A-đam,Chúng phản bội Ta tại đó. Ga-la-át là thành phố của những người phạm tội ác,Vết chân họ đầy máu. Bọn thầy tế lễ mai phục giống nhưBăng trộm cướp,Chúng giết người trên đường đến Si-chem!Thật chúng phạm tội ác ô nhục! Ta đã thấy một việc ghê rợnGiữa dân Y-sơ-ra-ên:Ép-ra-im gian dâm tại đó,Y-sơ-ra-ên bị ô uế. Về phần con, hỡi Giu-đa,Ta cũng đã định cho con một mùa gặt. Khi Ta phục hồi cơ nghiệp dân Ta,Khi Ta chữa lành Y-sơ-ra-ên,Thì tội ác của Ép-ra-im,Và việc ác của Sa-ma-ri lại lộ ra tỏ tường.Vì chúng cư xử gian dối,Kẻ trộm lẻn vào trong nhà,Bọn cướp hoành hành ngoài đường. Chúng không hề nghĩ rằngTa nhớ tất cả mọi tội ác của chúng.Bây giờ việc ác chúng làm vây chặt lấy chúng,Rành rành trước mặt Ta. Chúng dùng tội ác làm cho vua vui thích,Nói lời giả dối cho các quan chức thỏa dạ. Tất cả đều phạm tội tà dâm,Chúng khác nào lò nướng bánh đốt nóng;Người thợ nướng bánh ngừng khơi lửaTừ khi nhồi bột cho đến khi bột dậy men. Ngày vua lên ngôi,Các quan chức say rượu nồng đến phát bệnh.Vua bắt tay với bọn hay nhạo báng. Chúng đem lòng bầy mưu tính kế,Như lò nướng bánh cháy âm ỉ suốt đêm,Trong khi người thợ nướng bánh ngủ,Nhưng đến sáng lại bốc cháy phừng phừng. Tất cả chúng đều cháy nóng như lò nướng bánh,Chúng ăn nuốt các thẩm phán mình.Các vua chúng đều bị lật đổ,Nhưng không một ai cầu cứu với Ta. Ép-ra-im sống hòa mình với các dân tộc khác,Ép-ra-im là ổ bánh chưa trở, mới nướng một bên thôi. Các nước ngoài ăn nuốt sức mạnh nó,Mà nó không biết,Ngay cả tóc nó cũng điểm bạc,Mà nó chẳng hay. Sự kiêu ngạo của Y-sơ-ra-ên đã tố cáo nó.Dù gặp mọi cảnh đó,Chúng vẫn chưa quay về với CHÚA, Đức Chúa Trời mình,Chúng vẫn chưa tìm kiếm Ngài. Ép-ra-im giống như chim bồ câuKhờ dại, thiếu trí khôn.Chúng cầu cứu với Ai-cập,Chúng chạy qua A-si-ri. Đang khi chúng chạy đi cầu cứu, Ta sẽ giăng lưới bắt chúng,Ta sẽ hạ chúng xuống như chim trời,Ta sẽ trừng phạt chúngTheo như lời thông báo giữa hội chúng. Khốn thay cho chúng,Vì chúng trốn tránh Ta!Chúng sẽ bị hủy diệt,Vì chúng phạm tội phản nghịch Ta!Về phần Ta, Ta muốn giải cứu chúng,Nhưng chúng lại nói dối chống lại Ta. Chúng không hết lòng kêu cầu Ta,Nhưng chúng lại rú lên vì đau đớn trên giường mình.Chúng tự cắt rạch mình để xin lúa thóc và rượu mới,Chúng đã xây khỏi Ta. Chính Ta đã rèn luyện và làm cho tay chúng cứng cáp,Nhưng chúng lại bầy mưu ác nghịch lại Ta. Chúng hướng về những điều vô ích,Chúng giống như cây cung lỏng lẻo.Các quan chức của chúng sẽ ngã vì gươm dao,Vì lưỡi chúng nói lời ngạo mạn.Như vậy, chúng sẽ làm trò cườiTrên đất Ai-cập. Hãy đưa tù và lên miệng!Kẻ thù như chim đại bàng đáp xuống nhà CHÚA!Vì chúng nó bội giao ước Ta,Và phạm Kinh Luật Ta. Chúng kêu cầu Ta:Lạy Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên,Chúng con nhận biết Ngài! Y-sơ-ra-ên đã từ bỏ Đấng Toàn Thiện,Kẻ thù sẽ đuổi theo nó. Chúng tôn người làm vua, nhưng không hỏi ý Ta,Chúng lập người làm quan, nhưng không cho Ta biết.Chúng dùng bạc vàngĐúc thần tượng,Để rồi thần tượng sẽ bị hủy diệt. Hỡi Sa-ma-ri, bò con ngươi đã bị vứt bỏ rồi!Cơn phẫn nộ Ta cháy phừng nghịch lại chúng nó.Chúng nó phải chịu tội cho đến bao giờ? Vì bò con này là từ Y-sơ-ra-ên mà ra.Một người thợ thủ công đã đẽo gọt nó;Nó không phải là Đức Chúa Trời.Thật, bò con của Sa-ma-riSẽ bị đập nát ra từng mảnh. Chúng gieo gió,Chúng sẽ gặt bão.Cây lúa không nẩy hạt,Không thể nào chế ra bột được.Nếu có chăng,Dân xa lạ sẽ ăn nuốt hết. Y-sơ-ra-ên bị ăn nuốt.Bây giờ, chúng ở giữa các dân tộc khác,Giống như một vật vô dụng. Vì chúng đã chạy sang A-si-ri;Ép-ra-im giống như con lừa rừng cô độc,Mua chuộc tình nhân. Dù chúng có mua chuộc được các dân khác,Ngay bây giờ, Ta sẽ thâu góp chúng lại,Để rồi, chẳng còn bao lâu nữa, chúng sẽ oằn oạiDưới gánh nặng của vua và các nhà lãnh đạo. Khi Ép-ra-im lập nhiều bàn thờ để dâng tế lễ chuộc tội,Chính các bàn thờ đó gây cho nó phạm tội. Dù Ta có viết Kinh Luật Ta cho nó đến vạn lần,Kinh Luật Ta vẫn xa lạ đối với nó. Dù chúng dâng sinh tế như món quà yêu thương,Dù chúng ăn thịt sinh tế,CHÚA vẫn không chấp nhận chúng.Bây giờ, Ngài nhớ lại tội ác chúng,Ngài sẽ trừng phạt tội lỗi chúng.Chúng sẽ trở về Ai-cập. Y-sơ-ra-ên đã quên Đấng Tạo Hóa mình,Lo xây dựng đền đài.Giu-đa cũng xây thêm nhiều thành kiên cố.Nhưng Ta sẽ sai lửa đốt cháy thành,Và lửa sẽ thiêu nuốt các đền đài. Hỡi Y-sơ-ra-ên, đừng vui mừng nhộn nhịpNhư các dân tộc khác!Vì ngươi đã gian dâm, lìa bỏ Đức Chúa Trời mình.Ngươi ưa thích tiền công của gái mãi dâmTrên tất cả các sân đạp lúa. Sân đạp lúa và bồn ép rượu sẽ không nuôi được chúng,Rượu mới sẽ làm cho chúng thất vọng. Chúng sẽ không được ở trong đất của CHÚA;Ép-ra-im sẽ trở về Ai-cập,Và chúng sẽ ăn thức ăn ô uế tại A-si-ri. Chúng sẽ không dâng rượu lễ cho CHÚA,Cũng không dâng sinh tế đẹp lòng Ngài.Thức ăn của chúng sẽ như thức ăn nhà có tang,Ai ăn sẽ bị ô uế.Vì thức ăn của chúng chỉ thỏa mãn nhu cầu riêng,Không được đem vào nhà CHÚA. Anh chị em sẽ làm gì trong ngày đại hội,Ngày lễ trọng thể của CHÚA? Ngay cả khi chúng thoát khỏi cảnh tàn phá,Ai-cập sẽ gom góp chúng lại,Mem-phít sẽ chôn thây chúng.Cỏ dại sẽ chiếm đoạt các bảo vật bằng bạc,Gai gốc sẽ mọc lấn vào các lều trại của chúng. Ngày trừng phạt đã đến,Ngày báo trả đã tới!Y-sơ-ra-ên sẽ biết rõ điều ấy.Ngươi bảo: “Tiên tri là người khờ dại,Người có thần linh thật ngông cuồng!”Vì tội ác ngươi nhiều,Nên lòng thù ghét của ngươi lớn lắm. Tiên tri là người canh gác Ép-ra-imCùng với Đức Chúa Trời mình.Thế mà mọi lối đi của tiên tri đều bị gài bẫy như bẫy chim,Và lòng ganh ghét đầy dẫy nhà của Đức Chúa Trời. Chúng nó chìm sâu trong cuộc sống đồi bạiNhư dân Ghi-bê-a thuở trước.Chúa sẽ nhớ lại sự gian ác chúng,Ngài sẽ trừng phạt tội lỗi chúng. Ta bắt gặp Y-sơ-ra-ênNhư gặp chùm nho trong sa mạc,Ta chú ý thấy tổ phụ các ngươiNhư trái vả chín đầu mùa,Nhưng chúng lại đến Ba-anh Phê-ô,Hiến thân cho vật ô nhục,Và trở nên gớm ghiếc như thần tượng chúng yêu. Vinh quang Ép-ra-im như chim bay đi xa:Chúng nó không còn sinh đẻ, mang thai, hoặc thụ thai nữa. Dù chúng có nuôi được con cái,Ta cũng sẽ làm cho chúng chịu tang con cái mình,Cho đến khi không còn một đứa nào.Thật khốn thay cho chúng,Khi Ta lìa bỏ chúng! Ta nhìn thấy Ép-ra-im, giống như thành Ty-rơ,Trồng nơi vững chắc.Nhưng Ép-ra-im phải đem con cái mìnhNộp cho kẻ tàn sát. Lạy CHÚA, xin ban cho chúng,Ngài sẽ ban cho chúng điều gì?Xin Ngài làm cho các phụ nữ đều bị sẩy thai,Và vú họ teo lại. Tất cả tội ác chúng tập trung tại Ghinh-ganh;Ta bắt đầu ghét chúng tại đó.Vì những việc gian ác chúng làm,Ta sẽ đuổi chúng ra khỏi nhà Ta.Ta không còn yêu thương chúng nữa;Tất cả các nhà lãnh đạo của chúng đều phản loạn. Ép-ra-im bị sâu cắn phá,Rễ chúng khô héo,Chúng không còn sinh trái được nữa.Dù chúng có sinh con cái,Ta cũng sẽ giết con cái chúng yêu quý. Đức Chúa Trời tôi sẽ từ bỏ chúngVì chúng không vâng lời Ngài.Chúng sẽ lưu lạc giữa các nước ngoài. Y-sơ-ra-ên là một cây nho sum suê,Sinh trái tốt tươi.Trái càng sai,Nó càng lập nhiều bàn thờ.Đất nước càng hưng thịnh,Trụ thờ càng đẹp. Lòng chúng giả dối,Giờ đây chúng phải chịu trừng phạt.Chúa sẽ đập bể bàn thờ,Hủy phá trụ thờ của chúng. Bấy giờ, chúng sẽ nói:“Chúng ta không có vua,Vì chúng ta không kính sợ CHÚA.Nhưng vua làm được gì cho chúng ta?” Chúng nói chuyện tầm phào,Thề nguyện giả dốiKhi kết ước,Vì thế sự công bình biến thành cỏ độc,Mọc giữa luống cày trong đồng ruộng. Dân Sa-ma-ri sẽ lo sợCho bò con ở Bết A-ven;Dân chúng và các thầy cúng đã từng vui mừng vì bò con,Sẽ để tang khóc lóc vì sự vinh hiển đã rời khỏi bò con. Chính bò con cũng sẽ bị đem qua A-si-ri,Triều cống cho đại đế nước này.Ép-ra-im sẽ xấu hổ,Y-sơ-ra-ên sẽ nhục nhã vì thần tượng mình. Vua Sa-ma-ri sẽ tan biếnNhư bọt trên mặt nước. Các bàn thờ tại A-ven, là tội lỗi của Y-sơ-ra-ên,Sẽ bị phá hủy,Gai gốc và chà chuômSẽ mọc đầy các nơi ấy.Dân chúng sẽ kêu gọi núi đồi:“Hãy đổ xuống, che phủ chúng ta!” “Y-sơ-ra-ên, ngươi đã phạm tội từ những ngày ở Ghi-bê-a;Chúng vẫn còn đứng nguyên tại đó.Lẽ nào chúng không bị chiến tranh tàn pháNhư bọn hung ác tại Ghi-bê-a? Ta quyết định trừng trị chúng.Các dân khác sẽ tập hợp lạiĐánh và xiềng chúng nó vì tội chúng tăng gấp đôi. Ép-ra-im là bò cái tơ thuần thục,Thích đạp lúa.Nhưng Ta sẽ không ngó ngàngĐến cái cổ đẹp của nó.Ta sẽ tra ách vào cổ Ép-ra-im,Giu-đa phải cày,Gia-cốp phải tự bừa lấy. Hãy gieo sự công bình;Hãy gặt tình yêu thương;Hãy vỡ đất bỏ hoang;Vì đây là thì giờ tìm kiếm CHÚA,Cho đến khi Ngài ngự đếnVà đổ mưa cứu rỗi trên các ngươi. Các ngươi đã cày sự gian ác,Gặt sự bất công,Ăn trái dối gạt.Vì ngươi đã tin cậy vào đường lối của mình,Và quân số đông đảo, Cho nên dân chúng sẽ náo loạn vì chiến tranh,Mọi đồn lũy của ngươi sẽ bị hủy diệt,Như khi vua Sanh-man tàn phá Bết Ạt-bên,Trong cuộc chiến mà các bà mẹ lẫn con cái đều bị ném vào đá, chết nát thây. Bê-tên, điều này cũng sẽ xảy đến cho các ngươi,Vì tội ác các ngươi quá nặng.Vừa lúc hừng đông, vua Y-sơ-ra-ên sẽ bị diệt trừ. Khi Y-sơ-ra-ên còn thơ ấu, Ta yêu dấu nó;Ta gọi con trai Ta ra khỏi Ai-cập. Nhưng Ta càng kêu gọi,Chúng càng đi xa khỏi Ta.Chúng tiếp tục cúng tế các thần Ba-anh,Đốt hương cho các tượng chạm. Chính Ta đã dạy cho Ép-ra-im biết đi,Bồng bế nó trong tay Ta;Nhưng chúng không biết chính TaĐã chữa lành chúng. Ta đã dùng dây nhân từ,Sợi yêu thương mà kéo chúng đi;Đối với chúng, Ta giống như người tháo ách khỏi hàm chúng;Ta khom xuống cho chúng ăn. Chúng sẽ trở về Ai-cập,A-si-ri sẽ là vua chúng,Vì chúng không chịu quay về với Ta. Gươm sẽ chặt đứt các thành phố,Nuốt mất các then cổng,Ăn nuốt hết vì âm mưu thâm độc của chúng. Dân Ta nghiêng về phía phản bội Ta;Chúng kêu cầu Ba-anh,Nhưng nó không nâng chúng lên. Hỡi Ép-ra-im, làm sao Ta bỏ con được?Hỡi Y-sơ-ra-ên, làm sao Ta nộp mạng con được?Làm sao Ta hủy diệt con đượcNhư Ta đã hủy diệt Át-ma và Sê-bô-im?Tim Ta quặn thắt,Lòng thương xót của Ta bừng cháy nồng nàn. Ta sẽ không trừng phạt theo cơn phẫn nộ của Ta,Ta sẽ không hủy diệt Ép-ra-im nữa.Vì Ta là Đức Chúa Trời, không phải là người,Ta là Đấng Thánh ở giữa con,Ta sẽ không đến để thiêu nuốt. Chúng sẽ đi theo CHÚA,Ngài gầm thét như sư tử;Khi Ngài gầm thét,Con cái Ngài sẽ run rẩy quay về từ phương tây, Chúng sẽ run rẩy bay vềNhư chim từ Ai-cập,Như bồ câu từ đất A-si-ri;Và Ta sẽ cho chúng trở về nhà của chúng.”CHÚA phán vậy. “Ép-ra-im bao bọc Ta với lời dối trá,Dân Y-sơ-ra-ên vây quanh Ta với lời gạt gẫm;Nhưng Giu-đa vẫn còn đi với Đức Chúa Trời,Vẫn còn trung tín với Đấng Thánh. Ép-ra-im chăn gióVà đuổi theo gió đông suốt ngày;Cảnh lừa dối và bạo ngược ngày càng gia tăng;Chúng kết ước với A-si-ri,Mang dầu ô-liu triều cống Ai-cập. CHÚA kết án Giu-đa,Ngài sẽ trừng phạt Gia-cốp y theo lối sống nó,Ngài sẽ báo trả nó tùy theo việc nó làm. Trong bụng mẹ, nó tìm cách chiếm chỗ anh mình,Đến thời trai tráng, nó đấu tranh với Đức Chúa Trời. Nó vật lộn với thiên sứ và thắng cuộc,Nó khóc lóc và xin thiên sứ ban phước;Đức Chúa Trời gặp Gia-cốp tại Bê-tên,Và phán dạy nó tại đó. Ngài là CHÚA, Đức Chúa Trời Toàn Năng,Danh Ngài là CHÚA. Về phần các ngươi, hãy trở về với Đức Chúa Trời mình,Hãy yêu thương nhau cách chân thành,Hãy cư xử với nhau trong lẽ công bình,Hãy luôn luôn trông đợi Đức Chúa Trời mình. Một tay buôn bán dùng cân gian xảo,Thích bóc lột người khác. Ép-ra-im khoe khoang:‘A! Ta giàu có rồi! Ta tạo được tài sản cho mình!Trong mọi công lao khó nhọc của Ta,Chưa hề tìm thấy một vi phạm nào có thể gọi là tội ác.’ Nhưng Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của các ngươi,Ngay từ bên đất Ai-cập.Ta sẽ cho các ngươi trở về sống trong lều trại,Như trong các ngày lễ Lều Tạm. Ta đã phán dạy qua các tiên tri,Chính Ta đã ban cho thêm nhiều khải tượng,Và dùng ngụ ngôn dạy dỗ qua các tiên tri. Dân Ga-la-át đầy tội ác,Chắc chắn chúng sẽ thành số không;Dân Ghinh-ganh cúng tế bò đực,Ngay cả bàn thờ của chúng sẽ như đá chất thành đốngTrên luống cày nơi đồng ruộng. Thế rồi Gia-cốp trốn qua cánh đồng Sy-ri,Và Y-sơ-ra-ên làm thuê để cưới vợ,Chăn bầy gia súc mới được vợ. CHÚA dùng một nhà tiên tri đem Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập,Ngài cũng dùng tiên tri chăn giữ nó. Ép-ra-im đã phạm thượng nặng nề,Nên Chúa bắt nó chịu tội đổ máu,Ngài sẽ báo trả nó y theo tội phạm thượng của nó. Khi Ép-ra-im lên tiếng, mọi người đều run sợ;Nó được tôn cao trong nước Y-sơ-ra-ên;Nhưng nó phạm tội thờ Ba-anh, nên phải chết. Và bây giờ, chúng vẫn tiếp tục phạm tội,Chúng đúc tượng chạm cho mình,Chúng dùng bạc đúc tượng tùy theo tài khéo của mình,Tất cả chỉ là công việc của thợ thủ công.Chúng bảo nhau: ‘Hãy cúng tế cho các thần nầy.’Người mà đi hôn bò con! Vì thế, chúng sẽ như sương mù buổi sáng,Như sương móc chóng tan,Như trấu cuốn theo gió lốc khỏi sân đạp lúa,Như khói len qua cửa sổ mắt cáo. Nhưng Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của các ngươiNgay từ bên đất Ai-cập;Ngoài Ta, các ngươi không được thờ thần nào khác;Ta là Cứu Chúa duy nhất. Chính Ta đã chăm sóc các ngươi trong sa mạc,Trong vùng đất khô hạn. Ta cho chúng ăn no nê;Khi hả dạ rồi, chúng sinh kiêu căng;Do đó, chúng quên Ta. Vì thế, đối với chúng, Ta sẽ như sư tử,Như beo rình rập bên đường. Ta sẽ xông vào chúng như gấu cái bị mất con,Ta sẽ xé phanh lồng ngực chúng ra,Ta sẽ nuốt chúng tại chỗ như sư tử;Thú rừng sẽ xé xác chúng. Hỡi Y-sơ-ra-ên, Ta sẽ hủy diệt ngươi,Vì ngươi chống lại Ta, là Đấng cứu giúp ngươi! Vua các ngươi đâu rồi? Hãy để người cứu giúp các ngươi.Các nhà lãnh đạo trong khắp các thành của các ngươi đâu rồi?Các ngươi đã đòi cho được:‘Xin cho chúng tôi vua và các nhà lãnh đạo.’ Trong cơn phẫn nộ, Ta đã lập vua cho các ngươi,Và trong cơn phẫn nộ Ta lại phế người đi. Tội ác của Ép-ra-im đã quấn thành cuộn,Cất giữ trong kho. Mẹ nó chuyển bụng, lên cơn quặn thắt,Nhưng nó thiếu khôn ngoan,Vì nó không chịu trình diện đúng lúcNơi các em bé ra chào đời. Lẽ nào Ta giải cứu chúng khỏi quyền lực Âm Phủ?Lẽ nào Ta chuộc chúng khỏi sự chết?Hỡi sự chết, tai họa ngươi đâu rồi?Hỡi Âm Phủ, sự tàn phá của ngươi đâu rồi?Lòng thương xót đã giấu kín khỏi mắt Ta. Dù nó sinh sôi nẩy nở giữa các anh em mình,Ngọn gió đông sẽ thổi đến,Gió từ CHÚA, thổi lên từ sa mạc,Suối nó sẽ khô,Mạch nước nó sẽ cạn;Gió sẽ cướp đi kho tàng,Mọi bảo vật nó ưa thích. Sa-ma-ri phải chịu tội,Vì đã phản nghịch Đức Chúa Trời;Chúng sẽ ngã dưới lưỡi gươm,Con trẻ sẽ bị quăng vào đá, nát thây,Đàn bà thai nghén sẽ bị mổ bụng. Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy quay về với CHÚA,Đức Chúa Trời của ngươi,Vì ngươi phạm tội nên vấp ngã. Hãy mang theo lời nói,Hãy quay về với CHÚA,Hãy thưa với Ngài:‘Xin Chúa tha thứ mọi tội ác chúng con,Xin Chúa nhận điều gì đẹp lòng Ngài,Để chúng con dâng lên Chúa bông trái của môi miệng chúng con. A-si-ri không thể cứu chúng con,Chúng con sẽ không cưỡi ngựa chiến nữa;Chúng con không còn gọi các tượngDo tay chúng con làm là thần của chúng con nữa;Vì trong Chúa, kẻ mồ côi được thương xót.’ Ta sẽ chữa lành bệnh phản bội của chúng;Tình yêu của Ta chúng không sao đền đáp nổi,Vì cơn phẫn nộ Ta đã xây khỏi chúng. Ta sẽ như sương móc đối với Y-sơ-ra-ên;Nó sẽ trổ hoa như cây huệ,Và đâm rễ như rừng Li-ban. Các chồi nó sẽ vươn ra xa;Nó sẽ tốt tươi như cây ô-liu,Và thơm ngát như rừng Li-ban. Chúng sẽ trở về sống dưới bóng cây,Và trồng lúa được mùa;Chúng sẽ trổ hoa như cây nho,Tiếng tăm vang ra như rượu Li-ban. Hỡi Ép-ra-im, Ta có liên hệ gì với thần tượng?Chính Ta đáp ứng nhu cầu và chăm sóc con.Ta giống như cây bách xanh tươi,Nhờ Ta mà con sinh trái.” Ai là người khôn ngoan, hãy tìm hiểu,Ai là người sáng suốt, hãy ghi nhận những điều này;Vì đường lối của CHÚA ngay thẳng,Người công chính bước đi trên đường ấy,Nhưng người phạm tội sẽ vấp ngã. Lời CHÚA phán với Giô-ên, con Phê-thu-ên. Hỡi các bậc lão thành, xin nghe đây,Toàn dân trong xứ, xin lắng nghe!Tai họa dường này có bao giờ xảy ra trong thời các ông bà,Hoặc trong thời tổ tiên các ông bà chưa? Các ông bà hãy kể lại cho con cái mình nghe,Rồi chúng nó sẽ kể lại cho con cái chúng,Rồi con cái chúng sẽ kể lại cho dòng dõi tiếp theo. Vật gì cào cào ăn còn thừa lại,Châu chấu ăn,Châu chấu ăn bỏ lại,Hoàng trùng ăn,Hoàng trùng ăn bỏ lại,Thạch sành ăn. Hỡi những người say men rượu, hãy tỉnh dậy và khóc lóc!Hỡi tất cả những người dùng rượu, hãy kêu than,Vì nguồn rượu mới đã bị cắt đứt rồi! Vì một dân hùng mạnh, đông vô số,Đã xâm chiếm nước Ta.Răng chúng là răng sư tử,Nanh chúng là nanh sư tử cái. Vườn nho Ta, chúng phá tan hoang,Cây vả Ta, chúng cắn tan nát.Chúng tước sạch vỏ,Quăng đi,Để trơ các cành cây trắng phếch. Hãy than khóc như trinh nữ quấn vải sôThương tiếc người chồng sắp cưới tuổi thanh xuân! Ngũ cốc và rượu đã bị cắt đi,Không còn dâng trong nhà CHÚA nữa.Các thầy tế lễ u sầu tang tóc,Họ là những người phụng sự CHÚA. Ruộng đồng tan hoang,Đất đai than khóc,Vì lúa thóc điêu tàn,Rượu khô cạn,Dầu khan hiếm. Hỡi kẻ làm ruộng, hãy xấu hổ thẹn thùng!Hỡi kẻ trồng nho, hãy kêu than!Vì lúa mì, lúa mạch,Mùa màng ngoài đồng bị hư hại. Cây nho khô héo,Cây vả úa tàn,Ngay cả các cây lựu, chà là, và táo,Mọi cây cối ngoài đồng đều khô héo.Thật niềm vui của loài ngườiĐã cạn tắt. Hỡi các thầy tế lễ, hãy để tang, hãy đấm ngực than khóc!Hỡi những người phụng sự nơi bàn thờ, hãy kêu than!Hỡi những người phụng sự Đức Chúa Trời tôi,Hãy đến, quấn vải sô thức thâu đêm,Vì ngũ cốc và rượu bị giữ lại,Không đem dâng trong nhà Đức Chúa Trời các ông bà nữa! Hãy rao truyền sự kiêng ăn!Hãy loan báo buổi họp trọng thể!Hãy triệu tập các bậc lão thành,Và toàn dân trong xứ,Tại nhà CHÚA, Đức Chúa Trời của các ông bà!Hãy cầu khẩn CHÚA! Ôi, ngày ấy! Kinh khiếp thay!Vì ngày của CHÚA gần lắm rồi,Ngày ấy đến tựa cơn tàn phá từ Đấng Tàn Phá. Ngay trước mắt chúng ta,Có phải lương thực đã bị cắt đứtCùng với niềm vui mừng rộn rãKhỏi nhà của Đức Chúa Trời chúng ta sao? Hạt giống khô héoDưới các xẻng đất,Kho vựa điêu tàn,Lẫm thóc đổ nát,Vì lúa thóc cạn khô. Ôi, đàn vật rên xiết!Bầy bò khóc lóc,Vì thiếu cỏ ăn.Ngay cả đàn chiên cũng đói khổ. Lạy CHÚA, con van xin Ngài,Vì lửa thiêu nuốt bãi cỏ nơi đồng hoang,Ngọn lửa đốt cháy mọi cây cối ngoài đồng. Ngay cả thú rừng cũng kêu xin Ngài,Vì suối nước cạn khô,Và lửa thiêu nuốt bãi cỏ nơi đồng hoang. Hãy thổi tù và tại Si-ôn,Hãy vang tiếng báo động khắp núi thánh Ta!Toàn dân trong xứ sẽ run rẩy,Vì ngày của CHÚA đến gần,Thật, ngày ấy gần kề. Ngày tối tăm dày đặc,Ngày mây mù u ám.Một đội quân đông đúc hùng mạnhBủa giăng khắp núi đồi như bình minh.Một cảnh tượng như vậy xưa nay chưa hề có,Và muôn năm muôn đời về sau, cũng chẳng hề có nữa. Đi trước đội quân, có lửa thiêu nuốt,Theo sau đội quân, có ngọn lửa cháy phừng.Trước khi đội quân kéo đến, đất đai như vườn Ê-đen,Sau khi chúng đi qua, chỉ còn đồng hoang điêu tàn.Cũng chẳng còn ai sống sót. Chúng có hình dạng tựa như đàn ngựa,Chúng xông tới như ngựa chiến phi nước đại. Chúng nhảy trên các đỉnh núi,Như xe chiến mã kéo tới rầm rầm,Như lửa ngọn thiêu đốt rạ rào rào,Như đội quân hùng hậu, dàn trận sẵn sàng. Thấy đội quân, người người phát cơn đau quặn thắt,Mọi gương mặt đều thất sắc. Chúng chạy xông tới như binh sĩ,Chúng leo tường thành như chiến sĩ;Ai nấy tiến theo đường mình,Không lấn đường kẻ khác. Chúng không xô đẩy nhau,Ai nấy tiến theo đường mình;Chúng tụt xuống đường hầmMà không rã ngũ. Chúng nhảy ùa vào thành,Chạy trên tường,Leo vào nhà, ngang qua cửa sổ,Như tên trộm. Trước khi chúng đến, đất rúng động,Các tầng trời rung chuyển,Mặt trời, mặt trăng tối sầm lại,Các vì sao thâu ánh sáng về. Tiếng CHÚA vang dậyTrước mặt đội quân Ngài.Đội quân Ngài thật đông đảo lắm,Kẻ thi hành mạng lịnh Ngài thật hùng mạnh.Ngày của CHÚA thật vĩ đại,Đáng kinh sợ vô cùng.Nào ai chịu nổi? CHÚA phán:“Dù vậy, ngay giờ này,Các con hãy dốc lòng trở về cùng Ta,Hãy kiêng ăn, khóc lóc, và đấm ngực kêu van. Hãy xé luôn cả lòng các con,Đừng chỉ xé áo mà thôi.”Hãy trở về với CHÚA, Đức Chúa Trời của ông bà,Vì Ngài nhân từ, thương xót,Chậm giận, kiên định trong tình yêu thương,Và vui lòng đổi ý, không giáng tai họa. Biết đâu Ngài sẽ nghĩ lại và đổi ý,Để lại phúc lành theo sau Ngài:Lễ ngũ cốc và rượuĐể dâng lên CHÚA, Đức Chúa Trời của ông bà. Hãy thổi tù và tại Si-ôn,Hãy rao truyền sự kiêng ăn,Hãy loan báo buổi họp trọng thể! Hãy triệu tập dân chúng,Hãy rao truyền buổi họp thánh,Hãy tập họp các bậc lão thành,Hãy nhóm họp các trẻ em,Ngay cả trẻ thơ còn đang bú!Chú rể và cô dâuCũng hãy ra khỏi phòng riêng! Giữa cổng đền và bàn thờ, các thầy tế lễ, những người phụng sự CHÚA,Nên khóc lóc van xin:“Lạy CHÚA, xin thương xót dân Ngài,Xin đừng để gia sản Ngài bị sỉ nhục,Làm trò cười cho các dân các nước.Sao các dân nước ngoài dám hỏi nhau:‘Đức Chúa Trời chúng nó đâu rồi?’” Bấy giờ CHÚA tỏ lòng nhiệt thành đối với đất mình,Và thương xót dân mình. CHÚA đáp lời dân Ngài:Này, Ta ban cho các con lúa mì, rượu mới, và dầu;Các con sẽ no nê thỏa thích.Ta sẽ không bao giờ để các conPhải chịu sỉ nhục giữa các dân các nước nữa. Quân thù phương bắc, Ta sẽ đẩy xa khỏi các con,Đuổi chúng đến vùng đất khô cằn hoang vắng.Tiền quân của chúng sẽ sa xuống biển đông,Hậu quân của chúng sẽ sa xuống biển tây.Chúng sẽ xông lên mùi hôi thối,Bốc mùi tanh hôi,Vì chúng đã dám hành động ngạo mạn. Hỡi đất đai, đừng sợ!Hãy hân hoan vui mừng,Vì CHÚA đã làm những việc vĩ đại! Hỡi loài thú rừng, đừng sợ!Vì bãi cỏ nơi đồng hoang sẽ xanh mướt,Cây cối ra trái tốt tươi,Cây vả, cây nho, sum sê hoa quả. Hỡi con cái Si-ôn, hãy hân hoan vui mừngTrong CHÚA, Đức Chúa Trời của các ông bà!Vì Ngài ban mưa mùa thu cho các ông bàTheo sự thành tín của Ngài,Ngài cho mưa rào đổ xuống các ông bà,Mưa thu và mưa xuân, như ngày trước. Sân đạp lúa sẽ đầy ắp lúa mì,Bồn ép tràn đầy rượu và dầu. Ta sẽ đền bù cho các conNhững năm mà châu chấu, hoàng trùng,Thạch sành, và cào cào đã ăn sạch mùa màng.Đó là đội quân hùng hậuTa sai đến đánh phạt các con. Các con sẽ ăn uống no nê thỏa thích,Và sẽ ca ngợi danh CHÚA, Đức Chúa Trời của các con,Đấng đã làm những việc diệu kỳ giữa các con.Dân Ta sẽ không bao giờ bị sỉ nhục nữa. Bấy giờ các con sẽ nhận biết rằng chính Ta đang ngự trị giữa Y-sơ-ra-ên,Và chính Ta, CHÚA, là Đức Chúa Trời của các con.Không có thần nào khác,Và dân Ta sẽ không bao giờ bị sỉ nhục nữa. Sau đó, Ta sẽ đổ Thần Ta trên tất cả các con:Con trai và con gái các con sẽ nói tiên tri,Những người già sẽ được báo mộng,Các thanh niên sẽ thấy khải tượng. Trong những ngày ấy, Ta cũng sẽ đổ Thần TaTrên tôi trai tớ gái của các con. Ta cũng sẽ tỏ ra những điềm lạ trên trờiVà dưới đất:Máu, lửa, và luồng khói; Mặt trời sẽ trở nên tối tăm,Mặt trăng đỏ tựa máu,Trước khi ngày của CHÚA xuất hiện,Ngày vĩ đại kinh hoàng. Bấy giờ, mọi người cầu khẩnDanh CHÚA đều sẽ được cứu,Vì trên núi Si-ôn, và trong thành Giê-ru-sa-lem,Sẽ có những người được cứu thoát, như CHÚA đã hứa:Những người do CHÚA gọi sẽ được sống sót. Này, trong những ngày ấy, vào thời ấy,Khi Ta phục hồi xứ Giu-đa và thành Giê-ru-sa-lem, Ta sẽ tập họp mọi dân, mọi nước,Đưa chúng xuống thung lũng Giô-sa-phát,Và xét xử chúng tại đó,Vì chúng đã phân tán dân Ta và gia sản Ta, là Y-sơ-ra-ên,Giữa các nước, các dân,Và chia nhau đất đai của Ta. Chúng đem dân Ta ra bắt thăm,Đổi bé trai lấy gái mãi dâm,Bán bé gái lấy rượu,Và nốc cạn ly. Còn các ngươi, dân thành Ty-rơ và Si-đôn,Và dân trong khắp cả các vùng xứ Phi-li-tin,Các ngươi có quan hệ gì với Ta?Các ngươi định trả thù Ta sao?Nếu các ngươi định trả thù Ta,Ta sẽ nhanh chóng báo trả các ngươi,Ta sẽ trút tội ác các ngươi xuống đầu các ngươi: Vì các ngươi đã cướp vàng bạc của Ta,Đem bảo vật của Ta về chứa trong đền đài các ngươi, Và bán dân Giu-đa và dân thành Giê-ru-sa-lemCho dân Hy lạp đem đi xa khỏi quê cha đất tổ. Này, Ta sẽ khiến chúng nổi dậy khỏi địa phận,Khỏi nơi mà các ngươi đã bán chúng,Và Ta sẽ trút tội ác các ngươi xuống đầu các ngươi. Ta sẽ bán con trai con gái các ngươiVào tay dân Giu-đa,Dân Giu-đa sẽ bán chúng cho dân Sê-ba, cho một nước xa xôi,CHÚA phán vậy. Hãy loan báo tin này giữa các dân, các nước:Hãy chuẩn bị nghênh chiến!Hãy động viên các dũng sĩ,Toàn quân, hãy tiến tới, xông lên! Hãy đúc lưỡi cày thành gươm,Hãy rèn lưỡi liềm thành giáo!Kẻ yếu đuối hãy khoe:“Ta đây, trang dũng sĩ!” Mọi dân, mọi nước chung quanh, hãy mau đến,Hãy tập họp tại đấy!“Lạy CHÚA, xin sai các dũng sĩ Ngài xuống!” Các dân, các nước, hãy nổi dậy,Hãy tiến đến thung lũng Giô-sa-phát,Vì Ta sẽ ngự tại đấy để xét xửMọi dân, mọi nước chung quanh! Các con hãy vung lưỡi hái lên,Vì lúa đã chín.Hãy đến đạp nho,Vì bồn ép nho đã đầy;Bồn chứa đã trào ra,Vì tội ác chúng thật nhiều. Có tiếng ồn ào huyên náoTại thung lũng phán xét,Vì ngày của CHÚA gần lắm rồi,Tại thung lũng phán xét. Mặt trời, mặt trăng tối sầm lại,Các vì sao thâu ánh sáng về. Bấy giờ CHÚA gầm lên từ Si-ôn,Tiếng Ngài vang dội từ Giê-ru-sa-lem:Trời đất rung chuyển,Nhưng CHÚA là nơi ẩn náu cho dân Ngài,Là thành trì kiên cố cho dân Y-sơ-ra-ên. Bấy giờ các con sẽ nhận biết rằng chính Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của các con;Ta ngự tại Si-ôn, núi thánh Ta,Và Giê-ru-sa-lem sẽ là một thành thánh,Các dân nước ngoài sẽ chẳng được qua đó nữa. Ngày ấy, các núi sẽ tràn trề rượu mới,Các đồi sẽ tuôn sữa dầm dề.Nước chảy cuồn cuộn trong mọi khe suối nơi Giu-đa,Và một mạch nước phun ra từ nhà CHÚATưới nhuần trũng Sít-tim. Ai-cập sẽ thành hoang địa,Ê-đôm là đồng hoang cô liêu,Vì chúng đã đối xử bạo tàn với dân Giu-đa,Đổ máu vô tội trong xứ sở họ. Nhưng Giu-đa sẽ mãi mãi có người cư trú,Giê-ru-sa-lem cũng có người ở cho đến muôn đời. Ta sẽ báo thù máu vô tội của họCho đến bây giờ chưa được báo thù.Và CHÚA sẽ ngự tại Si-ôn. Đây là lời của tiên tri A-mốt. Ông vốn là một trong những chủ trại chăn nuôi bò và chiên ở làng Thê-qua. Hai năm trước cơn động đất, vào triều vua Ô-xia nước Giu-đa, đồng thời với triều vua Giê-rô-bô-am nước Y-sơ-ra-ên. Đức Chúa Trời tỏ cho ông thấy những điều này về nước Y-sơ-ra-ên. Ông tuyên bố:“CHÚA gầm lên từ núi Si-ôn,Từ thành Giê-ru-sa-lem Ngài gào thét.Bỗng chốc đồng cỏ những người chăn chiên khô héo,Rừng cây trên đỉnh núi Cạt-mên úa vàng.” Đây là lời CHÚA phán:“Vi phạm dân thành Đa-mách đã lên đến tột cùng,Ta chắc chắn sẽ trừng phạt chúng.Chúng nó giày đạp dân xứ Ga-la-át,Như người ta đạp lúa với bàn đạp có mấu sắt! Vì thế Ta sẽ giáng lửa xuống cung điện vua Ha-xa-ên,Và lửa sẽ thiêu nuốt các đền đài vua Bên-ha-đát. Ta sẽ đập tan then gài cổng thành Đa-mách,Ta sẽ diệt vua tại Thung Lũng A-ven.Ta sẽ diệt trừ vua ở thành Bết-ê-đen,Và Ta sẽ đầy dân Sy-ri trở về xứ Ki-rơ.”CHÚA phán vậy. Đây là lời CHÚA phán:“Vi phạm dân thành Ga-xa đã lên đến tột cùng,Ta chắc chắn sẽ trừng phạt chúng,Chúng nó bắt dân cư trọn cả vùngĐày qua bán cho dân Ê-đôm làm nô lệ. Vì thế Ta sẽ giáng lửa xuống tường thành Ga-xa,Và lửa sẽ thiêu nuốt các đền đài tại đó. Ta sẽ diệt trừ vua thành Ách-đốt,Ta sẽ diệt luôn vua thành Ách-ca-lôn,Ta sẽ dang tay ra trừng trị thành Éc-rôn,Dân Phi-li-tin còn sót lại cũng sẽ diệt vong,”CHÚA, phán vậy. Đây là lời CHÚA phán:“Vi phạm dân thành Ty-rơ đã lên đến tột cùng,Ta chắc chắn sẽ trừng phạt chúng.Chúng nó bán dân lưu đầy trọn cả vùng cho Ê-đôm,Chúng chẳng màng đến giao ước giữa anh em, Vì thế Ta sẽ giáng lửa xuống tường thành Ty-rơ,Và lửa sẽ thiêu nuốt các đền đài tại đó.” Đây là lời CHÚA phán:“Vi phạm dân Ê-đôm đã lên đến tột cùng,Ta chắc chắn sẽ trừng phạt chúng.Chúng nó dùng gươm săn đuổi anh em mình,Không chút xót thương.Chúng nổi giận cắn xé không thôi,Căm hờn mãi mãi. Vì thế Ta sẽ giáng lửa xuống thành Thê-man,Và lửa sẽ thiêu nuốt các đền đài thành Bốt-ra.” Đây là lời CHÚA phán:“Vi phạm dân Am-môn đã lên đến tột cùng,Ta chắc chắn sẽ trừng phạt chúng.Chúng nó mổ bụng đàn bà mang thai ở Ga-la-átĐể mở rộng bờ cõi. Vì thế Ta sẽ phóng hỏa đốt tường thành Ráp-ba,Và lửa sẽ thiêu nuốt các đền đài tại đó,Giữa tiếng hò hét trong ngày chiến trận,Giữa cơn gió lốc trong ngày bão táp. Vua chúng nó sẽ bị lưu đầyCùng với các quan chúng nó.”CHÚA phán vậy. Đây là lời CHÚA phán:“Vi phạm dân Mô-áp đã lên đến tột cùng,Ta chắc chắn sẽ trừng phạt chúng.Chúng nó đốt hài cốt vua Ê-đôm làm vôi. Vì thế Ta sẽ giáng lửa xuống lãnh thổ Mô-áp,Và lửa sẽ thiêu nuốt các đền đài thành Kê-ri-giốt.Dân Mô-áp sẽ chết giữa cơn náo loạn,Giữa tiếng hò hét, tiếng tù và vang rền. Ta sẽ diệt trừ vua khỏi vòng chúng nó,Ta sẽ giết luôn hết thảy các quan chúng nó,”CHÚA phán vậy. Đây là lời CHÚA phán:“Vi phạm dân Giu-đa đã lên đến tột cùng,Ta chắc chắn sẽ trừng phạt chúng.Chúng nó khinh bỏ Kinh Luật của CHÚA,Không vâng giữ mạng lệnh Ngài.Chúng nó lầm lạc theo các thần giả dốiMà tổ tiên chúng nó thờ lạy. Vì thế Ta sẽ giáng lửa xuống lãnh thổ Giu-đa,Và lửa sẽ thiêu nuốt các đền đài thành Giê-ru-sa-lem.” Đây là lời CHÚA phán:“Vi phạm dân Y-sơ-ra-ên đã lên đến tột cùng,Ta chắc chắn sẽ trừng phạt chúng.Chúng nó bán người chính trực vì bạc,Bán người khốn cùng vì một đôi dép. Chúng giẫm lên đầu người nghèoNhư giẫm lên bụi đất,Tước đoạt quyền lợi người nhu mì nghèo khó.Cha với con ăn nằm cùng một cô gái,Làm ô uế danh thánh Ta. Chúng nằm dài trên mỗi bàn thờ,Trên áo quần xiết nợ.Chúng uống rượu mua bằng tiền phạtNgay trong đền thờ của Đức Chúa Trời chúng nó. Thế mà chính Ta đã vì chúng nó tuyệt diệt dân A-mô-rít,Là một dân cao lớn như cây tùng,Vạm vỡ như cầy sồi,Nhưng Ta đã tuyệt diệt dân ấy,Cả ngọn lẫn gốc. Chính Ta đã đem các ngươi ra khỏi xứ Ai-cập,Dẫn dắt các ngươi suốt bốn mươi năm trong sa mạc,Đưa các ngươi vào chiếm đất A-mô-rít. Ta đã lập con cái các ngươi làm tiên tri,Thanh niên các ngươi làm người Na-xi-rê,Có phải vậy không, hỡi dân Y-sơ-ra-ên?”CHÚA phán hỏi. “Nhưng các ngươi bắt người Na-xi-rê uống rượu,Và ra lệnh cho các tiên tri;‘Đừng nói tiên tri nữa.’ Này Ta sẽ đè bẹp các ngươi tại chỗ.Như chiếc xe gỗ bị đè bẹp xuống, vì chất đầy lúa. Người nhanh nhẹn không trốn thoát được,Người mạnh sức không còn sức mạnh nữa,Người dũng cảm không cứu được mạng sống mình. Người bắn cung không chống cự nổi,Người nhanh chân không thoát khỏi,Người cưỡi ngựa không cứu được mạng sống mình. Trong ngày ấy, dũng sĩ can trường nhấtCũng quăng vũ khí bỏ chạy.”CHÚA phán vậy. “Hãy lắng nghe lời này: Hỡi dân Y-sơ-ra-ên, Lời CHÚA phán về các ngươi, về toàn dân mà Ngài đã đem ra khỏi xứ Ai-cập: Trong tất cả mọi dân trên đất,Ta chỉ biết mỗi các ngươi.Vậy Ta sẽ phạt ngươiVì tội lỗi ngươi.” Có hai người cùng đi với nhau,Mà lại không gặp nhau sao? Có sư tử nào gầm thét giữa rừng,Mà lại không gặp được mồi sao?Có sư tử nào gầm trong hang nóNếu nó không bắt được gì? Có chim nào sa vào bẫy trên đất,Mà lại không có mồi gài trong bẫy sao?Có bẫy nào bật lên khỏi đất,Mà lại không có chim mắc bẫy sao? Có khi nào tù và thổi lên trong thành,Mà dân chúng lại không kinh hoàng sao?Có khi nào tai họa giáng xuống thành,Mà CHÚA không gây ra sao? Thật vậy, CHÚA không hề làm điều chiMà lại không bày tỏ ý định NgàiCho các tiên tri là tôi tớ Ngài. Sư tử gầm thét,Có ai không hoảng sợ?CHÚA phán,Có ai không nói tiên tri? Hãy rao bảo khắp các đền đài thành Ách-đốt,Và khắp các đền đài xứ Ai-cập:“Hãy tập hợp lại trên các đồi núi bao quanh thành Sa-ma-ri,Hãy nhìn xem cảnh náo loạn xôn xao,Cảnh áp bức ngay giữa thành.” CHÚA phán:“Chúng không hề biết làm điều phải,Chúng chất chứa của cướp bạo tàn trong đền đài chúng nó.” Vì thế, CHÚA phán:“Kẻ thù sẽ bao vây đất nước các ngươi,Hạ các chiến lũy,Cướp phá đền đài.” Đây là lời CHÚA phán:“Như người chăn chiên chỉ giật được khỏi hàm sư tửHai xương ống chân, hoặc một phần lỗ tai.Dân Y-sơ-ra-ên cũng vậy,Những người sống tại kinh đô Sa-ma-riChỉ thoát được với một đầu giường.Hoặc một phần chân giường.” CHÚA, Đức Chúa Trời Toàn Năng phán:“Hãy lắng nghe,Hãy cảnh cáo con cháu nhà Gia-cốp. Trong ngày Ta trừng phạt dân Y-sơ-ra-ên, vì những vi phạm của chúng nó,Ta sẽ trừng phạt các bàn thờ tại Bê-tên:Các sừng nơi góc bàn thờ sẽ bị chặt gẫy,Và rơi xuống đất. Ta sẽ phá sập biệt thự mùa đôngCùng với biệt thự mùa hạ,Các biệt thự cẩn ngà sẽ đổ nát,Các biệt thự nguy nga sẽ tiêu tan.”CHÚA phán vậy. Hãy lắng nghe lời này, Hỡi các bò cái Ba-san trên đồi Sa-ma-ri!Các bà áp bức người nghèo, giầy xéo người khốn cùng,Các bà bảo chủ mình: “Hãy mang đến cho chúng tôi uống!” CHÚA lấy chính sự thánh khiết Ngài mà thề:“Này, trong những ngày đến,Người ta sẽ khiêng các ngươi ra trong giỏ,Trong nồi đựng cá,Khiêng cho đến người cuối cùng. Khiêng mỗi người xuyên thẳng quaLỗ trũng trên tường,Và ném ra xa về phía Hạt-môn,”CHÚA phán vậy. “Hãy đến Bê-tên mà phạm tội,Hãy xuống Ghinh-ganh mà phạm tội nhiều thêm.Hãy dâng sinh tế mỗi buổi sáng,Dâng phần mười cách mỗi ba ngày. Hãy đốt bánh có men dâng lễ cảm tạ,Hãy rao to, hãy công bố các lễ vật tự nguyện.Vì, hỡi dân Y-sơ-ra-ên,Các ngươi vẫn ưa thích làm như vậy.”CHÚA phán vậy. “Về phần Ta, chính Ta đã giáng nạn đóiXuống khắp các thành của các ngươi,Cho các ngươi thiếu bánh khắp nơi các ngươi ở;Dù vậy, các ngươi vẫn không quay về với Ta.”CHÚA phán vậy. “Chính Ta đã giữ mưa lại, không cho mưa xuống,Trong khi còn ba tháng mới đến mùa gặt,Và Ta đã cho mưa xuống thành này,Nhưng không mưa xuống thành kia,Ruộng này được mưa,Còn ruộng kia không mưa lại khô héo. Dân chúng từ hai ba thành đi lảo đảo đến thành kia tìm nước uống,Nhưng không đã khát;Dù vậy, các ngươi vẫn không quay về với Ta,”CHÚA phán vậy. “Ta khiến gió nóng và sâu bọPhá hại mùa màng các ngươi,Châu chấu thường xuyên ăn sạchVườn ăn trái, vườn nho,Cây vả, và cây ô-liu của các ngươi;Dù vậy, các ngươi vẫn không quay về với Ta,”CHÚA phán vậy. “Ta sai dịch lệ hành hạ các ngươiNhư đã từng hành hạ Ai-cập,Ta dùng gươm giết chết thanh niên các ngươi,Ngựa chiến các ngươi bị bắt đi,Ta khiến mùi hôi tanh từ đội quân các ngươi xông vào mũi các ngươi;Dù vậy, các ngươi vẫn không quay về với Ta,”CHÚA phán vậy. “Ta hủy diệt một số người trong các ngươiNhư Ta đã hủy diệt thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ,Các ngươi khác nào que củi cháy lấy ra khỏi lửa;Dù vậy, các ngươi vẫn không quay về với Ta,”CHÚA phán vậy. “Vì thế, hỡi Y-sơ-ra-ên, Ta sẽ trừng phạt ngươi như vầy,Vì Ta sẽ trừng phạt ngươi như vậy,Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy chuẩn bị để gặp Đức Chúa Trời ngươi!” Kìa, Đấng dựng nên núiVà tạo ra gió,Đấng tỏ cho loài người biết ý định Ngài,Đấng biến rạng đông thành bóng tối,Đấng bước đi trên các đỉnh cao trên đất,Danh Ngài là CHÚA, Đức Chúa Trời Toàn Năng! Hỡi dân Y-sơ-ra-ên, hãy lắng nghe lời này, lời ca ai oán ta cất tiếng hát về ngươi: Trinh nữ Y-sơ-ra-ên đã ngã xuống,Không hề trổi dậy nữa!Nàng nằm trơ trọi trên đất mình,Không ai nâng nàng dậy. Vì đây là lời CHÚA phán về dân Y-sơ-ra-ên:“Thành nào cho ra trận một ngàn quân,Chỉ còn một trăm người trở về.Thành nào cho ra trận một trăm quân,Chỉ còn mười người trở về.” Vì đây là lời CHÚA phán với dân Y-sơ-ra-ên;“Hãy tìm kiếm Ta, thì các ngươi sẽ sống! Chớ tìm kiếm Bê-tên,Chớ xuống Ghinh-ganh,Chớ vượt biên xuống Bê-e-sê-ba,Vì Ghinh-ganh sẽ bị lưu đầy,Và Bê-tên sẽ đổ nát.” Hãy tìm kiếm CHÚA, thì các ngươi sẽ sống!Kẻo Ngài giáng xuống như lửa giữa dòng dõi nhà Giô-sép,Thiêu nuốt Bê-tên,Không ai dập tắt nổi. Các ngươi đổi sự xét xử công bình ra ngải cứu,Ném bỏ sự chính trực xuống đất. Ngài dựng nên chòm sao Thất Tinh và sao Cày,Đổi bóng tối ra ban mai,Khiến ban ngày tối sầm thành đêm,Ngài gọi nước biển lại,Trút xuống mặt đất,Danh Ngài là CHÚA! Trong chớp nhoáng, Ngài hủy diệt những người cường bạo,Hủy diệt các chiến lũy kiên cố. Các ngươi ghét người xét xử nơi cổng thành,Ghê tởm người trình bầy chân thật. Vì các ngươi chà đạp người nghèo,Bắt họ nộp lúa,Cho nên, các ngươi xây nhà bằng đá đẽo,Nhưng các ngươi không được ở trong đó.Các ngươi trồng vườn nho tươi tốt,Nhưng các ngươi không được uống rượu từ vườn mình. Vì Ta biết vi phạm các ngươi nhiều vô vàn,Tội lỗi các ngươi nhiều vô số.Các ngươi hiếp đáp người chính trực, nhận của hối lộ,Bẻ cong lý lẽ người khốn cùng nơi cổng thành. Trong thời như thế, người khôn ngoan than khóc,Vì là thời gian ác. Hãy tìm kiếm điều thiện, chớ theo đuổi điều ác,Để các ngươi được sống.Bấy giờ, CHÚA, Đức Chúa Trời Toàn Năng,Sẽ thật sự ở với các ngươi, như các ngươi thường nói. Hãy ghét bỏ điều ác, yêu chuộng điều thiện,Xét xử công bình tại cổng thành.Biết đâu CHÚA, Đức Chúa Trời Toàn Năng,Sẽ thương xót những người còn sống sót trong con cháu Giô-sép. Vì thế cho nên CHÚA, Đức Chúa Trời Toàn Năng, Chúa tôi, phán:“Có tiếng khóc than ở mọi quảng trường,Ở mọi phố phường người người than vãn: ‘Than ôi! Than ôi!’Chúng kêu gọi các nông dân khóc lóc,Kêu người khóc mướn đến khóc than. Có tiếng khóc than trong mọi vườn nho nữa,Khi Ta đi ngang qua giữa các ngươi,”CHÚA phán vậy. “Khốn cho các ngươi là người mong đợiNgày của CHÚA!Ngày của CHÚA giúp ích gì cho các ngươi?Đó là ngày đen tối, chớ không phải tươi sáng! Giống như người kia chạy thoát khỏi sư tử,Lại bị gấu tấn công!Hoặc về đến nhà,Dựa tay lên vách,Lại bị rắn cắn! Phải chăng ngày của CHÚA là ngày đen tối, chớ không tươi sáng,Ngày tối tăm mù mịt, không một tia sáng? Ta ghét, Ta khinh các ngày lễ của các ngươi,Ta không đẹp lòng các buổi nhóm họp trọng thể. Ngay khi các ngươi dâng cho Ta tế lễ thiêu và tế lễ ngũ cốc,Ta cũng không nhận.Ta chẳng màng đếnCác sinh tế béo tốt. Hãy cất xa khỏi Ta tiếng ca hát ồn ào,Ta chẳng muốn nghe tiếng đàn hạc của các ngươi! Nhưng hãy để cho sự xét xử công bình trào lên như nước,Sự chính trực như dòng sông không hề cạn! Hỡi dân Y-sơ-ra-ên, các ngươi có dâng cho Ta sinh tế và ngũ cốc,Suốt bốn mươi năm trong sa mạc không? Rồi đây các ngươi sẽ khiêng theo mình Si-cút,Vua các ngươi,Và Ki-đôn là những hình tượng các ngươi làm theo các vì sao,Thần các ngươi, Khi Ta đày các ngươi ra mãi tận bên kia thành Đa-mách,”CHÚA phán. Danh Ngài là Đức Chúa Trời Vạn Quân! Khốn cho các ngươi, các ngươi ăn không ngồi rồi tại Si-ôn,Các ngươi sống ung dung tự tại trên đồi Sa-ma-ri,Các ngươi nổi tiếng vang lừng trong một nước hàng đầu,Dân Y-sơ-ra-ên đến với các ngươi, đầy ngưỡng vọng! Hãy vượt biên lên thành Canh-nê mà xem,Từ đó hãy xuống thành Ha-mát Ráp-ba,Và hãy xuống thành Gát của dân Phi-li-tin.Các ngươi có giầu mạnh hơn các vương quốc đó không?Hoặc bờ cõi chúng có rộng lớn hơn bờ cõi các ngươi không? Các ngươi đuổi xa ý nghĩ về ngày tai họa,Nhưng các ngươi lại đem ngôi bạo ngược về gần. Các ngươi nằm dài trên trường kỹ cẩn ngà,Các ngươi nằm ườn trên đi-văng,Các ngươi ăn thịt chiên chọn lọc trong bầy,Thịt bò tơ béo tốt trong chuồng, Các ngươi ngân nga theo tiếng đàn hạc,Tự chế cho mình nhạc khí như Đa-vít, Các ngươi uống rượu trong bát to,Các ngươi xức dầu thơm hảo hạng,Nhưng các ngươi không đau lòng về họa diệt vong của dòng dõi Giô-sép. Vì thế cho nên các ngươi sẽ dẫn đầu những người bị đày,Các ngươi sẽ không còn nằm ườn ra dự tiệc nữa. CHÚA lấy chính mình Ngài mà thề, CHÚA, Đức Chúa Trời Vạn Quân phán:“Ta ghê tởm sự kiêu hãnh của Gia-cốp,Ta ghét các đền đài nó,Ta sẽ nộp thành ngươi cho kẻ thù,Và dân cư tài sản trong thành. Nếu trong nhà kia còn lại mười người, họ sẽ chết. Khi thân nhân người chết và người ướp xác đến đem xác chết ra khỏi nhà, thân nhân hỏi người ở phía tận cùng nhà trong: ‘Còn có ai với anh nữa không?’ Người kia đáp: ‘Không.’ Thân nhân nói: ‘Suỵt! Chúng ta không nên nhắc đến danh CHÚA.’ Vì này CHÚA sẽ truyền lệnh,Nhà to lớn sẽ bị đập thành mảnh,Nhà nhỏ bé sẽ nát như dăm. Có thể nào ngựa phi trên đá,Hoặc bò cày trên biển không?Thế mà các ngươi đã biến sự xét xử công bình thành cỏ độc,Bông trái của sự chính trực thành ngải cứu. Các ngươi reo mừng vì chiếm được thành Lô-đê-ba,Các ngươi tự hào: ‘Chúng tôi cậy sức mình chiếm được thành Cát-na-đim!’” CHÚA, Đức Chúa Trời Vạn Quân phán:“Này, hỡi dân Y-sơ-ra-ên,Chính Ta sẽ khiến một dân tộc dấy lên nghịch cùng ngươi,Chúng sẽ hà hiếp các ngươi từ Đèo Ha-mát đến suối A-ra-ba.” CHÚA cho tôi thấy điều này. Ngài đang nắn nên những đàn châu chấu ngay khi hoa mầu mới nẩy mầm. Đây là hoa mầu gieo sau khi gặt xong phần thổ sản của nhà vua. Sau khi châu chấu đã ăn sạch các loài cây cỏ trên đất, tôi kêu lên: “Lạy CHÚA, xin CHÚA tha thứ. Làm thể nào Gia-cốp sống nổi? Nó nhỏ yếu quá!” CHÚA liền đổi ý. CHÚA phán: “Điều này sẽ không xảy ra.” CHÚA cho tôi thấy điều này. CHÚA kêu gọi xét xử và đoán phạt bằng lửa. Lửa đốt cạn vực thẳm mênh mông và đang thiêu đốt đồng ruộng. Tôi kêu lên: “Lạy CHÚA, Chúa của con, xin Chúa dừng tay. Làm thể nào Gia-cốp sống nổi? Nó nhỏ yếu quá!” CHÚA liền đổi ý. CHÚA phán: “Điều này cũng sẽ không xảy ra nữa.” Ngài cho tôi thấy điều này. Chúa tôi đứng cạnh bức tường thẳng đứng, tay cầm dây chì. CHÚA hỏi tôi: “A-mốt, con thấy gì?” Tôi thưa: “Một dây chì.” Chúa tôi phán: “Này, Ta đặt một dây chì giữa dân Ta, là dân Y-sơ-ra-ên. Ta không thể bỏ qua được nữa. Các bàn thờ trên các nơi cao của Y-sác sẽ điêu tàn,Các miếu thánh của Y-sơ-ra-ên sẽ hoang vu,Và Ta sẽ cầm gươm dấy lên nghịch lại nhà Giê-rô-bô-am.” Thầy tế lễ A-ma-xia ở Bê-tên sai người báo cáo lên Giê-rô-bô-am, vua Y-sơ-ra-ên: “Tiên tri A-mốt âm mưu phản nghịch bệ hạ ngay giữa vòng dân Y-sơ-ra-ên. Đất nước này không thể chứa nổi tất cả những lời ông ta nói. A-mốt nói thế này:Vua Giê-rô-bô-am sẽ chết vì lưỡi gươm,Dân Y-sơ-ra-ên chắc chắn sẽ bị đàyXa khỏi quê hương.” A-ma-xia nói với A-mốt: “Xin nhà tiên kiến mau rời khỏi đây. Tôi xin ông trở về xứ Giu-đa, sinh sống tại đó, và nói tiên tri tại đó. Xin ông đừng nói tiên tri tại Bê-tên nữa, vì đây là đền thờ nơi vua thờ phượng, và cũng là đền thờ quốc gia nữa.” A-mốt đáp lời A-ma-xia: “Tôi vốn không phải là tiên tri, cũng không phải là môn đồ của các nhà tiên tri. Tôi vốn là người chăm nuôi bò cừu và chăm quả sung. Nhưng CHÚA đã bắt tôi ra khỏi việc chăn bầy. CHÚA bảo tôi: ‘Con hãy đi nói tiên tri cho dân Ta, là dân Y-sơ-ra-ên.’ Và giờ đây, hãy nghe lời CHÚA.” Ông có bảo tôi:“Chớ nói tiên tri cho dân Y-sơ-ra-ên,Cũng đừng rao giảng cho dòng dõi nhà Y-sác.” Cho nên, đây là lời CHÚA phán:“Vợ ngươi sẽ hành nghề mãi dâm ngay trong thành,Con trai con gái ngươi sẽ ngã dưới lưỡi gươm,Người ta sẽ dùng dây đo chia đất ruộng ngươi,Còn ngươi, ngươi sẽ chết nơi đất khách quê người.Và dân Y-sơ-ra-ên chắc chắn sẽ bị đàyXa khỏi quê hương.” CHÚA cho tôi thấy điều này: một giỏ vả chín muồi. Ngài hỏi tôi: “A-mốt, con thấy gì?”Tôi thưa: “Một giỏ vả chín muồi.”CHÚA phán với tôi: “Thời điểm đã chín muồi cho sự cuối cùng của dân Y-sơ-ra-ên Ta. Ta không thể bỏ qua được nữa.” CHÚA phán: “Trong ngày ấy, các nữ ca sĩ trong cung điện sẽ khóc rú lên, bao nhiêu là xác chết! Vứt la liệt mọi nơi! Hãy im lặng! Hãy lắng nghe đây, các ngươi chà đạp người khốn cùng,Các ngươi tiêu diệt người nhu mì nghèo khó trên đất, Các ngươi than:‘Bao giờ mới hết ngày trăng mới,Cho ta bán thóc?Bao giờ mới hết ngày Sa-bát,Cho ta mở vựa lúa?Cho ta dùng ê-pha lủng mà đong,Sê-ken nặng mà cân?Cho ta lường gạt với cán cân gian trá? Cho ta dùng bạc mua người nghèo,Mua người khốn cùng với giá một đôi dép,Và cho ta bán luôn cả lúa lép, lúa thải?’” CHÚA chỉ sự kiêu hãnh của Gia-cốp mà thề:“Ta không bao giờ quên bất cứ việc gì chúng làm! Vì cớ ấy, đất há chẳng rúng động sao?Và mọi dân trên đất há chẳng than khóc sao?Cả đất há chẳng dâng lên như sông Ninh?Trào lên rồi rút xuốngNhư sông Ninh bên Ai-cập sao?” CHÚA phán: “Ngày ấy,Ta sẽ khiến mặt trời lặn giữa trưa,Ta sẽ khiến đất tối tăm giữa ngày nắng sáng. Ta sẽ biến mọi ngày lễ các ngươi thành tang chế,Mọi bài ca hát thành điếu văn.Ta sẽ thắt vải thô ngang lưng mọi người,Ta sẽ cạo cho mọi đầu đều sói,Ta sẽ khiến ngày ấy như tang lễ khóc con trai một,Như là ngày đắng cay cho đến cùng.” CHÚA phán: “Này, trong những ngày đến,Ta sẽ khiến nạn đói tràn khắp đất,Không phải đói vì thiếu bánh, cũng chẳng phải khát vì thiếu nước,Nhưng đói vì không được nghe lời của CHÚA. Chúng sẽ đi lảo đảo từ biển này đến biển kia,Đi dông dài từ phương bắc đến phương đông,Tìm kiếm lời của CHÚA,Nhưng không tìm được. Ngày ấy,Các trinh nữ đẹp đẽ và các thanh niênSẽ ngất xỉu vì khát. Những người chỉ tội lỗi của Sa-ma-ri mà thề,Những người nói: ‘Thật như thần ngươi sống, hỡi Đan!’‘Thật như đường dẫn đến Bê-e-sê-ba tồn tại!’Những người đó sẽ ngã xuống,Không hề trổi dậy nữa.” Tôi thấy Chúa tôi đứng cạnh bàn thờ. Ngài phán:“Hãy đập các đỉnh cộtCho đến khi ngạch cửa rúng động,Và các trụ cột gẫy đổ trên đầu tất cả bọn chúng,Những người cuối cùng còn lại, Ta sẽ giết bằng lưỡi gươm.Không một ai trong bọn chúng thoát khỏi,Không một ai sống sót. Dù chúng có đào sâu xuống tận Âm Phủ,Từ đó tay Ta cũng sẽ bốc chúng lên.Dù chúng có leo cao đến tận trời,Từ đó Ta cũng sẽ kéo chúng xuống. Dù chúng có ẩn nấp trên đỉnh núi Cạt-mên,Tại đó Ta cũng sẽ tìm và lôi chúng ra.Dù chúng có trốn khuất mặt Ta nơi đáy biển,Tại đó Ta cũng sẽ truyền lệnh cho rắn cắn chúng. Dù chúng có bị lùa đi trước kẻ thù vào chốn lưu đày,Tại đó Ta cũng sẽ truyền lệnh cho gươm giết chúng.Mắt Ta sẽ dán chặt vào chúngĐể giáng họa thay vì ban phước.” Chúa tôi, CHÚA Vạn Quân,Ngài rờ đất, đất liền rúng động,Mọi dân trên đất khóc than,Cả đất dâng trào lên như sông Ninh,Rồi rút xuống như sông Ninh bên Ai-cập. Ngài xây cung điện Ngài trên trời,Dựng vòm trời ngang qua đất,Ngài gọi nước biển lại,Trút xuống mặt đất,Danh Ngài là CHÚA! CHÚA phán:“Hỡi dân Y-sơ-ra-ên, đối với Ta,Các ngươi có khác chi dân Ê-thi-ô-bi?Có phải Ta đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập,Dân Phi-li-tin ra khỏi Cáp-tô,Và dân Sy-ri ra khỏi Ki-rơ không?” Này, mắt của CHÚANhìn thấy vương quốc tội lỗi.“Ta sẽ tuyệt diệt nóKhỏi mặt đất.Tuy nhiên Ta sẽ không tuyệt diệt trọn cảDòng dõi nhà Gia-cốp,”CHÚA phán vậy. Này, Ta sẽ truyền lệnh,Ta sẽ sàng dân Y-sơ-ra-ênGiữa mọi dân,Như người ta sàng với cái rây,Và không một hòn sỏi nào rơi xuống đất. Mọi người phạm tội trong dân TaSẽ chết vì gươm,Mọi người nào nói:“Tai họa sẽ không đuổi kịp hoặc đến gần chúng ta.” “Ngày ấy Ta sẽ dựng lạiNhà chòi sụp đổ của Đa-vít,Ta sẽ vá lành những chỗ thủng,Dựng lại những nơi đổ nát,Xây nhà lại như ngày xưa, Cho dân Ta chiếm hữu phần sót lại của Ê-đôm,Và mọi dân mang danh Ta,”CHÚA, Đấng hoàn thànhviệc ấy, phán vậy. CHÚA phán: “Trong những ngày đến,Người cày ruộng sẽ đuổi kịp người gặt lúa,Người ép nho sẽ đuổi kịp người gặt lúa,Người ép nho sẽ đuổi kịp người gieo giống,Rượu ngọt nhỏ xuống từ các núi,Chảy lan khắp mọi đồi. Ta sẽ phục hồi đất nước dân Y-sơ-ra-ên Ta,Chúng sẽ xây lại các thành đổ nát và ở trong đó,Chúng sẽ trồng vườn nho và uống rượu nho vườn mình.Chúng sẽ trồng vườn cây và ăn quả của mình. Và Ta sẽ trồng chúng trên đất của chúng,Chúng sẽ không hề bị bứng gốcRa khỏi đất Ta ban cho chúng,”CHÚA, Đức Chúa Trờingươi, phán vậy. Khải tượng ban cho Áp-đia.CHÚA, Đấng Chủ Tể phán về Ê-đôm như sau:Chúng tôi có nghe sứ điệp từ chính CHÚA,Vì Ngài đã sai sứ giả đến với các dân:“Hãy chuẩn bị ra trận đánh chúng nó.” “Này, Ta sẽ khiến ngươi nên nhỏ yếu hơn các dân,Ngươi sẽ bị khinh khi thậm tệ. Lòng kiêu ngạo của ngươi đã lừa gạt ngươi,Hỡi ngươi là người ở trong nơi kín đáo của Sê-la,Người ngự trên nơi cao,Người tự nhủ:‘Ai có thể kéo ta xuống đất được?’ Dù ngươi có xây tổ trên cao như chim đại bàng,Dù ngươi có đặt tổ mình giữa các vì sao,Từ nơi đó Ta cũng sẽ kéo ngươi xuống!”CHÚA phán vậy. Dù bọn trộm có lẻn vào,Dù bọn cướp có xông vào lúc giữa đêm,Ôi, ngươi bị tàn phá là dường nào!Chúng há chẳng cướp vừa đủ mang theo thôi sao?Dù thợ có hái nho vườn ngươi,Chúng há chẳng bỏ sót vài chùm sao? Ôi, con cháu Ê-sau bị đào khoét là dường nào!Của báu cất giấu bị moi móc ra hết! Mọi đồng minh của ngươi đều xua đuổi ngươi tận biên giới,Những người ký hiệp ước hòa bình với ngươi đều lừa gạt ngươi và thắng thế,Những người bạn ăn chung bàn với ngươi gài bẫy dưới chân ngươi,Nó chẳng hiểu biết gì cả! CHÚA phán: “Trong ngày ấy,Ta sẽ diệt trừ người khôn ngoan khỏi Ê-đôm,Và sự hiểu biết khỏi núi Ê-sau, Hỡi Thê-man, các dõng sĩ ngươi đều khiếp sợĐến nỗi mọi người trên núi Ê-sauĐều chết trong sự tàn sát. Vì ngươi đã đối xử cách bạo ngược với em ngươi là Gia-cốp,Sự xấu hổ sẽ che lấp ngươi,Và ngươi sẽ chết mất đời đời. Trong ngày ngươi đứng bàng quan,Ngày mà người xa lạ cướp của cải nó mang đi,Ngày mà người nước ngoài bước vào cổng thành nó,Bắt thăm chia nhau người và tài vật trong thành Giê-ru-sa-lem,Chính ngươi cũng chẳng khác chi bọn ấy! Chớ nhìn anh em ngươi cách vui thích hiểm độcTrong ngày chúng gặp nạn.Chớ vui mừng hả hê về con cháu Giu-đaTrong ngày chúng bị tàn phá.Chớ nói khoác lácTrong ngày tai họa. Chớ bước vào cổng thành dân TaTrong ngày thảm họa.Chính ngươi nữa, chớ vui mừng sâu hiểm về hoạn nạn của nóTrong ngày thảm họa.Chớ cướp phá của cải nóTrong ngày thảm họa. Chớ đứng nơi ngã ba đườngĐể bắt những người chạy trốn,Chớ nộp những người sống sótTrong ngày tai họa. Ngày của CHÚA gần kềMọi dân tộc.Điều gì ngươi làm, sẽ làm lại cho ngươi,Ngươi đối xử thế nào, cũng sẽ đổ lại trên đầu ngươi. Như các ngươi đã uống thể nào trên núi thánh Ta,Thì mọi dân tộc cũng sẽ uống thể ấy, cách liên tục,Chúng sẽ uống và nuốt chửng,Và tiêu tan như chúng chưa hề hiện hữu. Nhưng trên núi Si-ôn sẽ có một số người sống sót,Núi ấy sẽ là nơi thánh,Và con cháu Gia-cốp sẽ giành lạiPhần đất họ thừa hưởng. Con cháu Gia-cốp sẽ là lửa,Con cháu Giô-sép là ngọn lửa hừng,Con cháu Ê-sau là rơm bị chúng đốt cháy và thiêu nuốt,Con cháu Ê-sau sẽ không còn một người sống sót,Vì CHÚA đã phán. Dân Nê-ghép sẽ chiếm cứ núi Ê-sau,Dân Sơ-phê-la sẽ chiếm đất của người Phi-li-tin,Chúng sẽ chiếm lãnh thổ Ép-ra-im với kinh đô Sa-ma-ri,Và con cháu Bên-gia-min sẽ chiếm xứ Ga-la-át. Đội quân Y-sơ-ra-ên lưu đầy trở về sẽ chiếm đất của người Ca-na-anLên đến thành Sa-rê-phát,Sẽ chiếm các thành vùng Nê-ghép. Các vị lãnh đạo chiến thắng sẽ lên núi Si-ônĐể cai trị núi Ê-sau,Quyền thống trị sẽ thuộc về CHÚA!” CHÚA phán với Giô-na, con A-mít-tai: “Con hãy đi ngay đến thành phố Ni-ni-ve to lớn kia, và rao truyền sự đoán phạt dành cho nó, vì tội ác dân trong thành đã lên thấu đến Ta.” Tuy nhiên, Giô-na chuẩn bị trốn qua Tạc-sít để tránh mặt CHÚA. Ông xuống cảng Gia-phô, gặp một chiếc tàu đi Tạc-sít. Ông mua vé, xuống tàu đi Tạc-sít cùng với thủy thủ đoàn, để tránh mặt CHÚA. Nhưng CHÚA khiến gió thổi mạnh trên biển, gây ra bão táp dữ dội đến nỗi chiếc tàu tưởng chừng như sắp vỡ tan. Các thủy thủ khiếp sợ, ai nấy đều khấn vái thần của mình. Rồi họ quăng hàng hóa trong tàu xuống biển để giảm bớt nguy hiểm cho họ. Trong lúc ấy, Giô-na đã xuống dưới khoang tàu, nằm ngủ say. Thuyền trưởng đến gần gọi Giô-na: “Anh làm gì mà ngủ say thế kia? Anh hãy thức dậy ngay, khấn vái thần của anh đi. Biết đâu thần của anh sẽ thương xót chúng ta, và cứu chúng ta khỏi chết.” Các thủy thủ bảo nhau: “Chúng ta hãy bắt thăm xem do ai mà tai họa này xảy đến cho chúng ta.” Họ bắt thăm, và thăm trúng ngay Giô-na. Họ nói với ông: “Xin anh cho chúng tôi biết: Do ai mà tai họa này xảy đến cho chúng tôi? Anh làm nghề gì? Anh từ đâu đến? Quê anh ở đâu? Anh thuộc dân tộc nào?” Ông đáp: “Tôi là người Hy-bá. Tôi tôn thờ CHÚA, là Đức Chúa trên trời, là Đấng dựng nên biển và đất khô.” Các thủy thủ sợ khiếp kinh, hỏi ông: “Anh đã làm gì vậy?” Khi họ biết được là ông đang trốn để tránh mặt CHÚA, vì ông có nói cho họ biết, họ hỏi ông: “Chúng tôi phải đối xử với anh như thế nào để biển lặng cho chúng tôi đây?” Vì biển càng động mạnh thêm mãi. Giô-na đáp: “Các anh cứ bắt tôi quăng xuống biển, rồi biển sẽ lặng cho các anh, vì tôi biết chính vì tôi mà các anh mắc phải trận bão dữ dội này.” Tuy nhiên các thủy thủ ra sức cố gắng chèo vào bờ, nhưng không vào được, vì biển càng động mạnh thêm mãi. Họ cầu khẩn CHÚA: “Lạy CHÚA, chúng con nài xin Ngài chớ để chúng con chết vì mạng sống của người này. Xin Ngài chớ buộc tội chúng con vì đã giết một người vô tội. Vì lạy CHÚA, chính Ngài đã thực hiện theo ý Ngài muốn.” Rồi họ bắt Giô-na quăng xuống biển. Biển liền nguôi cơn giận. Các thủy thủ kính sợ CHÚA vô cùng. Họ dâng sinh tế cho CHÚA và hứa nguyện với Ngài. Nhưng CHÚA sắm sẵn một con cá lớn nuốt chửng Giô-na. Giô-na ở trong bụng cá ba ngày ba đêm. Từ trong bụng cá, Giô-na cầu khẩn CHÚA, Đức Chúa Trời của ông. Ông nói:“Trong cơn hoạn nạn tôi cầu khẩn CHÚA,Và Ngài đáp lời tôi.Từ lòng Âm Phủ con kêu cứu,Thì Chúa nghe tiếng con. Chúa ném con xuống vực sâu,Xuống tận lòng biển,Dòng nước biển bao bọc con,Hết thảy những luồng sóng to và sóng cồn của NgàiCuộn lên ngang qua đầu con. Con tự nhủ: ‘Con đã bị quăng xaKhỏi Chúa,Dù vậy, con lại sẽ được ngắmĐền thánh Ngài.’ Nước phủ lấp con, làm con nghẹt thở,Vực thẳm bao bọc con,Rong biển vướng víu đầu con. Con đã xuống tận nền các núi,Đến nơi có then cài nhốt kín con vĩnh viễn.Thế mà, ôi lạy CHÚA, Đức Chúa Trời của con,Ngài đã đem mạng sống con lên khỏi hố thẳm! Khi con sắp ngất đi,Con nhớ đến CHÚA,Và lời cầu nguyện con lên thấu đến Ngài,Tận trong đền thánh Ngài. Những người thờ lạy các thần tượng giả dốiTừ bỏ Đấng Yêu Thương thành tín, Về phần con, con sẽ hát ca ngợi Chúa,Con sẽ dâng tế lễ cho Ngài,Con sẽ thực hiện điều con hứa nguyện.Chỉ CHÚA mới có quyền giải cứu!” CHÚA ra lệnh cho cá, và cá nhả Giô-na ra trên đất khô. CHÚA phán với Giô-na lần thứ nhì: “Con hãy đi ngay đến thành phố Ni-ni-ve to lớn kia, và rao truyền cho dân trong thành sứ điệp mà Ta đã phán dạy con.” Giô-na vâng lời CHÚA đi ngay đến Ni-ni-ve. Ni-ni-ve là một thành phố vô cùng to lớn, phải mất ba ngày mới đi xuyên qua hết thành phố. Giô-na khởi sự vào thành, đi được một ngày, rồi rao giảng: “Còn bốn mươi ngày nữa, thành Ni-ni-ve sẽ sụp đổ.” Dân thành Ni-ni-ve tin Đức Chúa Trời. Họ công bố kiêng ăn, và mọi người từ lớn đến nhỏ đều quấn vải thô. Khi tin đồn đến tai vua Ni-ni-ve, vua đứng dậy khỏi ngai, cởi áo bào ra, quấn vải thô và ngồi trên đống tro. Vua truyền lệnh công bố khắp thành Ni-ni-ve: “Theo chiếu chỉ của vua và các quan, người và thú, không được nếm gì cả, cũng không được uống nước, thú không được ăn cỏ. Người và thú đều phải quấn vải thô. Mọi người phải tha thiết cầu khẩn Đức Chúa Trời, xây bỏ lối sống ác và hành vi phạm pháp. Biết đâu Đức Chúa Trời sẽ xây lại thương xót chúng ta, cơn nóng giận Ngài sẽ nguôi đi, và chúng ta khỏi chết?” Đức Chúa Trời nhìn thấy điều họ làm, Ngài thấy họ xây bỏ lối sống ác. Vì thế Đức Chúa Trời đổi ý, không giáng tai họa theo như Ngài đã phán. Nhưng Giô-na bực mình lắm và nổi giận. Ông cầu nguyện CHÚA: “Ôi, lạy CHÚA, có phải đây là điều con đã nói khi con ở tại quê hương con không? Chính vì thế mà con đã vội vã trốn sang Tạc-sít vì con biết Chúa là Đức Chúa Trời nhân từ, hay thương xót, chậm giận, và giàu tình yêu thương, lại sẵn sàng đổi ý không giáng tai họa. Lạy CHÚA, con cầu xin Ngài cất mạng sống con ngay bây giờ, vì con thà chết còn hơn sống.” CHÚA đáp: “Con giận có đúng không?” Giô-na đi ra khỏi thành, ngồi ở phía đông thành. Tại đó, ông dựng cho mình một cái chòi, và ngồi trong chòi, dưới bóng mát, chờ xem điều gì sẽ xảy đến cho thành. CHÚA, Đức Chúa Trời sắm sẵn một cây thầu dầu. Cây mọc lên cao, rợp bóng mát che đầu Giô-na, cứu ông khỏi sự khổ nhọc. Giô-na rất thỏa lòng về cây thầu dầu này. Nhưng ngày hôm sau, vừa lúc rạng đông, Đức Chúa Trời sắm sẵn một con sâu, sâu cắn cây thầu dầu, cây liền khô héo. Khi mặt trời lên cao, Đức Chúa Trời sắm sẵn một ngọn gió nóng cháy từ phương đông thổi đến. Mặt trời rọi thẳng xuống đầu Giô-na, ông dường như muốn ngất đi và cầu xin được chết: “Con thà chết còn hơn sống.” Đức Chúa Trời hỏi Giô-na: “Con giận vì cây thầu dầu khô héo có đúng không?” Giô-na đáp: “Con giận đúng lắm, con giận đến nỗi muốn chết.” CHÚA phán: “Con tiếc cây thầu dầu mà con chẳng cực nhọc vì nó, cũng chẳng làm cho nó lớn lên. Nó mọc lên trong một đêm, đêm hôm sau lại chết đi. Còn Ta, lẽ nào Ta lại không thương tiếc thành Ni-ni-ve to lớn kia, với hơn một trăm hai mươi ngàn người chưa biết phân biệt tay phải và tay trái, cùng với bao nhiêu súc vật sao?” CHÚA bày tỏ sứ điệp này về thành Sa-ma-ri và Giê-ru-sa-lem cho Mi-ca, người thành Mô-rê-sết, vào triều các vua Giô-tham, A-cha, và Ê-xê-chia xứ Giu-đa. Hỡi tất cả các dân, hãy lắng nghe,Hỡi đất và muôn loài trên đất, hãy chú ý,Để CHÚA làm chứng nghịch lại các ngươi,Chúa tể vũ trụ ngự nơi cung điện thánh của Ngài! Kìa, CHÚA đang ra khỏi nơi thánh Ngài,Ngài sẽ ngự xuống, bước đi trên các đỉnh cao của đất. Các núi sẽ tan chảy dưới chân Ngài,Các thung lũng sẽ nứt vỡ ra,Như sắt gặp lửa,Như thác nước đổ xuống dốc núi. Mọi điều này xảy ra vì Gia-cốp đã vi phạm,Vì con cháu Y-sơ-ra-ên đã phạm tội.Ai gây cho Gia-cốp vi phạm?Có phải Sa-ma-ri không?Ai gây cho Giu-đa thờ thần tượng?Có phải Giê-ru-sa-lem không? Vì thế Ta sẽ khiến Sa-ma-ri trở thành đống đổ nát nơi bình địa,Nên cánh đồng trồng vườn nho.Ta sẽ đổ đá vụn nó xuống trũng,Phơi trần các nền nó. Hết thảy các tượng chạm nó sẽ bị đập nát,Hết thảy những lễ phẩm từ đền miếu sẽ bị lửa thiêu hủy,Hết thảy những hình tượng nó sẽ hoang tàn,Vì chúng được gom góp do thu hoạch của gái mãi dâm,Nên chúng cũng sẽ trở thành tặng vật cho gái mãi dâm. Vì cớ mọi sự này, tôi sẽ khóc lóc kêu than,Tôi sẽ đi chân không, mình trần,Tôi sẽ khóc rống lên như chó rừng,Gào rít lên như chim cú trong sa mạc. Vì vết thương không thể chữa lành,Lại lan tràn sang Giu-đa,Đến tận cổng thành dân tôi,Đến tận Giê-ru-sa-lem. Đừng loan tin này trong thành Gát!Chớ lộ một tiếng khóc!Dân trong thành Bết-lê-áp-ra,Hãy lăn lộn dưới bụi đất! Hỡi dân thành Sa-phia,Hãy đi ngang qua, trần truồng, xấu hổ!Dân thành Xa-a-nanKhông dám tiến ra,Dân thành Bết-ha-ê-xen than khóc,Các ngươi đã mất điểm tựa rồi. Dân thành Ma-rốt nóng lòngTrông đợi ơn lành,Nhưng CHÚA lại giáng tai họaXuống cổng thành Giê-ru-sa-lem. Hỡi dân thành La-ki,Hãy thắng ngựa chiến vào xe!Ngươi đã gây cho cô gái Si-ôn phạm tội,Vì nơi ngươi có tìm thấy vi phạm của Y-sơ-ra-ên. Vì thế, hỡi cô gái Si-ôn,Hãy trao của hồi mônCho Mô-rê-sết-Gát!Các nhà trong thành Ạc-xíp sẽ lừa gạtCác vua Y-sơ-ra-ên, Còn các ngươi, hỡi dân thành Ma-rê-sa,Ta sẽ sai người đến xâm chiếm thành các ngươi!Vinh quang của Y-sơ-ra-ên sẽ ẩn núpTrong động A-đu-lam. Hỡi cô gái Si-ôn, hãy cạo tóc cho sói đầuVì những đứa con ngươi yêu quý,Hãy làm cho đầu ngươi trọc như chim kên kên,Vì chúng nó bị lưu đầy xa khỏi ngươi! Khốn cho các ngươi, các ngươi toan tính điều bạo ngược,Mưu đồ việc gian ác trên giường mình!Trời vừa sáng, các ngươi liền thực hiện mưu mô,Vì các ngươi nắm quyền trong tay mình. Các ngươi thèm muốn đồng ruộng thì giật lấy,Các ngươi tham nhà tham cửa thì tước đoạt,Các ngươi hà hiếp đàn ông và cưỡng đoạt vợ con họ,Các ngươi bóc lột dân chúng và cướp đoạt sản nghiệp họ. Vì thế, CHÚA phán:“Này, Ta toan tính hoạn nạn cho dân tộc này,Các ngươi không thể rút cổ ra khỏi ách được,Các ngươi không thể đứng thẳng người bước đi được nữa,Vì đó là thời hoạn nạn. Trong ngày ấy, người ta sẽ cất tiếng hátChế nhạo các ngươi với lời ca não nuột;‘Chúng tôi thật tan nát, tả tơi,Sản nghiệp dân tôi Ngài chuyển sang người khác,Ngài rút đi phần thuộc về tôi,Ngài chia ruộng đất chúng tôi cho người phản nghịch.’ Thật vậy, không một ai trong các ngươi sẽ được giăng dâyChia đất trong hội chúng của CHÚA.” “Đừng giảng nữa,” chúng giảng dạy.Chúng không giảng về những điều ấy,Sự xấu hổ sẽ không lìa khỏi chúng. Hỡi con cháu Gia-cốp, các ngươi hỏi:“Lẽ nào CHÚA lại nóng giận sao?Lẽ nào Ngài làm những điều ấy sao?”Lẽ nào lời Ta không mang phúc lànhĐến cho người đi theo đường ngay thẳng sao? Nhưng các ngươi nổi dậy chống lại dân Ta như kẻ thù.Các ngươi lột áo choàng sang trọngRa khỏi áo dài mặc bên trongCủa những người ung dung qua đường,Những người trở về từ chiến trận. Các ngươi đuổi những người đàn bà trong dân TaRa khỏi căn nhà họ quí mến,Các ngươi tước mất vinh quang của TaKhỏi con cái họ đời đời. Hãy đi ngay,Vì đây không phải là nơi an nghỉ,Đất đã bị ô uế,Nó sẽ bị tàn phá nặng nề. Nếu có người đi đây đó, gạt gẫm với những lời rỗng tuếch:“Tôi sẽ giảng cho anh về rượu và bia,”Người đó đúng là thầy giảng cho dân này! Hỡi Gia-cốp,Ta chắc sẽ tập họp toàn dân ngươi,Ta chắc sẽ gom góp những người còn sót lại trong Y-sơ-ra-ên,Ta sẽ gom họ lại như bầy chiên trong chuồng,Họ sẽ nhôn nhao như bầy chiên giữa đồng cỏ. Đấng phá vỡ tường thành đi trước họ,Họ sẽ phá vỡ tường, đi xuyên qua cổng, ra ngoài.Vua họ sẽ đi xuyên qua cổng trước họ,CHÚA sẽ dẫn đầu họ. Tôi nói:“Hãy nghe đây, hỡi các nhà lãnh đạo Gia-cốp,Hỡi những người cai trị dân Y-sơ-ra-ên!Lẽ nào các ông không biết phán xét công bình? Thế mà các ông ghét điều thiện, chuộng điều ác,Các ông lột da dân tôi,Các ông bóc thịt ra khỏi xương, Các ông lột da dân tôi,Các ông lột da,Bẽ xương,Chặt ra từng miếng như thịt nạc cho vào nồi,Như thịt cho vào vạc. Bây giờ các ông sẽ kêu cứu với CHÚA,Nhưng Ngài sẽ không đáp lại.Lúc ấy Ngài sẽ ẩn mặt đi,Vì các ông làm điều ác. CHÚA phán với các tiên tri đó như sau:Các tiên tri dẫn tôi đi lạc,Họ tuyên bố ‘Bình an!’ khi hàm họ nhai,Nhưng rao báo chiến tranhCho người nào không quà cáp theo ý họ.” “Vì thế, các ngươi sẽ thấy đêm tối thay vì khải tượng,Các ngươi sẽ lặn ngụp trong tối tăm thay vì bói toán.”Đối với các tiên tri đó, mặt trời sẽ lặn,Và ban ngày trở nên đêm tối. Các nhà tiên kiến sẽ xấu hổ,Các thầy bói toán sẽ nhục nhã,Hết thảy đều che miệng lạiVì Đức Chúa Trời không đáp lời họ. Nhưng về phần tôi, tôi đầy dẫy quyền năngBởi thần CHÚA,Đầy dẫy trí phán xét công bình và lòng dũng cảm,Để công bố cho Gia-cốp biết sự phản nghịch của nó,Và cho Y-sơ-ra-ên biết tội lỗi nó. Hãy nghe lời này, hỡi các nhà lãnh đạo của Gia-cốp,Hỡi những người cai trị dân Y-sơ-ra-ên,Các ông gớm ghiếc sự phán xét công bình,Các ông bẻ cong lẽ ngay thẳng, Các ông gây đổ máu khi xây thành Si-ôn,Các ông tạo bất công khi xây thành Giê-ru-sa-lem. Các nhà lãnh đạo trong thành xét xử để ăn hối lộ,Các thầy tế lễ dạy dỗ để lãnh thù lao,Các nhà tiên tri bói toán vì tiền bạc,Thế mà họ vẫn tựa vào CHÚA và nói:“CHÚA không có ở giữa chúng ta sao?Chúng ta sẽ không gặp tai họa nào.” Cho nên, vì các ông,Si-ôn sẽ bị cày như đồng ruộng,Giê-ru-sa-lem sẽ thành những đống đổ nát,Và hòn núi nơi xây đền thờ chỉ là một đỉnh cao giữa rừng. Trong những ngày đến,Hòn núi nơi dựng đền thờ của CHÚASẽ được lập vững vàng là núi cao nhất,Sẽ được nâng cao vượt khỏi các đồi,Và các dân sẽ đổ về đó. Nhiều quốc gia sẽ rủ nhau đến đó:“Nào, chúng ta hãy lên núi CHÚA,Chúng ta hãy lên đền thờ Đức Chúa Trời của Gia-cốp,Để Ngài dạy chúng ta đường lối Ngài,Để chúng ta bước đi trong các nẻo Ngài.Kinh luật sẽ ra từ núi Si-ôn,Và lời CHÚA từ thành Giê-ru-sa-lem. Ngài sẽ xét xử giữa nhiều dân,Ngài sẽ phân xử các cường quốc xa xôi.Người ta sẽ lấy gươm rèn lưỡi cầy,Lấy giáo rèn dao tỉa cây.Chẳng còn nước nào giơ gươm lên nghịch cùng nước khác,Chẳng còn ai học tập chiến tranh nữa. Ai nấy sẽ ngồi dưới gốc cây nhoVà cây vả của riêng mình.Chẳng còn ai gây sợ hãi nữa.Chính CHÚA Vạn Quân đã phán. Dù cho mọi dân, ai nấy bước điTheo danh của thần mình,Chúng tôi vẫn cứ bước đi theo danh của CHÚA,Đức Chúa Trời chúng tôi, đời đời mãi mãi.” CHÚA phán: “Trong ngày ấy,Ta sẽ tập họp những người què,Ta sẽ gom góp những người lưu đày tản mát,Phải, những người Ta đã trừng phạt. Ta sẽ lập những người què thành giống dân còn sót lại,Những người bị đày đi xa thành một nước hùng mạnh.”Và CHÚA sẽ trị vì họ tại núi Si-ôn,Từ nay cho đến đời đời. Về phần ngươi, hỡi Tháp chăn bầy,Hỡi đồi Ô-phên, hỡi cô gái Si-ôn!Quyền thống trị ngày xưa sẽ trở về với ngươi,Vương quốc sẽ giao về cho cô gái Giê-ru-sa-lem. Còn bây giờ, tại sao ngươi kêu than như thế?Trong nước ngươi không có vua sao?Hay là Đấng Cố Vấn ngươi đã mất rồi,Nên ngươi quặn thắt như đàn bà chuyển bụng? Hỡi cô gái Si-ôn, hãy quặn thắt và sinh ra,Như đàn bà chuyển bụng,Vì bấy giờ ngươi sẽ ra khỏi thành,Ngươi sẽ cắm trại giữa đồng,Và ngươi sẽ đến Ba-by-lôn.Tại đó, ngươi sẽ được giải cứu,Tại đó CHÚA sẽ cứu chuộc ngươiKhỏi tay kẻ thù ngươi. Nhưng bây giờ, nhiều quốc giaTập họp lại nghịch cùng ngươi.Chúng nói: “Hãy để cho Si-ôn bị ô uế,Chúng ta hãy nhìn nó hả hê.” Nhưng chúng không biếtChương trình của CHÚA,Chúng không hiểu ý định Ngài,Vì Ngài gom chúng lại như lúa mới cắt gom vào sân đạp lúa. Hỡi cô gái Si-ôn, hãy đạp cho nhanh,Vì Ta sẽ làm cho sừng ngươi nên sắt,Vó chân ngươi nên đồng;Ngươi sẽ nghiền nát nhiều dân tộc,Và ngươi sẽ hiến cho CHÚA, bằng cách tuyệt diệt lợi phi nghĩa của chúng,Sức mạnh và quyền thế của chúng, ngươi sẽ dâng cho Chúa của toàn thế giới. Bây giờ, hỡi đạo quân nữ, hãy sắp xếp đội ngũ ngươi,Chúng ta bị vây hãm!Chúng nó dùng gậy đánh vào máNgười cầm quyền dân Y-sơ-ra-ên. Còn ngươi, hỡi Bết-lê-hem Ép-ra-ta,Ngươi thật nhỏ trong các chi tộc của Giu-đa,Nhưng từ nơi ngươi sẽ xuất hiện một người,Người ấy sẽ thay Ta cai trị dân Y-sơ-ra-ên,Gốc tích người từ thuở trước,Từ những ngày xa xưa. Vì thế Ngài phó mặc dân NgàiCho đến khi người nữ chuyển bụng đã sinh con,Và anh em người còn lại quay trở vềVới con cái Y-sơ-ra-ên. Người sẽ đứng vững và chăn bầy mình,Nhờ sức mạnh của CHÚA,Nhờ uy danh CHÚA, Đức Chúa Trời người.Dân Ngài sẽ sống yên ổn,Vì bấy giờ khắp đầu cùng đất sẽ tôn trọng người. Người sẽ mang bình an đến,Nếu quân A-si-ri xâm nhập lãnh thổ chúng tôi,Nếu chúng giẫm lên các đền đài chúng tôi,Chúng tôi sẽ dấy lên đầy đủ người lãnh đạo tài giỏiNghịch lại chúng. Những người này sẽ dùng gươm mà chăn lãnh thổ A-si-ri,Gươm tuốt ra khỏi vỏ mà chăn lãnh thổ của Nim-rốt.Người sẽ giải cứu chúng tôi khỏi quân A-si-riKhi chúng xâm nhập lãnh thổ chúng tôi,Khi chúng giẫm lên bờ cõi chúng tôi. Lúc ấy dân sót lại của Gia-cốp,Ở giữa nhiều dân tộc,Khác nào sương móc từ CHÚA,Khác nào mưa rơi xuống cây cỏ.Dân ấy không trông cậy vào loài người,Cũng không trông đợi nơi con người tạo vật. Lúc ấy dân sót lại của Gia-cốp giữa các nước,Ở giữa nhiều dân tộc,Khác nào sư tử ở giữa các thú dữ trong rừng,Khác nào sư tử tơ giữa các bầy chiên.Sư tử đi ngang qua, giầy đạp, cắn xé,Không ai cứu chiên thoát khỏi được. Tay ngươi sẽ giơ cao lên chiến thắng kẻ chống đối,Và mọi kẻ thù ngươi sẽ bị diệt trừ. CHÚA phán: “Trong ngày ấy,Ta sẽ diệt trừ các ngựa chiến khỏi giữa các ngươi,Ta sẽ phá hủy các xe chiến mã của các ngươi; Ta sẽ diệt trừ các thành phố trong lãnh thổ ngươi,Ta sẽ phá sập mọi đồn lũy ngươi; Ta sẽ diệt trừ phép phù thủy khỏi tay ngươi,Ngươi sẽ không còn người bói toán nữa; Ta sẽ diệt trừ các thần tượng ngươi,Các trụ đá khỏi giữa các ngươi,Ngươi sẽ không còn quỳ lạyVật tay ngươi làm ra nữa; Ta sẽ nhổ sạch các trụ gỗ A-sê-ra khỏi giữa các ngươi,Ta sẽ hủy phá các khu đền miếu của các ngươi; Trong cơn phẫn nộ sôi sục, Ta sẽ báo trả tội ácCác dân tộc không chịu vâng phục Ta.” Hãy lắng nghe lời CHÚA phán,Lạy Chúa, xin Ngài công bố bản cáo trạng trước mặt các núi,Xin Ngài cho các đồi nghe tiếng Ngài. Hỡi các núi, hãy lắng nghe bản cáo trạng của CHÚA,Hỡi các nền đời đời của đất, hãy lắng nghe,Vì CHÚA có lời buộc tội dân Ngài,Ngài sẽ chứng tỏ cho dân Y-sơ-ra-ên biết phần phải thuộc về Ngài. Hỡi dân Ta, Ta đã làm gì hại ngươi?Ta đã chất gánh nặng gì trên ngươi? Hãy khiếu nại đi! Này, Ta đã đem ngươi ra khỏi xứ Ai-cập,Ta đã chuộc ngươi ra khỏi cảnh nô lệ,Ta đã sai Môi-se, A-rôn, và Mi-ri-amDẫn đường ngươi. Hỡi dân Ta, hãy nhớ lạiĐiều Ba-lác, vua Mô-áp, mưu toan,Và thể nào Ba-la-am, con Bê-ô, đáp lại hắn.Hãy nhớ lại đoạn đường từ Si-tim đến Ginh-ganh,Rồi các ngươi sẽ nhận ra công việc cứu rỗi của CHÚA. Tôi sẽ đem lễ vật gì đến dâng cho CHÚA,Khi tôi quỳ lạy Đức Chúa Trời trên cao?Hay là tôi dâng Ngài tế lễ thiêuBằng bê con một tuổi? CHÚA có vui lòng nhận hàng ngàn chiên đực,Hàng vạn suối dầu ô-liu không?Hay là tôi dâng con đầu lòng thay cho vi phạm tôi,Dâng bông trái của thân tôi làm sinh tế chuộc tội? Hỡi người, Ngài sẽ tỏ cho ngươi điều gì là thiện,Điều mà CHÚA đòi hỏi ngươi,Không chi khác hơn là thi hành sự chính trực, yêu bằng tình yêu trung kiên,Và bước đi với Đức Chúa Trời ngươi trong sự hạ mình thuận phục ý chỉ Ngài. Người khôn ngoan kính sợ danh Ngài.CHÚA phán với dân trong thành;Hãy lắng nghe, hỡi các người đang tập họp trong thành! Lẽ nào Ta bỏ qua của cải gian tà chứa trong nhà gian ác,Và ê-pha non đáng rủa sả kia? Lẽ nào Ta tha thứ cân đĩa gian ác,Và bao đựng quả cân gian xảo? Người giàu trong thành đầy dẫy sự bạo ngược,Dân cư trong thành phố nói điều giả dối,Lưỡi trong miệng họ chỉ là xảo quyệt. Vì thế Ta sẽ đánh ngươi cho thật đau,Khiến ngươi hao mòn vì cớ tội lỗi ngươi. Ngươi sẽ ăn mà không no,Vì bệnh kiết lỵ sẽ hoành hành trong ruột ngươi.Ngươi sẽ mang thai đến kỳ nhưng không sinh con được,Con nào ngươi sinh được Ta sẽ giao cho lưỡi gươm. Ngươi sẽ gieo giống, nhưng không được gặt,Ngươi sẽ ép hạt ô-liu, nhưng không được xức dầu,Ngươi sẽ ép nho làm rượu mới, nhưng không được uống. Ngươi tuân giữ luật lệ của Ôm-ri,Làm theo mọi lề thói nhà A-háp,Đi theo các mưu chước của chúng.Vậy nên Ta sẽ khiến ngươi thành vật kinh hoàng,Dân cư trong thành sẽ bị huýt gió chế nhạo,Ngươi sẽ chuốc lấy sự nhục nhã cho dân Ta. Khốn nạn cho tôi!Vì tôi giống như người không tìm được một chùm nho để ăn,Một trái vả chín đầu mùa mà lòng tôi khao khát,Sau khi trái cây mùa hạ đã hái xong,Sau khi nho đã mót xong. Người tin kính đã biến mất khỏi xứ,Không còn người ngay thẳng giữa loài người,Chúng nó thảy đều rình rập để gây đổ máu,Anh em trong nước giăng lưới săn bắt nhau. Tay chúng khéo làm điều ác,Các quan chức đòi của hối lộ,Các thẩm phán xét xử vì tiền,Người quyền thế nói lên dục vọng của riêng mình,Và chúng cùng nhau dệt mưu bầy kế. Người tốt nhất trong bọn chúng giống như bụi tầm xuân,Người ngay thẳng nhất, như hàng rào gai gốc.Ngày mà những người canh gác của ngươi báo trước,Ngày trừng phạt các ngươi, đã đến.Bấy giờ chúng sẽ hoảng sợ cuống cuồng. Chớ tin cậy người lân cận,Cũng đừng tin tưởng nơi bạn thân;Hãy giữ, chớ hở miệngNgay cả với vợ nằm trong lòng ngươi; Vì con trai khinh dể cha,Con gái chống nghịch mẹ,Nàng dâu chống đối bà gia;Kẻ thù chính là người ngay trong gia đình mình. Về phần tôi, tôi sẽ ngưỡng trông CHÚA,Tôi sẽ trông chờ Đức Chúa Trời giải cứu tôi,Đức Chúa Trời tôi sẽ nghe lời tôi cầu khẩn. Hỡi kẻ thù tôi, chớ vội mừng vì cớ tôi.Dù tôi ngã, tôi sẽ chổi dậy,Dù tôi ngồi trong bóng tối,CHÚA là ánh sáng của tôi. Tôi phải gánh chịu cơn phẫn nộ của CHÚA,Vì tôi có phạm tội cùng Ngài,Cho đến khi Ngài biện hộ cho tôi,Và xét lẽ phải cho tôi.Ngài sẽ đem tôi ra ánh sáng,Tôi sẽ vui mừng nhìn thấy Ngài giải cứu tôi. Xin cho kẻ thù tôi nhìn thấy điều ấy,Để rồi sự xấu hổ bao trùm nó,Vì nó đã chế nhạo tôi:“CHÚA, Đức Chúa Trời ngươi đâu rồi?”Mắt tôi sẽ nhìn nó hả hê;Này, nó sẽ bị chà đạpNhư bùn ngoài đường phố. Trong ngày xây lại tường đá,Trong ngày ấy, ranh giới ngươi sẽ mở rộng. Trong ngày ấy, dân ngươi sẽ trở về cùng ngươi,Từ A-si-ri đến Ai-cập,Từ Ai-cập đến sông Ơ-phơ-rát,Từ biển này đến biển kia,Từ núi này đến núi nọ, Nhưng các nước khác sẽ trở nên hoang vu,Vì dân cư các nước ấy sẽ gặt hái hậu quả việc ác họ làm. Cầu xin Ngài dùng cây trượng chăn dắt dân Ngài,Là bầy chiên thuộc riêng về Ngài.Họ sống riêng biệt trên rừng,Giữa vùng đất phì nhiêu.Xin cho họ vui hưởng đồng cỏ Ba-san và Ga-la-át,Như thời xưa cũ. Như trong ngày ngươi ra khỏi xứ Ai-cập,Ta sẽ cho ngươi thấy những việc diệu kỳ. Các nước khác sẽ thấy và xấu hổVề toàn bộ sức mạnh chúng.Chúng sẽ đặt tay che miệng,Và tai chúng nó sẽ điếc. Chúng sẽ liếm bụi như rắn,Như loài bò trên đất;Chúng sẽ run rẩy ra khỏi thành trì kiên cố,Chúng sẽ quay về với CHÚA, Đức Chúa Trời chúng tôi,Chúng sẽ kinh hãi và kính sợ Ngài. Ai là thần giống như Ngài,Tha thứ tội ác, bỏ qua sự vi phạmCủa dân sống sót thuộc cơ nghiệp Ngài?Ngài không giận mãi mãi,Vì Ngài vui thích tỏ bày tình yêu trung kiên. Ngài sẽ còn thương xót chúng con,Ngài sẽ chà đạp tội ác chúng con,Ngài sẽ ném bỏ mọi tội lỗi chúng con xuống đáy biển sâu. Ngài sẽ bày tỏ lòng thành tín đối với Gia-cốp,Tình yêu trung kiên đối với Áp-ra-ham,Như Ngài đã thề hứa với tổ tiên chúng conTừ những ngày xa xưa. Sách ghi lại lời Đức Chúa Trời báo trước về thành Ni-ni-ve cho Na-hum, người làng Ên-cốt, qua khải tượng. CHÚA là Đức Chúa Trời sốt sắng hoàn thành ý định Ngài.Ngài trừng phạt kẻ nào phá hoại mục tiêu của Ngài.CHÚA sẵn sàng trừng phạt,Ngài làm chủ cơn phẫn nộ,CHÚA trừng phạt những kẻ chống nghịch Ngài,Và nuôi cơn giận đối với những kẻ thù ghét Ngài. CHÚA chậm nóng giận và quyền năng vĩ đại,CHÚA không hề để kẻ phạm tội thoát khỏi hình phạt.Cuồng phong bão táp nổi dậy nơi nào Ngài bước đến,Mây là bụi do chân Ngài hất lên. Ngài quở biển, khiến nó khô cạn,Ngài làm cho mọi sông ngòi cạn tắt.Đồng cỏ Ba-san và vườn cây trái trên sườn núi Cạt-mên khô héo,Rừng hoa trên dãy núi Li-ban úa tàn. Ngài xuất hiện các núi rúng động,Các đồi tan chảy;Trước mặt Ngài, đất rung chuyểnToàn cầu chấn động, mọi người đều run sợ. Trước cơn phẫn nộ Ngài, ai đứng vững nổi?Ai chịu nổi sức nóng của cơn giận Ngài?Cơn thịnh nộ Ngài trút xuống như lửa,Đá tảng cũng phải vỡ tan trước mặt Ngài. CHÚA nhân từ,Ngài là thành trì kiên cố trong ngày hoạn nạn,Ngài chăm sóc những ai nương náu trong Ngài. Ngài dùng nước lũ dâng tràn diệt sạch những kẻ chống đối NgàiNhững kẻ thù ghét Ngài,Ngài xua đuổi vào cõi chết âm u. Các ngươi mưu đồ gì chống lại CHÚA?Ngài sẽ diệt sạch các ngươi!Hoạn nạn áp bức không thể nổi dậy lần thứ hai! Dù chúng có chằng chịt như bụi gai,Hoặc vênh váo như kẻ say.Chúng sẽ bị thiêu rụi như rơm khô. Từ nơi ngươi sẽ xuất hiệnKẻ mưu toan điều ác chống lại CHÚA,Kẻ bày mưu lập kế gian manh. CHÚA phán như vầy:Dù chúng có mạnh mẽ và đông đảo,Chúng sẽ bị hủy diệt và tiêu tan.Ta đã để cho các con bị khổ nhục,Các con sẽ không còn khổ nhục nữa. Giờ đây, Ta sẽ bẻ gãy ách của chúng đang đè trên các con,Và bứt đứt dây trói buộc các con. CHÚA truyền lệnh này về quân A-si-ri:Các ngươi sẽ không có con cháu nối dõi tông đường,Ta sẽ dẹp bỏ tượng tạc, tượng đúcKhỏi miếu thần các ngươi,Ta sẽ đặt phần mộ cho các ngươi,Vì các ngươi hèn mạt. Kìa, bàn chân của sứ giả báo tin mừngVượt qua các núi đồi,Loan báo “Bình an!”Hỡi Giu-đa, hãy cử hành các ngày lễ,Hãy hoàn thành lời con hứa nguyện,Vì kẻ gian manh sẽ không còn xâm chiếm con nữa,Nó sẽ bị tận diệt. Hỡi Ni-ni-ve, kẻ tàn phá đang xông thẳng vào ngươi!Hãy cố thủ các đồn lũy,Canh phòng đường cái quan!Hãy chuẩn bị chiến đấuRa sức củng cố toàn quân! Vì CHÚA sắp khôi phục lại vinh quang của Gia-cốp,Phải, vinh quang của Y-sơ-ra-ên,Vì bọn cướp bóc đã cướp sạch dân TaVà hủy phá các nhành nho. Các chiến sĩ nó mang khiên đỏ tươi,Mặc binh phục đỏ thắm;Xe chiến mã rực sáng như lửaTrong ngày dàn trận,Gươm giáo vung lên. Xe chiến mã chạy loạn xạ qua các đường phố,Vòng đi vòng lại trong các quảng trường;Chúng trông như những ngọn đuốc,Phóng đi như chớp. Các tướng lãnh được triệu tập,Họ vấp ngã khi vội vàng chạy đến bên thành lũy,Họ dựng mái che chống lằn tên mũi giáo.Những người khiêng súc gỗ bịt sắt đến để húc đổ tường thành. Các cửa cống chặn nước sông hồ đều bị mở tung,Mọi người trong cung điện đều kinh hoàng. Tượng nữ thần bị lột hết trang sức,Đem đi lưu đày,Các nữ tỳ rên rỉ như chim bồ câu,Đấm ngực than khóc. Dân thành Ni-ni-ve trốn chạyNhư nước vỡ bờ.Có tiếng quát tháo:“Đứng lại! Đứng lại!”Nhưng không ai quay lại. Hãy cướp bạc, cướp vàng,Vì kho tàng nó vô tận,Mọi thứ bảo vật nhiều vô số. Nó bị tàn phá tan hoang, điêu tàn.Ai nấy sợ hãi, gối run lẩy bẩy,Người như mềm nhũn ra, mặt mày tái mét. Nào hang sư tử ở đâu,Nơi sư tử con được cho ăn,Nơi sư tử cha và sư tử mẹ tụ vềCùng với sư tử con, bình an vô sự. Sư tử xé mồi cho đàn con,Vồ mồi cho sư tử cái;Nó chứa mồi đầy hang,Chứa thịt thú vật bị cắn xé đầy ổ. CHÚA Vạn Quân phán:Này, Ta chống nghịch ngươi:Xe chiến mã ngươi, Ta sẽ đốt cháy tan thành mây khói,Gươm sẽ ăn nuốt sư tử con của ngươi,Ta sẽ dẹp khỏi xứ mồi ngươi tha về,Không ai còn nghe tiếngCủa các sứ giả ngươi nữa! Khốn thay cho thành làm đổ máu,Toàn mưu chước lừa dối,Chứa đầy của cướp giật,Mồi chất không hề vơi! Kìa, tiếng roi vun vút,Tiếng bánh xe rầm rầm,Vó ngựa phi dồn dập,Xe chiến mã chồm lên lao thẳng tới. Kỵ binh xông ào đến,Gươm vung lấp lánh,Giáo phóng như chớp.Bao nhiêu là thương vong,Tử thi chất thành đống,Xác chết nhiều vô số,Chúng đạp lên, vấp ngã! Ni-ni-ve là gái mại dâm nhiều mánh khóe,Đẹp đẽ, duyên dáng, có tài mê hoặc.Nó dùng mánh khóe mại dâm bán các nước,Dùng tài mê hoặc bán các dân. CHÚA Vạn Quân phán:Này, Ta chống nghịch ngươi:Ta sẽ kéo váy ngươi lên phủ mặt,Cho các dân tộc thấy ngươi lõa lồ,Cho các vương quốc thấy ngươi ô nhục. Ta sẽ ném vật ô uế lên mình ngươi,Khiến ngươi bị khinh miệt,Bêu ngươi lên cho người ta thấy. Bấy giờ, mọi kẻ nhìn thấy ngươi sẽ rùng mình, quay đi và nói:Ni-ni-ve đổ nát điêu tàn! Ai sẽ than khóc nó?Ta tìm đâu cho ngươi những người an ủi? Ngươi có trội hơn Nô-A-môn,Thành phố nằm bên bờ sông Ninh,Có nước bao quanh,Có biển làm chiến lũy,Nước làm tường thành không? Cu-sơ và Ai-cập là sức mạnh của nó, quyền lực nó vô hạn.Pút và Lu-bim là đồng minh của nó. Thế nhưng Nô-A-môn vẫn bị lưu đày,Bị đưa đi làm phu tù.Con thơ nó vẫn bị ném vào đá tan xácỞ khắp các ngả đường góc phố.Người ta bắt thăm chia nhau hàng quý tộc,Mọi kẻ quyền cao đều phải mang xiềng. Ngươi cũng vậy, ngươi cũng sẽ say mèm,Mê man bất tỉnh.Ngươi cũng vậy, ngươi sẽ tìm nơi ẩn núpĐể trốn khỏi kẻ thù. Mọi thành trì kiên cố của ngươiLà những cây vả đầy trái chín đầu mùa;Chỉ cần rung cây, trái sẽ rụng xuống,Rơi ngay vào miệng người ăn! Kìa, quân sĩ trong xứ ngươi là đàn bà!Cửa ải đất nước ngươi mở rộng đón quân thù.Lửa đã thiêu nuốt các then cài ngang cổng. Hãy kéo nước lên trữ phòng khi bị vây hãm,Hãy củng cố thành trì!Hãy nhào nặn đất sét,Đạp hồ, chuẩn bị khuôn làm gạch! Dù vậy tại nơi đó, lửa sẽ thiêu nuốt ngươi,Gươm sẽ hủy diệt ngươi,Ăn nuốt ngươi như cào cào ăn sạch mùa màng.Hãy tăng cường quân số như cào cào!Hãy tăng cường như châu chấu! Ngươi đã tăng thêm số thương giaNhiều hơn sao trên trời.Nhưng tất cả đều như cào càoDang cánh bay xa. Các quan chức trong triều của ngươi đông như châu chấu,Các tướng lãnh của ngươi như đàn cào càoĐóng trại trong các kẽ đá tường rào trong ngày giá lạnh.Khi mặt trời mọc lên, cào cào bay mất,Không ai biết chúng bay đi nơi nào. Hoàng đế A-si-ri, những kẻ chăn của ngươi đã ngủ,Hàng quý tộc của ngươi đã an giấc ngàn thu!Dân ngươi tản lạc trên các núi đồi,Không ai tập họp chúng về. Vết thương ngươi không phương cứu chữa,Vết đòn ngươi thật trầm trọng.Ai nghe tin ngươi bị thương vong,Đều vỗ tay mừng rỡ.Thật, có ai thoát khỏi sự thống trịTàn ác vô biên của ngươi đâu? Đây là sứ điệp CHÚA ban cho tiên tri Ha-ba-cúc qua khải tượng. Lạy CHÚA, con phải kêu van đến bao giờNgài mới chịu nghe?Con phải kêu lên: “Chúa ơi! bạo ngược!” cho đến khi nàoNgài mới giải cứu? Sao Ngài bắt con chứng kiến toàn chuyện bất công?Sao Ngài tiếp tục lặng nhìn nỗi khổ đau?Chung quanh con, người ta dùng bạo lực hủy diệt nhau,Người ta kiện tụng tranh giành. Vì thế, Kinh Luật đành bó tay,Không còn ai xét xử công bình nữa.Vì bọn gian ác áp đảo người công chính,Cho nên công lý bị bóp méo. Các con hãy nhìn các dân tộc chung quanh, hãy trố mắt nhìn,Hãy kinh ngạc sững sờ,Vì Ta đang làm một việc ngay trong thời buổi các con,Nếu có ai thuật lại,Các con cũng không ngờ. Vì này, Ta sẽ khiến dân Ba-by-lôn nổi dậy,Một dân hùng hổ hung hăng;Chúng sẽ băng ngang lục địa rộng thênh thang,Xâm chiếm nhà cửa không thuộc về mình. Chúng đến đâu cũng gieo rắc kinh hoàng khiếp đảm,Chúng tự cao tự đại,Tự đặt luật lệ cho mình xét xử. Ngựa chiến chúng phi nhanh hơn loài báo,Dữ tợn hơn muông sói săn mồi ban đêm.Kỵ binh chúng phóng đến từ xa,Bay lượn như đại bàng sà xuống vồ mồi. Tất cả bọn chúng ùa tới cướp phá bạo tàn,Chúng nghênh mặt xông lên như gió đông,Gom góp tù binh đông như cát. Chúng là bọn khinh chê các vua,Nhạo cười các lãnh tụ,Khinh thường mọi thành trì kiên cố,Chuyên đắp mô dốc sát vào tường và đánh chiếm các thành. Rồi chúng xoay chiều như gió, kéo đi theo hướng khác;Chúng phạm tội tôn sức mạnh mình lên làm thần. Lạy CHÚA, phải chăng từ ngàn xưa đã có Ngài?Lạy Đức Chúa Trời của con, Đấng Thánh của con, Ngài hằng có đời đời!Lạy CHÚA, Ngài đặt quân thù lên để xét xử!Lạy Chúa là Vầng Đá che chở chúng con,Ngài lập chúng nó lên để sửa phạt chúng con! Mắt Chúa thánh sạch quá, không thể nhìn điều ác,Ngài không thể nhìn xem cảnh khổ đau.Sao Ngài cứ lặng nhìn bọn dối gạt,Sao Ngài nín lặng khi bọn ácNuốt người công bình hơn chúng? Ngài khiến cho loài người giống như cá dưới biển,Như loài bò sát không ai hướng dẫn. Quân Ba-by-lôn thả câu bắt tất cả mọi người,Quăng chài kéo họ lên,Và gom họ lại trong lưới.Do đó, chúng vui mừng hớn hở! Vì thế, chúng dâng sinh tế cho chài mình,Đốt của lễ tỏa mùi thơm cho lưới mình,Vì nhờ những vật ấy, chúng được tiền của dư dật,Ăn uống thỏa thuê. Chúng vẫn tiếp tục giũ sạch chài mình,Mãi mãi tàn sát các dân tộc không chút xót thương sao? Tôi quyết tâm đứng chầu nơi tháp canh,Giữ vững vị trí tại đồn gác,Chờ xem Ngài bảo tôi điều gì,Và tôi phải giải quyết thế nào về lời kêu than của tôi. CHÚA bảo tôi:“Con hãy viết xuống khải tượng,Ghi khắc rõ ràng trên bảng đá,Để người nào chạy ngang qua cũng đọc được. Vì còn phải chờ đúng thời điểm khải tượng mới ứng nghiệm,Nó hối hả chạy đến giai đoạn cuối,Nó sẽ thành hiện thực.Nếu nó dường như chậm trễ, con hãy trông chờ nó,Vì khải tượng chắc chắn sẽ thực hiện, không nấn ná, chần chờ. Xem kìa, kẻ tự cao!Nó không có sự sống thật,Nhưng người công chính sẽ sống bởi đức tin của mình.” Phải, của cải thường dối gạt,Bọn mạnh sức tự cao không được nghỉ.Lòng tham chúng rộng mở như âm phủ,Như tử thần, chúng không hề thỏa mãn.Chúng gom mọi nước về cho mình,Thâu tóm mọi dân về cho chúng. Mọi dân, mọi nước ấy sẽ hát ca dao châm chọc,Sẽ đặt vè chế nhạo bọn cường quyền.Khốn thay kẻ chất chứa của cải không thuộc về mình,Chất lên mình những món đồ người ta cầm để vay mượn!Nó tiếp tục làm như vậy cho đến bao giờ? Những kẻ mắc nợ ngươi sẽ bất ngờ chổi dậy,Họ sẽ thức dậy và làm cho ngươi run sợ,Và ngươi sẽ trở thành chiến lợi phẩm của họ! Vì ngươi đã cướp bóc nhiều dân tộc,Nên tất cả những dân tộc ấy sẽ cướp bóc ngươi.Vì ngươi đã phạm tội làm đổ máu,Gây bạo hành trên đất, trong các thành,Và sát hại mọi dân cư trong thành. Khốn thay cho kẻ kiếm lợi bất nghĩa cho nhà mình,Để xây tổ mình trên nơi cao,Mong thoát khỏi tai ương! Ngươi bày mưu kế chỉ để chuốc sỉ nhục cho nhà mình:Khi ngươi sát hại nhiều dân tộc,Ngươi đã đánh mất mạng sống mình! Thật, ngay cả hòn đá nơi vách nhà cũng kêu gào tố cáo ngươi,Và gỗ sườn nhà cũng đồng thanh đáp lại! Khốn thay cho kẻ gây đổ máu để xây thành,Làm tội ác để củng cố thành trì! Này, phải chăng mọi việc xảy ra đều từ CHÚA Vạn Quân?Các dân tộc làm việc nhọc nhằn để cho lửa thiêu hủy;Các quốc gia lao động mệt mỏi chỉ để phí công. Vì mọi người trên đất sẽ biết vinh quang của CHÚANhư biển ngập tràn nước. Khốn thay cho kẻ ép nài bạn bèUống chén độc hại để cho họ say,Để có dịp ngắm sự lõa lồ của họ! Ngươi sẽ nhục nhã ê chề thay vì được vinh quang!Chính ngươi hãy uống đi, và để lộ cho người ta thấy ngươi không cắt bì!Đến phiên ngươi sẽ nhận chén từ tay phải CHÚA trao,Và vinh quang ngươi sẽ biến thành sỉ nhục. Vì ngươi hủy phá rừng Li-ban, ngươi sẽ bị hủy phá;Ngươi sát hại loài cầm thú, ngươi sẽ làm chúng kinh hãi!Vì ngươi đã phạm tội làm đổ máu,Gây bạo hành trên đất, trong các thành,Và sát hại mọi dân cư trong thành. Ích gì cho một hình tượng do người thợ gọt đẽo,Một tượng đúc bằng kim loại? Toàn là thầy dạy chuyện dối gạt!Ích gì khi người thợ tin cậy vật mình làm ra,Những thần tượng câm? Khốn thay cho kẻ nài xin tượng gỗ: “Xin Ngài thức dậy!”Hoặc tượng đá câm: “Xin Ngài chỗi dậy!”Tượng ấy có dạy dỗ được chăng?Kìa, tượng mạ vàng, mạ bạc đẹp đẽ,Nhưng trong nó chẳng có chút hơi thở! Nhưng CHÚA ngự trong đền thánh Ngài.Toàn dân trên đất, hãy im lặng trước mặt Ngài! Đây là lời cầu nguyện của tiên tri Ha-ba-cúc. Lạy CHÚA, con đã nghe về Ngài,Về công việc Ngài, và con kính sợ CHÚA.Xin Chúa làm công việc Ngài trong thời đại chúng con,Xin Chúa bày tỏ công việc Ngài trong thời đại chúng con;Trong cơn giận, xin Chúa nhớ xót thương! Đức Chúa Trời đến từ vùng Tê-man,Đấng Thánh xuất hiện từ dãy núi Pa-ran.Vinh quang Ngài rực rỡ cả bầu trời,Lời chúc tụng Ngài tràn ngập đất. Hào quang Ngài chiếu sáng như chớp nhoáng,Tia sáng phát ra từ tay Ngài,Nơi ẩn giấu quyền năng Ngài. Ngài sai bệnh tật đi trước Ngài,Bảo dịch lệ nối gót Ngài. Ngài đứng yên, đo lường địa cầu;Ngài nhìn dò xét đến nỗi các dân tộc phải sợ run lên,Các núi lâu đời phải bể tan nát,Các đồi cổ xưa phải lún sâu xuống.Đường lối Ngài hằng còn mãi mãi. Tôi thấy những người sống trong lều ở Cúc-san khổ sở,Và những người sống trong lều ở Ma-đi-an run sợ. Lạy CHÚA, có phải Ngài nổi giận với sông ngòi?Các dòng sông có làm Ngài bừng giận,Hoặc biển cả làm Ngài phẫn nộ,Khi Ngài cưỡi ngựa chiến,Và xe chiến mã khải hoàn? Ngài lột trần cây cung,Mũi tên là lời thề Ngài phán.Ngài dùng sông ngòi xẻ đất. Núi đồi rung chuyển khi thấy Ngài;Mưa trút xuống ào ào như thác đổ.Vực sâu gào thét,Ngọn sóng dâng cao. Mặt trời, mặt trăng dừng lại nơi chúng ở,Khi mũi tên Ngài lướt ngang sáng chói,Khi ngọn giáo Ngài lóe lên như chớp. Trong cơn giận, Ngài rảo quanh cõi đất,Trong cơn phẫn nộ, Ngài chà đạp các dân tộc. Ngài ra đi giải cứu dân mình,Đem sự cứu chuộc đến cho người được Ngài xức dầu.Ngài đập nát đầu bọn gian ác,Phơi trần chúng từ cổ đến chân. Ngài dùng tên của các chiến sĩ bắn thủng đầu bọn chúng,Khi chúng ập tới như vũ bão để đánh chúng tôi tan tác,Khi chúng reo mừngNhư sẵn sàng ăn nuốt người nghèo trong nơi kín. Ngài cưỡi ngựa đạp trên biển cả,Khiến sóng to dậy lên, nổi bọt. Vừa nghe xong, toàn thân tôi run rẩy,Môi tôi run lập cập,Xương cốt tôi rã rời,Bước chân đi lảo đảo.Tôi bình tâm chờ ngày hoạn nạnGiáng xuống dân xâm chiếm chúng tôi. Dù cây vả ngưng trổ bông,Vườn nho không ra trái,Vườn ô-liu thất mùa,Ruộng nương không hạt lúa,Ràn mất hết chiên dê,Chuồng hết sạch bê bò, Tôi vẫn vui mừng trong CHÚA,Tôi vẫn hớn hở trong Đức Chúa Trời là Đấng giải cứu tôi. CHÚA Toàn Năng là nguồn sức mạnh của tôi,Ngài khiến cho chân tôi vững vàng như chân nai,Ngài dẫn tôi đi trên các đỉnh núi.Gởi cho nhạc trưởng, dùng với đàn dây. Đây là sứ điệp CHÚA ban cho Sô-phô-ni khi vua Giô-si-a, con A-môn, trị vì nước Giu-đa. Sô-phô-ni là con ông Cúc-si, cháu ông Ghê-đa-lia, chắt ông A-ma-ria, chít ông Ê-xê-chia. CHÚA phán:“Ta sẽ quét sạch tất cả khỏi mặt đất.” CHÚA phán:“Ta sẽ quét sạch người và thú,Ta sẽ quét sạch chim trời và cá biển;Ta sẽ lật đổ bọn gian ác,Ta sẽ diệt trừ loài người khỏi mặt đất. Ta sẽ dang tay đánh phạt dân Giu-đa,Và toàn thể dân cư Giê-ru-sa-lem.Ta sẽ diệt trừ khỏi chốn này tàn tích của thần Ba-anh,Xóa sạch tên những kẻ chuyên lo việc cúng tế tà thầnCùng với những thầy tế lễ đã xây bỏ Ta. Ta sẽ tận diệt những kẻ leo lên mái nhàQuỳ lạy mặt trời, mặt trăng, và các vì sao.Ta sẽ tận diệt những kẻ thờ phượng Ta,Hứa nguyện trung thành với Ta nhưng rồi cũng thề hứa với thần Minh-côm Ta cũng sẽ tận diệt những kẻ xây bỏ Ta,Những kẻ không tìm cầu Ta,Không xin Ta chỉ dạy.” “Hãy yên lặng trước mặt CHÚA Toàn Năng!”Vì ngày CHÚA phán xét gần đến;Vì CHÚA đã chuẩn bị sinh tế,Ngài đã mời khách, bảo họ thánh hóa. CHÚA phán:“Trong ngày dâng sinh tếTa sẽ trừng phạt các quan chức,Dòng họ nhà vuaVà mọi kẻ theo phong tục tập quán nước ngoài. Ngày ấy, Ta sẽ trừng phạtMọi kẻ nhảy ngang qua ngưỡng cửa, như dân ngoại,Và những kẻ chất đầy nhà chủ mìnhCủa cải chiếm đoạt do bạo hành và gian dối.” CHÚA phán: “Ngày ấy,Sẽ có tiếng kêu la từ cổng Cá,Tiếng khóc than từ quận nhì,Tiếng đổ bể lớn lao từ các đồi. Hỡi dân cư phố Cối, hãy khóc than!Vì mọi kẻ buôn bán sẽ bị tiêu diệt,Mọi kẻ cân bạc sẽ bị diệt vong. Trong thời ấy, Ta sẽ cầm đèn lục soát thành Giê-ru-sa-lem,Và Ta sẽ trừng phạtNhững kẻ tự mãn tự đại như rượu đặc sệt trên lớp cặn,Những kẻ tự nhủ trong lòng:‘CHÚA sẽ không ban phước, cũng chẳng giáng họa.’ Tài sản chúng sẽ bị cướp phá,Nhà cửa chúng sẽ bị tan hoang,Chúng sẽ không được ở trong nhà chúng xây,Cũng chẳng được uống rượu vườn nho chúng trồng.” Ngày trọng đại khi CHÚA phán xét gần đến,Đến gần rồi, và đến thật mau!Ngày CHÚA phán xét, có tiếng vang kinh hồn,Tiếng binh sĩ hô hào xung trận! Ngày ấy là ngày Chúa trút cơn phẫn nộ,Ngày gian truân khốn đốn,Ngày tàn phá tan hoang, ngày tăm tối âm u,Ngày mây mù vần vũ, Ngày tù và thổi vang rền với tiếng hét xung phong,Tiến đánh các thành trì kiên cố,Có tháp cao ở góc tường thành. CHÚA phán:“Ta sẽ gây cho dân chúng khốn đốnĐến nỗi chúng mò mẫm như người mù,Vì chúng đã phạm tội với Ta.Máu chúng sẽ đổ ra như nước,Và thây chúng thối rữa như phân.” Ngay cả bạc hoặc vàng của chúngCũng không thể cứu chúng được.Trong ngày CHÚA nổi giận;Lửa ghen Ngài sẽ thiêu nuốt cả đất.Thật khủng khiếp vô cùng!Ngài sẽ tiêu diệt mọi dân cư trên đất. Hỡi đám dân mặt dày mày dạn không biết xấu hổ kia,Hãy tập họp lại, hãy nhóm họp lại, Trước khi nghị quyết được ban hành,Và ngày giờ trôi qua như rơm rác,Trước khi cơn thịnh nộ của CHÚAGiáng xuống các ngươi,Trước khi ngày CHÚA nổi giậnGiáng xuống các ngươi! Hỡi mọi người khiêm nhường trên đất,Là những người vâng giữ mạng lệnh Ngài,Hãy tìm cầu CHÚA!Hãy tìm sự công chính,Tìm đức khiêm nhường,Biết đâu anh chị em sẽ được CHÚA che chở trong ngày Ngài nổi giận! Thật, Ga-xa sẽ bị bỏ hoang,Ách-ca-lôn sẽ điêu tàn,Dân Ách-đốt sẽ bị đuổi đi giữa trưa,Dân Éc-rôn cũng sẽ bị bứng gốc. Khốn thay cho dân Cơ-rết, sống ven biển!Lời CHÚA phán nghịch cùng các ngươi:“Khốn thay cho Ca-na-an, đất của dân Phi-li-tin!Ta sẽ tận diệt ngươi, cho đến nỗi không còn ai cư trú.” Miền ven biển sẽ trở thành đồng cỏ,Nơi bọn chăn đào giếng dựng ràn cho chiên. Những người còn sống sót trong dân Giu-đaSẽ chiếm hữu miền ven biển.Họ sẽ chăn chiên tại đó,Họ sẽ nghỉ đêm trong các nhà bỏ hoang ở Ách-ca-lôn,Vì CHÚA là Đức Chúa Trời của họ sẽ thăm viếng họ,Và phục hồi đất nước họ. CHÚA phán:“Ta có nghe lời sỉ nhục của dân Mô-áp,Và lời mắng nhiếc của dân Am-môn.Chúng nó sỉ nhục dân Ta,Và khoe khoang vì đã xâm lấn bờ cõi dân Ta. Vậy nên, Ta là CHÚA Vạn Quân,Là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy:Thật như Ta hằng sống,Mô-áp sẽ trở nên như Sô-đôm,Và Am-môn sẽ như Gô-mô-rơ.Đất nước chúng sẽ mãi mãi hoang vu,Chỉ có gai gốc và ruộng muối.Những người sống sót trong dân Ta sẽ cướp bóc chúngVà xâm chiếm lãnh thổ chúng.” Đó là hình phạt vì tội ngạo mạn của chúng,Vì chúng đã sỉ nhục dân của CHÚA Vạn Quân,Và khoe khoang vì đã xâm lấn bờ cõi dân Ngài. Chúng sẽ khiếp sợ CHÚA,Ngài sẽ bỏ đói mọi thần trên thế giới.Bấy giờ mọi dân trong mọi nước sẽ thờ lạy NgàiNgay trên đất nước mình. CHÚA phán: “Còn các ngươi, dân Ê-thi-ô-bi,Các ngươi sẽ chết vì gươm của Ta.” Ngài cũng sẽ dang tay ra đánh phương bắc:Ngài sẽ hủy diệt dân A-si-ri,Và Ngài sẽ khiến thành Ni-ni-ve trở nên hoang địa,Khô cằn như sa mạc. Các đàn bò, đàn chiên, và thú vật mọi loàiSẽ nằm nghỉ giữa thành.Chim cú cũng làm tổ trên đỉnh các cột nhà,Kêu vọng qua cửa sổ.Đến ngưỡng cửa đã thấy cảnh đổ nát vì mọi thứ gì trong nhà bằng gỗ bá hương đã bị dỡ đi. Đó là số phận của thành dương dương tự đắc,Tưởng mình trị vì yên ổn,Và tự nhủ trong lòng:“Ta đây, ngoài ta, không còn ai cả!”Thật nó sẽ trở thành hoang địa,Hang động cho thú rừng.Ai đi ngang qua thành sẽ huýt sáo khinh chê,Hất tay xua đuổi. Khốn thay cho thành phản loạn, ô uế,Áp bức dân mình! Nó không nghe lời,Không chịu sửa dạy,Không tin cậy CHÚA,Không kêu cầu Đức Chúa Trời mình. Các quan chức trong thànhLà sư tử gầm rống,Các thẩm phán là chó sói săn mồi ban đêm,Không để dành chi đến sáng mai. Các tiên tri ba hoa khoác lác,Nói điều dối gạt.Các thầy tế lễ làm ô uế đền thánh,Bóp méo Kinh Luật. Nhưng CHÚA là Đấng công chính ngự giữa thành,Ngài không làm điều ác.Mỗi buổi sáng, Ngài thi hành sự phán xét,Không hề sai hẹn như buổi rạng đông.Nhưng kẻ ác không biết xấu hổ. CHÚA phán:“Ta đã hủy diệt các dân tộc,Phá đổ các tháp ở góc tường thành có lỗ châu mai.Ta làm cho đường sá hoang vu,Không người qua lại.Ta khiến cho thành phố tiêu điều,Không một bóng người, không ai cư ngụ. Ta nghĩ thầm: ‘Chắc chắn dân Ta sẽ kính sợ Ta,Chúng sẽ chịu sửa dạy.Chúng sẽ không quênMọi điều Ta làm cho chúng.’Nhưng rồi chúng lại càng sốt sắng làm mọi việc gian ác.” CHÚA phán: “Vì thế, các ngươi hãy chờ Ta,Chờ ngày Ta chổi dậy làm nhân chứng buộc tội.Vì Ta đã quyết định án phạt: Ta sẽ quy tụ các dân,Tập họp các vương quốc lại,Để trút xuống đầu chúng cơn phẫn nộ của Ta,Trút sạch cơn giận của Ta,Vì lửa ghen của Ta sẽ thiêu nuốt cả đất.” “Bấy giờ, Ta sẽ biến đổi các dân,Ban cho họ môi miệng tinh sạch,Để tất cả đều kêu cầu danh Ta, là CHÚA,Và cùng nhau chung vai phụng thờ Ta. Những người cầu khẩn Ta,Tức con dân Ta đã bị tản mác tận bên kia sông Ê-thi-ô-bi,Sẽ dâng lễ vật cho Ta. Ngày ấy, con sẽ khỏi phải xấu hổVề mọi điều ác con đã phạm nghịch cùng Ta,Vì bấy giờ, Ta sẽ loại bỏ khỏi conNhững kẻ dương dương tự đắc,Và con sẽ không còn ngạo mạn nữaTrên núi thánh của Ta. Nhưng Ta sẽ chừa lại giữa vòng conMột nhóm dân nghèo nàn khốn khổ,Và chúng sẽ nương náu mình trong danh CHÚA. Dân sót lại của Y-sơ-ra-ênSẽ không làm điều ác,Không nói điều gian dối,Không có miệng lưỡi phỉnh gạt.Thật chúng sẽ như chiên được ăn cỏ thỏa thuêVà nằm ngủ bình an,Không ai làm cho chúng sợ hãi.” Hỡi Si-ôn, thành phố đáng thương, hãy ca hát!Hỡi dân Y-sơ-ra-ên, hãy reo mừng!Hỡi Giê-ru-sa-lem, thành phố đáng thương,Hãy hết lòng mừng vui hớn hở! CHÚA sẽ cất án phạt khỏi ngươi,Ngài sẽ dẹp bỏ kẻ thù ngươi.CHÚA là Vua của Y-sơ-ra-ên, ngự giữa ngươi,Ngươi không cần phải sợ tai ương nữa. Ngày ấy, người ta sẽ nói với Giê-ru-sa-lem:“Hỡi Si-ôn, đừng sợ!Đừng ngã lòng! CHÚA là Đức Chúa Trời ngươi, ngự giữa ngươi,Ngài có quyền giải cứu.Ngài sẽ vui mừng khôn xiết vì ngươi,Ngài ban cho ngươi sự sống mới vì Ngài yêu ngươiNgài sẽ vui mừng ca hát vì ngươi, Như người ta vui mừng trong ngày lễ.”CHÚA phán:“Ta sẽ cất bỏ tai ách khỏi con,Để con khỏi phải chịu nhục nhã nữa. Này, lúc bấy giờ, Ta sẽ phạt mọi kẻ bức hiếp con.Ta sẽ cứu chữa những kẻ yếu đau què quặt,Ta sẽ tập họp những kẻ lưu đày tản mát,Ta sẽ biến sự xấu hổ của con thành tiếng tăm lừng lẫy,Và mọi người khắp đất sẽ ca ngợi con. Lúc ấy, khi Ta tập họp các con lại,Ta sẽ đem các con về.Thật, Ta sẽ cho các con tiếng tăm lừng lẫy,Và mọi dân khắp đất sẽ ca ngợi các con.Ta sẽ phục hồi vận mạng các con,Và chính mắt các con sẽ xem thấy.”CHÚA phán vậy. Vào ngày mồng một tháng sáu, năm thứ hai đời Vua Đa-ri-út, Lời của CHÚA cậy tiên tri Ha-gai phán cùng Xô-rô-ba-bên, con trai của Sê-anh-thi-ên, thống đốc Giu-đa và Giô-suê, con trai của Giê-hô-gia-đát, thầy thượng tế: “CHÚA Vạn Quân phán như vầy: Dân này nói: ‘Bây giờ chưa phải là lúc chúng ta xây lại đền thờ của CHÚA.’” Nhưng lời của CHÚA cậy tiên tri Ha-gai phán rằng: “Bây giờ có phải là lúc các ngươi sống trong nhà lót ván, còn nhà này thì lại hoang tàn không? Vậy, giờ đây CHÚA Vạn Quân phán như vầy: Hãy suy xét kỹ đường lối của các ngươi. Các ngươi gieo nhiều nhưng gặt ít; ăn mà không no; uống nhưng không đã khát. Các ngươi mặc quần áo, nhưng không đủ ấm; các ngươi làm việc lãnh lương, nhưng bỏ vào túi lủng.” Đây là điều CHÚA Vạn Quân phán: “Hãy suy xét kỹ đường lối của các ngươi.” CHÚA phán: “Hãy lên núi, đem gỗ về và xây nhà này để Ta vui lòng và được tôn vinh. Các ngươi mong nhiều, nhưng chẳng được bao nhiêu, khi các ngươi đem về nhà, Ta thổi bay đi hết. Tại sao vậy? CHÚA Vạn Quân phán: Vì nhà của Ta vẫn còn hoang tàn trong khi đó các ngươi mỗi người lại bận bịu với nhà riêng mình. Vậy nên, vì cớ các ngươi, trời giữ lại sương móc và đất giữ lại hoa màu. Ta đã đem hạn hán đến trên đất, trên núi non, trên hạt giống, trên rượu mới, trên dầu, trên hoa màu đồng ruộng, trên người, trên súc vật và trên mọi công việc tay các ngươi làm.” Bấy giờ Xô-rô-ba-bên con Si-anh-thi-ên, Giô-suê con của Giê-hô-gia-đát, thầy thượng tế và toàn dân còn lại vâng lệnh CHÚA, Đức Chúa Trời của họ, và những lời của tiên tri Ha-gai mà CHÚA, Đức Chúa Trời của họ đã phái đến; và dân chúng kính sợ CHÚA. Ha-gai, sứ giả của CHÚA đem sứ điệp của CHÚA đến cho dân chúng. CHÚA phán: “Ta ở với các ngươi.” CHÚA thúc đẩy tinh thần của Xô-rô-ba-bên con trai của Si-anh-thi-ên, thống đốc Giu-đa, tinh thần của Giô-suê, con trai Giê-hô-gia-đát, thầy thượng tế và tinh thần của dân còn lại; họ đến làm việc xây cất đền thờ CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của họ vào ngày hai mươi bốn tháng sáu năm ấy. Vào năm thứ hai đời Vua Đa-ri-út. Ngày hai mươi mốt tháng bảy, Lời của CHÚA cậy tiên tri Ha-gai phán rằng: “Bây giờ hãy hỏi Xô-rô-ba-bên, con trai Si-anh-thi-ên, thống đốc Giu-đa, Giô-suê, con trai của Giê-hô-gia-đát, thầy thượng tế và dân còn lại rằng: ‘Ai trong các ngươi còn sót lại đây đã từng thấy cảnh huy hoàng thuở xưa của đền thờ? Bây giờ các ngươi thấy nó thế nào? Trước mắt các ngươi hình như đền thờ này chẳng ra gì, phải không?’ Nhưng bây giờ, CHÚA phán: ‘Hỡi Xô-rô-ba-bên, hãy mạnh dạn lên! Hỡi Giô-suê, con trai Giê-hô-gia-đát, thầy thượng tế, hãy mạnh dạn lên! Hỡi toàn dân trong xứ, hãy mạnh dạn lên!’ CHÚA lại phán: ‘Hãy bắt tay vào việc, vì Ta ở với các ngươi!’ CHÚA Vạn Quân phán vậy. Đấy là lời Ta đã giao ước với các ngươi khi các ngươi ra khỏi Ai-cập. Thần Linh Ta vẫn ngự giữa các ngươi, chớ kinh sợ. Thật vậy, CHÚA Vạn Quân phán: ‘Chẳng bao lâu nữa, Ta sẽ làm rung chuyển các tầng trời và trái đất, biển cả và đất liền. Ta sẽ làm rung chuyển các quốc gia, và điều được ưa chuộng trong các quốc gia sẽ xuất hiện. Ta sẽ làm đền thờ này tràn ngập vinh quang, CHÚA Vạn Quân phán vậy.’ CHÚA Vạn Quân phán: ‘Bạc là của Ta, vàng là của Ta.’ CHÚA Vạn Quân phán: ‘Vinh quang của đền thờ này sẽ rạng rỡ hơn vinh quang đền thờ thuở xưa.’ CHÚA Vạn Quân phán: ‘Ta sẽ ban bình an thịnh vượng tại nơi này.’” Vào ngày hai mươi bốn tháng chín, năm thứ hai đời Vua Đa-ri-út, Lời của CHÚA đến với tiên tri Ha-gai: “CHÚA Vạn Quân phán: ‘Hãy hỏi các thầy tế lễ xem Kinh Luật dạy thế nào về trường hợp này: Nếu một người mang thịt thánh trong vạt áo và nếu vạt áo đụng vào bánh, thịt hầm, rượu, dầu hay bất cứ thức ăn nào, liệu thứ đó có trở nên thánh hay không?’ Các thầy tế lễ đáp: ‘Dạ không.’ Ha-gai hỏi tiếp: ‘Nếu một người bị ô uế vì chạm vào xác chết mà đụng vào bất cứ vật nào trong các thứ đó, liệu thứ đó có bị ô uế không?’ Các thầy tế lễ đáp: ‘Dạ có, thứ đó bị ô uế.’ Bấy giờ Ha-gai nói: ‘CHÚA phán: Cũng vậy, trước mặt Ta, dân này, đất nước này, mọi việc họ làm và mọi lễ vật họ dâng lên Ta tại nơi này đều bị ô uế. Nhưng giờ đây, các ngươi hãy để tâm suy nghĩ kỹ. Từ ngày này trở về trước, khi các ngươi chưa đặt một tảng đá này trên tảng đá kia để xây lại đền thờ CHÚA; tình trạng các ngươi thể nào? Người ta đến vựa lúa để cân hai trăm kí nhưng chỉ được một trăm. Người ta đến bồn rượu để chiết ra một trăm lít nhưng chỉ được bốn mươi.’ CHÚA phán: ‘Ta đã sai nắng hạn, nấm mốc và mưa đá làm tàn lụi mọi cây cối mùa màng tay các ngươi trồng nhưng các ngươi vẫn không trở lại với Ta.’ Hãy để tâm suy nghĩ kỹ, từ nay trở đi, từ ngày hai mươi bốn tháng chín, ngày đặt nền móng đền thờ CHÚA. Hãy để tâm suy nghĩ kỹ: ‘Vựa lẫm không còn hạt giống phải không? Ngay cả cây nho, cây vả, cây lựu và cây ô-liu cũng chưa ra trái. Nhưng kể từ nay, Ta sẽ ban phước cho các ngươi.’” Vào ngày hai mươi bốn tháng ấy, lời của CHÚA đến với Ha-gai lần thứ hai như sau: “Hãy nói với Xô-rô-ba-bên, thống đốc Giu-đa rằng: ‘Ta sẽ làm rung chuyển các tầng trời và trái đất. Ta sẽ lật đổ ngai vàng các vua chúa và đập tan quyền lực các vương quốc ngoại bang. Ta sẽ lật đổ xe chiến mã cùng người lái xe; kỵ binh và chiến mã sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm của anh em mình.’ CHÚA Vạn Quân phán: ‘Trong ngày ấy, Ta sẽ chọn con, Xô-rô-ba-bên, con trai của Si-anh-thi-ên, làm đầy tớ Ta.’ CHÚA phán: ‘Ta sẽ đặt con làm nhẫn ấn tín, vì Ta đã chọn con.’ CHÚA Vạn Quân phán như vậy.” Vào tháng tám năm thứ hai triều Hoàng Đế Đa-ri-út, có lời CHÚA phán với tiên tri Xa-cha-ri, con Bê-réc-gia, cháu Ít-đô. Con hãy bảo dân chúng: “CHÚA đã nổi thịnh nộ với tổ phụ các ngươi.” CHÚA Vạn Quân phán: “Hãy quay về với Ta” đó là lời CHÚA. “Rồi Ta sẽ quay về với các ngươi,” CHÚA Vạn Quân phán. “Đừng cư xử giống như tổ phụ các ngươi khi các tiên tri ngày trước bảo chúng.” CHÚA Vạn Quân phán: “Hãy quay về, hãy từ bỏ lối sống gian ác và hành vi gian ác của các ngươi. Nhưng chúng chẳng vâng theo, chẳng chú ý gì đến Ta,” CHÚA phán. “Tổ phụ các ngươi đâu rồi? Các tiên tri có sống mãi từ đời này sang đời kia không? Nhưng lời Ta cảnh cáo và mạng lệnh Ta truyền qua các tôi tớ Ta là các tiên tri đã ứng nghiệm trong đời tổ phụ các ngươi, có phải không?”Bấy giờ dân chúng ăn năn, quay về và nói: “CHÚA Vạn Quân đã xử với chúng tôi theo lối sống và hành vi của chúng tôi, y như Ngài đã quyết định.” Vào ngày hai mươi bốn tháng mười một, là tháng Sê-bát, năm thứ hai triều Hoàng Đế Đa-ri-út, có lời CHÚA phán với tiên tri Xa-cha-ri, con Bê-réc-gia, cháu Ít-đô. Ban đêm, tôi nhìn thấy một người cưỡi ngựa mầu đỏ dừng lại trong trũng, giữa lùm cây sim. Phía sau người có những người cưỡi ngựa mầu đỏ, mầu hồng và mầu trắng. Tôi hỏi thiên sứ đang nói chuyện với tôi: “Thưa Chúa, những người này là ai?” Thiên sứ đáp: “Ta sẽ tỏ cho ngươi biết họ là ai.” Bấy giờ người dừng lại giữa lùm cây sim lên tiếng: “CHÚA sai những người này đi tuần khắp địa cầu.” Họ báo cáo lại với thiên sứ của CHÚA đang đứng giữa lùm cây sim: “Chúng tôi đã đi tuần khắp địa cầu, và mọi nơi đều bình yên.” Thiên sứ của CHÚA nài xin: “Lạy CHÚA, bảy mươi năm nay, Ngài đã nổi giận với thành Giê-ru-sa-lem và các thành trong xứ Giu-đa. Đến chừng nào Ngài mới thương xót chúng?” CHÚA dùng lời lẽ nhân từ an ủi thiên sứ đang nói chuyện với tôi. Thiên sứ đang nói chuyện với tôi bảo tôi: “Hãy loan báo: CHÚA Vạn Quân phán:Ta yêu mến Giê-ru-sa-lem đến mức ghen tương,Ta vì Si-ôn phát ghen dữ dội. Nhưng cơn giận Ta nổi bừng lên đối với các dân các nướcĐang sống thảnh thơi an nhàn,Vì Ta chỉ giận dân Ta chút ít thôi,Nhưng chúng đã gây thêm tai họa cho dân Ta.” Vì thế, CHÚA phán:“Ta quay về với Giê-ru-sa-lem trong tình thương xót,Đền thờ Ta sẽ được xây dựng lại trong thành.”Đó là lời CHÚA Vạn Quân phán:“Và thợ xây sẽ giăng dây ngang qua thành Giê-ru-sa-lem. Con hãy loan báo tiếp:CHÚA Vạn Quân phán:Các thành của Ta sẽ lại ngập tràn của cải,CHÚA sẽ lại an ủi Si-ôn.Ngài sẽ lại chọn thành Giê-ru-sa-lem.” Tôi ngước mắt lên nhìn, và này, có bốn cái sừng. Tôi hỏi thiên sứ đang nói chuyện với tôi: “Những sừng này có nghĩa gì?” Người đáp: “Đây là những sừng đã làm tan tác xứ Giu-đa, xứ Y-sơ-ra-ên, và thành Giê-ru-sa-lem.” Kế đến, CHÚA chỉ cho tôi thấy bốn người thợ rèn. Tôi hỏi: “Những người này đến làm gì?” Ngài đáp: “Những sừng này đã làm tan tác Giu-đa đến nỗi không một ai ngóc đầu lên được. Những người thợ rèn này đến để làm cho các sừng kinh hãi, và để chặt đứt các sừng của các nước đã giương sừng lên húc vào đất nước Giu-đa, làm cho nó tan tác.” Tôi ngước mắt lên nhìn, và này, có một người cầm trong tay một sợi dây dùng để đo. Tôi hỏi người ấy: “Anh đi đâu?” Người đáp: “Tôi đi đo thành Giê-ru-sa-lem, xem chiều rộng và chiều dài của thành là bao nhiêu.” Kìa, thiên sứ đang nói chuyện với tôi vừa đi ra, thì gặp một thiên sứ khác đến bảo: “Hãy chạy mau đến bảo thanh niên cầm dây đo.Giê-ru-sa-lem sẽ như làng mạc không tường bao bọc,Vì người và súc vật sống trong thành đông lắm.” CHÚA phán:“Chính Ta sẽ là bức tường lửa bao quanh thành,Và Ta sẽ là vinh quang ngự giữa thành.” “Hãy mau mau trốn khỏi đất phương bắc!đó là lời CHÚA;Nơi Ta đã rải các con ra theo gió bốn phương trời,”đó là lời CHÚA; “Các con đang sống tại Ba-by-lôn,Hãy mau trốn về Si-ôn!” Sau khi Đấng Vinh Quang sai tôi, CHÚA Vạn Quân phán về các dân tộc cướp bóc các ông bà:“Ai đụng đến các ngươi,Tức là đụng đến con ngươi mắt Ta. Này, Ta sẽ phất tay chống lại chúng,Thì chúng sẽ bị tôi mọi mình cướp bóc.”Bấy giờ, các ông bà sẽ biết rằng CHÚA Vạn Quân đã sai tôi. CHÚA phán:“Hỡi Si-ôn, con gái Ta,Hãy reo mừng hớn hở!Vì này, Ta đến ngự giữa các con.” Ngày ấy, nhiều dân tộc sẽ kết hợp với CHÚA.“Chúng sẽ là dân Ta, và Ta sẽ ngự giữa các con.”Và các ông bà sẽ biết rằng CHÚA Vạn Quân đã sai tôi đến với các ông bà. CHÚA sẽ nhận Giu-đa làm gia nghiệp của Ngài trong xứ thánh, và Ngài sẽ lại chọn thành Giê-ru-sa-lem. Này! Toàn thể nhân loại, hãy yên lặng trước mặt CHÚA! Vì Ngài chuẩn bị hành động trong nơi ngự thánh của Ngài. CHÚA cho tôi thấy thượng tế Giô-suê đứng chầu trước mặt thiên sứ của CHÚA, và Sa-tan đứng bên phải ông để buộc tội ông. CHÚA bảo Sa-tan: “Hỡi Sa-tan, cầu xin CHÚA khiển trách ngươi! CHÚA là Đấng chọn thành Giê-ru-sa-lem sẽ khiển trách ngươi! Người này phải chăng là que củi đang cháy, được kéo ra khỏi lửa?” Giô-suê mặc quần áo bẩn thỉu, đứng chầu trước mặt thiên sứ. Thiên sứ của CHÚA bảo các thiên sứ hầu cận: “Xem này, Ta đã cất bỏ tội ác của con, và cho con mặc quần áo tinh sạch.” Tôi nói: “Xin Ngài bảo họ đội mũ miện tinh sạch cho ông.” Và họ đội mũ miện tinh sạch lên đầu ông. Vậy họ trang phục cho ông trong khi thiên sứ của CHÚA đứng cạnh bên. Thiên sứ của CHÚA bảo Giô-suê: “CHÚA Vạn Quân phán như vầy:Nếu con bước đi theo đường lối của Ta,Và tuân giữ các mệnh lệnh Ta,Chính con sẽ xét xử trong nhà Ta,Và cai quản các sân đền thờ Ta,Và Ta sẽ cho phép con đi lạiGiữa các thiên sứ đứng chầu Ta đây.” “Hỡi thượng tế Giô-suê, con và các bạn đồng nghiệp, cùng ngồi xét xử với con, hãy lắng nghe! Vì con và họ là điềm báo trước rằng Ta sắp cho đầy tớ Ta là Chồi non xuất hiện. Xem này hòn đá Ta đặt trước mặt Giô-suê, một hòn đá có bảy mắt. Chính Ta sẽ khắc chữ trên hòn đá ấy, CHÚA Vạn Quân phán, và Ta sẽ cất bỏ tội ác của đất nước này trong một ngày. Ngày ấy, CHÚA Vạn Quân phán, các con sẽ mời mọc nhau dưới bóng cây nho và cây vả.” Vị thiên sứ nói chuyện với tôi trước đây trở lại đánh thức tôi như đánh thức một người đang ngủ. Thiên sứ hỏi tôi: “Ngươi thấy gì?” Tôi thưa: “Tôi thấy một chân đèn toàn bằng vàng, trên đỉnh có một phao dầu. Chung quanh phao có bảy đèn, mỗi đèn có bảy tim. Có hai cây ô-liu, một cây bên phải, và một cây bên trái phao dầu. Tôi hỏi thiên sứ đang nói chuyện với tôi: ‘Thưa Chúa, những điều này có nghĩa gì?’” Thiên sứ đang nói chuyện với tôi đáp: “Ngươi không hiểu những điều này có nghĩa gì sao?” Tôi thưa: “Thưa Chúa, tôi không hiểu.” Thiên sứ đáp: “Đây là lời CHÚA truyền cho Xô-rô-ba-bên:Chẳng phải bởi quyền thế, cũng chẳng phải bởi năng lực,Nhưng bởi Thần Ta, CHÚA Vạn Quân phán. Ngươi là ai, hỡi núi lớn kia?Trước mặt Xô-rô-ba-bên, ngươi sẽ nên đồng bằng!Người sẽ khiêng tảng đá ban đầu raGiữa tiếng reo hò: Phước quá! Phước quá!” CHÚA phán với tôi: “Tay của Xô-rô-ba-bên đặt nền móng cho đền thờ này,Chính tay người sẽ hoàn thành công tác.”Bấy giờ ông bà sẽ biết rằng chính CHÚA Vạn Quân đã sai tôi đến với ông bà. “Có ai khinh dể ngày khởi đầu với thành quả nhỏ nhoi như thế này không? Những người đó sẽ vui mừng khi thấy tảng đá quan trọng này trong tay Xô-rô-ba-bên.”“Bảy đèn này là mắt của CHÚA soi xét khắp đất.” Tôi hỏi thiên sứ: “Hai cây ô-liu này bên phải và bên trái chân đèn có nghĩa gì?” Tôi hỏi tiếp lần thứ nhì: “Còn hai nhánh ô-liu đổ dầu vàng ánh vào phao đèn qua hai ống dẫn bằng vàng có nghĩa gì?” Thiên sứ hỏi tôi: “Ngươi không biết những điều ấy có nghĩa gì sao?” Tôi thưa: “Thưa Chúa, tôi không biết.” Thiên sứ giải thích: “Đấy là hai vị được xức dầu để phục vụ Chúa của cả thế gian.” Tôi lại ngước mắt lên nhìn, và kìa, một cuộn da đang bay! Thiên sứ hỏi tôi: “Ngươi thấy gì?” Tôi thưa: “Tôi thấy một cuộn da đang bay, dài độ 9m và rộng khoảng 4m rưỡi.” Thiên sứ giải thích: “Cuộn da đó chứa lời nguyền rủa bay ra khắp đất, vì mọi người phạm tội trộm cắp như đã cấm trong cuộn da lại được thả tự do, và mọi người thề dối như đã cấm trong cuộn da cũng được thả tự do.” CHÚA Vạn Quân phán:“Ta sai lời nguyền rủa bay ra,Nó sẽ bay vào nhà kẻ trộm,Vào nhà kẻ nhân danh Ta mà thề dối;Nó sẽ ở trong nhà chúng,Hủy phá tan tành, cả gỗ lẫn đá.” Thiên sứ nói chuyện với tôi đến bảo tôi: “Hãy ngước mắt lên nhìn xem vật gì đang tiến đến.” Tôi hỏi: “Thưa ngài, vật gì đó?” Thiên sứ đáp: “Vật đang tiến gần đó là một cái thúng.” Thiên sứ nói tiếp: “Đó là tội ác của dân chúng khắp cả đất.” Kìa, nắp chì giở tung lên, có một người đàn bà ngồi trong thúng. Thiên sứ nói: “Đây là sự gian ác.” Thiên sứ đẩy mụ ta vào trong thúng rồi ấn mạnh nắp chì xuống, đậy miệng thúng lại. Tôi ngước mắt lên nhìn, và thấy hai phụ nữ bay đến, cánh giương ra trong gió, cánh họ giống như cánh hạc. Họ nhấc bổng thúng lên không trung. Tôi hỏi thiên sứ đang nói chuyện với tôi: “Họ đem thúng đi đâu vậy?” Thiên sứ đáp: “Đem sang Ba-by-lôn, để xây cho nó một cái miếu. Khi xây xong, họ sẽ đặt chúng trên một cái bệ trong miếu.” Tôi lại ngước mắt lên nhìn, và thấy bốn xe chiến mã tiến ra từ giữa hai hòn núi. Đó là những núi bằng đồng. Cỗ xe thứ nhất thắng ngựa đỏ, cỗ xe thứ nhì ngựa ô, cỗ xe thứ ba, ngựa bạch, và cỗ xe thứ tư, ngựa đốm. Ngựa nào cũng hùng mạnh. Tôi hỏi thiên sứ nói chuyện với tôi: “Thưa Chúa, những xe chiến mã này có ý nghĩa gì?” Thiên sứ đáp: “Đó là gió bốn phương trời bay ra sau khi trình diện Chúa của cả thế gian.” Cỗ xe thắng ngựa ô sẽ tiến lên vùng đất phương bắc, ngựa bạch về phía tây, và ngựa đốm xuống miền nam. Những con ngựa hùng mạnh tiến ra vì chúng nôn nóng muốn đi tuần khắp đất. Thiên sứ bảo: “Hãy đi tuần khắp đất!” Khi các cỗ xe chạy đi tuần khắp đất, thiên sứ gọi tôi, bảo: “Hãy chú ý mấy con ngựa đi về phương bắc. Chúng sẽ làm cho Thần Linh CHÚA được nghỉ ngơi trong vùng đất phương bắc.” Có lời CHÚA phán với tôi: “Con hãy nhận lễ vật từ Hen-đai, Tô-bi-gia và Giê-đa-gia, và ngay hôm đó, con hãy đi đến nhà Giô-si-a, con ông Xơ-phan-gia những người này đều trở về từ chốn lưu đày bên Ba-by-lôn. Con hãy đem bạc vàng nhận được làm một vương miện hai tầng, đội lên đầu thượng tế Giô-suê, con ông Giê-hô-gia-đat, và nói: ‘CHÚA Vạn Quân phán:Này, một người mệnh danh là Chồi con,Sẽ đâm chồi nứt lộc từ ngay giữa chỗ mình,Và xây đền thờ cho CHÚA, Chính người sẽ xây đền thờ CHÚA,Người sẽ được tôn trọng, và ngồi cai trị trên ngai mình.Thầy tế lễ cũng sẽ ngồi trên ngai mình,Và cả hai sẽ bàn mưu góp ý trong hòa khí thân thiện. Vương miện sẽ được cất giữ trong đền thờ CHÚA để kỷ niệm Hen-đai, Tô-bi-gia, Giê-đa-gia, và Giô-si-a, con ông Xơ-phan-gia.’” Khi những người ở xa đến góp phần xây dựng đền thờ CHÚA, ông bà sẽ biết rằng CHÚA Vạn Quân đã sai tôi đến với ông bà. Và điều này sẽ xảy ra khi ông bà thật lòng vâng lời CHÚA, Đức Chúa Trời của ông bà. Năm thứ tư triều hoàng đế Đa-ri-út, ngày mồng bốn tháng chín, tức tháng Kít-lêu, có lời CHÚA phán với Xa-cha-ri, khi những người ở thành Bê-tên cử Xa-rết-xe và Rê-ghem Mê-léc hướng dẫn phái đoàn đến cầu khẩn CHÚA. Họ hỏi các thầy tế lễ trong đền thờ CHÚA Vạn Quân và các tiên tri: “Chúng tôi có nên tiếp tục khóc lóc và kiêng ăn trong tháng năm như chúng tôi đã làm bao nhiêu năm nay không?” CHÚA Vạn Quân phán: “Con hãy nói với toàn dân trong xứ và các thầy tế lễ: Khi các ngươi kiêng ăn và than khóc trong tháng năm và tháng bảy, suốt bảy mươi năm nay, có phải thật sự vì Ta mà các ngươi kiêng ăn không? Khi các ngươi ăn uống, không phải các ngươi ăn uống vì chính mình sao? Có phải đây là những lời CHÚA truyền bảo qua trung gian các tiên tri đời trước, khi thành Giê-ru-sa-lem và các thành phụ cận còn an cư lạc nghiệp, và vùng sa mạc Nê-ghép phía nam cũng như vùng cao nguyên Sơ-phê-la còn có dân cư ngụ?” Có lời CHÚA phán với Xa-cha-ri: CHÚA Vạn Quân phán: “Hãy xét xử thật công minh, hãy lấy tình yêu kiên trì và lòng thương xót mà đối xử với nhau. Đừng áp bức người mẹ góa con côi, ngoại kiều, hoặc kẻ nghèo khó; đừng mưu tính điều ác trong lòng để hại nhau.” Nhưng tổ phụ ông bà chẳng màng lưu ý, họ nhún vai cách mỉa mai, họ làm cho tai mình nặng để khỏi phải nghe. Họ làm cho lòng họ cứng như kim cương để khỏi phải vâng theo những lời giáo huấn cảnh cáo mà CHÚA Vạn Quân truyền bảo khi Thần Linh của Ngài sai phái các tiên tri đời trước. Vậy CHÚA Vạn Quân giáng cơn thịnh nộ lớn lao xuống dân Ngài. “Như khi Ta gọi mà chúng không nghe, CHÚA Vạn Quân phán, vậy, khi chúng kêu cầu, Ta cũng chẳng nghe. Ta ném chúng ra như bởi cơn gió lốc, tan tác khắp các dân các nước mà chúng chưa hề biết. Sau khi chúng ra đi, xứ sở chúng trở nên hoang vu, không người qua lại. Chúng đã biến đất nước xanh tươi đẹp đẽ thành nơi hoang vắng điêu tàn.” Có lời CHÚA Vạn Quân phán như sau: CHÚA Vạn Quân phán:“Ta yêu mến Si-ôn đến phát ghen dữ dội,Ta nổi thịnh nộ vì Ta yêu mến nó.” CHÚA phán:“Ta đã trở về Si-ôn,Ta sẽ ngự giữa thành Giê-ru-sa-lem.Giê-ru-sa-lem sẽ được gọi là Thành Trung Tín,Núi của CHÚA Vạn Quân là Núi Thánh.” CHÚA Vạn Quân phán:“Các ông cụ bà cụ sẽ lại ngồi nghỉTrên những quảng trường Giê-ru-sa-lem;Ai nấy tay đều chống gậyVì cao tuổi. Các quảng trường thành phố sẽ đầy trẻ em trai gáiCùng nhau vui đùa tại các quảng trường.” CHÚA Vạn Quân phán:“Dù những việc đó có vẻ khó thực hiện,Đối với dân còn sót lại này, trong những ngày ấy,Nhưng đối với Ta, có lẽ nào những việc đó khó thực hiện sao?”Lời của CHÚA Vạn Quân. CHÚA Vạn Quân phán:“Này, Ta sẽ giải cứu dân TaRa khỏi các đất nước phương đông và phương tây. Ta sẽ đem chúng về,Và chúng sẽ cư ngụ trong thành Giê-ru-sa-lem.Chúng sẽ là dân của Ta,Và Ta sẽ là Đức Chúa Trời của chúng,Là Đấng thành tín và công minh.” CHÚA Vạn Quân phán: “Các con hiện đang nghe những lời do chính các tiên tri rao bảo trong ngày đặt nền móng để xây đền thờ, Nhà của CHÚA Vạn Quân. Hãy bắt tay vào việc! Vì trước những ngày ấy, người làm việc không được tiền công, súc vật cũng chẳng được hưởng lợi lộc gì. Kẻ thù gây cho người đi lại thiếu an ninh. Và Ta khiến cho mọi người thù nghịch nhau. Nhưng bây giờ, Ta không đối xử với dân sót lại này như trước kia.” “Vì vật gì gieo ra sẽ phát triển:Cây nho sẽ kết quả,Đất sẽ sanh hoa lợi,Các tầng trời sẽ đổ sương móc xuống.Ta sẽ ban cho dân sót lại nàyHưởng mọi sự đó. Hỡi dân Giu-đa và dân Y-sơ-ra-ên, các con đã thành lời nguyền rủa giữa các dân các nước thể nào, thì khi Ta cứu các con, các con sẽ thành lời chúc phước thể ấy. Các con đừng sợ; hãy bắt tay vào việc.” Vì CHÚA Vạn Quân phán như sau: “Như Ta đã quyết định trừng phạt các con khi tổ tiên các con chọc giận Ta, CHÚA Vạn Quân phán, và Ta đã không đổi ý, thì ngày nay Ta lại quyết định ban phước cho dân thành Giê-ru-sa-lem và dân Giu-đa, các con đừng sợ. Đây là những điều các con phải thi hành: Hãy nói thật với nhau, hãy xét xử thật công minh ôn hòa tại cổng thành. Đừng mưu tính điều ác trong lòng để hại nhau. Đừng ưa thích lời thề dối. Vì Ta ghét tất cả mọi điều ấy” CHÚA phán. Có lời CHÚA Vạn Quân phán với tôi: CHÚA Vạn Quân phán như sau: “Những ngày kiêng ăn trong tháng tư, tháng năm, tháng bảy và tháng mười sẽ trở thành những ngày lễ tưng bừng, vui mừng, và nhộn nhịp cho dân Giu-đa. Vậy các con hãy yêu chuộng chân lý và bình an.” CHÚA Vạn Quân phán như sau: “Các dân tộc, dân cư nhiều thành vẫn còn ùa đến. Dân thành này sẽ đến rủ dân thành kia: ‘Nào chúng ta hãy đến nài xin CHÚA ban ơn, chúng ta hãy tìm cầu CHÚA Vạn Quân. Chính tôi cũng đi nữa.’ Các dân đông đảo và các nước hùng mạnh sẽ đến Giê-ru-sa-lem tìm cầu CHÚA Vạn Quân, và nài xin CHÚA ban ơn.” CHÚA Vạn Quân phán như sau: “Trong những ngày ấy, mười người thuộc mọi ngôn ngữ trong các dân các nước sẽ nắm chặt chéo áo của một người Do Thái nài nỉ: ‘Xin cho chúng tôi đi với anh chị em, vì chúng tôi có nghe biết rằng CHÚA ở cùng anh chị em.’” Sấm ngôn: Lời của CHÚA.CHÚA sẽ nghỉ ngơi trong vùng Ha-đơ-rắc và Đa-mách,Vì mắt của mọi người, và của mọi chi tộc Y-sơ-ra-ênĐều hướng về CHÚA, Ngay cả Ha-mát, giáp ranh với Y-sơ-ra-ên,Ty-rơ và Si-đôn, là hai thành rất khôn ngoan. Ty-rơ đã xây đắp thành lũy,Tích trữ bạc như bụi cát,Chất chứa vàng như bùn lầy ngoài đường. Này, Chúa sẽ tước đoạt của cải nó,Đánh tan đội quân nó nơi biển cả,Và chính nó sẽ bị lửa thiêu nuốt. Nhìn thấy cảnh đó, Ách-ca-lôn sợ hãi,Ga-xa lo lắng quặn đau;Cả Éc-rôn nữa, vì hy vọng nó tiêu tan.Ga-xa chẳng còn vua,Ách-ca-lôn không người cư ngụ. Một giống dân lai sẽ định cư tại Ách-đốt.Và Ta sẽ cắt đứt nguồn kiêu hãnh của dân Phi-li-tin. Ta sẽ xóa sạch máu khỏi miệng chúng,Lấy thức ăn gớm ghiếc ra khỏi răng chúng.Dân sót lại của chúng cũng sẽ thuộc về Đức Chúa Trời chúng ta,Chúng sẽ trở thành một chi tộc trong Giu-đa,Và dân Éc-rôn sẽ trở nên như dân Giê-bu-si. Ta sẽ đóng trại canh gác tại nhà Ta,Canh phòng người đi lại.Kẻ áp bức sẽ không còn xâm chiếm chúng nữa,Vì bây giờ Ta để mắt trông nom. Hỡi Si-ôn, con gái Ta, hãy vui mừng hớn hở!Hỡi Giê-ru-sa-lem, con gái Ta, hãy reo mừng!Kìa, Vua của con đang tiến đến với con,Ngài công chính và đắc thắng,Khiêm nhu, cưỡi lừa,Một con lừa trẻ khỏe mạnh, là con của lừa cái. Ta sẽ diệt trừ xe chiến mã khỏi Ép-ra-im,Và chiến mã khỏi Giê-ru-sa-lem;Cung dùng trong chiến trận cũng sẽ bị bẻ gẫy.Vua sẽ công bố hòa bình cho muôn dân;Ngài sẽ cai trị từ biển này đến biển kia,Từ sông Ơ-phơ-rát đến tận cùng cõi đất. Về phần con, vì Ta đã lập giao ước với con bằng máu,Nên Ta sẽ thả những người của con đang bị giam cầm,Đưa họ lên khỏi hố không có nước. Các con bị giam cầm nhưng vẫn còn hy vọng, hãy trở về đồn lũy!Ngay chính hôm nay, Ta công bố: Ta sẽ đền bù cho con gấp đôi. Vì Ta đã giương cung Ta là Giu-đa,Kéo dây cung là Ép-ra-im.Hỡi Si-ôn, Ta sẽ dấy con cái của con lênChống lại con cái Gia-van!Ta sẽ biến Si-ôn thành lưỡi gươm dũng sĩ. Bấy giờ CHÚA sẽ xuất hiện cho dân Ngài thấy,Mũi tên Ngài sẽ phóng đi như tia chớp.CHÚA sẽ thổi tù và,Ngài tiến tới với gió lốc phương nam. CHÚA Vạn Quân sẽ là thuẫn khiên che chở dân Ngài:Họ sẽ ăn no và chà đạp lên các hòn đá dùng để bắn ná,Họ sẽ uống và vui chơi ồn ào như khi rượu đã ngà ngà,Họ sẽ no tràn như cái chén,Như các góc bàn thờ. CHÚA, Đức Chúa Trời sẽ giải cứu dân NgàiTrong ngày ấy, như đàn chiên.Họ sẽ chiếu sáng trên đất nước của NgàiNhư những viên đá quý lóng lánh trên vương miện. Ôi, họ thịnh vượng biết bao! Họ đẹp đẽ dường nào!Lúa thóc giúp các thanh niên phát triển,Rượu mới khiến các thiếu nữ xinh tươi. Hãy cầu xin CHÚA ban mưa xuống vào mùa mưa xuân.CHÚA là Đấng tạo ra sấm sét,Xin Ngài ban cho họ mưa rào.Xin Ngài ban cho mỗi người lúa mọc đầy đồng. Vì các thần tượng chỉ nói điều dối gạt,Thầy bói bày tỏ những khải tượng gian trá,Chúng rêu rao những chiêm bao viển vông,Những lời an ủi trống rỗng.Vì thế dân Ta phải ra đi, khổ sởNhư đàn chiên không người chăn dắt. Cơn thịnh nộ Ta bừng lên chống lại bọn chăn chiên,Ta sẽ trừng phạt các con dê đực.Vì CHÚA Vạn Quân chăm sócBầy chiên Ngài là dân Giu-đa;Ngài sẽ khiến họ nên như ngựa chiến oai phong. Từ họ sẽ xuất hiện hòn đá góc nhà,Từ họ, cái cọc lều,Từ họ, cây cung trận,Từ họ sẽ dấy lên mọi thủ lãnh. Tất cả chúng sẽ như dũng sĩChà đạp quân thù ngoài trận mạc như bùn lầy ngoài đường.Chúng sẽ giao chiến vì CHÚA ở với chúng,Chúng sẽ đánh tan kỵ binh thù nghịch. Ta sẽ làm cho dân Giu-đa nên hùng dũng,Ta sẽ giải cứu dòng dõi nhà Giô-sép.Ta sẽ phục hồi chúngVì Ta thương xót chúng,Và chúng sẽ nên như thể chưa hềBị Ta ruồng bỏ.Vì Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng,Và Ta sẽ đáp lời chúng cầu xin. Dòng dõi Ép-ra-im sẽ nên như dũng sĩ,Chúng sẽ vui chơi như khi rượu đã ngà ngà.Con cái chúng nhìn thấy và vui mừng,Chúng sẽ vui thỏa trong CHÚA. Ta sẽ huýt sáoVà tập hợp chúng lại,Vì Ta đã cứu chuộc chúng.Chúng sẽ thêm nhiều và đông đảo như xưa. Dù Ta đã gieo chúng ra giữa các dân các nước,Tại những miền xa xôi đó chúng sẽ nhớ đến Ta;Chúng sẽ nuôi dưỡng con cái,Rồi sẽ trở về. Ta sẽ đem chúng về từ Ai-cập,Từ A-si-ri Ta sẽ tập hợp chúng lại,Ta sẽ dẫn chúng vào Ga-la-át và Li-ban,Nhưng chúng vẫn chưa đủ chỗ ở. CHÚA sẽ băng qua biển gian nan,Ngài sẽ đập tan biển cả dậy sóng,Mọi trũng sâu nơi đáy sông Ninh đều khô cạn.Niềm kiêu hãnh của A-si-ri sẽ bị đánh hạ,Cây quyền trượng của Ai-cập sẽ qua đi. Nhưng Ta sẽ làm cho dân Ta nên hùng dũng trong CHÚA,Chúng sẽ tiến bước trong danh Ngài,đó là lời CHÚA. Hỡi Li-ban, hãy mở rộng các cửa,Cho lửa thiêu nuốt những cây tùng của ngươi! Hỡi cây bách, hãy khóc than, vì cây tùng đã ngã xuống!Ôi, những cây hùng vĩ bị hủy diệt!Hỡi những cây sồi Ba-san, hãy khóc than,Vì rừng cây rậm rạp bị đốn ngã! Nghe này! Tiếng sư tử gầm rốngVì rừng rậm sông Giô-đanh bị phá hủy! CHÚA, Đức Chúa Trời tôi phán: “Con hãy chăn bầy chiên sắp đem làm thịt. Những kẻ mua chiên sẽ đem chiên ra làm thịt mà không hề bị định tội, trong khi những kẻ bán chiên sẽ nói: ‘Ngợi khen CHÚA, con giầu có rồi!’ Kẻ chăn chiên cũng chẳng thương xót chúng. Vì Ta chẳng còn thương xót dân cư trong xứ nữa.” đó là lời CHÚA. “Này, chính Ta sẽ giao mỗi người vào tay kẻ lân cận mình và vào tay vua mình; chúng sẽ đập tan xứ sở, nhưng Ta sẽ chẳng giải cứu một ai khỏi tay chúng.” Vậy tôi chăn bầy chiên mà những kẻ buôn bán chiên định đem làm thịt. Tôi chọn hai cây gậy, một cây tôi gọi là “Vui thỏa,” và cây kia là “Liên kết,” rồi tôi chăn bầy. Nhưng chỉ trong một tháng, tôi loại bỏ ba người chăn, vì tôi thiếu kiên nhẫn với chúng, và chúng cũng chán ghét tôi. Bấy giờ tôi nói: “Tôi sẽ không chăn nữa. Con nào phải chết thì chết; con nào phải mất thì mất. Những con nào còn sót lại cứ ăn thịt lẫn nhau.” Vậy tôi lấy cây gậy “Vui thỏa”, chặt đứt nó ra làm hai, để hủy bỏ giao ước tôi đã ký với muôn dân. Thế là giao ước bị hủy bỏ ngay hôm ấy. Những người buôn bán chiên quan sát tôi thì nhận biết rằng đó là sứ điệp của CHÚA. Tôi nói như vầy với họ: “Nếu các anh thấy điều ấy đúng, xin trả công cho tôi; bằng không thì thôi.” Vậy họ cân và trả tiền công cho tôi là ba mươi miếng bạc. CHÚA bảo tôi: “Con hãy dâng số tiền ấy vào kho bạc.” Tôi đem ba mươi miếng bạc, số tiền quý báu họ đánh giá tôi, dâng vào kho bạc trong đền thờ CHÚA. Rồi tôi chặt đứt cây gậy thứ nhì, cây “Liên kết”, ra làm hai, để hủy bỏ tình huynh đệ giữa hai nước Giu-đa và Y-sơ-ra-ên. CHÚA lại bảo tôi: “Con hãy trang bị như một người chăn chiên dại dột. Vì này, chính Ta sẽ dấy lên trong xứ một người chăn chiên chẳng quan tâm đến những con nào mất, chẳng tìm kiếm con nào đi lạc, không chạy chữa con nào bị thương, cũng không nuôi dưỡng con nào khỏe mạnh. Nhưng con nào mập béo nhất thì người chăn ăn thịt, và lóc luôn cả móng. Khốn cho người chăn vô ích,Bỏ bầy chiên mình!Gươm sẽ giáng xuống trên cánh tay nó! Đụng đến mắt phải nó!Cánh tay nó sẽ teo khô đi,Mắt phải nó sẽ mù lòa!” Sấm ngôn: lời CHÚA phán về Y-sơ-ra-ên. Đây là lời của CHÚA,Đấng giương các tầng trời và đặt nền cho trái đất,Đấng tạo sinh khí bên trong loài người. Này, Ta sẽ biến Giê-ru-sa-lem thành chén rượu làm cho mọi dân chung quanh xây xẩm khi chúng vây hãm Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. Ngày ấy, Ta sẽ biến Giê-ru-sa-lem thành tảng đá nặng cho mọi dân. Mọi người khiêng vác nó đều phải tróc da rách thịt, và mọi nước trên đất sẽ họp nhau chống lại nó. Ngày ấy, đây là lời CHÚA, Ta sẽ khiến cho mọi con ngựa sợ cuống lên, và mọi người cưỡi ngựa điên cuồng. Nhưng Ta sẽ mở mắt canh giữ dân Giu-đa trong khi ngựa của mọi dân khác đều bị Ta khiến cho đui mù. Bấy giờ các chi tộc trong Giu-đa sẽ tự nhủ: “Dân cư Giê-ru-sa-lem được sức mạnh nhờ CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của họ.” Ngày ấy, Ta sẽ biến các chi tộc Giu-đa nên như một nồi đựng lửa đang cháy giữa đống củi, và như ngọn đuốc cháy giữa các bó lúa. Chúng sẽ thiêu rụi mọi dân chung quanh, bên phải và bên trái. Nhưng Giê-ru-sa-lem vẫn còn nguyên tại chỗ của nó, tức là Giê-ru-sa-lem. CHÚA sẽ cho dân Giu-đa chiến thắng trước hết, để vinh quang của nhà Đa-vít cũng như vinh quang của dân thành Giê-ru-sa-lem không vượt trội hơn vinh quang của dân Giu-đa. Ngày ấy, CHÚA sẽ như thuẫn khiên che chở dân Giê-ru-sa-lem. Ngày ấy, kẻ yếu nhất giữa họ sẽ như Đa-vít, và nhà Đa-vít sẽ lãnh đạo họ như thiên thần, như thiên sứ của CHÚA. Ngày ấy, Ta quyết định hủy diệt mọi dân mọi nước tiến đánh Giê-ru-sa-lem. Ta sẽ đổ Thần Ta xuống nhà Đa-vít và dân cư Giê-ru-sa-lem, ban cho chúng tấm lòng đau thương khẩn cầu, để khi chúng nhìn xem Ta là Đấng chúng đã đâm, chúng sẽ than khóc Đấng ấy như người ta than khóc đứa con một. Chúng sẽ thương tiếc như người ta thương tiếc đứa con đầu lòng. Ngày ấy, dân cư Giê-ru-sa-lem sẽ than khóc thảm thiết như người ta than khóc tại Ha-đát Rim-môn ở vùng đồng bằng Mê-ghi-đô. Đất nước sẽ than khóc, từng chi tộc riêng rẽ:Chi tộc nhà Đa-vít riêng,Phụ nữ trong chi tộc than khóc riêng;Chi tộc nhà Na-than riêng,Phụ nữ trong chi tộc than khóc riêng; Chi tộc nhà Lê-vi riêng,Phụ nữ trong chi tộc than khóc riêng;Chi tộc nhà Si-mê-i riêng,Phụ nữ trong chi tộc than khóc riêng; Và mọi chi tộc còn lại, từng chi tộc riêng rẽ,Phụ nữ trong chi tộc than khóc riêng; Ngày ấy, sẽ có một suối nước chảy ra cho nhà Đa-vít và dân cư Giê-ru-sa-lem tẩy sạch tội lỗi và ô uế. Ngày ấy, đây là lời của CHÚA Vạn Quân, Ta sẽ xóa sạch ngay cả tên các thần tượng khỏi xứ này. Chúng sẽ không được nhắc đến nữa. Ta cũng loại trừ các tiên tri có tâm linh ô uế khỏi xứ này. Nếu có ai còn nói tiên tri, thì cha mẹ đã sinh ra nó, sẽ bảo nó: “Con không được sống, vì con đã nhân danh CHÚA nói điều giả dối.” Rồi cha mẹ đã sinh ra nó, sẽ đâm nó chết khi nó nói tiên tri. Ngày ấy, các tiên tri ai nấy sẽ xấu hổ về khải tượng mình thấy khi nói tiên tri. Chúng cũng sẽ không còn mặc áo choàng bằng lông thú để lừa gạt nữa. Ai nấy trong bọn chúng cũng sẽ nói: “Tôi không phải là tiên tri, tôi là người làm ruộng, vì đất đai đã thuộc về tôi từ thuở nhỏ.” Nếu có người hỏi: “Tại sao anh có những vết thương giữa hai vai thế này?” Anh ta sẽ đáp: “Tôi bị thương tại nhà các bạn tôi.” Hỡi gươm, hãy chổi dậy chống lại người chăn của Ta,Cũng là người hùng thân thiết của Ta,Đó là lời CHÚA Vạn Quân.Hãy đánh người chăn,Để cho bầy chiên tan lạc.Ta cũng đánh luôn ngay những con chiên bé nhỏ. Bấy giờ, trong toàn xứHai phần ba dân cư sẽ bị tiêu diệt và chết mất,Nhưng một phần ba sẽ còn lại,đó là lời CHÚA. Ta sẽ đưa phần ba này qua lửa,Ta sẽ luyện chúng như luyện bạc,Thử chúng như thử vàng.Chúng sẽ cầu khẩn Danh Ta,Và Ta, Ta sẽ đáp lời chúng.Ta sẽ phán: “Chúng là dân của Ta,”Và chúng sẽ thưa lại: “CHÚA là Đức Chúa Trời của chúng tôi.” Này, hỡi Giê-ru-sa-lem, ngày của CHÚA sắp đến!Khi ấy, chúng sẽ cướp bóc conVà chia nhau chiến lợi phẩm ngay giữa thành. Vì Ta sẽ tập hợp mọi dân mọi nướcVề giao chiến với Giê-ru-sa-lem.Thành sẽ bị chiếm,Nhà cửa bị cướp phá,Phụ nữ bị hãm hiếp.Phân nửa dân trong thành sẽ bị lưu đầy,Nhưng dân còn lại sẽ không bị diệt trừ khỏi thành. Bấy giờ CHÚA sẽ tiến ra giao chiến với các nước ấy, như khi Ngài giao chiến trong ngày chiến trận. Ngày ấy, chân Ngài sẽ đứng trên núi Ô-liu, đối diện Giê-ru-sa-lem về phía đông. Núi Ô-liu sẽ chẻ làm đôi, từ đông sang tây, tạo thành một thung lũng rất lớn. Phân nửa núi sẽ lui về phía bắc, và phân nửa về phía nam. Các con sẽ chạy trốn qua thung lũng giữa các núi, vì thung lũng giữa các núi chạy dài đến Át-xan. Các con sẽ chạy trốn như khi các con trốn khỏi cơn động đất dưới triều Ô-xia, vua Giu-đa. Bấy giờ, CHÚA, Đức Chúa Trời của con sẽ ngự đến. Toàn thể các thiên thần cũng sẽ đến với con. Ngày ấy sẽ không còn lạnh lẽo giá buốt nữa. Sẽ chỉ có một ngày liên tục, CHÚA duy nhất biết khi nào, không còn phân biệt ngày với đêm, vì sẽ có ánh sáng ngay lúc hoàng hôn. Ngày ấy, nước ban sự sống sẽ chảy ra từ Giê-ru-sa-lem, phân nửa ra biển đông, phân nửa ra biển tây, chảy luôn suốt cả mùa hè và mùa đông. CHÚA sẽ là vuaCai trị toàn cầu.Ngày ấy, duy nhất chỉ có CHÚA,Và duy nhất chỉ có danh Ngài. Cả dải đất sẽ trải ra như đồng bằng từ Ghê-ba đến Rim-môn, phía nam Giê-ru-sa-lem. Tuy nhiên thành Giê-ru-sa-lem vẫn giữ nguyên vị trí trên cao, từ cổng Bên-gia-min đến chỗ cổng Xưa, đến tận cổng Góc, và từ tháp Ha-na-nên đến bồn ép rượu của vua. Thành sẽ có dân cư ngụ và không bao giờ bị tàn phá nữa. Giê-ru-sa-lem sẽ được an toàn. Đây là tai họa CHÚA giáng xuống mọi dân tộc giao chiến với Giê-ru-sa-lem: thịt chúng sẽ mục nát ra ngay khi chúng còn đang đứng trên chân mình, mắt chúng sẽ mục nát ra ngay trong hốc mắt, và lưỡi chúng sẽ mục nát ra ngay trong miệng. Ngày ấy, CHÚA sẽ gây cho chúng kinh sợ hãi hùng: người này nắm chặt tay người kia, rồi giơ tay mình lên đánh. Giu-đa cũng sẽ hợp sức với Giê-ru-sa-lem chiến đấu. Tài sản của mọi nước chung quanh sẽ được thâu góp lại, vô số vàng, bạc và quần áo. Tai họa như trên cũng sẽ giáng xuống ngựa, la, lạc đà, lừa và mọi súc vật trong các trại ấy. Bấy giờ, tất cả những người còn sống sót từ mọi dân tộc đã tiến đánh thành Giê-ru-sa-lem, hằng năm sẽ đi hành hương, lên Giê-ru-sa-lem thờ phượng CHÚA Vạn Quân, và mừng lễ Lều Tạm. Trong các dân tộc trên đất, dân tộc nào không đi hành hương lên Giê-ru-sa-lem thờ phượng CHÚA Vạn Quân, thì sẽ không có mưa cho chúng. Nếu dân tộc Ai-cập không đi hành hương lên Giê-ru-sa-lem, không đến thờ phượng, thì chúng sẽ không có mưa, và CHÚA sẽ giáng xuống chúng tai họa mà Ngài giáng xuống các dân tộc không đi hành hương lên Giê-ru-sa-lem mừng lễ Lều Tạm. Đó là hình phạt mà Ai-cập sẽ phải chịu, và cũng là hình phạt mọi dân tộc không lên mừng lễ Lều Tạm sẽ phải chịu. Ngày ấy, trên lục lạc ngựa sẽ có ghi: “Thánh hiến cho CHÚA.” Các nồi niêu trong Nhà CHÚA sẽ thánh như các chậu trước bàn thờ. Mọi nồi niêu trong thành Giê-ru-sa-lem và trong xứ Giu-đa sẽ được thánh hiến cho CHÚA Vạn Quân. Mọi người dâng sinh tế sẽ đến lấy các nồi niêu đó mà nấu. Ngày ấy, sẽ không còn người Ca-na-an trong Nhà CHÚA Vạn Quân nữa. Sấm ngôn: Lời của CHÚA cậy Ma-la-chi phán cùng dân Y-sơ-ra-ên. CHÚA phán: “Ta yêu các ngươi. Nhưng các ngươi lại hỏi: ‘Chúa yêu chúng con cách nào?’” CHÚA đáp: “Có phải Ê-sau là anh Gia-cốp không? Nhưng Ta đã yêu Gia-cốp và ghét Ê-sau. Ta đã biến đổi núi của nó ra đồng hoang và để sản nghiệp của nó cho loài chó sa mạc.” Vì Ê-đôm nói: “Dù chúng tôi đã bị phá hủy chúng tôi sẽ trở về và xây lại những nơi đổ nát mình.” Nhưng đây là điều CHÚA Vạn Quân phán: “Chúng có thể xây dựng lại, nhưng Ta sẽ đập đổ. Chúng sẽ bị gọi là vùng đất gian ác, một dân tộc mà Chúa giận mãi mãi. Chính mắt các ngươi sẽ thấy và các ngươi nói: ‘Chúa thật vĩ đại, vượt trên cả biên giới Y-sơ-ra-ên.’” CHÚA Vạn Quân phán: “Con trai hiếu kính cha mình, đầy tớ tôn trọng chủ mình. Nếu Ta là cha các ngươi, thì sự hiếu kính của các ngươi dành cho Ta ở đâu? Nếu Ta là chủ, thì sự tôn trọng của các ngươi dành cho Ta ở đâu? Chính các ngươi, những thầy tế lễ, các ngươi đã khinh khi danh Ta.Nhưng các ngươi hỏi: ‘Chúng con đã khinh khi danh Chúa bằng cách nào?’ Các ngươi đã dâng bánh ô uế trên bàn thờ Ta.Các ngươi lại hỏi: ‘Chúng con làm ô uế Chúa bằng cách nào?’”Các ngươi nói: “Bàn của Chúa đáng khinh bỉ khi các ngươi đem những con thú đui mù để dâng tế lễ, như vậy không sai sao? Khi các ngươi dâng tế lễ bằng những con thú què quặt, bệnh hoạn, như vậy không sai sao? Các ngươi hãy thử dâng những thứ đó cho quan tổng trấn các ngươi, liệu người có bằng lòng với các ngươi không? Liệu người có chấp nhận các ngươi không?” CHÚA Vạn Quân phán: “Bây giờ hãy nài xin Chúa gia ân cho chúng ta. Nhưng với thứ lễ vật như thế từ tay các ngươi, liệu Ngài có chấp nhận các ngươi chăng?” CHÚA Vạn Quân phán: “Ước gì một người trong các ngươi đóng cửa đền thờ Ta lại, để khỏi châm lửa vô ích trên bàn thờ Ta! Ta không bằng lòng các ngươi và Ta sẽ không chấp nhận của lễ từ tay các ngươi.” CHÚA Vạn Quân phán: “Danh Ta sẽ được tôn trọng trong các dân tộc, từ nơi mặt trời mọc đến nơi mặt trời lặn, khắp nơi người ta sẽ dâng trầm hương và của lễ tinh sạch cho danh Ta, vì danh Ta sẽ được tôn trọng giữa các dân tộc.” CHÚA Vạn Quân phán: “Các ngươi khinh bỉ bàn thờ Ta khi nói: ‘Bàn của Chúa đã bị ô uế!’ còn các thức ăn trên bàn, các ngươi nói: ‘Những thứ đó thật đáng khinh!’ Các ngươi than vãn: ‘Mệt mỏi quá!’ và khịt mũi một cách khinh khi.”CHÚA Vạn Quân phán: “Khi các ngươi đem những thú bị thương tích, què quặt, bệnh hoạn dâng làm của lễ, Ta có nhận chúng từ tay các ngươi chăng? Khốn nạn cho kẻ lừa bịp, nó có những con thú đực tốt đã hứa dâng trong bầy mình, nhưng lại dâng con bị thương tích cho Chúa. Vì CHÚA Vạn Quân phán: ‘Ta là vua vĩ đại và danh Ta được kính sợ giữa các dân tộc.’” CHÚA Vạn Quân phán: “Đây là mạng lệnh cho các ngươi, những thầy tế lễ. Nếu các ngươi không nghe và không để tâm tôn vinh danh Ta, Ta sẽ giáng sự rủa sả trên các ngươi, và Ta sẽ rủa sả những phước lành của các ngươi. Thật vậy, Ta đã rủa sả rồi vì các ngươi không để tâm tôn trọng Ta.” CHÚA cũng phán: “Vì các ngươi, Ta sẽ quở trách con cháu các ngươi, lấy phân của những sinh tế trét lên mặt các ngươi, rồi đem các ngươi đi đổ với phân ấy. Bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết rằng Ta ban mạng lệnh này để giao ước của Ta với Lê-vi vẫn tồn tại.” CHÚA Vạn Quân phán: “Giao ước của Ta với Lê-vi, giao ước Ta đã ban cho người là giao ước của sự sống và bình an; giao ước này đòi hỏi sự tôn kính nên người tôn kính và run sợ danh Ta. Trong miệng người có Kinh Luật chân thật và môi người không có gì giả dối. Người bước đi với Ta trong hòa bình chánh trực và làm cho nhiều người bỏ điều ác.” CHÚA Vạn Quân phán: “Vì môi thầy tế lễ phải tích trữ tri thức và người ta tìm kiếm Kinh Luật nơi miệng người vì người là sứ giả của CHÚA Vạn Quân. Nhưng các ngươi đã đi sai đường lối của Ta và sự giáo huấn của các ngươi gây cho nhiều người vấp phạm; các ngươi đã vi phạm giao ước của Lê-vi. Vậy nên, Ta đã khiến các ngươi bị khinh bỉ và nhục nhã trước mọi người, vì các ngươi không theo các đường lối Ta, nhưng đã chứng tỏ bất công khi thi hành kinh luật.” “Không phải tất cả chúng ta đều có cùng một Cha sao? Có phải chỉ có một Đức Chúa Trời đã tạo dựng nên chúng ta không? Thế sao các ngươi bội tín với nhau mà vi phạm giao ước của tổ tiên? Giu-đa đã thất tín, đã phạm một sự ghê tởm giữa Y-sơ-ra-ên và tại Giê-ru-sa-lem. Giu-đa đã làm ô uế nơi thánh mà Chúa yêu, vì nó cưới con gái của thần ngoại bang. Đối với một người làm như vậy, bất kỳ ai, nguyện Chúa dứt bỏ nó khỏi các lều Gia-cốp, ngay cả khi nó đem lễ vật đến dâng kính CHÚA Vạn Quân. Một điều nữa các ngươi cũng làm là các ngươi lấy nước mắt làm ngập bàn thờ CHÚA. Các ngươi khóc và than vãn vì Chúa không còn chú ý đến các lễ vật của các ngươi hoặc không vui lòng chấp nhận những lễ vật đó từ tay các ngươi. Các ngươi hỏi: ‘Tại sao?’ Bởi vì CHÚA làm nhân chứng giữa ngươi và người vợ từ thời trai trẻ của các ngươi, vì các ngươi bội bạc với nàng, dù nàng là bạn đồng công của các ngươi, vợ giao ước của ngươi. Có phải Chúa khiến vợ chồng thành một không? Cả xác thịt lẫn tâm linh họ đều thuộc về Ngài. Và tại sao làm thành một? Vì Ngài tìm kiếm con cháu thánh thiện. Vậy tâm thần các ngươi hãy cẩn thận, đừng bội bạc vợ của thời thanh xuân của các ngươi.” CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán: “Ta ghét sự ly dị; và Ta cũng ghét kẻ mang lớp áo bạo hành như thế đối với vợ.”Vậy tâm thần các ngươi hãy cẩn thận, và đừng bội bạc. Những lời nói của các ngươi đã làm nản lòng CHÚA.Các ngươi hỏi: “Chúng con làm nản lòng Chúa bằng cách nào?”Vì các ngươi nói: “Những người làm ác đều tốt lành trước mắt Đức Chúa Trời, và Ngài bằng lòng họ.” Hay “Chúa của sự công chính ở đâu?” CHÚA Vạn Quân phán: “Này, Ta sẽ phái sứ giả Ta đến, người sẽ dọn đường trước mặt Ta. Nhưng, thình lình Chúa mà các ngươi đang tìm kiếm, sẽ vào đền thờ; Kìa Ngài đang đến, sứ giả của giao ước mà các ngươi mong ước.” “Nhưng ai sẽ chịu nổi vào ngày Ngài đến? Ai sẽ đứng nổi khi Ngài xuất hiện? Vì Ngài như lửa của thợ luyện bạc, như thuốc tẩy từ người thợ giặt. Ngài sẽ ngồi như thợ luyện bạc để tinh luyện bạc. Ngài sẽ thanh tẩy con cái Lê-vi như tinh luyện vàng và bạc. Nhờ thế chúng sẽ dâng tế lễ cho CHÚA trong sự công chính. Bấy giờ, các tế lễ của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem sẽ đẹp lòng CHÚA như ngày xưa và như những năm trước. Ta sẽ đến gần các ngươi để đoán xét, Ta sẽ vội vàng làm chứng chống lại các tên phù thủy, kẻ ngoại tình, những người thề dối, kẻ bóc lột tiền công của nhân viên, của người góa bụa và cô nhi; kẻ áp bức ngoại kiều và những kẻ không kính sợ Ta.” CHÚA Vạn Quân phán. “Vì chính Ta là CHÚA, Ta không hề thay đổi, cho nên các ngươi, con cái Gia-cốp sẽ không bị tận diệt. Từ thời tổ tiên các ngươi, các ngươi đã bỏ qua, không tuân theo các quy luật của Ta. Hãy trở lại cùng Ta, Ta sẽ trở lại với các ngươi.” CHÚA Vạn Quân phán. “Nhưng các ngươi hỏi: ‘Làm thế nào chúng tôi trở lại?’ Người ta có thể ăn trộm Đức Chúa Trời không? Thật vậy, các ngươi ăn trộm của Ta. Nhưng các ngươi nói: ‘Làm sao chúng tôi ăn trộm của Ngài?’ Trong các lễ vật phần mười và các lễ vật dâng hiến. Các ngươi đang bị rủa sả vì các ngươi, cả nước đã ăn trộm của Ta. Hãy đem tất cả phần mười vào kho của Ta để nhà Ta có lương thực. Hãy làm như thế để thử Ta, CHÚA Vạn Quân phán, để xem Ta có mở các cửa sổ trên trời cho các ngươi, đổ phước xuống cho các ngươi đến nỗi không chỗ chứa chăng? Ta sẽ quở trách các vật phá hoại các ngươi, để chúng sẽ không phá hoại hoa quả ruộng đất các ngươi và nho ngoài đồng sẽ không bị mất mùa,” CHÚA Vạn Quân phán. “Bấy giờ mọi nước sẽ coi ngươi là có phước, vì ngươi là một đất nước được ưa thích,” CHÚA Vạn Quân phán. CHÚA phán: “Các ngươi đã nói những lời gay gắt nghịch cùng Ta. Nhưng các ngươi lại nói: ‘Chúng tôi nói gì nghịch cùng Ngài?’ Các ngươi nói: ‘Phục vụ Đức Chúa Trời là vô ích. Chúng ta được lợi gì khi tuân giữ các lệnh truyền của Ngài và bước đi buồn bã trước mặt CHÚA Vạn Quân?’ Ngày nay, chúng ta coi những kẻ kiêu căng là có phước; những kẻ ác thì thịnh vượng, và ngay cả những kẻ thách thức Đức Chúa Trời cũng thoát nạn.” Bấy giờ những người kính sợ CHÚA nói với nhau: “CHÚA lắng tai và nghe. Một cuốn sách ghi nhớ được ghi chép trước sự hiện diện của Chúa về những người kính sợ Ngài và nghĩ đến danh Ngài.” CHÚA Vạn Quân phán: “Chúng sẽ thuộc về Ta, là tài sản quí báu của Ta trong ngày Ta hành động. Ta sẽ tha thứ cho họ, như người cha tha cho đứa con trai phục vụ mình. Rồi các con sẽ trở lại và thấy sự khác biệt giữa người công chính và kẻ ác, giữa những người phục vụ Chúa và những người không phục vụ Ngài.” CHÚA Vạn Quân phán: “Chắc chắn ngày đó đang đến, sẽ cháy như lò lửa. Tất cả những người kiêu ngạo và kẻ làm điều ác sẽ như gốc rạ, và ngày đó, là ngày đang đến, sẽ thiêu đốt chúng. Không một cái rễ hay một nhánh nào còn chừa lại cho chúng. Nhưng các con, những người tôn kính danh Ta, mặt trời công chính sẽ mọc lên với sức chữa lành trong tia sáng nó. Và các con sẽ đi ra, nhảy nhót như bò tơ được thả khỏi chuồng. Bấy giờ các con sẽ chà đạp kẻ ác; vì chúng sẽ là tro bụi dưới gót chân các con trong ngày Ta làm những việc này.” CHÚA Vạn Quân phán: “Hãy ghi nhớ Kinh Luật của Môi-se, tôi tớ Ta, những sắc lệnh, những quy luật Ta đã cậy người truyền cho cả Y-sơ-ra-ên tại Hô-rếp. Này, Ta sẽ phái tiên tri Ê-li đến với các con trước khi ngày lớn và kinh khủng của CHÚA đến. Người sẽ hướng lòng cha về với con cái, và lòng con cái về với cha, kẻo Ta sẽ đến và sẽ giáng sự rủa sả trên đất này. Gia phổ của Chúa Cứu Thế Giê-su, dòng dõi Đa-vít, con cháu Áp-ra-ham. Áp-ra-ham sinh Y-sác,Y-sác sinh Gia-cốp,Gia-cốp sinh Giu-đa và anh em người, Giu-đa sinh Pha-rê và Xa-ra mẹ là Tha-ma,Pha-rê sinh Ếch-rôm,Ếch-rôm sinh A-ram, A-ram sinh A-mi-na-đáp,A-mi-na-đáp sinh Na-ách-son,Na-ách-son sinh Sanh-môn, Sanh-môn sinh Bô-ô mẹ là Ra-háp,Bô-ô sinh Ô-bết mẹ là Ru-tơ,Ô-bết sinh Gie-sê, Gie-sê sinh vua Đa-vít,Đa-vít sinh Sa-lô-môn, mẹ nguyên là vợ U-ri, Sa-lô-môn sinh Rô-bô-am,Rô-bô-am sinh A-bi-gia,A-bi-gia sinh A-sa, A-sa sinh Giô-sa-phát,Giô-sa-phát sinh Giô-ram,Giô-ram sinh Ô-xia, Ô-xia sinh Giô-tam,Giô-tam sinh A-cha,A-cha sinh Ê-xê-chia, Ê-xê-chia sinh Ma-na-se,Ma-na-se sinh A-môn,A-môn sinh Giô-si-a, Giô-si-a sinh Giê-cô-nia và các em người lúc bị lưu đày tại Ba-by-lôn. Sau khi bị lưu đày tại Ba-by-lôn,Giê-cô-nia sinh Sa-la-thi-ên,Sa-la-thi-ên sinh Xô-rô-ba-bên, Xô-rô-ba-bên sinh A-bi-út,A-bi-út sinh Ê-li-a-kim,Ê-li-a-kim sinh A-xô, A-xô sinh Sa-đốc,Sa-đốc sinh A-chim,A-chim sinh Ê-li-út, Ê-li-út sinh Ê-li-a-xa,Ê-li-a-xa sinh Ma-than,Ma-than sinh Gia-cốp, Gia-cốp sinh Giô-sép, chồng của Ma-ri. Ma-ri sinh Đức Giê-su, Chúa Cứu Thế. Như thế từ Áp-ra-ham cho đến Đa-vít kể tất cả là mười bốn đời, từ Đa-vít cho đến khi bị lưu đày qua Ba-by-lôn được mười bốn đời, và từ lúc lưu đày tại Ba-by-lôn cho đến Chúa Cứu Thế cũng mười bốn đời. Sự giáng sinh của Chúa Cứu Thế Giê-su đã xảy ra như sau: Ma-ri, mẹ Ngài, đã đính hôn cùng Giô-sép, nhưng trước khi hai người chung sống, Ma-ri đã thụ thai do quyền phép Đức Thánh Linh. Giô-sép, chồng hứa của nàng là người có tình nghĩa, không muốn nàng bị bêu xấu, nên định âm thầm từ hôn. Đang khi ông suy tính như vậy, một thiên sứ của Chúa hiện đến trong giấc mộng và bảo: “Này Giô-sép, con cháu Đa-vít, đừng ngại cưới Ma-ri làm vợ vì thai nàng đang mang là bởi Đức Thánh Linh. Nàng sẽ sinh một trai, hãy đặt tên là Giê-su, vì Ngài sẽ cứu dân tộc mình thoát khỏi tội lỗi.” Mọi việc đã xảy đến như thế để lời Chúa phán qua nhà tiên tri được ứng nghiệm: “Này, một trinh nữ sẽ mang thai và sinh một trai.Người ta sẽ đặt tên Ngài là Em-ma-nu-ên,”Nghĩa là: Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta. Giô-sép thức dậy, làm theo lời thiên sứ của Chúa đã dặn bảo, cưới Ma-ri về làm vợ, nhưng hai người không ăn ở với nhau cho đến khi nàng sinh một con trai, và đặt tên là Giê-su. Khi Đức Giê-su giáng sinh tại Bết-lê-hem thuộc Giu-đê vào thời Vua Hê-rốt, có mấy nhà thông thái từ phương đông đến Giê-ru-sa-lem hỏi thăm: “Vua Do Thái mới hạ sinh ở đâu? Vì chúng tôi thấy ngôi sao Ngài bên phương đông nên đến để tôn thờ Ngài.” Nghe vậy, Vua Hê-rốt và cả thành Giê-ru-sa-lem đều bối rối. Vua triệu tập tất cả thượng tế và chuyên gia kinh luật trong dân chúng, và hỏi xem Chúa Cứu Thế giáng sinh ở đâu. Họ tâu: “Tại Bết-lê-hem thuộc xứ Giu-đê, vì có lời tiên tri chép: ‘Còn ngươi, Bết-lê-hem thuộc xứ Giu-đê,Ngươi đâu phải là nhỏ bé nhất trong hàng lãnh đạo Giu-đa,Vì một lãnh tụ sẽ xuất phát từ ngươi,Ngài sẽ chăn dắt dân Y-sPs.ơ-ra-ên của Ta.’” Thế rồi, Hê-rốt bí mật mời các nhà thông thái đến gạn hỏi về thời gian ngôi sao xuất hiện. Vua sai họ đi đến Bết-lê-hem và dặn: “Hãy đi dò hỏi cho chính xác về con trẻ. Khi tìm được rồi, hãy trình cho ta biết để ta cũng đến tôn thờ Ngài.” Nghe vua phán xong họ lên đường. Kìa, ngôi sao họ đã thấy ở phương đông đi trước họ cho đến khi dừng lại ngay trên chỗ con trẻ ở. Thấy ngôi sao, các nhà thông thái mừng rỡ vô cùng. Bước vào nhà, thấy con trẻ và Ma-ri, mẹ Ngài, họ quỳ xuống thờ lạy Ngài, và mở hộp châu báu dâng lên Ngài các lễ vật: vàng, trầm hương và một dược. Được báo mộng không nên trở lại với Vua Hê-rốt, các nhà thông thái đi đường khác trở về quê hương mình. Khi các nhà thông thái đi rồi, một thiên sứ của Chúa hiện ra cùng Giô-sép trong giấc mộng và bảo: “Hãy thức dậy, đem con trẻ cùng mẹ Ngài lánh qua Ai Cập và ở đó cho đến khi có lệnh ta, vì Vua Hê-rốt sắp tìm giết Ngài.” Đang đêm, Giô-sép thức dậy đem con trẻ cùng mẹ Ngài lánh qua Ai Cập và ở đó cho đến khi Vua Hê-rốt băng hà, để được ứng nghiệm lời Chúa phán qua một nhà tiên tri rằng: “Ta đã gọi Con Ta ra khỏi Ai Cập.” Bấy giờ, Vua Hê-rốt thấy mình bị các nhà thông thái đánh lừa, nên tức giận vô cùng, liền hạ lệnh tàn sát tất cả trẻ em từ hai tuổi trở xuống, tại Bết-lê-hem và các vùng phụ cận, theo như thời gian các nhà thông thái cho biết. Như thế, để ứng nghiệm lời tiên tri Giê-rê-mi loan báo: “Người ta nghe tiếng ai oán tại Ra-ma,Là tiếng khóc thương, than vãn thảm thiết;Ra-chên than khóc con cái nàngVà không chịu ai an ủi,Vì chúng nó không còn nữa.” Sau khi Hê-rốt băng hà, một thiên sứ của Chúa hiện ra cùng Giô-sép trong giấc mộng tại Ai Cập và bảo: “Hãy dậy, đem con trẻ và mẹ Ngài trở về Do Thái vì những người tìm giết con trẻ đã chết.” Ông thức dậy đem con trẻ và mẹ Ngài trở về Do Thái. Khi nghe tin A-khê-lau nối ngôi Hê-rốt làm vua tại Giu-đê, ông sợ không dám về đó, và được báo mộng, ông đi qua xứ Ga-li-lê. Giô-sép về trú ngụ tại thành Na-xa-rét. Như thế để được ứng nghiệm lời tiên tri rằng:“Ngài sẽ được gọi là người Na-xa-rét.” Lúc ấy, Giăng Báp-tít truyền giảng trong đồng hoang Giu-đê. Ông kêu gọi: “Hãy ăn năn, vì Nước Thiên Đàng đã đến gần.” Vì đây là người mà lời tiên tri I-sa phán rằng:“Có tiếng kêu vang trong đồng hoang,Hãy sửa soạn đường Chúa,Đắp thẳng các lối Ngài.” Giăng mặc áo lông lạc đà, thắt lưng da, ăn châu chấu và mật ong rừng. Dân chúng từ Giê-ru-sa-lem, khắp vùng Giu-đê và cả vùng châu thổ sông Giô-đanh đều đến với ông. Sau khi xưng tội, họ được ông làm phép báp-tem dưới sông Giô-đanh. Khi thấy người Pha-ri-si và Sa-đu-sê đến xin nhận phép báp-tem, Giăng bảo họ: “Hỡi loài rắn độc! Ai đã báo cho các người tránh cơn thịnh nộ sắp tới? Vậy hãy kết quả cho xứng đáng với sự ăn năn. Đừng tự hào: ‘Áp-ra-ham là tổ tiên chúng tôi.’ Vì ta phán cùng các người: ‘Đức Chúa Trời có thể biến những viên đá này thành con cháu Áp-ra-ham.’ Lưỡi búa đã đặt kề gốc cây; vì thế, bất cứ cây nào không sinh trái tốt sẽ bị chặt và ném vào lửa. Ta làm phép báp-tem cho các người bằng nước để ăn năn tội, nhưng Đấng đến sau ta, vĩ đại hơn ta; ta không đáng xách dép cho Ngài. Ngài sẽ làm phép báp-tem cho các người bằng Đức Thánh Linh và bằng lửa. Tay Ngài cầm sàng rê sạch lúa mình, chứa lúa vào kho, và thiêu đốt trấu trong lửa không hề tắt.” Thế rồi Đức Giê-su từ Ga-li-lê đến cùng Giăng tại sông Giô-đanh để nhận phép báp-tem. Nhưng Giăng từ chối, và nói rằng: “Chính tôi mới cần Ngài làm phép báp-tem, thế sao Ngài lại đến với tôi?” Đức Giê-su đáp: “Bây giờ hãy cứ làm đi, để chúng ta làm trọn mọi quy lệ công chính, vì như thế là hợp lẽ.” Giăng vâng lời Ngài. Vừa khi chịu phép báp-tem xong, Đức Giê-su liền bước lên khỏi nước. Kìa, bầu trời mở ra, Ngài thấy Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời giáng xuống như chim bồ câu đậu trên Ngài. Có tiếng từ trời phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, đẹp lòng Ta hoàn toàn.” Sau đó, Đức Thánh Linh đưa Đức Giê-su vào trong đồng hoang để chịu quỷ vương cám dỗ. Sau khi kiêng ăn suốt bốn mươi ngày bốn mươi đêm, Ngài đói lả. Kẻ cám dỗ đến nói với Ngài: “Nếu ông là Con Đức Chúa Trời hãy truyền bảo đá này biến thành bánh đi!” Ngài trả lời: “Kinh Thánh chép: ‘Con người sống không phải chỉ nhờ bánh, nhưng cũng nhờ mọi lời phán của Đức Chúa Trời!’” Rồi quỷ đem Ngài vào thành phố thánh, đặt Ngài đứng trên nóc đền thờ và nói: “Nếu ông là Con Đức Chúa Trời, hãy lao mình xuống đi, vì Kinh Thánh chép:‘Ngài sẽ truyền cho các thiên sứ bảo vệ ngươi,Đỡ ngươi trên tay,Kẻo chân ngươi vấp phải đá chăng.’” Đức Giê-su trả lời: “Kinh Thánh cũng chép: ‘Đừng thách thức Chúa là Đức Chúa Trời của ngươi.’” Quỷ lại đem Ngài lên một ngọn núi rất cao, chỉ cho Ngài xem tất cả các vương quốc trên thế giới với sự huy hoàng của chúng và nói: “Nếu ông quỳ xuống thờ lạy ta, ta sẽ ban cho ông tất cả.” Đức Giê-su trả lời: “Hỡi Sa-tan, hãy lui ra khỏi Ta! Vì Kinh Thánh chép: ‘Hãy thờ lạy Chúa là Đức Chúa Trời ngươi và chỉ phụng sự một mình Ngài mà thôi.’” Rồi quỷ vương bỏ đi và các thiên sứ đến phục vụ Ngài. Khi nghe tin Giăng bị bắt, Đức Giê-su trở về miền Ga-li-lê. Rời bỏ Na-xa-rét, Ngài đến cư ngụ tại Ca-pha-na-um bên bờ biển, trong vùng Sa-bu-luân và Nép-ta-li. Vậy để ứng nghiệm lời tiên tri I-sa đã loan báo: “Xứ Sa-bu-luân và Nép-ta-li,Con đường ra biển, bên kia sông Giô-đanh,Là Ga-li-lê của người ngoại quốc. Dân tộc đắm chìm trong bóng tối,Đã thấy ánh sáng rực rỡVà ánh sáng đã chiếu rạngTrên những kẻ ở trong vùng đất chết tối tăm.” Từ lúc ấy, Đức Giê-su bắt đầu truyền giảng: “Hãy ăn năn, vì Nước Thiên Đàng đã đến gần.” Đang đi dọc theo bờ biển Ga-li-lê, Đức Giê-su thấy hai anh em Si-môn, cũng gọi là Phê-rơ và An-rê, em người, đang đánh cá dưới biển, vì họ làm nghề đánh cá. Ngài bảo: “Hãy theo Ta, Ta sẽ khiến các người trở nên tay đánh lưới cứu người.” Họ liền bỏ chài lưới, đi theo Ngài. Đi một quãng nữa, Ngài thấy hai người khác là Gia-cơ, con Xê-bê-đê, và Giăng, em người, cả hai đang vá lưới trong thuyền với cha mình. Ngài cũng kêu gọi họ. Hai người lập tức bỏ thuyền và từ giã cha mình, đi theo Ngài. Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê, dạy dỗ trong các hội đường, truyền giảng Phúc Âm Nước Thiên Đàng và chữa lành tất cả bệnh tật trong dân chúng. Danh tiếng Ngài đồn khắp vùng Sy-ri. Người ta đem đến cho Ngài tất cả những người đau yếu, mắc nhiều thứ bệnh tật như bị quỷ ám, động kinh, bại liệt; Ngài đều chữa lành cho họ cả. Nhiều đoàn người từ Ga-li-lê, Đê-ca-bô-li, Giê-ru-sa-lem, Giu-đê và vùng bên kia sông Giô-đanh, đến theo Ngài. Thấy đám đông, Đức Giê-su đi lên núi. Khi Ngài đã ngồi xuống, các môn đệ đến gần, Ngài bắt đầu dạy dỗ họ: “Phước cho người nghèo khổ trong tâm linh,Vì Nước Thiên Đàng thuộc về họ. Phước cho người than khóc,Vì sẽ được an ủi. Phước cho người khiêm nhu,Vì sẽ được thừa hưởng đất. Phước cho người đói khát sự công chính,Vì sẽ được no đủ. Phước cho người đầy lòng thương,Vì sẽ được thương xót. Phước cho người có lòng trong sạch,Vì sẽ thấy Đức Chúa Trời. Phước cho người hòa giải,Vì sẽ được gọi là con cái Đức Chúa Trời. Phước cho người vì sự công chính mà bị bắt bớ,Vì Nước Thiên Đàng thuộc về họ. Phước cho các con khi bị người ta mắng nhiếc, ngược đãi và vu cáo đủ điều ác vì cớ Ta. Hãy hân hoan, mừng rỡ, các con sẽ được trọng thưởng ở trên trời vì người ta cũng đã bắt bớ các tiên tri của Chúa trước các con như thế.” “Các con là muối của đất, nhưng nếu muối mất chất mặn đi, thì lấy gì làm cho mặn lại? Muối ấy thành vô vị, chỉ còn bỏ đi và bị người ta giẫm dưới chân. Các con là ánh sáng của thế gian. Một thành xây trên ngọn đồi sẽ không bị che khuất. Không ai thắp đèn rồi đặt trong thùng nhưng đặt trên chân đèn để soi sáng mọi người trong nhà. Vậy, hãy chiếu ánh sáng của các con trước mặt thiên hạ như thế, để họ thấy các công việc tốt đẹp của các con mà tôn vinh Cha các con ở trên trời.” “Đừng nghĩ rằng Ta đến để hủy bỏ Kinh Luật và Kinh Tiên Tri; Ta đến không phải để hủy bỏ mà để hoàn thành. Vì thật, Ta bảo các con: Cho đến khi trời đất qua đi thì một chấm, một nét trong Kinh Luật cũng không qua đi cho đến chừng tất cả được thành tựu. Vì thế nếu ai hủy bỏ một điều nhỏ nhất trong các điều răn nầy và dạy người ta làm như thế, người ấy sẽ là nhỏ nhất trong Nước Thiên Đàng. Nhưng hễ ai làm theo những điều răn ấy và dạy người khác làm nữa, sẽ được kể là lớn trong Nước Thiên Đàng. Vì Ta nói cho các con biết: Nếu sự công chính của các con không hơn sự công chính của các chuyên gia kinh luật và người Pha-ri-si, thì các con không thể vào Nước Thiên Đàng được.” “Các con nghe lời dạy cho người xưa rằng: ‘Chớ giết người. Ai giết người sẽ bị trừng phạt.’ Nhưng Ta bảo các con: ‘Ai giận anh em mình, người ấy đáng bị trừng phạt. Ai mắng anh em mình là ngu xuẩn, người ấy đáng bị đưa ra tòa. Ai mắng anh em mình là điên khùng người ấy đáng bị ném vào lửa hỏa ngục.’ Cho nên khi con dâng lễ vật trên bàn thờ mà nhớ lại rằng một anh em con có điều gì bất bình cùng con, hãy để lễ vật ở trước bàn thờ, đi giải hòa cùng anh em mình trước đã, và hãy trở lại dâng lễ vật. Hãy sớm thỏa thuận với người kiện cáo mình ngay khi còn trên đường đi với họ, kẻo đối phương nộp con trước tòa, quan tòa trao cho người dưới quyền tống giam con. Thật, Ta bảo con, con không ra khỏi ngục cho đến khi trả hết đồng bạc cuối cùng.” “Các con đã nghe lời dạy rằng: ‘Chớ ngoại tình.’ Còn Ta dạy các con rằng: ‘Hễ ai nhìn đàn bà với lòng tham muốn người ấy đã ngoại tình trong lòng rồi. Nếu con mắt bên phải gây cho con phạm tội, hãy móc mắt ấy ném xa khỏi con, vì thà một phần thân thể bị hủy hoại hơn là cả thân thể bị ném xuống hỏa ngục. Nếu tay phải gây cho con phạm tội, hãy chặt bỏ đi, vì thà một phần thân thể bị hủy hoại còn hơn là toàn thân đi vào hỏa ngục.’” “Cũng có lời dạy: ‘Ai muốn bỏ vợ hãy cho nàng một giấy ly dị.’ Nhưng Ta bảo các con: Ngoại trừ trường hợp gian dâm, ai bỏ vợ là làm cho nàng trở nên người ngoại tình; còn ai cưới người bị ly dị, thì cũng phạm tội ngoại tình.” “Các con cũng nghe lời dạy cho người xưa rằng: ‘Đừng bội lời thề, nhưng hãy hoàn thành lời hứa nguyện của con với Chúa.’ Nhưng Ta bảo các con: ‘Đừng thề gì cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì là ngai của Đức Chúa Trời. Đừng chỉ đất mà thề, vì là bệ chân của Ngài. Đừng chỉ Giê-ru-sa-lem mà thề, vì là kinh thành của Vua lớn. Đừng chỉ đầu con mà thề, vì con không thể làm cho một sợi tóc thành trắng hay đen được. Nhưng phải thì nói phải, không thì nói không, thêm bớt bất cứ điều gì đều từ quỷ mà đến.’” “Các con nghe lời dạy rằng: ‘Mắt đền mắt, răng đền răng.’ Nhưng Ta bảo các con: ‘Đừng chống cự kẻ ác. Nếu ai vả má bên phải, hãy đưa luôn má bên kia cho họ. Nếu ai muốn kiện con để lấy áo trong, hãy để họ lấy luôn áo ngoài. Nếu ai bắt con đi một dặm, hãy đi với họ hai dặm. Ai xin hãy cho; ai muốn mượn gì, đừng từ chối.’” “Các con có nghe lời dạy: ‘Hãy thương người láng giềng và ghét kẻ thù địch.’ Nhưng Ta bảo các con: ‘Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ bắt bớ các con, để các con trở nên con cái của Cha các con trên trời, vì Ngài cho mặt trời soi trên kẻ ác cũng như người thiện và ban mưa cho người công chính cũng như kẻ bất chính. Nếu các con chỉ thương người thương mình, các con có gì đáng thưởng đâu. Ngay cả người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu các con chỉ chào đón anh em mình mà thôi, thì có gì hơn ai đâu, những người ngoại đạo cũng chẳng làm như thế sao? Thế thì, các con hãy toàn hảo, như Cha các con ở trên trời là Đấng toàn hảo.’” “Các con hãy thận trọng về việc công đức của mình, đừng phô trương cho người ta thấy, nếu không, các con sẽ không được Cha các con ở trên trời ban thưởng. Vì thế, khi con làm việc từ thiện, đừng thổi kèn trước mặt thiên hạ như phường đạo đức giả thường làm trong hội đường và ngoài phố để được người ta khen ngợi. Thật, Ta bảo các con, họ đã nhận đủ phần thưởng của mình rồi. Nhưng khi con làm việc từ thiện, đừng cho tay trái biết tay phải làm gì, để việc từ thiện của con được giữ kín; và Cha con là Đấng thấy trong nơi kín đáo ấy, sẽ thưởng cho con.” “Khi các con cầu nguyện, đừng như bọn đạo đức giả, vì họ thích đứng cầu nguyện trong hội đường hay nơi quảng trường cho người ta thấy. Thật, Ta bảo các con, họ đã nhận đầy đủ phần thưởng của mình rồi. Riêng phần con, khi cầu nguyện, hãy vào phòng riêng đóng cửa lại, cầu nguyện với Cha con, là Đấng ở trong nơi kín đáo và Cha con, là Đấng thấy trong nơi kín đáo ấy, sẽ thưởng cho con. Khi cầu nguyện đừng lặp đi lặp lại như người ngoại, vì họ tưởng cầu nhiều lời sẽ được nhậm. Vậy, đừng bắt chước họ, vì Cha biết các con cần gì trước khi các con cầu xin. Các con hãy cầu nguyện như thế này:‘Lạy Cha chúng con ở trên trời,Danh Cha được tôn thánh, Nước Cha được đến,Ý Cha được nên,Ở đất như ở trời. Xin cho chúng con hôm nay thức ăn đủ ngày. Xin tha tội cho chúng con,Như chính chúng con cũng tha kẻ mắc tội với chúng con. Xin đừng để chúng con sa vào chước cám dỗNhưng cứu chúng con khỏi Kẻ Ác.’ Nếu các con tha tội cho người ta, thì Cha các con ở trên trời cũng sẽ tha cho các con. Nếu các con không tha tội cho người ta, Cha các con cũng sẽ không tha tội các con.” “Khi các con kiêng ăn, đừng để mặt mày bơ phờ như phường đạo đức giả, vì họ làm mặt buồn để người ta thấy họ kiêng ăn. Thật, Ta bảo các con, họ đã nhận đủ phần thưởng của mình rồi. Nhưng khi kiêng ăn, hãy xức dầu trên đầu, rửa mặt, để không ai biết con đang kiêng ăn chỉ riêng Cha con, là Đấng không ai thấy được, sẽ thấy và thưởng cho con.” “Các con đừng tích trữ của cải dưới đất là nơi mối mọt và gỉ sét làm hủy hoại và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ của cải các con ở trên trời là nơi mối mọt không thể hủy hoại và kẻ trộm cũng không khoét vách lấy được. Vì của cải các con ở đâu, lòng các con cũng ở đó.” “Mắt là đèn của thân thể. Vì thế, nếu mắt con tốt, thì cả thân thể sẽ sáng láng. Nếu mắt con xấu, cả thân thể sẽ tối tăm. Vậy nếu ánh sáng ở trong con chỉ là tối tăm, thì sự tối tăm ấy còn lớn là dường nào!” “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì sẽ ghét chủ này mà thương chủ kia, hoặc sẽ trọng chủ này mà khinh chủ kia. Các con không thể phục vụ cả Đức Chúa Trời lẫn tiền tài.” “Vì thế Ta bảo các con: Đừng lo lắng cho cuộc sống, lo mình sẽ ăn gì, uống gì, hay thân thể mình sẽ mặc gì. Mạng sống chẳng quý hơn đồ ăn và thân thể chẳng quý hơn quần áo sao? Hãy xem loài chim trời, chúng chẳng gieo, chẳng gặt, cũng chẳng tồn kho tích trữ, nhưng Cha các con ở trên trời vẫn nuôi chúng. Các con không quý hơn loài chim sao? Có ai trong các con nhờ lo lắng mà có thể thêm cho đời mình một khoảnh khắc nào không? Còn việc ăn mặc, sao các con lo lắng mà làm chi? Hãy xem hoa huệ ngoài đồng mọc thế nào. Chúng không phải làm việc khổ nhọc, cũng chẳng kéo chỉ, nhưng Ta phán bảo các con, dầu vua Sa-lô-môn sang trọng đến đâu, cũng không thể mặc đẹp bằng một trong các hoa huệ kia. Một loài hoa dại ngoài đồng, nay còn, mai bị ném vào lò lửa, mà Đức Chúa Trời mặc cho chúng như thế, còn các con không quý hơn để Ngài chu cấp quần áo cho sao, hỡi những kẻ ít đức tin? Vậy, đừng lo lắng mà hỏi rằng chúng ta sẽ ăn gì, uống gì hay là mặc gì? Vì tất cả những điều này, người ngoại vẫn tìm kiếm và Cha các con ở trên trời biết các con cần tất cả những điều ấy. Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm Nước Đức Chúa Trời và sự công chính của Ngài, và Ngài sẽ ban thêm cho các con mọi điều ấy nữa. Thế thì, đừng lo sợ cho ngày mai, vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Nỗi lao phiền trong ngày cũng đủ quá rồi!” “Các con đừng lên án ai để khỏi bị lên án. Vì các con lên án người khác thể nào, các con sẽ bị lên án thể ấy. Các con lường cho người ta mực nào, các con sẽ được lường lại mực ấy. Tại sao con thấy cái dằm trong mắt anh em, nhưng không nhận ra cây xà nhà trong mắt mình? Làm sao con có thể nói với anh em mình rằng: ‘Để tôi lấy cái dằm ra khỏi mắt anh,’ trong khi cây xà vẫn ở trong mắt mình. Hỡi kẻ đạo đức giả, hãy lấy cây xà ra khỏi mắt mình trước, rồi mới thấy rõ để lấy cái dằm ra khỏi mắt anh em mình. Đừng cho chó vật thánh, chớ ném châu ngọc cho heo, e rằng chúng sẽ giẫm dưới chân và quay lại cắn xé các con.” “Hãy xin, sẽ được; hãy tìm, sẽ gặp; hãy gõ, cửa sẽ mở cho các con. Vì ai xin thì được, ai tìm thì gặp và ai gõ, cửa sẽ mở. Có ai trong vòng các con, khi con mình xin bánh lại cho đá, hay con xin cá, lại cho rắn chăng? Nếu các con là người gian ác còn biết cho con cái mình quà tốt, huống chi Cha các con ở trên trời lại không ban điều tốt hơn cho những người cầu xin Ngài sao? Vậy thì, bất cứ những gì con muốn người ta làm cho mình, hãy làm điều ấy cho họ, vì đó là Kinh Luật và Kinh Tiên Tri.” “Hãy vào cổng hẹp, vì cổng rộng và đường lớn dẫn đến hủy hoại, nhiều người đi vào đó. Cổng hẹp và đường nhỏ dẫn đến sự sống, chỉ có ít người tìm thấy.” “Hãy đề phòng tiên tri giả là những người đội lốt chiên đến với các con, nhưng bên trong là lang sói tham tàn. Các con nhận biết người ta nhờ hoa quả của họ. Không ai hái nho nơi bụi gai hay hái vả nơi bụi chà chôm. Cũng vậy, cây lành sinh quả lành, cây độc sinh quả độc. Cây lành không thể sinh quả độc, cây độc cũng không sinh quả lành. Cây nào không sinh quả lành sẽ bị đốn và ném vào lửa. Thế thì, các con nhận biết người ta là nhờ quả của họ.” “Không phải hễ ai nói với Ta: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa’ đều sẽ vào Nước Thiên Đàng đâu, nhưng chỉ những người làm theo ý muốn của Cha Ta ở trên trời. Vào ngày ấy, nhiều người sẽ nói với Ta rằng: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa, chúng con đã nhân danh Ngài nói tiên tri, nhân danh Ngài trừ quỷ, nhân danh Ngài làm nhiều phép lạ.’ Nhưng Ta sẽ phán cùng họ rằng: ‘Ta không biết các người, hỡi những kẻ gian ác, hãy lui ra khỏi Ta!’” “Vậy, ai nghe lời Ta dạy và làm theo, sẽ giống như một người khôn ngoan xây nhà mình trên nền đá. Khi mưa đổ xuống, nước lụt dâng lên, cuồng phong ập đến, nhà ấy không sụp đổ vì đã được xây trên nền đá. Còn ai nghe lời Ta dạy, nhưng không làm theo thì giống như một người ngu dại xây nhà mình trên cát. Khi mưa đổ xuống, nước lụt dâng lên, cuồng phong ập đến, thì nhà ấy sụp đổ, hư hại nặng nề.” Khi Đức Giê-su dứt lời, đoàn dân đông vô cùng ngạc nhiên về sự dạy dỗ của Ngài, vì Ngài dạy dỗ đầy quyền uy chứ không như các chuyên gia kinh luật của họ. Khi Đức Giê-su từ trên núi xuống, có rất đông người đi theo Ngài. Kìa, một người phung đến quỳ gối xin: “Thưa Chúa, nếu Chúa muốn, Ngài có thể chữa lành cho con.” Ngài đưa tay ra sờ người ấy và phán: “Ta muốn, hãy lành bệnh!” Lập tức người phung được lành. Đức Giê-su dặn người ấy: “Này, đừng nói với ai cả, nhưng hãy đi trình diện cùng thầy tế lễ và dâng lễ vật theo như Môi-se đã dạy để làm chứng cho họ.” Khi Đức Giê-su vào thành Ca-pha-na-um, một đội trưởng đến xin Ngài: “Thưa Thầy, người đầy tớ của tôi bị bệnh bại liệt đang nằm tại nhà đau đớn vô cùng.” Ngài phán: “Ta sẽ đến chữa lành cho nó.” Nhưng viên đội trưởng đáp: “Thưa Thầy, tôi không xứng đáng tiếp Thầy vào nhà. Xin Thầy chỉ truyền một lời, đầy tớ tôi sẽ được lành. Vì tôi ở dưới quyền người khác, cũng có binh sĩ dưới quyền tôi. Tôi bảo người này: ‘Hãy đi,’ thì nó đi, và bảo người kia: ‘Hãy đến,’ thì nó đến; hoặc bảo đầy tớ của tôi: ‘Hãy làm việc này,’ thì nó làm.” Nghe vậy, Đức Giê-su lấy làm ngạc nhiên; Ngài bảo những người theo mình: “Thật, Ta bảo các con, Ta không thấy ai trong dân Y-sơ-ra-ên có đức tin như thế này. Ta cho các con biết: Nhiều người từ phương đông, phương tây sẽ đến và ngồi đồng bàn với Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp trong Nước Thiên Đàng. Nhưng những người đáng lẽ thừa hưởng Nước Thiên Đàng sẽ bị ném ra nơi tối tăm, ở đó sẽ có than khóc và rên xiết.” Đức Giê-su phán bảo viên đội trưởng: “Hãy đi! Con sẽ được như điều mình tin.” Ngay giờ đó người đầy tớ của ông được lành. Đức Giê-su vào nhà Phê-rơ, thấy bà gia của ông đang bị sốt nằm trên giường bệnh. Ngài nắm tay bà, cơn sốt liền dứt. Bà ngồi dậy và lo tiếp đãi Ngài. Buổi chiều, người ta đem đến cho Ngài nhiều người bị quỷ ám. Ngài chỉ phán một tiếng, đuổi tà linh và chữa lành tất cả những người bệnh tật. Điều này làm ứng nghiệm lời tiên tri I-sa:“Ngài mang lấy sự đau ốm của chúng taVà cất đi bệnh tật của chúng ta.” Thấy đám đông chung quanh mình, Đức Giê-su ra lệnh đi qua bờ bên kia. Có một chuyên gia kinh luật đến xin Ngài: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu tôi sẽ theo đó.” Đức Giê-su bảo người ấy: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ gối đầu.” Một môn đệ của Chúa đến thưa cùng Ngài: “Thưa Thầy, cho con về chôn cất cha con trước đã.” Nhưng Đức Giê-su đáp: “Con hãy theo Ta, để người chết chôn kẻ chết của họ.” Đức Giê-su xuống thuyền và các môn đệ đi theo. Bỗng nhiên biển động mạnh, đến nỗi thuyền bị sóng đánh gần chìm. Nhưng Ngài đang ngủ. Các môn đệ đến đánh thức Ngài dậy và cầu cứu: “Chúa ơi, xin cứu chúng con! Chúng con sắp chết chìm!” Ngài bảo: “Sao các con sợ, hỡi những kẻ ít đức tin?” Rồi Ngài đứng dậy quở gió và biển, biển cả hoàn toàn yên lặng. Các môn đệ ngạc nhiên bảo nhau: “Người nầy là ai mà gió và biển cũng vâng lời Người?” Sau khi đã qua bên kia bờ, Ngài vào khu vực người Ga-đa-ra. Có hai người bị quỷ ám từ các nhà mồ đi ra gặp Ngài. Hai người này rất hung dữ, đến nỗi không ai dám đi qua con đường đó. Thấy Ngài họ liền kêu la: “Con Đức Chúa Trời ơi! Chúng tôi đâu có sinh sự với Ngài? Ngài đến để hình phạt chúng tôi trước hạn định sao?” Xa xa có một bầy heo rất đông đương ăn. Các quỷ cầu xin Ngài: “Nếu Ngài đuổi chúng tôi ra, xin cho chúng tôi nhập vào bầy heo.” Ngài phán: “Hãy xuất đi!” Khi xuất khỏi hai người, chúng nhập vào bầy heo. Lập tức bầy heo lao đầu từ bờ vực xuống biển chết chìm hết. Mấy người chăn heo bỏ chạy vào làng và báo cáo mọi sự cùng với việc đã xảy ra cho hai người bị quỷ ám. Thế là cả dân làng ra gặp Đức Giê-su. Thấy Ngài, họ yêu cầu Ngài rời khỏi địa bàn của họ. Đức Giê-su xuống thuyền trở về bờ bên kia, về thành phố của Ngài. Người ta đem đến cho Ngài một người bại liệt nằm trên giường. Thấy đức tin những người ấy, Đức Giê-su bảo người bệnh: “Con ơi, hãy yên tâm, tội lỗi con đã được tha.” Mấy chuyên gia kinh luật nói với nhau: “Người này phạm thượng!” Đức Giê-su biết ý tưởng họ, Ngài phán: “Tại sao các ông có ác ý trong lòng như thế? Bảo: ‘Tội lỗi con đã được tha,’ hay bảo: ‘Đứng dậy bước đi,’ điều nào dễ hơn? Để các ông biết rằng Con Người khi ở trần thế vẫn có quyền tha tội.” Ngài phán bảo người bại liệt: “Hãy đứng dậy, vác giường đi về nhà.” Người ấy đứng dậy đi về nhà. Dân chúng chứng kiến việc này đều kính sợ và tôn vinh Đức Chúa Trời, vì đã ban cho loài người quyền uy như thế. Ra khỏi đó Đức Giê-su thấy một người tên Ma-thi-ơ đang ngồi tại trạm thu thuế. Ngài bảo: “Hãy theo Ta.” Người đứng dậy đi theo Ngài. Sau đó, khi Đức Giê-su đang ăn tại nhà, có nhiều người thu thuế và kẻ tội lỗi đến cùng ăn với Ngài và các môn đệ. Thấy thế, những người Pha-ri-si nói với môn đệ Ngài: “Tại sao Thầy các anh ăn uống chung với phường thu thuế và đám người tội lỗi?” Nghe thế, Ngài đáp: “Người lành mạnh không cần bác sĩ, chỉ có người bệnh mới cần. Hãy đi và học cho biết ý nghĩa câu này: ‘Ta chuộng lòng thương xót hơn vật tế lễ!’ Vì Ta đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng gọi người tội lỗi.” Lúc ấy, các môn đệ của Giăng đến hỏi Ngài: “Tại sao chúng tôi và người Pha-ri-si kiêng ăn, còn môn đệ của Thầy không kiêng ăn?” Đức Giê-su đáp: “Các chàng phụ rể không thể buồn rầu đang khi chàng rể còn ở với mình. Khi chàng rể bị đem đi khỏi, lúc bấy giờ họ mới kiêng ăn. Không ai vá miếng vải mới vào áo cũ, vì miếng vá sẽ co lại làm rách áo và chỗ rách sẽ tệ hơn. Không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ; nếu làm như thế, bầu da sẽ nứt, rượu chảy hết mà bầu cũng hư; nhưng người ta đổ rượu mới vào bầu da mới, thế là giữ được cả hai.” Đức Giê-su còn đang nói, một viên quản lý hội đường đến quỳ gối thưa: “Con gái tôi vừa mới chết, nhưng xin Thầy đến đặt tay trên nó thì nó sẽ sống.” Ngài đứng dậy đi với ông ta, các môn đệ cùng theo. Bấy giờ, có một người đàn bà bị bệnh xuất huyết đã mười hai năm, đến phía sau sờ gấu áo Ngài, vì tự nghĩ rằng: “Nếu ta chỉ sờ gấu áo Ngài, thì sẽ được lành bệnh.” Đức Giê-su quay lại, thấy người đàn bà, và bảo: “Con ơi, hãy vững tâm, đức tin con đã chữa lành cho con.” Ngay lúc ấy, người đàn bà hết bệnh. Đức Giê-su vào nhà người quản lý; Ngài thấy mấy người thổi sáo nhà đám và đám đông đang xôn xao. Ngài bảo: “Ra ngoài đi! Đứa bé này không chết đâu, nhưng nó đang ngủ.” Họ chế nhạo Ngài. Khi đám đông bị đuổi ra ngoài, Ngài đến cầm tay em bé, thì nó ngồi dậy. Tin này đồn ra khắp vùng đó. Khi Đức Giê-su rời khỏi chỗ đó, có hai người mù theo sau kêu lớn: “Con Vua Đa-vít, xin thương xót chúng con!” Khi vào nhà, hai người mù đến gần Ngài. Ngài hỏi: “Các con có tin rằng Ta làm được việc này không?” Họ trả lời: “Thưa Chúa, chúng con tin.” Ngài sờ mắt họ và phán: “Hãy sáng mắt như các con đã tin.” Mắt họ được sáng. Đức Giê-su nghiêm nghị dặn: “Nầy, đừng cho ai biết việc nầy.” Nhưng họ đi ra và đồn về Ngài khắp vùng đó. Khi họ vừa đi khỏi, người ta đem cho Ngài một người câm bị quỷ ám. Khi quỷ bị đuổi ra, người câm nói được. Dân chúng ngạc nhiên kêu lên: “Chưa bao giờ có việc như thế này xảy ra trong Y-sơ-ra-ên.” Nhưng người Pha-ri-si lại bảo: “Ông ta nhờ chúa quỷ để trừ quỷ.” Đức Giê-su đi khắp các thành thị và làng mạc, dạy dỗ trong các hội đường, truyền bá Phúc Âm Nước Đức Chúa Trời và chữa lành mọi thứ bệnh tật, đau yếu. Nhìn thấy đoàn dân đông đảo, Ngài động lòng thương xót, vì họ bị hà hiếp và khốn đốn như đàn chiên không người chăn. Ngài bảo các môn đệ: “Mùa gặt thật trúng, nhưng thợ gặt thì ít. Vậy, hãy cầu xin Chúa mùa gặt sai thêm thợ gặt vào đồng lúa của Ngài.” Đức Giê-su gọi mười hai môn đệ đến và ban cho quyền uy để đuổi tà linh và chữa lành mọi bệnh tật. Tên của mười hai sứ đồ như sau: Trước hết là Si-môn, cũng gọi là Phê-rơ và An-rê, em người; Gia-cơ con của Xê-bê-đê và Giăng em người; Phi-líp và Ba-thê-lê-mi; Thô-ma và Ma-thi-ơ, người thu thuế; Gia-cơ con của A-phê và Tha-đê; Si-môn người thuộc đảng Quá Khích và Giu-đa Ích-ca-ri-ốt là người phản Chúa. Đó là mười hai sứ đồ Đức Giê-su sai đi và dặn bảo: “Đừng đi vào vùng dân ngoại quốc hay thành phố người Sa-ma-ri. Nhưng hãy đến cùng bầy chiên lạc mất của nhà Y-sơ-ra-ên. Hãy đi, truyền giảng rằng: ‘Nước Thiên Đàng đã đến gần.’ Hãy chữa lành kẻ đau yếu, khiến người chết sống lại, chữa sạch người phung, và đuổi quỷ trừ tà. Các con đã nhận lãnh miễn phí, hãy tặng miễn phí. Đừng mang theo vàng, bạc hay tiền của trong lưng. Đừng mang theo túi đi đường, không cần hai áo, giày hoặc gậy, bởi vì công nhân được hưởng tiền công mình. Khi vào một thành phố hay làng xã nào, hãy tìm người xứng đáng mà trọ cho đến khi đi. Khi vào nhà ai, hãy chúc bình an cho nhà ấy. Nếu nhà đó xứng đáng, sự bình an của các con sẽ ở với họ. Nếu không xứng đáng, lời chúc bình an sẽ trở về với các con. Nếu ai không tiếp nhận, hoặc không nghe lời các con, hãy phủi sạch bụi dính chân các con khi ra khỏi nhà hay thành phố đó. Thật, Ta bảo các con, vào ngày phán xét, dân thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ sẽ bị đoán phạt nhẹ hơn dân thành phố đó.” “Nầy, Ta sai các con đi như đàn chiên giữa muông sói. Vì thế, hãy khôn khéo như rắn và đơn sơ như chim bồ câu. Hãy coi chừng người đời, họ sẽ nộp các con cho các hội đồng và đánh đòn các con tại các hội đường. Các con sẽ bị điệu đến trước mặt các thống đốc và vua chúa vì cớ Ta, để làm chứng cho họ và cho các dân ngoại quốc. Khi bị bắt, các con đừng lo cách nói thế nào hay sẽ nói gì, vì lúc ấy các con sẽ được ban cho lời đáp. Vì không phải tự các con nói ra, nhưng Đức Thánh Linh của Cha các con sẽ nói qua các con. Anh em sẽ tố cáo nhau để giết nhau. Cha tố con, ngay cả con cũng chống lại cha và gây cho cha bị giết. Các con sẽ bị mọi người ghen ghét vì danh Ta, nhưng ai kiên trì cho đến cuối cùng sẽ được cứu rỗi. Khi các con bị bắt bớ ở thành phố này, hãy trốn sang thành phố khác. Vì thật, Ta bảo các con, các con chưa đi hết các thành phố Y-sơ-ra-ên thì Con Người đã đến. Trò không hơn thầy, tớ cũng không hơn chủ. Trò bằng thầy và tớ bằng chủ cũng đủ rồi. Nếu họ gọi chủ nhà là quỷ Bê-ên-xê-bun, thì họ sẽ còn mắng nhiếc người nhà thậm tệ đến đâu nữa!” “Vậy, các con đừng sợ chúng, vì không gì che giấu mà không bị phô bày ra, không gì bí mật mà không bị tiết lộ. Những gì Ta bảo các con trong bóng tối, hãy nói ra giữa ban ngày; những gì các con nghe được, hãy công bố trên sân thượng. Đừng sợ kẻ giết thân thể mà không giết được linh hồn. Thà sợ Đấng có thể hủy diệt cả linh hồn lẫn thân thể nơi hỏa ngục. Có phải hai con chim sẻ chỉ bán được một đồng? Thế nhưng không một con nào rơi xuống đất ngoài ý Cha các con. Ngay cả tóc trên đầu các con cũng đã đếm rồi. Thế thì đừng sợ. Các con quý hơn nhiều con chim sẻ.” “Vì thế, ai tuyên xưng Ta trước mặt người đời, chính Ta sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Ta ở trên trời. Còn ai chối Ta trước mặt người đời, chính Ta sẽ chối người ấy trước mặt Cha Ta ở trên trời. Đừng nghĩ rằng Ta đến để đem hòa bình trên đất. Ta đến không phải để đem hòa bình nhưng đem gươm giáo. Vì Ta đến để phân rẽ, khiến con trai nghịch với cha, con gái với mẹ và nàng dâu cùng bà gia. Kẻ thù của người ta chính là người nhà mình. Ai yêu cha mẹ hơn Ta, người ấy không xứng đáng cho Ta. Ai yêu con trai, con gái hơn Ta cũng không xứng đáng cho Ta. Ai không vác thập tự giá mình mà theo Ta cũng không xứng đáng cho Ta. Ai cố giữ mạng mình thì sẽ mất, nhưng ai vì Ta hy sinh tính mạng mình thì sẽ tìm lại được.” “Ai đón tiếp các con, tức là đón tiếp Ta. Ai đón tiếp Ta tức là đón tiếp Đấng sai Ta. Ai đón tiếp một tiên tri của Chúa vì người ấy là tiên tri, người ấy sẽ nhận phần thưởng của tiên tri. Ai đón tiếp một người công chính vì người ấy là công chính, thì sẽ nhận được phần thưởng của người công chính. Ai cho một trong những người bé mọn này chỉ một ly nước lạnh vì người đó là môn đệ Ta, thật, Ta bảo các con, người ấy sẽ không mất phần thưởng của mình đâu.” Khi Đức Giê-su dặn bảo mười hai môn đệ xong, Ngài đi ra dạy dỗ và truyền giảng trong các thành phố của họ. Giăng ở trong ngục nghe về các việc làm của Chúa Cứu Thế, bèn sai môn đệ mình đến hỏi Ngài: “Có phải Thầy là Đấng sẽ đến hay chúng tôi phải đợi Đấng khác?” Đức Giê-su đáp: “Hãy đi báo cáo cho Giăng những gì các anh em nghe và thấy. Người mù được thấy, kẻ què được đi, người phung được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại và kẻ nghèo được nghe truyền giảng Phúc Âm. Phước cho ai không vấp phạm vì Ta.” Khi môn đệ Giăng ra về, Đức Giê-su bắt đầu phán với đám đông về Giăng: “Các con vào đồng hoang để xem gì? Có phải xem cây sậy bị gió lay không? Thế các con đi xem gì nữa? Người mặc nhung lụa gấm vóc ư? Người mặc nhung lụa gấm vóc thường ở trong cung vua. Thế các con đi xem gì nữa? Một vị tiên tri ư? Phải, Ta bảo các con, có một vị cao trọng hơn tiên tri nữa, đây là lời viết về người:‘Này chính Ta sai sứ giả Ta đi trước mặt con;Người sẽ dọn đường sẵn cho con.’ Thật Ta bảo các con, giữa vòng những kẻ do đàn bà sinh ra không ai lớn hơn Giăng Báp-tít, nhưng người nhỏ nhất trong Nước Thiên Đàng còn lớn hơn ông ta. Từ ngày Giăng Báp-tít giảng dạy cho đến nay, Nước Thiên Đàng bị cưỡng ép dữ dội và những kẻ hung bạo muốn chiếm đoạt nước ấy. Vì tất cả tiên tri và Kinh Luật đã báo trước cho đến thời Giăng. Nếu các con muốn nhận biết, thì ông là hiện thân của tiên tri Ê-li, nhân vật phải đến. Ai có tai để nghe, hãy lắng nghe. Ta sẽ ví thế hệ này với gì? Họ giống như trẻ con ngồi nơi phố chợ réo gọi nhau: ‘Bọn tao thổi sáo,Mà sao bay không nhảy múa?Bọn tao hát nhạc buồnMà sao bay không khóc lóc kêu than?’ Vì Giăng đã đến, kiêng ăn cữ rượu, thì người ta nói ‘ông bị quỷ ám.’ Con Người đến ăn uống, người ta lại bảo: ‘Ông ta ham ăn mê uống, say sưa, kết bạn với phường thu thuế và người tội lỗi.’ Nhưng sự khôn ngoan được biện minh bằng việc làm.” Sau đó, Đức Giê-su bắt đầu quở trách dân những thành đã chứng kiến rất nhiều phép lạ của Ngài, nhưng vẫn không ăn năn tội: “Khốn cho ngươi, thành Cô-ra-xin! Khốn cho ngươi, thành Bết-sai-đa! Vì nếu những phép lạ đã thực hiện nơi các ngươi được làm tại thành Ty-rơ và Si-đôn, thì họ đã mặc áo gai, rắc tro lên đầu, bày tỏ lòng ăn năn hối cải từ lâu rồi. Vậy nên Ta bảo các ngươi, đến ngày phán xét, hai thành Ty-rơ và Si-đôn sẽ bị phạt nhẹ hơn các ngươi. Còn ngươi, thành Ca-pha-na-um, ngươi không được nâng lên tận trời đâu, nhưng sẽ bị hạ xuống Âm Phủ. Vì nếu các phép lạ thực hiện nơi ngươi được làm tại thành Sô-đôm, thì nó vẫn còn đến ngày nay. Vậy nên Ta bảo các ngươi, đến ngày phán xét địa phận Sô-đôm sẽ bị phạt nhẹ hơn các ngươi.” Lúc ấy, Đức Giê-su cầu nguyện: “Thưa Cha, con cảm ơn Cha là Chúa tể trời đất, vì Cha đã giấu những điều này đối với những người khôn ngoan, thông thái, nhưng bày tỏ cho những kẻ bé mọn. Vâng, thưa Cha vì điều này đẹp ý Cha. Cha Ta đã ban mọi sự cho Ta. Không ai biết Con ngoại trừ Cha, cũng không ai biết Cha ngoại trừ Con và những kẻ mà Con muốn bày tỏ cho họ. Hỡi những kẻ mệt mỏi và nặng gánh ưu tư, hãy đến cùng Ta. Ta sẽ cho các con được yên nghỉ. Hãy mang ách của Ta và học theo Ta, thì tâm hồn các con sẽ tìm được yên nghỉ, vì Ta có lòng dịu hiền và khiêm tốn, vì ách Ta dễ chịu và gánh Ta nhẹ nhàng.” Lúc ấy Đức Giê-su đi ngang qua một đồng lúa, vào ngày Sa-bát, các môn đệ Ngài đói, nên ngắt bông lúa ăn. Những người Pha-ri-si thấy vậy, nói với Ngài: “Coi kìa! Môn đệ của Thầy làm điều trái luật trong ngày Sa-bát.” Nhưng Ngài đáp: “Các ông chưa đọc về việc làm của Đa-vít và những người theo ông khi họ bị đói sao? Thế nào Đa-vít đã vào nhà thờ Đức Chúa Trời và ăn bánh trưng bày trên bàn thờ, mặc dầu ông và những người theo ông không được phép ăn, mà chỉ có các thầy tế lễ mới được phép ăn? Hay là các ông chưa đọc trong Kinh Luật rằng vào ngày Sa-bát, các thầy tế lễ vi phạm luật ngày Sa-bát trong đền thờ nhưng vẫn vô tội sao? Ta cho các ông biết: Đấng cao trọng hơn cả đền thờ đang ở đây. Nếu các ông hiểu ý nghĩa của lời dạy: ‘Ta chuộng lòng thương xót hơn vật tế lễ!’ thì các ông đã không lên án người vô tội. Vì Con Người là Chúa của ngày Sa-bát.” Từ đó Ngài đi vào một hội đường của người Do Thái. Ở đó có một người bị liệt bàn tay. Một số người hỏi Đức Giê-su để tìm dịp tố cáo Ngài: “Người ta được phép chữa bệnh trong ngày Sa-bát không?” Ngài đáp: “Ai trong vòng các ông có một con chiên bị sụp hố trong ngày Sa-bát mà không kéo nó lên sao? Người còn quý hơn chiên biết bao! Thế thì người ta có quyền làm điều lành trong ngày Sa-bát.” Rồi Ngài phán cùng người ấy: “Hãy đưa tay ra!” Người ấy đưa tay ra, thì tay liệt được lành lặn như tay kia. Tuy nhiên, những người Pha-ri-si đi ra bàn mưu giết Ngài. Đức Giê-su biết thế, nên lánh khỏi chỗ đó. Có nhiều người theo Ngài và Ngài chữa lành tất cả những người bệnh. Nhưng Ngài dặn họ không nên nói cho ai biết về Ngài. Như thế để ứng nghiệm lời tiên tri I-sa đã chép: “Đây là tôi tớ Ta đã chọn,Người mà Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng;Ta sẽ ban Thần Linh Ta trên NgườiVà Người sẽ công bố công lý cho các dân ngoại quốc. Người sẽ không cãi cọ hay la lối,Cũng không ai nghe tiếng Người ngoài phố chợ. Người sẽ không bẻ cây sậy sắp gãy,Cũng không dập tắt ngọn đèn gần tàn,Cho đến khi công lý được toàn thắng, Và các dân ngoại quốc sẽ đặt hy vọng nơi Người.” Thế rồi, người ta đem đến cho Đức Giê-su một người bị quỷ ám, mù và câm. Ngài chữa cho người ấy thấy và nói được. Cả đám đông kinh ngạc nói rằng: “Đây có phải là con vua Đa-vít không?” Nhưng các người Pha-ri-si nghe thế lại nói: “Người này không thể nào đuổi quỷ nếu không nhờ Bê-ên-xê-bun, thủ lĩnh loài quỷ.” Ngài biết ý tưởng họ, nên phán: “Nước nào tự chia rẽ sẽ bị hủy diệt. Thành nào hay nhà nào chia rẽ cũng không thể đứng vững. Nếu Sa-tan trừ Sa-tan, chúng nó chia rẽ lẫn nhau, làm thế nào nước nó đứng vững được? Nếu Ta nhờ Bê-ên-xê-bun đuổi quỷ, thì con cái các ông nhờ ai để đuổi quỷ? Vì thế, chúng sẽ là người đoán xét các ông. Nếu Ta nhờ Thánh Linh của Đức Chúa Trời đuổi quỷ, thì Nước Đức Chúa Trời đã đến cùng các ông. Hoặc là làm sao vào nhà một người mạnh để cướp của, mà trước hết lại không trói người mạnh ấy rồi mới cướp? Ai không thuận với Ta là nghịch với Ta, ai không hợp với Ta sẽ bị tan ra. Vì thế Ta bảo các ông: Mọi tội lỗi và lời phạm thượng đều được tha cho loài người, nhưng tội phạm thượng Đức Thánh Linh sẽ không được tha thứ. Nếu ai nói phạm Con Người, người ấy sẽ được tha; nhưng nếu ai nói phạm Đức Thánh Linh sẽ không được tha, cả đời này lẫn đời sau.” “Trồng cây lành thì được quả lành, trồng cây độc thì được quả độc. Nhờ xem quả mà biết cây. Hỡi loài rắn độc, làm thế nào các người ăn nói hiền lành khi chính các người độc ác? Vì lòng dạ có đầy tràn mới trào ra môi miệng. Người lành do thiện tâm tích lũy, làm lành. Kẻ ác do ác tâm tích lũy, làm ác. Nhưng Ta bảo các người: Vào ngày phán xét mỗi người sẽ phải khai trình mọi lời nhảm nhí mình đã nói ra. Vì do lời nói, các người được tuyên xưng là công chính và cũng do lời nói, các người bị hình phạt.” Bấy giờ, mấy chuyên gia kinh luật và người Pha-ri-si nói cùng Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng tôi muốn xem Thầy làm dấu lạ.” Nhưng Ngài đáp cùng họ: “Dòng dõi gian ác bất trung này xin một dấu lạ, nhưng sẽ không được dấu lạ nào ngoại trừ dấu lạ tiên tri Giô-na. Vì như Giô-na đã ở trong bụng cá ba ngày ba đêm, Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba đêm. Trong ngày phán xét, người Ni-ni-ve sẽ đứng dậy, lên án dân này, vì họ đã ăn năn hối cải khi nghe Giô-na rao giảng, và này ở đây có Đấng cao trọng hơn Giô-na nữa. Trong ngày phán xét nữ hoàng nam phương cũng sẽ đứng dậy, lên án dân này, vì bà đã đến từ đầu cùng trái đất để nghe lời khôn ngoan của vua Sa-lô-môn, và này ở đây có Đấng vĩ đại hơn Sa-lô-môn. Khi tà linh ra khỏi một người, nó rảo qua nơi đồng khô tìm chỗ nghỉ ngơi, nhưng không được. Nó tự nhủ: ‘Ta hãy trở lại nhà cũ mình vừa ra khỏi.’ Khi trở về, nó thấy nhà trống, quét dọn sạch sẽ, ngăn nắp. Nó đi rủ thêm bảy quỷ khác dữ hơn về ở đó. Như vậy, tình trạng sau này của người ấy còn tệ hại hơn trước. Thế hệ gian ác này cũng sẽ như vậy.” Khi Đức Giê-su còn đang dạy đám đông, mẹ và các em Ngài đến đứng ở ngoài, muốn nói chuyện với Ngài. Có người nói: “Thưa Thầy, mẹ và các em Thầy đứng ở ngoài, muốn nói chuyện với Thầy.” Ngài trả lời: “Ai là mẹ Ta, ai là anh em Ta?” Ngài chỉ tay về phía các môn đệ bảo: “Đây là mẹ Ta và anh em Ta. Vì ai làm theo ý Cha Ta ở trên trời, người ấy là anh em, chị em và là mẹ Ta.” Cũng trong ngày đó Đức Giê-su rời khỏi nhà, ra ngồi bên bờ biển. Nhiều đoàn người đến với Ngài, đến nỗi Ngài phải xuống ngồi trên một chiếc thuyền, còn tất cả dân chúng đứng trên bờ. Ngài dùng ngụ ngôn dạy dỗ dân chúng nhiều điều. Ngài kể: “Một người kia đi ra gieo giống. Đang khi gieo giống, một số hạt rơi trên đường đi, chim đến ăn hết. Một số khác rơi nhằm chỗ có đá, không có nhiều đất nên mọc lên ngay vì đất không sâu. Nhưng khi mặt trời mọc lên, bị sém nắng và vì không có rễ nên chết khô. Một số khác rơi nhằm bụi gai, gai mọc lên làm lúa bị nghẹt. Nhưng một số rơi vào chỗ đất tốt nên kết quả, hạt ra một trăm, hạt ra sáu chục, hạt ra ba chục. Ai có tai, hãy lắng nghe.” Các môn đệ đến hỏi Ngài: “Sao Thầy dùng ngụ ngôn để dạy dân chúng?” Ngài đáp: “Vì các con được ban cho hiểu biết sự huyền nhiệm về Nước Thiên Đàng, nhưng họ thì không. Vì người có lại được cho thêm và đầy dẫy. Nhưng người không có, ngay cả điều họ có cũng bị cất đi. Lý do Ta kể chuyện ngụ ngôn vì họ nhìn nhưng không thấy, lắng tai mà chẳng nghe, chẳng hiểu. Lời tiên tri I-sa nói về họ đã được ứng nghiệm:‘Các ngươi cứ nghe nhưng không hiểu,Cứ nhìn nhưng không thấy. Vì lòng dân này đã chai lì,Tai đã nặng,Mắt nhắm kín,Nếu không, mắt họ đã thấyTai đã ngheVà tâm trí họ hiểu rõ,Để quay trở lại và Ta sẽ chữa lành cho.’” “Nhưng phước cho các con có mắt thấy được, có tai nghe được. Vì thật, Ta bảo các con, nhiều tiên tri và người công chính mong ước được thấy những điều các con thấy, nghe lời các con nghe, mà không được. Thế thì, các con hãy nghe ý nghĩa chuyện ngụ ngôn về người gieo giống. Tất cả những ai nghe đạo Nước Đức Chúa Trời mà không hiểu thì quỷ dữ đến cướp mất hạt giống đã gieo trong lòng họ, đây là hạt giống rơi xuống đường. Hạt giống rơi nhằm chỗ đất có đá chỉ về người nghe đạo liền vui mừng tiếp nhận, nhưng không đâm rễ trong lòng, chỉ tạm thời nên khi gặp khó khăn hay bị bắt bớ vì đạo, họ bỏ đạo ngay. Hạt giống rơi nhằm bụi gai chỉ về người nghe đạo nhưng lòng lo lắng về đời này, ham mê giàu sang, làm đạo chết nghẹt, không kết quả được. Hạt giống rơi nhằm đất tốt chỉ về người nghe, hiểu đạo và kết quả, một thành trăm, một thành sáu chục, một thành ba chục.” Đức Giê-su kể cho họ một chuyện ngụ ngôn khác: “Nước Thiên Đàng ví như một người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Nhưng đang khi mọi người ngủ, kẻ thù đến gieo cỏ lùng vào ruộng lúa của ông rồi bỏ đi. Thế là lúa lớn lên và kết hạt, nhưng đồng thời cỏ lùng cũng xuất hiện. Đầy tớ của chủ nhà đến trình: ‘Thưa chủ, chủ không gieo giống lúa tốt trong ruộng sao? Tại sao lại có cỏ lùng mọc trong ruộng?’ Chủ trả lời: ‘Kẻ thù đã làm đấy.’ Các đầy tớ thưa: ‘Chủ muốn chúng tôi đi nhổ cỏ không?’ Chủ đáp: ‘Không nên, e rằng khi nhổ cỏ các anh sẽ nhổ cả gốc lúa đi chăng. Cứ để cả lúa lẫn cỏ mọc lên cho đến mùa gặt. Lúc ấy ta sẽ bảo thợ gặt nhổ cỏ trước, bó lại rồi đốt, sau đó sẽ gặt lúa đem trữ trong kho của ta.’” Đức Giê-su kể cho họ một chuyện ngụ ngôn khác: “Nước Thiên Đàng ví như một hạt cải người ta gieo trong vườn. Hạt cải vốn nhỏ nhất trong tất cả các loại hạt nhưng khi lớn lại to hơn hết các loại rau khác, trở thành cây, chim trời đến làm tổ trên cành.” Ngài cũng kể thêm một ngụ ngôn khác: “Nước Thiên Đàng ví như chất men một phụ nữ lấy trộn với ba thùng bột cho đến khi tất cả bột dậy lên.” Đức Giê-su dùng ngụ ngôn để dạy tất cả những điều này cho đám đông, không một điều gì Ngài dạy họ mà không dùng ngụ ngôn. Điều này để ứng nghiệm lời tiên tri rằng:“Ta sẽ mở miệng dạy dỗ bằng ngụ ngôn.Ta sẽ bày tỏ những điều bí ẩn từ khi sáng tạo thế giới.” Sau khi Đức Giê-su rời khỏi đám đông đi vào nhà, các môn đệ đến thưa: “Xin Thầy giải thích cho chúng con rõ ngụ ngôn cỏ lùng trong ruộng.” Ngài phán: “Người gieo giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian, hạt giống tốt là con dân Nước Đức Chúa Trời, cỏ lùng là con cái quỷ vương. Kẻ thù gieo cỏ là quỷ dữ, mùa gặt là ngày tận thế, thợ gặt là thiên sứ. Như cỏ bị nhổ và đốt trong lửa thế nào thì ngày tận thế cũng như thế. Con Người sẽ sai thiên sứ nhặt khỏi vương quốc Ngài tất cả những kẻ gây tội ác và những kẻ phạm pháp, rồi ném chúng vào lò lửa, là nơi đầy tiếng than khóc và rên xiết. Còn người công chính sẽ chiếu sáng như mặt trời trong nước của Cha họ. Ai có tai, hãy lắng nghe.” “Nước Thiên Đàng ví như kho châu báu chôn giấu trong ruộng. Có một người tìm thấy kho báu đó thì đem giấu. Quá mừng rỡ, người ấy đi bán hết gia tài mình để mua thửa ruộng đó.” “Nước Thiên Đàng cũng ví như một thương gia đi tìm ngọc trai quý. Khi tìm được viên ngọc quý giá, liền đi bán hết gia tài để mua viên ngọc ấy. Nước Thiên Đàng cũng ví như lưới thả xuống biển bắt được đủ mọi loại cá. Khi đầy lưới, người ta kéo lên bờ, ngồi xuống lựa cá tốt bỏ vào thùng, còn cá xấu thì ném đi. Ngày tận thế cũng sẽ như vậy. Thiên sứ sẽ đến phân cách kẻ ác khỏi người công chính và ném kẻ ác vào lò lửa, nơi đó sẽ có than khóc và rên xiết. Các con có hiểu được mọi điều đó không?” Họ thưa: “Dạ hiểu.” Ngài bảo tiếp: “Vì vậy mỗi chuyên gia kinh luật khi học làm môn đệ Nước Thiên Đàng thì giống như một người chủ nhà kia lấy ra khỏi kho tàng mình những bảo vật mới lẫn cũ.” Đức Giê-su dạy xong các ngụ ngôn kia, Ngài rời khỏi chỗ đó. Về đến quê mình, Ngài dạy dỗ dân chúng trong hội đường khiến ai nghe cũng ngạc nhiên hỏi: “Nhờ đâu người này được thông sáng và làm nổi những việc quyền năng nầy? Người này không phải là con của ông thợ mộc sao? Mẹ người chẳng phải là bà Ma-ri và các em người là Gia-cơ, Giô-sép, Si-môn và Giu-đê hay sao? Và các em gái người chẳng phải tất cả đang ở giữa vòng chúng ta đây sao? Nhờ đâu người được mọi điều này?” Họ vấp phạm vì Ngài, song Đức Giê-su phán cùng họ: “Tiên tri được tôn trọng mọi nơi ngoại trừ tại quê hương và nhà mình.” Ngài không làm nhiều việc quyền năng tại đó vì lòng vô tín của họ. Lúc ấy, Hê-rốt vua chư hầu, nghe báo cáo về Đức Giê-su, thì bảo quần thần rằng: “Đây là Giăng Báp-tít sống lại, nên mới làm nổi những việc quyền năng này!” Vì Vua Hê-rốt đã bắt trói Giăng và bỏ tù về việc Hê-rô-đia, vợ của Phi-líp là em vua, bởi Giăng nói với vua: “Bệ hạ lấy nàng là không phải phép!” Dù muốn giết Giăng, nhưng vua sợ dân chúng, vì họ xem Giăng là tiên tri của Chúa. Nhân sinh nhật Vua Hê-rốt, con gái của Hê-rô-đia trình diễn vũ khúc giữa bữa tiệc làm Hê-rốt say mê, nên vua thề hứa cho cô gái bất cứ điều gì nàng xin. Được mẹ xúi bảo, nàng tâu: “Xin cho con cái đầu của Giăng Báp-tít để trên mâm!” Vua buồn, nhưng đã lỡ thề giữa nhiều quan khách dự tiệc, nên vua sai người chém đầu Giăng trong ngục. Họ đặt đầu người trên một cái mâm, đem đến đưa cho cô gái, rồi nàng mang đến cho mẹ. Các môn đệ của Giăng đến lãnh xác người đem an táng và đi báo cáo cho Đức Giê-su. Nghe tin ấy, Đức Giê-su rời đó xuống thuyền và đi riêng ra một nơi thanh vắng. Nghe vậy, đám đông từ các thành phố đi bộ theo Ngài. Vừa ra khỏi thuyền, thấy đám dân đông, Ngài động lòng thương xót và chữa lành những người bệnh. Trời bắt đầu tối, các môn đệ đến gần thưa: “Chỗ này vắng vẻ, trời tối rồi, xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mua thức ăn.” Nhưng Đức Giê-su bảo họ không cần đi: “Chính các con hãy cho họ ăn.” Các môn đệ đáp: “Ở đây chúng con chỉ có năm cái bánh và hai con cá.” Ngài bảo: “Hãy đem bánh và cá cho Ta.” Sau khi truyền cho đám đông ngồi xuống bãi cỏ, Ngài lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời tạ ơn, và bẻ ra đưa cho môn đệ, để họ phân phát cho đám đông. Mọi người ăn no nê và họ lượm bánh vụn còn thừa được mười hai giỏ đầy. Số người ăn khoảng năm ngàn người, chưa kể đàn bà và trẻ con. Đức Giê-su liền truyền cho các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước. Trong khi đó, Ngài giải tán đám đông. Sau khi giải tán đám đông, Ngài lên núi một mình để cầu nguyện. Tối đến, chỉ còn một mình Ngài ở đó. Lúc ấy, thuyền đã ra cách bờ khá xa và đang bị sóng đánh vì gió ngược. Đến canh tư, Ngài đi trên mặt biển đến với các môn đệ. Thấy người đi trên mặt biển các môn đệ sợ hãi, hốt hoảng la: “Ma kìa!” Tức thì Đức Giê-su bảo: “Hãy an tâm! Chính Ta đây. Đừng sợ!” Phê-rơ thưa với Ngài: “Lạy Chúa, nếu thật là Ngài, xin truyền cho con đi trên mặt nước đến cùng Ngài.” Chúa đáp: “Hãy đến đây.” Phê-rơ liền bước ra khỏi thuyền, đi trên mặt nước đến với Đức Giê-su. Nhưng khi thấy gió thổi, ông sợ hãi, nên bắt đầu chìm xuống nước. Ông la lên: “Chúa ơi, cứu con!” Lập tức Đức Giê-su đưa tay nắm lấy Phê-rơ, rồi bảo: “Sao ít đức tin thế! Sao con nghi ngờ?” Khi họ lên thuyền, gió ngừng thổi. Các môn đệ ở trên thuyền quỳ lạy Chúa và thưa: “Thầy thật là Con Đức Chúa Trời.” Qua bên kia biển rồi, Đức Giê-su và môn đệ lên bờ ở vùng Ghê-nê-sa-rết. Dân vùng đó nhận ra Ngài thì sai người loan báo khắp cả miền xung quanh và họ đem tất cả người bệnh đến với Ngài. Họ xin Ngài cho phép chỉ sờ đến gấu áo Ngài mà thôi; và ai sờ đến Ngài đều được lành bệnh hoàn toàn. Sau đó, những người Pha-ri-si và chuyên gia kinh luật từ Giê-ru-sa-lem đến chất vấn Đức Giê-su: “Tại sao môn đệ của Thầy vi phạm truyền thống cổ nhân, không rửa tay trước khi ăn?” Ngài đáp: “Thế tại sao các ông vi phạm điều răn của Đức Chúa Trời đã truyền mà theo truyền thống của các ông? Vì Đức Chúa Trời phán: ‘Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi’ và ‘Ai mắng nhiếc cha mẹ sẽ bị xử tử.’ Nhưng các ông lại dạy: ‘Ai nói với cha mẹ rằng điều gì con có thể báo hiếu cha mẹ thì con đã dâng cho Chúa, và người ấy không cần báo hiếu cho cha mẹ nữa.’ Như thế các ông đã hủy bỏ Lời dạy của Đức Chúa Trời mà theo truyền thống của các ông. Hỡi những phường đạo đức giả, tiên tri I-sa nói rất đúng về các ông: ‘Dân này ngoài miệng tôn kính Ta,Nhưng lòng xa cách Ta vô cùng. Chúng thờ phượng Ta vô íchVà dạy dỗ điều luật của loài người.’” Ngài gọi đám dân đông đến bảo: “Hãy nghe và hiểu: Không phải cái gì ăn vào miệng làm cho người ta ô uế, nhưng cái gì phát xuất từ miệng mới làm ô uế người ta.” Sau đó, các môn đệ Ngài đến trình: “Thầy có biết rằng các người Pha-ri-si mích lòng khi nghe Thầy nói như thế không?” Ngài đáp: “Cây nào Cha Ta trên trời không trồng sẽ bị nhổ. Để mặc họ, những kẻ dẫn đường đui mù. Nếu người mù dẫn người mù, thì cả hai sẽ ngã xuống hố.” Phê-rơ thưa với Ngài: “Xin Thầy giải thích ngụ ngôn này cho chúng con.” Ngài đáp: “Các con vẫn chưa hiểu sao? Các con không hiểu rằng cái gì vào miệng sẽ xuống bao tử và thải ra ngoài sao? Nhưng điều gì miệng nói ra phát xuất từ trong lòng, điều đó mới làm ô uế người ta. Vì từ trong lòng sinh ra những tư tưởng gian ác, sát nhân, ngoại tình, gian dâm, trộm cắp, chứng gian, và phỉ báng. Những điều này mới làm người ta ô uế, nhưng ăn mà không rửa tay không làm người ta ô uế.” Đức Giê-su ra khỏi vùng đó, đi về các miền Ty-rơ và Si-đôn. Một người phụ nữ Ca-na-an từ vùng biên giới đến kêu xin: “Lạy Chúa, con vua Đa-vít, xin thương xót con vì con gái của con bị quỷ ám khốn khổ lắm.” Nhưng Ngài không đáp lại một lời nào. Các môn đệ lại gần xin Ngài: “Xin thầy bảo bà này về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta kêu van mãi.” Ngài trả lời: “Ta chỉ được phái đến cho những con chiên lạc mất của nhà Y-sơ-ra-ên mà thôi.” Người đàn bà tiến đến quỳ xuống thưa: “Lạy Chúa, xin cứu giúp con!” Nhưng Ngài đáp: “Không nên lấy bánh của con cái quăng cho chó con.” Người đàn bà thưa: “Lạy Chúa, đúng vậy, nhưng chó con cũng được ăn bánh vụn từ bàn chủ rớt xuống.” Đức Giê-su bảo người: “Này, con có đức tin lớn thật! Sự việc phải xảy ra như ý con muốn.” Ngay giờ đó, con gái của người ấy được chữa lành. Từ đó Đức Giê-su đi đến ven biển Ga-li-lê. Ngài lên ngồi trên đồi. Nhiều đoàn dân đông kéo đến, đem những người què quặt, tàn phế, đui mù, câm điếc và những kẻ bệnh hoạn khác đặt dưới chân Chúa; và Ngài chữa lành cho họ. Vì thế đoàn dân kinh ngạc khi thấy người câm nói được, kẻ tật nguyền được lành lặn, người què lại đi và kẻ mù thấy được, nên họ tôn vinh Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Đức Giê-su gọi môn đệ đến bảo: “Ta cảm thương đoàn dân này vì đã ở với Ta ba ngày rồi mà không có gì ăn cả. Ta không nỡ tâm để họ đi về bụng đói, e bị xỉu dọc đường chăng.” Các môn đệ thưa: “Nơi đồng hoang này tìm đâu ra đủ bánh cho đám đông như thế ăn no?” Đức Giê-su hỏi: “Các con có bao nhiêu cái bánh?” Họ thưa: “Dạ có bảy cái và vài con cá.” Ngài truyền cho đám đông ngồi xuống đất. Chúa lấy bảy cái bánh và mấy con cá, tạ ơn và bẻ ra trao cho các môn đệ để họ phân phát cho đám đông. Tất cả đều ăn no nê, số bánh vụn thu lại được bảy giỏ đầy. Số người ăn là bốn ngàn người, không kể đàn bà con nít. Sau khi truyền cho đám đông ra về, Ngài lên thuyền đi đến bờ cõi Ma-ga-đan. Người Pha-ri-si và Sa-đu-sê đến xin Đức Giê-su cho họ xem một dấu lạ từ trời để thử Ngài. Nhưng Ngài trả lời: “Khi chiều xuống các ông nói rằng: ‘Chiều ráng đỏ thì trời nắng.’ Vào buổi sáng sớm, các ông nói: ‘Sáng ráng đỏ thì trời mưa.’ Các ông biết nhìn bầu trời để tiên đoán thời tiết, nhưng sao lại không biết phân biệt các dấu lạ của thời đại? Thế hệ gian ác và bất trung này tìm kiếm một dấu lạ, nhưng sẽ không được dấu lạ nào ngoại trừ dấu lạ Giô-na.” Thế rồi Ngài lìa họ mà đi. Khi qua bên kia bờ hồ, các môn đệ quên đem bánh theo. Đức Giê-su bảo: “Hãy cẩn thận, coi chừng men của người Pha-ri-si và Sa-đu-sê.” Các môn đệ nói với nhau: “Tại chúng ta không đem bánh theo.” Đức Giê-su biết thế và bảo: “Hỡi những kẻ ít đức tin! Sao lại nói với nhau rằng mình không đem theo bánh? Các con chưa hiểu sao? Các con không nhớ năm cái bánh cho năm ngàn người ăn sao? Các con thu được bao nhiêu giỏ bánh thừa? Hay bảy cái bánh cho bốn ngàn người ăn; các con thu được bao nhiêu giỏ bánh thừa? Sao các con không hiểu rằng Ta không nói về bánh? Hãy coi chừng men của người Pha-ri-si và Sa-đu-sê.” Lúc ấy các môn đệ mới hiểu rằng Ngài không bảo coi chừng về men làm bánh nhưng về sự dạy dỗ của người Pha-ri-si và Sa-đu-sê. Khi Đức Giê-su vào địa phận Sê-sa-rê Phi-líp, Ngài hỏi các môn đệ: “Theo như người ta nói thì Con Người là ai?” Các môn đệ thưa: “Một số người nói Thầy là Giăng Báp-tít, một số khác nói là Ê-li, một số khác nói là Giê-rê-mi hay một tiên tri nào đó.” Ngài hỏi các môn đệ: “Còn chính các con thì cho rằng Ta là ai?” Si-môn Phê-rơ thưa: “Thầy là Chúa Cứu Thế, Con Đức Chúa Trời hằng sống.” Đức Giê-su phán: “Phước cho con, Si-môn con Giô-na! Vì không phải xác thịt và huyết bày tỏ cho con, mà chính Cha Ta ở trên trời.” Còn Ta, Ta bảo con: “Con là Phê-rơ, Ta sẽ xây dựng Hội Thánh Ta trên vầng đá này và các cửa Âm Phủ sẽ không thắng nổi hội đó. Ta sẽ cho con chìa khóa của Nước Thiên Đàng; bất cứ điều gì con buộc dưới đất, điều đó cũng sẽ buộc ở trên trời; bất cứ điều gì con mở dưới đất, điều đó cũng sẽ mở ở trên trời.” Sau đó Ngài truyền lệnh cho các môn đệ không được tiết lộ Ngài là Chúa Cứu Thế. Từ đó, Đức Giê-su bắt đầu bày tỏ cho các môn đệ biết rằng Ngài phải đi lên Giê-ru-sa-lem và phải chịu nhiều đau khổ bởi các trưởng lão, các thượng tế và các chuyên gia kinh luật; Ngài phải bị giết, đến ngày thứ ba, Ngài sẽ sống lại. Phê-rơ đem Ngài riêng ra và nói: “Chúa ơi, Đức Chúa Trời nào nỡ vậy! Thầy sẽ không bị như thế đâu!” Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo Phê-rơ: “Hỡi Sa-tan, hãy lui ra sau Ta. Con làm cớ vấp phạm cho Ta, vì con không nghĩ đến việc của Đức Chúa Trời, mà chỉ nghĩ đến việc của loài người.” Kế đó, Đức Giê-su phán với các môn đệ: “Nếu người nào muốn theo Ta, hãy từ bỏ chính mình, vác thập tự giá mình và theo Ta. Vì hễ ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, nhưng ai vì Ta mà mất mạng sống thì sẽ tìm lại được. Vì người nào dù được cả thế giới mà mất linh hồn mình, người ấy được ích gì? Hay có ai lấy gì để đánh đổi được linh hồn mình không? Vì Con Người sẽ trở lại trong vinh quang của Cha Ngài cùng với các thiên sứ. Bấy giờ, Ngài sẽ báo trả cho mỗi người tùy theo công việc họ làm. Thật, Ta bảo các con, một vài người đang đứng tại đây sẽ không chết trước khi thấy Con Người đến trong nước Ngài.” Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem riêng Phê-rơ, Gia cơ và Giăng em người lên một ngọn núi cao. Ngài hóa hình trước mắt họ. Mặt Ngài chiếu sáng như mặt trời, áo Ngài trở nên trắng như ánh sáng. Kìa, họ thấy Môi-se và Ê-li xuất hiện nói chuyện với Ngài. Phê-rơ thưa với Đức Giê-su: “Thưa Chúa, chúng ta ở đây thật tốt quá. Nếu Chúa muốn, con sẽ dựng tại đây ba trại, một cái cho Chúa, một cái cho Môi-se và một cái cho Ê-li.” Khi Phê-rơ đang nói, một đám mây sáng rực che phủ họ. Kìa, từ đám mây có tiếng phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, đẹp lòng Ta hoàn toàn. Hãy nghe theo Người!” Nghe thế, các môn đệ té sấp xuống đất, kinh hãi vô cùng. Đức Giê-su đến gần, vỗ vào họ và bảo: “Hãy đứng dậy, đừng sợ!” Khi ngước mắt nhìn lên, họ không thấy ai cả ngoại trừ Đức Giê-su. Trên đường xuống núi, Đức Giê-su căn dặn các môn đệ: “Đừng nói với ai về điều các con thấy cho đến khi Con Người được sống lại từ cõi chết.” Các môn đệ hỏi: “Vậy sao các chuyên gia kinh luật lại nói rằng Ê-li phải đến trước?” Ngài đáp: “Phải, Ê-li đến và sẽ phục hồi mọi sự. Nhưng Ta bảo các con: Ê-li đã đến rồi, nhưng người ta không nhận biết người và đã đối xử với người theo ý họ, Con Người cũng sẽ phải chịu khổ nạn bởi họ như thế.” Lúc ấy các môn đệ mới hiểu Ngài nói về Giăng Báp-tít. Khi Đức Giê-su và môn đệ đến cùng đoàn dân đông, một người lại gần quỳ xuống xin: “Thưa Thầy, xin thương xót con trai tôi đang mắc bệnh kinh phong, đau đớn lắm; nhiều lần nó té vào lửa, lắm lúc lại ngã xuống nước. Tôi đã đưa nó đến cho môn đệ của Thầy nhưng họ không chữa trị nổi.” Đức Giê-su đáp: “Ôi, dòng dõi vô tín và đồi trụy! Ta phải ở với các người cho đến chừng nào? Ta còn phải chịu đựng các người bao lâu nữa? Hãy đem đứa trẻ đến đây cho Ta.” Đức Giê-su quở trách quỷ, nó liền xuất khỏi đứa trẻ và ngay lúc ấy đứa trẻ được khỏi bệnh. Sau đó các môn đệ đến hỏi riêng Đức Giê-su: “Tại sao chúng con không đuổi quỷ ấy được?” Ngài trả lời: “Tại các con ít đức tin, vì thật, Ta bảo các con, nếu các con có đức tin lớn bằng hạt cải, các con có thể bảo hòn núi này rằng: ‘Hãy dời qua bên kia.’ thì nó sẽ dời đi. Không có gì các con không làm được. Những loài quỷ này chỉ trừ được bằng sự cầu nguyện và kiêng ăn.” Khi các môn đệ họp lại với Đức Giê-su tại Ga-li-lê, Ngài phán: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta. Họ sẽ giết chết Người, nhưng đến ngày thứ ba, Người sẽ được sống lại.” Các môn đệ lo buồn vô cùng. Vừa vào đến thành Ca-pha-na-um, mấy người thâu thuế đền thờ đến hỏi Phê-rơ: “Thầy các anh không nộp thuế sao?” Phê-rơ đáp: “Có chứ!” Khi vừa vào trong nhà Đức Giê-su hỏi Phê-rơ trước: “Si-môn, con nghĩ thế nào? Các vua thế gian thu thuế và nhận cống lễ từ ai? Từ con cái mình, hay từ người ngoài?” Thưa: “Từ người ngoài.” Đức Giê-su phán: “Thế thì con cái được miễn thuế. Nhưng để khỏi gây cho họ vấp phạm, con hãy đi ra biển thả câu, bắt con cá đầu tiên, mở miệng nó ra, con sẽ thấy một đồng bạc, hãy đem đồng bạc đó đóng thuế cho Ta và cho con.” Lúc ấy các môn đệ đến hỏi Đức Giê-su: “Ai là người lớn nhất trong Nước Thiên Đàng?” Gọi một đứa bé đến, Ngài để nó đứng giữa các môn đệ, và đáp: “Thật, Ta bảo các con, nếu các con không thay đổi và trở nên giống như một đứa bé, các con không thể vào Nước Thiên Đàng được. Vì thế, ai khiêm nhường như đứa bé này, ấy là người lớn nhất trong Nước Thiên Đàng. Và nếu ai nhân danh Ta tiếp một đứa bé như thế này tức là tiếp nhận Ta.” “Nhưng hễ ai gây cho một trong những người bé mọn đã tin Ta phạm tội, thì thà buộc cối đá vào cổ kẻ ấy và quăng xuống đáy biển còn hơn. Khốn cho thế gian vì sự gây vấp phạm! Tất nhiên sự gây vấp phạm phải có, nhưng khốn cho ai là kẻ gây vấp phạm! Nếu tay hay chân con gây cho con phạm tội, hãy chặt và ném đi, thà con bị cụt tay hay què chân mà vào sự sống còn hơn là có đủ hai tay, hai chân mà bị ném vào lửa đời đời. Nếu mắt con gây cho con phạm tội, hãy móc mắt và ném đi, thà mù một mắt mà vào sự sống còn hơn là có đủ hai mắt mà bị quăng vào lửa hỏa ngục.” “Hãy cẩn thận đừng khinh dể một người nào trong những người bé mọn này; vì Ta bảo các con, các thiên sứ của chúng ở trên trời hằng thấy mặt Cha Ta ở trên trời. Vì Con Người đã đến để cứu kẻ hư mất. Các con nghĩ thế nào? Có người kia có một trăm con chiên, một con đi lạc mất; người đó không để chín mươi chín con kia lại trên đồi và đi kiếm con bị lạc sao? Khi kiếm được rồi, thật, Ta bảo các con, người đó vui mừng vì nó hơn là chín mươi chín con không bị lạc. Cũng thế, Cha các con ở trên trời không muốn một người nào trong những người bé mọn này bị hư mất.” “Nếu có một anh em có lỗi với con, hãy đến gặp riêng người mà khuyên bảo. Nếu người nghe lời thì con được lại anh em. Nếu người không nghe, hãy đem một hai người theo với con đến gặp người, để nhờ lời của hai hay ba người chứng mà vấn đề được xác lập. Nếu người vẫn không nghe họ, hãy trình với hội thánh; nếu người cũng không chịu vâng lời hội thánh, thì hãy coi người như người ngoại đạo hay kẻ thu thuế. Thật, Ta bảo các con, bất cứ điều gì các con buộc ở dưới đất cũng sẽ buộc ở trên trời, điều gì các con mở ở dưới đất, thì sẽ mở ở trên trời. Ta lại nói cùng các con, nếu hai người trong các con ở dưới đất thuận ý nhau mà cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Ta ở trên trời sẽ ban cho họ. Vì ở đâu có hai hay ba người nhân danh Ta họp nhau lại, Ta sẽ ở giữa họ.” Lúc ấy, Phê-rơ đến hỏi Đức Giê-su: “Thưa Thầy, nếu anh em con phạm tội cùng con, con sẽ tha cho họ mấy lần? Đến bảy lần chăng?” Đức Giê-su đáp: “Ta bảo cho con rõ, không phải đến bảy lần, mà là bảy mươi lần bảy. Vì thế, Nước Thiên Đàng ví như vua kia muốn tính sổ với các đầy tớ mình. Khi bắt đầu soát sổ, người ta đem đến cho vua một người mắc nợ mười ngàn nén bạc. Vì người không có gì trả nợ, vua ra lệnh bán hắn cùng vợ con và tất cả tài sản để trả nợ. Người đầy tớ quỳ xuống van lạy: ‘Xin ngài hoãn lại cho tôi, tôi sẽ trả hết.’ Vua động lòng thương xót, thả người đầy tớ ấy ra và tha hết nợ. Người đầy tớ ấy đi ra thấy một người đầy tớ khác mắc nợ mình một trăm đồng đê-na-ri, liền bắt lấy, nắm cổ đòi: ‘Hãy trả nợ đây!’ Người đầy tớ kia quỳ xuống năn nỉ: ‘Xin anh hoãn lại cho tôi, tôi sẽ trả hết.’ Nhưng người đầy tớ ấy không chịu, bắt anh đầy tớ kia bỏ tù cho đến khi trả hết nợ. Thấy thế, những đầy tớ khác rất buồn, họ đi báo cáo lại với vua mọi sự. Vua gọi người đầy tớ ấy vào và phán: ‘Này đứa đầy tớ độc ác, vì ngươi van xin, nên Ta đã tha hết nợ cho ngươi, tại sao ngươi không thương xót đồng bạn như ta đã thương xót ngươi?’ Vua nổi giận, giao cho cai ngục tống giam người đầy tớ ấy cho đến khi trả hết nợ. Cũng vậy, Cha Ta ở trên trời sẽ đối xử với các con như thế, nếu các con không có lòng tha thứ anh em mình.” Khi Đức Giê-su dạy xong những điều ấy, Ngài rời xứ Ga-li-lê và đi đến miền Giu-đê, bên kia sông Giô-đanh. Nhiều đoàn dân đông đi theo Ngài; ở đó Ngài chữa bệnh cho họ. Những người Pha-ri-si đến hỏi để thử Ngài: “Thưa Thầy, một người được phép ly dị vợ vì bất cứ lý do nào không?” Ngài đáp: “Các ông chưa đọc Kinh Thánh rằng: ‘Từ ban đầu, Đấng Tạo Hóa tạo nên người nam và người nữ.’” Ngài tiếp, “Vì vậy, người nam sẽ lìa cha mẹ để kết hợp với vợ mình, hai người sẽ trở nên một thân sao? Thế thì, vợ chồng không còn là hai nữa, mà là một. Vậy những người Đức Chúa Trời đã phối hợp, thì loài người không được phân rẽ.” Những người Pha-ri-si lại hỏi: “Thế tại sao Môi-se đã truyền: ‘Hãy trao cho vợ một tờ giấy ly dị rồi để nàng đi!’” Ngài phán: “Vì lòng dạ các ông chai đá, nên Môi-se đã cho phép ly dị vợ, chớ từ ban đầu không có như thế. Ta nói cho các ông rõ: Trừ trường hợp vợ gian dâm, nếu ai ly dị vợ mà cưới người khác, người ấy phạm tội ngoại tình.” Các môn đệ thưa: “Nếu chỉ có lý do đó để chồng bỏ vợ, thì thà đừng cưới vợ còn hơn.” Nhưng Ngài đáp: “Không phải ai cũng nhận được điều này nhưng chỉ những người được Đức Chúa Trời ban ơn. Có những người hoạn từ khi lọt lòng mẹ, có người hoạn bởi người ta và cũng có người tự hoạn lấy vì Nước Thiên Đàng. Ai có thể nhận được gì, thì hãy nhận.” Lúc đó, người ta đem trẻ con đến để Chúa đặt tay cầu nguyện, nhưng các môn đệ quở trách họ. Đức Giê-su phán: “Cứ để con trẻ đến cùng Ta, đừng ngăn cản chúng, vì Nước Thiên Đàng dành cho những người giống như con trẻ.” Ngài đặt tay trên các em và rời khỏi nơi đó. Có một người đến hỏi Đức Giê-su: “Thưa thầy tôi phải làm điều thiện nào để được sự sống vĩnh phúc?” Ngài đáp: “Tại sao anh hỏi Ta về việc thiện? Chỉ có một Đấng Toàn Thiện mà thôi. Nếu muốn được sự sống ấy hãy giữ các điều răn.” Người đó lại hỏi: “Những điều răn nào?” Đức Giê-su đáp: “Đừng giết người, đừng ngoại tình, đừng trộm cắp, và đừng làm chứng dối. Hãy hiếu kính cha mẹ và yêu thương người lân cận như chính mình.” Chàng thanh niên ấy thưa: “Tôi đã giữ tất cả những điều răn này, còn thiếu điều nào nữa?” Đức Giê-su bảo: “Nếu anh muốn được toàn hảo, hãy đi bán hết tài sản, đem cho người nghèo, anh sẽ có kho tàng trên trời, và hãy đến theo Ta.” Nghe nói thế, chàng thanh niên buồn rầu bỏ đi vì có rất nhiều tài sản. Bấy giờ, Đức Giê-su phán cùng các môn đệ của Ngài: “Thật, Ta bảo các con, người giàu khó vào Nước Thiên Đàng. Ta cũng cho các con biết: Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Đức Chúa Trời.” Các môn đệ nghe thế vô cùng kinh ngạc, nên hỏi: “Thế thì ai có thể được cứu rỗi?” Đức Giê-su nhìn các môn đệ phán: “Với người, việc này không ai làm nổi, nhưng với Đức Chúa Trời mọi việc đều được cả.” Bấy giờ Phê-rơ lên tiếng thưa rằng: “Phần chúng con đã từ bỏ mọi sự để theo Thầy, chúng con sẽ được gì?” Đức Giê-su phán cùng họ: “Thật, Ta bảo các con, trong thời đại mới, khi Con Người ngồi trên ngai vinh quang của Ngài, các con, những kẻ theo Ta, cũng sẽ ngồi trên mười hai ngai cai trị mười hai chi tộc Y-sơ-ra-ên. Và ai từ bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, ruộng đất vì cớ danh ta sẽ được nhận gấp trăm lần hơn và thừa hưởng sự sống vĩnh phúc. Nhưng nhiều người đang đứng đầu sẽ trở nên cuối, và những người cuối trở nên đầu.” “Vậy nên Nước Thiên Đàng ví như một điền chủ kia sáng sớm đi thuê công nhân làm vườn nho cho mình. Khi đã thỏa thuận với họ về lương mỗi ngày một đồng đê-na-ri, ông sai họ vào làm việc trong vườn nho mình. Vào khoảng chín giờ sáng, người điền chủ lại ra chợ, thấy mấy người đứng không, Ông bảo họ: ‘Hãy vào làm việc trong vườn nho của tôi rồi tôi sẽ trả công xứng đáng cho các anh.’ Họ liền đi làm. Khoảng mười hai giờ trưa và ba giờ chiều, điền chủ lại ra chợ và làm như vậy. Vào khoảng năm giờ chiều, ông lại ra chợ, ông thấy mấy người đứng không, Ông bảo: ‘Tại sao các anh đứng không suốt ngày vậy?’ Họ đáp: ‘Vì không ai thuê chúng tôi cả.’ Điền chủ bảo: ‘hãy đi vào vườn nho làm việc cho tôi.’ Đến chiều tối, ông bảo người quản lý: ‘Hãy gọi công nhân vào trả lương cho họ, bắt đầu từ người thuê sau cùng đến người thuê đầu tiên.’ Những người được thuê lúc năm giờ chiều đến, mỗi người lãnh một đồng đê-na-ri. Khi những người được thuê trước hết đến, họ tưởng sẽ lãnh nhiều hơn, nhưng mỗi người cũng chỉ lãnh một đồng đê-na-ri. Họ vừa cầm tiền công vừa lằm bằm với điền chủ: ‘Những người được thuê sau cùng kia chỉ làm có một tiếng đồng hồ mà ông chủ cũng trả lương bằng chúng tôi là những người làm việc vất vả và dang nắng suốt ngày.’ Chủ trả lời một người trong số ấy: ‘Bạn ơi, tôi không bất công với anh đâu. Anh đã chẳng thỏa thuận với tôi một đồng đê-na-ri tiền công sao? Hãy nhận tiền công của anh mà về đi. Tôi muốn trả cho người đến sau cùng cũng bằng anh vậy. Tôi không có quyền dùng tài sản riêng tùy ý tôi sao? Hay anh ganh tị vì tôi tử tế sao? Vậy những người cuối sẽ trở nên đầu, và những người đầu sẽ trở nên cuối.’” Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đem riêng mười hai môn đệ ra và bảo: “Này, chúng ta lên Giê-ru-sa-lem rồi Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế, các chuyên gia kinh luật và họ sẽ lên án tử hình Người. Họ sẽ nộp Người cho dân ngoại để chế nhạo, đánh đập và đóng đinh trên thập tự giá và đến ngày thứ ba Người sẽ sống lại.” Bấy giờ bà Xê-bê-đê cùng với các con mình đến quỳ xin Đức Giê-su một điều. Ngài hỏi: “Bà muốn gì?” Bà thưa: “Xin Thầy cho hai con trai tôi, một đứa ngồi bên phải, một đứa ngồi bên trái Thầy trong Nước của Thầy.” Đức Giê-su đáp: “Các con không hiểu điều mình xin. Các con có thể uống chén mà Ta sắp uống không?” Họ thưa: “Dạ được.” Ngài nói: “Các con sẽ uống chén của Ta, còn ngồi bên phải hoặc bên trái, Ta không cho được, địa vị này dành cho những người mà Cha Ta đã chuẩn bị.” Nghe thế mười môn đệ kia giận hai anh em này. Đức Giê-su gọi các môn đệ lại bảo: “Các con biết rằng những kẻ cai trị ngoại quốc thống trị dân mình, những người quyền cao chức lớn lấy quyền hành trị dân. Nhưng trong vòng các con thì không nên như thế. Ai muốn làm lớn phải làm đầy tớ cho các con; ai muốn đứng đầu trong các con phải làm nô lệ cho các con. Cũng thế, Con Người không phải đến để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình cứu chuộc nhiều người.” Khi Đức Giê-su và các môn đệ ra khỏi thành Giê-ri-cô có một đoàn dân đông đi theo Ngài. Bấy giờ hai người mù ngồi bên đường nghe nói Đức Giê-su đi qua liền kêu lớn: “Lạy Chúa, con Vua Đa-vít, xin thương xót chúng con!” Đám đông rầy la hai người để họ im đi, nhưng họ lại càng kêu lớn hơn: “Lạy Chúa, con Vua Đa-vít, xin thương xót chúng con!” Đức Giê-su dừng lại, gọi họ đến và hỏi: “Các con muốn Ta làm gì?” Họ thưa: “Lạy Chúa, xin mở mắt cho chúng con được sáng.” Đức Giê-su động lòng thương, sờ mắt họ; lập tức hai người thấy được và đi theo Ngài. Đức Giê-su và các môn đệ đến gần thành Giê-ru-sa-lem, vào làng Bết-pha-giê trên núi Ô-liu. Bấy giờ Ngài phái hai môn đệ đi và bảo: “Hãy vào làng ở trước mặt, các con sẽ thấy ngay một con lừa mẹ bị cột và một lừa con bên cạnh, hãy tháo dây và dẫn về đây cho Ta. Nếu có ai hỏi gì, các con hãy nói: ‘Chúa cần chúng.’ Người ấy sẽ để các con dẫn đi ngay.” Việc này đã xảy ra để lời của đấng tiên tri được ứng nghiệm: “Hãy nói cho con gái Si-ôn biết:Kìa, Vua ngươi ngự đến cùng ngươi,Khiêm nhu cưỡi trên lưng lừa,Và lừa con, con của lừa mang ách.” Hai môn đệ đi và làm y như lời Ngài dặn bảo. Họ dẫn lừa mẹ và lừa con về, lấy áo mình trải trên lưng lừa và để Đức Giê-su cưỡi lên. Một đám rất đông dân chúng trải áo mình trên đường, những người khác chặt cành cây trải khắp lối đi. Cả đoàn dân trước sau đều hô to:“Hô-sa-na, Con Vua Đa-vít!Phước cho Đấng nhân danh Chúa mà đến!Hô-sa-na tận chốn trời cao!” Khi Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem, cả thành phố náo động, hỏi nhau: “Người này là ai?” Đám đông trả lời: “Đây là tiên tri Giê-su từ Na-xa-rét xứ Ga-li-lê.” Đức Giê-su vào trong đền thờ và đuổi hết những kẻ mua bán ra ngoài. Ngài đổ bàn của những người đổi tiền và lật ghế của mấy kẻ bán bồ câu. Ngài phán cùng họ: “Kinh Thánh chép: ‘Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện nhưng các người biến thành sào huyệt trộm cướp.’” Có những người mù và què đến với Ngài trong đền thờ và Ngài chữa lành cho họ. Nhưng các thượng tế và chuyên gia kinh luật thấy các việc diệu kỳ Ngài làm cũng như nghe những lời trẻ em reo lên trong đền thờ: “Hô-sa-na Con vua Đa-vít,” thì tức giận hỏi Ngài: “Ông có nghe chúng nó nói gì không?” Đức Giê-su trả lời: “Có, thế các ông chưa đọc lời Kinh Thánh: ‘Chúa đã được miệng trẻ thơ và em bé còn bú ca ngợi sao?’” Sau đó Ngài lìa họ, ra khỏi thành phố đến làng Bê-tha-ni và nghỉ đêm ở đó. Sáng sớm hôm sau trên đường trở lại thành phố, Đức Giê-su đói. Khi thấy một cây vả ở bên đường, Ngài đến gần nhưng chỉ thấy toàn lá mà thôi; Ngài quở: “Mày sẽ không bao giờ ra trái nữa!” Lập tức cây vả khô héo. Thấy thế các môn đệ ngạc nhiên hỏi: “Làm sao mà cây vả héo khô ngay như vậy?” Đức Giê-su trả lời: “Thật, Ta bảo các con, nếu các con có đức tin và không nghi ngờ, thì chẳng những các con có thể làm cho cây vả khô như vậy, mà ngay cả khi bảo ngọn núi này hãy cất mình lên và ném xuống biển thì cũng sẽ được. Bất cứ điều gì các con xin trong khi cầu nguyện với đức tin, các con sẽ nhận được.” Đức Giê-su vào đền thờ; lúc Ngài đang giảng dạy, các thượng tế và trưởng lão trong dân chúng đến hỏi: “Ông lấy thẩm quyền nào mà làm những việc này và ai cho ông quyền ấy?” Đức Giê-su đáp: “Ta cũng sẽ hỏi các ông một câu, nếu các ông trả lời được Ta sẽ cho các ông biết Ta lấy thẩm quyền nào mà làm những việc này. Phép báp-tem của Giăng từ đâu mà đến? Từ Trời hay từ người?” Họ thảo luận với nhau: “Nếu chúng ta nói từ Trời, ông ấy sẽ bảo mình: ‘Vậy sao các người không tin Giăng?’ Nếu nói: ‘Từ loài người,’ chúng ta sợ dân chúng vì ai cũng cho rằng Giăng là một vị tiên tri.” Vì thế họ trả lời: “Chúng tôi không biết.” Đức Giê-su đáp: “Ta cũng không nói cho các ông biết Ta lấy thẩm quyền nào mà làm những việc này.” “Các ông nghĩ sao? Một người kia có hai con trai. Ông đến nói với người con thứ nhất: ‘Này con, hôm nay con hãy đi ra vườn nho làm việc.’ Nó thưa: ‘Con không muốn đi!’ Nhưng sau đó hối hận và đi. Ông cũng đến bảo người con thứ hai như thế. Nó đáp: ‘Thưa cha, để con đi’, nhưng nó lại không đi. Vậy trong hai đứa con đó, đứa nào đã làm theo ý cha?” Họ đáp: “Đứa thứ nhất.” Đức Giê-su phán: “Thật, Ta bảo các ông những người thu thuế và phường đĩ điếm sẽ vào nước Đức Chúa Trời trước các ông. Vì Giăng đã đến dạy các ông theo con đường công chính, nhưng các ông không tin người, còn những người thu thuế và phường đĩ điếm lại tin người. Chính các ông đã thấy rõ mà vẫn không chịu hối cải và tin theo người.” “Các ông hãy nghe một ngụ ngôn khác: Một người điền chủ kia trồng một vườn nho, rào chung quanh, đào một hầm ép nho trong vườn và xây tháp canh. Sau đó ông khoán cho tá điền và đi xa. Gần đến mùa nho, chủ sai đầy tớ đến cùng những tá điền để thu hoa lợi. Nhưng bọn tá điền bắt các đầy tớ, đánh đập đứa này, giết hại đứa kia, và ném đá đứa nọ. Chủ vườn lại sai một số đầy tớ khác đến đông hơn trước, nhưng chúng cũng đối xử với họ như vậy. Cuối cùng chủ sai chính con trai mình đến, vì nghĩ rằng: ‘chúng sẽ kính trọng con ta.’ Nhưng khi thấy con trai chủ, bọn tá điền bàn với nhau: Đây là con thừa tự, ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài nó. Chúng bắt người con ấy, ném ra ngoài vườn nho và giết đi. Vậy khi điền chủ đến, ông sẽ đối xử với bọn tá điền kia thế nào?” Họ đáp: “Chủ sẽ thẳng tay tiêu diệt bọn hung ác kia và giao vườn cho những tá điền khác để nộp hoa lợi đúng mùa.” Đức Giê-su phán cùng họ: “Các ông chưa từng đọc trong Kinh Thánh sao?‘Viên đá đã bị thợ nề loại bỏLại trở thành phiến đá đầu góc nhà.Chúa đã làm điều này,Và là việc kỳ diệu trước mắt chúng ta.’ Vì vậy Ta bảo các ông: Nước Đức Chúa Trời sẽ được cất khỏi các ông và ban cho một dân tộc khác là dân sẽ đem lại hoa lợi. Ai ngã trên đá này sẽ bị tan nát, còn khi đá rơi trên ai, nó sẽ nghiền nát kẻ ấy thành cát bụi.” Khi các thượng tế và người Pha-ri-si nghe những ngụ ngôn ấy, họ hiểu Ngài nói về chính mình, nên họ tìm cách bắt Đức Giê-su; tuy nhiên họ sợ đám đông vì dân chúng nhìn nhận Ngài là một tiên tri. Đức Giê-su lại dùng ngụ ngôn dạy họ: “Nước Thiên Đàng ví như một vua kia làm tiệc cưới cho con mình. Vua sai đầy tớ đi nhắc khách được mời dự tiệc nhưng họ không chịu đến. Vua lại sai các đầy tớ khác và dặn: ‘Hãy thưa với khách được mời rằng tiệc đã chuẩn bị xong, bò và bê mập đã làm thịt rồi, tiệc đã sẵn sàng, xin mời đến dự.’ Nhưng khách không lưu ý họ cứ bỏ đi, người đi thăm ruộng, kẻ lo việc buôn bán, những kẻ khác bắt đầy tớ của vua đánh đập, và giết đi. Nhà vua nổi giận, sai quân lính đến hủy diệt những kẻ sát nhân và đốt phá thành phố của họ. Thế rồi vua bảo các đầy tớ: ‘Tiệc cưới đã sẵn sàng nhưng khách được mời không xứng đáng dự tiệc. Vậy hãy đi ra các ngã đường, mời bất cứ ai các ngươi gặp vào dự tiệc.’ Đầy tớ đi ra các đường phố gặp ai cũng mời, kẻ xấu cũng như người tốt, vào ngồi đầy phòng tiệc cưới. Nhưng khi vào xem khách dự tiệc, vua chợt thấy một người không mặc lễ phục. Vua bảo người ấy: ‘Anh kia, sao anh không mặc lễ phục mà vào đây được?’ Anh ta không trả lời được. Kế đó, vua truyền bảo đầy tớ: ‘Hãy trói chân tay hắn lại, ném ra nơi tối tăm là nơi có than khóc và rên xiết.’ Vì nhiều người được gọi, nhưng ít người được chọn.” Bấy giờ những người Pha-ri-si đi ra bàn mưu làm thế nào để gài bẫy lời Đức Giê-su nói. Họ sai môn đệ của mình cùng với một số người thuộc đảng Hê-rốt đến hỏi Ngài: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật, dạy dỗ đường lối Đức Chúa Trời một cách trung thực, không vị nể ai, vì Thầy không thiên vị người nào. Xin cho chúng tôi biết: ‘Thầy nghĩ thế nào? Có nên nộp thuế cho Sê-sa hay không?’” Biết ác ý của họ, Đức Giê-su bảo: “Hỡi những kẻ đạo đức giả, sao lại thử Ta? Hãy đưa cho Ta xem đồng tiền đóng thuế.” Họ đem cho Ngài một đồng tiền. Ngài hỏi họ: “Hình và hiệu này là của ai?” Chúng trả lời: “Của Sê-sa.” Ngài bèn phán: “Vậy, những gì của Sê-sa hãy trả cho Sê-sa, những gì của Đức Chúa Trời hãy trả cho Đức Chúa Trời.” Nghe Ngài nói thế, họ rất ngạc nhiên và bỏ đi. Cũng trong ngày ấy, những người Sa-đu-sê, là người nói rằng không có sự sống lại, đến hỏi Đức Giê-su: “Thưa Thầy, Môi-se dạy: ‘Nếu ai chết mà không có con thì em người ấy sẽ lấy vợ góa của anh để có con nối dõi cho anh.’ Bây giờ giữa chúng tôi, có bảy anh em nọ. Người anh cả lấy vợ, rồi chết, không có con nên để vợ lại cho em kế. Người thứ hai, thứ ba cho đến người thứ bảy cũng vậy. Sau cùng người đàn bà cũng chết. Vậy vào ngày sống lại, người đàn bà ấy là vợ của ai trong bảy anh em? Vì tất cả đều đã lấy người ấy?” Đức Giê-su đáp: “Các ông đã lầm, không hiểu Kinh Thánh cũng như quyền năng của Đức Chúa Trời. Vì trong ngày sống lại, người ta sẽ không cưới vợ, gả chồng nhưng sẽ như thiên sứ trên trời. Còn về việc sống lại của người chết, các ông chưa đọc lời Đức Chúa Trời phán sao? Ta là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác, Đức Chúa Trời của Gia-cốp. Ngài không phải là Đức Chúa Trời của người chết mà là của người sống.” Khi nghe Đức Giê-su giải đáp, đám đông rất kinh ngạc về những điều Ngài dạy dỗ. Người Pha-ri-si nghe Đức Giê-su đã làm cho người Sa-đu-sê không trả lời được, họ tụ họp với nhau; một chuyên gia kinh luật trong nhóm ấy hỏi để thử Ngài: “Thưa Thầy, trong Kinh Luật điều răn nào quan trọng nhất?” Đức Giê-su đáp: “Hãy hết lòng, hết linh hồn, hết lý trí yêu kính Chúa là Đức Chúa Trời ngươi. Đó là điều răn thứ nhất và quan trọng nhất. Còn điều răn thứ hai cũng như thế: ‘Hãy yêu thương người khác như chính mình.’ Tất cả Kinh Luật và Kinh Tiên Tri đều dựa vào hai điều răn này.” Khi những người Pha-ri-si đang tụ họp với nhau, Đức Giê-su hỏi họ: “Các ông nghĩ thế nào về Chúa Cứu Thế? Ngài thuộc dòng dõi của ai?” Họ đáp: “Dòng dõi Vua Đa-vít.” Ngài lại hỏi: “Thế tại sao Vua Đa-vít được Đức Thánh Linh soi dẫn, gọi Ngài là ‘Chúa?’” Vua nói: “Chúa phán cùng Chúa tôi:Hãy ngự bên phải ta,Cho đến khi ta đặt kẻ thù conDưới chân con. Vậy nếu vua Đa-vít gọi Ngài là ‘Chúa’ thì Ngài là con vua ấy sao được?” Không ai đáp được một lời, và từ ngày ấy chẳng ai dám hỏi Ngài nữa. Bấy giờ Đức Giê-su phán dạy đoàn dân đông và các môn đệ Ngài: “Các chuyên gia kinh luật và người Pha-ri-si ngồi trên ghế giáo huấn của Môi-se. Vậy hãy làm và giữ tất cả những gì họ dạy nhưng đừng hành động như họ vì họ nói mà không làm. Họ buộc những gánh nặng quá sức trên vai người khác, nhưng chính mình thì không muốn động đến một ngón tay. Họ làm mọi điều cốt để người ta thấy vì vậy mà họ làm thẻ bài mình cho to và kết tua áo lễ cho dài. Họ thích ăn trên ngồi trước nơi bàn tiệc hay trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi giữa phố chợ và gọi mình là thầy. Nhưng các con đừng để người ta gọi mình là thầy vì các con chỉ có một Thầy còn tất cả đều là anh em. Và đừng gọi ai dưới đất là cha của các con. Vì các con chỉ có một Cha trên trời. Cũng đừng chịu cho ai gọi mình là người lãnh đạo vì các con chỉ có một vị lãnh đạo là Chúa Cứu Thế. Còn giữa vòng các con, ai là người lớn nhất sẽ làm đầy tớ cho các con. Ai tự tôn cao sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống thì được tôn cao. Khốn cho các ông, những chuyên gia kinh luật và người Pha-ri-si là những kẻ đạo đức giả! Các ông khóa cửa Nước Thiên Đàng trước mặt người ta. Chính các ông đã không vào mà ai muốn vào các ông cũng không cho.” Khốn cho các ông, những chuyên gia kinh luật và người Pha-ri-si là kẻ đạo đức giả, Các ông ăn nuốt nhà cửa của đàn bà góa nhưng lại giả vờ cầu nguyện thật lâu cho người ta thấy, vì thế các ông sẽ bị hình phạt nặng nề hơn. “Khốn cho các ông, những chuyên gia kinh luật và người Pha-ri-si là những kẻ đạo đức giả! Các ông vượt biển băng ngàn để chinh phục một người theo đạo, khi được rồi thì các ông làm cho kẻ ấy trở thành con của hỏa ngục gấp đôi các ông. Khốn cho các ông, những người dẫn đường mù lòa! Các ông dạy: ‘Nếu ai chỉ thánh điện mà thề, lời thề ấy không giá trị, nhưng ai chỉ vàng trong thánh điện mà thề, người ấy phải giữ lời thề.’ Hỡi những kẻ dại dột và mù lòa! Vàng hay thánh điện làm cho vàng nên thánh, cái nào trọng hơn? Các ông cũng dạy: ‘Nếu ai chỉ bàn thờ mà thề, lời thề ấy không giá trị, nhưng ai chỉ lễ vật trên bàn thờ mà thề, người ấy phải giữ lời thề.’ Hỡi những kẻ mù lòa! Lễ vật hay bàn thờ làm cho lễ vật nên thánh, cái nào trọng hơn? Vậy ai chỉ bàn thờ mà thề là chỉ cả bàn thờ lẫn tất cả lễ vật trên bàn thờ mà thề. Ai chỉ thánh điện mà thề là chỉ cả đền thờ lẫn Đấng ngự trong thánh điện mà thề. Ai chỉ trời mà thề là lấy ngai Đức Chúa Trời và Đấng ngự trên ngai ấy mà thề. Khốn cho các ông, những chuyên gia kinh luật và người Pha-ri-si, là những kẻ đạo đức giả! Vì các ông dâng một phần mười bạc hà, hồi hương và rau cần nhưng các ông bỏ những điều quan trọng hơn trong Kinh Luật là công bằng, lòng thương xót và trung tín. Những điều này các ông phải thực hành nhưng cũng không được bỏ các điều kia. Hỡi những kẻ dẫn đường mù lòa, các ông lọc con ruồi mà lại nuốt con lạc đà. Khốn cho các ông, những chuyên gia kinh luật và người Pha-ri-si là những kẻ đạo đức giả! Các ông rửa bên ngoài chén đĩa mà bên trong đầy tham tàn trụy lạc. Hỡi người Pha-ri-si mù lòa! Trước hết hãy rửa bên trong chén đĩa để bên ngoài cũng được sạch luôn. Khốn cho các ông, những chuyên gia kinh luật và người Pha-ri-si là những kẻ đạo đức giả! Vì các ông giống như những mồ mả tô trắng, bề ngoài có vẻ đẹp đẽ nhưng bên trong thì đầy những hài cốt và mọi thứ dơ bẩn. Các ông là thế, bề ngoài có vẻ công chính trước mặt người ta, nhưng bên trong thì toàn là đạo đức giả và vô luật pháp. Khốn cho các ông, những chuyên gia kinh luật và người Pha-ri-si, là kẻ đạo đức giả! Vì các ông xây mồ cho những tiên tri và dựng bia cho những người công chính. Các ông nói rằng: ‘Nếu sống vào thời tổ tiên thì chúng tôi đã không thông đồng làm đổ máu các tiên tri.’ Như thế chính các ông tự chứng thực rằng mình là con cháu của những kẻ đã giết các tiên tri. Vậy hãy làm cho ứng nghiệm những điều tổ tiên các ông đã làm. Hỡi loài rắn hổ mang, dòng dõi rắn độc kia! Làm thế nào các ông tránh khỏi hình phạt hỏa ngục được? Vì thế, Ta sai các tiên tri, những người khôn ngoan và các chuyên gia kinh luật đến cùng các ông. Có người sẽ bị các ông giết và đóng đinh, có người sẽ bị các ông đánh đập trong hội đường và lùng bắt từ thành này qua thành khác. Vậy tất cả máu vô tội đã chảy ra trên đất đổ lên các ông, từ máu A-bên là người công chính đến máu Xa-cha-ri, con của Ba-ra-chi mà các ông đã giết khoảng giữa thánh điện và bàn thờ. Thật, Ta bảo các ông, tất cả những điều này sẽ đến trên thế hệ này.” “Hỡi Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem, ngươi giết các tiên tri và ném đá các sứ giả Ta sai đến cùng ngươi. Đã bao lần Ta muốn họp con cái ngươi như gà mẹ gom con lại dưới cánh mình nhưng các ngươi không chịu. Rồi đây nhà các ngươi sẽ bị bỏ hoang. Vì Ta bảo các ngươi, từ nay các ngươi sẽ không thấy Ta nữa cho đến khi các ngươi nói: ‘Phước cho Đấng nhân danh Chúa mà đến.’” Khi Đức Giê-su vừa rời khỏi đền thờ, các môn đệ đến chỉ cho Ngài xem các công trình kiến trúc đền thờ. Ngài bảo: “Các con có nhìn thấy tất cả các cơ sở đó không? Thật, Ta bảo các con, rồi đây sẽ không còn một khối đá nào chồng trên khối đá khác mà không bị đổ xuống.” Khi Đức Giê-su đang ngồi trên núi Ô-liu, các môn đệ đến gặp và hỏi riêng Ngài: “Xin Thầy nói cho chúng con biết khi nào những điều nầy sẽ xảy ra và có dấu hiệu gì báo trước ngày Thầy quang lâm và kỳ tận thế?” Đức Giê-su đáp: “Hãy thận trọng đừng để ai dẫn dụ các con lạc lối. Vì nhiều người sẽ mạo danh Thầy mà đến, tự xưng: ‘Ta là Chúa Cứu Thế’ và lừa gạt nhiều người. Các con sẽ nghe về chiến tranh và tin đồn về chiến tranh. Hãy coi chừng, đừng bối rối, những việc ấy phải xảy đến nhưng chưa phải là tận thế đâu. Dân này sẽ nổi dậy chống nghịch dân khác, nước nọ chống lại nước kia, có đói kém và động đất tại nhiều nơi. Tất cả những điều này chỉ là khởi đầu cơn đau chuyển bụng. Bấy giờ người ta sẽ hành hạ và sẽ giết các con và vì cớ danh Ta mà các con sẽ bị mọi dân ghét bỏ. Lúc đó nhiều người sẽ sa ngã, phản bội và thù ghét nhau. Nhiều tiên tri giả sẽ nổi lên và lừa gạt nhiều người. Vì sự gian ác sẽ gia tăng nên tình yêu thương của nhiều người cũng phai nhạt dần. Nhưng ai kiên trì chịu đựng cho đến cùng sẽ được cứu rỗi. Phúc Âm về Nước Đức Chúa Trời sẽ được truyền giảng khắp thế giới để làm chứng cho muôn dân, bấy giờ tận thế sẽ đến.” “Cho nên khi các con thấy sự gớm ghiếc hoang tàn trong nơi thánh mà lời tiên tri Đa-ni-ên đã nói đến --ai đọc phải hiểu lấy-- lúc bấy giờ ai ở trong xứ Giu-đê hãy trốn lên núi; ai ở trên sân thượng đừng xuống lấy đồ đạc ra khỏi nhà; ai ở ngoài ruộng chớ trở về lấy áo choàng. Trong những ngày ấy, khốn thay cho phụ nữ có thai hay có con còn bú. Hãy cầu nguyện để các con khỏi phải chạy trốn vào mùa đông hay nhằm ngày Sa-bát. Vì bấy giờ sẽ có hoạn nạn lớn đến nỗi từ khi tạo dựng trời đất đến nay chưa từng có như vậy, và sau này cũng sẽ không bao giờ có nữa. Và nếu số những ngày ấy không giảm bớt thì không ai sống sót nổi, nhưng vì những người được chọn, các ngày ấy sẽ được giảm xuống. Lúc đó nếu ai nói với các con: ‘Này, Chúa Cứu Thế đang ở đây’ hay ‘ở đó,’ các con đừng tin. Vì các Chúa Cứu Thế giả và tiên tri giả sẽ xuất hiện làm nhiều dấu lạ, phép mầu lớn để lừa dối và nếu có thể được, họ lừa gạt ngay cả những người được chọn. Này, Thầy đã báo trước cho các con. Vậy nếu người ta bảo các con: ‘Kìa, Ngài đang ở ngoài đồng hoang,’ thì đừng đi ra đó; hoặc: ‘Này, Ngài đang ẩn trong phòng kín’ thì đừng tin. Vì như tia chớp phát ra từ phương đông loè sáng đến tận phương tây thể nào, thì sự quang lâm của Con Người cũng sẽ như thế. Xác chết ở đâu, diều hâu bâu lại đó.” “Ngay sau những ngày hoạn nạn đó,Mặt trời trở nên tối tăm,Mặt trăng không còn chiếu sáng,Các ngôi sao từ trời sa xuốngVà quyền năng trên các từng trời rúng động. Bấy giờ điềm của Con Người sẽ xuất hiện trên bầu trời; tất cả các dân tộc trên đất sẽ than khóc khi thấy Con Người lấy đại quyền đại vinh ngự trên mây trời mà đến. Ngài sẽ sai các thiên sứ thổi kèn vang dội, tập họp những người được chọn khắp bốn phương, từ chân trời nầy đến chân trời kia.” “Hãy học bài học từ cây vả: Khi cành vừa đâm chồi nẩy lộc, các con biết rằng mùa hạ đã gần đến. Cũng vậy, khi thấy tất cả những điều ấy, các con biết rằng Con Người đang ở gần ngay trước cửa. Thật, Ta bảo các con: Thế hệ này sẽ không qua đi cho đến khi tất cả những việc kia xảy đến. Trời đất sẽ qua đi nhưng những lời Ta phán chẳng bao giờ qua đi.” “Còn về ngày và giờ đó, không một ai biết cả, ngay các thiên sứ trên trời hay Đức Con cũng vậy; chỉ một mình Cha biết thôi. Như thời Nô-ê thể nào thì sự quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy. Vì như những ngày trước cơn nước lụt, người ta vẫn ăn uống, cưới gả như thường cho đến ngày Nô-ê vào tàu. Người ta không biết gì hết cho tới khi nước lụt đến, cuốn đi tất cả. Sự quang lâm của Con Người cũng sẽ như thế. Lúc đó, hai người đàn ông ở ngoài đồng, một người được đem đi, một người bị bỏ lại. Hai người đàn bà đang xay cối, một người được đem đi, một người bị bỏ lại. Vậy hãy tỉnh thức, vì các con không biết ngày nào Chúa mình sẽ đến. Hãy biết rằng nếu chủ nhà đã biết canh nào kẻ trộm đến, họ sẽ thức canh và không để cho nhà mình bị trộm khoét vách. Vì thế, các con phải sẵn sàng vì Con Người sẽ đến vào giờ các con không ngờ. Ai là đầy tớ trung tín và khôn sáng được chủ giao phó cai quản cả nhà để cho gia nhân ăn uống chu đáo, phước cho đầy tớ đó khi chủ về thấy làm như vậy. Thật, Ta bảo các con, chủ sẽ giao phó cho đầy tớ ấy cai quản toàn thể gia sản mình. Nhưng nếu người đầy tớ đó gian ác vì nghĩ thầm trong lòng rằng chủ mình sẽ về trễ; nó bắt đầu hiếp đáp các đầy tớ khác, ăn chơi với những phường say sưa. Chủ sẽ đến trong ngày nó không ngờ, vào giờ nó không hay biết, và trừng phạt nó nặng nề. Chủ sẽ phó nó chung số phận với những kẻ đạo đức giả ở nơi sẽ có than khóc và rên xiết.” “Bấy giờ Nước Thiên Đàng sẽ ví như mười trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể. Trong số đó có năm cô dại, năm cô khôn. Các cô dại đem đèn nhưng không mang theo dầu. Mấy cô khôn đem bình dầu theo đèn của mình. Vì chàng rể đến trễ nên tất cả các cô buồn ngủ rồi ngủ thiếp đi. Đến nửa đêm có tiếng gọi lớn: ‘Chàng rể đến kìa, hãy ra tiếp đón!’ Các trinh nữ đều thức dậy, khêu đèn lên cho sáng. Các cô dại nói với mấy cô khôn: ‘Xin các chị chia cho chúng em một ít dầu vì đèn chúng em sắp tắt.’ Mấy cô khôn trả lời: ‘Không được, sợ không đủ cho cả chúng em và các chị, tốt hơn các chị nên ra cửa hàng mà mua.’ Nhưng đang khi các cô gái kia đi mua dầu thì chàng rể đến. Những cô gái đã sẵn sàng thì vào dự tiệc cưới với chàng rể và cửa đóng lại. Sau đó, các trinh nữ kia mới trở về kêu xin: ‘Chủ ơi, xin mở cửa cho chúng tôi vào với.’ Người chủ đáp: ‘Tôi nói thật, tôi không biết các cô là ai.’ Vậy hãy tỉnh thức vì các con không biết ngày cũng chẳng biết giờ Con Người đến.” “Nước Thiên Đàng cũng ví như một người kia sắp đi xa nên gọi tôi tớ lại để giao tài sản mình cho họ. Ông giao cho người này năm nén bạc, người kia hai nén, người nọ một nén, mỗi người tùy theo khả năng, rồi lên đường. Người đầy tớ đã nhận năm nén bạc lập tức đi kinh doanh và làm lợi được năm nén bạc nữa. Người nhận hai nén bạc cũng thế, làm lợi thêm hai nén nữa. Nhưng người nhận một nén bạc, đi đào đất chôn giấu nén bạc của chủ. Sau đó khá lâu, chủ của các đầy tớ ấy trở về và tính sổ với họ. Người đã nhận năm nén bạc đem thêm năm nén khác trình: ‘Thưa chủ, năm nén bạc chủ giao, tôi đã làm lợi thêm được năm nén nữa đây.’ Chủ bảo rằng: ‘Giỏi lắm, anh là đầy tớ tốt và trung tín! Anh đã trung tín trong các việc nhỏ, ta sẽ đặt anh cai quản những công việc lớn hơn, hãy vào chung vui với chủ anh.’ Người đã nhận hai nén bạc cũng đến trình: ‘Thưa chủ, hai nén bạc chủ giao, tôi đã làm lợi được hai nén khác đây.’ Chủ bảo rằng: ‘Giỏi lắm, anh là đầy tớ tốt và trung tín. Anh đã trung tín trong các việc nhỏ, ta sẽ đặt anh cai quản những công việc lớn hơn, hãy vào chung vui với chủ anh!’ Người đã nhận một nén bạc cũng đến trình: ‘Thưa chủ, chủ là người nghiêm nhặt, gặt chỗ mình không gieo và thu chỗ mình không rải. Tôi sợ nên đi chôn giấu nén bạc của chủ dưới đất, tôi xin trả nén bạc lại chủ.’ Chủ trả lời: ‘Anh là đầy tớ gian ác và lười biếng! Anh biết ta gặt chỗ ta không gieo và thu chỗ ta không rải, thì anh phải giao tiền bạc của ta cho ngân hàng để khi về ta sẽ thu được cả vốn lẫn lời. Vậy, hãy lấy nén bạc của tên nầy đem cho người có mười nén. Vì ai đã có, sẽ được cho thêm và sẽ có dư dật; nhưng ai không có thì ngay cả cái họ có cũng sẽ bị lấy mất. Còn tên đầy tớ vô dụng này; hãy ném nó ra ngoài nơi tối tăm, ở đó sẽ có than khóc và rên xiết.’” “Khi Con Người đến trong vinh quang với tất cả thiên sứ, Ngài sẽ ngự trên ngai vinh quang. Mọi dân tộc sẽ được triệu tập trước mặt Ngài; Ngài sẽ phân chia họ ra như người chăn chiên tách chiên ra khỏi dê. Ngài sẽ để chiên bên phải và dê bên trái. Bấy giờ vua phán với những người ở bên phải: ‘Hỡi những người được phước của Cha Ta, hãy đến thừa hưởng vương quốc đã được sắm sẵn cho các con từ khi sáng tạo thế giới. Vì khi Ta đói, các con cho Ta ăn; Ta khát, các con cho uống. Khi Ta là khách lạ, các con đến thăm Ta. Ta trần truồng, các con mặc cho Ta; Ta đau ốm, các con chăm sóc Ta; Ta bị tù, các con đến thăm viếng Ta.’ Bấy giờ những người công chính thưa: ‘Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, hay khát mà cho uống? Có bao giờ chúng con thấy Chúa là khách lạ mà tiếp đãi, hoặc trần truồng mà mặc cho? Hay có khi nào chúng con thấy Chúa đau ốm hay bị tù đày mà thăm viếng?’ Vua phán cùng họ: ‘Thật, Ta bảo cùng các con, hễ các con làm điều đó cho một trong những anh em hèn mọn nhất của Ta, tức là đã làm cho Ta vậy.’ Bấy giờ Ngài phán với những người ở bên trái: ‘Hỡi những kẻ bị rủa sả, hãy lui ra khỏi Ta mà vào lửa đời đời đã sắm sẵn cho quỷ vương và quỷ sứ nó. Vì khi Ta đói, các người không cho Ta ăn; Ta khát, các người không cho Ta uống. Ta là khách lạ, các người không tiếp đãi; Ta trần truồng, các người không mặc cho; Ta đau ốm, tù đày các người không thăm viếng.’ Bấy giờ họ đáp: ‘Lạy Chúa, chúng con có bao giờ thấy Ngài đói khát hay là khách lạ, trần truồng, đau ốm hay tù tội mà không chăm sóc đâu?’ Vua bèn phán với họ: ‘Thật, Ta bảo cùng các người, hễ các người không làm điều đó cho một trong những người hèn mọn nhất này, tức là không làm cho Ta.’ Vậy, những kẻ này sẽ đi vào hình phạt đời đời còn những người công chính đi vào sự sống vĩnh phúc.” Khi Đức Giê-su dạy dỗ xong tất cả những điều đó, Ngài bảo các môn đệ: “Các con biết, còn hai ngày nữa đến lễ Vượt Qua, Con Người sẽ bị nộp để người ta đóng đinh trên thập tự giá.” Lúc ấy các thượng tế và trưởng lão trong dân chúng họp tại dinh trưởng tế Cai-pha bàn mưu gài bắt Đức Giê-su để giết đi. Nhưng họ nói không nên làm trong ngày lễ, e rằng dân chúng náo loạn. Đức Giê-su đang ở làng Bê-tha-ni tại nhà Si-môn, người trước kia bị phung. Khi Ngài đang ngồi ăn, có một phụ nữ mang một bình ngọc đựng dầu thơm đắt giá đến và đổ lên tóc Ngài. Thấy vậy, các môn đệ nổi giận nói: “Tại sao lại phí của như vậy? Vì dầu này có thể bán được nhiều tiền để giúp người nghèo khó.” Đức Giê-su biết điều này nên bảo các môn đệ: “Tại sao các con làm phiền bà này, bà đã làm một việc tốt đẹp cho Ta. Vì các con vẫn có người nghèo quanh mình luôn, nhưng còn Ta, các con sẽ không có luôn đâu. Bà này đã tẩm dầu thơm trên mình Ta là để liệm xác Ta. Thật, Ta bảo các con, bất cứ nơi nào Phúc Âm này được truyền giảng trên thế giới, việc bà đã làm sẽ được nhắc lại để nhớ đến người.” Sau đó, một trong mười hai môn đệ tên là Giu-đa Ích-ca-ri-ốt đến cùng các thượng tế, và nói: “Các ông bằng lòng trả tôi bao nhiêu để tôi nộp người cho các ông?” Họ trả cho hắn ba chục miếng bạc. Từ lúc ấy, Giu-đa tìm dịp để nộp Đức Giê-su. Vào ngày thứ nhất của lễ Bánh Không Men, các môn đệ đến hỏi Đức Giê-su: “Thầy muốn chúng con sửa soạn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?” Ngài đáp: “Hãy đi gặp một người kia trong thành phố và bảo: ‘Thầy nói: Giờ Ta đã gần, Ta và các môn đệ sẽ ăn lễ Vượt Qua tại nhà ông.’” Các môn đệ làm y như lời Đức Giê-su đã dặn bảo, họ lo dọn bữa ăn lễ Vượt Qua. Tối đến, Đức Giê-su và mười hai môn đệ ngồi vào bàn ăn. Đang khi ăn, Ngài bảo: “Thật, Ta bảo các con, một người trong vòng các con sẽ phản Ta.” Các môn đệ rất buồn phiền và mỗi người đều lần lượt hỏi Ngài: “Thưa Chúa, chắc không phải con chứ?” Ngài đáp: “Người đưa tay chấm bánh cùng dĩa với Ta sẽ là người phản Ta. Con Người ra đi như lời Kinh Thánh đã chép về Ngài, nhưng khốn nạn cho kẻ phản bội Con Người, thà nó đừng sinh ra thì hơn.” Giu-đa, kẻ phản Ngài cũng hỏi: “Thưa Thầy, không phải con chứ?” Ngài đáp: “Chính con đã nói ra rồi đó.” Đang khi ăn, Đức Giê-su cầm bánh, tạ ơn rồi bẻ ra trao cho các môn đệ, và phán: “Hãy nhận lấy và ăn. Đây là thân thể Ta.” Rồi Ngài cầm chén, tạ ơn, trao cho các môn đệ và phán: “Hết thảy các con hãy uống đi. Vì đây là huyết Ta, huyết của giao ước đổ ra cho nhiều người được tha tội. Ta nói cùng các con, từ nay Ta sẽ không uống nước nho này nữa cho đến ngày đó, khi Ta sẽ cùng các con uống nước nho mới trong vương quốc của Cha Ta.” Sau khi hát thánh ca, Đức Giê-su và các môn đệ đi lên núi Ô-liu. Bấy giờ Đức Giê-su bảo các môn đệ: “Đêm nay, tất cả các con đều sẽ vấp ngã vì Ta, như lời Kinh Thánh đã chép:‘Ta sẽ đánh người chăn,Thì bầy chiên sẽ bị tan lạc.’ Nhưng sau khi sống lại, Ta sẽ đi đến miền Ga-li-lê trước các con.” Phê-rơ thưa: “Dù tất cả sẽ vấp ngã vì Thầy, con sẽ không bao giờ vấp ngã.” Đức Giê-su đáp: “Thật, Thầy bảo con: Chính đêm nay, trước khi gà gáy con sẽ chối Thầy ba lần.” Phê-rơ thưa: “Dù con phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy.” Các môn đệ đều nói như vậy. Sau đó, Đức Giê-su và các môn đệ đến một chỗ gọi là Ghết-sê-ma-nê. Ngài bảo họ: “Các con hãy ngồi đây đợi Thầy đến đằng kia cầu nguyện.” Ngài dẫn theo Phê-rơ và hai con trai của Xê-bê-đê; Ngài tỏ ra buồn rầu và sầu não. Rồi Ngài bảo họ: “Linh hồn Thầy đau buồn cho đến chết. Hãy ở đây và thức tỉnh với Thầy!” Đi thêm vài bước, Ngài quỳ gối sấp mặt cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho chén nầy lìa khỏi con, nhưng không theo ý con mà theo ý Cha.” Ngài trở lại với ba môn đệ và thấy họ đang ngủ; Ngài nói cùng Phê-rơ: “Vậy, các con không thể thức nổi với Thầy một giờ sao? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để các con khỏi sa vào chước cám dỗ; tâm linh thì mong muốn nhưng thể xác lại yếu đuối.” Đức Giê-su lại đi cầu nguyện lần thứ hai: “Lạy Cha, nếu chén nầy không thể tránh được và Con phải uống thì xin ý Cha được nên.” Ngài trở lại lần nữa và thấy các môn đệ vẫn ngủ vì mắt họ nặng trĩu. Ngài để họ đó, và lại đi cầu nguyện lần thứ ba, nài xin như trước. Sau đó, Ngài trở lại với các môn đệ và bảo: “Bây giờ các con vẫn ngủ và nghỉ sao? Này, đã đến giờ Con Người bị phản nộp vào tay những kẻ tội ác. Hãy thức dậy, chúng ta đi! Kìa, kẻ phản Thầy đã đến!” Khi Ngài còn đang nói, kìa, Giu-đa, một trong mười hai sứ đồ, cùng với đám đông mang gươm giáo, gậy gộc do các thượng tế và trưởng lão trong dân sai đến. Kẻ phản bội đã cho chúng một dấu hiệu: “Hễ tôi hôn ai thì chính là người đó, hãy bắt lấy.” Và Giu-đa liền đến trước mặt Đức Giê-su nói: “Chào Thầy!” và hôn Ngài. Đức Giê-su nói: “Bạn ơi, hãy làm điều bạn định làm?” Bấy giờ chúng tiến đến và ra tay bắt giữ Ngài. Nầy, một trong những người theo Đức Giê-su đưa tay rút gươm ra đánh đầy tớ của vị trưởng tế và chém đứt một tai nó. Bấy giờ, Đức Giê-su bảo người đó: “Hãy tra gươm vào vỏ, vì ai dùng gươm sẽ chết vì gươm. Các con tưởng rằng Ta không thể xin Cha Ta và Ngài sẽ cấp ngay cho Ta hơn mười hai đạo thiên binh sao? Nếu vậy, làm sao lời Kinh Thánh chép rằng: ‘Việc này phải xảy ra như thế’ để được ứng nghiệm.” Lúc ấy, Đức Giê-su bảo đám đông: “Các người đem gươm giáo, gậy gộc đến bắt Ta như bắt kẻ cướp sao? Hằng ngày, Ta ngồi dạy dỗ trong đền thờ mà các người không bắt Ta. Nhưng tất cả những việc nầy đã xảy ra để Kinh Thánh của các tiên tri được ứng nghiệm.” Bấy giờ tất cả các môn đệ đều bỏ Ngài chạy trốn. Những kẻ đã bắt Đức Giê-su giải Ngài đến trưởng tế Cai-pha, nơi các chuyên gia kinh luật và trưởng lão tụ họp. Phê-rơ theo Ngài xa xa cho đến sân nhà vị trưởng tế. Ông vào trong sân và ngồi chung với đám cảnh vệ để xem kết cuộc ra sao. Các thượng tế và cả hội đồng tìm chứng dối vu cáo Đức Giê-su để xử tử Ngài. Nhưng họ không tìm được, mặc dù có nhiều người đứng ra làm chứng dối. Sau cùng có hai người đến nói rằng: “Người nầy nói Ta có thể phá đền thờ Đức Chúa Trời rồi xây lại trong ba ngày.” Vị trưởng tế đứng dậy bảo Ngài: “Anh không đáp lại những lời tố cáo của những người nầy sao?” Nhưng Đức Giê-su vẫn im lặng. Vị trưởng tế tiếp: “Nhân danh Đức Chúa Trời hằng sống ta truyền lệnh cho anh phải khai rõ: ‘Anh có phải là Chúa Cứu Thế, Con Đức Chúa Trời không?’” Đức Giê-su trả lời: “Như ông đã nói đó. Hơn thế nữa, Ta nói với các ông, từ nay, các ông sẽ thấy Con Người ngự bên phải Đấng Toàn Năng và đến trên mây trời.” Bấy giờ, vị trưởng tế xé áo mình mà nói: “Nó đã phạm thượng; chúng ta cần gì nhân chứng nữa. Quý vị vừa nghe lời phạm thượng đó. Quý vị nghĩ sao?” Họ trả lời: “Hắn đáng tội chết.” Chúng nhổ vào mặt Ngài, đánh Ngài, cũng có kẻ vả Ngài. Chúng nói: “Hỡi Chúa Cứu Thế, hãy nói tiên tri xem ai đã đánh ông?” Bấy giờ Phê-rơ ngồi ngoài sân, một tớ gái đến nói: “Ông cũng là người theo Giê-su, người Ga-li-lê.” Nhưng Phê-rơ chối trước mặt mọi người: “Tôi không hiểu chị nói gì?” Khi ra đến cổng, một tớ gái khác thấy Phê-rơ, cô nói với mấy người ở đó: “Người nầy cũng theo Giê-su người Na-xa-rét.” Ông lại thề mà chối: “Tôi không biết người đó!” Một lúc sau, mấy người đứng đó tới nói với Phê-rơ: “Đúng rồi, anh cũng là một người trong bọn chúng, vì giọng nói của anh tố cáo anh.” Phê-rơ liền rủa và thề: “Tôi không biết người ấy đâu!” Tức thì gà gáy. Phê-rơ nhớ lại lời Đức Giê-su đã nói: “Trước khi gà gáy con sẽ chối Ta ba lần.” Ông đi ra ngoài khóc lóc đắng cay. Sáng sớm hôm sau tất cả các thượng tế và trưởng lão trong dân bàn mưu để giết Đức Giê-su. Họ trói Ngài và giải nộp cho quan thống đốc Phi-lát. Khi ấy, Giu-đa, kẻ phản Chúa, thấy Ngài bị lên án, ông hối hận; ông đem ba chục miếng bạc trả lại cho các thượng tế và trưởng lão, và nói: “Tôi đã phạm tội phản bội, làm người vô tội phải đổ máu.” Nhưng họ đáp: “Việc đó can hệ gì đến chúng ta? Việc của anh mặc anh.” Giu-đa ném bạc vào đền thờ, trở ra và đi thắt cổ. Nhưng các thượng tế lượm các miếng bạc ấy rồi nói: “Không nên bỏ bạc này vào kho của đền thờ vì đây là tiền máu.” Họ bàn với nhau dùng số bạc ấy mua thửa ruộng của người thợ gốm để làm nơi chôn cất ngoại kiều. Cho nên đến nay ruộng ấy vẫn được gọi là Ruộng Máu. Như thế lời tiên tri Giê-rê-mi được ứng nghiệm: “Họ đã lấy ba chục miếng bạc, là giá con cái Y-sơ-ra-ên đã định trên Ngài và đem bạc mua thửa ruộng của người thợ gốm như Chúa đã truyền cho Ta!” Đức Giê-su đứng trước quan thống đốc. Quan hỏi Ngài: “Anh có phải là vua dân Do Thái không?” Đức Giê-su đáp: “Như ông nói đó.” Trong lúc bị các thượng tế và trưởng lão tố cáo, Ngài không đối đáp gì cả. Nên Phi-lát hỏi Ngài: “Anh không nghe bao nhiêu lời chứng tố cáo anh sao?” Nhưng Ngài không đáp một lời nào, đến nỗi quan thống đốc rất ngạc nhiên. Vào dịp lễ quan thống đốc có lệ ân xá một tù nhân tùy theo ý dân chúng. Lúc đó có một tù nhân khét tiếng tên Ba-ra-ba. Khi dân chúng tụ tập, Phi-lát hỏi: “Các người muốn ta tha ai, Ba-ra-ba hay Giê-su, người mệnh danh là Chúa Cứu Thế?” Vì ông biết rõ bởi lòng ganh ghét họ đã nộp Ngài. Khi Phi-lát đương ngồi xử án, vợ ông sai người đến nói: “Đừng đụng đến người công chính đó vì hôm nay tôi bị khổ sở nhiều trong giấc chiêm bao về người đó.” Nhưng các thượng tế và các trưởng lão xúi giục dân chúng xin tha Ba-ra-ba và giết Đức Giê-su. Quan thống đốc lại hỏi đám dân: “Trong hai người, các người muốn ta tha ai?” Họ đáp: “Ba-ra-ba.” Phi-lát nói với họ: “Vậy thì ta sẽ xử thế nào với Giê-su, người mệnh danh là Chúa Cứu Thế!” Tất cả đều đáp: “Hãy đóng đinh nó!” Ông hỏi: “Tại sao? Người này đã làm điều ác gì?” Họ lại càng la lớn hơn nữa: “Hãy đóng đinh nó!” Phi-lát thấy không làm được gì, mà lại gây thêm náo động. Ông lấy nước rửa tay trước mặt dân chúng rồi bảo: “Ta vô tội về máu người này, các người phải chịu trách nhiệm lấy!” Cả dân chúng đáp: “Nguyện máu của hắn đổ trên đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi!” Phi-lát liền tha Ba-ra-ba cho họ. Sau khi cho đánh đòn Đức Giê-su, ông giao Ngài cho họ đóng đinh. Lúc đó lính của quan thống đốc đem Đức Giê-su vào công đường, cả đội quân bao quanh Ngài. Chúng lột áo Ngài ra và mặc cho Ngài một chiếc áo đỏ tía. Chúng đan một mão bằng gai, đội lên đầu Ngài và đặt vào tay phải Ngài một cây sậy rồi quỳ xuống trước mặt Ngài và chế nhạo: “Hoan hô, Vua dân Do Thái!” Chúng khạc nhổ trên Ngài và lấy cây sậy đánh vào đầu Ngài. Chế nhạo Ngài xong, chúng lột áo đỏ tía ra và mặc áo lại cho Ngài, rồi dẫn đi đóng đinh. Khi đi ra họ gặp một người quê ở Si-ren tên là Si-môn, chúng bắt ông này vác thập tự giá cho Ngài. Đến một nơi tên Gô-gô-tha, nghĩa là “Đồi Sọ;” chúng cho Ngài uống rượu pha mật đắng, Ngài nếm thử nhưng không uống. Sau khi đóng đinh Ngài, chúng bắt thăm chia nhau áo Ngài. Rồi chúng ngồi đó canh giữ Ngài. Phía trên đầu Ngài chúng để một bản án ghi: “Đây là Giê-su, Vua dân Do Thái!” Lúc đó có hai tên cướp cùng bị đóng đinh với Ngài, một tên bên phải, một tên bên trái. Những người qua lại phỉ báng Ngài, lắc đầu nói rằng: “Này, anh sẽ phá hủy đền thờ rồi xây lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi! Nếu anh là Con Đức Chúa Trời hãy xuống khỏi thập tự giá đi!” Các thượng tế, chuyên gia kinh luật và trưởng lão cũng nhạo báng rằng: “Nó cứu người khác nhưng không thể tự cứu mình, nếu nó là vua Y-sơ-ra-ên, hãy xuống khỏi thập tự giá đi rồi chúng ta sẽ tin nó. Nó tin cậy Đức Chúa Trời, hãy để Đức Chúa Trời giải cứu nó đi nếu Ngài muốn, vì nó tuyên bố rằng: ‘Ta là Con Đức Chúa Trời.’” Hai tên cướp cùng bị đóng đinh với Ngài cũng nhục mạ Ngài. Từ trưa đến ba giờ chiều trời trở nên tối tăm khắp trên đất. Khoảng ba giờ chiều Đức Giê-su kêu lên lớn tiếng: “Ê-li, Ê-li, la-ma sa-bách-tha-ni,” nghĩa là: “Đức Chúa Trời tôi ôi! Đức Chúa Trời tôi! Sao Ngài lìa bỏ tôi?” Vài người đứng gần đó nghe tiếng Ngài, họ nói: “Người này gọi tiên tri Ê-li.” Một người trong đám họ liền chạy đi lấy miếng bọt biển nhúng đầy giấm, để trên đầu cây sậy rồi đưa cho Ngài uống. Nhưng những người khác lại bảo: “Hãy khoan, để xem Ê-li có đến cứu nó không?” Đức Giê-su lại kêu lên một tiếng lớn và trút linh hồn. Kìa, bức màn trong đền thờ bị xé ra làm đôi từ trên xuống dưới; đất rúng động và đá nứt ra. Mồ mả mở ra, nhiều xác của các thánh đã chết được sống lại, ra khỏi mộ. Sau khi Đức Giê-su sống lại, họ đi vào thành thánh hiện ra cho nhiều người. Khi viên đội trưởng và những lính canh Đức Giê-su thấy đất rúng động và những điều xảy ra, họ kinh sợ, nói: “Người này thật là Con Đức Chúa Trời!” Cũng có nhiều phụ nữ ở đó nhìn xem Ngài từ đằng xa. Họ đã theo Đức Giê-su từ Ga-li-lê để phục vụ Ngài. Trong số các bà ấy có Ma-ri Ma-đơ-len, Ma-ri mẹ của Gia-cơ và Giô-sép, và mẹ của hai con trai Xê-bê-đê. Đến chiều, có một người giàu ở thành A-ri-ma-thê tên là Giô-sép, cũng là môn đệ Đức Giê-su, đến cùng Phi-lát để xin thi thể Ngài. Phi-lát truyền lịnh giao thi thể cho ông. Giô-sép lấy thi thể, liệm trong tấm vải sạch, và đặt trong ngôi mộ mới mà ông đã đục trong đá cho mình. Ông lăn một tảng đá lớn chận cửa mộ rồi đi. Có Ma-ri Ma-đơ-len và Ma-ri khác cũng ở đó, ngồi đối diện mộ Ngài. Hôm sau, sau ngày sửa soạn, các thượng tế và người Pha-ri-si họp nhau đến gặp Phi-lát, thưa rằng: “Thưa ngài, chúng tôi nhớ lại tên gian dối này khi còn sống có nói: ‘Sau ba ngày Ta sẽ sống lại.’ Vậy xin ngài truyền canh giữ mộ cẩn thận cho đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ nó đến lấy trộm xác rồi nói với dân chúng rằng: ‘Ngài đã sống lại từ cõi chết,’ và sự gian dối sau còn tệ hơn sự gian dối trước.” Phi-lát bảo họ: “Các người có lính canh, hãy đem lính canh đi canh mộ cẩn thận theo cách các người biết.” Họ đi niêm phong tảng đá trước cửa mộ và cắt lính canh giữ cẩn thận. Sau ngày Sa-bát, sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, Ma-ri Ma-đơ-len và Ma-ri khác đến thăm mộ. Và này có cơn động đất dữ dội vì một thiên sứ của Chúa từ trời giáng xuống, đến lăn tảng đá đi và ngồi lên trên. Hình dáng người như chớp và áo trắng như tuyết. Những lính canh hoảng sợ run rẩy và trở nên như người chết. Thiên sứ nói cùng các bà rằng: “Các bà đừng sợ, tôi biết các bà tìm kiếm Đức Giê-su, Đấng đã bị đóng đinh. Ngài không còn ở đây đâu. Ngài đã sống lại rồi như lời Ngài đã bảo trước. Hãy đến xem nơi đặt xác Ngài. Hãy mau mau đi báo cho các môn đệ Ngài biết: ‘Ngài đã sống lại. Kìa, Ngài đi đến Ga-li-lê trước các ông. Ở đó các ông sẽ thấy Ngài.’ Này tôi đã nói cho các bà biết.” Mấy người đàn bà vội vã rời khỏi mộ, vừa sợ vừa rất mừng, và chạy đi báo tin cho các môn đệ Ngài hay. Và này, Đức Giê-su gặp các bà và nói: “Chào các con.” Các bà đến gần ôm chân Chúa, và thờ lạy Ngài. Đức Giê-su phán cùng các bà: “Đừng sợ! Hãy đi bảo các anh em Ta lên Ga-li-lê, họ sẽ gặp Ta ở đó.” Khi các bà ấy đi, thì mấy người lính canh vào thành phố báo cáo cho các thượng tế mọi việc đã xảy ra. Các thượng tế họp với các trưởng lão và sau khi thảo luận, lấy một số tiền lớn cho các lính canh, căn dặn: “Các anh hãy nói rằng ban đêm khi chúng tôi ngủ, môn đệ của nó đến ăn cắp xác nó đi. Nếu việc này đến tai quan thống đốc chúng ta sẽ thuyết phục người và làm cho các anh khỏi bị phiền phức.” Mấy lính canh nhận tiền và làm y theo lời dặn. Tiếng đồn này đã loan truyền giữa vòng người Do Thái cho đến ngày nay. Mười một môn đệ trở về Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã chỉ cho. Khi các môn đệ thấy Ngài, thì thờ lạy Ngài, nhưng có vài người còn nghi ngờ. Đức Giê-su đến gần và bảo các môn đệ: “Tất cả thẩm quyền trên trời, dưới đất đều đã giao cho Ta. Vậy, hãy đi làm cho muôn dân thành môn đệ Ta, làm phép báp-tem cho họ nhân danh Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh, dạy họ giữ mọi điều Ta đã truyền cho các con. Và này, Ta hằng ở cùng các con luôn cho đến tận thế.” Khởi đầu Phúc Âm về Chúa Cứu Thế Giê-su, Con Đức Chúa Trời. Như có chép trong sách tiên tri I-sa:“Nầy, Ta sẽ sai sứ giả Ta đến trước Con,Người sẽ dọn đường cho Con.” Có tiếng kêu vang trong đồng hoang:“Hãy sửa soạn đường Chúa,Đắp thẳng các lối Ngài.” Giăng Báp-tít xuất hiện trong đồng hoang, truyền giảng về phép báp-tem bày tỏ lòng ăn năn để được Chúa tha tội. Tất cả dân chúng thành Giê-ru-sa-lem và xứ Giu-đê lũ lượt kéo đến cùng người. Sau khi xưng tội, họ được Giăng làm phép báp-tem dưới sông Giô-đanh. Giăng mặc áo lông lạc đà, thắt dây lưng da, ăn châu chấu và mật ong rừng. Người truyền giảng rằng: “Đấng đến sau ta, có quyền lực hơn ta, ta cũng không đáng quỳ xuống tháo quai dép Ngài. Chính ta làm lễ báp-tem cho các người bằng nước, nhưng Ngài sẽ làm phép báp-tem cho các người bằng Đức Thánh Linh.” Trong thời gian này, Đức Giê-su từ thành Na-xa-rét xứ Ga-li-lê đến để Giăng làm phép báp-tem dưới sông Giô-đanh. Vừa bước ra khỏi nước, Đức Giê-su thấy các tầng trời mở ra và Đức Thánh Linh giáng trên Ngài như dạng chim bồ câu. Rồi có tiếng từ trời phán: “Con là Con yêu dấu của Ta, đẹp lòng Ta hoàn toàn.” Liền đó, Đức Thánh Linh giục Ngài vào trong đồng hoang. Ngài ở trong đồng hoang với dã thú bốn mươi ngày, chịu Sa-tan cám dỗ, sau đó có thiên sứ đến phục vụ Ngài. Sau khi Giăng bị tù, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê, truyền giảng Phúc Âm của Đức Chúa Trời. Ngài phán: “Giờ đã điểm, Nước Đức Chúa Trời đã đến gần, hãy ăn năn và tin nhận Phúc Âm.” Một hôm Đức Giê-su đi dọc theo bờ biển Ga-li-lê, Ngài thấy Si-môn và em là An-rê đang chài lưới dưới biển vì họ làm nghề đánh cá. Ngài gọi họ: “Hãy theo Ta, Ta sẽ khiến các người trở nên tay đánh lưới cứu người.” Họ liền bỏ lưới đi theo Ngài. Đi một quãng nữa, Ngài thấy Gia-cơ con trai của Xê-bê-đê với em là Giăng đang vá lưới trên thuyền. Ngài liền gọi họ. Hai người lìa Xê-bê-đê cha mình và mấy người bạn chài trên thuyền mà theo Ngài. Sau đó, Đức Giê-su và các môn đệ đến thành Ca-pha-na-um. Nhằm ngày Sa-bát Ngài vào hội đường bắt đầu giảng dạy. Người ta đều ngạc nhiên về sự dạy dỗ của Ngài, vì Ngài giảng dạy với quyền uy khác hẳn các chuyên gia kinh luật. Ngay lúc ấy, trong hội đường, một người bị tà linh ám la lên: “Ông Giê-su Na-xa-rét ơi, ông muốn làm gì chúng tôi đây? Ông đến để diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Đấng Thánh của Đức Chúa Trời.” Đức Giê-su nghiêm trách nó: “Im đi! Hãy xuất khỏi người này.” Tà linh vật mạnh người ấy, thét lên rồi ra khỏi. Mọi người có mặt đều kinh hoàng, nên bàn với nhau: “Cái gì vậy? Giáo lý mới lạ quá! Người này dạy dỗ với quyền uy, đến cả tà linh cũng phải vâng lệnh.” Tức thì, danh tiếng Ngài đồn ra khắp miền Ga-li-lê. Vừa ra khỏi hội đường, Đức Giê-su đi với Gia-cơ và Giăng đến nhà Si-môn và An-rê. Bà gia Si-môn sốt nặng đang nằm trên giường, họ liền cho Ngài hay. Ngài đến gần, cầm tay đỡ bà dậy, cơn sốt liền dứt, rồi bà đứng dậy phục vụ họ. Đến chiều khi mặt trời lặn, người ta đem cho Ngài cả người đau lẫn người bị quỷ ám. Dân cả thành tụ họp trước cửa. Ngài chữa lành nhiều người, đủ các chứng bịnh khác nhau, đuổi nhiều quỷ khỏi người bị ám, và không cho phép quỷ nói gì, vì chúng biết Ngài là ai. Trời vừa mờ sáng Ngài dậy sớm, đi vào nơi vắng vẻ để cầu nguyện. Si-môn cùng đồng bạn đi kiếm Ngài. Gặp được rồi, họ thưa: “Mọi người đang tìm Thầy.” Nhưng Ngài đáp: “Chúng ta hãy vào các làng xã quanh đây, Ta còn phải truyền giảng ở đó nữa; chính vì việc này mà Ta đến.” Rồi Ngài truyền giảng tại các hội đường khắp miền Ga-li-lê và đuổi các quỷ. Một người phung đến quỳ xuống, khẩn cầu Ngài: “Nếu Thầy muốn, Thầy có thể chữa tôi lành.” Đức Giê-su động lòng thương xót, đưa tay sờ người và bảo rằng: “Ta muốn, hãy lành đi.” Lập tức bịnh phung biến mất, người phung được lành. Ngài liền cho người đi và nghiêm dặn: “Đừng nói việc này cho ai cả, nhưng hãy đến trình diện cùng thầy tế lễ và dâng lễ theo như luật Môi-se đã định để chứng tỏ cho họ biết là anh đã được sạch.” Nhưng người ấy đi loan báo việc này khắp nơi. Tin này đồn ra đến nỗi Đức Giê-su không thể nào vào phố cách công khai nhưng phải ở lại trong đồng hoang. Dân chúng khắp nơi kéo đến với Ngài. Mấy ngày sau, Đức Giê-su trở lại thành Ca-pha-na-um. Nghe tin Ngài ở nhà, dân chúng kéo về đông đảo đến nỗi ngoài cửa cũng không còn chỗ và Ngài dạy đạo cho họ. Có bốn người khiêng một người bại liệt đến cho Ngài. Vì quá đông họ không thể đến gần, nên dỡ mái nhà ngay trên chỗ Ngài, và khi đã dỡ được một lỗ trống họ dòng cái chõng đưa người bại liệt xuống. Thấy đức tin của họ, Đức Giê-su bảo người bại: “Này con, tội lỗi con đã được tha.” Mấy chuyên gia kinh luật ngồi đó lý luận trong lòng: “Tại sao ông này nói vậy? Phạm thượng quá! Ngoài Đức Chúa Trời không ai có quyền tha tội!” Trong lòng Đức Giê-su nhận biết ngay họ đang lý luận thầm như vậy nên phán: “Tại sao các ông lý luận trong lòng như thế? Bảo rằng: ‘Tội con đã được tha,’ hay là: ‘Hãy đứng dậy mang chõng con về đi,’ điều nào dễ hơn? Nhưng để các ông biết trên đời này Con Người có quyền tha tội, Ngài bảo kẻ bại liệt: ‘Nầy con, hãy đứng dậy mang chõng con về nhà.’” Người bại liệt liền đứng dậy mang chõng đi ra trước mắt mọi người đến nỗi ai nấy đều ngạc nhiên và tôn vinh Đức Chúa Trời: “Chúng ta chưa bao giờ thấy việc như thế này.” Đức Giê-su lại đi ra dọc bờ biển, cả đám đông kéo đến với Ngài và Ngài dạy bảo họ. Thế rồi, đang khi đi, Ngài thấy Lê-vi con An-phê ngồi tại trạm thu thuế, thì bảo: “Hãy theo Ta.” Người đứng dậy theo Ngài. Sau đó Đức Giê-su ngồi ăn tại nhà Lê-vi, có nhiều người thu thuế và những kẻ bị coi là tội nhân cùng ngồi ăn với Ngài và môn đệ, vì nhiều người đã theo Ngài. Các chuyên gia kinh luật thuộc phái Pha-ri-si thấy Ngài ăn chung với những người thu thuế và những kẻ tội lỗi nên nói với các môn đệ Ngài: “Tại sao ông ấy ăn uống chung với bọn thu thuế và kẻ tội lỗi?” Khi nghe điều đó, Đức Giê-su đáp: “Không phải người mạnh khỏe cần thầy thuốc, mà là người đau ốm; Ta đến không phải để kêu gọi người công chính nhưng gọi kẻ tội lỗi.” Đang khi các môn đệ của Giăng và những người Pha-ri-si vẫn giữ lệ kiêng ăn, có người đến hỏi Ngài: “Tại sao môn đệ của Giăng và môn đệ của người Pha-ri-si đều kiêng ăn, còn môn đệ của Thầy lại không?” Đức Giê-su đáp: “Có thể nào các chàng phụ rể kiêng ăn khi chàng rể còn ở với họ? Bao lâu chàng rể còn ở với họ, bấy lâu họ khỏi phải kiêng ăn. Đến khi chàng rể đi rồi, lúc ấy họ mới kiêng. Không ai vá miếng vải mới vào áo cũ, vì miếng vải mới sẽ chằng rách áo cũ, và chỗ rách sẽ càng tệ hơn. Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, nếu vậy rượu sẽ làm nứt bầu, rượu chảy hết mà bầu cũng hỏng. Rượu mới phải đổ vào bầu da mới.” Một ngày Sa-bát kia Đức Giê-su đi ngang qua cánh đồng lúa mì. Trong khi vạch lối đi các môn đệ bứt vài bông lúa. Mấy người Pha-ri-si nói với Ngài: “Kìa! Sao họ dám phạm luật trong ngày Sa-bát?” Ngài đáp: “Các ông chưa bao giờ đọc đến chuyện vua Đa-vít đã làm trong khi vua và đoàn tùy tùng lâm cảnh túng đói sao? Thể nào, vào thời thầy thượng tế A-bi-tha, vua vào nhà thờ Đức Chúa Trời ăn bánh trưng bày trên bàn thờ, là bánh không ai được phép ăn ngoài các thầy tế lễ, và lại còn phân phát cho những người theo mình nữa.” Rồi Ngài bảo họ: “Ngày Sa-bát được thiết lập cho nhân loại chứ không phải nhân loại cho ngày Sa-bát. Thế thì Con Người chính là Chúa của ngày Sa-bát.” Lần khác, Đức Giê-su đi vào hội đường, gặp một người bị teo tay. Họ theo dõi xem Ngài có chữa lành cho người đó trong ngày Sa-bát không để tố cáo Ngài. Ngài bảo người teo tay: “Hãy đứng dậy đến giữa đây.” Rồi Ngài hỏi: “Trong ngày Sa-bát nên làm điều thiện hay điều ác? Cứu người hay giết người?” Nhưng họ đều im lặng. Ngài nhìn mọi người quanh mình, lòng tức giận và buồn phiền vì họ quá nhẫn tâm. Ngài bảo người teo tay: “Hãy duỗi tay ra.” Người duỗi ra, tay được lành lặn. Những người Pha-ri-si bỏ đi ra, liền họp với đảng viên Hê-rốt âm mưu để giết Ngài. Đức Giê-su và các môn đệ rút về phía bờ biển. Một đoàn dân đông từ các miền Ga-li-lê, Giu-đa, Giê-ru-sa-lem, I-đơ-mia, bên kia sông Giô-đanh, miền xung quanh Ty-rơ và Sy-đôn kéo đến cùng Ngài vì họ đã nghe rất nhiều việc Ngài làm. Vì đông người nên Ngài dặn môn đệ chuẩn bị sẵn một chiếc thuyền con phòng khi bị lấn ép. Vì Ngài đã chữa lành nhiều người, nên những người bệnh tật chen lấn cốt để sờ vào Ngài. Mỗi khi tà linh thấy Ngài, chúng đều quỳ xuống trước mặt Ngài, la lớn: “Thầy là Con Đức Chúa Trời.” Nhưng Ngài nghiêm cấm chúng tiết lộ điều đó. Đức Giê-su lên núi, gọi những người Ngài chọn và họ đến với Ngài. Ngài thiết lập Mười Hai Sứ Đồ, cho họ theo bên cạnh Ngài, để Ngài sai đi truyền giảng và ban cho quyền uy đuổi quỷ. Đây là mười hai người Ngài đã lập: Si-môn, Ngài đặt tên là Phê-rơ; Gia-cơ con Xê-bê-đê, và Giăng là em Gia-cơ, Ngài gọi họ là Bô-a-nẹt, nghĩa là con của sấm sét; An-rê, Phi-líp, Ba-thê-lê-mi, Ma-thi-ơ, Thô-ma, Gia-cơ con của An-phê, Tha-đê, Si-môn người thuộc đảng Ca-na-an, và Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, là kẻ phản Ngài. Khi Đức Giê-su về đến nhà, dân chúng lại tụ họp đông đảo, đến nỗi Ngài và môn đệ không thể dùng bữa được. Thân nhân Ngài nghe vậy tìm đến canh chừng Ngài, vì họ bảo rằng Ngài bị quẫn trí. Nhưng các chuyên gia kinh luật từ Giê-ru-sa-lem đến lại nói: “Ông ấy bị quỷ Bê-ên-xê-bun ám và cậy trùm quỷ mà trừ quỷ.” Đức Giê-su kêu họ đến, dùng ngụ ngôn giải thích: “Làm sao Sa-tan có thể trừ Sa-tan được? Một nước tự chia rẽ thì nước ấy không sao đứng vững được, một nhà tự chia rẽ thì sẽ không đứng vững được. Nếu Sa-tan tự chống nghịch và chia rẽ thì không tồn tại được nhưng sẽ bị tiêu diệt. Không ai có thể vào nhà một người mạnh để cướp của mà không trói người mạnh kia trước, phải trói nó trước rồi mới cướp được.” “Ta quả quyết với các ông: Mọi tội lỗi loài người phạm đều có thể tha được, kể cả những lời phạm thượng. Nhưng ai phạm thượng chống Đức Thánh Linh thì sẽ chẳng bao giờ được tha mà phải mắc tội muôn đời.” Sở dĩ Ngài nói như vậy vì họ cho rằng Ngài bị tà linh ám. Mẹ và các em Ngài đến đứng bên ngoài cho người gọi Ngài. Đoàn dân đông ngồi quanh Ngài, họ thưa với Ngài: “Kìa, mẹ và các em Thầy đang ở ngoài kia tìm Thầy.” Ngài đáp: “Ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta?” Rồi Ngài quay lại nhìn những người ngồi chung quanh, mà bảo: “Đây là mẹ Ta và anh em Ta? Vì người nào làm theo ý Đức Chúa Trời đều là anh em, chị em, và mẹ Ta.” Một lần khác, Đức Giê-su khởi sự giảng dạy nơi bờ biển. Một đoàn dân rất đông tụ tập quanh Ngài nên Ngài phải xuống ngồi trên một chiếc thuyền đậu dưới nước, còn cả đám đông ở trên bờ. Ngài dùng ngụ ngôn dạy họ nhiều điều; trong lúc dạy, Ngài bảo họ rằng: “Hãy nghe đây! Một nông dân đi ra gieo giống. Khi gieo, có hạt rơi trên đường mòn, chim đến ăn hết. Hạt khác rơi vào nơi có đá, chỉ có ít đất nên liền mọc ngay. Vì đất không được dày, lúc mặt trời mọc lên, thì bị sém nắng và không có rễ nên phải khô héo. Hạt khác nữa rơi nhằm chỗ gai góc, gai mọc rậm lên làm nghẹt ngòi không kết hạt được. Còn hạt rơi vào nơi đất tốt thì lớn lên, nẩy nở ra và kết quả, một hạt ra ba chục, hạt khác sáu chục, và hạt khác một trăm.” Rồi Ngài bảo: “Ai có tai để nghe, hãy lắng nghe!” Khi còn lại một mình Đức Giê-su, mười hai sứ đồ và những người khác hỏi Ngài về ngụ ngôn ấy. Ngài đáp: “Sự huyền nhiệm Nước Đức Chúa Trời đã được ban cho các con. Nhưng đối với người ngoài thì dùng ngụ ngôn mà dạy mọi sự. Để:‘Họ xem thì vẫn xem mà không thấy,Nghe thì vẫn nghe mà không hiểu,E họ hối cải và được tha tội chăng.’” Rồi Ngài bảo họ: “Các con không hiểu nổi ngụ ngôn này thì làm sao có thể hiểu được tất cả các ngụ ngôn khác? Người gieo giống là người gieo Đạo. Một số người như hạt giống trên con đường mòn, là nơi Đạo được gieo, họ vừa nghe xong liền bị Sa-tan đến cướp lấy Đạo đã gieo trong lòng. Một số người khác như hạt giống nơi có đá, vừa nghe Đạo họ liền vui mừng tiếp nhận. Nhưng trong lòng không có rễ, chỉ tạm bợ, khi gặp hoạn nạn, bắt bớ vì Đạo, họ liền vấp ngã. Một số người khác nữa như hạt giống nơi gai góc, họ nghe Đạo nhưng nỗi lo lắng về đời này, sự quyến rũ của giàu sang, và những dục vọng khác nữa nhập vào lòng khiến Đạo nghẹt ngòi không kết quả được. Còn số người khác như hạt giống nơi đất tốt, nghe Đạo thì nhận lấy và kết quả, một hạt ra ba chục, hạt khác sáu chục và hạt khác nữa một trăm.” Ngài cũng phán dạy: “Có ai thắp đèn lại để dưới cái thùng hoặc dưới gầm giường không? Chẳng phải cái đèn được đặt trên giá đèn sao? Vì chẳng việc gì giấu kín mà lại không để tiết lộ ra, cũng chẳng việc gì giữ bí mật mà không để phơi bày. Nếu ai có tai để nghe, hãy lắng nghe.” Ngài tiếp lời: “Hãy chú tâm đến những điều mình nghe, hễ các con đong đấu nào, thì được đong lại đấu ấy, và còn thêm nữa. Vì ai có sẽ được cho thêm, còn ai không có, sẽ mất luôn cả phần đang có.” Ngài lại bảo: “Nước Đức Chúa Trời cũng ví như một người kia gieo hạt giống xuống đất. Dù ngủ hay thức, dù ngày hay đêm, hạt giống cứ mọc lên, đâm chồi nẩy lộc thể nào người ấy cũng không hay biết. Vì đất tự nó sinh hoa màu, trước hết là cây non, lớn lên trổ hoa, rồi kết hạt. Khi lúa chín, người cho gặt hái ngay vì đã đến mùa thu hoạch.” Ngài lại bảo: “Chúng ta nên ví Nước Đức Chúa Trời với gì, hay nên dùng ngụ ngôn nào để trình bày? Nước Đức Chúa Trời ví như trường hợp hạt cải, lúc gieo xuống đất thì nhỏ hơn hết thảy các loại hạt trên đất. Nhưng khi gieo rồi, hạt mọc thành cây, lớn hơn mọi thứ rau, cành lá sum sê đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới tàn cây.” Ngài dùng nhiều ngụ ngôn như thế để dạy Đạo tùy theo khả năng tiếp nhận của họ. Ngài chẳng dạy họ điều gì mà không dùng ngụ ngôn, nhưng khi ở riêng Ngài giải thích tất cả cho các môn đệ. Chiều hôm ấy, Ngài bảo các môn đệ: “Chúng ta hãy qua bờ bên kia.” Ngài vẫn còn ở dưới thuyền, các môn đệ đưa Ngài đi, tách khỏi đoàn dân, cũng có các thuyền khác cùng theo. Bỗng một cơn bão lớn nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền ngập nước, nhưng Ngài đang ở phía sau lái, dựa gối mà ngủ. Môn đệ đánh thức Ngài dậy: “Thầy ơi, Thầy không lo chúng ta chết cả sao?” Ngài thức dậy, quở gió và bảo biển: “Hãy êm đi, lặng đi!” Gió liền yên, và biển lặng như tờ. Rồi Ngài bảo các môn đệ: “Sao các con sợ đến thế? Không có đức tin sao?” Họ khiếp sợ bảo nhau: “Người là ai mà đến gió và biển cũng vâng lệnh?” Đức Giê-su cùng môn đệ đến bờ biển bên kia thuộc địa phận của người Giê-ra-sê. Một người bị tà linh ám từ nghĩa địa chạy ra đón khi Ngài vừa bước ra khỏi thuyền. Hắn sống nơi mồ mả, dù dùng dây xích cũng không ai xiềng hắn được. Đã nhiều lần bị cùm, bị xích, song hắn bẻ xích phá cùm, chẳng ai trị nổi. Suốt ngày đêm hắn lang thang nơi nghĩa địa và trên đồi hoang, la hét và lấy đá rạch mình. Khi thấy Đức Giê-su từ đằng xa hắn chạy đến quỳ lạy Ngài, kêu lớn lên rằng: “Lạy Đức Giê-su, Con Đức Chúa Trời Chí Cao, tôi có làm gì đến Ngài đâu? Tôi cầu Trời xin Ngài đừng hành hạ tôi;” vì Đức Giê-su vừa bảo rằng: “Hỡi tà linh, hãy xuất khỏi người này.” Rồi Ngài lại hỏi: “Tên mầy là gì?” Quỷ đáp: “Tên tôi là đạo binh, vì chúng tôi đông.” Quỷ nài xin Ngài đừng đuổi chúng ra khỏi vùng ấy. Bấy giờ có đàn heo rất đông đang ăn trên đồi, các quỷ van nài Ngài: “Xin cho chúng tôi đến nhập vào bầy heo kia.” Ngài cho phép. Các tà linh xuất khỏi người bị ám và nhập vào bầy heo ước chừng hai ngàn con, cả bầy lao đầu qua bờ đá, rơi xuống biển chết chìm hết. Những kẻ chăn heo chạy trốn và đồn tin này khắp thành phố và thôn xóm gần đó. Dân chúng đến để xem việc gì đã xảy ra. Khi họ đến cùng Đức Giê-su và thấy người bị quỷ ám đang ngồi đó, quần áo chỉnh tề, tâm trí tỉnh táo, thì sợ hãi. Những người chứng kiến thuật lại cho họ nghe việc đã xảy đến cho người bị quỷ ám và bầy heo. Họ nài xin Ngài lìa khỏi địa phận mình. Khi Ngài bước lên thuyền, người vốn bị quỷ ám xin theo Ngài, nhưng Ngài không cho, lại bảo: “Con hãy về nhà, đến với họ hàng thân thuộc và thuật cho họ nghe mọi việc Đức Chúa Trời đã làm và thương xót con.” Người ấy đi khắp vùng Mười Thành kể lại những việc mà Đức Giê-su đã làm cho mình. Ai nấy đều kinh ngạc. Khi Đức Giê-su đi thuyền qua bờ bên kia, một đoàn dân đông đảo tụ họp đón Ngài dọc theo bờ biển. Viên quản lý hội đường tên là Giai-ru đến, vừa thấy Đức Giê-su; người quỳ xuống nơi chân Ngài. Ông nài xin: “Con gái nhỏ tôi đang hấp hối, xin Thầy đến đặt tay cứu cho nó sống.” Ngài đi với ông, và đoàn dân rất đông kéo theo lấn ép Ngài. Trong đám đông, có một người đàn bà bị xuất huyết đã mười hai năm. Bà đã chịu khổ chạy chữa qua tay nhiều thầy thuốc, tốn hết tiền nhưng bệnh không dứt, lại còn nặng hơn nữa. Nghe nói về Đức Giê-su, bà chen vào đám đông theo sau Ngài để sờ vào áo Ngài. Vì bà tự nhủ: “Tôi mà sờ được áo Ngài, thế nào cũng lành bệnh.” Lập tức máu cầm lại và bà cảm biết mình đã được chữa lành. Đức Giê-su nhận biết ngay có một luồng năng lực vừa ra khỏi Ngài, nên quay lại phía đám đông hỏi: “Ai đã sờ vào áo Ta?” Các môn đệ Ngài thưa rằng: “Thầy thấy đám đông lấn ép mà sao Thầy còn hỏi: Ai sờ đến Ta?” Và Ngài nhìn quanh để xem người đã đụng vào mình. Người đàn bà nhận biết việc đã xảy ra cho mình thì run rẩy, sợ hãi, đến quỳ dưới chân Ngài mà trình bày tất cả sự thật. Ngài bảo bà: “Con ơi, đức tin con đã chữa lành cho con, hãy về bình yên, khoẻ mạnh hết đau yếu.” Ngài còn đang nói, người nhà của Giai-ru, viên quản lý hội đường, đến nói rằng: “Con gái chủ qua đời rồi, còn phiền Thầy làm chi?” Nhưng Đức Giê-su chẳng quan tâm đến lời đó. Ngài bảo viên quản lý hội đường: “Đừng sợ, chỉ tin mà thôi.” Ngài chẳng cho ai theo mình, ngoại trừ Phê-rơ, Gia-cơ và Giăng là em Gia-cơ. Khi đến nhà viên quản lý hội đường, Ngài thấy cả nhà huyên náo, đầy tiếng người khóc lóc, kể lể. Vừa bước vào nhà, Ngài bảo mọi người: “Tại sao lại khóc lóc ồn ào? Cháu không chết đâu, chỉ ngủ mà thôi!” Họ chế nhạo Ngài, nhưng Ngài bảo mọi người lui ra, chỉ cho cha mẹ và các môn đệ theo Ngài vào nơi đứa bé đang nằm. Cầm tay nó, Ngài gọi: “Ta-li-tha-cum,” nghĩa là: “Bé gái ơi, Ta truyền cho con, hãy dậy.” Cô bé liền chổi dậy, bước đi vì đã lên mười hai tuổi. Ai nấy đều sững sờ kinh ngạc vô cùng. Ngài cấm ngặt họ không được tiết lộ việc này cho bất cứ ai và bảo cho cô bé ăn. Đức Giê-su rời khỏi nơi đó trở về quê hương, các môn đệ cùng theo Ngài. Đến ngày Sa-bát, Ngài bắt đầu giảng dạy trong hội đường, nhiều người nghe Ngài giảng nên ngạc nhiên hỏi: “Nhờ đâu ông này được như vậy? Sao ông ấy sáng suốt đến thế? Sao ông ấy có thể làm được những phép lạ như vậy? Ông này chẳng phải là người thợ mộc, con trai bà Ma-ri, anh em với Gia-cơ, Giô-sép, Giu-đa và Si-môn sao? Các em ông ấy chẳng ở giữa vòng chúng ta đây sao?” Vì thế họ bực tức với Ngài. Đức Giê-su bảo họ: “Có tiên tri nào được tôn trọng tại quê hương, giữa vòng bà con, và nhà mình đâu!” Tại đó Ngài không thể làm được việc quyền năng nào, ngoại trừ đặt tay chữa lành một vài người bệnh. Chúa ngạc nhiên vì lòng không tin của họ.Đức Giê-su đi khắp các làng quanh đó giảng dạy. Ngài gọi mười hai môn đệ đến, sai họ đi từng toán hai người và ban cho họ quyền uy trên các tà linh. Ngài truyền bảo họ đừng mang gì theo khi đi đường, ngoại trừ một cây gậy; không lương thực, không túi xách, không một đồng xu giắt lưng, nhưng chỉ mang dép và đừng mặc hai áo choàng. Ngài dặn: “Hễ nhà nào các con vào hãy cứ ở đó cho đến khi ra đi. Nơi nào không tiếp hoặc không chịu nghe lời các con, hãy ra khỏi chỗ đó, phủi bụi nơi chân mình để làm bằng chứng cảnh cáo họ.” Các môn đệ lên đường, truyền giảng Phúc Âm để người ta hối cải. Họ đuổi nhiều quỷ, xức dầu và chữa lành nhiều người bệnh. Vua Hê-rốt nghe đồn về Đức Giê-su vì danh tiếng Ngài đồn ra khắp nơi. Một số người nói: “Giăng chết rồi mà nay sống lại, nên mới làm được những phép lạ ấy.” Một số khác bảo: “Đấy là Ê-li,” một số khác nữa nói: “Đây là một tiên tri cũng như các tiên tri của Chúa.” Nhưng khi nghe vậy, vua Hê-rốt bảo rằng: “Đây chính là Giăng mà ta đã truyền chém, nay sống lại.” Số là vua Hê-rốt đã sai bắt Giăng xiềng vào ngục, vì cớ Hê-rô-đia, vợ của Phi-líp, em vua và vua đã cưới nàng. Vì Giăng đã can vua không nên lấy Hê-rô-đia, vợ Phi-líp, em mình, một việc làm trái luật. Nên bà Hê-rô-đia căm giận muốn giết Giăng nhưng không làm gì được. Vì vua Hê-rốt sợ Giăng, biết ông là người chánh trực và thánh thiện, nên tìm cách bảo vệ ông. Vua rất thích nghe lời Giăng, dù mỗi khi nghe, Vua thường bối rối. Thời cơ đã đến: Nhân lễ sinh nhật, vua Hê-rốt mở tiệc thết triều thần, bá quan văn võ và các thân hào, nhân sĩ miền Ga-li-lê. Con gái bà Hê-rô-đia vào trình diễn một vũ khúc làm vua Hê-rốt và các khách dự tiệc say mê, nên vua bảo nàng rằng: “Con muốn gì, cứ xin trẫm sẽ ban cho.” Vua lại còn thề: “Con xin gì trẫm cũng ban, dù cả nửa giang san cũng được.” Cô gái liền ra hỏi mẹ: “Con nên xin gì đây?” Mẹ cô bảo: “Cái đầu của Giăng Báp-tít.” Cô gái vội vã trở vào, tâu với vua: “Xin bệ hạ cái đầu của Giăng Báp-tít để trên mâm.” Vua rất buồn, nhưng đã lỡ thề trước mặt quan khách nên không thể từ chối. Vua liền sai một đao phủ, truyền đem đầu Giăng đến. Người ấy vào ngục chém đầu Giăng, rồi để đầu trên mâm mà đem cho cô gái, và cô gái trao lại cho mẹ. Hay tin ấy, các môn đệ của Giăng đến lấy thi hài người về chôn cất. Các sứ đồ nhóm họp cùng Đức Giê-su và tường trình cho Ngài mọi điều họ đã thực hiện và dạy. Ngài bảo họ rằng: “Các con hãy lui vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi một chút.” Vì kẻ đi người lại đông đúc, đến nỗi họ không có thì giờ ăn uống. Ngài và các môn đệ lên thuyền đi đến một nơi thanh vắng. Nhiều người thấy vậy và nhận biết chỗ đó nên từ các thành thị kéo nhau chạy bộ tới trước. Vừa ra khỏi thuyền, Ngài thấy đoàn dân đông đúc thì động lòng thương xót, vì họ như chiên không có người chăn. Ngài bắt đầu dạy họ nhiều điều. Trời đã xế chiều, các môn đệ đến thưa với Ngài rằng: “Đây là nơi vắng vẻ và đã gần tối, xin Thầy cho dân chúng về để họ vào các làng xóm quanh đây mua gì để ăn.” Nhưng Ngài đáp: “Chính các con hãy cho họ ăn.” Môn đệ thưa: “Chúng con phải đi mua đến hai trăm đồng đê-na-ri bánh cho họ ăn sao?” Ngài bảo: “Các con đi xem thử ở đây có bao nhiêu bánh?” Khi đã xem xét xong, họ thưa: “Có năm cái bánh và hai con cá.” Ngài truyền cho các môn đệ bảo dân chúng ngồi thành từng nhóm trên cỏ xanh. Họ ngồi xuống từng nhóm, nhóm thì một trăm, nhóm thì năm mươi. Đức Giê-su cầm năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, cảm tạ Đức Chúa Trời rồi bẻ bánh đưa cho các môn đệ để phân phát cho dân chúng, Ngài cũng chia hai con cá cho mọi người. Ai nấy đều ăn no nê. Bánh và cá còn thừa đựng đầy mười hai giỏ. Trong số người ăn có khoảng năm ngàn người đàn ông. Đức Giê-su liền truyền cho các môn đệ lên thuyền, qua phía thành Bết-sai-đa trước, rồi Ngài giải tán dân chúng. Khi họ đã ra về, Ngài lên núi cầu nguyện. Tối đến, thuyền ra giữa biển, còn một mình Ngài trên bờ. Ngài thấy các môn đệ chèo chống vất vả vì gió ngược. Khoảng bốn giờ sáng đêm ấy Ngài đi bộ trên mặt biển đến cùng họ và định vượt qua họ. Các môn đệ thấy Ngài đi trên mặt biển thì tưởng là ma nên kêu la thất thanh, vì ai nấy đều trông thấy và hoảng sợ.Nhưng Ngài liền bảo họ: “Hãy yên tâm, Ta đây, đừng sợ!” Ngài vừa bước lên thuyền với họ thì gió lặng yên. Mọi người đều kinh ngạc, vì họ vẫn không hiểu phép lạ hóa bánh và lòng họ còn cứng cỏi. Qua bờ bên kia, Đức Giê-su và các môn đệ cặp bến Ghê-nê-sa-rết. Vừa ra khỏi thuyền, dân chúng đã nhận biết Ngài. Họ chạy ngược xuôi khắp vùng, hễ nghe Ngài ở đâu thì khiêng những người bệnh nằm trên giường đến đó. Bất cứ nơi nào Ngài đến, dù làng mạc, thành phố hay thôn quê, người ta đều đem người bệnh lại các khu họp chợ và nài xin Ngài cho họ chỉ sờ vào gấu áo Ngài. Bao nhiêu người sờ đến Ngài, đều được lành cả. Có mấy người Pha-ri-si và các chuyên gia kinh luật từ Giê-ru-sa-lem xuống, họp nhau cùng đến gặp Đức Giê-su. Họ thấy vài môn đệ của Ngài dùng bữa nhưng tay không thanh sạch, nghĩa là không rửa tay trước khi ăn. (Người Pha-ri-si và cả dân Do Thái đều không ăn nếu không rửa tay theo tục lệ cổ truyền. Khi ở chợ về, nếu không nhúng hẳn tay vào nước theo lệ thanh sạch, họ cũng không ăn. Họ còn giữ nhiều tục lệ khác như thanh tẩy chén bát, bình đất và đồ đồng.) Nên người Pha-ri-si và các chuyên gia kinh luật chất vấn Ngài: “Tại sao môn-đệ Thầy không giữ lệ của người xưa, dùng tay không thanh sạch mà ăn như thế?” Ngài đáp: “I-sa đã nói tiên tri rất đúng về các ông, những kẻ đạo đức giả rằng:‘Dân này tôn kính Ta bằng môi miệngNhưng lòng chúng nó xa cách Ta. Họ thờ phượng Ta thật vô ích,Dạy giới luật con người như là giáo lý,’ Gạt bỏ điều răn của Đức Chúa TrờiĐể giữ tục lệ của loài người.” Ngài còn thêm rằng: “Các ông đã khéo léo gạt bỏ điều răn của Đức Chúa Trời để giữ tục lệ của mình, vì Môi-se đã nói: ‘Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi’ và ‘ai nguyền rủa cha mẹ thì phải bị xử tử,’ nhưng các ông lại bảo: ‘Một người thưa với cha mẹ rằng những gì mình có để phụng dưỡng cha mẹ thì đã kể là co-ban’ (nghĩa là đã dâng cho Đức Chúa Trời). Các ông không còn cho người ấy báo hiếu cha mẹ nữa. Vì giữ các tục lệ cổ truyền, các ông đã làm cho đạo của Đức Chúa Trời trở thành vô hiệu. Các ông còn làm nhiều điều tương tự khác nữa.” Sau đó Ngài lại gọi dân chúng đến và phán dạy: “Hết thảy hãy lắng nghe Ta và tìm hiểu: Người ta bị ô uế không phải vì những gì từ ngoài vào, nhưng những gì từ trong ra mới làm cho người ô uế. Nếu ai có tai để nghe, hãy lắng nghe.” Khi Ngài rời khỏi đám đông và vào trong nhà, môn đệ hỏi Ngài về ngụ ngôn ấy. Ngài bảo họ: “Đến các con mà cũng không hiểu được à? Sao các con chẳng biết rằng không vật gì từ ngoài vào có thể làm ô uế con người được. Vì nó không vào trong tâm hồn người ta, chỉ xuống bụng rồi bài tiết ra nơi kín đáo.” Như vậy Chúa tuyên bố tất cả thực phẩm đều thanh sạch. Ngài lại tiếp: “Chính điều phát xuất từ tâm địa mới làm cho người bị ô uế, vì từ bên trong, vì từ lòng con người mà ra những ác tưởng, gian dâm, trộm cắp, sát nhân, ngoại tình, tham lam, độc ác, lừa dối, phóng đãng, ganh ghét, phỉ báng, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những việc xấu xa này đều phát xuất từ bên trong và làm ô uế con người.” Sau đó, Ngài rời nơi ấy để vào miền Ty-rơ. Ngài vào một ngôi nhà, không muốn cho ai biết, nhưng không sao giấu được. Vừa nghe Ngài đến, một người đàn bà có con gái nhỏ bị tà linh ám đến quỳ dưới chân Ngài. Bà là người Hy Lạp thuộc sắc dân Sy-ri Phê-ni-xi. Bà van xin Ngài đuổi quỷ ra khỏi con gái mình. Ngài bảo bà rằng: “Hãy để con cái ăn no nê đã, vì không lẽ lấy bánh của con mà ném cho chó con.” Bà thưa: “Lạy Chúa, đúng như vậy, nhưng chó con dưới bàn ăn những miếng bánh vụn của con cái.” Chúa bảo bà: “Bà đã nói thế thì hãy về đi, quỷ đã ra khỏi con gái bà rồi.” Về đến nhà, bà thấy con gái mình đang nằm trên giường và quỷ đã ra khỏi. Đức Giê-su lại rời thành phố miền Ty-rơ đi ngang qua thành Sy-đôn hướng đến vùng biển Ga-li-lê để vào miền Mười Thành. Người ta đem đến cho Ngài một người điếc và ngọng, nài xin Ngài đặt tay chữa trị. Ngài dắt anh ấy ra khỏi đám đông rồi đặt ngón tay vào lỗ tai và nhổ nước miếng thấm vào lưỡi anh. Ngài ngước mắt lên trời, thở dài và bảo người: “Ép-pha-ta!” Nghĩa là: “Hãy mở ra.” Tức thì tai anh mở ra, lưỡi được thong thả và anh nói rõ ràng. Ngài cấm dân chúng không được thuật chuyện đó với ai, nhưng Ngài càng cấm họ lại càng đồn ra. Dân chúng vô cùng ngạc nhiên và nói: “Ngài làm điều gì cũng tốt lành, khiến cả kẻ điếc nghe và người câm nói được.” Trong khoảng thời gian đó, lại có một đoàn dân đông đảo tụ tập và cũng không có gì ăn nên Đức Giê-su gọi các môn đệ đến bảo: “Ta thương xót đoàn dân này vì họ đã ở với Ta ba ngày mà không có gì ăn. Nếu Ta để họ nhịn đói về nhà, chắc họ sẽ ngất xỉu dọc đường vì có một số người từ xa đến.” Các môn đệ thưa: “Trong miền hoang vắng này tìm đâu ra bánh cho họ ăn.” Ngài hỏi: “Các con có mấy cái bánh?” Họ thưa: “Dạ bảy cái.” Ngài truyền cho đoàn dân ngồi xuống đất, rồi lấy bảy cái bánh, cảm tạ Đức Chúa Trời, bẻ ra, đưa cho các môn đệ phân phát cho dân chúng. Họ cũng có vài con cá nhỏ; Ngài ban phước rồi bảo môn đệ đem phân phát. Ai nấy đều ăn no, còn những miếng bánh thừa người ta thu được bảy giỏ. Số người ăn ước chừng bốn ngàn. Rồi Ngài cho họ về, còn Ngài và các môn đệ liền lên thuyền sang vùng Đa-ma-nu-tha. Một số người Pha-ri-si đến tìm cách tranh luận với Ngài, xin Ngài làm một dấu lạ từ trời để thử Ngài. Ngài than thở trong lòng: “Tại sao thế hệ này đòi xem dấu lạ? Ta quả quyết cùng các người, thế hệ này sẽ chẳng được dấu lạ nào.” Rồi Ngài rời họ, lên thuyền trở lại sang bờ bên kia. Các môn đệ quên đem bánh theo, trong thuyền chỉ có một cái bánh. Ngài răn dạy họ: “Hãy thận trọng, đề phòng men của người Pha-ri-si và của đảng Hê-rốt.” Họ bàn cãi với nhau tại mình không có bánh. Biết điều đó, Ngài bảo họ: “Sao các con bàn cãi vì không có bánh? Sao các con còn chưa chịu biết, chưa chịu hiểu mà cứ cứng lòng thế? Sao có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe? Các con chẳng nhớ gì sao? Khi Ta phân phát năm cái bánh cho năm ngàn người, các con thu được bao nhiêu giỏ đầy bánh thừa?” Họ thưa: “Mười hai giỏ!” “Còn khi Ta phân phát bảy cái bánh cho bốn ngàn người, các con thu được bao nhiêu giỏ đầy bánh thừa?” Họ thưa: “Bảy giỏ!” Ngài bảo họ: “Vậy mà các con chưa hiểu sao?” Đức Giê-su và môn đệ vào thành Bết-sai-đa, người ta đem đến cho Ngài một người mù, xin Ngài đặt tay chữa lành. Ngài nắm tay người mù dắt ra khỏi làng, phun nước miếng vào mắt và đặt tay trên người anh rồi hỏi: “Anh có thấy gì không?” Người mù ngước nhìn, và thưa rằng: “Tôi thấy người ta như cây cối đi qua đi lại.” Ngài lại đặt tay trên đôi mắt anh; anh ngước nhìn lên, mắt liền được sáng, thấy rõ mọi vật. Ngài bảo anh về nhà và dặn rằng: “Đừng trở vào trong làng.” Đức Giê-su và các môn đệ đi đến các làng thuộc vùng Sê-sa-rê Phi-líp. Dọc đường, Ngài hỏi: “Người ta nói Ta là ai?” Họ đáp: “Có người nói Thầy là Giăng Báp-tít, người cho là Ê-li, cũng có người bảo là một trong các tiên tri của Chúa.” Ngài lại hỏi: “Còn các con nói Ta là ai?” Phê-rơ thưa rằng: “Thầy là Chúa Cứu Thế.” Ngài nghiêm cấm các môn đệ không được nói cho ai biết về Ngài. Rồi Đức Giê-su bắt đầu dạy họ: “Con Người phải chịu nhiều khốn khổ, sẽ bị các trưởng lão, các thượng tế, các chuyên gia kinh luật khai trừ, giết chết, rồi sau ba ngày sẽ sống lại.” Ngài nói điều này cách công khai; Phê-rơ mời riêng Ngài ra can gián. Nhưng Ngài quay lại nhìn các môn đệ, rồi quở Phê-rơ: “Sa-tan, hãy lui ra sau Ta, vì con không lưu tâm đến việc Đức Chúa Trời, nhưng chỉ nghĩ đến việc loài người.” Sau đó, Đức Giê-su gọi dân chúng và các môn đệ đến truyền dạy rằng: “Nếu ai muốn theo làm môn đệ Ta phải từ bỏ bản thân mình, vác thập tự giá mình mà theo Ta. Vì người nào muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất, nhưng ai vì Ta và Phúc Âm mà mất mạng sẽ cứu được mạng mình. Vì nếu một người được cả thế gian mà mất linh hồn thì ích lợi gì? Vì người sẽ lấy gì để đánh đổi linh hồn mình lại? Vì nếu ai hổ thẹn về Ta và đạo Ta giữa dòng dõi gian dâm tội lỗi này, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn về người đó khi Ngài trở lại trong vinh quang của Cha Ngài với các thiên sứ thánh của Ngài.” Rồi Ngài bảo họ: “Ta quả quyết với các con, một số trong những người đang đứng đây sẽ không chết cho đến khi thấy Nước Đức Chúa Trời thể hiện trong quyền năng.” Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem riêng Phê-rơ, Gia-cơ và Giăng lên một ngọn núi cao, rồi Ngài hóa hình trước mặt họ. Y phục Ngài trở nên sáng chói và trắng tinh, không một ai trên đời có thể làm trắng như vậy. Ê-li và Môi-se hiện ra cùng họ và hầu chuyện với Đức Giê-su. Phê-rơ thưa cùng Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng ta ở đây thật tốt. Chúng con xin dựng ba trại, một cho Thầy, một cho Môi-se và một cho Ê-li.” Phê-rơ không biết mình nói gì, vì họ đều kinh hoàng. Rồi một đám mây kéo đến che phủ họ và từ trong mây có tiếng phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, hãy nghe lời người.” Họ chợt nhìn quanh, nhưng không thấy ai cả, chỉ còn một mình Đức Giê-su. Khi xuống núi, Ngài cấm họ không được nói với ai điều mình vừa thấy, cho đến ngày Con Người từ cõi chết sống lại. Họ vâng giữ lời ấy, nhưng tự hỏi: “Sống lại từ cõi chết” có nghĩa gì? Sau đó các môn đệ hỏi Ngài: “Sao các chuyên gia kinh luật bảo Ê-li phải đến trước?” Ngài đáp: “Thật thế, Ê-li đã đến trước để phục hồi mọi việc. Vậy, sao cũng có chép về Con Người rằng Ngài phải chịu nhiều đau khổ và bạc đãi? Ta cho các con biết: Ê-li đã đến rồi và họ đối xử với người theo ý họ, như Kinh Thánh đã ghi chép về người.” Khi xuống đến chỗ các môn đệ khác, Đức Giê-su và ba môn đệ thấy đoàn dân đông vây quanh, cũng có các chuyên gia kinh luật đang tranh luận với các môn đệ ấy. Vừa thấy Ngài, cả đám đông rất ngạc nhiên chạy đến đón. Ngài hỏi các môn đệ: “Các con đang tranh luận với họ việc gì thế?” Một người trong đám đông lên tiếng: “Thưa Thầy, tôi đem con trai tôi đến với Thầy, nó bị quỷ câm ám. Bất cứ ở đâu quỷ nhập vào là vật nó ngã xuống, làm nó sùi bọt mép, nghiến răng rồi cứng đờ ra. Tôi có xin môn đệ Thầy đuổi quỷ ấy, nhưng họ không trừ nổi.” Ngài đáp: “Thế hệ này sao vô tín quá! Ta phải ở với các người cho đến chừng nào? Ta phải chịu đựng các người cho đến bao giờ? Hãy đem nó đến cho Ta.” Họ đem đứa trẻ đến cùng Ngài. Vừa thấy Ngài, quỷ liền vật nó dữ dội; nó ngã xuống đất lăn lộn, sùi bọt mép. Ngài hỏi cha nó: “Nó bị bệnh thế nầy đã bao lâu rồi?” Người cha thưa: “Từ lúc cháu còn bé, đã nhiều lần quỷ đẩy cháu vào lửa và xô xuống nước để giết cháu. Dù sao, nếu được, xin Thầy thương tình giúp chúng tôi.” Đức Giê-su bảo: “Sao ông lại nói ‘nếu được?’ Ai tin thì mọi việc đều được cả.” Cha đứa bé liền kêu lớn: “Tôi tin, xin Thầy giúp tôi có lòng tin.” Thấy đoàn dân đông chạy đến, Đức Giê-su quở tà linh: “Quỷ câm và điếc kia, Ta truyền cho mầy phải ra khỏi đứa trẻ nầy, không được nhập lại nữa.” Quỷ câm rú lên một tiếng, vật ngã đứa trẻ rồi ra khỏi. Đứa trẻ bất động như chết nên nhiều người nói: “Nó chết rồi!” Nhưng Đức Giê-su cầm tay nó, đỡ dậy nên nó đứng lên. Khi Ngài vào nhà, các môn đồ hỏi riêng Ngài: “Tại sao chúng con không trừ được quỷ ấy?” Ngài bảo họ: “Loại quỷ nầy phải cầu nguyện mới đuổi được.” Từ nơi đó, Đức Giê-su và các môn đệ băng ngang qua xứ Ga-li-lê, Ngài không muốn cho ai biết. Ngài đã dạy các môn đệ rằng: “Con Người sắp bị nộp vào tay người ta, sẽ bị giết và sau khi chết ba ngày, Người sẽ sống lại.” Nhưng các môn đệ không hiểu lời ấy, lại sợ không dám hỏi Ngài. Họ đến thành Ca-pha-na-um, vào nhà rồi, Ngài hỏi họ: “Trên đường, các con tranh luận gì với nhau?” Nhưng họ đều im lặng vì khi đi đường đã tranh luận với nhau ai là người lớn hơn hết. Ngài ngồi xuống, gọi mười hai môn đệ lại và bảo: “Nếu ai muốn làm đầu thì phải làm rốt và phục dịch mọi người.” Ngài đem một em bé để đứng giữa các môn đệ, rồi ôm nó vào lòng bảo: “Nếu ai vì danh Ta tiếp nhận một đứa trẻ như đứa nầy tức là tiếp Ta; còn ai tiếp Ta thì không phải chỉ tiếp Ta nhưng cũng tiếp Đấng đã sai Ta.” Giăng thưa cùng Ngài: “Thưa Thầy, chúng con thấy một người nhân danh Thầy đuổi quỷ, chúng con đã tìm cách ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta.” Nhưng Đức Giê-su đáp: “Đừng ngăn cản vì chẳng có ai nhân danh Ta làm phép lạ lại nói xấu Ta được. Ai không nghịch với chúng ta là thuận với chúng ta. Ai nhân danh Ta cho các con uống một chén nước vì các con thuộc về Chúa Cứu Thế, Ta quả quyết cùng các con, người ấy sẽ không mất phần thưởng của mình đâu.” “Còn ai gây cớ phạm tội cho một trong những đứa trẻ nầy vốn đã tin Ta, tốt hơn hãy buộc cối đá vào cổ người ấy mà quăng xuống biển. Còn nếu tay con gây cho con phạm tội, hãy chặt nó đi; thà cụt một tay mà được sự sống còn hơn là đủ cả hai tay mà phải vào hỏa ngục, trong lửa chẳng hề tắt. (Nơi đó sâu bọ sẽ chẳng hề chết và lửa sẽ không hề tắt.) Còn nếu chân con gây cho con phạm tội, hãy chặt nó đi; thà cụt một chân mà được sự sống còn hơn là đủ hai chân mà bị quăng vào hỏa ngục. (Nơi đó sâu bọ sẽ chẳng hề chết và lửa sẽ không hề tắt.) Còn nếu mắt con gây cho con phạm tội, hãy móc đi; thà bị chột mắt mà vào Nước Đức Chúa Trời còn hơn là đủ hai mắt mà bị quăng xuống hỏa ngục, là nơi sâu bọ chẳng hề chết và lửa không hề tắt. Vì mỗi người sẽ bị muối bằng lửa. Muối vốn tốt lành, nhưng nếu mất chất mặn đi, các con lấy gì làm cho mặn lại? Hãy có muối trong mình và sống hòa bình với nhau.” Từ nơi đó, Đức Giê-su đi vào vùng đất Giu-đê phía bên kia sông Giô-đanh. Đoàn dân đông lại họp nhau đến với Ngài, và như thường lệ Ngài dạy dỗ họ. Các người Pha-ri-si đến hỏi như vầy để gài bẫy Ngài: “Đàn ông có được phép ly dị vợ không?” Ngài đáp: “Môi-se truyền dạy các ông điều gì?” Họ thưa: “Môi-se cho phép viết giấy ly dị để bỏ vợ.” Đức Giê-su bảo họ: “Chính vì lòng các ông chai lì nên người đã viết cho các ông điều luật đó. Nhưng từ lúc ban đầu trong cuộc sáng tạo, Đức Chúa Trời đã dựng nên một nam và một nữ. Vì thế người nam phải lìa cha mẹ mình để kết hợp với vợ, và cả hai sẽ trở nên một thân. Như vậy họ không còn là hai nữa mà là một thân. Thế thì, khi Đức Chúa Trời đã kết hợp, loài người đừng phân rẽ.” Khi vào nhà, các môn đệ lại hỏi Ngài về việc ấy. Ngài trả lời: “Người nào bỏ vợ để cưới người khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ. Còn nếu đàn bà bỏ chồng để lấy chồng khác thì cũng phạm tội ngoại tình.” Người ta đem trẻ con đến cùng Đức Giê-su để Ngài đặt tay trên chúng nhưng các môn đệ khiển trách họ. Thấy vậy, Đức Giê-su bất bình nên bảo: “Hãy để con trẻ đến cùng Ta, đừng ngăn cản chúng, vì Nước Đức Chúa Trời thuộc về những ai giống như các con trẻ đó. Ta nói thật cùng các con, ai không tiếp nhận Nước Đức Chúa Trời như một trẻ thơ thì chẳng được vào đó.” Rồi Ngài ôm các con trẻ vào lòng, đặt tay ban phước cho chúng. Khi Ngài vừa lên đường có một người chạy đến quỳ trước mặt Ngài và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được hưởng sự sống vĩnh phúc?” Ngài bảo người: “Tại sao anh gọi Ta là nhân lành, không có ai nhân lành trừ một mình Đức Chúa Trời. Anh đã biết các điều răn: ‘Đừng giết người, đừng ngoại tình, đừng ăn cắp, đừng làm chứng dối, đừng lường gạt, phải hiếu kính cha mẹ.’” Người ấy đáp: “Thưa Thầy, tôi đã giữ những luật nầy từ khi còn nhỏ.” Đức Giê-su nhìn anh, thấy thương và bảo: “Anh còn thiếu một điều, hãy đi bán hết những gì anh có đem cho kẻ nghèo, anh sẽ có kho tàng trên trời, rồi hãy đến theo Ta.” Khi nghe như vậy, mặt mày người ủ rũ, buồn rầu bỏ đi vì người có nhiều tài sản lắm. Đức Giê-su nhìn quanh và bảo các môn đệ: “Người giàu rất khó vào Nước Đức Chúa Trời!” Các môn đệ ngạc nhiên khi nghe những lời ấy nên Ngài nhắc lại: “Hỡi các con, vào Nước Đức Chúa Trời thật là khó! Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Đức Chúa Trời.” Các môn đệ quá ngạc nhiên, thưa cùng Ngài: “Như thế thì ai có thể được cứu?” Đức Giê-su nhìn họ bảo: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng với Đức Chúa Trời thì khác, vì Đức Chúa Trời làm được mọi sự.” Phê-rơ phân trần: “Thưa Thầy, chúng con đã từ bỏ tất cả để theo Thầy.” Đức Giê-su đáp: “Ta quả quyết cùng các con, không một người nào vì Ta và Phúc Âm từ bỏ gia đình, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, ruộng đất, mà chẳng lãnh được trong đời này gấp trăm lần nhà cửa, anh em, chị em, mẹ con và ruộng đất, cùng sự bắt bớ và sự sống vĩnh phúc. Nhưng nhiều người ở hàng đầu sẽ xuống cuối và người cuối sẽ lên đầu.” Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi trước dẫn đầu họ. Các môn đệ ngạc nhiên, và những kẻ tháp tùng thì sợ hãi. Ngài đem mười hai sứ đồ riêng ra mà nói cho họ những việc sẽ xảy đến cho mình. Ngài bảo: “Nầy, chúng ta lên Giê-ru-sa-lem, và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và các chuyên gia kinh luật, họ sẽ lên án xử tử Người và nộp cho dân ngoại quốc. Họ sẽ chế nhạo, nhổ trên Người, đánh đập và giết Người đi. Ba ngày sau Người sẽ sống lại.” Gia-cơ và Giăng, hai con trai của Xê-bê-đê, đến cùng Đức Giê-su mà thỉnh cầu: “Thưa Thầy, chúng con mong ước Thầy ban cho những điều chúng con cầu xin.” Ngài hỏi: “Các con muốn Ta làm điều gì cho các con?” Họ thưa: “Khi Thầy được hiển vinh xin cho chúng con một đứa ngồi bên phải, một đứa ngồi bên trái Thầy.” Nhưng Đức Giê-su bảo họ: “Các con không biết điều mình xin. Các con có thể uống được chén Ta phải uống và chịu được báp-tem mà Ta phải chịu không?” Họ trả lời: “Thưa được.” Đức Giê-su bảo họ: “Chén Ta uống các con sẽ uống, báp-tem Ta chịu các con sẽ chịu; nhưng ngồi bên phải hay bên trái của Ta thì không tự Ta cho được. Địa vị đó đã dành cho người được chuẩn bị trước.” Mười môn đệ kia nghe được điều đó thì giận Gia-cơ và Giăng. Đức Giê-su gọi họ đến mà bảo: “Các con biết những kẻ được coi là người cai trị của dân ngoại thì thống trị dân, còn các quan lớn thì dùng quyền thế để cai trị. Nhưng giữa vòng các con thì không phải vậy, vì ai muốn làm lớn phải làm tôi tớ các con. Còn ai muốn làm đầu trong các con, thì phải làm nô lệ cho mọi người. Vì Con Người đã đến không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến dâng mạng sống mình làm giá chuộc nhiều người.” Họ đến Giê-ri-cô. Khi Đức Giê-su và môn đệ cùng đoàn dân rời Giê-ri-cô, một người mù tên Ba-ti-mê, con trai của Ti-mê đang ngồi ăn xin bên đường. Nghe nói đó là Giê-su người Na-xa-rét thì anh ấy kêu lên: “Đức Giê-su, Con vua Đa-vít, xin thương xót con!” Nhiều kẻ quở mắng anh ấy, bảo phải im lặng, nhưng anh càng kêu lớn hơn nữa: “Lạy Con vua Đa-vít, xin thương xót con!” Đức Giê-su dừng lại, bảo: “Gọi người ấy đến đây.” Họ kêu người mù và bảo: “Hãy yên tâm, đứng dậy, Thầy gọi anh đó.” Anh bật dậy, vứt áo và đến cùng Đức Giê-su. Ngài hỏi: “Anh muốn Ta giúp điều gì?” Người mù thưa: “Thưa Thầy, con muốn sáng mắt trở lại!” Ngài bảo: “Hãy đi đi, đức tin của anh đã chữa lành anh.” Lập tức anh ấy thấy được và đi theo Ngài. Khi họ gần đến Bết-pha-giê và Bê-tha-ni tại núi Ô-liu gần thành Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su sai hai môn đệ đi trước, và dặn rằng: “Hãy vào làng đối diện các con, vừa đến nơi các con sẽ thấy một con lừa con chưa ai cưỡi đang cột tại đó. Hãy mở ra và dắt về đây. Nếu có ai hỏi: ‘Tại sao các anh làm vậy?’ Hãy bảo họ: ‘Chúa cần dùng nó, rồi sẽ trả lại đây ngay.’” Họ đi và thấy một con lừa con đang cột trước cửa một căn nhà bên đường. Họ mở lừa ra. Vài người trong số người đứng đó hỏi: “Các anh mở lừa con nầy làm gì?” Hai môn đệ trả lời như Đức Giê-su đã dặn, thì người ta để cho họ đi. Họ đem lừa về cho Đức Giê-su, trải áo mình trên nó, rồi Ngài ngồi lên. Nhiều người trải áo mình trên đường, người khác trải lá cây vừa chặt ngoài đồng. Người đi trước, kẻ theo sau đều tung hô:“Hô-sa-na!Phước cho Đấng nhân danh Chúa mà đến! Phước cho vương quốc sắp đến của vua Đa-vít, tổ phụ chúng ta!Hô-sa-na trên nơi chí cao!” Đức Giê-su đến Giê-ru-sa-lem, đi vào đền thờ và quan sát mọi vật chung quanh. Lúc ấy trời đã tối nên Ngài và mười hai môn đệ đi về Bê-tha-ni. Ngày hôm sau, khi họ rời làng Bê-tha-ni, Đức Giê-su cảm thấy đói. Từ xa Ngài thấy một cây vả đầy lá nên đến tìm xem thử có trái nào không, nhưng khi đến nơi Ngài chỉ thấy lá vì lúc ấy chưa phải là mùa vả. Đức Giê-su bảo cây vả rằng: “Từ nay về sau sẽ không một ai ăn trái của mầy nữa.” Và các môn đệ Ngài đều nghe lời ấy. Họ đến Giê-ru-sa-lem, khi vào đền thờ Đức Giê-su bắt đầu đuổi những người mua bán trong đền thờ. Ngài lật đổ bàn của bọn đổi tiền và ghế của những kẻ bán bồ câu. Ngài cấm không cho ai đem đồ vật qua lại trong đền thờ. Rồi Ngài truyền dạy họ: “Không phải Kinh Thánh đã chép rằng:‘Nhà Ta sẽ gọi làNhà cầu nguyện cho mọi dân tộc sao?’ Nhưng các ngươi đã biến thành hang trộm cướp!” Các thượng tế và các chuyên gia kinh luật nghe được điều nầy thì tìm cách diệt Ngài vì họ sợ Ngài, bởi cả đoàn dân ngưỡng mộ sự giáo huấn của Ngài. Tối đến, Đức Giê-su và các môn đệ rời khỏi thành phố. Sáng hôm sau, khi đi ngang qua đó, họ thấy cây vả đã chết khô đến tận rễ. Phê-rơ nhớ lại nên thưa cùng Đức Giê-su: “Thưa Thầy xem kìa, cây vả mà Thầy quở đã chết khô rồi.” Đức Giê-su trả lời: “Hãy có đức tin nơi Đức Chúa Trời. Thật, Ta nói cùng các con, ai bảo ngọn núi nầy: Hãy cất lên và ném xuống biển mà lòng không chút nghi ngờ, nhưng tin những gì mình nói sẽ xảy ra thì sẽ đạt được. Vì thế, Ta bảo các con, bất cứ điều gì các con cầu nguyện và nài xin, hãy tin mình đã được thì các con sẽ được như vậy. Khi đang đứng cầu nguyện, nếu có điều gì bất bình với ai, các con hãy tha thứ, để Cha các con trên trời cũng tha thứ lỗi lầm cho các con. Nếu các con không tha lỗi cho người khác, thì Cha các con ở trên trời cũng không tha thứ những lỗi lầm cho các con.” Họ lại lên Giê-ru-sa-lem. Khi Đức Giê-su đang đi trong đền thờ, các thượng tế, các chuyên gia kinh luật, và các trưởng lão đến hỏi Ngài: “Bởi thẩm quyền nào Thầy làm những việc này? Ai cho Thầy thẩm quyền để có thể làm những việc đó?” Đức Giê-su trả lời: “Ta hỏi các ông một câu, các ông hãy trả lời cho Ta, rồi Ta sẽ tỏ cho các ông rõ bởi thẩm quyền nào Ta làm những việc nầy: ‘Giăng nhận thẩm quyền làm phép báp-tem từ trời, hay từ người? Hãy trả lời cho Ta.’” Họ bàn luận với nhau: “Nếu chúng ta trả lời ‘từ Đức Chúa Trời’ thì người sẽ nói: ‘Vậy tại sao các người không tin lời Giăng?’ Nhưng chúng ta không thể nói: ‘Từ người?’ (Họ sợ dân chúng, vì mọi người đều tin rằng Giăng chính là vị tiên tri.) Nên họ trả lời Ngài: ‘Chúng tôi không biết.’” Đức Giê-su bảo: “Ta cũng sẽ không nói cho các người bởi thẩm quyền nào Ta làm những việc nầy.” Bấy giờ Đức Giê-su bắt đầu dùng ngụ ngôn nói với họ: “Một người kia trồng một vườn nho, dựng rào chung quanh, đào hầm ép rượu, và xây một tháp canh. Người ấy giao cho các tá điền rồi đi xa. Đến mùa nho, chủ vườn sai một đầy tớ đến cùng các tá điền để thâu phần hoa lợi. Nhưng các tá điền bắt đầy tớ ấy đánh đập rồi đuổi về tay không. Chủ vườn sai một đầy tớ khác, các tá điền nhục mạ và đánh nó bể đầu. Chủ sai một đầy tớ khác nhưng bị chúng giết chết và nhiều người khác nữa, kẻ thì bị chúng đánh đập, người bị chúng giết đi. Cuối cùng, còn lại con trai yêu dấu của mình, chủ sai con đến cùng họ, tự nhủ: ‘Chúng sẽ kính nể con ta.’ Nhưng bọn tá điền bàn với nhau: ‘Đây là con thừa tự, hãy giết nó đi thì tài sản nầy sẽ về tay chúng ta.’ Chúng bắt người con trai, giết đi và ném thây ra ngoài vườn nho. Vậy, chủ vườn nho sẽ làm gì? Người sẽ đến diệt bọn chúng và giao vườn cho những tá điền khác. Các ông chưa đọc lời Kinh Thánh nầy sao?‘Viên đá bị thợ nề loại bỏ,Lại trở thành phiến đá đầu góc nhà; Chúa đã làm điều này,Và là việc kỳ diệu trước mắt chúng ta.’” Các lãnh tụ Do Thái tìm cách bắt Ngài, vì họ biết Ngài kể ngụ ngôn nầy để ám chỉ họ, nhưng vì sợ dân chúng nên bỏ Ngài mà đi. Vài người Pha-ri-si và đảng viên Hê-rốt được sai đến để gài bẫy Đức Giê-su trong lời nói của Ngài. Họ đến hỏi Ngài: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật, không vị nể ai, vì Thầy không xem bề ngoài của người ta, nhưng trung thực dạy đường lối của Đức Chúa Trời. Xin Thầy cho biết nộp thuế cho Sê-sa đúng hay là không đúng? Chúng tôi có nên nộp thuế hay không?” Nhận biết dã tâm của họ, Ngài đáp: “Tại sao các ông thử Ta? Hãy đem cho Ta xem một đồng tiền.” Họ đem đến cho Ngài một đồng tiền. Ngài hỏi: “Hình và hiệu nầy của ai?” Họ đáp: “Của Sê-sa.” Ngài bảo: “Những gì của Sê-sa hãy trả cho Sê-sa, những gì của Đức Chúa Trời hãy trả cho Đức Chúa Trời.” Và họ ngạc nhiên về Ngài. Các người thuộc phái Sa-đu-sê là những người cho rằng không có sự sống lại, đến hỏi Đức Giê-su: “Thưa Thầy, Môi-se đã viết cho chúng tôi rằng nếu một người chết để vợ lại nhưng không có con, người em trai phải cưới người vợ góa để có con nối dõi cho anh. Có bảy anh em kia, anh cả cưới vợ rồi chết nhưng không có con. Người em trai kế lấy người vợ góa đó, rồi cũng chết không con. Người thứ ba cũng vậy. Cả bảy người không ai để lại đứa con nào. Cuối cùng, người đàn bà cũng chết. Trong ngày phục sinh, khi họ sống lại, nàng sẽ là vợ của ai? Vì cả bảy anh em đều đã lấy nàng làm vợ.” Đức Giê-su bảo: “Các ông lầm rồi! Các ông vẫn chưa hiểu Kinh Thánh và quyền năng của Đức Chúa Trời sao? Khi những kẻ chết sống lại sẽ không còn cưới vợ, lấy chồng nhưng giống như thiên sứ trên trời. Về việc kẻ chết sống lại, các ông không đọc kinh sách Môi-se nói về bụi gai, thế nào Đức Chúa Trời đã bảo ông: ‘Ta là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác, và Đức Chúa Trời của Gia-cốp sao?’ Ngài là Đức Chúa Trời của người sống, chứ không phải của kẻ chết. Các ông lầm to.” Một trong các chuyên gia kinh luật đến đó nghe họ tranh luận và thấy Ngài trả lời rất hay, nên hỏi Ngài: “Trong tất cả các điều răn, điều nào lớn nhất?” Đức Giê-su đáp: “Đây là điều lớn nhất: ‘Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy lắng nghe! Chúa, Đức Chúa Trời chúng ta là Chúa duy nhất. Ngươi phải hết lòng, hết linh hồn, hết trí, hết sức mà yêu kính Chúa là Đức Chúa Trời ngươi.’ Đây là điều răn thứ hai: ‘Hãy yêu thương người khác như chính mình.’ Không có điều răn nào lớn hơn hai điều nầy.” Chuyên gia kinh luật nói cùng Ngài: “Thưa Thầy, Thầy nói đúng, chỉ có một Đức Chúa Trời, ngoài ra không có Đấng nào khác. Còn yêu kính Chúa hết lòng, hết trí, hết sức và yêu thương người khác như mình quan trọng hơn là dâng các tế lễ thiêu và mọi tế lễ khác.” Thấy người ấy trả lời khôn ngoan, Đức Giê-su bảo rằng: “Ông không xa Nước Đức Chúa Trời đâu!” Không còn ai dám chất vấn Ngài nữa. Khi giảng dạy trong đền thờ, Đức Giê-su hỏi: “Tại sao các chuyên gia kinh luật lại nói rằng Chúa Cứu Thế là con vua Đa-vít? Chính Đa-vít bởi Đức Thánh Linh nói rằng:‘Chúa phán cùng Chúa tôi:Hãy ngồi bên phải Ta,Cho đến khi Ta đặt kẻ thù conDưới chân con.’ Chính Đa-vít xưng Ngài bằng Chúa, lẽ nào Chúa Cứu Thế lại là con của vua?” Đám đông nghe Ngài cách thích thú. Đang khi dạy dỗ, Ngài bảo: “Hãy coi chừng các chuyên gia kinh luật là những kẻ thích mặc áo thụng đi đây đó, và thích được cúi chào giữa chợ, muốn dành ghế chính trong các hội đường và chỗ danh dự trong các đám tiệc. Họ chiếm đoạt nhà của những người góa bụa và làm bộ đọc những lời cầu nguyện dài. Họ sẽ bị hình phạt nặng hơn.” Đức Giê-su ngồi đối diện rương đựng tiền dâng, Ngài quan sát cách những người đến bỏ tiền vào rương. Lắm người giàu có bỏ rất nhiều tiền, cũng có một bà góa nghèo đến dâng hai đồng tiền nhỏ, trị giá một xu. Ngài gọi các môn đệ đến và bảo họ: “Thật, Ta nói cùng các con, bà góa nghèo nầy đã bỏ vào thùng nhiều hơn hết thảy những người khác. Vì mọi người lấy phần dư để đem dâng, còn bà góa nghèo nầy đã dâng tất cả những gì mình có, là tất cả những gì bà ấy có để sống.” Khi Đức Giê-su rời đền thờ, một môn đệ thưa với Ngài: “Thưa Thầy, xem kìa, các khối đá khổng lồ và những công trình kiến trúc vĩ đại quá!” Đức Giê-su bảo: “Con có thấy những công trình kiến trúc to lớn đó không? Rồi sẽ không còn một khối đá nào chồng trên khối đá nào mà không bị đổ xuống.” Khi Ngài đang ngồi trên núi Ô-liu đối diện với đền thờ thì Phê-rơ, Gia-cơ, Giăng và An-rê đến hỏi riêng Ngài: “Xin Thầy nói cho chúng con biết khi nào những việc đó sẽ xảy đến và có dấu hiệu gì cho biết khi nào mọi việc đó hoàn tất.” Đức Giê-su bắt đầu bảo họ: “Hãy coi chừng, đừng để ai lừa gạt các con. Có nhiều người sẽ mạo danh Ta đến nói rằng: ‘Chính Ta là Đấng đó’ và họ sẽ lừa gạt nhiều người. Khi các con nghe về chiến tranh và tin đồn về chiến tranh thì đừng hoảng hốt, điều nầy phải xảy đến nhưng chưa phải là tận thế. Dân nầy sẽ nổi lên chống dân khác, nước nọ sẽ chống nước kia, nhiều nơi sẽ có động đất, sẽ có đói kém, đó chỉ là khởi đầu của cơn đau chuyển bụng. Chính các con phải coi chừng. Các con sẽ bị nộp cho các hội đồng, bị đánh đập trong các hội đường và vì Ta, các con sẽ phải đứng trước các thống đốc và vua để làm chứng. Nhưng trước đó Phúc Âm phải được truyền giảng cho muôn dân. Khi họ dẫn các con đi nộp, đừng lo trước những điều mình sẽ nói, nhưng hãy nói những gì các con được ban cho trong giờ đó, vì những điều các con nói không phải do các con nhưng bởi Đức Thánh Linh. Anh sẽ nộp em để bị giết, cha nộp con và con cái nổi lên chống cha mẹ làm cho cha mẹ bị giết. Vì danh Ta, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai kiên trì cho đến cuối cùng sẽ được cứu. Nhưng khi các con thấy sự tàn phá ghê tởm xảy ra nơi không nên xảy ra (ai đọc phải hiểu), thì ai ở trong miền Giu-đê phải trốn lên núi, ai ở trên mái nhà đừng xuống, cũng đừng vào nhà để lấy vật gì; ai ở ngoài đồng cũng đừng quay lại lấy áo. Khốn khổ cho những người đang mang thai và những ai có con thơ còn bú trong những ngày ấy. Hãy cầu xin cho việc nầy đừng xảy ra vào mùa đông. Vào những ngày đó sẽ có hoạn nạn mà từ thuở ban đầu, tức từ lúc Đức Chúa Trời sáng tạo vũ trụ cho đến bây giờ chưa hề có như vậy, và sẽ không bao giờ xảy ra nữa. Nếu Chúa không giảm bớt các ngày ấy, không còn một ai sống sót. Nhưng vì cớ những người được chọn, là những người Ngài đã chọn, Ngài đã giảm các ngày ấy. Lúc bấy giờ, nếu có ai bảo các con: ‘Chúa Cứu Thế đây nầy!’ hay ‘Kìa Ngài ở đó!’ thì đừng tin. Vì sẽ có những Chúa Cứu Thế giả và tiên tri giả nổi lên, làm dấu lạ phép mầu để lừa dối, nếu có thể được, ngay cả những người được chọn. Hãy coi chừng vì Ta đã báo trước mọi điều đó cho các con. Trong những ngày ấy, sau cơn hoạn nạn,Mặt trời sẽ tối,Mặt trăng sẽ hết sáng, Các ngôi sao từ trời sẽ rơi xuốngVà những quyền năng trên không trung bị rúng động. Bấy giờ người ta sẽ thấy Con Người ngự đến giữa các đám mây với vinh quang và quyền năng vĩ đại, rồi Ngài sẽ sai thiên sứ đi tập họp những người được chọn lựa khắp bốn phương, từ chân trời đến góc biển. Hãy học bài học nơi cây vả: khi cây đâm chồi nẩy lộc, thì các con biết gần đến mùa hè. Cũng vậy, khi các con thấy những điềm nầy xảy ra thì biết rằng Ngài đã đến gần nơi ngưỡng cửa. Ta nói thật cùng các con, thế hệ nầy sẽ không qua đi trước khi những việc đó xảy đến. Trời đất sẽ qua đi nhưng những lời Ta phán sẽ không bao giờ qua đâu.” Về ngày hay giờ ấy không ai biết được, ngay cả thiên sứ trên trời lẫn Con cũng vậy, ngoại trừ Cha. Hãy coi chừng, hãy tỉnh thức vì các con không biết khi nào giờ đó sẽ đến. Cũng như một người kia lên đường đi xa, khi rời nhà, người giao quyền cho các đầy tớ cai quản công việc nhà, chia cho mỗi người một việc và dặn người gác cửa canh chừng. Vậy hãy thức canh, vì các con không biết khi nào chủ nhà đến, hoặc chiều tối, lúc nửa đêm, khi gà gáy hay ban mai, kẻo khi chủ về bất ngờ, bắt gặp các con đang ngủ. Những gì Ta bảo các con, Ta cũng bảo cho mọi người: “Hãy tỉnh thức!” Hai ngày trước lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men, các thượng tế và các chuyên gia kinh luật lập mưu để bắt giết Đức Giê-su. Họ bàn rằng: “Không nên làm trong kỳ lễ, kẻo gây náo động trong dân chúng.” Tại Bê-tha-ni, trong nhà của Si-môn, một người phung, Đức Giê-su đang ngồi tại bàn ăn, một phụ nữ mang đến một bình ngọc đựng dầu cam tùng nguyên chất rất đắt tiền, đập bình ra, đổ dầu thơm xức đầu Ngài. Nhưng có mấy người tức giận nói với nhau: “Sao lại phí dầu thơm như vậy? Dầu nầy có thể đem bán được hơn ba trăm đồng đê-na-ri để cho kẻ nghèo,” rồi họ trách người phụ nữ. Nhưng Đức Giê-su bảo: “Hãy để mặc bà, tại sao các con làm phiền bà ấy? Bà đã làm một việc tốt đẹp cho Ta. Vì các con vẫn có người nghèo ở với mình luôn và khi muốn, các con có thể làm phước cho họ, nhưng các con không có Ta mãi. Bà đã làm điều mình có thể làm, đã xức dầu thân thể Ta trước để mai táng. Thật Ta bảo các con, khắp thế giới hễ nơi nào Phúc Âm được truyền giảng, việc bà đã làm cũng sẽ được nhắc lại để tưởng nhớ người.” Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, một trong mười hai sứ đồ, đến gặp các thượng tế để phản nộp Đức Giê-su. Nghe vậy họ mừng lắm và hứa cho Giu-đa tiền bạc, còn Giu-đa tìm dịp phản nộp Ngài. Ngày đầu tiên của kỳ lễ Bánh Không Men, khi người ta dâng tế chiên con lễ Vượt Qua, các môn đồ thưa với Đức Giê-su: “Thầy muốn chúng con đi sửa soạn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?” Ngài sai hai môn đồ đi và dặn họ: “Hãy vào trong thành, một người xách vò nước sẽ gặp các con, hãy theo người, và khi người vào nhà nào, các con hãy nói cùng chủ nhà ấy: ‘Thầy hỏi: Phòng dành cho khách để Ta ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ Ta ở đâu?’ Người sẽ chỉ cho các con một phòng rộng trên lầu đã được sắp đặt sẵn. Hãy dọn cho chúng ta tại đó.” Các môn đệ đi vào thành, gặp mọi điều như Ngài đã nói, và họ sửa soạn cho lễ Vượt Qua. Chiều tối, Ngài cùng đến với mười hai sứ đồ. Khi đang ngồi ăn, Đức Giê-su bảo họ: “Ta nói thật cùng các con, một người trong vòng các con, là người đang ăn với Ta, sẽ phản bội Ta.” Họ buồn rầu, từng người một hỏi Ngài: “Thưa Thầy, không phải con chứ?” Ngài nói với họ: “Ấy là một trong mười hai người, người chấm vào cùng đĩa với Ta. Vì Con Người đi như lời Kinh Thánh đã chép về Ngài, nhưng khốn thay cho kẻ phản bội Con Người! Thà nó đừng sinh ra thì hơn.” Đang khi ăn, Đức Giê-su lấy bánh, chúc phước, bẻ ra và đưa cho các môn đệ. Ngài bảo: “Hãy nhận lấy, đây là thân thể Ta.” Ngài cũng lấy chén, tạ ơn rồi trao cho họ, và tất cả đều uống. Ngài nói: “Đây là huyết giao ước đổ ra cho nhiều người. Thật, Ta nói cùng các con, Ta sẽ không uống nước nho nầy nữa cho đến ngày Ta uống nước nho mới trong Nước Đức Chúa Trời.” Sau khi đã hát thánh ca Đức Giê-su và các môn đệ đi ra để lên núi Ô-liu. Đức Giê-su bảo các môn đệ: “Tất cả các con đều sẽ vấp ngã, như lời Kinh Thánh đã chép:‘Ta sẽ đánh người chănThì chiên sẽ bị tan lạc.’ Nhưng sau khi Ta sống lại, Ta sẽ đi đến Ga-li-lê trước các con.” Phê-rơ thưa với Ngài: “Dù mọi người sẽ vấp ngã, nhưng con sẽ không.” Đức Giê-su bảo ông: “Thật, Thầy bảo con, đêm nay trước khi gà gáy hai lần, con sẽ chối Ta ba lần.” Nhưng Phê-rơ càng quả quyết: “Dù phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy đâu.” Tất cả các môn đệ đều nói như vậy. Họ đi đến một chỗ gọi là Ghết-sê-ma-nê, rồi Ngài bảo các môn đệ: “Các con hãy ngồi đây, trong khi Ta cầu nguyện.” Ngài đem Phê-rơ, Gia-cơ và Giăng theo và bắt đầu kinh hãi, sầu não. Ngài bảo họ: “Linh hồn Ta đau buồn cho đến chết, hãy đợi ở đây và thức canh.” Ngài đi xa thêm một quãng, sấp mình xuống đất và cầu nguyện rằng: Nếu có thể được, xin cho giờ nầy qua khỏi con. Ngài thưa: “A-ba, Cha, mọi sự Cha có thể làm được, xin cất chén nầy khỏi con; nhưng không theo ý con, mà theo ý Cha.” Ngài trở lại thấy họ đang ngủ, nên bảo Phê-rơ: “Si-môn, ngủ rồi ư? Con không thể thức được một giờ sao? Phải tỉnh thức và cầu nguyện để các con khỏi sa vào sự cám dỗ, vì tâm linh thì mong muốn nhưng thể xác lại yếu đuối.” Ngài lại đi và cầu nguyện như trước. Ngài trở lại thấy họ đang ngủ vì mắt họ nặng trĩu và họ không biết trả lời Ngài thế nào. Ngài trở lại lần thứ ba và bảo họ: “Các con còn ngủ và nghỉ ngơi sao? Đủ rồi! Đã đến giờ Con Người bị nộp vào tay kẻ có tội. Đứng dậy, chúng ta đi! Kìa, kẻ phản Ta đã đến.” Ngay khi Ngài còn đang nói, Giu-đa, là một trong số mười hai sứ đồ, đến cùng với một đám đông cầm gươm và gậy do các thượng tế, chuyên gia kinh luật và các trưởng lão sai đến. Kẻ phản bội cho họ một dấu hiệu này: “Hễ tôi hôn ai, chính là người đó, hãy bắt lấy và dẫn đi cho cẩn thận.” Vừa đến, Giu-đa lập tức tới gần Ngài và nói: “Chào Thầy!” rồi hôn Ngài. Chúng ra tay bắt Ngài. Một trong những người đứng đó rút gươm ra, đánh đầy tớ của vị trưởng tế, chém đứt tai nó. Đức Giê-su bảo họ: “Các người cầm gươm và gậy đến bắt Ta như bắt kẻ cướp vậy sao? Hằng ngày Ta ở cùng các người, giảng dạy trong đền thờ mà các người không bắt. Nhưng việc xảy ra, để lời Kinh Thánh được ứng nghiệm.” Tất cả đều bỏ Ngài chạy trốn. Một thanh niên theo Ngài, trên người chỉ choàng tấm vải, và chúng bắt chàng, nhưng chàng bỏ lại tấm vải, trần truồng chạy thoát thân. Họ dẫn Đức Giê-su đến vị trưởng tế. Tất cả các thượng tế, các trưởng lão và các chuyên gia kinh luật đều họp tại đó. Phê-rơ theo Ngài xa xa, vào tới trong sân của vị trưởng tế, ngồi sưởi chung với đám cảnh vệ bên đống lửa. Các thượng tế và cả hội đồng tìm chứng cớ chống Đức Giê-su để xử tử Ngài, nhưng họ không tìm được gì. Nhiều người vu cáo chống Ngài, nhưng lời chứng của họ không hợp nhau. Có mấy người đứng lên vu cáo Ngài rằng: “Chúng tôi nghe hắn nói: ‘Ta sẽ phá hủy đền thờ xây cất bằng tay nầy, trong ba ngày Ta sẽ dựng một đền thờ khác không do tay người xây cất.’” Nhưng lời chứng của họ cũng không hợp nhau. Vị trưởng tế đứng lên giữa họ, hỏi Đức Giê-su: “Anh không đáp lại những lời tố cáo của những người nầy sao?” Nhưng Ngài im lặng, không trả lời chi cả. Vị trưởng tế lại hỏi: “Anh có phải là Chúa Cứu Thế, Con Đức Chúa Trời Phúc Lành không?” Đức Giê-su đáp: “Chính Ta! Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên phải Đấng Quyền Năng hiện xuống trên mây trời.” Vị trưởng tế xé áo mình, tuyên bố: “Còn cần nhân chứng làm gì nữa? Quý vị đã nghe lời phạm thượng. Quý vị thấy thế nào?” Mọi người đều lên án Ngài đáng tội chết. Có mấy người bắt đầu nhổ vào Ngài, che mặt Ngài, đấm Ngài và nói với Ngài: “Hãy nói tiên tri đi!” Đám cảnh vệ cũng nắm lấy Ngài, tát Ngài. Khi Phê-rơ đang ở dưới sân, một trong những đầy tớ gái của vị trưởng tế đến, thấy Phê-rơ đang ngồi sưởi, nhìn kỹ ông rồi nói: “Anh cũng ở với ông Giê-su, người Na-xa-rét.” Nhưng Phê-rơ chối: “Tôi không biết, cũng không hiểu chị nói gì.” Rồi ông đi ra sân trước; lúc ấy gà gáy. Đứa đầy tớ gái thấy ông tại đó, lại bắt đầu nói với những người đứng chung quanh: “Người nầy thuộc đám đó.” Nhưng ông lại chối. Một lúc sau, những người đứng quanh đó lại nói với Phê-rơ: “Đúng rồi, anh thuộc đám đó, vì anh cũng là người Ga-li-lê.” Ông bắt đầu rủa rồi thề: “Tôi không biết người các ông nói là ai.” Tức thì gà gáy lần thứ hai. Phê-rơ nhớ lại lời Đức Giê-su đã bảo mình: “Trước khi gà gáy hai lần, con sẽ chối Ta ba lần.” Ông liền khóc nức nở. Vào lúc sáng sớm, các thượng tế cùng các trưởng lão, các chuyên gia kinh luật và cả hội đồng họp hội nghị với nhau. Họ cho trói Đức Giê-su và dẫn đi nộp cho Phi-lát. Phi-lát hỏi Ngài: “Anh có phải là Vua dân Do Thái không?” Ngài đáp: “Chính ông nói điều đó.” Các thượng tế tố cáo Ngài nhiều điều. Phi-lát lại hỏi: “Anh không trả lời gì sao? Xem đấy, họ tố cáo anh nhiều điều.” Nhưng Đức Giê-su chẳng trả lời thêm, khiến Phi-lát càng ngạc nhiên. Vào dịp lễ, Phi-lát thường phóng thích một tù nhân do dân chúng yêu cầu. Có một người tên Ba-ra-ba bị tù cùng với những người nổi loạn. Người này đã can tội sát nhân trong một cuộc nổi dậy. Đám đông kéo đến, xin Phi-lát làm cho họ như thường lệ. Nhưng Phi-lát trả lời: “Các người có muốn ta tha Vua dân Do Thái cho các người không?” Vì ông biết do lòng ganh ghét mà các thượng tế đã nộp Ngài. Nhưng các thượng tế xúi giục đám đông xin tha Ba-ra-ba. Phi-lát đáp lại chúng: “Các người muốn ta làm gì với người mà các người gọi là Vua dân Do Thái?” Họ lại la lên: “Hãy đóng đinh hắn!” Phi-lát nói: “Tại sao? Người nầy đã làm điều ác gì?” Nhưng chúng càng la lên: “Hãy đóng đinh hắn!” Vì muốn làm vừa lòng đám đông nên Phi-lát tha Ba-ra-ba cho họ. Sau khi đánh đòn Đức Giê-su, ông giao Ngài cho họ đem đi đóng đinh. Quân lính dẫn Ngài vào bên trong công đường (tức là dinh thống đốc); và tập họp tất cả đội quân tại đó. Họ khoác cho Ngài một chiếc áo đỏ tía và đội cho Ngài một mão đan bằng gai. Họ chào Ngài: “Hoan hô Vua dân Do Thái!” Họ lấy cây sậy đánh vào đầu Ngài, nhổ trên Ngài, và quỳ lạy Ngài. Sau khi chế giễu, họ lột áo tía ra, mặc áo của Ngài lại và dẫn đi để đóng đinh. Họ ép buộc Si-môn, người Sy-ren, cha của A-léc-xan-đơ và Ru-phu, vừa từ ngoài đồng về ngang qua đó vác thập tự giá cho Ngài. Họ đem Ngài đến một nơi gọi là đồi Gô-gô-tha, nghĩa là đồi Sọ. Họ cho Ngài uống rượu pha với một dược, nhưng Ngài không uống. Họ đóng đinh Ngài, rồi chia nhau áo của Ngài, bắt thăm để xem ai được phần nào. Vào lúc chín giờ sáng họ đóng đinh Ngài. Bảng ghi án Ngài viết: “Vua Dân Do Thái.” Họ cũng đóng đinh hai tên cướp chung với Ngài, một tên bên phải, một tên bên trái. Lời Kinh Thánh được ứng nghiệm như vầy: “Ngài bị kể như những kẻ phạm nhân.” Những kẻ đi ngang qua đó phỉ báng Ngài, lắc đầu nói rằng: “Ê! Người đòi phá hủy đền thờ và cất lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình, và xuống khỏi thập tự giá đi!” Các thượng tế và các chuyên gia kinh luật cũng làm như vậy, họ chế nhạo Ngài và nói với nhau: “Hắn cứu kẻ khác mà không tự cứu mình được, bây giờ hãy để Chúa Cứu Thế, Vua dân Y-sơ-ra-ên, xuống khỏi thập tự giá cho chúng ta thấy và tin.” Hai tên cướp bị đóng đinh chung với Ngài cũng mắng nhiếc Ngài. Từ giữa trưa đến ba giờ chiều, tối tăm bao trùm khắp đất. Vào lúc ba giờ chiều, Đức Giê-su kêu lớn tiếng: “Ê-lô-i, Ê-lô-i, la-ma sa-bách-tha-ni?”, nghĩa là: “Đức Chúa Trời tôi ôi, Đức Chúa Trời tôi ôi, sao Ngài lìa bỏ tôi?” Mấy người đang đứng đó nghe vậy, nói rằng: “Xem kìa, hắn gọi Ê-li.” Một người chạy đi lấy miếng bọt biển thấm đầy giấm, gắn trên đầu cây sậy đưa cho Ngài uống, nói rằng: “Hãy để yên! Coi Ê-li có đến đem hắn xuống không?” Nhưng Đức Giê-su kêu lên một tiếng lớn rồi tắt thở. Bức màn trong đền thờ bị xé làm đôi từ trên xuống dưới. Viên đội trưởng đứng đối diện với Ngài, thấy Ngài tắt thở như thế thì nói: “Người nầy thật là Con Đức Chúa Trời!” Cũng có những phụ nữ từ đàng xa nhìn xem, trong số ấy có Ma-ri Ma-đơ-len, Ma-ri mẹ của Gia-cơ nhỏ và của Giô-sê, và Sa-lô-mê, là những người đã theo và phục vụ Ngài khi còn ở Ga-li-lê, và nhiều phụ nữ khác là những người cùng lên Giê-ru-sa-lem với Ngài. Đến chiều tối, vì là ngày chuẩn bị trước ngày Sa-bát, Giô-sép người A-ri-ma-thê, một nghị viên đáng kính của hội đồng quốc gia, cũng là người đang trông đợi Nước Đức Chúa Trời, mạnh dạn đi đến gặp Phi-lát để xin thi thể Đức Giê-su. Phi-lát ngạc nhiên là Ngài đã chết rồi nên cho gọi viên đội trưởng đến hỏi xem Ngài đã chết lâu chưa. Được viên đội trưởng xác nhận, ông mới giao thi thể cho Giô-sép. Sau khi mua một tấm vải gai, ông đem Ngài xuống, quấn vải quanh thi hài, và đặt Ngài trong mộ đã được đục trong đá; rồi ông lăn một tảng đá chận cửa mộ. Ma-ri Ma-đơ-len và Ma-ri mẹ Giô-sép đều thấy nơi mai táng Ngài. Sau ngày Sa-bát, Ma-ri Ma-đơ-len, Ma-ri mẹ Gia-cơ và Sa-lô-mê mua hương liệu để đến xức thi hài Đức Giê-su. Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần lễ, họ đến mộ khi mặt trời vừa mọc. Họ nói với nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ cho chúng ta,” vì tảng đá lớn lắm. Nhưng khi nhìn lên, họ thấy tảng đá đã được lăn đi rồi. Vào trong mộ, họ thấy một thanh niên mặc áo trắng ngồi bên phải. Họ kinh hãi lắm. Người ấy nói với họ: “Đừng sợ, các bà tìm Đức Giê-su người Na-xa-rét đã bị đóng đinh. Ngài sống lại rồi, không còn ở đây. Hãy xem chỗ người ta đặt Ngài. Hãy đi nói cho các môn đệ của Ngài và cho Phê-rơ hay rằng Ngài đi trước các ông tới Ga-li-lê; tại đó các ông sẽ thấy Ngài như Ngài đã bảo các ông.” Ra khỏi mộ, họ bỏ chạy vì run rẩy và kinh khiếp; họ không dám nói gì với ai vì sợ hãi. Sau khi sống lại vào sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần lễ, Đức Giê-su hiện ra trước hết cho Ma-ri Ma-đơ-len là người đã được Ngài trừ khỏi bảy quỷ dữ. Bà ấy đi báo tin cho những người đã từng ở với Ngài đang buồn rầu và khóc lóc. Khi nghe rằng Ngài đang sống và bà ấy đã thấy Ngài, họ không tin. Sau các việc nầy, Ngài hiện ra trong một dạng khác cho hai người trong số các môn đệ đang trên đường về vùng quê. Họ trở lại báo cho những người kia nhưng chẳng ai tin họ. Sau đó, Đức Giê-su hiện ra cho mười một môn đệ khi họ đang ăn. Ngài trách sự vô tín và cứng lòng của họ vì họ không tin lời những người đã thấy Ngài sống lại. Ngài bảo họ: “Hãy đi khắp thế giới, truyền giảng Phúc Âm cho mọi người. Ai tin và chịu phép báp-tem sẽ được cứu rỗi, ai không tin sẽ bị đoán phạt. Những người tin sẽ được các dấu lạ này kèm theo: Họ sẽ nhân danh Ta đuổi quỷ, nói các ngôn ngữ mới, bắt rắn, và nếu uống nhằm chất độc, cũng không bị hại; họ đặt tay trên người bịnh thì người bịnh sẽ được lành.” Vậy sau khi nói chuyện với họ, Chúa Giê-su được cất lên trời và ngự bên phải Đức Chúa Trời. Còn các môn đệ Ngài ra đi truyền giảng khắp nơi, Chúa cùng làm việc với họ và xác chứng lời họ bằng nhiều dấu lạ kèm theo. A-men.Mấy người đàn bà báo tin cho Phê-rơ và những người đang ở với ông tất cả những gì đã được dặn bảo.Sau việc nầy, chính Đức Giê-su sai các môn đệ đi từ đông sang tây với sứ điệp thánh và bất diệt của sự cứu rỗi đời đời. A-men. Nhiều người đã dụng công ký thuật các sự việc đã hoàn thành giữa vòng chúng tôi, theo những người chứng kiến và những người phụng sự Lời Chúa từ ban đầu đã truyền lại cho chúng tôi. Vì thế, sau khi cẩn trọng tra cứu chính xác mọi việc từ ban đầu, tôi thiết nghĩ nên theo thứ tự viết cho ngài, để ngài biết chắc chắn những lời giáo huấn ngài đã học là chân xác. Vào thời Hê-rốt, vua chư hầu Giu-đê, có một thầy tế lễ tên Xa-cha-ri, thuộc ban A-bi-gia và Ê-li-sa-bét, vợ ông, cũng là dòng dõi của A-rôn. Cả hai ông bà là người công chính dưới mắt Đức Chúa Trời, vâng giữ trọn vẹn các điều răn và giới luật của Chúa. Hai vợ chồng không có con vì bà hiếm muộn mà tuổi ông bà cũng đã cao. Khi đến phiên phân ban mình dâng lễ trước mặt Đức Chúa Trời, theo tục lệ của các thầy tế lễ, Xa-cha-ri bắt thăm trúng phần dâng hương trong đền thờ Chúa. Đang khi tất cả dân chúng nhóm họp bên ngoài cầu nguyện, trong giờ dâng hương, một thiên sứ của Chúa hiện ra cùng Xa-cha-ri, đứng bên phải bàn thờ dâng hương. Thấy thiên sứ, Xa-cha-ri bối rối sợ hãi. Nhưng thiên sứ bảo: “Xa-cha-ri, đừng sợ! Lời khẩn cầu của ông đã được nhậm. Ê-li-sa-bét, vợ ông, sẽ sinh cho ông một trai, hãy đặt tên là Giăng. Ông sẽ vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng sẽ hân hoan vì nó ra đời. Con trẻ sẽ được tôn trọng trước mắt Chúa, sẽ không uống rượu nho hay rượu mạnh, và sẽ được đầy dẫy Đức Thánh Linh từ khi còn trong lòng mẹ. Giăng sẽ đưa nhiều người Y-sơ-ra-ên quay về với Chúa, là Đức Chúa Trời của họ, sẽ đi trước mặt Chúa với tinh thần và quyền năng của Ê-li, để đổi lòng cha quay về với con cái, hướng kẻ không vâng phục đến sự khôn ngoan của sự công chính, và để chuẩn bị một dân tộc sẵn sàng cho Chúa.” Xa-cha-ri nói với thiên sứ: “Làm sao tôi biết sẽ có việc này? Vì tôi đã già và vợ tôi đã cao tuổi!” Thiên sứ đáp: “Tôi chính là Gáp-ri-ên, thần hằng đứng chầu trước mặt Đức Chúa Trời. Tôi được sai đến nói chuyện và báo tin mừng này cho ông. Này, ông sẽ bị câm, không nói được cho đến ngày nào những việc này xảy ra, vì ông không tin lời tôi là lời sẽ ứng nghiệm đúng kỳ.” Dân chúng đang chờ đợi Xa-cha-ri, ngạc nhiên không hiểu tại sao ông ở quá lâu trong thánh điện. Khi Xa-cha-ri ra, ông không nói được gì với họ, nên họ biết ông vừa thấy một khải tượng trong thánh điện. Ông ra dấu cho họ hiểu chứ không nói được. Mãn phiên phụng vụ, ông trở về nhà. Sau đó, Ê-li-sa-bét, vợ ông thụ thai, ở ẩn năm tháng, bà nói rằng: “Chúa đã ưu đãi tôi, trong những ngày Ngài đoái thương tôi và cất bỏ điều nhục nhã tôi giữa thiên hạ.” Vào tháng thứ sáu, Đức Chúa Trời sai thiên sứ Gáp-ri-ên đến thành Na-xa-rét, thuộc miền Ga-li-lê, gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên Giô-sép, thuộc gia tộc Đa-vít; trinh nữ này tên Ma-ri. Vào gặp Ma-ri, thiên sứ nói: “Xin chúc mừng cô, người được hồng phúc, Chúa ở cùng cô!” Nghe lời chào ấy, Ma-ri rất bối rối, ngẫm nghĩ xem lời chào đó có nghĩa gì. Nhưng thiên sứ tiếp: “Ma-ri, đừng sợ! Vì cô được Đức Chúa Trời ban ân sủng. Này, cô sẽ thụ thai và sinh một trai, và đặt tên là Giê-su. Người con trai đó sẽ nên cao trọng và sẽ được xưng là Con Đấng Chí Cao. Chúa là Đức Chúa Trời sẽ ban cho Ngài ngôi vua Đa-vít, tổ phụ Ngài. Ngài sẽ trị vì nhà Gia-cốp đời đời; nước Ngài sẽ không bao giờ chấm dứt.” Ma-ri hỏi: “Tôi còn là trinh nữ, làm sao có việc đó?” Thiên sứ đáp: “Thánh Linh sẽ giáng trên cô, quyền năng của Đấng Chí Cao sẽ bao phủ cô, cho nên Con Thánh sinh ra sẽ được xưng là Con Đức Chúa Trời. Kìa, Ê-li-sa-bét, người họ hàng với cô dù trong tuổi già nua, cũng thụ thai đã sáu tháng rồi. Bà này có tiếng là hiếm hoi. Vì không có điều gì Đức Chúa Trời không làm được!” Ma-ri nói: “Vâng, con là đầy tớ Chúa, nguyện việc đó xảy đến cho con như lời ông nói!” Rồi thiên sứ rời khỏi Ma-ri. Trong những ngày đó, Ma-ri vội vã lên đường đến một thành phố miền đồi núi Giu-đê, vào nhà Xa-cha-ri và chào mừng Ê-li-sa-bét. Vừa khi Ê-li-sa-bét nghe tiếng Ma-ri chào, bào thai trong bụng bà liền nhảy mừng và Ê-li-sa-bét được đầy dẫy Đức Thánh Linh, reo lên: “Cô có phước nhất trong giới phụ nữ. Phước cho bào thai trong lòng cô! Do đâu tôi được vinh dự này, mẹ Chúa tôi đến thăm tôi? Vì khi tai tôi nghe tiếng cô chào, thì thai nhi trong lòng tôi liền nhảy mừng. Phước cho người nữ đã tin rằng những điều Chúa phán bảo nàng sẽ hoàn thành!” Và Ma-ri ca tụng:“Linh hồn tôi tôn vinh Chúa! Tâm linh tôi mừng rỡ nơi Đức Chúa Trời, Đấng Cứu Rỗi tôi. Vì Ngài đã đoái đếnNgười tớ gái hèn mọn của Ngài.Tất cả các thế hệ từ nay sẽ gọi tôi là người có phước. Vì Đấng Toàn Năng đã làm những việc trọng đại cho tôi,Thánh thay là danh Ngài! Ngài thương xót những người kính sợ Ngài,Từ thế hệ này qua thế hệ khác. Tay Ngài làm những việc đại năng.Đánh tan những kẻ có tâm trí kiêu căng. Truất ngôi kẻ thống trị,Nâng cao người khiêm nhường. Ngài cho người đói no đầy thức ngon,Nhưng đuổi kẻ giàu ra đi tay trắng. Ngài phù hộ Y-sơ-ra-ên, đầy tớ Ngài,Và nhớ tỏ lòng thương xót họ, Như Ngài đã phán cùng tổ phụ chúng ta,Cùng Áp-ra-ham và dòng dõi người đến muôn đời.” Ma-ri ở với Ê-li-sa-bét độ ba tháng rồi trở về nhà. Đến ngày sinh nở, Ê-li-sa-bét sinh được một con trai. Nghe tin Chúa đoái thương bà nhiều, họ hàng láng giềng chung vui với bà. Ngày thứ tám, người ta đến làm lễ cắt bì cho em bé, họ định đặt tên nó là Xa-cha-ri, theo như tên cha. Nhưng mẹ nó nói “Không, phải gọi nó là Giăng!” Họ cãi: “Trong vòng họ hàng bà, không ai có tên đó!” Rồi họ ra dấu hỏi người cha xem ông muốn đặt tên gì cho con. Ông xin tấm bảng, rồi viết: “Tên nó là Giăng,” khiến mọi người đều kinh ngạc. Lập tức ông nói được, và ca ngợi Đức Chúa Trời. Cả láng giềng đều sợ hãi, và người ta bàn tán về các việc này khắp miền đồi núi Giu-đê. Ai nghe cũng đều suy nghĩ không biết rồi đây đứa bé sẽ trở nên người như thế nào? Vì thật có tay Chúa ở cùng nó! Xa-cha-ri, cha đứa trẻ, được đầy dẫy Đức Thánh Linh và nói tiên tri: “Ngợi khen Chúa là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên,Vì đã thăm viếng và cứu chuộc dân Ngài. Ngài đã dấy lên một Chiếc Sừng Cứu Rỗi cho chúng ta.Trong nhà Đa-vít, đầy tớ Ngài. Như đã dùng môi miệng các tiên tri thánh thời xưa phán dạy. Ngài giải cứu chúng ta khỏi các cừu địch,Và khỏi tay mọi kẻ thù ghét chúng ta, Ngài thương xót tổ phụ chúng taVà nhớ lại giao ước thánh của Ngài, Tức là lời Ngài đã thề với Áp-ra-ham, tổ phụ chúng ta, Hứa giải thoát chúng ta khỏi tay quân thù,Để phục vụ Ngài không hề sợ hãi Trong sự thánh khiết, công chính trước mặt Ngài trọn đời chúng ta. Còn con, hài nhi, con sẽ được gọi là tiên tri của Đấng Chí Cao.Vì con sẽ đi trước mặt Chúa, dọn đường cho Ngài, Để cho dân Ngài biết sự cứu rỗi,Bởi ơn tha tội, Do lòng thương xót của Đức Chúa Trời chúng ta,Bình minh từ trời cao sẽ tỏa sáng trên chúng ta, Soi sáng cho những người ngồi trong cõi tối tămVà trong bóng sự chết,Để dìu dắt bước chân chúng ta vào nẻo an bình.” Con trẻ lớn lên, tâm linh càng mạnh mẽ, sống trong đồng hoang cho đến ngày xuất hiện trước dân Y-sơ-ra-ên. Vào thời ấy, Hoàng Đế Âu-gút-tơ ra chiếu chỉ kiểm tra dân số khắp đế quốc La Mã. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên được thực hiện khi Qui-ri-ni-u làm thống đốc Sy-ri. Mọi người đều phải về quê quán đăng ký. Vì Giô-sép thuộc giòng họ nhà Đa-vít nên cũng từ thành Na-xa-rét, thuộc vùng Ga-li-lê xuống Giu-đê, đến Bết-lê-hem, thành của Đa-vít, để đăng ký cho mình và cho Ma-ri, người đã đính hôn với mình, đang có thai. Trong khi ở đó Ma-ri chuyển bụng sinh nở. Nàng sinh con trai đầu lòng, lấy khăn bọc hài nhi đặt nằm trong máng cỏ, vì quán trọ không còn chỗ. Trong vùng đó, có mấy người chăn chiên ở ngoài đồng, thức đêm canh bầy chiên. Một thiên sứ của Chúa hiện đến, hào quang Chúa toả sáng chung quanh nên họ rất khiếp sợ. Thiên sứ bảo: “Đừng sợ! Vì này tôi báo cho các anh một Tin Mừng, một niềm vui lớn cũng là Tin Mừng cho mọi người. Hôm nay, tại thành Đa-vít, một Đấng Cứu Thế vừa giáng sinh cho các anh. Ngài là Chúa Cứu Thế, là Chúa. Đây là dấu hiệu cho các anh nhận ra Ngài: Các anh sẽ gặp một hài nhi bọc trong khăn đặt nằm trong máng cỏ.” Bỗng nhiên, một đạo thiên binh xuất hiện cùng với thiên sứ ấy, ca ngợi Đức Chúa Trời: “Vinh danh Thượng Đế trên trời.Bình an dưới đất cho người Ngài thương.” Sau khi các thiên sứ lìa họ về trời, mấy người chăn chiên rủ nhau: “Chúng ta hãy vào thành Bết-lê-hem, xem việc vừa xảy ra mà Chúa đã cho ta hay!” Họ vội vàng ra đi, tìm gặp được Ma-ri với Giô-sép, và thấy hài nhi đang nằm trong máng cỏ. Thấy vậy, họ thuật lại lời thiên sứ nói về hài nhi. Ai nghe cũng đều ngạc nhiên về những lời tường thuật của mấy người chăn chiên. Còn Ma-ri ghi khắc những lời ấy và để tâm suy nghiệm. Mấy người chăn chiên trở về, tôn vinh và ca ngợi Đức Chúa Trời vì tất cả những điều họ nghe và thấy, đúng như lời thiên sứ đã báo trước cho mình. Khi được tám ngày, là lúc hài nhi chịu lễ cắt bì, con trẻ được đặt tên là Giê-su, tên thiên sứ đã đặt trước khi Ma-ri có thai. Khi kỳ thanh tẩy theo luật Môi-se đã hoàn tất, Giô-sép và Ma-ri đem hài nhi Giê-su lên Giê-ru-sa-lem để dâng cho Chúa, như đã ghi trong Luật của Ngài: “Mỗi trưởng nam phải được dâng hiến cho Chúa.” và để dâng tế lễ theo luật Chúa dạy: “Một cặp chim ngói hoặc hai con bồ câu non.” Lúc ấy, tại Giê-ru-sa-lem, có cụ Si-mê-ôn là người công chính và sùng đạo. Cụ đang trông đợi niềm an ủi cho người Y-sơ-ra-ên. Thánh Linh ở trên cụ, và cụ được Đức Thánh Linh báo cho biết sẽ không qua đời trước khi thấy Đấng Cứu Thế của Chúa. Được Thánh Linh cảm xúc, cụ vào đền thờ đúng lúc cha mẹ đem hài nhi Giê-su vào để làm cho Ngài các thủ tục theo Kinh Luật. Cụ bồng ẵm hài nhi và chúc tụng Đức Chúa Trời: “Lạy Chúa, giờ đây xin cho đầy tớ ChúaQua đời bình an, như lời Ngài đã phán. Vì mắt con đã thấy sự cứu rỗi của Ngài Mà Ngài đã chuẩn bị trước mặt mọi người, Là ánh sáng khải thị cho các dân tộc,Và vinh quang cho Y-sơ-ra-ên Ngài.” Cha mẹ hài nhi rất ngạc nhiên về những lời cụ Si-mê-ôn nói về con trẻ. Cụ chúc phước cho họ và bảo Ma-ri, mẹ Ngài: “Đây, hài nhi này được chỉ định để làm cho nhiều người Y-sơ-ra-ên ngã xuống hoặc dấy lên, và là dấu hiệu cho người ta đả kích. Còn cô, một lưỡi gươm sẽ đâm xuyên qua linh hồn cô, để tư tưởng thầm kín của nhiều người bị phơi bày ra.” Cũng có nữ tiên tri An-ne, con gái của Pha-nu-ên, thuộc chi tộc A-se, tuổi đã cao. Vốn là một trinh nữ sau đó lấy chồng được bảy năm, rồi ở góa, đến nay đã tám mươi bốn tuổi. Cụ ở luôn trong đền thờ, kiêng ăn, cầu nguyện và ngày đêm phục vụ Chúa. Chính giờ đó cụ vừa đến cảm tạ Đức Chúa Trời và nói về hài nhi cho mọi người đang trông đợi sự giải cứu Giê-ru-sa-lem. Sau khi làm xong mọi việc theo Luật Chúa ấn định, Giô-sép và Ma-ri trở về Ga-li-lê, thành Na-xa-rét, là thành của mình. Con trẻ lớn lên, mạnh khoẻ và đầy dẫy sự khôn ngoan. Ân phúc của Đức Chúa Trời ở trên Ngài. Hằng năm, cha mẹ Đức Giê-su đều đi Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua. Khi mười hai tuổi, Ngài cùng cha mẹ lên đó dự lễ theo tục lệ. Các ngày lễ vừa xong, họ trở về quê, nhưng cậu bé Giê-su vẫn ở lại Giê-ru-sa-lem mà cha mẹ không hay biết, Họ đi suốt một ngày rồi mới hỏi bà con quen biết, vì tưởng Ngài vẫn còn đi chung trong đoàn. Tìm không được, họ quay trở lại Giê-ru-sa-lem để kiếm Ngài. Sau ba ngày thất lạc, họ tìm được Ngài trong đền thờ, đang ngồi giữa các giáo sư Do Thái Giáo, vừa nghe vừa hỏi. Tất cả những người nghe đều kinh ngạc về sự hiểu biết và những lời đối đáp của Ngài. Tìm thấy Ngài, cha mẹ cũng kinh ngạc, mẹ Ngài hỏi: “Con ơi, tại sao con gây nông nỗi này cho cha mẹ? Cha con và mẹ đã rất khổ tâm tìm kiếm con!” Ngài thưa: “Cha mẹ phải tìm kiếm con làm gì? Cha mẹ không biết con phải ở trong nhà Cha con sao?” Nhưng ông bà không hiểu lời Ngài nói với họ. Ngài theo cha mẹ về Na-xa-rét và tùng phục họ. Mẹ Ngài ghi khắc mọi việc ấy trong lòng. Đức Giê-su khôn ngoan càng thêm, thân hình càng lớn, càng được đẹp lòng Đức Chúa Trời và loài người. Năm thứ mười lăm, dưới triều Hoàng Đế Ti-bê-ri, khi Bôn-ti Phi-lát làm thống đốc Giu-đê, Hê-rốt làm vua chư hầu Ga-li-lê, Phi-líp (em Hê-rốt) làm vua chư hầu Y-tu-rê và Tra-cô-nít, Ly-sa-ni làm vua chư hầu A-bi-len, An-ne và Cai-pha, làm trưởng tế, có lời Đức Chúa Trời phán bảo Giăng, con trai Xa-cha-ri, trong đồng hoang. Giăng liền đi khắp các vùng phụ cận sông Giô-đanh và truyền giảng về phép báp-tem ăn năn để được tha tội. Đúng như lời trong sách tiên tri I-sa:“Có một tiếng kêu trong đồng hoang:Hãy sửa soạn đường Chúa,Đắp thẳng các lối Ngài, Mọi thung lũng sẽ lấp cho đầy,Mọi núi đồi sẽ bị san cho phẳng,Đường cong quẹo được sửa cho ngay,Lối gồ ghề phải làm cho bằng; Và cả nhân loại sẽ thấy ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời.” Giăng bảo các đoàn người đến chịu báp-tem: “Hỡi loài rắn độc! Ai đã báo cho các người tránh cơn thịnh nộ sắp tới? Vậy hãy kết quả xứng đáng với sự ăn năn; và đừng tự hào: Áp-ra-ham là tổ tiên chúng ta, vì ta nói cùng các người: Đức Chúa Trời có thể biến những viên đá này thành con cháu Áp-ra-ham! Hiện nay lưỡi rìu đã đặt kề gốc cây; vì thế, bất cứ cây nào không sinh trái tốt sẽ bị đốn và ném vào lửa.” Đoàn dân hỏi Giăng: “Thế thì chúng tôi phải làm gì đây?” Giăng đáp: “Ai có hai chiếc áo, hãy chia cho người không có. Ai có thức ăn, hãy san sẻ cho người thiếu ăn.” Các người thu thuế cũng đến để chịu báp-tem, họ hỏi: “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?” Giăng đáp: “Đừng lạm thu thuế má!” Các binh sĩ cũng hỏi: “Còn chúng tôi phải làm gì?” Ông đáp: “Đừng tống tiền, hăm dọa hoặc vu cáo ai, nhưng hãy bằng lòng với đồng lương của mình!” Dân chúng đang trông mong và mọi người đều ngẫm nghĩ cân nhắc trong lòng về Giăng: “Phải chăng ông ta là Chúa Cứu Thế?” Giăng giải đáp cho mọi người: “Ta làm báp-tem cho các người bằng nước; nhưng một Đấng quyền lực hơn ta sẽ đến, ta không xứng đáng cởi quai dép Ngài. Ngài sẽ làm báp-tem cho các người bằng Thánh Linh và bằng lửa. Ngài sẽ cầm sàng rê sạch sân đạp lúa mình để chứa lúa vào kho, nhưng sẽ đốt hết trấu trong lửa không hề tắt.” Giăng cũng dùng nhiều lời khuyên bảo khác mà truyền giảng Phúc Âm cho dân chúng. Nhưng vua Hê-rốt bị Giăng quở trách về vụ Hê-rô-đia, em dâu mình, và về mọi điều ác vua đã làm; Vua lại thêm một việc ác nữa là tống giam Giăng vào ngục. Khi cả dân chúng đều chịu phép báp-tem, Đức Giê-su cũng chịu báp-tem. Ngài đang cầu nguyện thì bầu trời mở ra, và Thánh Linh trong hình thể giống như chim bồ câu ngự xuống trên Ngài. Có tiếng phán đến từ trời: “Con là Con yêu dấu của Ta. Đẹp lòng Ta hoàn toàn!” Khi bắt đầu chức vụ, Đức Giê-su độ ba mươi tuổi. Người ta cho rằng Ngài là con Giô-sép.Giô-sép con Hê-li Hê-li con Mát-tátMát-tát con Lê-vi, Lê-vi con Mên-chi,Mên-chi con Gia-nê, Gia-nê con Giô-sép Giô-sép con Ma-ta-thia, Ma-ta-thia con A-mốt,A-mốt con Na-hum, Na-hum con Ếch-li,Ếch-li con Na-ghê Na-ghê con Ma-átMa-át con Ma-ta-thia, Ma-ta-thia con Sê-mê-inSê-mê-in con Giô-sếch, Giô-sếch con Giô-đa Giô-đa con Giô-a-nan, Giô-a-nan con Rê-saRê-sa con Xô-rô-ba-bên, Xô-rô-ba-bên con Sa-la-thi-ênSa-la-thi-ên con Nê-ri Nê-ri con Mên-chiMên-chi con A-đi, A-đi con Cô-samCô-sam con Ên-ma-đan, Ên-ma-đan con Ê-rơ Ê-rơ con Giê-su, Giê-su con Ê-li-ê-seÊ-li-ê-se con Giô-rim, Giô-rim con Mát-thátMát-thát con Lê-vi Lê-vi con Si-mê-ônSi-mê-ôn con Giu-đa, Giu-đa con Giô-sépGiô-sép con Giô-nam, Giô-nam con Ê-li-a-kimÊ-li-a-kim con Mê-lê-a Mê-lê-a con Men-naMen-na con Mát-ta-tha, Mát-ta-tha con Na-thanNa-than con Đa-vít Đa-vít con Gie-sêGie-sê con Giô-bết, Giô-bết con Bô-ôBô-ô con Sanh-môn, Sanh-môn con Na-ách-son Na-ách-son con A-mi-na-đáp, A-mi-na-đáp con Át-minÁt-min con A-rơ-ni, A-rơ-ni con Ếch-rômẾch-rôm con Pha-rê, Pha-rê con Giu-đa Giu-đa con Gia-cốp, Gia-cốp con Y-sácY-sác con Áp-ra-ham, Áp-ra-ham con Tha-rêTha-rê con Na-cô Na-cô con Sê-rúcSê-rúc con Ra-gao, Ra-gao con Pha-lécPha-léc con Hê-be, Hê-be con Sa-la Sa-la con Cai-nam, Cai-nam con A-bác-sátA-bác-sát con Sem, Sem con Nô-êNô-ê con La-méc La-méc con Ma-tu-sê-laMa-tu-sê-la con Hê-nóc, Hê-nóc con Gia-rếtGia-rết con Mê-lê-lê-ên, Mê-lê-lê-ên con Cai-nam Cai-nam con Ê-nót, Ê-nót con SếtSết con A-đamA-đam con Đức Chúa Trời. Đức Giê-su đầy dẫy Thánh Linh, từ sông Giô-đanh trở về và được Đức Thánh Linh đưa vào đồng hoang, để chịu quỷ vương cám dỗ trong bốn mươi ngày. Trong những ngày đó, Ngài không ăn gì cả, nên đến cuối thời gian này, Ngài đói. Quỷ vương nói với Ngài: “Nếu ông là Con Đức Chúa Trời, hãy bảo viên đá này biến thành bánh đi!” Đức Giê-su đáp: “Kinh Thánh đã chép: ‘Người ta sống không phải chỉ nhờ bánh mà thôi’” Đưa Đức Giê-su lên cao, quỷ vương chỉ cho Ngài xem tất cả các vương quốc trên thế giới trong giây lát. Quỷ vương hứa với Ngài: “Ta sẽ cho ông tất cả quyền uy và vinh quang của các vương quốc ấy, vì tất cả đã giao cho ta và ta muốn cho ai tùy ý. Cho nên nếu ông quỳ lạy ta, thì tất cả sẽ thuộc về ông.” Nhưng Đức Giê-su đáp: “Kinh Thánh đã chép: ‘Hãy thờ lạy Chúa là Đức Chúa Trời ngươi, và chỉ phụng sự một mình Ngài mà thôi!’” Quỷ vương đem Ngài đến Giê-ru-sa-lem, để Ngài đứng trên nóc đền thờ và nói: “Nếu ông là Con Đức Chúa Trời, thì hãy nhảy xuống đi, vì Kinh Thánh chép: ‘Chúa sẽ truyền cho các thiên sứ chăm lo cho ngươiBảo vệ ngươi, Đỡ ngươi trên tay,Kẻo chân ngươi vấp phải đá chăng!’” Đức Giê-su đáp: “Kinh Thánh đã chép: ‘Ngươi đừng thách thức Chúa là Đức Chúa Trời ngươi.’” Sau khi cám dỗ đủ cách, quỷ vương lìa khỏi Ngài, chờ cơ hội khác. Đức Giê-su đầy quyền năng của Đức Thánh Linh, trở về Ga-li-lê. Tiếng đồn về Ngài lan khắp các vùng lân cận. Ngài dạy dỗ trong các hội đường của họ; mọi người đều ca ngợi Ngài. Đức Giê-su về Na-xa-rét là nơi Ngài được trưởng dưỡng. Theo thói quen Ngài vào hội đường trong ngày Sa-bát và đứng đọc Kinh Thánh. Có người trao cho Ngài sách tiên tri I-sa. Chúa mở sách, tìm thấy đoạn văn chép rằng: “Thần Chúa ngự trên Ta,Vì Ngài đã xức dầu cho Ta,Để truyền giảng Tin Mừng cho người nghèo khổ,Ngài đã sai Ta công bố cho kẻ bị tù được phóng thích,Cho kẻ mù lòa được sáng mắt,Cho người bị áp bức được giải thoát, Và công bố kỷ nguyên thi ân của Chúa.” Đọc xong, Ngài cuộn sách lại, trả cho người phục vụ, rồi ngồi xuống. Mọi mắt trong hội đường đều chăm chú nhìn Ngài. Ngài bắt đầu nói: “Hôm nay, lời Kinh Thánh các người vừa nghe đó đã được ứng nghiệm!” Mọi người đều làm chứng cho Ngài và ngạc nhiên về những lời ân hậu từ miệng Ngài. Nhưng họ hỏi: “Ông này không phải là con của Giô-sép sao?” Ngài bảo họ: “Chắc các người muốn dùng câu tục ngữ: ‘Hỡi thầy thuốc, hãy tự chữa lành cho mình đi! Những điều chúng tôi nghe ông làm ở Ca-pha-na-um thì cũng hãy làm tại quê hương ông đi!’” Ngài tiếp: “Thật, Ta bảo các người, không có tiên tri nào được chấp nhận tại quê hương mình. Ta nhắc cho các người một chuyện thật: Trong đời tiên tri Ê-li, ở xứ Y-sơ-ra-ên có nhiều bà góa; bầu trời bị đóng chặt ba năm rưỡi, khắp đất bị nạn đói, nhưng Ê-li không được sai đến giúp bà nào cả, ngoại trừ bà góa ở Sa-rép-ta, thuộc vùng Si-đôn. Trong thời tiên tri Ê-li-sê, giữa vòng Y-sơ-ra-ên có nhiều người phung, nhưng không ai được chữa lành, ngoại trừ Na-a-man, người Sy-ri!” Mọi người trong hội đường nghe những lời này đều nổi giận, đứng dậy đuổi Ngài ra ngoài thành, và dẫn Ngài tới triền đồi chỗ người ta xây thành để xô Ngài xuống. Nhưng Ngài lánh ra khỏi họ và đi. Đức Giê-su xuống Ca-pha-na-um, một thành phố thuộc vùng Ga-li-lê. Đến ngày Sa-bát, Ngài dạy dỗ dân chúng. Họ ngạc nhiên khi nghe Ngài dạy, vì lời Ngài đầy quyền uy. Trong hội đường có một người đàn ông bị tà linh ám, la lớn lên: “Lạy Đức Giê-su, người Na-xa-rét, chúng tôi có can hệ gì với Ngài? Ngài đến để hủy diệt chúng tôi sao? Chúng tôi biết Ngài là ai, Ngài là Đấng Thánh của Đức Chúa Trời!” Đức Giê-su quở trách nó: “Im đi! Hãy xuất khỏi người này!” Quỷ vật nhào người ấy giữa đám đông, rồi xuất khỏi, nhưng không gây thương tích gì. Mọi người đều kinh ngạc và hỏi nhau: “Đạo gì vậy? Vì Ngài lấy quyền uy và năng lực, ra lệnh cho các tà linh, thì chúng liền xuất.” Tin đồn về Ngài loan truyền khắp các vùng lân cận. Đức Giê-su đứng dậy, rời hội đường, đến nhà Si-môn. Bấy giờ bà gia Si-môn đang bị sốt nặng. Người ta xin Ngài chữa cho bà. Ngài đến đứng bên bà, quở bệnh sốt, cơn sốt biến mất, bà liền chổi dậy phục vụ họ. Khi mặt trời sắp lặn, dân chúng đem đến cho Ngài nhiều người đau đủ các chứng bệnh, Ngài đặt tay trên từng người chữa lành cho họ. Các quỷ cũng xuất khỏi nhiều người và la lớn: “Ngài là Con Đức Chúa Trời!” Nhưng Ngài quở trách chúng, không cho chúng nói vì chúng biết Ngài là Chúa Cứu Thế. Vào lúc rạng đông, Đức Giê-su đi ra một nơi thanh vắng. Dân chúng đi tìm Ngài, khi gặp được, họ cố giữ Ngài lại, không cho rời họ. Nhưng Ngài bảo: “Ta phải truyền giảng Phúc Âm về Nước Đức Chúa Trời cho các thành khác nữa, đó là lý do Ta được sai đến.” Ngài tiếp tục truyền giảng Phúc Âm trong các hội đường Giu-đê. Một lần nọ, Đức Giê-su đang đứng bên bờ hồ Ghê-nê-sa-rết, trong khi đoàn dân chen lấn quanh Ngài để nghe Lời Đức Chúa Trời, Ngài thấy hai chiếc thuyền đậu gần bờ, nhưng các ngư phủ đã rời thuyền đi giặt lưới. Ngài lên một chiếc thuyền của Si-môn và bảo ông chèo ra khỏi bờ một chút. Ngài ngồi trên thuyền, và dạy dỗ dân chúng. Dạy xong, Ngài bảo Si-môn: “Hãy chèo ra ngoài sâu, thả lưới kéo một mẻ cá!” Si-môn đáp: “Thưa Thầy, chúng con đã nhọc nhằn suốt đêm mà không bắt được gì, nhưng theo lời Thầy, con sẽ bủa lưới!” Họ thả lưới xuống, bắt được nhiều cá đến nỗi lưới sắp rách. Vậy, họ ra dấu gọi bạn chài trên thuyền khác đến giúp. Các người kia đến chất cá đầy hai thuyền, đến nỗi gần chìm. Thấy thế, Si-môn Phê-rơ quỳ xuống dưới chân Đức Giê-su mà thưa: “Lạy Chúa, xin lìa khỏi con, vì con là người tội lỗi!” Vì ông và các bạn chài đều kinh hãi về mẻ lưới họ vừa kéo lên, cả Gia-cơ và Giăng, con Xê-bê-đê là đồng bạn của Phê-rơ cũng vậy. Đức Giê-su bèn bảo Si-môn: “Con đừng sợ, từ nay trở đi, con sẽ cứu vớt người!” Họ kéo thuyền lên bờ, rồi bỏ tất cả mà theo Ngài. Khi Đức Giê-su vào một thành kia, Ngài gặp một người đàn ông bị phung đầy mình. Vừa thấy Ngài, anh sấp mặt xuống đất, van xin: “Lạy Chúa, nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa sạch bệnh con!” Ngài đưa tay sờ anh, bảo: “Được, hãy sạch đi!” Lập tức bệnh phung biến mất. Ngài căn dặn anh đừng nói cho ai biết, nhưng hãy trình diện thầy tế lễ và dâng tế lễ về việc chữa sạch như Môi-se đã truyền, để làm bằng chứng cho họ. Tuy nhiên, tin tức về Ngài lại càng được đồn rộng đến nỗi nhiều đoàn dân đông kéo đến nghe Ngài và để được Ngài chữa lành. Nhưng Ngài lui vào những nơi thanh vắng mà cầu nguyện. Một hôm, Đức Giê-su đang dạy dỗ, người Pha-ri-si và giáo sư kinh luật từ các làng mạc Ga-li-lê, Giu-đê và thành Giê-ru-sa-lem đều có mặt. Quyền năng của Chúa ở trong Ngài để chữa bệnh. Bấy giờ, người ta khiêng một người bại liệt nằm trên chõng và tìm cách đem vào trong nhà để đặt trước mặt Ngài. Nhưng vì đoàn dân đông đảo, không cách nào đem người bại vào được, nên họ leo lên mái, dỡ ngói, dòng người bại nằm trên chõng xuống giữa đám đông, ngay trước mặt Đức Giê-su. Ngài thấy đức tin của họ, nên bảo: “Này con, tội lỗi con đã được tha rồi!” Các chuyên gia kinh luật và người Pha-ri-si bắt đầu suy luận: “Người này là ai mà dám nói phạm thượng thế? Ngoài Đức Chúa Trời, còn ai có quyền tha tội.” Nhưng Đức Giê-su biết sự suy luận trong tâm trí họ nên hỏi: “Tại sao các người suy luận trong lòng như thế? Bảo rằng: ‘Tội lỗi con đã được tha’ hoặc là: ‘Hãy đứng dậy mà đi?’ điều nào dễ hơn? Nhưng để các người biết trên cõi đời này, Con Người có quyền tha tội.” Ngài bảo người bại: “Ta bảo con, hãy đứng dậy, vác chõng đi về nhà!” Lập tức, người bại đứng dậy trước mặt họ, vác chõng mình đi về nhà, tôn vinh Đức Chúa Trời. Mọi người cũng đều kinh ngạc và tôn vinh Đức Chúa Trời. Lòng họ đầy sợ hãi và nói: “Hôm nay, chúng ta đã thấy những việc diệu kỳ!” Sau đó, Đức Giê-su đi ra, thấy một người thu thuế tên Lê-vi đang ngồi tại trạm thu thuế, Ngài bảo: “Hãy theo Ta!” Ông đứng dậy, bỏ tất cả, đi theo Ngài. Lê-vi dọn một tiệc lớn đãi Ngài tại nhà mình. Có một đám đông gồm nhiều người thu thuế và những người khác cùng dự tiệc. Các người Pha-ri-si và các chuyên gia kinh luật phàn nàn với các môn đệ Ngài: “Tại sao các anh ăn uống với bọn thu thuế và kẻ tội lỗi?” Đức Giê-su đáp: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, nhưng người đau yếu mới cần. Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi những người tội lỗi ăn năn.” Họ hỏi Ngài: “Các môn đệ Giăng cũng như các môn đệ người Pha-ri-si thường kiêng ăn cầu nguyện, nhưng các môn đệ Thầy lại ăn uống như thường!” Đức Giê-su đáp: “Các người có thể bắt các chàng phụ rể kiêng ăn khi chàng rể còn ở với họ không? Khi nào chàng rể bị đem đi khỏi, lúc bấy giờ họ mới kiêng ăn.” Ngài cũng kể ngụ ngôn này cho họ nghe: “Không ai xé vải áo mới vá vào áo cũ. Làm như thế sẽ rách áo mới, mà miếng vải mới cũng không hợp với áo cũ. Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ. Như thế, rượu mới sẽ làm nứt bầu cũ, rượu chảy hết mà bầu cũ cũng hư luôn, nhưng rượu mới phải đổ vào bầu mới. Không ai đã uống rượu cũ lại đòi rượu mới, vì người nói rằng: ‘Rượu cũ ngon hơn!’” Một ngày Sa-bát, Đức Giê-su đi qua cánh đồng lúa mì, các môn đệ Ngài bứt bông lúa, lấy tay vò đi và ăn. Mấy người Pha-ri-si trách: “Tại sao các anh làm điều trái luật ngày Sa-bát?” Đức Giê-su đáp: “Các ông chưa đọc chuyện vua Đa-vít đã làm khi vua và đoàn tùy tùng bị đói sao? Vua vào nhà thờ Đức Chúa Trời ăn bánh bày trên bàn thờ và cho các người theo vua ăn nữa. Đó là bánh không ai được phép ăn ngoại trừ các thầy tế lễ; có phải vậy không?” Ngài tiếp: “Con Người là Chúa ngày Sa-bát.” Một ngày Sa-bát khác, Đức Giê-su vào hội đường dạy dỗ. Tại đó, có một người liệt bàn tay phải. Các chuyên gia kinh luật và các người Pha-ri-si theo dõi xem thử Ngài có chữa bệnh trong ngày Sa-bát không, để tìm lý do tố cáo Ngài. Nhưng Ngài biết mưu định của họ, nên bảo người liệt tay: “Hãy đứng dậy, đứng giữa đây!” Người đó đứng dậy. Ngài bảo họ: “Ta hỏi các người một câu: Trong ngày Sa-bát nên làm việc nào cho đúng luật, làm điều thiện hay điều ác, cứu người hay giết người?” Ngài nhìn quanh tất cả họ, rồi bảo người liệt tay: “Anh hãy duỗi bàn tay ra!” Người bệnh duỗi ra, thì tay được lành. Các chuyên gia kinh luật và người Pha-ri-si giận dữ, bàn luận với nhau xem họ phải làm gì với Đức Giê-su. Trong những ngày đó, Đức Giê-su đi lên núi để cầu nguyện. Một hôm Ngài thức suốt đêm cầu nguyện với Đức Chúa Trời. Đến sáng, Ngài gọi các môn đệ đến, chọn mười hai người và lập họ làm sứ đồ. Si-môn, Ngài đặt tên là Phê-rơ; An-rê, em Si-môn; Gia-cơ; Giăng; Phi-líp; Ba-thê-lê-mi; Ma-thi-ơ; Thô-ma; Gia-cơ, con A-phê; Si-môn, được gọi là Xê-lốt; Giu-đa, con Gia-cơ và Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, là kẻ phản bội sau này. Ngài cùng họ xuống núi, đứng tại một nơi bằng phẳng; có đám đông môn đệ cùng rất đông dân chúng từ khắp các vùng Giu-đê, thành Giê-ru-sa-lem, vùng duyên hải Ty-rơ và Si-đôn đến để nghe Ngài giảng dạy và để được chữa lành các bệnh tật. Những người bị tà linh hành hạ cũng được chữa lành. Cả đoàn dân đều tìm cách sờ vào Ngài, vì quyền năng từ Ngài phát ra và chữa lành mọi người. Ngài đưa mắt nhìn các môn đệ và phán dạy:“Phước cho những người nghèo khổ,Vì Nước Đức Chúa Trời thuộc về các con. Phước cho những người hiện đang đói khát,Vì các con sẽ được no đủ.Phước cho những người hiện đang khóc lócVì các con sẽ vui cười. Phước cho các con khi vì Con NgườiMà bị người ta ghen ghét,Loại trừ, lăng mạ, và xóa bỏ tên các con như phường gian ác. Ngày ấy, các con hãy vui mừng nhảy múa, vì các con sẽ được trọng thưởng trên trời; vì tổ phụ họ cũng đã bạc đãi các tiên tri của Chúa như thế. Nhưng khốn cho các người là kẻ giàu có,Vì các người được an ủi rồi. Khốn cho các người là kẻ hiện đang no nê,Vì các người sẽ đói.Khốn cho các người là những kẻ hiện đang vui cười,Vì các người sẽ khóc lóc than vãn. Khốn cho các người khi được mọi người ca tụng,Vì tổ phụ họ cũng đã đối xử với các tiên tri giả như thế. Nhưng ta bảo các con là những người đang lắng nghe: Hãy yêu thương kẻ thù mình, đối xử tử tế với những người ghét mình; Chúc lành cho những kẻ chửi rủa mình, và cầu nguyện cho những người lăng mạ mình. Ai tát con má bên này, hãy đưa luôn má kia cho họ.Ai lấy áo ngoài của con, thì đừng ngăn họ lấy luôn áo trong. Ai xin gì, hãy cho; ai lấy gì, cũng đừng đòi lại. Các con muốn người ta làm cho mình thể nào, hãy làm cho người ta thể ấy. Nếu các con yêu thương những kẻ yêu thương mình, thì có được ân huệ gì đâu! Chính các kẻ tội lỗi cũng yêu thương những người yêu thương họ. Nếu các con làm ơn cho những kẻ làm ơn cho mình, thì có ân huệ gì đâu! Chính kẻ tội lỗi cũng làm y như thế. Nếu các con cho mượn mà trông mong thu lại thì có ân huệ gì đâu! Những kẻ tội lỗi cho kẻ tội lỗi vay mượn để rồi thu lại đủ số. Nhưng các con hãy yêu thương kẻ thù nghịch mình, làm lành và cho mượn mà đừng mong đền ơn, các con sẽ được trọng thưởng và được làm con Đấng Chí Cao, vì Ngài nhân từ đối với những kẻ vô ơn và gian ác. Hãy có lòng thương xót như Cha các con là Đấng có lòng thương xót.” “Đừng đoán xét thì các con khỏi bị đoán xét. Đừng lên án thì các con khỏi bị lên án. Hãy tha thứ thì các con sẽ được tha thứ. Hãy cho, thì các con sẽ được ban cho. Người ta sẽ đong đấu đầy, nén chặt, lắc xuống, thêm cho đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con; vì các con đong cho người ta theo mức nào, thì sẽ được đong lại theo mức ấy.” Ngài còn dạy họ ngụ ngôn này: “Người mù có thể dẫn đường cho người mù không? Cả hai chẳng té xuống hố sao? Môn đệ không hơn thầy, nhưng nếu được dạy dỗ đầy đủ thì sẽ như thầy mình. Sao con thấy cái dằm trong mắt anh em con mà không nhìn biết cây xà trong mắt mình? Sao con dám bảo anh em mình: ‘Này anh, để tôi lấy cái dằm trong mắt cho anh!’ mà không thấy cây xà trong mắt mình? Hỡi kẻ đạo đức giả, trước hết hãy lấy cây xà ra khỏi mắt mình, rồi con mới thấy rõ mà lấy cái dằm trong mắt anh em con. Vì không có cây lành nào sinh quả độc, cũng không có cây độc nào sinh quả lành. Hãy xem quả thì biết cây. Không ai hái vả nơi cây gai, hoặc hái nho nơi bụi gai. Người thiện từ lòng tích lũy điều thiện mà phát ra điều thiện. Kẻ ác từ lòng gian ác mà phát ra điều ác, vì lòng đầy tràn nên miệng nói ra. Tại sao các con gọi Ta là: ‘Chúa, Chúa!’ mà không thực hành lời Ta dạy? Ta sẽ cho các con biết người đến cùng Ta, nghe lời Ta và thực hành thì giống như ai? Người ấy giống như kẻ xây nhà, đào xuống thật sâu, đặt móng trên nền bằng đá; khi có lụt, nước sông chảy xiết, ập vào nhà ấy, nhưng không lay chuyển nổi, vì nhà được xây cất kiên cố. Nhưng kẻ nghe mà không thực hành giống như người cất nhà trên đất, không nền móng, khi bị nước sông chảy xiết ập vào, nhà liền sập, thiệt hại nặng nề.” Sau khi giảng dạy cho dân chúng nghe xong tất cả những lời ấy, Đức Giê-su vào thành Ca-pha-na-um. Một đội trưởng có người đầy tớ mà ông rất thương đang đau nặng gần chết. Khi viên đội trưởng nghe nói về Đức Giê-su, ông phái các trưởng lão Do Thái đi gặp Ngài và xin Ngài đến chữa bệnh cho đầy tớ mình. Các trưởng lão đến gặp Đức Giê-su, nài xin Ngài: “Đội trưởng đáng được Thầy giúp, vì ông ấy thương dân ta và đã xây cất hội đường cho chúng ta.” Đức Giê-su đi với họ. Khi Ngài đi gần tới nhà, viên đội trưởng nhờ mấy người bạn đến thưa với Ngài: “Thưa Thầy, xin khỏi phiền Thầy như thế, tôi không xứng đáng để rước Thầy vào nhà. Vì tôi tự thấy mình không xứng đáng đến gặp Thầy. Xin Thầy chỉ phán một lời, thì đầy tớ tôi sẽ được lành. Vì chính tôi ở dưới quyền người khác; tôi cũng có các binh sĩ dưới quyền tôi. Tôi bảo tên này: ‘Đi!’ thì nó đi, bảo tên kia: ‘Đến!’ thì nó đến và bảo đầy tớ tôi: ‘Làm việc này!’ thì nó làm.” Nghe lời ấy, Đức Giê-su ngạc nhiên, quay lại bảo đoàn dân đang theo Ngài: “Ta cho các người biết, ngay giữa dân Y-sơ-ra-ên, Ta cũng không tìm thấy đức tin nào như thế!” Khi những người được đội trưởng sai đi quay về nhà; thấy người đầy tớ đã lành mạnh rồi. Hôm sau, Ngài đi vào một thành tên là Na-in; các môn đệ và một đoàn dân đông đi theo Ngài. Khi đến gần cổng thành, gặp đám tang người con duy nhất của một bà góa. Nhiều người trong thành cùng đi đưa đám với bà. Thấy bà, Chúa động lòng thương xót, bảo: “Đừng khóc nữa!” Ngài đến gần, sờ quan tài, những người khiêng liền dừng lại. Ngài bảo: “Hỡi cậu trai trẻ, Ta truyền cho con hãy chổi dậy!” Người chết ngồi dậy và bắt đầu nói. Ngài giao cậu lại cho mẹ. Tất cả dân chúng đều sợ hãi và tôn vinh Đức Chúa Trời rằng: “Một tiên tri lớn đã đến giữa chúng ta! Đức Chúa Trời đã thăm viếng dân Ngài!” Lời này loan ra khắp miền Giu-đê và cả các vùng phụ cận. Các môn đệ của Giăng báo cho ông biết mọi việc này. Giăng gọi hai môn đệ, sai đi gặp Chúa mà hỏi: “Chúa chính là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng khác?” Họ đến thưa với Ngài: “Giăng Báp-tít sai chúng tôi đến hỏi Thầy: ‘Thầy chính là Đấng phải đến, hay chúng tôi phải đợi Đấng khác?’” Trong lúc đó, Ngài chữa lành nhiều người bệnh hoạn, đau yếu, bị tà linh ám và cho những người mù lòa thấy được. Ngài đáp: “Các con hãy về báo cáo cho Giăng những việc các con đã nghe và thấy. Người mù được thấy, kẻ què được đi, người phung được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết được sống lại và kẻ nghèo được truyền giảng Phúc Âm. Phước cho ai không vấp phạm vì Ta!” Sau khi các sứ giả của Giăng ra về, Đức Giê-su nói về Giăng cho dân chúng: “Các người đi vào đồng hoang để xem gì? Có phải xem cây sậy bị gió lay? Thế các người đi xem gì nữa? Người mặc nhung lụa gấm vóc ư? Người mặc nhung lụa gấm vóc thường ở trong cung vua. Thế các người đi xem gì nữa? Một vị tiên tri của Chúa? Phải, Ta bảo các người, một vị cao trọng hơn tiên tri nữa. Đây là lời Kinh Thánh viết về người:‘Này chính Ta sai sứ giả Ta đi trước mặt con;Người sẽ dọn đường sẵn cho con.’ Thật Ta bảo các con, giữa vòng loài người không ai lớn hơn Giăng Báp-tít, nhưng người nhỏ nhất trong Nước Đức Chúa Trời còn lớn hơn ông ta.” Toàn thể những người đã được Giăng làm phép báp-tem nghe lời Ngài dạy--kể cả những kẻ thu thuế--đều nhìn nhận đường lối của Đức Chúa Trời là công chính. Nhưng các người Pha-ri-si và chuyên gia kinh luật vì không nhận phép báp-tem của Giăng đã khước từ ý định của Đức Chúa Trời cho họ. “Ta có thể ví người của thế hệ này với điều gì? Họ giống ai? Họ giống trẻ con ngồi nơi phố chợ réo gọi nhau:Bọn tao thổi sáoMà sao bọn bay không nhảy múa!Bọn tao hát nhạc đám tangMà sao bọn bay không khóc lóc kêu than? Giăng Báp-tít đến, kiêng ăn cữ rượu, các người bảo: ‘Ông ấy bị quỷ ám!’ Con Người đến ăn, uống, các người lại bảo: ‘Kìa, người này ham ăn mê uống, kết bạn với bọn thu thuế và người tội lỗi!’ Nhưng sự khôn ngoan được tất cả con cái mình biện minh.” Một người Pha-ri-si mời Ngài ăn; Ngài đến nhà ông và ngồi vào bàn ăn. Trong thành ấy có một người đàn bà trụy lạc. Biết Ngài đang ngồi ăn trong nhà người Pha-ri-si, nàng đem theo một lọ bạch ngọc đựng dầu thơm, đến đứng phía sau bên chân Ngài mà khóc; khi nước mắt rơi ướt chân Ngài, nàng lấy tóc mình lau và hôn chân Ngài rồi xức dầu thơm lên. Người Pha-ri-si mời Ngài thấy thế, thầm nghĩ: “Nếu người này thật là tiên tri của Chúa, hẳn đã biết người đàn bà đang đụng đến mình là ai, thuộc hạng người nào, vì nàng là người trụy lạc.” Đức Giê-su nói với Si-môn: “Si-môn ơi, Ta có một điều cần nói với con!” Si-môn đáp: “Thưa Thầy, xin Thầy cứ dạy!” Ngài bảo: “Người chủ nợ kia có hai con nợ. Người này mắc nợ năm trăm đồng đê-na-ri; người kia năm chục. Hai người đều không có tiền trả, nên chủ nợ tha cho cả hai. Trong hai người đó ai thương mến chủ nợ hơn?” Si-môn thưa: “Tôi nghĩ là người được tha món nợ lớn hơn!” Chúa khen: “Con nói đúng lắm!” Ngài quay lại phía người đàn bà và bảo Si-môn: “Con thấy chị này không? Ta vào nhà con, con không cho Ta nước rửa chân. Nhưng chị này đổ nước mắt thấm ướt chân Ta rồi lấy tóc mà lau. Con không hôn chào Ta, nhưng từ khi Ta vào đây chị này đã hôn chân Ta không ngớt. Con không xức dầu cho đầu Ta, nhưng chị này lấy dầu thơm xức chân Ta. Vậy nên, Ta bảo cho con biết: Dù tội lỗi chị này nhiều lắm, nhưng đã được tha thứ hết, nên chị yêu mến nhiều. Ai được tha thứ ít thì yêu mến ít.” Ngài bèn bảo người đàn bà: “Tội lỗi con đã được tha.” Các khách dự tiệc hỏi nhau: “Ông này là ai mà tha tội được?” Nhưng Ngài lại bảo người đàn bà: “Đức tin con đã cứu con! Hãy đi bình an!” Sau đó, Đức Giê-su cứ đi từ thành này sang thành khác, từ làng nọ qua làng kia để truyền giảng Phúc Âm về Nước Đức Chúa Trời. Mười hai sứ đồ theo Ngài cùng với các phụ nữ đã từng được Ngài đuổi quỷ, chữa bệnh: Ma-ri còn gọi là Ma-đơ-len, người được Chúa giải thoát khỏi bảy quỷ dữ, Giô-a-na, vợ của Chu-xa, người quản lý hoàng cung Hê-rốt, Su-sa-na, và nhiều bà khác nữa. Họ dùng tài sản mình phục vụ Chúa và các môn đệ Ngài. Trong khi một đám đông tụ họp, và những người từ các thành kéo nhau đến với Đức Giê-su, Ngài dùng một ngụ ngôn dạy họ: “Một người kia đi gieo giống. Đang khi gieo, một số hạt rơi dọc đường, bị dẫm lên rồi chim ăn hết. Một số khác rơi nhằm chỗ đá sỏi, mọc lên rồi khô héo vì thiếu ẩm ướt. Hạt khác rơi vào giữa nơi gai góc, mọc lên chung với gai và bị nghẹt. Nhưng một số khác nữa rơi vào đất tốt, mọc lên, kết hạt gấp trăm lần.” Khi nói những điều này, Ngài kêu lớn: “Ai có tai, hãy lắng nghe!” Các môn đệ hỏi Ngài ngụ ngôn ấy có nghĩa gì. Ngài đáp: “Đức Chúa Trời cho các con hiểu biết huyền nhiệm của Nước Đức Chúa Trời, còn những người khác phải dùng ngụ ngôn để họ,Nhìn mà không thấy,Nghe mà chẳng hiểu.” “Đây là ý nghĩa ngụ ngôn ấy: Hạt giống là Lời Đức Chúa Trời; Hạt giống rơi dọc đường là những người nghe nhưng rồi bị quỷ vương đến cướp lời ấy khỏi lòng họ, kẻo họ tin mà được cứu rỗi. Hạt giống rơi nhằm chỗ đá sỏi là những người nghe và vui mừng tiếp nhận lời Chúa, nhưng không đâm rễ, chỉ tin một thời gian, đến khi gặp thử thách thì bỏ cuộc. Hạt giống rơi vào nơi gai góc là người đã nghe, nhưng trong cuộc sống, bị những nỗi lo lắng, giàu sang và lạc thú của cuộc đời làm cho nghẹt không trưởng thành được. Nhưng hạt giống rơi vào đất tốt là những người với tấm lòng thanh cao, tốt đẹp nghe đạo, giữ vững đạo và nhờ kiên trì sinh kết quả.” “Không ai thắp đèn rồi đem giấu trong thùng hay để dưới gầm giường, nhưng đặt trên giá đèn để ai bước vào cũng thấy ánh sáng. Vì không có điều gì giấu kín mà sẽ không bị tỏ lộ; chẳng có điều gì giữ bí mật mà sẽ không biết và bị phơi bày. Vậy, các con hãy cẩn thận về cách mình nghe. Ai có sẽ được cho thêm; ai không có, cũng sẽ bị lấy luôn điều họ tưởng mình có.” Mẹ và các em Đức Giê-su đến cùng Ngài, nhưng vì đám đông nên không thể gặp Ngài được. Có người thưa với Ngài: “Mẹ và các em Thầy đang đứng bên ngoài, muốn gặp Thầy.” Ngài đáp: “Mẹ Ta và anh em Ta là những người nghe và làm theo lời Đức Chúa Trời!” Một hôm, Đức Giê-su xuống thuyền với các môn đệ và nói: “Chúng ta hãy qua bên kia bờ hồ!” Vậy họ chèo thuyền đi. Đang khi thuyền đi thì Ngài ngủ. Một trận cuồng phong thổi vào hồ; thuyền bắt đầu ngập nước, thật là nguy hiểm. Các môn đệ đến đánh thức Ngài và thưa: “Thầy ơi! Thầy ơi! Chúng ta chết mất!” Nhưng Ngài thức dậy, quở gió và sóng, thì sóng gió lặng yên. Ngài trách các môn đệ: “Đức tin các con ở đâu?” Họ vừa sợ vừa kinh ngạc, bảo nhau: “Ngài là ai mà ra lệnh cho sóng gió thì chúng vâng theo?” Họ chèo thuyền đến vùng Giê-ra-sê, đối ngang Ga-li-lê. Ngài vừa lên bờ, một người ở thành ấy bị quỷ ám đến gặp Ngài. Lâu nay, anh không mặc quần áo, cũng không ở trong nhà nhưng ở ngoài mồ mả. Khi thấy Đức Giê-su, anh gào thét, quỳ xuống trước Ngài, kêu lớn: “Lạy Đức Giê-su, Con Đức Chúa Trời Chí Cao, tôi có can hệ gì với Ngài đâu? Tôi van Ngài, xin đừng hành hạ tôi,” vì Đức Giê-su ra lệnh cho tà linh xuất khỏi anh. Nhiều lần quỷ nhập, dù dùng cùm xích và canh giữ, anh vẫn bẻ xiềng tháo cùm và bị quỷ dẫn ra những nơi đồng hoang. Đức Giê-su hỏi nó: “Ngươi tên gì?” Nó thưa: “Đạo binh!” Vì anh này bị nhiều quỷ ám. Các quỷ cứ nài xin Ngài đừng truyền lệnh bắt chúng xuống vực sâu. Ở đó, có một bầy heo rất đông đang ăn trên đồi. Chúng xin Ngài cho phép nhập vào bầy heo, Ngài chấp thuận. Các quỷ ra khỏi người, nhập vào bầy heo. Bầy heo liền lao đầu từ bờ vực xuống hồ chết chìm cả. Các kẻ chăn heo thấy việc xảy ra, thì bỏ chạy và thuật lại cho người trong thành phố và vùng thôn quê. Dân chúng kéo ra xem. Khi đến gần Đức Giê-su, họ thấy người mà quỷ vừa xuất đang ngồi dưới chân Ngài, quần áo chỉnh tề, tâm trí tỉnh táo, thì sợ hãi. Những người đã chứng kiến thuật lại cho họ nghe người bị quỷ ám đã được chữa lành như thế nào. Tất cả dân chúng quanh vùng Giê-ra-sê đều xin Ngài đi nơi khác vì họ quá sợ hãi. Vậy, Ngài xuống thuyền trở về. Người được giải thoát khỏi quỷ năn nỉ xin đi theo Ngài, nhưng Ngài cho anh về, bảo: “Con hãy về nhà mình, thuật lại những việc Đức Chúa Trời đã làm cho con!” Vậy, anh ấy đi khắp thành, công bố những việc Đức Giê-su đã làm cho mình. Khi Đức Giê-su trở về, một đám đông đón rước Ngài vì tất cả đều đang trông đợi Ngài. Một người tên Giai-ru, làm quản lý hội đường, đến quỳ dưới chân Ngài và nài xin Ngài vào nhà mình, vì đứa con gái một của ông, độ mười hai tuổi, đang hấp hối. Khi Ngài đang đi, đoàn dân đông lấn ép Ngài. Có một người đàn bà bị xuất huyết đã mười hai năm, không ai chữa trị được. Bà đến sau lưng Ngài, sờ vào gấu áo Ngài; lập tức máu liền cầm lại. Đức Giê-su hỏi: “Ai sờ Ta vậy?” Khi mọi người đều chối, Phê-rơ nói: “Thưa Thầy, dân chúng đông đảo đang lấn ép, xô đẩy Thầy!” Nhưng Đức Giê-su đáp: “Có người đã sờ đến Ta, vì Ta biết có quyền năng từ Ta phát ra.” Khi thấy không thể nào giấu được nữa, người đàn bà run rẩy đến quỳ trước Ngài. Trước mặt dân chúng bà nói rõ vì sao bà sờ gấu áo Ngài và tức khắc được chữa lành như thế nào. Ngài bảo bà: “Con gái Ta ơi, đức tin con đã chữa lành con, hãy đi bình an!” Ngài còn đang nói, có người nhà viên quản lý hội đường đến báo tin: “Con gái ông chết rồi! Đừng phiền Thầy nữa!” Nhưng khi nghe vậy, Đức Giê-su bảo Giai-ru: “Đừng sợ! Chỉ tin mà thôi; con gái ông sẽ được cứu sống!” Đến nhà Giai-ru, Ngài không cho ai vào cả, ngoại trừ Phê-rơ, Giăng, Gia-cơ và cha mẹ em bé. Mọi người đang khóc lóc, tiếc thương đứa bé, Ngài bảo: “Đừng khóc! Đứa bé không chết đâu, nó chỉ ngủ thôi!” Họ chế nhạo Ngài vì biết nó đã chết. Nhưng Ngài nắm tay nó truyền gọi: “Con ơi, hãy dậy!” Linh hồn trở về, em bé liền đứng dậy. Ngài bảo cho em bé ăn. Cha mẹ em bé kinh ngạc vô cùng nhưng Ngài căn dặn họ đừng nói cho ai biết việc vừa xảy ra. Đức Giê-su gọi mười hai sứ đồ lại, ban cho năng lực và thẩm quyền để trừ tất cả các quỷ và chữa bệnh. Ngài sai họ đi truyền giảng Nước Đức Chúa Trời và chữa lành những người đau ốm. Ngài bảo họ: “Đi đường, các con đừng đem theo gì cả; đừng đem theo gậy, túi, thực phẩm, tiền bạc, cũng đừng đem theo hai áo choàng. Các con vào nhà nào, cứ ở lại đó cho đến khi đi. Nếu thành nào người ta không tiếp đón các con thì khi ra khỏi thành ấy, hãy phủi bụi nơi chân để tỏ ý đối kháng với họ.” Các sứ đồ ra đi, từ làng này qua làng khác, truyền giảng Phúc Âm và chữa lành bệnh tật khắp nơi. Nghe về mọi việc xảy ra, Hê-rốt, vua chư hầu, rất hoang mang vì có người nói: “Giăng Báp-tít đã sống lại từ cõi chết;” cũng có người bảo: “Tiên tri Ê-li đã hiện ra!” Nhưng có kẻ khác lại cho rằng một tiên tri thời xưa đã sống lại. Nhưng vua Hê-rốt nói: “Giăng thì Ta đã chém đầu rồi, còn người này là ai mà ta nghe đồn người đã làm những việc như thế?” Nên vua tìm cách gặp Đức Giê-su. Các sứ đồ trở về tường trình cho Ngài những việc họ đã làm. Ngài đem họ đi riêng ra, đến thành Bết-sai-đa, nhưng dân chúng biết được, kéo theo Ngài. Ngài đón tiếp họ, giảng giải về Nước Đức Chúa Trời và chữa cho những người cần được lành bệnh. Trời đã xế chiều, mười hai sứ đồ đến thưa: “Xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc thôn xóm xung quanh tìm chỗ ăn và nghỉ, vì đây là nơi đồng hoang.” Nhưng Ngài bảo: “Chính các con hãy cho họ ăn!” Các sứ đồ thưa: “Nếu chúng con không đi mua thức ăn cho cả đoàn dân này, thì chúng con chỉ có năm ổ bánh và hai con cá!” Có độ năm ngàn người đàn ông ở đó. Nhưng Ngài bảo các môn đệ: “Các con hãy cho họ ngồi thành từng nhóm, mỗi nhóm độ năm mươi người.” Các môn đệ làm theo, sắp xếp cho mọi người ngồi xuống. Ngài cầm năm ổ bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, chúc phước, rồi bẻ ra, trao cho các môn đệ để dọn ra trước đoàn dân. Tất cả đều ăn no nê; những mẩu bánh thừa thu lại được mười hai giỏ đầy. Đang lúc Đức Giê-su ở riêng cầu nguyện, có các môn đệ bên cạnh, Ngài hỏi họ: “Đoàn dân nói Ta là ai?” Họ thưa: “Người thì nói là Giăng Báp-tít, kẻ thì bảo là Ê-li, những người khác lại cho rằng Thầy là một tiên tri thời xưa sống lại.” Ngài hỏi tiếp: “Còn các con nói Ta là ai?” Phê-rơ thưa: “Thầy là Chúa Cứu Thế của Đức Chúa Trời!” Ngài nghiêm cấm các môn đệ không được nói với ai điều ấy. Đức Giê-su dạy: “Con Người phải chịu nhiều khốn khổ, sẽ bị các trưởng lão, các thượng tế và các chuyên gia kinh luật khai trừ, giết chết rồi sau ba ngày sẽ sống lại.” Ngài lại bảo tất cả các môn đệ: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, hằng ngày vác thập tự giá mình và theo Ta. Vì ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; nhưng ai hy sinh tính mạng vì Ta, thì sẽ cứu được. Nếu một người được cả thế gian mà chính mình phải bị hư mất hay tổn hại, thì lợi ích gì đâu? Vì nếu ai hổ thẹn về Ta và về đạo Ta thì Con Người sẽ hổ thẹn về người đó, khi Ngài trở lại trong vinh quang của Ngài, của Cha và của các thiên sứ thánh. Thật Ta bảo cho các con, vài người đang đứng đây hẳn sẽ không nếm sự chết cho đến khi thấy Nước Đức Chúa Trời.” Độ tám ngày sau khi phán dạy những điều ấy, Đức Giê-su đem theo Phê-rơ, Giăng và Gia-cơ lên núi để cầu nguyện. Đang khi Ngài cầu nguyện, diện mạo Ngài biến đổi; áo Ngài trở nên rực sáng trắng toát. Có hai người hầu chuyện với Ngài là Môi-se và Ê-li. Họ hiện ra trong hào quang, bàn về việc Ngài ra đi là việc Ngài sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem. Phê-rơ và các bạn buồn ngủ lắm, nhưng khi thấy hào quang của Ngài và của hai người đứng với Ngài thì tỉnh hẳn. Khi hai người từ giã Ngài, Phê-rơ thưa với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, ở lại đây tốt quá! Ta hãy dựng ba lều; một cho Thầy, một cho Môi-se và một cho Ê-li.” Ông nói mà không hiểu mình nói gì. Phê-rơ còn đang nói, một đám mây kéo đến che khuất Ngài, Môi-se và Ê-li; khi họ vào trong đám mây các môn đệ sợ hãi. Từ trong đám mây có tiếng phán: “Đây là Con Ta, Đấng đã được chọn. Hãy nghe theo Ngài!” Khi tiếng phán vang ra, chỉ còn lại một mình Đức Giê-su mà thôi. Trong những ngày đó các môn đệ im lặng, không thuật lại cho ai những điều mình được chứng kiến. Hôm sau, khi Đức Giê-su và các môn đệ xuống núi, một đoàn dân đông đến đón Ngài. Một người trong đám đông kêu lớn: “Thưa Thầy, con xin Thầy đoái xem con trai con đây, vì con chỉ có một mình nó. Quỷ nhập vào nó, bất chợt rú lên, vật nó làm sôi bọt mồm, cứ gây thương tích cho nó và ít khi chịu rời nó. Con đã xin các môn đệ Thầy đuổi quỷ, nhưng họ không đuổi nổi.” Đức Giê-su đáp: “Ôi, thế hệ vô tín, đồi trụy! Ta sẽ phải ở với các người và chịu đựng các người đến bao giờ? Hãy đem con trai anh lại đây!” Lúc đứa trẻ đến gần Ngài, quỷ vật nó xuống làm nó giãy giụa. Nhưng Đức Giê-su quở tà linh và chữa lành đứa trẻ, rồi giao lại cho cha nó. Cả đoàn dân đều kinh ngạc về quyền uy vĩ đại của Đức Chúa Trời.Khi mọi người đang sững sờ về mọi việc Ngài làm, Ngài bảo các môn đệ: “Các con hãy lắng nghe cho kỹ những điều Ta nói đây! Con Người sắp bị nộp vào tay người ta.” Nhưng họ không hiểu lời ấy, vì còn bị che khuất đối với họ, khiến họ không nhận biết được và họ cũng sợ không dám hỏi Ngài về lời này. Các môn đệ tranh luận với nhau xem ai lớn nhất trong nhóm mình. Đức Giê-su biết ý tưởng họ, nên đem một đứa trẻ lại đứng bên cạnh Ngài, và bảo: “Ai nhân danh Ta tiếp đón đứa trẻ này tức là tiếp đón Ta. Ai tiếp nhận Ta là tiếp nhận Đấng đã sai ta. Vì người hèn mọn nhất trong các con, là người cao trọng nhất.” Giăng thưa: “Thưa Thầy, chúng con thấy một người nhân danh Thầy để đuổi quỷ, nhưng chúng con đã ngăn cấm vì người ấy không theo chúng ta.” Ngài bảo: “Đừng ngăn cấm, vì ai không chống đối các con là người thuận với các con!” Gần đến ngày về trời, Đức Giê-su quyết tâm đi lên Giê-ru-sa-lem. Ngài sai các sứ giả đi trước; trên đường họ vào một làng Sa-ma-ri để chuẩn bị chỗ trọ cho Ngài, nhưng dân chúng không chịu tiếp Ngài, vì Ngài đi lên Giê-ru-sa-lem. Gia-cơ và Giăng thấy thế, thưa: “Lạy Chúa, Chúa có muốn chúng con khiến lửa từ trời giáng xuống thiêu hủy họ không?” Nhưng Ngài quay lại quở trách hai người, rồi cùng các môn đệ đi qua một làng khác. Khi đang đi đường, một người thưa với Ngài: “Thầy đi đâu, con sẽ theo đó!” Đức Giê-su đáp: “Chồn cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ gối đầu!” Ngài bảo một người khác: “Con hãy theo Ta!” Nhưng người ấy thưa: “Xin cho phép con đi chôn cất cha con trước đã!” Ngài tiếp: “Con hãy để kẻ chết chôn kẻ chết của họ! Còn con, hãy đi truyền giảng Nước Đức Chúa Trời!” Một người khác thưa: “Lạy Chúa, con sẽ theo Chúa, nhưng trước hết xin cho phép con về từ giã người nhà trước đã!” Đức Giê-su đáp: “Ai đã tra tay cầm cày, còn ngoảnh nhìn lại đằng sau thì không xứng hợp với Nước Đức Chúa Trời!” Sau đó, Chúa lập lên bảy mươi hai môn đệ khác, sai từng toán hai người đi trước Ngài đến mọi thành, mọi chỗ mà Ngài định đến. Ngài bảo họ: “Mùa gặt thật trúng, nhưng thợ gặt lại ít. Vậy hãy nài xin chủ mùa gặt sai thêm thợ gặt vào mùa gặt của Ngài. Các con hãy ra đi! Này, ta sai các con đi như chiên con giữa bầy muông sói. Đừng đem túi tiền, bao bị hay giày dép. Đừng chào hỏi ai dọc đường. Các con vào nhà nào, trước hết hãy nói: ‘Chúc nhà này được bình an!’ Nếu nhà ấy có người đáng hưởng bình an, thì sự bình an của các con sẽ ở cùng người ấy; nếu không, sự bình an sẽ trở về với các con. Hãy ở lại trong nhà ấy và ăn uống với họ những thức họ mời, vì công nhân đáng được trả công. Đừng đổi chỗ trọ từ nhà này sang nhà khác. Vào thành nào được người ta đón tiếp, các con hãy ăn thực phẩm họ dọn cho. Hãy chữa lành người đau ở đó và bảo họ: ‘Nước Đức Chúa Trời đã đến gần các người!’ Nhưng khi các con vào thành nào người ta không đón tiếp, hãy ra ngoài đường phố công bố: ‘Ngay đến bụi thành phố đã dính vào chân chúng tôi thì cũng phủi đi nghịch cùng các người! Dù vậy, nên biết điều này: Nước Đức Chúa Trời đã đến gần!’ Ta bảo các con, trong ngày ấy, Sô-đôm còn được khoan hồng hơn thành phố này! Khốn cho ngươi, thành Cô-ra-xin! Khốn cho ngươi, thành Bết-sai-đa! Vì nếu các phép lạ làm giữa các ngươi đã được làm tại Ty-rơ và Si-đôn, thì chúng đã mặc bao gai và ngồi trong tro bụi mà ăn năn từ lâu rồi. Nhưng trong ngày phán xét, Ty-rơ và Si-đôn còn được khoan hồng hơn các ngươi. Còn ngươi, thành Ca-pha-na-um! Ngươi sẽ được nâng cao tận trời sao? Không, ngươi sẽ bị quăng xuống tận Âm Phủ! Ai nghe các con là nghe Ta. Ai khước từ các con là khước từ Ta. Ai khước từ Ta là khước từ Đấng đã sai Ta.” Bảy mươi hai môn đệ vui mừng trở về trình: “Thưa Chúa, nhờ danh Chúa, chính các quỷ cũng khuất phục chúng con!” Nhưng Ngài bảo: “Ta đã thấy Sa-tan từ trời sa xuống như chớp nhoáng. Này, Ta ban cho các con quyền uy để đạp trên rắn độc, bò cạp, và trên mọi quyền năng của kẻ thù nghịch, không gì làm hại các con được. Tuy nhiên, đừng mừng vì các tà linh khuất phục các con, nhưng hãy mừng vì tên các con đã được ghi ở trên trời.” Vào giờ đó, Đức Giê-su vô cùng vui mừng trong Thánh Linh. Ngài cầu nguyện: “Lạy Cha, Con ca ngợi Cha, Chúa Tể của trời đất, vì Cha giấu kín những điều này với người khôn ngoan, thông sáng, mà tiết lộ cho trẻ thơ. Vâng, thưa Cha, việc này đẹp lòng Cha!” “Cha đã giao thác mọi sự cho Ta. Ngoài Cha ra không ai biết Con là ai; ngoài Con ra và người nào Con muốn bày tỏ cho, cũng không ai biết Cha là ai.” Ngài quay lại nói với các môn đệ và bảo riêng: “Phước cho mắt ai được thấy những điều các con nhìn thấy. Vì Ta cho các con biết: Nhiều tiên tri và vua chúa muốn thấy những điều các con nhìn thấy mà không thấy được, muốn nghe những điều các con nghe, mà không nghe được.” Một chuyên gia kinh luật đứng lên hỏi để thử Ngài: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được hưởng sự sống vĩnh phúc?” Ngài hỏi lại: “Trong Kinh Luật đã chép những gì? Ông đọc thấy thế nào?” Chuyên gia kinh luật thưa: “Ngươi hãy hết lòng, hết linh hồn, hết sức, hết trí yêu kính Chúa, là Đức Chúa Trời ngươi và yêu thương người lân cận như mình.” Ngài bảo: “Ông trả lời đúng! Hãy thực hành điều ấy thì ông sẽ sống!” Nhưng ông ấy muốn biện minh cho mình, nên hỏi Đức Giê-su: “Ai là người lân cận tôi?” Nhân đó Đức Giê-su kể: “Một người đi từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-cô, lâm vào tay bọn cướp. Chúng lột hết áo quần, đánh đập, rồi bỏ đi, để người đó dở sống dở chết. Nhằm lúc ấy, một vị tế lễ đi xuống đường đó, thấy nạn nhân, thì đi tránh qua bên kia đường. Tương tự như thế, một người Lê-vi đến nơi, thấy vậy, cũng tránh qua bên kia đường. Nhưng một người Sa-ma-ri đi đường, đến gần thấy nạn nhân, động lòng thương xót, áp lại, băng bó vết thương, thoa dầu, bóp rượu; rồi đỡ nạn nhân lên lừa mình, chở đến quán trọ săn sóc. Hôm sau, người ấy lấy hai đồng đê-na-ri đưa cho chủ quán và dặn: ‘Hãy săn sóc nạn nhân, tốn kém thêm bao nhiêu, khi trở về, tôi sẽ trả cho!’ Trong ba người đó, ông nghĩ ai là người lân cận đối với kẻ bị cướp?” Chuyên gia kinh luật thưa: “Người đã có lòng thương xót nạn nhân!” Đức Giê-su bảo: “Hãy đi, làm y như vậy!” Khi Đức Giê-su cùng các môn đệ đi đường, Ngài ghé vào một làng kia; một người đàn bà tên Ma-thê tiếp rước Ngài vào nhà. Nàng có cô em gái tên là Ma-ri, ngồi dưới chân Ngài và lắng nghe lời Ngài dạy. Nhưng Ma-thê mải lo nhiều việc phục vụ, đến thưa với Ngài: “Thưa Chúa, em con bỏ mặc con phục vụ một mình, sao Chúa không lưu ý? Xin Chúa bảo nó giúp con!” Ngài đáp: “Ma-thê, Ma-thê! Con lo lắng và rối trí về nhiều việc, nhưng chỉ có một việc cần thôi. Ma-ri đã chọn phần tốt hơn, là điều không ai đoạt lấy được!” Ngày kia, tại một địa điểm nọ, Đức Giê-su vừa cầu nguyện xong, một môn đệ nói: “Thưa Chúa, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như Giăng đã dạy môn đệ mình.” Ngài bảo họ: “Khi các con cầu nguyện, hãy nói:Lạy Cha,Nguyện danh Cha được tôn thánh,Nước Cha được đến! Xin cho chúng con thức ăn đủ sống mỗi ngày! Xin tha tội chúng con,Vì chúng con cũng tha mọi người mắc nợ chúng con!Và xin chớ đem chúng con vào sự cám dỗ.” Ngài dạy tiếp: “Giả định một người trong các con có người bạn, nửa đêm đến nhà bạn ấy yêu cầu: ‘Anh ơi, cho tôi mượn ba ổ bánh, vì tôi có bạn đi đường mới tới, nhưng tôi không có gì mời ăn.’ Người bạn trong nhà đáp: ‘Anh đừng quấy rầy tôi! Cửa đã đóng rồi; các con tôi đang ngủ cùng giường với tôi. Tôi không thể nào dậy lấy bánh cho anh được!’” Ta bảo các con: “Dù người kia không chịu dậy đưa bánh vì tình bằng hữu, nhưng cũng phải dậy đưa đầy đủ số bánh bạn mình cần vì bị kèo nài.” Ta cũng bảo các con: “Hãy xin sẽ được, hãy tìm sẽ gặp, hãy gõ, cửa sẽ mở ra cho các con. Vì ai xin sẽ được, ai tìm sẽ gặp, ai gõ thì cửa sẽ mở. Trong các con, có người nào làm cha mà con mình xin cá lại cho rắn, xin trứng lại cho bò cạp không? Vậy, nếu các con là người xấu, còn biết cho con cái mình vật tốt, huống gì Cha trên trời lại không ban Thánh Linh cho những người cầu xin Ngài sao?” Đức Giê-su đuổi một quỷ câm, khi quỷ xuất, người câm nói được, nên dân chúng kinh ngạc. Nhưng có vài người nói: “Ông ấy cậy quỷ vương Bê-ên-xê-bun mà đuổi quỷ.” Một số người khác xin Ngài làm một dấu lạ từ trời để thử Ngài. Biết thấu tư tưởng họ, Ngài đáp: “Nước nào chia rẽ sẽ bị suy vong; nhà nào phân ly sẽ bị đổ vỡ. Nếu Sa-tan tự chia rẽ với mình, thì vương quốc nó làm sao tồn tại được? Vì các người nói rằng Ta nhờ Bê-ên-xê-bun để đuổi quỷ. Nếu Ta cậy Bê-ên-xê-bun mà đuổi quỷ, thì con cái các người sẽ nhờ ai mà đuổi quỷ? Trong việc này, chúng sẽ xử đoán các người. Nếu Ta cậy ngón tay Đức Chúa Trời mà đuổi quỷ, thì Nước Đức Chúa Trời đã đến nơi các người rồi! Khi một kẻ mạnh bạo, vũ trang đầy đủ phòng thủ lâu đài mình, thì tài sản được an toàn. Nhưng khi có ai mạnh hơn tấn công chiến thắng nó, thì người ấy tước khí giới nó nhờ cậy và phân phát chiến lợi phẩm. Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta. Ai không kết hợp với Ta đều tan lạc. Khi một tà linh ra khỏi một người, nó đi qua những nơi khô hạn tìm chỗ nghỉ ngơi. Tìm không được, nó tự nhủ: ‘Ta sẽ trở về nhà mà ta mới ra khỏi!’ Về đến nhà, thấy đã quét dọn và sắp xếp lại, nó liền đi đem bảy quỷ khác, dữ hơn nó vào ở trong nhà và tình trạng về sau của người này trở thành tệ hại hơn trước.” Khi Ngài đang dạy những điều ấy, một người đàn bà trong đám đông lên tiếng: “Phước cho dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú!” Nhưng Ngài đáp: “Những người nghe lời Đức Chúa Trời và vâng giữ còn có phước hơn!” Thấy đoàn dân kéo đến càng đông, Ngài bắt đầu phán dạy: “Thế hệ này thật là một thế hệ gian ác! Họ tìm kiếm một dấu lạ, nhưng sẽ chẳng cho dấu lạ nào ngoài dấu lạ Giô-na. Vì Giô-na là dấu lạ cho dân Ni-ni-ve thể nào, thì Con Người cũng là dấu lạ cho thế hệ này thể ấy. Trong ngày phán xét, nữ hoàng nam phương sẽ đứng dậy nghịch cùng những người của thế hệ này và lên án họ, vì bà đã từ chân trời góc bể đến nghe lời khôn ngoan của Sa-lô-môn, mà nay tại đây có Đấng vĩ đại hơn Sa-lô-môn. Trong ngày phán xét, dân thành Ni-ni-ve sẽ đứng dậy, lên án thế hệ này, vì dân ấy đã ăn năn khi nghe Giô-na giảng, mà nay tại đây có Đấng vĩ đại hơn Giô-na! Không ai thắp đèn rồi đem giấu vào chỗ khuất hoặc dưới thùng, nhưng đặt trên giá đèn để những người bước vào đều thấy ánh sáng. Mắt là đèn của thân thể. Khi mắt tinh tường, thì cả con người cũng sáng sủa. Nhưng nếu mắt kém, thì cả con người cũng tối tăm. Vậy, hãy coi chừng, để ánh sáng trong anh chị em không phải là bóng tối. Nếu cả thân thể anh chị em sáng sủa, không có phần nào tối tăm thì mới sáng sủa hoàn toàn, như khi ánh đèn toả sáng trên anh chị em.” Đức Giê-su vừa dạy xong, một người Pha-ri-si mời Ngài dùng bữa. Bước vào nhà, Ngài ngồi vào bàn ăn. Người Pha-ri-si này thấy Ngài không rửa tay trước bữa ăn thì ngạc nhiên. Nhưng Chúa bảo ông ta: “Người Pha-ri-si các ông chỉ hay rửa bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong các ông lại đầy dẫy sự gian ác và trộm cướp. Sao khờ dại thế! Đấng dựng nên bên ngoài lại không tạo nên bề trong sao? Nhưng hãy bố thí những gì mình có, thì mọi sự đều trong sạch cho các ông. Nhưng khốn cho các ông là người Pha-ri-si, vì các ông dâng phần mười bạc hà, rau cần, và mọi thứ rau cỏ, mà bỏ qua công lý và lòng yêu kính Đức Chúa Trời. Các ông cần phải làm các điều này, nhưng đừng bỏ các điều kia. Khốn cho các ông, người Pha-ri-si, vì các ông thích ngồi ghế danh dự trong hội đường và ưa được chào hỏi giữa phố phường. Khốn cho các ông vì các ông giống như mồ hoang không còn tàn tích, người ta đạp lên mà không biết!” Một chuyên gia kinh luật nói: “Thưa Thầy, Thầy nói thế là nhục mạ luôn cả chúng tôi nữa!” Ngài đáp: “Khốn cho các ông, giới chuyên gia kinh luật, vì các ông chất trên người khác những gánh nặng khó mang, còn chính các ông không động ngón tay vào. Khốn cho các ông, vì các ông xây mộ cho các tiên tri mà tổ phụ các ông đã giết hại. Vì thế, các ông làm nhân chứng và hoàn toàn tán thành việc làm của họ: Tổ phụ thì giết tiên tri, còn các ông lại xây mộ. Bởi thế, lời cao minh của Đức Chúa Trời đã nói: ‘Ta sẽ sai các tiên tri và các sứ đồ đến cùng chúng; Chúng sẽ giết người này, bức hại kẻ kia,’ để có thể đòi thế hệ này trả nợ máu của mọi tiên tri đã đổ ra từ thuở khai thiên lập địa, từ máu của A-bên cho đến máu của Xa-cha-ri, là người bị giết giữa bàn thờ và nhà thờ. Phải, Ta bảo các ông, sẽ phải đòi thế hệ này trả nợ ấy. Khốn cho các ông là các chuyên gia kinh luật, vì các ông giữ chìa khóa kho tri thức, chính các ông không vào đó nhưng ai vào, thì các ông ngăn chặn!” Khi Ngài rời nơi đó, các người Pha-ri-si và các chuyên gia kinh luật rất căm giận, theo vặn hỏi Ngài đủ điều, rình rập để bắt bẻ từng lời nói của Ngài. Trong khi đó, một đoàn dân đông hàng vạn người tụ họp chen chúc đến nỗi dẫm lên nhau. Ngài bắt đầu dạy các môn đệ trước: “Các con hãy đề phòng men của người Pha-ri-si, tức là lối sống đạo đức giả. Không điều gì che đậy mà sẽ khỏi bị tỏ bày; không điều gì giấu kín mà sẽ khỏi bị phát hiện. Vì thế, những lời các con nói trong tối sẽ được nghe ngoài sáng; những tiếng rỉ tai trong phòng riêng sẽ được công bố trên sân thượng. Ta bảo các con, những bạn thân của Ta: ‘Đừng sợ những kẻ giết thân xác rồi sau đó không làm gì được nữa. Nhưng Ta sẽ bảo cho các con phải sợ ai: Hãy sợ Đấng sau khi giết rồi còn có quyền ném vào hỏa ngục. Phải, Ta bảo các con, hãy sợ Đấng ấy!’ Có phải năm con chim sẻ chỉ bán được hai đồng tiền sao? Thế mà, không một con nào bị Đức Chúa Trời bỏ quên! Hơn nữa, ngay tóc trên đầu các con cũng đã được đếm hết rồi. Vậy, đừng sợ, vì các con còn quý hơn nhiều chim sẻ!” “Ta bảo các con, hễ ai tuyên xưng Ta trước mặt loài người, thì Con Người cũng sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt các thiên sứ của Đức Chúa Trời; còn ai chối từ Ta trước mặt loài người sẽ bị chối từ trước các thiên sứ của Đức Chúa Trời. Ai nói phạm đến Con Người sẽ được tha thứ; nhưng ai phạm thượng chống Thánh Linh sẽ không được tha đâu! Khi người ta giải các con ra hội đường, hoặc ra trước các người cai trị, các nhà cầm quyền, thì đừng lo phải biện bạch cách nào hoặc đối đáp làm sao, vì chính giờ đó, Thánh Linh sẽ dạy các con điều cần phải nói.” Trong đám đông, có người nói: “Thưa Thầy, xin bảo anh con chia gia tài cho con!” Ngài đáp: “Này anh kia, ai lập Ta lên để xử kiện hoặc phân chia gia tài cho các anh?” Rồi Ngài bảo dân chúng: “Hãy thận trọng, đề phòng mọi thứ tham lam, vì cuộc sống con người không cốt tại của cải dư dật đâu!” Ngài lại dạy họ một ngụ ngôn: “Ruộng của một người kia rất trúng mùa. Ông này ngẫm nghĩ: ‘Ta phải làm gì đây? Vì ta không còn chỗ để chứa hoa lợi nữa!’ Rồi tự nhủ: ‘Ta sẽ làm thế này: ta sẽ phá dỡ các kho lẫm, xây lại cho lớn hơn. Ta sẽ thu trữ tất cả mùa màng của cải ta vào đó.’ Ta sẽ bảo linh hồn ta: ‘Linh hồn ơi, ngươi đã có lắm của cải tích trữ cho nhiều năm. Vậy hãy nghỉ ngơi, ăn uống và hưởng lạc đi!’ Nhưng Đức Chúa Trời bảo ông ta: ‘Hỡi kẻ khờ dại kia! Đêm nay, linh hồn ngươi sẽ bị đòi lại, vậy của cải ngươi sắm sửa đó sẽ thuộc về ai? Những kẻ tích lũy tiền của cho mình mà không giàu có nơi Đức Chúa Trời cũng sẽ như thế.’” Đức Giê-su bảo các môn đệ: “Vậy nên Ta bảo các con, đừng lo lắng về đời sống, phải lấy gì ăn để sống, lấy gì mặc để che thân. Vì mạng sống giá trị hơn thức ăn, thân thể giá trị hơn quần áo. Hãy nghĩ xem loài quạ: Chúng chẳng gieo, chẳng gặt, cũng không kho tàng, không vựa lẫm, thế mà Đức Chúa Trời vẫn nuôi chúng. Các con còn quý trọng hơn loài chim biết bao! Có ai trong các con nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được một khoảnh khắc nào không? Nếu một việc rất nhỏ như thế còn không làm nổi, tại sao các con lo lắng về những việc khác? Hãy nghĩ xem các loài hoa huệ mọc lên cách nào. Chúng chẳng nhọc công kéo chỉ, dệt tơ, thế mà, Ta bảo các con: Dù vua Sa-lô-môn sang trọng đến đâu cũng không được mặc áo đẹp như một trong những đóa hoa nầy. Hỡi những kẻ ít đức tin, hoa cỏ là loài nay ở ngoài đồng, mai bị bỏ vào lò mà Đức Chúa Trời còn cho chúng mặc đẹp đến thế, huống chi các con. Đừng chạy theo miếng ăn, thức uống, cũng đừng lo âu. Vì tất cả các dân trên thế giới đều đeo đuổi những thứ ấy, nhưng Cha các con biết các con cần những điều ấy rồi. Trái lại, hãy tìm kiếm Nước Đức Chúa Trời, thì những điều ấy cũng sẽ được ban thêm cho các con. Hỡi bầy chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha các con vui lòng ban Nước Đức Chúa Trời cho các con rồi. Hãy bán của cải để làm việc thiện, hãy sắm cho mình những túi tiền không cũ mòn, và kho báu không hao hụt trên trời, là nơi không có kẻ trộm bén mảng và không có mối mọt phá hoại. Vì tiền của các con ở đâu, thì lòng các con cũng ở đó.” “Hãy thắt lưng và thắp đèn lên. Các con hãy làm như người chờ đợi chủ mình khi người đi dự tiệc cưới về, vừa đến gõ cửa thì mở ngay. Phước cho những đầy tớ khi chủ về thấy họ đang thức canh! Thật, Ta bảo các con, chủ sẽ tự thắt lưng rồi cho những đầy tớ ấy ngồi vào bàn tiệc và đến phục vụ họ. Phước cho các đầy tớ khi chủ về lúc canh hai, canh ba vẫn thấy họ thức canh! Nhưng các con nên biết: Nếu chủ nhà rõ giờ nào kẻ trộm sẽ đến, thì không để cho kẻ trộm đào ngạch khoét vách vào nhà mình đâu! Chính các con phải sẵn sàng vì Con Người sẽ đến vào giờ các con không ngờ!” Phê-rơ nói: “Thưa Chúa, ngụ ngôn này Chúa dạy riêng cho chúng con thôi hay cho cả mọi người?” Ngài đáp: “Vậy, ai là người quản gia trung tín, khôn sáng được chủ đặt lên coi sóc gia nhân để phân phát cho họ phần ăn đúng giờ? Phước cho đầy tớ ấy khi chủ về thấy đang chu toàn phận sự. Thật Ta bảo các con, chủ sẽ lập đầy tớ ấy quản lý cả tài sản mình. Nhưng nếu đầy tớ ấy thầm nghĩ: ‘Chủ ta trì hoãn chưa về,’ rồi đánh đập các tôi trai tớ gái, và ăn uống say sưa, chủ sẽ đến trong ngày nó không ngờ, vào giờ nó không hay, và xé xác nó, cho nó đồng số phận với bọn bất trung. Đầy tớ ấy đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng và không làm theo ý chủ sẽ bị phạt đòn nhiều. Còn đầy tớ không biết ý chủ mà phạm tội đáng phạt sẽ bị phạt đòn nhẹ hơn. Ai được cho nhiều sẽ bị đòi nhiều; còn ai được giao nhiều sẽ bị hỏi nhiều hơn.” “Ta đã đến để nhen lửa trên đất. Nếu lửa cháy lên rồi, Ta còn mong ước gì nữa? Có một phép báp-tem mà Ta phải chịu; Ta khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất. Các con tưởng Ta đến để đem hòa bình cho thế giới sao? Ta bảo các con: Không, thật ra là đem sự phân ly; vì từ nay một gia đình năm người sẽ chia rẽ, ba chống hai và hai chống ba; họ sẽ chia rẽ, cha chống con trai, con trai nghịch cha, mẹ chống con gái, con gái nghịch mẹ, mẹ chồng chống nàng dâu, nàng dâu nghịch mẹ chồng!” Ngài cũng bảo dân chúng: “Khi thấy mây kéo lên phía tây, các người liền nói: ‘Trời sắp mưa bão!’ thì có mưa bão thật. Khi thấy gió nam thổi, các người nói: ‘Sắp nóng bức!’ thì trời oi bức. Hỡi bọn đạo đức giả, đã biết phân biệt các hiện tượng của trời đất, sao các người không biết phân biệt thời đại hiện nay?” “Tại sao các người không tự mình phán đoán điều gì là phải? Khi người đi hầu tòa với đối phương, dọc đường hãy cố gắng dàn xếp với họ, kẻo họ lôi người đến trước quan tòa và quan tòa sẽ giao cho giám ngục bỏ tù người. Ta bảo cho các người biết, người không thể nào ra khỏi tù cho đến khi trả xong đồng tiền nợ cuối cùng.” Chính lúc ấy, có vài người ở đó thuật cho Đức Giê-su nghe vụ Phi-lát giết mấy người Ga-li-lê lấy máu trộn với tế lễ của họ. Ngài đáp: “Các người tưởng những người Ga-li-lê ấy phạm tội nặng hơn tất cả đồng hương họ nên bị tàn sát sao? Ta bảo thật, không phải đâu! Nhưng nếu các người chẳng ăn năn thì tất cả sẽ bị hư mất như vậy. Hoặc mười tám người kia bị tháp Si-lô-ê đổ xuống đè chết, các người tưởng họ phạm tội nặng hơn dân chúng Giê-ru-sa-lem sao? Ta bảo thật, không phải đâu! Nhưng nếu các người chẳng ăn năn, thì tất cả sẽ bị hư mất như vậy.” Đức Giê-su lại kể ngụ ngôn này: “Người kia trồng cây vả trong vườn nho mình, nhưng khi đến hái trái lại chẳng tìm được quả nào. Chủ bèn bảo người trồng nho: ‘Đã ba năm ta đến tìm quả nơi cây vả này, nhưng chẳng thấy gì cả. Vậy hãy đốn cây ấy đi! Sao để nó chiếm đất mà không sinh hoa lợi?’ Nhưng người trồng nho thưa: ‘Thưa chủ, xin cứ để yên nó thêm một năm này nữa, để tôi sẽ đào đất xung quanh và bón phân vào. Có lẽ trong tương lai, nó sẽ ra trái; nếu không, thì chủ sẽ đốn!’” Đức Giê-su đang dạy dỗ trong một hội đường vào ngày Sa-bát. Kìa, có một người đàn bà vì bị quỷ ám sinh bệnh đã mười tám năm, lưng còng xuống không thể đứng thẳng lên được. Thấy bà, Đức Giê-su gọi tới bảo: “Bà ơi, bà đã được giải thoát khỏi bệnh tật rồi!” Được Ngài đặt tay, bà lập tức đứng thẳng lên và ca ngợi Đức Chúa Trời. Nổi giận vì thấy Ngài chữa bệnh trong ngày Sa-bát, viên quản lý hội đường bảo đoàn dân: “Đã có sáu ngày để làm việc trong tuần lễ. Vậy anh em hãy đến chữa bệnh vào những ngày ấy, chứ đừng chữa bệnh vào ngày Sa-bát.” Chúa đáp: “Các người đạo đức giả! Vào ngày Sa-bát, không phải tất cả các người đều thả bò lừa khỏi chuồng và dẫn chúng đi uống nước sao? Thế mà bà này là một con gái của Áp-ra-ham đã bị Sa-tan trói buộc suốt mười tám năm, lại không cần được giải phóng khỏi xiềng xích nó vào ngày Sa-bát sao?” Nghe Ngài giải đáp, tất cả bọn chống đối Ngài hổ thẹn, còn toàn thể dân chúng đều mừng rỡ về mọi việc vinh quang Ngài thực hiện. Vì thế, Đức Giê-su dạy: “Nước Đức Chúa Trời ví như điều gì, Ta có thể lấy chi mà ví sánh? Nước Đức Chúa Trời ví như hạt cải người kia đem gieo trong vườn mình. Nó mọc lên thành cây; chim trời làm tổ trên cành nó.” Ngài lại bảo: “Ta sẽ ví Nước Đức Chúa Trời với điều gì? Nước Đức Chúa Trời ví như men mà một người đàn bà đem trộn vào ba đấu bột cho đến khi cả đống bột đều dậy lên.” Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi qua các thành, các làng mạc dạy dỗ. Một người hỏi: “Lạy Chúa, có phải chỉ có ít người được cứu không?”Ngài nói cùng họ: “Hãy nỗ lực vào cửa hẹp, vì Ta bảo các người, nhiều người sẽ tìm cách vào nhưng không vào được. Đến khi chủ nhà đứng dậy đóng cửa, các người mới đứng bên ngoài gõ cửa và nói: ‘Thưa chủ, xin mở cửa cho chúng tôi!’ Nhưng chủ sẽ đáp: ‘Ta không biết các người từ đâu đến!’ Lúc ấy các người ấy thưa: ‘Chúng tôi đã ăn uống trước mặt chủ, và chủ đã dạy dỗ trên các đường phố của chúng tôi!’ Nhưng chủ sẽ bảo các người: ‘Ta không biết các người đến từ đâu! Hãy lui ra khỏi ta, tất cả quân gian ác kia!’ Các người sẽ than khóc và rên siết khi thấy Áp-ra-ham, Y-sác, Gia-cốp, và tất cả các tiên tri của Chúa trong Nước Đức Chúa Trời, còn các người phải bị quăng ra ngoài. Những người từ đông, tây, nam, bắc sẽ đến ngồi dự yến tiệc trong Nước Đức Chúa Trời; Thật thế, người cuối sẽ trở nên đầu và người đứng đầu sẽ trở nên cuối.” Ngay giờ ấy, vài người Pha-ri-si đến thưa với Đức Giê-su: “Thầy nên bỏ đây mà đi nơi khác, vì vua Hê-rốt muốn giết Thầy!” Ngài đáp: “Hãy đi bảo con cáo ấy rằng: ‘Ngày nay, ngày mai, Ta vẫn đuổi quỷ, chữa bệnh và ngày kia thì Ta sẽ hoàn thành công tác.’ Tuy nhiên, ngày nay, ngày mai và ngày kia Ta cần phải tiếp tục cuộc hành trình, vì một tiên tri của Chúa không thể chết bên ngoài thành Giê-ru-sa-lem. Giê-ru-sa-lem! Giê-ru-sa-lem! Ngươi giết các tiên tri và ném đá các sứ giả Ta sai đến cùng ngươi. Bao lần Ta ước muốn tập họp đàn con ngươi như gà mẹ túc con mình lại để ấp ủ dưới cánh, mà các ngươi không chịu! Này, nhà cửa các ngươi sẽ bị bỏ hoang! Ta bảo thật, các ngươi sẽ không thấy Ta nữa cho đến khi nào các ngươi nói: ‘Phước cho Đấng nhân danh Chúa mà đến!’” Một ngày Sa-bát nọ, Đức Giê-su đến dự tiệc tại nhà người lãnh đạo Pha-ri-si. Người ta đều chăm chú theo dõi Ngài. Trước mặt Ngài, có người mắc bệnh phù thũng. Đức Giê-su hỏi các chuyên gia kinh luật và các người Pha-ri-si: “Trong ngày Sa-bát, có được phép chữa bệnh không?” Nhưng họ đều im lặng. Rồi Ngài đỡ lấy người bệnh, chữa lành rồi cho về. Ngài bảo họ: “Có ai trong các ông có con trai hay con bò ngã xuống giếng trong ngày Sa-bát, mà lại không lập tức kéo nó lên hay sao?” Họ không thể nào biện bác được. Nhận thấy các khách được mời đều chọn những ghế danh dự, Ngài kể một ngụ ngôn: “Khi có ai mời anh dự tiệc cưới, đừng ngồi ghế danh dự, e rằng còn có người khách khác đáng trọng hơn mình. Chủ tiệc sẽ đến bảo: ‘Xin nhường chỗ cho vị này!’ và anh phải xấu hổ xuống ngồi ghế dưới cuối cùng. Nhưng khi anh được mời hãy ngồi ghế dưới cùng, chủ tiệc sẽ đến nói: ‘Bạn ơi, mời bạn lên ghế cao hơn,’ như thế anh sẽ được vinh dự trước mặt toàn thể quan khách. Vì hễ ai tự tôn cao sẽ bị hạ xuống; ai hạ mình xuống sẽ được tôn cao.” Chúa cũng nói với chủ tiệc đã mời Ngài: “Khi ông đãi ăn trưa hay ăn tối, đừng mời bạn hữu, anh em, bà con hay những người láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông thì ông được đền ơn. Nhưng khi đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khổ, bại liệt, què quặt, mù lòa, thì sẽ được phước vì họ không thể nào mời lại để đền ơn ông, còn ông sẽ được đền ơn trong ngày người công chính sống lại.” Nghe vậy, một người khách trong bữa tiệc thưa với Ngài: “Phước cho ai được ăn tiệc trong Nước Đức Chúa Trời.” Ngài đáp: “Một người kia dọn tiệc lớn và mời nhiều khách. Đến giờ khai tiệc, chủ tiệc sai đầy tớ nhắc khách đã được mời: ‘Mời quý vị đến, tiệc đã sẵn sàng!’ Nhưng tất cả nhất loạt từ khước. Người thứ nhất đáp: ‘Tôi mới mua một nông trại, tôi buộc phải đi xem, ngài vui lòng cho tôi xin kiếu!’ Người khác nói: ‘Tôi mới mua năm cặp bò, tôi đang đi thử sức chúng, cho tôi xin kiếu!’ Người khác nữa lại nói: ‘Tôi mới cưới vợ, nên tôi không thể nào đến được!’ Đầy tớ về trình với chủ. Chủ nhà nổi giận, ra lệnh cho nó: ‘Con hãy đi nhanh ra các phố, các hẻm trong thành phố, mời những người nghèo khổ, bại liệt, mù lòa, què quặt về đây!’ Rồi đầy tớ thưa: ‘Điều chủ bảo con đã làm xong, nhưng vẫn còn dư chỗ!’ Chủ lại bảo đầy tớ: ‘Con hãy đi ra các đường và các ngõ bên bờ rào ép mời người vào đầy nhà ta! Ta bảo thật, các khách đã được mời trước kia, không một kẻ nào được nếm bữa tiệc của ta!’” Có đoàn dân đông cùng đi với Ngài, Ngài quay lại bảo họ: “Nếu ai đến theo Ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em và chính mạng sống mình, thì không thể nào làm môn đệ Ta. Ai không vác thập tự giá mình mà theo Ta cũng không thể nào làm môn đệ Ta!” “Ai trong các người muốn xây một ngôi tháp mà không ngồi xuống tính toán chi phí trước, xem mình có đủ tiền để hoàn thành hay không? Nếu không, khi đổ nền xong, nhưng không đủ sức hoàn tất, ai nấy thấy vậy đều chế nhạo rằng: ‘Anh chàng này khởi công xây cất mà không hoàn tất nổi!’ Có ông vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước hết không ngồi xuống tính toán xem thử với mười ngàn quân có chống nổi với vua kia đang đem hai mươi ngàn quân tấn công hay không? Nếu không, khi địch còn ở xa, phải cử một phái đoàn đi cầu hòa. Cũng thế, nếu ai trong các ngươi không từ bỏ tất cả những gì mình có thì không thể nào làm môn đệ Ta. Muối là vật tốt, nhưng nếu muối mất mặn, thì sẽ lấy gì làm cho muối ấy mặn lại được? Muối ấy cũng không thể dùng để bón đất hay trộn phân, phải đem vứt bỏ ra ngoài. Ai có tai để nghe, hãy lắng nghe!” Bấy giờ, tất cả người thu thuế và người tội lỗi đều đến gần Chúa để nghe Ngài dạy dỗ. Các người Pha-ri-si và chuyên gia kinh luật lầm bầm: “Ông này tiếp hạng người tội lỗi và ăn uống với họ!” Đức Giê-su bèn dạy họ ngụ ngôn này: “Có ai trong các ông có một trăm con chiên, mất một con, lại không để chín mươi chín con kia giữa đồng hoang để đi tìm con chiên thất lạc cho kỳ được? Khi tìm được, người liền vui mừng vác lên vai, về đến nhà, mời bạn hữu và láng giềng đến mà nói: ‘Hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên đi lạc!’ Ta bảo các ông: Cũng thế, thiên đàng sẽ vui mừng về một tội nhân ăn năn hơn là chín mươi chín người công chính không cần ăn năn. Hoặc có người đàn bà nào có mười quan tiền mất đi một quan, mà lại không thắp đèn, quét nhà; và cẩn thận tìm kiếm cho kỳ được? Khi tìm được, nàng mời bạn hữu và láng giềng đến mà nói: ‘Hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm được quan tiền bị mất!’ Ta bảo các ông: ‘Cũng thế, các thiên sứ trước mặt Đức Chúa Trời sẽ vui mừng vì một tội nhân ăn năn.’” Ngài tiếp: “Một người kia có hai con trai. Đứa em thưa với cha: ‘Cha ơi, xin cha cho con phần tài sản của con.’ Người Cha chia gia tài cho các con. Chẳng bao lâu, đứa em thu hết tài sản, lên đường đi đến một nơi xa, ở đó ăn chơi trác táng, tiêu sạch gia tài mình. Khi nó đã tiêu hết tiền, cả xứ ấy bị nạn đói trầm trọng, nên nó bắt đầu túng ngặt. Nó đi làm thuê cho một người dân bản xứ, và được sai ra đồng chăn heo. Nó mơ ước được ăn vỏ đậu heo ăn để lấp đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. Nó tỉnh ngộ, tự nhủ: ‘Bao nhiêu kẻ làm thuê của cha ta đều có bánh ăn dư dật, mà nơi đây ta lại đang chết đói. Ta sẽ đứng dậy đi về với cha ta và thưa: “Cha ơi, con đã phạm tội với Trời và với cha, không đáng gọi là con của cha nữa. Xin cha coi con như là một người làm thuê của cha.”’ Rồi nó đứng dậy, trở về với cha mình. Nhưng khi nó còn ở đàng xa, người cha thấy nó thì động lòng thương xót, liền chạy ra ôm cổ nó mà hôn. Người con thưa: ‘Cha ơi, con đã phạm tội với Trời và với cha, không đáng gọi là con của cha nữa.’ Nhưng cha nó bảo các đầy tớ: ‘Hãy mau mau đem áo dài đẹp nhất mặc cho cậu, đeo nhẫn vào tay, mang dép vào chân. Cũng hãy bắt con bò tơ mập làm thịt để ăn mừng, vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà tìm lại được.’ Vậy họ bắt đầu ăn mừng. Nhưng người con cả ở ngoài đồng về gần đến nhà, nghe tiếng đờn ca nhảy múa, nên gọi một đầy tớ nhỏ mà hỏi đầu đuôi. Nó đáp: ‘Em cậu mới về, nên ông chủ hạ con bê mập ăn mừng vì thấy cậu ấy về mạnh khoẻ.’ Người con cả nổi giận, không chịu vào nhà, nên cha nó phải ra năn nỉ. Nhưng nó đáp: ‘Bao nhiêu năm qua, con đã phục vụ cha, không bao giờ trái lệnh cha, thế mà cha chẳng bao giờ cho con một con dê để ăn chơi với bạn hữu. Nhưng thằng con kia của cha đã nướng sạch tài sản cha với bọn đĩ điếm, rồi quay về, thì cha lại làm thịt con bò mập mừng nó.’ Cha nó giải thích: ‘Con ơi, con luôn luôn ở với cha, mọi tài sản của cha đều thuộc về con. Nhưng ta phải ăn mừng hoan hỉ vì em con đã chết, mà nay được sống, đã mất mà nay tìm lại được.’” Đức Giê-su cũng phán dạy các môn đệ: “Một người giàu kia có anh quản gia bị tố cáo đã phung phí tài sản của chủ. Chủ gọi anh đến bảo: ‘Anh làm gì mà ta nghe báo cáo về anh như thế? Hãy khai trình sổ sách quản lý của anh, vì anh không còn được làm quản gia nữa!’ Quản gia tự nhủ: ‘Chủ cách chức ta thì ta phải làm gì đây? Cuốc đất thì không nổi, ăn xin thì hổ nhục. Ta biết ta phải làm gì để khi ta bị đuổi thì có người tiếp đón ta về nhà.’ Quản gia bèn gọi tất cả con nợ của chủ đến. Anh hỏi người thứ nhất: ‘Ông nợ chủ tôi bao nhiêu?’ Đáp: ‘Một trăm thùng dầu ô-liu.’ Quản gia bảo: ‘Lấy tờ giấy nợ ngồi xuống đó viết ngay năm chục thùng!’ Rồi anh hỏi người khác: ‘Còn ông nợ bao nhiêu?’ Đáp: ‘Một trăm giạ lúa.’ Quản gia bảo: ‘Lấy tờ giấy nợ viết tám chục!’ Chủ bèn khen quản gia bất chính ấy đã hành động tinh khôn; vì con cái đời này xảo quyệt hơn con cái ánh sáng trong việc xử thế. Ta bảo các con, hãy dùng của cải bất chính mà kết bạn để khi của ấy cạn đi, họ sẽ tiếp rước các con vào nhà vĩnh cửu. Ai trung tín trong việc nhỏ cũng trung tín trong việc lớn. Ai bất chính trong việc nhỏ cũng bất chính trong việc lớn. Vậy, nếu các con không trung tín về của cải bất chính thì ai dám giao của cải thật cho các con? Nếu các con không trung tín về của cải của người khác, thì ai dám giao cho các con của cải thuộc phần các con? Không một đầy tớ nào có thể phục vụ hai chủ, vì sẽ ghét chủ này, thương chủ kia, hoặc trọng chủ này mà khinh chủ kia. Các con không thể phục vụ Đức Chúa Trời lẫn tiền tài.” Các người Pha-ri-si là những kẻ ham tiền nghe mọi lời ấy thì chê cười Ngài. Chúa bảo họ: “Các người là những người làm ra vẻ công chính trước mặt người ta, nhưng Đức Chúa Trời biết lòng các người; vì điều người ta đề cao lại là điều ghê tởm trước mặt Đức Chúa Trời. Kinh Luật và Kinh Tiên Tri được truyền giảng đến đời Giăng. Từ ngày đó, Nước Đức Chúa Trời được truyền giảng và ai cũng cố sức chen lấn mà vào. Nhưng trời đất qua đi còn dễ hơn là xóa bỏ một nét trong Kinh Luật. Ai ly dị vợ và cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình. Ai cưới đàn bà ly hôn cũng phạm tội ngoại tình.” “Có một người giàu kia thường ăn mặc gấm vóc lụa là, hằng ngày tiệc tùng xa xỉ. Cũng có một người nghèo khổ tên La-xa-rơ nằm trước cổng nhà người giàu ấy, mình đầy ghẻ lở. La-xa-rơ mơ ước được hưởng các mảnh vụn từ bàn người giàu rớt xuống, nhưng chỉ có chó đến liếm ghẻ trên người. Người nghèo chết, các thiên sứ đem đặt vào lòng Áp-ra-ham. Người giàu cũng chết và được chôn cất. Bị khổ hình nơi Âm Phủ, người giàu ngước mắt nhìn lên, thấy Áp-ra-ham ở đàng xa, có La-xa-rơ đang ở trong lòng. Người giàu kêu xin: ‘Tổ phụ Áp-ra-ham ơi, xin thương xót con, sai La-xa-rơ nhúng đầu ngón tay vào nước, thấm mát lưỡi con, vì con bị đau đớn quá trong lửa này!’ Nhưng Áp-ra-ham đáp: ‘Con ơi, hãy nhớ khi còn sống con đã hưởng những điều sung sướng; còn La-xa-rơ phải chịu những điều khổ cực; nhưng bây giờ La-xa-rơ được an ủi, còn con chịu đau đớn. Hơn nữa, giữa chúng ta và con, có một vực thẳm bao la, hai bên cách biệt hẳn, nên ai muốn từ đây qua đó, hoặc từ đó qua đây đều không được.’ Người giàu van xin: ‘Tổ phụ ơi, thế thì xin tổ sai La-xa-rơ đến nhà cha con --vì con còn năm anh em--để người làm chứng cho họ, kẻo họ cũng bị xuống nơi khổ hình này!’ Nhưng Áp-ra-ham đáp: ‘Chúng đã có Môi-se và các tiên tri của Chúa, hãy để chúng nghe lời họ!’ Người giàu cố nài: ‘Tổ phụ ơi, không phải vậy đâu! Nhưng nếu có người chết sống lại đến nói thì họ mới ăn năn!’ Áp-ra-ham đáp: ‘Nếu chúng không chịu nghe Môi-se và các tiên tri của Chúa, thì dù có người chết sống lại cũng chẳng thuyết phục chúng được đâu!’” Đức Giê-su dạy các môn đệ: “Việc gây vấp phạm không thể nào không có, nhưng khốn cho kẻ nào gây ra việc ấy. Thà buộc cối đá vào cổ nó mà quăng xuống biển còn hơn là để nó gây cho một trong các kẻ bé mọn này phạm tội. Các con phải cảnh giác! Nếu anh em con phạm tội, hãy khuyến cáo và nếu người ấy ăn năn, hãy tha thứ. Nếu trong một ngày, người ấy phạm lỗi bảy lần với con, rồi bảy lần đến nói: ‘Tôi ăn năn,’ thì con cũng hãy tha thứ!” Các sứ đồ thưa với Chúa: “Xin Chúa thêm đức tin cho chúng con!” Chúa đáp: “Nếu các con có đức tin như hạt cải, các con có thể bảo cây dâu này: ‘Hãy tự nhổ gốc lên và xuống trồng dưới biển!’ thì nó cũng vâng lệnh các con. Ai trong các con có một đầy tớ đi cày hoặc đi chăn, khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó: ‘Vào ngồi ăn ngay đi!’ Chẳng phải các con bảo nó như thế nầy sao? ‘Hãy dọn cơm và thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong, rồi con hãy ăn uống?’ Người chủ có cám ơn đầy tớ vì nó vâng lệnh không? Các con cũng thế, khi làm xong những điều dặn bảo, hãy nói: ‘Chúng con là những đầy tớ vô dụng, chỉ làm bổn phận của chúng con.’” Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi qua miền giáp ranh giữa hai miền Sa-ma-ri và Ga-li-lê. Khi Ngài vào một làng kia, có mười người phung ra đón. Họ đứng đàng xa, lên tiếng kêu xin: “Lạy Thầy Giê-su, xin thương xót chúng con!” Thấy vậy, Ngài bảo: “Hãy đi trình diện với các thầy tế lễ!” Khi họ đang đi, thì được sạch bệnh phung. Một người trong nhóm thấy mình được chữa lành, quay lại, lớn tiếng tôn vinh Đức Chúa Trời, rồi sấp mặt nơi chân Đức Giê-su mà cảm tạ Ngài; đó là một người Sa-ma-ri. Đức Giê-su hỏi: “Không phải tất cả mười người đều được lành sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai quay lại tôn vinh Đức Chúa Trời, chỉ có người ngoại quốc này thôi sao?” Rồi Ngài bảo người ấy: “Con hãy đứng dậy, về đi! Đức tin con đã chữa lành con!” Các người Pha-ri-si hỏi Chúa: “Bao giờ Nước Đức Chúa Trời mới đến?” Ngài đáp: “Nước Đức Chúa Trời không đến để người ta có thể quan sát được. Không ai có thể nói: Kìa, Nước Đức Chúa Trời ở đây hoặc ở đó, vì kìa, Nước Đức Chúa Trời ở giữa vòng các người!” Chúa bảo các môn đệ: “Sẽ có lúc các con mong được thấy một ngày của Con Người mà không được. Người ta sẽ bảo các con: ‘Kìa, Ngài ở đây!’‘Kìa, Ngài ở đó!’ Nhưng các con đừng đi, cũng đừng chạy theo! Vì như tia chớp loè sáng và chiếu rạng từ phương trời này đến phương trời kia thể nào, thì Con Người, trong ngày Ngài hiện ra cũng sẽ như thế. Nhưng trước hết, Con Người phải chịu đau khổ đủ điều và bị thế hệ này loại bỏ. Trong thời Nô-ê thể nào thì thời Con Người cũng thể ấy. Người ta ăn, uống, cưới, gả cho đến ngày Nô-ê vào tàu và nước lụt tràn đến hủy diệt tất cả. Thời của Lót cũng thế, người ta ăn, uống, mua, bán, trồng trọt, xây cất, nhưng đến ngày Lót ra khỏi Sô-đôm, trời mưa lửa và diêm sinh xuống hủy diệt tất cả. Ngày Con Người hiện đến cũng giống như thế. Trong ngày ấy, ai ở trên sân thượng có của cải trong nhà thì đừng xuống lấy; cũng vậy, ai ở ngoài đồng đừng quay về lấy của cải. Hãy nhớ lại vợ của Lót! Hễ ai tìm cách bảo tồn mạng sống thì sẽ mất; nhưng ai chịu mất mạng sống thì sẽ bảo toàn được nó. Ta bảo các con, trong đêm ấy, hai người nằm chung giường, một người sẽ được đem đi, người kia bị bỏ lại; hai người nữ cùng xay cối, một người sẽ được đem đi, người kia bị bỏ lại.” Các môn đệ hỏi: “Thưa Chúa, việc ấy xảy ra tại đâu?” Ngài đáp: “Xác chết ở đâu, diều hâu bâu tại đó!” Đức Giê-su kể cho các môn đệ một ngụ ngôn để dạy họ phải cầu nguyện luôn và đừng mỏi mệt. Ngài nói: “Trong thành phố kia, có một thẩm phán không kính sợ Đức Chúa Trời, cũng chẳng kiêng nể loài người. Ở đó cũng có một bà góa cứ đến nài nỉ với ông: ‘Xin ngài xét xử công minh cho tôi đối lại kẻ chống nghịch tôi!’ Thẩm phán từ khước đã lâu. Sau đó, ông tự nhủ: ‘Dù ta không sợ Đức Chúa Trời cũng chẳng nể loài người, nhưng vì mụ góa này quấy rầy ta, nên ta sẽ xét xử công minh cho mụ, kẻo mụ cứ trở lại mãi, thì rốt cuộc ta cũng bị bực mình!’” Chúa bảo: “Các con hãy nghe lời thẩm phán bất lương ấy nói! Lẽ nào Đức Chúa Trời lại không xét xử công minh cho những kẻ được Ngài chọn, là những kẻ ngày đêm kêu xin Ngài mà Ngài còn trì hoãn hay sao? Ta bảo các con: Ngài sẽ nhanh chóng xét xử công minh cho họ. Tuy nhiên, khi Con Người trở lại, Ngài sẽ còn tìm thấy đức tin như thế trên mặt đất không?” Đức Giê-su kể ngụ ngôn này về những kẻ tự cho mình là công chính rồi cậy mình mà khinh dể người khác: “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người Pha-ri-si và một người thu thuế. Người Pha-ri-si đứng cầu nguyện như vầy: ‘Lạy Đức Chúa Trời, tôi tạ ơn Ngài vì tôi đây không phải như bọn người phàm, tham ô, bất lương, gian dâm, hoặc như tên thu thuế này. Tôi kiêng ăn mỗi tuần lễ hai lần. Tôi dâng phần mười tất cả các lợi tức.’ Nhưng người thu thuế đứng đàng xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực mà thưa: ‘Lạy Đức Chúa Trời, xin thương xót con là kẻ tội lỗi!’ Ta bảo các con, người này về nhà được kể là công chính chứ không phải người kia. Vì ai tự tôn cao sẽ bị hạ xuống, còn ai tự hạ mình xuống sẽ được tôn cao.” Người ta đem trẻ em đến với Đức Giê-su để Ngài đặt tay ban phước. Các môn đệ thấy thế, quở trách họ. Nhưng Đức Giê-su gọi chúng đến bảo: “Hãy để trẻ thơ đến cùng Ta, đừng ngăn cấm chúng nó; vì Nước Đức Chúa Trời thuộc về những người giống như chúng vậy. Thật Ta bảo cho các con biết: Ai không tiếp nhận Nước Đức Chúa Trời như trẻ thơ thì không cách nào vào đó được.” Một viên quan hỏi Ngài: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống vĩnh phúc?” Đức Giê-su đáp: “Tại sao ông gọi Ta là nhân lành? Không có ai nhân lành ngoại trừ Đức Chúa Trời. Ông đã biết các điều răn: Đừng ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng dối, hãy hiếu kính cha mẹ.” Ông ấy thưa: “Tôi đã giữ tất cả những điều đó từ khi còn trẻ.” Nghe vậy, Đức Giê-su dạy: “Ông còn thiếu một điều: Hãy bán tất cả tài sản, đem phân phát cho người nghèo khổ, ông sẽ có kho tàng trên trời, rồi hãy đến mà theo Ta.” Nghe lời ấy, ông ta trở nên buồn rầu, vì ông giàu có lắm. Đức Giê-su nhìn ông bảo: “Người giàu có khó vào Nước Đức Chúa Trời biết bao! Thật thế, lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Đức Chúa Trời.” Những người nghe câu ấy hỏi Chúa: “Thế thì ai mới được cứu rỗi?” Ngài đáp: “Việc loài người không làm được, Đức Chúa Trời làm được cả!” Phê-rơ thưa: “Chúng con đã bỏ tất cả những gì mình có để theo Thầy!” Ngài đáp: “Thật, Ta bảo các con, không ai bỏ nhà cửa hoặc vợ chồng, hoặc anh em, hoặc cha mẹ, hoặc con cái vì Nước Đức Chúa Trời, mà lại không lãnh được gấp nhiều lần hơn trong đời này và được sự sống vĩnh phúc trong đời sau!” Đức Giê-su đem mười hai sứ đồ riêng ra mà bảo: “Này, chúng ta lên Giê-ru-sa-lem; tất cả những điều các tiên tri đã viết về Con Người sẽ được ứng nghiệm. Vì Ngài sẽ bị nộp cho người ngoại quốc, bị chế nhạo, nhiếc mắng, phỉ nhổ và sau khi đánh đòn, họ sẽ giết Ngài đi, nhưng đến ngày thứ ba, Ngài sẽ sống lại.” Nhưng các sứ đồ không hiểu nổi những lời này. Ý nghĩa lời ấy bị giấu kín, nên họ không biết Ngài nói gì cả. Khi gần đến thành Giê-ri-cô, Đức Giê-su gặp một người mù ngồi ăn xin bên vệ đường. Nghe tiếng đoàn dân đông kéo qua, anh hỏi có việc gì vậy? Họ bảo: “Đức Giê-su, người Na-xa-rét đang đi qua đây!” Anh mù kêu lớn: “Lạy Đức Giê-su, Con vua Đa-vít, xin thương xót con!” Những người đi trước quở trách người mù và bảo anh nín đi. Nhưng anh càng kêu to: “Lạy Con vua Đa-vít, xin thương xót con!” Đức Giê-su dừng lại, truyền đem anh mù đến. Khi anh lại gần, Ngài hỏi: “Con muốn Ta làm gì cho con?” Người mù đáp: “Lạy Chúa, xin cho con được sáng mắt!” Đức Giê-su bảo anh: “Hãy sáng mắt lại! Đức tin con đã chữa lành con!” Lập tức, người mù được sáng mắt, liền đi theo Ngài, tôn vinh Đức Chúa Trời. Tất cả dân chúng chứng kiến việc ấy cũng đều ca ngợi Đức Chúa Trời. Vào đến Giê-ri-cô, Đức Giê-su đi ngang qua thành phố. Tại đó, có một người tên Xa-chê, làm trưởng đoàn thu thuế rất giàu có. Ông muốn nhìn xem Đức Giê-su là ai nhưng không được, vì dân chúng đông đảo mà ông lại thấp bé. Ông chạy trước leo lên một cây sung, để có thể nhìn thấy Ngài vì Ngài sắp đi qua đó. Khi đến chỗ ấy, Đức Giê-su nhìn lên bảo: “Xa-chê, hãy xuống mau vì hôm nay Ta phải ghé lại nhà con!” Xa-chê vội vàng tụt xuống, mừng rỡ tiếp đón Ngài. Mọi người thấy vậy đều lầm bầm: “Ông ấy vào nhà kẻ tội lỗi mà trọ!” Nhưng Xa-chê đứng dậy thưa với Chúa: “Lạy Chúa, đây này, con xin phân phát một nửa tài sản của con cho người nghèo khổ, và nếu con có bóc lột ai bất cứ điều gì, con xin bồi thường gấp tư!” Đức Giê-su bảo Xa-chê: “Hôm nay, sự cứu rỗi đã vào nhà này, vì người cũng là con cháu Áp-ra-ham. Vì Con Người đã đến, tìm và cứu kẻ bị hư mất.” Vì lúc ấy, Đức Giê-su tới gần Giê-ru-sa-lem và dân chúng tưởng Nước Đức Chúa Trời sắp xuất hiện đến nơi, nên khi họ đang nghe Ngài dạy, Ngài kể thêm một ngụ ngôn sau đây: “Một thái tử đi phương xa để được phong vương rồi mới về nước. Ông gọi mười đầy tớ đến, giao cho họ mười nén bạc và bảo: ‘Hãy kinh doanh cho đến khi ta về!’ Nhưng dân ghét thái tử, nên cử một phái đoàn theo sau đưa thỉnh nguyện: ‘Chúng tôi không muốn thái tử này cai trị chúng tôi.’ Sau khi thụ phong, tân vương quay về, cho gọi những đầy tớ đã được giao bạc đến, để xem mỗi người làm lợi được bao nhiêu. Đầy tớ thứ nhất đến thưa: ‘Thưa, nén bạc của ngài sinh lợi được mười nén.’ Vua khen: ‘Được lắm, đầy tớ giỏi của ta. Vì ngươi trung tín trong việc nhỏ nên ngươi sẽ được quản trị mười thành.’ Đầy tớ thứ hai đến trình: ‘Thưa, nén bạc của ngài sinh lợi được năm nén.’ Vua đáp: ‘Ngươi sẽ được quản trị năm thành!’ Một đầy tớ khác đến thưa: ‘Thưa, đây là nén bạc của ngài, con đã gói cất trong khăn, vì con sợ ngài; bởi ngài là người nghiêm ngặt, lấy những gì không đặt, lại gặt những gì không gieo!’ Vua phán: ‘Ta căn cứ vào lời ngươi mà xét xử ngươi, tên đầy tớ gian ác kia! Ngươi đã biết ta nghiêm ngặt, lấy những gì ta không đặt, lại gặt những gì ta không gieo, phải không? Thế sao ngươi không gửi bạc ta vào ngân hàng, để khi ta về, ta có thể thu lại cả vốn lẫn lời?’ Rồi vua ra lệnh cho các người hầu cận: ‘Hãy lấy nén bạc của nó mà cho người có mười nén.’ Họ tâu: ‘Thưa, người ấy đã có mười nén rồi!’ Vua phán: ‘Ta bảo cho các ngươi biết, ai đã có sẽ được cho thêm; nhưng ai không có sẽ bị lấy mất luôn điều gì họ có. Còn những tên chống nghịch, không muốn ta cai trị, hãy giải chúng đến đây mà xử tử trước mặt ta.’” Dạy xong những điều ấy, Đức Giê-su dẫn đầu đoàn dân đi lên Giê-ru-sa-lem. Khi đến gần làng Bết-pha-giê và Bê-tha-ni, bên núi Ô-liu, Ngài sai hai môn đệ đi, và dặn rằng: “Các con hãy vào làng trước mặt, sẽ thấy một con lừa con đang cột ở đó, chưa từng có ai cưỡi. Hãy mở dây dắt nó về đây. Nếu ai hỏi: ‘Tại sao các anh mở lừa ra?’ các con cứ đáp: ‘Vì Chúa cần nó.’” Các môn đệ ấy ra đi, gặp đúng như điều Ngài đã báo trước. Khi họ đang tháo lừa con, các người chủ nó hỏi: “Tại sao các anh tháo lừa con ra?” Họ đáp: “Vì Chúa cần nó!” Họ dắt lừa con về cho Đức Giê-su, phủ áo mình trên lưng lừa, rồi đỡ Ngài lên cưỡi. Ngài cưỡi lừa đi, nhiều người trải áo mình ra trên đường. Lúc đến gần sườn núi Ô-liu, cả đoàn môn đệ đông đảo đều mừng rỡ lớn tiếng ca ngợi Đức Chúa Trời về những việc quyền năng họ đã được chứng kiến. Họ tung hô: “Phước cho Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến,Bình an trên trời, vinh quang trên các nơi chí cao!” Vài người Pha-ri-si trong đám đông nói: “Thưa Thầy, xin quở trách các môn đệ Thầy!” Chúa đáp: “Ta bảo cho các người biết: Nếu họ nín lặng, đá sẽ tung hô!” Khi đến gần, nhìn thấy thành phố, Ngài khóc cho nó, rằng: “Ước chi hôm nay chính ngươi biết được điều gì đem lại cho mình sự bình an! Nhưng bây giờ, những điều ấy bị che khuất, mắt ngươi không nhìn thấy được. Vì sẽ có ngày, địch quân kéo đến, đắp lũy, bao vây ngươi và đồng loạt tấn công tất cả các mặt; chúng sẽ phá đổ ngươi và con cái trong thành ngươi ra bình địa, chúng sẽ không để tảng đá nào chồng lên tảng đá nào, vì ngươi đã không nhận biết thời điểm ngươi được thăm viếng.” Đức Giê-su vào đền thờ, xua đuổi những kẻ buôn bán ở đó, và quở trách họ: “Kinh Thánh chép: ‘Nhà Ta là nhà cầu nguyện, nhưng các người đã biến thành sào huyệt trộm cướp!’” Hằng ngày, Ngài dạy dỗ trong đền thờ; nhưng các thượng tế, các chuyên gia kinh luật, và các nhà lãnh đạo dân chúng tìm cách giết Ngài, song chưa tìm dược phương kế vì tất cả dân chúng đều say mê nghe Ngài giảng dạy. Một hôm, Đức Giê-su đang dạy dỗ dân chúng trong đền thờ và truyền giảng Phúc Âm; các thượng tế, các chuyên gia kinh luật và các trưởng lão chợt kéo đến, gạn hỏi Ngài: “Xin Thầy cho biết: Thầy lấy thẩm quyền gì để làm những việc này, hoặc ai đã ban cho Thầy quyền ấy?” Ngài đáp: “Ta cũng hỏi các ông một câu, hãy nói cho Ta biết: Phép báp-tem của Giăng đến từ trời hay từ người ta?” Họ thảo luận với nhau: “Nếu chúng ta đáp: ‘Từ trời,’ ông ta sẽ hỏi: ‘Vậy tại sao các ông không tin Giăng?’ Còn nếu chúng ta đáp: ‘Từ người ta,’ thì dân chúng sẽ ném đá chúng ta, vì họ tin quyết rằng Giăng là một tiên tri của Chúa.” Họ trả lời không biết từ đâu đến. Đức Giê-su bảo họ: “Ta cũng không nói cho các ông biết bởi thẩm quyền nào mà Ta làm các việc này!” Ngài bắt đầu kể ngụ ngôn này cho dân chúng: “Một người kia trồng một vườn nho, cho tá điền thuê, rồi đi xa một thời gian dài. Đến mùa, chủ sai một đầy tớ tới gặp các tá điền để thu phần hoa lợi họ sẽ nộp cho mình. Nhưng các tá điền đánh đập đầy tớ ấy và đuổi về tay không. Chủ sai một đầy tớ khác, nhưng họ cũng đánh đập, chửi mắng rồi đuổi về tay không. Chủ lại sai đầy tớ thứ ba, nhưng họ đánh đập nó trọng thương rồi quăng ra ngoài. Chủ vườn nho nói: ‘Ta làm gì bây giờ? Ta sẽ sai con trai yêu dấu của ta đi, chắc họ sẽ nể con ta.’ Nhưng khi thấy con trai chủ, các tá điền bàn với nhau: ‘Đây là đứa con thừa tự. Ta hãy giết nó đi, gia tài sẽ thuộc về chúng ta.’ Họ quăng con trai chủ ra bên ngoài vườn nho và giết đi. Vậy, chủ vườn nho sẽ xử họ thế nào? Chủ sẽ đến, diệt bọn tá điền ấy, và giao vườn cho người khác.”Nghe xong, họ nói: “Đời nào có chuyện ấy!” Nhìn thẳng họ, Ngài hỏi: “Thế thì câu Kinh Thánh này có ý nghĩa gì:‘Phiến đá bị các thợ nề loại bỏLại trở nên đá đầu góc nhà?’ Ai rơi nhằm đá ấy sẽ bị nát vụn; còn đá ấy rơi nhằm ai thì nghiền kẻ ấy ra như bột!” Ngay giờ ấy, các chuyên gia kinh luật và các thượng tế tìm cách bắt Ngài, vì họ biết Ngài dùng ngụ ngôn này ám chỉ họ, nhưng họ còn sợ dân chúng. Họ theo dõi Ngài, sai mật thám giả dạng người lương thiện đi rình mò bắt lỗi Ngài trong lời nói để nộp Ngài cho các nhà cầm quyền và tòa thống đốc La Mã. Bọn mật thám gài hỏi Ngài: “Chúng tôi biết Thầy nói và dạy cách chính trực, không thiên vị ai, nhưng trung thực dạy đuờng lối của Đức Chúa Trời. Vậy, chúng tôi có nên đóng thuế cho Sê-sa hay không?” Nhận thấy mưu kế quỷ quyệt của họ, Ngài bảo: “Hãy đưa Ta xem một đồng tiền! Hình và danh hiệu của ai đây?” Họ đáp: “Của Sê-sa.” Ngài phán: “Thế thì, những gì của Sê-sa hãy trả cho Sê-sa; những gì của Đức Chúa Trời hãy trả cho Đức Chúa Trời!” Họ không thể nào bắt lỗi lời Ngài trước mặt dân chúng. Sửng sốt về câu trả lời của Ngài, nên họ đành câm miệng. Vài thầy Sa-đu-sê là phái phủ nhận sự sống lại, đến gần hỏi Ngài: “Thưa Thầy, Môi-se đã ghi trong Kinh Luật cho chúng ta: ‘Nếu một người nam có anh cưới vợ rồi chết không con, người đó phải cưới chị dâu để sinh con nối dõi cho anh.’ Gia đình kia có bảy anh em, cậu cả cưới vợ rồi chết không con. Cậu hai, cậu ba cho đến cậu bảy cũng thế, cậu nào cũng lấy nàng rồi chết không con. *** Rốt cuộc, người đàn bà cũng qua đời. Vậy, trong ngày sống lại, nàng sẽ làm vợ của ai đây? Vì bảy anh em đều là chồng của nàng cả!” Đức Giê-su đáp: “Người ở cõi đời này mới cưới gả, chứ những người được kể là xứng đáng hưởng cõi đời sau và được sống lại từ cõi chết sẽ không còn cưới gả, bởi họ không thể chết được nữa mà giống như thiên sứ và là con cái của Đức Chúa Trời vì đã được sống lại. Về sự kiện người chết sống lại, chính Môi-se đã cho thấy, qua câu chuyện về bụi gai khi ông gọi Chúa là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác và Đức Chúa Trời của Gia-cốp. Ngài không phải là Đức Chúa Trời của người chết nhưng của người sống, vì tất cả đều sống đối với Ngài.” Vài chuyên gia kinh luật nhìn nhận: “Thưa Thầy, Thầy nói rất đúng!” Họ không còn dám gài hỏi Ngài điều gì nữa. Nhưng Đức Giê-su hỏi lại họ: “Sao người ta gọi Chúa Cứu Thế là con của Đa-vít? Vì chính Đa-vít đã viết trong Thánh Thi:‘Chúa phán bảo Chúa tôi:Hãy ngồi bên phải Ta Cho đến khi Ta bắt các thù địch con làm bục chân con.’ Đa-vít đã gọi Chúa Cứu Thế là Chúa thì sao Ngài lại là con Đa-vít được?” Trong khi cả dân chúng đang nghe, Ngài dạy các môn đệ: “Hãy đề phòng các chuyên gia kinh luật, là những kẻ ưa mặc áo thụng để đi qua đi lại, thích người ta chào mình giữa chợ, và chọn ngồi những ghế hạng nhất trong hội đường và ghế danh dự nơi bàn tiệc. Họ nuốt trộng nhà cửa của đàn bà góa, lại còn giả bộ cầu nguyện dài dòng! Họ sẽ bị hình phạt nặng nề hơn!” Chúa ngước mắt lên nhìn thấy những người giàu có dâng lễ vật vào thùng đựng tiền dâng. Ngài cũng thấy một bà góa nghèo khổ dâng hai đồng tiền, Ngài nói: “Thật Ta bảo cho các con biết, bà góa nghèo khổ này đã dâng nhiều hơn tất cả, vì những người kia lấy của dư mà dâng, còn bà này dù túng ngặt, đã dâng hết số tiền mình có để nuôi sống.” Vài môn đệ nói về đền thờ trang hoàng bằng đá quý và những đồ lễ dâng cho Đức Chúa Trời. Đức Giê-su bảo: “Những gì các con thấy đây sẽ có ngày bị phá đổ, không còn phiến đá nào chồng lên phiến đá khác!” Họ hỏi Ngài: “Thưa Thầy, khi nào những biến cố đó sẽ xảy ra và dấu hiệu khi những điều này sắp xảy đến là gì?” Ngài đáp: “Hãy cảnh giác để các con khỏi bị lừa vào con đường lầm lạc. Vì nhiều kẻ sẽ mạo danh Ta mà đến, tự xưng, ‘Ta đây là Chúa Cứu Thế’ và bảo ‘ngày tận thế đã gần!’ Các con đừng theo họ! Khi các con nghe tin chiến tranh và loạn lạc, thì đừng khiếp sợ, vì những việc ấy phải xảy ra trước, nhưng ngày tận thế chưa đến ngay đâu.” Ngài tiếp: “Dân này sẽ nổi lên chống dân khác; nước nọ nghịch nước kia; sẽ có những trận động đất lớn; nhiều nơi bị nạn dịch và nạn đói xảy ra; cũng có những biến cố kinh hoàng và các dấu lạ lớn trên trời. Nhưng trước khi các việc ấy xảy ra, người ta sẽ tra tay bắt bớ, bách hại các con, giải nộp các con đến các hội đường và ngục thất; các con sẽ bị đem ra trước các vua chúa, thống đốc vì danh Ta. Đây sẽ là cơ hội để các con làm chứng, nên các con hãy ghi nhớ: Đừng lo nghĩ trước phải đối đáp như thế nào, vì chính Ta sẽ cho các con lời nói và sự khôn ngoan mà không một kẻ thù nào có thể chống nổi hoặc bài bác được. Các con sẽ bị cha mẹ, anh em, bà con, bạn hữu phản nộp; họ sẽ giết một số người trong các con. Các con sẽ bị mọi người ghen ghét vì danh Ta. Nhưng không một sợi tóc nào trên đầu các con sẽ bị mất. Nhờ kiên trì các con sẽ giữ được linh hồn mình.” “Khi thấy Giê-ru-sa-lem bị quân thù bao vây, các con biết nó sắp bị hoang tàn đến nơi rồi. Ai đang ở trong vùng Giu-đê, hãy trốn lên núi; ai đang ở trong thành, hãy ra ngoài thành; ai đang ở ngoài đồng, đừng vào trong thành. Vì đó là những ngày đoán phạt, đúng như lời Kinh Thánh đã ghi chép. Trong những ngày ấy, thật khốn cho đàn bà mang thai hoặc có con đang bú, vì đất nước này sẽ bị đại họa và thịnh nộ sẽ giáng xuống dân tộc này; người thì ngã dưới lưỡi gươm, kẻ thì bị bắt đày đi khắp các nước. Giê-ru-sa-lem sẽ bị các dân tộc ngoại quốc dày xéo cho đến khi thời kỳ ngoại bang chấm dứt. Sẽ có dấu lạ xuất hiện trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao. Còn dưới đất, các dân lo lắng hoang mang vì biển cả gầm thét nổi sóng gió. Người ta ngất xỉu vì khiếp sợ và phập phồng chờ đợi các biến cố xảy ra trên thế giới; vì quyền năng trên các tầng trời sẽ bị rung chuyển. Lúc ấy, người ta sẽ thấy Con Người ngự đến trong một đám mây, đầy quyền năng và vinh quang vô cùng. Khi những việc này bắt đầu, các con hãy đứng thẳng và ngước đầu lên vì sự cứu chuộc các con đến gần rồi.” Đức Giê-su kể cho họ nghe ngụ ngôn này: “Các con hãy nhìn cây vả và tất cả cây cối. Khi các cây trổ lá, các con biết mùa hè gần tới. Cũng thế, khi các con thấy các biến cố này xảy ra, các con biết Nước Đức Chúa Trời đã gần đến. Thật Ta bảo cho các con biết: Thế hệ này không qua đi cho đến khi những biến cố ấy xảy ra. Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Ta chẳng bao giờ qua đi. Hãy cẩn thận, kẻo sự ăn chơi, say sưa và mải lo mưu sinh tràn ngập lòng các con, đến nỗi ngày ấy tới bất thình lình trên các con như bẫy sập, vì ngày ấy cũng sẽ đến trên tất cả mọi người khắp thế giới. Hãy luôn luôn cảnh giác và cầu nguyện để các con có thể thoát khỏi mọi điều sắp xảy ra và trình diện trước mặt Con Người.” Ban ngày, Đức Giê-su cứ dạy dỗ trong đền thờ, còn buổi tối, Ngài ra ở trên núi Ô-liu. Mỗi sáng, tất cả dân chúng đều đến đền thờ để nghe Ngài giảng dạy. Gần đến kỳ lễ Bánh Không Men, tức là lễ Vượt Qua. Các thượng tế, và các chuyên gia kinh luật tìm cách giết Chúa vì sợ dân chúng. Sa-tan nhập vào Giu-đa gọi là Ích-ca-ri-ốt, một trong mười hai sứ đồ. Giu-đa đi bàn tính với các thượng tế và các viên chỉ huy vệ binh đền thờ về cách mà hắn có thể nộp Ngài cho họ. Họ mừng lắm, đồng ý trả tiền cho hắn. Giu-đa ưng thuận, tìm dịp nộp Ngài cho họ khi không có mặt đoàn dân đông. Đến ngày ăn bánh không men, tức là ngày phải giết chiên con lễ Vượt Qua, Đức Giê-su sai Phê-rơ và Giăng:“Các con hãy đi sửa soạn cho chúng ta ăn lễ Vượt Qua!” Họ thưa: “Thầy muốn chúng con sửa soạn tại đâu?” Ngài đáp: “Này, khi vào thành, các con sẽ gặp một người đàn ông vác bình nước. Cứ theo người ấy đến nhà nào người vào, và nói với chủ nhà: ‘Thầy bảo: Phòng khách là nơi Ta ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ Ta ở đâu?’ Chủ nhà sẽ chỉ cho các con một phòng rộng lớn trên lầu, đã xếp đặt sẵn sàng. Các con hãy sửa soạn tại đó!” Các môn đệ ra đi, gặp mọi điều đúng như Ngài đã báo trước, và họ sửa soạn lễ Vượt Qua. Đến giờ, Đức Giê-su ngồi vào bàn ăn với các sứ đồ và bảo họ: “Ta rất muốn ăn lễ Vượt Qua này với các con trước khi thọ nạn, vì Ta bảo cho các con biết, Ta sẽ không ăn lễ Vượt Qua nữa cho đến khi lễ ấy được ứng nghiệm trong Nước Đức Chúa Trời.” Ngài cầm một cái chén, tạ ơn và bảo: “Hãy cầm chén này, chia nhau uống, vì Ta bảo các con, từ nay Ta sẽ không uống nước nho nữa cho đến khi Nước Đức Chúa Trời hiện đến.” Ngài lấy một cái bánh, tạ ơn rồi bẻ ra, chia cho các môn đệ mà bảo: “Đây là thân thể Ta, được ban phát ra vì các con. Hãy làm điều này để nhớ đến Ta!” Khi ăn tối xong, Ngài cũng làm như thế, cầm chén, bảo: “Chén này là giao ước mới trong huyết Ta chịu đổ ra vì các con. Nhưng kìa, bàn tay kẻ phản bội đang đặt trên bàn với Ta. Vì thật Con Người phải đi đúng như đã ấn định, nhưng khốn nạn cho kẻ phản Ngài!” Các sứ đồ bàn luận với nhau xem ai là kẻ sẽ phản Ngài. Họ cũng tranh cãi nhau, xem trong đám họ, ai lớn nhất. Nhưng Ngài nói: “Các vua chúa dân ngoại thường thống trị thần dân; còn những người cầm quyền thì được gọi là ‘ân nhân.’ Nhưng các con thì khác, người lớn trong các con phải trở nên nhỏ, và ai lãnh đạo thì phải phục vụ. Vì người ngồi ăn và người phục vụ, ai lớn hơn? Không phải là người ngồi ăn sao? Nhưng chính Ta đang sống giữa các con như một người phục vụ. Các con là những người đã kiên trì theo Ta qua những cuộc thử thách của Ta, nên Ta lập các con lên cai quản Nước Ta, cũng như Cha đã lập Ta cai quản, để các con được ăn uống cùng bàn với Ta trong Nước Ta, và các con sẽ ngồi trên ngai để xét xử mười hai chi tộc Y-sơ-ra-ên. Si-môn, Si-môn, này Sa-tan đòi sàng sảy hết thảy các con như lúa mì, nhưng chính Ta đã cầu nguyện cho con để đức tin con không bị lung lạc; khi con hồi phục, hãy làm cho anh em mình vững mạnh.” Phê-rơ thưa: “Lạy Chúa, con sẵn lòng theo Chúa, đồng tù đồng chết!” Nhưng Ngài đáp: “Phê-rơ ơi, Ta bảo cho con biết, hôm nay khi gà chưa gáy, con sẽ chối không biết Ta ba lần!” Ngài lại hỏi họ: “Khi Ta sai các con ra đi, không bạc, không bao, không giày dép, các con có thiếu gì không?” Họ thưa: “Dạ không!” Ngài bảo tiếp: “Nhưng bây giờ, ai có túi bạc hãy lấy đem đi; ai có bao cũng vậy; ai không có gươm hãy bán áo mà mua. Vì Ta bảo các con, lời Kinh Thánh này phải được ứng nghiệm nơi bản thân Ta: ‘Người bị liệt vào hàng kẻ phạm pháp;’ thật vậy, lời chép về Ta đang được ứng nghiệm.” Họ thưa: “Lạy Chúa, chúng con có hai thanh gươm đây.” Ngài đáp: “Thế là đủ rồi!” Chúa ra đi, lên núi Ô-liu theo thói quen; các môn đệ đều đi theo. Đến nơi, Ngài bảo họ: “Các con hãy cầu nguyện, để khỏi sa vào bẫy cám dỗ!” Chúa đi riêng ra, cách chỗ các môn đệ khoảng ném một viên đá, quỳ gối, cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này khỏi Con! Dầu vậy, xin đừng theo ý Con, nhưng xin ý Cha được nên!” Một thiên sứ từ trời hiện đến thêm sức cho Ngài. Trong cơn thống khổ, Ngài cầu nguyện càng khẩn thiết, mồ hôi Ngài trở nên như những giọt máu rơi xuống đất. Cầu nguyện xong, Ngài đứng dậy, đến với các môn đệ, thấy họ đang ngủ vì sầu thảm. Ngài gọi họ: “Sao các con ngủ? Hãy dậy cầu nguyện để các con khỏi sa vào bẫy cám dỗ!” Ngài còn đang nói, bỗng một đám đông kéo đến, dẫn đầu là Giu-đa, một trong mười hai sứ đồ. Hắn lại gần Đức Giê-su mà hôn Ngài. Nhưng Đức Giê-su bảo: “Giu-đa ơi, con phản bội Con Người bằng cái hôn sao?” Thấy những sự việc diễn biến như vậy, các môn đệ hỏi: “Lạy Chúa, chúng con nên lấy gươm đánh không?” Một môn đệ chém một đầy tớ của vị trưởng tế, đứt mất vành tai bên mặt. Nhưng Đức Giê-su bảo: “Thôi, đừng đánh nữa!” rồi đưa tay chữa lành người đầy tớ. Sau đó, Đức Giê-su bảo các thượng tế, các viên chỉ huy vệ binh đền thờ và các trưởng lão: “Sao các ông mang gươm đao và gậy gộc đến bắt Ta như đi bắt kẻ cướp? Thường ngày Ta ở trong đền thờ với các ông, sao các ông không tra tay bắt Ta? Nhưng đây là giờ của các ông và của quyền lực tối tăm.” Bọn ấy bắt Đức Giê-su điệu đi và giải đến dinh trưởng tế. Phê-rơ theo sau Ngài xa xa. Khi bọn ấy nhóm lửa giữa sân dinh, ngồi quây quần với nhau, Phê-rơ cùng ngồi với họ. Bỗng một người tớ gái thấy Phê-rơ đang ngồi bên ánh lửa, nhìn ông và nói: “Người này cùng bọn với ông ấy!” Nhưng Phê-rơ chối: “Này chị, tôi đâu có biết ông ta!” Một lúc sau, có người trông thấy Phê-rơ lại bảo: “Anh cũng là người của bọn đó!” Nhưng Phê-rơ chối: “Không phải đâu, anh ơi!” Độ một giờ sau, lại có người khác quả quyết: “Đúng rồi, tên này cũng theo ông ấy, vì nó là người Ga-li-lê.” Nhưng Phê-rơ đáp: “Anh ơi, anh nói gì tôi không hiểu!” Ngay khi Phê-rơ còn đang nói thì gà liền gáy. Chúa quay lại, nhìn Phê-rơ; ông sực nhớ lời Chúa đã bảo: “Hôm nay, khi gà chưa gáy, con sẽ chối Ta ba lần.” Phê-rơ liền đi ra ngoài, khóc lóc đắng cay. Bấy giờ, những kẻ bắt giữ Chúa chế nhạo và đánh đập Ngài, và bịt mắt Ngài hỏi giễu: “Nói tiên tri đi, đoán thử ai đánh anh đó!” Họ còn dùng nhiều điều khác nhục mạ Ngài. Đến sáng, hội đồng trưởng lão của dân gồm các thượng tế và các chuyên gia kinh luật họp lại. Họ giải Chúa ra trước hội đồng và hỏi: “Nếu anh là Chúa Cứu Thế, hãy khai cho chúng ta biết!” Nhưng Ngài đáp: “Ta nói, các ông cũng không tin. Ta có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời. Nhưng từ nay về sau Con Người sẽ ngự bên phải Đức Chúa Trời quyền năng.” Tất cả đều hỏi: “Vậy, anh có phải là Con Đức Chúa Trời không?” Ngài đáp: “Thì chính các ông nói đó!” Họ bảo nhau: “Chúng ta đâu cần tang chứng nữa vì chính chúng ta đã nghe tận tai lời từ miệng hắn!” Lúc ấy, cả đám đông đứng dậy, giải Ngài đến thống đốc Phi-lát. Họ bắt đầu tố cáo Ngài rằng: “Chúng tôi phát hiện tên này xúi giục dân chúng chống nộp thuế cho Sê-sa, và tự xưng là Chúa Cứu Thế, tức là Vua!” Phi-lát tra hỏi: “Ngươi có phải là Vua dân Do Thái không?” Ngài đáp: “Chính thống đốc nói đó!” Phi-lát bảo các thượng tế và dân chúng: “Ta chẳng thấy người nầy phạm tội ác nào cả!” Nhưng họ cứ nằng nặc tố: “Tên này sách động quần chúng, thuyết giáo khắp cả vùng Giu-đê, bắt đầu từ Ga-li-lê rồi đến tận đây.” Nghe vậy, Phi-lát điều tra xem Ngài có phải là người Ga-li-lê không. Biết Ngài thuộc thẩm quyền vua Hê-rốt, Phi-lát sai giải Ngài qua cho vua (mấy ngày đó, vua Hê-rốt đang ở tại Giê-ru-sa-lem). Thấy Đức Giê-su, vua Hê-rốt mừng lắm, vì từ lâu đã nghe đồn về Ngài, vua mong ước được gặp và hy vọng được xem Ngài làm dấu lạ. Vua tra vấn Ngài nhiều câu, nhưng Ngài không đáp một lời. Các thượng tế và các chuyên gia kinh luật đứng tại đó tố cáo Ngài kịch liệt. Vua Hê-rốt cùng binh sĩ khinh miệt và chế giễu Ngài, khoác cho Ngài chiếc áo sặc sỡ rồi sai giải Ngài trả về cho Phi-lát. Phi-lát và Hê-rốt vốn thù nhau nhưng ngày hôm đó trở thành bạn. Phi-lát triệu tập các thượng tế, các nhà lãnh đạo cùng dân chúng và bảo: “Các người giải nộp người này cho ta như một kẻ xúi dân nổi loạn, nhưng điều tra trước mặt các ngươi, ta chẳng thấy người này phạm tội ác nào như lời các người tố cáo. Vua Hê-rốt cũng thế, vì đã giao trả người về cho ta. Vậy, người này không làm gì đáng chết cả, nên ta sẽ đánh đòn rồi thả ra.” Nhưng họ đồng thanh gào thét: “Diệt nó đi! Thả Ba-ra-ba cho chúng tôi!” *** Ba-ra-ba đang bị tù vì tội nổi loạn trong thành và giết người. Phi-lát muốn thả Đức Giê-su, nên lại nói với dân chúng. Nhưng dân chúng la hét: “Đóng đinh nó lên thập tự giá! Đóng đinh nó lên thập tự giá!” Phi-lát nói với dân chúng lần thứ ba: “Nhưng người này đã làm điều ác gì? Ta xét người này không làm gì đáng chết cả. Vì vậy, đánh đòn xong, ta sẽ thả đi!” Nhưng dân chúng lại la hét áp đảo đòi phải đóng đinh Ngài cho được. Tiếng gào thét của họ đã thắng. Phi-lát tuyên án theo yêu sách của họ, phóng thích tên tù mà họ đòi tha dù phạm tội nổi loạn và giết người, nhưng giao Đức Giê-su cho họ làm gì mặc ý. Lúc giải Ngài đi, họ bắt một người miền Sy-ren tên là Si-môn từ vùng quê lên, buộc vác thập tự giá đi sau Đức Giê-su. Một đoàn người rất đông theo Ngài gồm dân chúng và các phụ nữ đang đấm ngực, thương khóc Ngài. Đức Giê-su quay lại bảo họ: “Hỡi con gái Giê-ru-sa-lem! Đừng khóc cho Ta, nhưng hãy khóc cho bản thân và con cái các con! Vì sẽ có ngày người ta nói: ‘Phước cho đàn bà hiếm muộn, cho dạ không sinh đẻ, cho vú không con bú!’ Lúc đó người ta sẽ,Khởi sự kêu các núi ‘Hãy đổ xuống chúng tôi!’Và gọi các đồi: ‘Hãy phủ lên chúng tôi!’ Vì nếu cây tươi bị đối xử thế này, thì số phận cây khô còn ra sao nữa?” Họ cũng giải theo hai phạm nhân để xử tử với Ngài. Đến một nơi gọi là Đồi Sọ, họ đóng đinh Ngài trên thập tự giá cùng với hai tên tử tội, một tên bên phải, một tên bên trái. Đức Giê-su cầu nguyện: “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ, vì họ không biết mình đang làm gì!” Họ bắt thăm chia áo xống của Ngài. Dân chúng đứng xem. Nhưng các người lãnh đạo phỉ báng Ngài: “Nó đã cứu người khác, hãy để nó tự cứu mình, nếu nó đúng là Chúa Cứu Thế, Đấng Đức Chúa Trời chọn lựa!” Các binh sĩ cũng chế giễu Ngài, đến gần đưa giấm lên cho Ngài, và nói: “Nếu anh là Vua dân Do Thái, hãy tự cứu mình đi!” Trên đầu Ngài có một tấm bảng ghi: “Đây là Vua dân Do Thái.” Một trong hai tên tử tội đang bị treo trên thập tự giá cũng phỉ báng Ngài: “Ông không phải là Chúa Cứu Thế sao? Hãy tự cứu mình và cứu luôn chúng tôi đi!” Nhưng tên cướp kia quở trách nó. “Bị cùng một hình phạt mà mày không sợ Đức Chúa Trời sao? Mày và tao bị xử thật công minh vì hình ta chịu xứng với tội ta làm. Nhưng Người này không làm điều gì trái!” Tên cướp tiếp: “Lạy Đức Giê-su, khi vào đến Nước Ngài, xin nhớ đến con!” Chúa đáp: “Thật Ta bảo cho con biết, hôm nay con sẽ ở với Ta trong Ba-ra-đi.” Lúc ấy khoảng giữa trưa, nhưng khắp đất đều tối đen cho đến ba giờ chiều, Mặt trời ngưng sáng. Bức màn trong đền thờ bị xé làm hai ngay chính giữa. Đức Giê-su kêu lớn: “Lạy Cha, Con xin giao thác linh hồn con trong tay Cha!” Nói xong, Ngài trút linh hồn. Viên đội trưởng thấy những việc xảy ra, thì tôn vinh Đức Chúa Trời mà rằng: “Chắc chắn, Người này vô tội!” Tất cả đoàn dân tụ tập để theo dõi các diễn tiến, được chứng kiến sự việc xảy ra, thì đấm ngực quay về nhà. Tất cả những người quen biết Ngài và các phụ nữ đã theo Ngài từ Ga-li-lê đều đứng xa xa theo dõi mọi sự. Có một người tên Giô-sép, quê ở thành A-ri-ma-thê thuộc Giu-đê, nghị viên hội đồng Do Thái, là người tốt và công chính, đang trông chờ Nước Đức Chúa Trời. Ông không tán đồng quyết định và hành động của hội đồng. Ông đến yết kiến Phi-lát, xin thi thể Đức Giê-su, rồi hạ thi thể xuống, khâm liệm bằng vải gai và an táng trong một ngôi mộ đục trong đá, chưa bao giờ dùng chôn cất ai. Hôm ấy là ngày chuẩn bị lễ Vượt Qua, sắp đến ngày Sa-bát. Các phụ nữ đã theo Ngài từ Ga-li-lê xuống cũng đi cùng, thấy ngôi mộ và cách họ mai táng thi thể Ngài, rồi trở về chuẩn bị hương liệu và dầu thơm. Ngày Sa-bát, họ nghỉ ngơi theo luật định. Ngày thứ nhất trong tuần lễ, khi còn mờ sáng, các bà ấy đem hương liệu đã chuẩn bị đến mộ Chúa. Họ thấy tảng đá đã lăn khỏi cửa mộ, và khi bước vào họ không tìm thấy thi thể Chúa Giê-su đâu cả. Đang lúc bối rối, họ bỗng thấy hai người đàn ông xuất hiện, mặc áo sáng chói đứng bên họ, nên họ khiếp sợ, cúi mặt xuống đất. Nhưng hai người ấy hỏi: “Sao các bà tìm người sống giữa vòng kẻ chết? Ngài không còn ở đây, nhưng đã sống lại rồi! Hãy nhớ lại lời Ngài phán dặn các bà khi còn ở xứ Ga-li-lê: ‘Con Người phải bị nộp vào tay bọn người tội ác, phải chịu đóng đinh trên thập tự giá và đến ngày thứ ba thì sống lại.’” Họ nhớ lại lời Ngài đã phán. Từ mộ ra về, họ báo tin này cho mười một sứ đồ và tất cả các môn đệ khác. Các phụ nữ gồm có: Ma-ri Ma-đơ-len, Giô-a-na và Ma-ri mẹ của Gia-cơ và các phụ nữ khác. Họ thuật lại mọi việc ấy cho các sứ đồ. Nhưng các sứ đồ cho các lời ấy là vô lý nên không tin. Song Phê-rơ đứng dậy, chạy ra mộ, cúi nhìn vào bên trong, chỉ thấy tấm vải liệm mà thôi. Ông quay về, kinh ngạc về những việc đã xảy ra. Cùng một ngày ấy, có hai môn đệ lên đường đến làng Em-ma-út, cách Giê-ru-sa-lem khoảng mười hai cây số. Họ trò chuyện với nhau về mọi việc vừa xảy ra, họ đang bàn luận, thì chính Đức Giê-su đến gần, cùng đi chung với họ. Nhưng mắt họ bị che khuất, không nhận ra Ngài. Ngài hỏi: “Các anh vừa đi vừa bàn luận chuyện gì vậy?” Họ đứng lại, sắc mặt buồn bã. Một trong hai người--tên Cơ-lê-ô-ba--trả lời: “Chắc chỉ có mình ông là khách lạ ở Giê-ru-sa-lem không hay biết các việc xảy ra mấy ngày qua sao?” Ngài hỏi: “Việc gì vậy?” Họ thưa: “Đó là việc xảy ra cho Đức Giê-su người Na-xa-rét, một nhà tiên tri từ lời nói đến hành động đều đầy quyền năng trước mặt Đức Chúa Trời và toàn dân, thể nào các thượng tế và các nhà lãnh đạo dân ta đã giao nộp Ngài để xử tử và đóng đinh trên thập tự giá. Chúng tôi từng hy vọng Ngài sẽ cứu dân Y-sơ-ra-ên. Dù sao, việc xảy ra đã ba ngày rồi! Nhưng, có mấy phụ nữ trong vòng chúng tôi đã làm chúng tôi ngạc nhiên quá chừng. Lúc sáng sớm, họ viếng mộ, song không thấy thi thể Ngài đâu cả, liền trở về báo tin và bảo họ thấy có thiên sứ hiện ra, quả quyết Ngài đang sống. Có mấy người trong đám chúng tôi cũng đi viếng mộ, thấy mọi việc đúng như các bà đã nói, còn Ngài thì họ không thấy đâu cả!” Ngài trách: “Các anh sao tối trí, và sao chậm tin mọi điều các nhà tiên tri đã nói! Chẳng phải Chúa Cứu Thế phải bị thống khổ thể ấy mới bước vào vinh quang của Ngài sao?” Rồi bắt đầu từ Môi-se và qua tất cả các tiên tri Ngài giải nghĩa những điều về Ngài trong cả Kinh Thánh cho họ. Đến gần làng Em-ma-út Ngài tỏ vẻ muốn đi xa hơn, nhưng họ nài ép Ngài: “Xin hãy ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều và gần tối rồi!” Vậy Ngài vào nhà ở lại với họ. Khi đang ngồi ăn với họ, Ngài cầm bánh, chúc tạ rồi bẻ ra đưa cho họ. Lúc ấy, mắt họ bừng mở, nhận ra Ngài, nhưng Ngài biến đi, không còn thấy nữa. Họ bảo nhau: “Khi nãy đi đường, Thầy đã nói chuyện với chúng ta và giải thích Kinh Thánh, lòng chúng ta đã chẳng như thiêu như đốt sao?” Ngay giờ ấy, họ đứng dậy, quay về Giê-ru-sa-lem, gặp mười một sứ đồ và các người khác đang tụ tập với nhau, họ nói: “Chúa thật đã sống lại! Ngài đã hiện ra cho Si-môn!” Rồi hai môn đệ thuật lại việc đã xảy ra dọc đường, và họ đã nhận ra Ngài khi Ngài bẻ bánh. Họ còn đang nói về các việc ấy, chính Đức Giê-su đã đứng giữa họ mà bảo: “Bình an cho các con!” Nhưng họ kinh hãi và khiếp sợ vì tưởng mình thấy ma. Chúa tiếp: “Tại sao các con hoảng hốt và lòng các con nghi ngờ như thế? Hãy xem tay Ta và chân Ta, vì thật chính Ta đây! Hãy sờ Ta xem! Ma chẳng có xương có thịt như các con thấy Ta có đây!” Chúa bảo xong, lại đưa tay chân cho họ xem. Thấy họ vẫn chưa tin vì vừa vui mừng vừa kinh ngạc, Ngài hỏi: “Tại đây các con có gì ăn không?” Họ đưa cho Ngài một miếng cá khô. Ngài cầm lấy, ăn trước mặt họ, rồi bảo: “Đây là những lời Ta đã nói với các con trong khi Ta còn ở với các con: ‘Tất cả những điều chép về Ta trong Kinh Luật Môi-se, các Kinh Tiên Tri và các Thánh Thi phải được ứng nghiệm.’ Lúc ấy, Ngài mở trí cho họ hiểu Kinh Thánh, và bảo: Kinh Thánh đã ghi: ‘Chúa Cứu Thế phải chịu đau đớn đến ngày thứ ba phải sống lại từ cõi chết. Hãy nhân danh Ngài truyền giảng cho tất cả các dân tộc ăn năn để được tha tội, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem.’ Các con là nhân chứng về các điều ấy. Kìa, Ta ban cho các con điều Cha Ta đã hứa; nhưng các con hãy đợi trong thành cho đến khi các con được mặc lấy quyền năng từ trời!” Chúa dẫn các môn đệ đến làng Bê-tha-ni rồi đưa tay lên ban phước lành cho họ. Đang khi ban phước, Ngài rời khỏi họ và được cất lên trời. Họ thờ lạy Ngài, rồi quay về Giê-ru-sa-lem, lòng rất vui mừng. Họ ở luôn trong đền thờ, tiếp tục ca ngợi Đức Chúa Trời. Trước khi sáng tạo vũ trụ đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời. Ngay từ ban đầu Ngài đã ở cùng Đức Chúa Trời. Tất cả đều được Ngài sáng tạo. Không gì hiện hữu mà không do Ngài. Trong Ngài có nguồn sự sống và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Ánh sáng tỏa ra trong bóng tối và bóng tối không khống chế được ánh sáng. Có một người Đức Chúa Trời phái đến, tên là Giăng. Ông đến làm nhân chứng, là nhân chứng cho ánh sáng, để nhờ ông mọi người có thể tin. Chính Giăng không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng cho ánh sáng. Ánh sáng thật này đã đến trần gian soi sáng mọi người. Ngôi Lời ở trong thế giới do chính Ngài sáng tạo nhưng thế giới không nhận biết Ngài. Chúa đã đến trong nước Ngài mà dân Ngài không nghênh tiếp, nhưng những ai tiếp nhận Ngài, nghĩa là tin danh Ngài, thì Ngài ban cho quyền trở nên con Đức Chúa Trời. Đây là những người không sinh ra theo huyết thống, ý phàm hay ý người, nhưng do chính Đức Chúa Trời sinh thành. Ngôi Lời đã giáng thế làm người, cư ngụ giữa chúng ta, tràn đầy ân sủng và chân lý. Chúng tôi đã tận mắt chiêm ngưỡng vinh quang Ngài, là vinh quang của Con Một đến từ Cha. Khi làm chứng về Ngài, Giăng long trọng tuyên bố: “Đây là Đấng tôi vẫn nói rằng: ‘Ngài đến sau tôi nhưng cao trọng hơn tôi, vì Ngài hiện hữu trước tôi.’” Nhờ sự phong phú của Ngài, chúng ta hết thảy đều được hết ân phúc nầy đến ân phúc khác. Thật vậy, Kinh Luật được ban hành qua Môi-se, còn ân sủng và chân lý được hình thành qua Chúa Cứu Thế Giê-su. Chưa ai trông thấy Đức Chúa Trời bao giờ, chỉ Con Một Đức Chúa Trời ở tận trong lòng Cha mới giải bày được Đức Chúa Trời cho chúng ta. Sau đây là lời chứng của Giăng khi những người Do Thái ở thành Giê-ru-sa-lem phái các thầy tế lễ và người Lê-vi đến hỏi: “Ông là ai?” Giăng tuyên bố mà không e ngại, ông tuyên bố rằng: “Tôi không phải là Chúa Cứu Thế.” Họ hỏi: “Vậy thì ông là ai? Là Ê-li phải không?” Giăng bảo: “Không phải!”“Ông có phải là vị tiên tri của Chúa không?” Giăng đáp: “Không phải!” Vậy họ hỏi tiếp: “Ông là ai để chúng tôi thưa lại với những người sai chúng tôi. Ông tự xưng mình là ai?” Giăng đáp: “Ta là tiếng vang, kêu lên nơi đồng hoang. Đắp thẳng con đường Chúa.” Theo lời tiên tri I-sa. Nhóm người được cử đến thuộc phái Pha-ri-si. Họ chất vấn Giăng: “Nếu ông không phải là Chúa Cứu Thế, không phải là Ê-li, cũng không phải là vị tiên tri của Chúa, tại sao ông lại làm phép báp-tem?” Giăng đáp: “Tôi chỉ làm phép báp-tem bằng nước, nhưng ngay giữa vòng các ông hiện có một Người mà các ông không nhận ra. Người ấy đến sau tôi, nhưng tôi không đáng tháo quai dép Người!” Những việc nầy xảy ra ở Bê-tha-ni, bên kia bờ sông Giô-đanh, nơi Giăng đang làm phép báp-tem. Ngày hôm sau, khi thấy Đức Giê-su đến với mình, Giăng nói: “Đây là Chiên Con của Đức Chúa Trời, Đấng xóa tội lỗi cho nhân loại! Đây là Người mà tôi đã nói: Ngài đến sau tôi nhưng cao trọng hơn tôi vì Ngài hiện hữu trước tôi. Phần tôi, tôi vốn không biết Ngài, nhưng để cho Y-sơ-ra-ên biết Ngài là ai, tôi đã đến làm phép báp-tem bằng nước.” Rồi Giăng dẫn chứng rằng: “Tôi đã thấy Thánh Linh từ trời giáng xuống trong dạng bồ câu, đậu trên Ngài. Phần tôi, tôi vốn không biết Ngài là ai, nhưng Đấng sai tôi đến làm phép báp-tem bằng nước có phán dặn tôi: Hễ con thấy Thánh Linh giáng xuống đậu trên ai, đó chính là Đấng sẽ làm phép báp-tem bằng Thánh Linh. Tôi đã chứng kiến, nên tôi xác nhận, đây chính là Con Đức Chúa Trời.” Hôm sau, khi Giăng đang đứng với hai môn đệ, ông nhìn Đức Giê-su đi qua và nói: “Đây là Chiên Con của Đức Chúa Trời!” Hai môn đệ nghe vậy, liền đi theo Đức Giê-su. Thấy họ theo mình, Đức Giê-su quay lại hỏi: “Các anh tìm ai?” Họ thưa: “Ra-bi, nghĩa là ‘Thưa Thầy’, Thầy trọ ở đâu?” Ngài bảo: “Các anh hãy đến xem!” Lúc đó vào khoảng bốn giờ chiều. Vậy họ đến xem chỗ Ngài trọ và ở lại với Ngài suốt ngày hôm ấy. Một trong hai người đã nghe lời Giăng đi theo Ngài là An-rê, em của Si-môn Phê-rơ. Việc đầu tiên An-rê làm là đi tìm anh mình và nói: “Chúng em đã gặp được Đấng Mê-si-a, nghĩa là Chúa Cứu Thế.” An-rê đưa Si-môn đến gặp Đức Giê-su. Ngài nhìn Si-môn bảo: “Anh là Si-môn, con của Giăng, nhưng anh sẽ được gọi là Kê-pha,” dịch sang Hy Lạp: Phê-rơ nghĩa là đá. Qua ngày sau, Đức Giê-su quyết định lên miền Ga-li-lê. Gặp Phi-líp, Ngài bảo: “Anh hãy theo Ta!” Phi-líp quê ở Bết-sai-đa, đồng thành với An-rê và Phê-rơ. Phi-líp gặp Na-tha-na-ên, khoe: “Chúng tôi đã gặp Đấng mà Môi-se đã viết trong Kinh Luật, các tiên tri của Chúa cũng có ghi chép. Ngài là Đức Giê-su, con ông Giô-sép ở Na-xa-rét.” Na-tha-na-ên nói: “Có gì tốt ra từ Na-xa-rét đâu!” Phi-líp đáp: “Cứ đến mà xem!” Thấy Na-tha-na-ên đến cùng mình, Đức Giê-su nói về người rằng: “Đây mới thật là người Y-sơ-ra-ên, trong lòng không có gì gian dối!” Na-tha-na-ên hỏi: “Sao Thầy biết tôi?” Đức Giê-su đáp: “Trước khi Phi-líp gọi anh, Ta đã thấy anh dưới cây vả!” Na-tha-na-ên thưa: “Thưa Thầy, Thầy đúng là Con Đức Chúa Trời, Thầy là Vua Y-sơ-ra-ên!” Đức Giê-su hỏi lại: “Có phải vì Ta nói Ta thấy anh dưới cây vả mà anh tin không? Anh sẽ còn thấy nhiều việc lớn hơn nữa!” Rồi Ngài tuyên bố: “Các anh sẽ thấy bầu trời mở ra và thiên sứ của Đức Chúa Trời lên xuống trên Con Người!” Ba ngày sau, có một tiệc cưới ở Ca-na, miền Ga-li-lê. Mẹ Đức Giê-su có mặt tại đó. Đức Giê-su và các môn-đệ cũng được mời dự tiệc. Khi thiếu rượu, mẹ Đức Giê-su bảo Ngài: “Người ta hết rượu rồi!” Đức Giê-su nói: “Thưa mẹ, việc của Con có can hệ gì đến mẹ, giờ Con chưa đến!” Mẹ Ngài nói với những người hầu tiệc: “Người bảo sao hãy làm vậy!” Tại đó có sáu cái vại bằng đá, mỗi cái chứa khoảng tám mươi đến một trăm hai mươi lít nước, dùng cho tục lệ tẩy sạch của người Do Thái. Đức Giê-su bảo: “Hãy đổ nước đầy các vại nầy đi!” Họ đổ đầy tới miệng vại. Rồi Ngài tiếp: “Bây giờ hãy múc đem cho người quản tiệc.” Vậy họ mang đến cho ông ấy. Khi người quản tiệc nếm nước đã biến thành rượu, (chẳng biết rượu từ đâu đến, nhưng những người hầu tiệc đã múc nước thì biết rõ) ông gọi chú rể bảo: “Người ta ai cũng đãi rượu ngon trước, còn rượu dở dành cho lúc khách đã say, riêng anh thì giữ rượu ngon cho đến bây giờ!” Thế là tại Ca-na, miền Ga-li-lê, Đức Giê-su thực hiện dấu lạ đầu tiên và bày tỏ vinh quang Ngài, nên các môn đệ tin Ngài. Sau đó, Chúa cùng với mẹ, các em và môn đệ xuống thành Ca-pha-na-um, nhưng chỉ ghé lại ít ngày thôi. Gần đến lễ Vượt Qua của người Do Thái, Đức Giê-su lên thành Giê-ru-sa-lem. Ngài thấy trong sân đền thờ người thì buôn bán bò, chiên, bồ câu; kẻ lại ngồi đổi bạc. Ngài bện dây roi, đánh đuổi tất cả ra khỏi đền thờ luôn với chiên bò. Ngài vứt tung tiền và lật đổ bàn ghế của người đổi bạc. Ngài truyền lệnh cho những người bán bồ câu: “Dẹp sạch những thứ nầy đi! Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán!” Môn đệ Ngài nhớ lời Kinh Thánh: “Nhiệt tình về nhà Chúa thiêu đốt tôi!” Còn người Do Thái vặn hỏi Ngài: “Ông có dấu lạ gì để chứng tỏ ông có quyền hành động như vậy?” Đức Giê-su trả lời: “Phá hủy thánh điện nầy đi rồi trong ba ngày Ta sẽ dựng lại!” Người Do Thái hỏi lại: “Người ta phải mất bốn mươi sáu năm để xây thánh điện này mà ông chỉ cần ba ngày để dựng lại sao?” Nhưng thánh điện Ngài nói đây là thân xác Ngài. Vì vậy, sau khi Ngài sống lại, các môn đệ mới nhớ ra là Ngài đã nói như vậy, nên họ tin Kinh Thánh và lời Đức Giê-su dạy. Khi Đức Giê-su ở Giê-ru-sa-lem trong kỳ lễ Vượt Qua, nhiều người tin danh Ngài vì thấy những dấu lạ Ngài đã làm, nhưng Đức Giê-su không tin cậy họ vì Ngài biết tất cả mọi người. Không cần ai làm chứng về loài người vì Ngài biết rõ lòng dạ con người. Trong giới lãnh đạo Do Thái có một người tên là Ni-cô-đem, thuộc phái Pha-ri-si. Ban đêm, người nầy đến gặp Đức Giê-su và thưa với Ngài rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là giáo sư từ Đức Chúa Trời đến, vì những dấu lạ Thầy làm nếu không có Đức Chúa Trời ở cùng thì không ai làm được.” Đức Giê-su đáp: “Thật vậy, Ta bảo ông, nếu một người chẳng sinh từ thiên thượng thì không thể thấy Nước Đức Chúa Trời!” Ni-cô-đem thưa: “Người đã già làm sao được sinh ra một lần nữa? Không lẽ lại trở vào lòng mẹ để được sinh ra lần thứ hai sao?” Đức Giê-su đáp: “Thật, Ta bảo ông, nếu không nhờ nước và Thánh Linh mà sinh ra, không một người nào được vào Nước Đức Chúa Trời! Thể xác sinh ra phần xác, Thánh Linh sinh hạ phần linh. Đừng ngạc nhiên khi Ta bảo ông cần phải được sinh lại từ thiên thượng. Gió muốn thổi đâu thì thổi, người nghe tiếng động nhưng không biết gió đến từ đâu và lại đi đâu. Người được Thánh Linh sinh ra cũng giống như vậy.” Ni-cô-đem thưa: “Việc đó làm sao được?” Đức Giê-su đáp: “Ông là bậc thầy của Y-sơ-ra-ên mà không biết những điều đó sao? Thật, Ta bảo ông: Điều gì chúng ta biết mới nói, thấy mới làm chứng; thế mà các ông vẫn không chấp nhận lời chứng của chúng ta. Ta nói những việc dưới đất, các ông còn chưa tin, huống chi những việc trên trời thì làm sao tin được? Chưa có ai từng lên trời, trừ ra Đấng từ trời xuống, tức là Con Người. Như Môi-se treo con rắn lên cao trong nơi đồng hoang thể nào thì Con Người cũng phải bị treo lên thể ấy, để tất cả những ai tin Ngài đều được sự sống vĩnh phúc. Vì Đức Chúa Trời yêu thương nhân loại, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, để ai tin nhận Đấng ấy sẽ không bị hư mất nhưng được sự sống vĩnh phúc. Đức Chúa Trời cho Con Ngài xuống thế gian nào phải để kết án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Đức Con mà được cứu. Ai tin Đức Con hẳn khỏi bị kết án, nhưng ai không tin thì đã bị lên án rồi vì chẳng chịu tin nhận Con Một của Đức Chúa Trời. Án lý buộc tội là thế nầy: Ánh sáng đã chiếu vào thế gian nhưng người đời yêu chuộng bóng tối hơn ánh sáng vì hành vi của họ là gian ác. Vì người làm ác thì ghét ánh sáng và không chịu đến cùng ánh sáng, sợ rằng hành vi của mình sẽ bị phơi bày ra. Còn người hành động theo chân lý thì đến cùng ánh sáng để cho thấy rằng những công việc mình đã làm là hiệp với Đức Chúa Trời.” Sau đó, Đức Giê-su và các môn đệ đến vùng đất Giu-đê. Ngài cùng họ ở lại đó và làm phép báp-tem. Giăng cũng đang làm phép báp-tem tại Ê-nôn, gần Xa-lim, vì ở đó có nhiều nước. Người ta kéo nhau đến chịu phép báp-tem. Bấy giờ Giăng chưa bị bắt giam. Một cuộc tranh luận xảy ra giữa các môn đệ của Giăng với một người Do Thái về nghi lễ tinh sạch. Họ đến thưa với Giăng: “Thưa thầy, Người đã đến với thầy bên kia sông Giô-đanh mà thầy đề cao, hiện đang làm phép báp-tem và thiên hạ kéo nhau đến với Người.” Giăng đáp: “Trời không cho thì chẳng ai lãnh được gì cả! Ta đã nói, có các anh làm chứng, ta không phải là Chúa Cứu Thế nhưng chỉ là người được phái đến trước Ngài. Ai cưới vợ mới là chàng rể. Bạn của chàng rể chỉ đứng nghe ngóng và khi nghe được tiếng chàng rể thì hớn hở vui mừng. Chính vì thế mà ta mãn nguyện. Ngài phải được tôn cao, còn ta phải hạ xuống. Đấng đến từ trên cao trổi hơn mọi người, còn kẻ từ đất mà ra thuộc về đất và chỉ nói được chuyện trần gian. Đấng từ trời xuống cao trọng hơn mọi người. Thấy gì, nghe gì Ngài đều làm chứng, mà không ai chịu nhận lời chứng của Ngài. Nhưng hễ ai tiếp nhận lời chứng của Ngài, thì người ấy đã xác nhận rằng Đức Chúa Trời là chân thật. Vì Đấng được Đức Chúa Trời sai đến thì truyền rao lời của Đức Chúa Trời và được Ngài ban Thánh Linh vô hạn. Cha yêu Con và đã trao mọi sự vào tay Con. Ai tin Con thì được sự sống vĩnh phúc; ai không chịu vâng phục Con thì chẳng được sự sống đâu, nhưng cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời vẫn còn trên người đó!” Thế rồi, Đức Giê-su rời miền Giu-đê trở về Ga-li-lê, vì biết rằng người Pha-ri-si có nghe đồn Ngài đã làm phép báp-tem và thu phục được nhiều người hơn Giăng. Thật ra, chính Đức Giê-su không làm phép báp-tem mà là các môn đệ của Ngài. *** Ngài thấy cần phải đi con đường băng qua Sa-ma-ri. Vậy, Ngài đến một thị trấn trong miền Sa-ma-ri, tên là Si-kha, gần thửa đất mà xưa Gia-cốp đã cho con là Giô-sép. Tại đó có cái giếng của Gia-cốp. Vì đi đường mệt mỏi nên Đức Giê-su ngồi nghỉ bên giếng. Lúc đó, khoảng giữa trưa. Một thiếu phụ Sa-ma-ri ra múc nước. Đức Giê-su bảo: “Cho ta xin một chút nước uống!” Lúc ấy các môn đệ Ngài đã vào thành phố mua thức ăn. Thiếu phụ Sa-ma-ri đáp: “Ông là người Do Thái, tôi là đàn bà Sa-ma-ri, sao ông lại xin tôi nước uống?” Vì người Do Thái không động chạm đến những gì người Sa-ma-ri dùng. Đức Giê-su đáp: “Nếu chị biết tặng phẩm Trời ban và biết Người xin chị nước uống là ai, chắc chị sẽ xin Người và Người sẽ cho chị nước trường sinh!” Thiếu phụ tiếp lời: “Thưa ông, gàu ông không có mà giếng lại sâu, làm sao ông múc được nước trường sinh đó? Chẳng lẽ ông hơn cả tổ phụ Gia-cốp chúng tôi sao? Người đã để lại giếng nầy cho chúng tôi, chính người, con cháu và đàn gia súc đều đã uống giếng nầy.” Đức Giê-su đáp: “Ai uống nước nầy rồi cũng khát lại, nhưng uống nước Ta ban cho sẽ chẳng bao giờ khát nữa. Nước Ta ban cho sẽ biến thành giếng nước trong người, tuôn tràn sự sống vĩnh phúc.” Thiếu phụ nói: “Thưa ông, xin cho tôi nước đó để tôi không còn khát và cũng khỏi đến đây múc nước nữa!” Ngài bảo: “Chị về gọi chồng ra đây!” Thiếu phụ thưa: “Tôi không có chồng!” Ngài nói: “Bảo là không chồng thì cũng đúng, vì chị đã có năm đời chồng và người chị hiện có cũng chẳng phải là chồng! Chị đã nói thật đó!” Thiếu phụ nói: “Thưa ông, tôi nhận thấy rằng ông là một tiên tri của Đức Chúa Trời. Tổ tiên chúng tôi đã thờ phượng trên ngọn núi nầy, còn các ông lại bảo Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi để thờ phượng!” Đức Giê-su đáp: “Nầy, chị hãy tin Ta đi, sắp đến lúc các người không còn thờ phượng Đức Chúa Cha trên ngọn núi nầy hay tại Giê-ru-sa-lem nữa. Các người thờ phượng Đấng các người không biết, còn chúng ta thờ phượng Đấng chúng ta biết, vì ơn cứu rỗi từ người Do Thái mà đến! Nhưng giờ sắp điểm và thật ra đã điểm đây rồi, lúc những người thực tâm thờ phượng sẽ thờ phượng Chúa Cha bằng tâm linh và lẽ thật, vì Chúa Cha vẫn tìm kiếm những người có lòng thờ phượng như vậy. Đức Chúa Trời là Linh Thần, nên những người thờ phượng Ngài phải lấy tâm linh, lẽ thật mà thờ phượng.” Thiếu phụ thưa: “Tôi biết Đấng Mê-si-a (nghĩa là Chúa Cứu Thế) sẽ đến và khi đến, Ngài sẽ chỉ bảo cho chúng ta tất cả.” Đức Giê-su đáp: “Ta, người đang nói với chị, chính là Đấng đó!” Lúc ấy các môn đệ Ngài vừa về, họ ngạc nhiên thấy Ngài chuyện trò với một thiếu phụ, nhưng không ai hỏi Thầy cần gì, hay tại sao lại chuyện trò với người thiếu phụ ấy? Thiếu phụ để vò nước lại, trở vào thành, nói với mọi người: “Ra đây mà xem người nầy; bao nhiêu việc tôi làm xưa nay ông đều nói đúng. Đó chẳng phải là Chúa Cứu Thế sao?” Họ kéo nhau ra khỏi thành đến cùng Ngài. Đang khi đó các môn đệ cứ nài nỉ: “Thưa Thầy, xin mời Thầy ăn!” Ngài trả lời: “Ta có thức ăn mà các con không biết được.” Các môn đệ bèn bảo nhau: “Chẳng lẽ có người đã mời Thầy ăn rồi sao?” Đức Giê-su bảo họ: “Thức ăn của Ta là tuân theo ý muốn của Đấng đã sai Ta và hoàn thành công việc Ngài. Chẳng phải chính các con đã nói còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt, nhưng Ta bảo: Hãy ngước mắt lên nhìn đồng lúa chín vàng, sẵn cho mùa gặt. Thợ gặt đã lãnh tiền công và thu góp hoa lợi vào sự sống vĩnh phúc để kẻ gieo chung vui với người gặt. Thật đúng như câu người ta vẫn nói: Kẻ thì lo gieo, người thì lo gặt. Chính Ta đã sai các con đến gặt ở chỗ mình không gieo, người khác đã nhọc nhằn để các con vào hưởng công lao của họ.” Nhiều người Sa-ma-ri ở thành đó tin Ngài, vì thiếu phụ kia làm chứng rằng Ngài đã nói đúng y mọi điều bà đã làm xưa nay. Vì vậy, những người Sa-ma-ri đến yêu cầu Ngài ở lại với họ, nên Ngài ở đó hai ngày. Người tin Đức Giê-su càng đông thêm khi nghe Ngài giảng dạy. Họ bảo thiếu phụ: “Bây giờ không phải vì nghe chị nói mà chúng tôi tin đâu, nhưng vì chính chúng tôi đã nghe Ngài dạy, nên chúng tôi biết rằng Ngài thật là Đấng Cứu Thế của nhân loại.” Hai ngày sau, Đức Giê-su lên đường đến Ga-li-lê, vì chính Ngài cũng đã xác nhận rằng không một tiên tri nào được tôn trọng tại quê hương. Khi đến Ga-li-lê, người Ga-li-lê nghênh tiếp Ngài, vì họ có lên Giê-ru-sa-lem dự lễ và đã chứng kiến mọi việc Ngài làm tại đó trong kỳ lễ. Rồi Ngài về lại Ca-na, miền Ga-li-lê, nơi Ngài đã hóa nước thành rượu. Một viên quan ở Ca-pha-na-um có đứa con trai lâm bệnh. Nghe tin Đức Giê-su đã rời Giu-đê về Ga-li-lê, ông đến xin Ngài xuống chữa bệnh cho con mình, vì đứa con đang hấp hối. Đức Giê-su nói với ông: “Nếu không thấy dấu lạ phép mầu, hẳn các người chẳng chịu tin đâu!” Viên quan thưa: “Lạy Chúa, xin Chúa đến trước khi con tôi chết!” Đức Giê-su bảo: “Cứ về đi, con của ông sống.” Người ấy tin lời Đức Giê-su nói với mình mà đi về. Trên đường về, các gia nhân ra đón ông trình rằng: “Con của chủ đã bình phục rồi!” Ông hỏi xem bình phục khi nào thì họ thưa: “Cậu hết sốt hôm qua, vào lúc một giờ trưa.” Người cha nhận ra rằng đó là giờ Đức Giê-su bảo mình: “Con của ông sống!” nên chính ông và cả nhà đều tin. Đây là dấu lạ thứ nhì mà Đức Giê-su đã làm sau khi Ngài rời Giu-đê về Ga-li-lê. Sau đó, nhằm một kỳ lễ của người Do Thái, Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem. Tại Giê-ru-sa-lem, gần bên Cửa Chiên, có một cái hồ dưới vòm cung năm hàng cột, tiếng Do Thái gọi là Bết-xa-tha. Người đau yếu, mù lòa, què quặt và bại liệt nằm tại đây rất đông. Họ chờ khi nước động, vì thỉnh thoảng một thiên sứ của Chúa giáng xuống hồ, khuấy động mặt nước, người nào xuống hồ đầu tiên khi nước dao động thì dù mắc bệnh gì cũng được lành. Ở đó có một người mắc bệnh đã ba mươi tám năm. Đức Giê-su thấy người nằm liệt, biết người mang bệnh đã lâu nên hỏi: “Anh có muốn lành bệnh không?” Người bệnh đáp: “Thưa ông, chẳng có ai quăng tôi xuống hồ khi nước dao động. Khi tôi lần tới được thì người khác đã xuống trước tôi rồi!” Đức Giê-su bảo: “Anh hãy đứng dậy, vác chõng rồi bước đi!” Lập tức, người ấy được lành, mang chõng mà đi.Hôm ấy nhằm ngày Sa-bát. Vì thế, người Do Thái nói với người được chữa lành: “Hôm nay là ngày Sa-bát, anh không được phép vác chõng đi như vậy!” Anh ta đáp: “Chính người đã chữa lành cho tôi bảo tôi: Hãy vác chõng mà đi!” Họ hỏi: “Ai là người dám bảo anh mang chõng đi?” Người được lành bệnh không biết là ai vì Đức Giê-su đã lẩn vào đám đông đang tụ tập tại đó. Sau đó, Đức Giê-su gặp người ấy tại đền thờ, Ngài bảo: “Nầy, anh đã lành rồi, đừng phạm tội nữa, e lại gặp điều càng tệ hơn chăng?” Người ấy ra đi báo cho người Do Thái biết rằng chính Đức Giê-su là người đã chữa lành cho mình. Thế là người Do Thái theo dõi bắt bớ Đức Giê-su, chỉ vì Ngài đã làm những việc ấy trong ngày Sa-bát. Nhưng Đức Giê-su trả lời: “Cha Ta xưa nay vẫn làm việc và Ta cũng làm như vậy!” Do đó, người Do Thái càng rắp tâm sát hại Đức Giê-su, vì không những Ngài đã phạm ngày Sa-bát mà còn gọi Đức Chúa Trời là Cha, tự cho mình bình đẳng với Đức Chúa Trời. Vì thế, Đức Giê-su nói: “Thật vậy, Ta bảo các người: Con chẳng tự mình làm gì, trừ những việc Con thấy nơi Cha, vì điều nào Cha làm thì Con mới làm! Vì Cha yêu quý Con nên bày tỏ cho Con tất cả những điều Cha làm và lại còn tỏ những việc vĩ đại hơn nữa, làm các người phải kinh ngạc. Như Cha đã khiến kẻ chết sống lại và ban sự sống cho họ thế nào thì Con cũng sẽ ban sự sống cho người nào Con muốn thể ấy! Vì Cha chẳng đoán xét ai cả nhưng đã trao cho Con trọn quyền đoán xét để mọi người tôn kính Con cũng như họ đã tôn kính Cha. Người nào chẳng tôn kính Con thì cũng không tôn kính Cha là Đấng đã sai Con đến. Thật vậy, Ta bảo các người, ai nghe theo lời Ta mà tin Đấng đã sai Ta sẽ được sự sống vĩnh phúc, và khỏi phải bị đoán phạt, nhưng vượt khỏi sự chết để đến sự sống. Thật vậy, Ta bảo các người: Giờ sắp điểm, mà thật ra đã điểm đây rồi, lúc những người chết sẽ được nghe tiếng gọi của Con Đức Chúa Trời và những người nào nghe sẽ được sống. Vì chính Cha là Nguồn Sự Sống, nên Ngài cũng đã cho Con làm Nguồn Sự Sống. Ngài đã ban cho Con trọn quyền phán xét, vì Con chính là Con Người! Các người đừng kinh ngạc về điều nầy, vì giờ sắp điểm, khi tất cả những người nằm trong mộ sẽ nghe tiếng gọi của Ngài và ra khỏi mộ. Ai làm việc thiện sẽ sống lại để được sống, còn ai làm điều ác sẽ sống lại để nhận án phạt. Ta không thể tự mình làm việc gì. Ta phán xét theo điều Ta nghe biết và sự phán xét của Ta thật công minh vì Ta không theo ý Ta nhưng theo ý Đấng đã sai Ta. Nếu chính Ta làm chứng về mình, lời chứng của Ta không hợp lệ; có Đấng khác làm chứng về Ta và Ta biết lời chứng của Ngài về Ta là xác thực. Chính các người đã cử người đến cùng Giăng và người đã xác chứng sự thật. Ta không dựa vào lời chứng của loài người, nhưng Ta nói lên những điều nầy để các người được cứu rỗi. Giăng là ngọn đèn được chiếu sáng mà chính các người thích tạm vui hưởng ánh sáng của người trong giây lát. Nhưng chính Ta có một bằng chứng hùng mạnh hơn của Giăng, đó là các công tác Cha giao cho Ta hoàn tất. Chính các công tác Ta làm đó chứng thực về Ta rằng Cha đã sai Ta! Chính Cha là Đấng sai Ta và làm chứng về Ta. Các người chưa bao giờ nghe được tiếng của Ngài, cũng chưa bao giờ thấy được hình dạng Ngài. Đạo Ngài các người đã không giữ trong lòng, vì các người không chịu tin theo Đấng mà Ngài sai đến. Các người nghiên cứu Kinh Thánh, vì các người tin rằng trong đó có sự sống vĩnh phúc. Chính Kinh Thánh cũng làm chứng về Ta. Thế mà các người vẫn không chịu đến cùng Ta để được sự sống. Ta chẳng cầu vinh nơi loài người, nhưng Ta biết các người chẳng có lòng yêu kính Đức Chúa Trời. Chính Ta đã nhân danh Cha Ta mà đến nhưng các người không tiếp nhận Ta; nếu có người nào khác lấy danh nghĩa riêng mà đến thì các người lại đón tiếp! Làm sao các người tin được một khi các người chỉ thích nhận vinh quang của nhau thay vì tìm kiếm vinh quang từ Đức Chúa Trời duy nhất? Đừng tưởng rằng Ta sẽ tố cáo các người trước mặt Cha; Môi-se, người mà các người kỳ vọng, chính là người sẽ tố cáo các người! Nếu các người thật sự tin lời Môi-se thì hẳn đã tin Ta, vì người viết về Ta! Nhưng nếu những lời người ghi chép mà các người còn không tin, thì làm sao các người tin lời Ta nói đây?” Sau những việc nầy, Đức Giê-su qua bên kia biển hồ Ga-li-lê, cũng gọi là Ti-bê-ri-át. Một đoàn người đông đảo đi theo Ngài vì được chứng kiến những dấu lạ Ngài làm cho những người bệnh. Đức Giê-su lên núi cùng ngồi với các môn đệ. Hôm ấy gần đến lễ Vượt Qua, kỳ hội lớn của người Do Thái. Vậy, Đức Giê-su ngước mắt lên, nhìn đoàn người đông đảo đến với Ngài rồi hỏi Phi-líp: “Ta tìm đâu ra bánh để mua cho họ ăn đây?” Ngài hỏi vậy để thử Phi-líp chứ Ngài đã biết mình sắp làm gì rồi. Phi-líp thưa: “Lấy hai trăm đồng đê-na-ri mua bánh cũng không đủ cho mỗi người một miếng nhỏ.” Một môn đệ khác của Ngài là An-rê, em Si-môn Phê-rơ, thưa với Ngài: “Đây có một cậu bé mang theo năm cái bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng đông thế nầy thì thấm vào đâu!” Đức Giê-su nói: “Hãy bảo người ta ngồi xuống!” Chỗ ấy có nhiều cỏ, nên họ ngồi lại, kể riêng đàn ông có đến năm ngàn. Vậy, Đức Giê-su cầm bánh, cảm tạ Đức Chúa Trời rồi phân phát cho những người ngồi đó, xong bánh lại đến cá, ai muốn bao nhiêu tùy ý. Khi họ đã ăn no, Ngài bảo các môn đệ: “Hãy thu lượm bánh thừa để khỏi phí phạm.” Vậy họ thu lượm những mảnh vụn của năm chiếc bánh lúa mạch mà người ta đã ăn, được mười hai giỏ đầy. Khi đã thấy phép lạ Ngài làm, người ta bảo nhau: “Người nầy chính là vị tiên tri, Đấng phải đến thế gian.” Rồi vì biết rằng họ sắp đến ép Ngài lên làm vua, Đức Giê-su lại lánh lên núi một mình. Đến chiều, các môn đệ của Ngài trở xuống biển, lên thuyền sang bờ bên kia về hướng Ca-pha-na-um. Trời đã tối mà Đức Giê-su vẫn chưa đến với họ. Gió chợt thổi mạnh và biển nổi sóng lớn. Họ chèo chống được khoảng năm hay sáu cây số, thì thấy Đức Giê-su đi trên mặt biển đến gần thuyền. Họ kinh hoàng, nhưng Ngài bảo họ: “Chính Ta đây, đừng sợ nữa!” Họ muốn rước Ngài vào thuyền, thì lập tức thuyền đã cập vào bến mà họ định đi đến. Ngày hôm sau, đoàn dân còn ở lại bên kia biển hồ thấy ở đó chỉ có một chiếc thuyền mà Đức Giê-su thì không xuống thuyền với các môn đệ, chỉ có các môn đệ của Ngài chèo đi thôi. Những thuyền khác từ Ti-bê-ri-át cập bến gần chỗ đoàn dân đã ăn bánh sau khi Chúa tạ ơn. Vì vậy, khi đoàn dân không thấy Đức Giê-su và các môn đệ Ngài ở đó thì lên thuyền đến Ca-pha-na-um tìm Đức Giê-su. Khi gặp được Ngài bên kia bờ biển, họ hỏi Ngài: “Thưa Thầy, Thầy đến đây lúc nào vậy?” Đức Giê-su đáp: “Thật vậy, Ta bảo các người: Các người tìm Ta chẳng phải vì đã chứng kiến các dấu lạ nhưng chỉ vì được bánh ăn no nê! Đừng khổ vì miếng ăn hay hư nát nhưng vì thức ăn còn đến sự sống vĩnh phúc mà Con Người sẽ ban cho các người. Đức Chúa Trời là Cha đã ấn chứng cho Người!” Họ thưa: “Chúng tôi phải làm gì để được làm việc của Đức Chúa Trời?” Đức Giê-su đáp: “Làm việc của Đức Chúa Trời là tin Đấng mà Ngài đã sai đến.” Họ nói với Ngài: “Vậy Thầy tự làm dấu lạ gì cho chúng tôi thấy để tin Thầy? Thầy sắp thi thố việc gì đây? Tổ phụ chúng ta ăn bánh ma-na trong đồng hoang, đúng như Kinh Thánh chép: ‘Họ ăn bánh từ trời ban xuống.’” Đức Giê-su đáp: “Thật vậy, Ta bảo các người: Không phải Môi-se cho các người bánh từ trời đâu, nhưng chính Cha Ta mới thật ban cho các người bánh từ trời! Vì bánh của Đức Chúa Trời là bánh từ trời xuống, cung ứng sự sống cho loài người.” Họ nói: “Thưa Thầy, xin cứ luôn luôn ban cho chúng tôi thứ bánh ấy!” Đức Giê-su đáp: “Chính Ta là bánh hằng sống, ai đến với Ta sẽ không bao giờ đói, còn ai tin Ta sẽ chẳng bao giờ khát! Nhưng Ta đã nói với các người, dù thấy Ta nhưng các người vẫn không chịu tin. Tất cả những gì Cha cho Ta sẽ quy về Ta, người nào đến với Ta, Ta sẽ không bao giờ ruồng bỏ! Vì Ta từ trời xuống không phải để làm theo ý riêng Ta, nhưng theo ý Đấng đã sai Ta. Và đây là ý Đấng đã sai Ta, ấy là tất cả những người Cha đã cho Ta, Ta sẽ không để cho hư mất, nhưng Ta sẽ làm cho sống lại trong ngày cuối cùng. Vì đây là ý Cha Ta, ấy là người nào nhận ra Con và tin theo Ngài thì sẽ được sự sống vĩnh phúc, và chính Ta sẽ khiến người ấy sống lại trong ngày cuối cùng!” Thế là người Do Thái bắt đầu thì thầm bàn tán với nhau vì câu Ngài nói: Ta là bánh từ trời xuống. Họ bảo: “Người nầy không phải là Giê-su con Giô-sép sao? Cha mẹ anh ấy chúng ta đều biết cả, sao bây giờ lại dám nói: Ta từ trời xuống?” Đức Giê-su đáp: “Đừng xầm xì với nhau nữa! Không một ai có thể đến với Ta nếu không được Cha là Đấng đã sai Ta đem đến và Ta sẽ khiến người ấy sống lại trong ngày cuối cùng! Kinh Tiên Tri chép: ‘Mọi người sẽ được Đức Chúa Trời chỉ dạy.’ Người nào lắng nghe Cha và học theo thì đến với Ta. Không ai thấy được Cha, ngoài Đấng ở cùng Đức Chúa Trời, chính Đấng ấy đã thấy Cha. Thật vậy, Ta bảo các người: Người nào tin thì được sự sống vĩnh phúc. Chính Ta là bánh hằng sống. Tổ phụ các người đã ăn bánh ma-na trong đồng hoang rồi cũng chết. Còn đây là bánh từ trời xuống để người nào ăn khỏi phải chết. Chính Ta là bánh hằng sống từ trời xuống, người nào ăn bánh nầy sẽ sống đời đời. Và bánh mà Ta sẽ ban để loài người được sống chính là thân xác Ta.” Người Do Thái liền cãi vã với nhau rằng: “Làm sao người nầy có thể lấy thân xác mình cho chúng ta ăn được?” Đức Giê-su nói: “Thật vậy, Ta bảo các người: Các người sẽ không có được sự sống trong mình cho đến chừng các người ăn thịt của Con Người và uống huyết của Người. Người nào ăn thịt Ta và uống huyết Ta thì được sự sống vĩnh phúc, còn chính Ta sẽ khiến người ấy sống lại trong ngày cuối cùng. Vì thân xác Ta thật là thức ăn và huyết Ta thật là thức uống. Người nào ăn thịt Ta và uống huyết Ta thì ở trong Ta và chính Ta ở trong người. Vì như Cha hằng sống đã sai Ta và Ta nhờ Cha mà sống, thì người nào ăn lấy Ta cũng sẽ nhờ Ta mà sống như vậy. Đây là bánh từ trời xuống, nào phải như thứ bánh tổ phụ đã ăn rồi cũng chết. Người nào ăn bánh nầy sẽ sống đời đời.” Đức Giê-su dạy những điều nầy tại hội đường ở Ca-pha-na-um. Nhiều môn đệ của Ngài nghe vậy thì nói: “Lời nầy sao khó nghe quá, ai chấp nhận nổi?” Nhưng Đức Giê-su tự biết các môn đệ đang càu nhàu về việc đó, liền bảo họ: “Điều nầy làm các con bất mãn sao? Nếu các con được thấy Con Người thăng thiên về nơi Ngài ở trước kia thì thế nào? Thần linh mới tạo nên sự sống, còn thể xác chẳng ích gì cả! Những lời Ta truyền cho các con là thần linh và sự sống. Dầu vậy giữa vòng các con vẫn có người không tin.” Vì ngay từ đầu, Đức Giê-su đã biết những ai không tin và người nào sẽ phản bội Ngài, Chúa lại phán: “Vì vậy Ta đã bảo các con rằng nếu Cha không cho thì không một ai có thể đến với Ta được!” Từ đó, nhiều môn đệ của Ngài rút lui, không theo Ngài nữa. Đức Giê-su mới hỏi mười hai sứ đồ: “Còn các con cũng muốn bỏ đi sao?” Si-môn Phê-rơ thưa: “Lạy Chúa, chúng con còn theo ai nữa? Chúa có lời sự sống vĩnh phúc! Chúng con đã tin và biết chắc chính Chúa là Đấng Thánh của Đức Chúa Trời.” Đức Giê-su đáp: “Chính Ta đã chẳng chọn các con là mười hai người sao? Thế mà một người trong các con lại là quỷ!” Đây Ngài nói về Giu-đa, con của Si-môn Ích-ca-ri-ốt, vì hắn ta sắp phản bội Ngài (dù là một người trong mười hai sứ đồ). Sau các việc nầy, Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê; Ngài không muốn lui tới miền Giu-đê nữa vì người Do Thái đang âm mưu giết Ngài. Gần đến kỳ lễ Lều Trại của người Do Thái, các em trai của Đức Giê-su nói với Ngài: “Sao anh không rời đây mà lên Giu-đê để các môn đệ anh mục kích những việc anh làm? Vì có ai muốn được nhiều người biết mà lại làm việc một cách kín đáo? Đã làm được những việc nầy thì anh nên ra mặt cho thiên hạ biết đi!” Vì các em Ngài không tin theo Ngài, nên Đức Giê-su bảo họ: “Thời điểm của anh chưa tới, nhưng đối với các em, thì giờ nào cũng thuận tiện. Thiên hạ làm sao ghét các em được, nhưng họ ghét anh, vì chính anh đã làm chứng rằng những việc họ làm là gian ác. Các em cứ lên dự lễ; anh chưa lên dự kỳ lễ nầy đâu, vì giờ của anh chưa tới!” Sau khi nói những lời nầy, Ngài nán lại Ga-li-lê. Nhưng khi các em Ngài đã lên dự lễ rồi, thì chính Ngài cũng đi, nhưng kín đáo chứ không công khai. Trong kỳ lễ, người Do Thái đi tìm Ngài và hỏi nhau: “Người ấy đâu rồi?” Đám đông xì xào bàn tán nhiều về Ngài. Người thì nói: “Ông ấy là người nhân đức!” Kẻ khác lại bảo: “Không phải đâu, ông ấy chỉ mị dân!” Tuy nhiên, không ai dám nói công khai về Ngài vì sợ người Do Thái. Đến giữa kỳ lễ, Đức Giê-su lên đền thờ giảng dạy. Người Do Thái ngạc nhiên bảo nhau: “Người nầy không học mà sao lại thông thạo Kinh Thánh như vậy?” Đức Giê-su đáp: “Giáo lý Ta dạy không phải của Ta mà là của Đấng đã sai Ta đến! Người nào chịu làm theo ý Ngài sẽ biết giáo lý nầy đến từ Đức Chúa Trời hay là chính Ta tự nói ra. Kẻ tự ý mình mà nói thì chỉ tìm danh vọng riêng cho mình. Còn người lo tôn vinh Đấng đã sai mình mới là người chân thật, không có gì bất chính. Môi-se đã chẳng ban bố Kinh Luật cho các người sao? Thế mà không một ai trong các người vâng giữ Kinh Luật ấy. Sao các người lại tìm cách giết Ta?” Đoàn dân trả lời: “Ông bị quỷ nhập rồi, chứ có ai tìm giết ông đâu!” Đức Giê-su nói: “Ta mới làm một việc mà tất cả các người đều đã ngạc nhiên. Vì Môi-se đã truyền cho các người lễ cắt bì (thật ra, không phải Môi-se mà các tổ phụ truyền lại), nên các người làm lễ cắt bì cho người ta trong ngày Sa-bát. Người ta được phép chịu lễ cắt bì trong ngày Sa-bát mà vẫn khỏi phạm luật Môi-se, thì cũng trong ngày Sa-bát, Ta chữa lành toàn thân một người, sao các người lại tức giận với Ta? Đừng xét theo bề ngoài nhưng hãy lấy lẽ công minh mà xét!” Vậy, vài người dân thành Giê-ru-sa-lem hỏi nhau: “Đây không phải là người mà họ đang tìm cách giết sao? Kìa, sao người ấy phát biểu công khai mà không ai nói gì cả? Hay là cấp lãnh đạo đã biết người nầy thật là Chúa Cứu Thế? Khi Chúa Cứu Thế xuất hiện thì không ai biết Ngài từ đâu đến, còn người nầy chúng ta đã rõ lai lịch!” Đang giảng dạy trong đền thờ, Đức Giê-su liền lên tiếng nói rằng: “Phải, các người biết Ta và biết Ta từ đâu đến! Ta không tự mình đến đây, nhưng có Đấng Chân Thật đã sai Ta mà các người không biết. Còn Ta thì biết Ngài vì Ta từ Ngài mà đến và Ngài là Đấng đã sai Ta.” Vậy, họ tìm cách bắt Ngài, nhưng chưa ai ra tay được, vì giờ của Ngài chưa tới. Tuy nhiên, nhiều người trong đoàn dân tin Ngài và nói: “Khi Chúa Cứu Thế đến, chắc gì đã làm được nhiều dấu lạ hơn người nầy!” Những người Pha-ri-si nghe đoàn dân xì xào bàn tán về Ngài như vậy, liền cùng với các thượng tế sai thuộc hạ đi bắt Ngài. Đức Giê-su nói: “Ta còn ở với các người ít lâu nữa rồi Ta sẽ đi về cùng Đấng đã sai Ta. Dù các người có tìm Ta cũng chẳng gặp, vì các người không thể đến được nơi Ta ở!” Người Do Thái bảo nhau: “Người nầy sắp đi đâu mà chúng ta sẽ không gặp được? Hay ông ta đi đến với kiều bào tản lạc ở hải ngoại giữa vòng người Hy Lạp để giảng dạy cho người Hy Lạp nữa? Ông ta ngụ ý gì mà lại nói rằng: Các người có tìm Ta cũng chẳng gặp được và các người không thể đến nơi Ta ở?” Đến ngày cuối của kỳ lễ là ngày long trọng nhất, Đức Giê-su đứng dậy, lên tiếng kêu gọi: “Người nào khát, hãy đến cùng Ta mà uống! Người nào tin Ta thì sông nước trường sinh sẽ tuôn tràn từ cõi lòng mình, đúng như Kinh Thánh đã dạy.” Đức Giê-su nói điều nầy để chỉ về Thánh Linh mà những người tin Ngài sắp nhận lãnh. Thật ra, Thánh Linh chưa giáng xuống vì Đức Giê-su chưa được hiển vinh. Nghe những lời nầy, một số người trong đoàn dân bảo: “Người nầy chính thật là vị tiên tri của Chúa!” Số khác lại nói: “Người nầy chính là Chúa Cứu Thế!” Nhưng cũng có những người khác thắc mắc: “Chúa Cứu Thế mà lại xuất thân từ miền Ga-li-lê sao? Kinh Thánh đã chẳng từng dạy rằng Chúa Cứu Thế phải ra từ dòng vua Đa-vít, cùng nguyên quán Bết-lê-hem với vua Đa-vít sao?” Do đó, dân chúng chia rẽ nhau vì cớ Ngài. Một số người muốn bắt giữ Ngài, nhưng chẳng một ai dám ra tay. Khi đám thuộc hạ trở về, các thượng tế và người Pha-ri-si hỏi họ: “Sao không giải hắn đến đây?” Họ trình: “Chưa bao giờ có ai ăn nói hay như người nầy!” Người Pha-ri-si hỏi vặn lại: “Chính các anh cũng bị lừa sao? Có ai trong bậc quan quyền hay người Pha-ri-si tin hắn đâu? Nhưng đám dân này không biết Kinh Luật nên bị rủa sả là phải!” Trong nhóm Pha-ri-si có Ni-cô-đem là người đã đến gặp Ngài trước đây lên tiếng: “Luật lệ của chúng ta đâu cho phép kết án một người trước khi nghe đương sự cung khai và biết đương sự làm gì?” Họ đáp: “Ông cũng xuất thân từ Ga-li-lê sao? Cứ tra cứu Kinh Thánh ông sẽ thấy rõ rằng không một vị tiên tri nào của Chúa xuất thân từ Ga-li-lê cả!” Thế là mọi người bỏ đi, ai về nhà nấy. Trong khi đó Đức Giê-su lên núi Ô-liu. Lúc trời vừa sáng, Ngài trở vào đền thờ. Cả đoàn dân đều đến với Ngài và Ngài ngồi xuống dạy dỗ họ. Các chuyên gia kinh luật và người Pha-ri-si giải đến một người đàn bà ngoại tình bắt đứng giữa họ. Họ nói với Ngài: “Thưa Thầy, người đàn bà nầy bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, nên chiếu theo luật Môi-se, những hạng đàn bà ấy phải bị ném đá xử tử, còn Thầy thì dạy thế nào?” Họ nói vậy cốt gài bẫy Chúa để có lý do cáo tội Ngài.Nhưng Đức Giê-su cúi xuống, lấy ngón tay viết lên mặt đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Ngài đứng lên bảo: “Người nào trong các người chưa từng phạm tội, hãy ném đá người nầy trước đi!” Rồi Ngài lại cúi xuống viết lên mặt đất. Nghe vậy, họ lần lượt bỏ đi từng người một, người cao tuổi đi trước, để Ngài ở lại một mình với người đàn bà đang đứng đó. Đức Giê-su đứng lên hỏi: “Nầy, mấy người kia đâu cả rồi? Không ai kết tội chị sao?” Người đàn bà trả lời: “Thưa ông, không ai cả!” Đức Giê-su bảo: “Ta đây cũng không kết tội chị đâu; về đi, từ nay đừng phạm tội nữa!” Đức Giê-su lại phán: “Chính Ta là ánh sáng của thế giới, người nào theo Ta sẽ không còn đi trong tối tăm nhưng có ánh sáng của sự sống.” Những người Pha-ri-si bắt bẻ: “Chính ông tự chứng thực cho mình, nên lời chứng đó không hợp lệ.” Đức Giê-su đáp lại: “Cho dù ta tự chứng thực cho mình, lời chứng của Ta vẫn hợp lệ vì Ta biết mình từ đâu đến và đang về đâu; còn các người không biết Ta từ đâu đến hay đang về đâu. Chính các người xét đoán theo cách người phàm, còn Ta chẳng xét đoán ai. Nhưng dù Ta có xét đoán đi nữa thì sự xét đoán của Ta vẫn hợp lệ, vì không phải của một mình Ta, nhưng cũng của Cha là Đấng đã sai Ta đến. Và như trong Kinh Luật của các người có chép lời chứng của hai người là hợp lệ. Chính Ta tự chứng thực cho Ta và Cha là Đấng đã sai Ta cũng chứng thực cho Ta nữa!” Họ hỏi lại Ngài: “Cha của ông đâu?” Đức Giê-su đáp: “Các người không biết Ta, cũng chẳng biết Cha Ta. Nếu các người biết Ta, các người hẳn đã biết Cha Ta rồi!” Đức Giê-su tuyên bố những lời nầy đang khi dạy trong đền thờ, gần nơi để các thùng tiền dâng; và không một ai bắt Ngài vì giờ của Ngài chưa đến. Đức Giê-su lại bảo họ: “Chính Ta sẽ ra đi còn các người sẽ tìm kiếm Ta, nhưng các người sẽ chết trong tội lỗi mình. Các người không thể đến được nơi Ta sắp đi!” Thế là người Do Thái bảo nhau: “Liệu ông ấy sắp tự vận hay sao mà nói: Nơi Ta đi, các người sẽ không thể nào đến được?” Ngài giải thích: “Các người xuất thân từ trần thế, còn Ta từ thượng giới; các người từ thế gian nầy mà ra, còn Ta thì không phải từ thế gian nầy. Vậy Ta bảo các người rằng các người sẽ chết mất trong tội lỗi mình, vì nếu các người không chịu tin Ta là Đấng Hằng Hữu, thì các người sẽ chết mất trong tội lỗi mình!” Họ thắc mắc: “Ông là ai?” Đức Giê-su trả lời: “Ta đã chẳng từng bảo các người từ lúc ban đầu sao? Ta có thể nói và phán xét nhiều điều về các người, nhưng vì Đấng đã sai Ta là chân thật, nên Ta chỉ cần thuật lại cho thế gian những gì Ta đã nghe nơi Ngài!” Họ không hiểu Đức Giê-su đã nói về Chúa Cha cho họ. Đức Giê-su tiếp lời: “Khi nào các người treo Con Người lên, lúc ấy các người mới biết rõ Ta chính là Đấng Hằng Hữu. Ta không tự mình làm một việc gì cả, nhưng chỉ truyền lại những gì Cha Ta đã dạy bảo Ta. Và Đấng sai Ta lúc nào cũng ở với Ta; Ngài chẳng bao giờ bỏ Ta một mình, vì Ta luôn làm đẹp lòng Ngài.” Khi Ngài nói những lời nầy, nhiều người tin theo Ngài. Đức Giê-su liền bảo những người Do Thái vừa tin theo Ngài rằng: “Nếu các người kiên trì trong đạo Ta dạy thì các người mới thật là môn đệ của Ta. Các người sẽ hiểu biết chân lý và chính chân lý đó sẽ giải phóng các người!” Họ gạn hỏi Ngài: “Chúng tôi là dòng giống Áp-ra-ham, chưa từng làm nô lệ ai, sao Thầy lại bảo chúng tôi sẽ được giải phóng?” Đức Giê-su đáp lại: “Thật vậy, Ta bảo các người: Người nào phạm tội là nô lệ cho tội lỗi. Làm thân nô lệ thì không ở đời trong nhà, làm con mới được ở luôn! Vậy, nếu Đức Con giải phóng các người, thì các người mới thật sự được tự do. Ta biết rõ các người là dòng giống Áp-ra-ham, vậy mà các người lại tìm cách giết Ta, chỉ vì lòng các người không dành một chỗ nào cho đạo Ta cả! Ta truyền lại những gì Ta thấy nơi Cha, còn các người thì làm những gì nghe được nơi cha mình.” Họ đáp: “Cha chúng tôi chính là Áp-ra-ham!” Đức Giê-su nói: “Nếu thật là con cháu Áp-ra-ham, các người hẳn đã hành động như Áp-ra-ham rồi! Đàng nầy các người lại tìm cách giết Ta, người đã nói cho các người sự thật nghe được từ Đức Chúa Trời. Áp-ra-ham chẳng làm chuyện đó bao giờ! Các người thường làm những việc cha mình chuyên làm!” Họ cãi: “Chúng tôi đây sinh ra đâu phải là thứ con hoang. Cha duy nhất của chúng tôi là Đức Chúa Trời.” Đức Giê-su tiếp: “Nếu Đức Chúa Trời thật là Cha của các người, hẳn các người đã yêu thương Ta vì chính Ta đã xuất thân từ Đức Chúa Trời và đang ở đây. Ta không tự mình đến đây nhưng chính Ngài đã sai Ta. Tại sao Ta nói mà các người không hiểu? Chỉ tại các người không hiểu nổi đạo Ta! Chính các người xuất thân từ cha mình là quỷ vương và các người làm theo dục vọng của cha mình. Từ ban đầu đến nay, hắn vẫn là tay giết người. Hắn không chịu đứng về phía sự thật, vì trong người hắn làm gì có sự thật! Khi hắn nói dối là hắn làm theo bản tính hắn, vì hắn chính là kẻ nói dối và là ông tổ của nói dối! Còn Ta đây nói lên sự thật, thế mà các người lại không chịu tin Ta. Có ai trong vòng các người vạch tội Ta được không? Ta nói sự thật mà các người vẫn không tin Ta? Người nào thuộc về Đức Chúa Trời thì nghe theo lời của Đức Chúa Trời. Sở dĩ các người không nghe chỉ vì các người không thuộc về Đức Chúa Trời.” Mấy người Do Thái gạn hỏi: “Chúng tôi bảo ông chính là hạng người Sa-ma-ri và đang bị quỷ ám, không đúng sao?” Đức Giê-su trả lời: “Ta đây chẳng có quỷ ma nào ám cả mà chỉ đang suy tôn Cha Ta, còn các người cứ nhục mạ Ta. Chính Ta không tìm vinh quang cho riêng mình, đã có Đấng lo tìm và định liệu cho Ta. Thật vậy, Ta bảo các người: Người nào vâng giữ đạo Ta sẽ không bao giờ chết!” Người Do Thái liền tiếp: “Bây giờ chúng tôi biết rõ ông bị quỷ ám thật rồi! Áp-ra-ham đã chết, các tiên tri của Chúa cũng không còn, vậy mà ông lại nói người nào vâng giữ đạo Ta sẽ không bao giờ chết. Chẳng lẽ ông hơn cả tổ Áp-ra-ham của chúng ta và các tiên tri đã qua đời rồi sao? Ông tự cho mình là ai?” Đức Giê-su đáp: “Nếu Ta tự tôn vinh ta thì chẳng vinh quang gì! Chính Cha Ta tôn vinh Ta. Ngài là Đấng các người vẫn xưng tụng là Đức Chúa Trời của mình, nhưng các người có biết Ngài đâu, còn chính Ta mới thật biết Ngài! Nếu Ta bảo Ta không biết Ngài, thì Ta cũng dối trá như các người. Nhưng Ta biết Ngài và vâng giữ đạo Ngài. Áp-ra-ham, tổ phụ các người từng hớn hở trông mong được thấy ngày của Ta, người đã thấy và mừng rỡ!” Mấy người Do Thái nói với Ngài: “Ông chưa đầy năm mươi tuổi mà đã thấy Áp-ra-ham rồi sao?” Đức Giê-su đáp: “Thật vậy, Ta bảo các người: Trước khi có Áp-ra-ham, Ta hằng hữu!” Họ liền lượm đá để ném chết Ngài. Nhưng Đức Giê-su lánh mặt, rời khỏi đền thờ. Dọc đường đi, Đức Giê-su thấy một người mù từ thuở sinh ra. Các môn đệ hỏi Ngài: “Thưa Thầy, vì tội của ai? Của anh này hay của cha mẹ mà anh phải chịu sinh ra mù lòa?” Đức Giê-su trả lời: “Chẳng phải vì anh ta hay ông bà cha mẹ anh phạm tội đâu, nhưng để việc làm của Đức Chúa Trời được thể hiện trong anh. Khi còn ban ngày, chúng ta phải làm những công tác của Đấng đã sai Ta đến, kẻo khi đêm xuống, không ai làm việc được nữa! Đang khi còn ở trần thế, Ta là ánh sáng cho nhân loại.” Nói xong, Ngài nhổ nước bọt xuống đất hòa bùn, rồi bôi vào mắt người mù và bảo: “Hãy đến rửa ở ao Si-lô-am”, Si-lô-am có nghĩa là “được sai đi”. Vì vậy người ấy đi ra ao, rửa, rồi trở lại thì được thấy rõ. Hàng xóm láng giềng và những người vẫn thường thấy anh ta ăn xin trước kia hỏi nhau: “Có phải anh nầy là người hay ngồi ăn xin không?” Một số thì bảo đúng là anh ta, số khác lại nói: “Không phải, một người nào đó giống hắn!” Anh ta lên tiếng: “Chính tôi đây mà!” Họ liền hỏi anh: “Vậy thì làm sao mắt anh sáng được?” Anh ta trả lời: “Một người tên là Giê-su hòa bùn bôi lên mắt tôi và bảo tôi đi đến ao Si-lô-am rửa cho sạch. Tôi đi rửa thì mắt được sáng.” Họ hỏi tiếp: “Người ấy ở đâu?” Anh ta trả lời: “Tôi không biết!” Họ dẫn người vốn bị mù đến các người Pha-ri-si. Hôm Đức Giê-su hòa bùn chữa cho người nầy sáng mắt là ngày Sa-bát. Người Pha-ri-si lại chất vấn: “Sao anh thấy được?” Anh ta trả lời: “Ông ấy bôi bùn lên mắt tôi, tôi đi rửa sạch thì thấy được!” Một vài người trong nhóm Pha-ri-si liền nói: “Người nầy không thể nào đến từ Đức Chúa Trời vì đã không kiêng giữ ngày Sa-bát.” Nhưng một số người khác lại lý luận: “Làm sao một người có tội có thể làm dấu lạ như vậy được?” Thế là họ chia phe chống nhau. Vậy nên những người Pha-ri-si vặn hỏi người mù một lần nữa: “Theo anh thì người đã chữa lành mắt anh là ai?” Anh ta đáp: “Người ấy phải là một vị tiên tri của Chúa.” Nhưng các người Do Thái không chịu tin rằng anh ta vốn mù lòa mà nay lại thấy được, cho đến khi họ đòi cha mẹ người có mắt vừa được sáng đến. Họ tra hỏi: “Đây có phải là con của ông bà đã bị mù lòa từ khi sinh ra không? Làm sao bây giờ nó thấy được?” Cha mẹ anh ta thưa: “Chúng tôi nhận đây chính là con chúng tôi mù lòa từ lúc mới sinh, nhưng làm sao nó thấy được thì chúng tôi không biết, hay ai mở mắt nó, chúng tôi cũng không hay. Các ông cứ hỏi nó, nó đã khôn lớn rồi, việc nó để nó khai!” Cha mẹ anh ta nói như vậy, vì sợ người Do Thái. Những người Do Thái đã quyết định khai trừ khỏi hội đường người nào xưng Đức Giê-su là Chúa Cứu Thế. Cho nên cha mẹ anh ta mới nói: “Nó đã khôn lớn rồi, cứ hỏi nó.” Họ lại đòi người vốn bị mù ra một lần nữa và bảo: “Có Trời chứng giám, chúng ta biết rõ hắn là một người tội lỗi!” Anh ta thưa lại: “Người nầy tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều, trước tôi mù mà nay thấy được!” Họ hỏi tiếp: “Người đó đã làm gì cho anh? Làm thế nào mắt anh sáng được?” Anh ta thưa: “Tôi đã nói rồi mà các ông không chịu nghe. Sao các ông còn muốn nghe nữa? Chẳng lẽ chính các ông cũng muốn thành môn đệ của người sao?” Họ mắng anh ta: “Mầy mới là môn đệ của hắn, còn chúng ta là môn đệ của Môi-se! Chúng ta biết Đức Chúa Trời đã phán với Môi-se, còn người nầy chúng ta không biết gốc gác từ đâu.” Anh ta nói: “Chuyện lạ thật! Người đã làm cho mắt tôi sáng mà các ông lại không biết gốc gác từ đâu. Chúng ta đều biết Đức Chúa Trời chẳng nghe người có tội mà chỉ đoái nghe những người thờ kính Đức Chúa Trời và làm theo ý Ngài. Xưa nay, đời nào có chuyện một người mở mắt cho kẻ sinh ra mù lòa. Nếu người nầy không phải đến từ Đức Chúa Trời thì thế nào làm nổi chuyện nầy?” Họ đáp: “Mầy sinh ra tội lỗi đầy mình mà còn đòi dạy khôn chúng ta sao?” Rồi họ đuổi anh đi. Đức Giê-su nghe họ đuổi anh đi, nên tìm anh hỏi: “Anh có tin Con Người không?” Anh ta đáp: “Thưa ông, Con Người là ai để tôi tin?” Đức Giê-su bảo: “Anh đã thấy Con Người tận mắt và Người đang nói với anh đây chính là Đấng ấy!” Người ấy nói: “Lạy Chúa, con tin!” rồi thờ lạy Ngài. Đức Giê-su phán: “Ta đến để xét đoán thế gian: Khiến người mù sáng mắt, còn kẻ mắt sáng hóa nên mù lòa!” Mấy người Pha-ri-si có mặt ở đó nghe vậy liền hỏi: “Ông bảo chúng tôi mù cả sao?” Đức Giê-su đáp: “Nếu các người mù lòa thì chẳng có tội gì, nhưng vì các người cho mình sáng mắt nên tội vẫn còn!” Thật vậy, Ta bảo các người: “Kẻ nào không đi qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào ngả khác, là phường trộm cướp. Còn người nào đi qua cửa mới là người chăn chiên. Người gác cổng mở cửa cho người chăn và đàn chiên nhận ra tiếng người. Người chăn gọi đích danh từng con chiên mình để dẫn ra ngoài. Khi đàn chiên ra hết, người chăn đi trước, chiên theo sau, vì chiên quen tiếng người. Chiên không theo người lạ nhưng bỏ chạy, vì chiên không quen tiếng người lạ.” Đức Giê-su dùng ngụ ngôn nầy nói với họ, nhưng họ không hiểu Ngài ngụ ý gì. Nên Đức Giê-su tiếp: “Thật vậy, Ta bảo các người: Chính Ta là cửa của chuồng chiên. Tất cả những kẻ đến trước Ta đều là phường trộm cướp, nên chiên không nghe theo họ. Chính Ta là cửa ra vào: Ai qua Ta mà vào sẽ được cứu. Người ấy vào, ra và tìm được đồng cỏ. Kẻ trộm chỉ đến để cướp, giết và hủy diệt; còn Ta đã đến để chiên được sống và sống sung mãn. Ta là người chăn nhân từ. Người chăn nhân từ hy sinh tính mạng vì đàn chiên. Kẻ chăn thuê không phải là người chăn; chiên không thuộc về nó, nên thấy muông sói đến nó bỏ chiên chạy trốn; muông sói vồ bắt và đuổi chiên tan lạc. Vì là kẻ chăn thuê, nên nó chẳng quan tâm gì đến đàn chiên. Ta là người chăn nhân từ, Ta quen biết chiên Ta và chiên Ta quen biết Ta, cũng như Cha biết Ta và chính Ta biết Cha vậy. Ta hy sinh tính mạng mình vì đàn chiên. Ta còn những chiên khác chưa thuộc về đàn nầy, Ta phải đem chúng về nữa, và chúng sẽ nghe theo tiếng Ta. Như vậy, sẽ chỉ có một đàn chiên và một người chăn. Cha đã yêu thương Ta chính vì Ta chịu hy sinh tính mạng, rồi sau được lấy lại. Không ai cướp nổi mạng sống Ta, nhưng chính Ta tự hiến. Ta có quyền hy sinh tánh mạng và có quyền lấy lại. Đây là mạng lệnh Ta nhận từ Cha Ta.” Người Do Thái lại chia phe nghịch nhau vì những lời ấy. Trong vòng họ có nhiều người nói: “Hắn ta bị quỷ ám, điên rồi, các anh nghe hắn làm gì!” Một số khác lại bảo: “Người bị quỷ ám không thể nói được những lời lẽ ấy? Quỷ làm sao mở mắt người mù?” Lúc ấy nhằm lễ Cung Hiến tại Giê-ru-sa-lem. Trời vào tiết đông, Đức Giê-su đang đi dạo trong khuôn viên đền thờ, dưới hành lang Sa-lô-môn. Người Do Thái tụ họp quanh Ngài mà hỏi: “Thầy để chúng tôi hoang mang cho đến bao giờ? Nếu quả thật Thầy là Chúa Cứu Thế, Thầy cứ nói thẳng cho chúng tôi đi!” Đức Giê-su đáp: “Ta bảo các người rồi mà các người vẫn không tin! Những công việc Ta nhân danh Cha Ta thực hiện, chính là bằng chứng cho Ta; thế mà các người cũng không tin, chỉ vì các người không phải là chiên của Ta! Chiên Ta nghe tiếng Ta, chính Ta quen biết chiên Ta và chiên theo Ta. Ta ban cho chiên Ta sự sống vĩnh phúc, chúng chẳng hư mất bao giờ, và không ai cướp đoạt chúng khỏi tay Ta. Cha Ta đã ban cho Ta. Ngài là Đấng quyền năng hơn cả; không ai cướp đoạt nổi khỏi tay Cha. Ta với Cha là một.” Mấy người Do Thái lại lượm đá để ném chết Ngài. Đức Giê-su bảo họ: “Những việc lành Ta đã làm đều từ Cha mà đến, vậy thì các người ném đá Ta vì việc gì?” Người Do Thái đáp: “Chúng tôi không ném đá ông vì việc lành ông làm nhưng vì ông phạm thượng: Ông là người mà tự cho mình là Đức Chúa Trời!” Đức Giê-su đáp: “Kinh Luật các người chẳng đã có câu: ‘Ta phán các ngươi là thần,’ hay sao? Vì Đức Chúa Trời có gọi những kẻ được Lời Ngài truyền dạy là thần và Lời của Đức Chúa Trời không thể bãi bỏ được, thì Đấng được Cha biệt riêng và sai đến trần gian chỉ nói: Ta là Con Đức Chúa Trời, tại sao các người tố cáo Người là phạm thượng? Nếu Ta không làm những công việc của Cha Ta, thì các người đừng tin Ta. Còn nếu Ta làm, thì dù các người không tin Ta, hãy tin công việc Ta, để các người dứt khoát nhận thức rằng Cha ở trong Ta và Ta ở trong Cha.” Họ lại tìm cách bắt Ngài, nhưng Ngài thoát khỏi tay họ. Ngài lại ra đi, qua bên kia sông Giô-đanh, đến nơi Giăng đã làm phép báp-tem trước đây và ở lại đó. Nhiều người đến với Ngài nói rằng: “Giăng không làm một dấu lạ nào, nhưng mọi điều Giăng đã nói về người nầy đều đúng cả!” Tại đó có nhiều người tin Ngài. Có một người bị đau tên là La-xa-rơ quê ở Bê-tha-ni, là làng của hai chị em Ma-thê và Ma-ri. Ma-ri là người đã đổ dầu thơm xức cho Chúa, rồi lấy tóc mình lau chân Ngài; còn La-xa-rơ, anh nàng, đang bị bệnh. Hai chị em liền sai người đến trình: “Thưa Chúa, người Chúa yêu mến đang đau.” Nhưng khi nghe tin, Đức Giê-su lại bảo: “Bệnh nầy không đến nỗi phải chết, nhưng việc xảy ra để Đức Chúa Trời được hiển vinh và Con của Ngài cũng nhờ đó được hiển vinh!” Đức Giê-su yêu quý các chị em Ma-thê, em nàng và La-xa-rơ. Nhưng khi nghe tin La-xa-rơ đau, Ngài nán lại nơi đang ở thêm hai ngày nữa! Sau đó, Ngài bảo các môn đệ: “Chúng ta hãy trở lại vùng Giu-đê!” Các môn đệ nói: “Thưa Thầy, người Do Thái mới vừa tìm ném đá Thầy mà bây giờ Thầy còn trở lại đó sao?” Đức Giê-su đáp: “Chẳng phải ban ngày có mười hai giờ sao? Người nào đi giữa ban ngày sẽ không vấp ngã, vì thấy ánh sáng của thế giới này. Nhưng nếu đi trong đêm tối sẽ vấp ngã vì không có ánh sáng!” Rồi Ngài nói tiếp: “La-xa-rơ, bạn của chúng ta đang ngủ, nhưng Ta sắp đến đánh thức người dậy.” Các môn đệ nói: “Thưa Chúa, nếu anh ấy ngủ chắc sẽ khỏi bệnh!” Nhưng Đức Giê-su ngụ ý La-xa-rơ đã chết rồi, còn họ lại tưởng Ngài nói về giấc ngủ thường. Cho nên Đức Giê-su mới nói rõ rằng: “La-xa-rơ đã chết rồi! Nhưng vì các con, Ta mừng đã không có mặt ở đó để các con tin. Thôi, chúng ta hãy đi đến cùng người!” Thô-ma, còn có tên Đi-đim, nghĩa là “sinh đôi”, bảo đồng bạn: “Chúng ta hãy cùng đi, dù phải chết thì chết chung với Thầy!” Đến nơi, Đức Giê-su thấy người ta chôn cất La-xa-rơ trong mộ đã bốn ngày rồi! Bê-tha-ni gần Giê-ru-sa-lem, chỉ cách chừng ba cây số, nên có nhiều người Do Thái trong vùng đến thăm để chia buồn với Ma-thê và Ma-ri. Khi nghe tin Đức Giê-su đến, Ma-thê đi ra đón Ngài, còn Ma-ri vẫn ngồi ở nhà. Ma-thê nói với Đức Giê-su: “Thưa Chúa, nếu Chúa có ở đây, anh con chắc đã không chết! Nhưng con vẫn biết dù bây giờ Ngài cầu xin bất cứ việc gì, Đức Chúa Trời cũng ban cho Ngài cả!” Đức Giê-su bảo nàng: “Anh con sẽ sống lại!” Ma-thê đáp: “Con biết anh ấy sẽ sống lại trong sự phục sinh vào ngày cuối cùng!” Đức Giê-su bảo: “Chính Ta là sự sống lại và sự sống, người nào tin Ta, dù có chết, cũng sẽ sống. Còn ai sống mà tin Ta sẽ chẳng bao giờ chết, con tin điều ấy không?” Nàng đáp: “Vâng, lạy Chúa, con tin! Con tin Ngài chính là Chúa Cứu Thế, Con của Đức Chúa Trời, Đấng phải đến trần gian!” Nói xong, Ma-thê trở về, gọi Ma-ri ra nói nhỏ: “Thầy đến rồi, đang gọi em đó!” Nghe vậy, Ma-ri vội vàng đứng dậy, đi đến gặp Ngài. Lúc ấy Đức Giê-su chưa vào làng nhưng vẫn còn ở tại chỗ Ma-thê vừa gặp Ngài. Mấy người Do Thái đang ở trong nhà an ủi Ma-ri, thấy nàng vội đứng dậy đi ra ngoài, tưởng nàng đến mộ than khóc anh, nên đi theo. Đến nơi, khi thấy Đức Giê-su, Ma-ri quỳ dưới chân Ngài nói: “Thưa Chúa, nếu Chúa có ở đây, anh con đã không chết!” Đức Giê-su thấy Ma-ri khóc và những người Do Thái cùng đi với nàng cũng khóc, thì bùi ngùi xúc động, liền hỏi: “Các người chôn cất anh ấy ở đâu?” Họ đáp: “Thưa Chúa, mời Ngài đến xem!” Đức Giê-su khóc! Mấy người Do Thái bảo nhau: “Kìa, ông ấy thương La-xa-rơ quá!” Nhưng cũng có vài người nói: “Ông ta đã làm cho mắt người mù được sáng, lại không có thể làm cho người này khỏi chết sao?” Đức Giê-su lại xúc động, bước đến trước mộ. Đây là một cái hang có tảng đá lớn chận trước cửa. Đức Giê-su bảo: “Hãy lăn tảng đá ra!” Ma-thê, em gái người chết nói: “Thưa Chúa, đã có mùi vì người chết đã bốn ngày rồi!” Đức Giê-su bảo Ma-thê: “Ta đã chẳng bảo con rằng nếu có lòng tin, con sẽ thấy vinh quang của Đức Chúa Trời sao?” Họ lăn tảng đá ra. Đức Giê-su ngước mắt lên cầu xin: “Thưa Cha, con cảm ơn Cha vì đã nhậm lời con! Con biết Cha luôn luôn nghe lời con cầu xin, nhưng con phải nói ra vì đám đông đang đứng quanh đây, để họ tin rằng chính Cha đã sai con đến!” Sau đó, Ngài gọi lớn tiếng: “La-xa-rơ! Hãy ra đây!” Người chết đi ra, tay chân vẫn còn quấn vải liệm, mặt còn phủ khăn. Đức Giê-su bảo họ: “Hãy tháo ra cho anh ấy đi!” Nhiều người Do Thái đến thăm Ma-ri, thấy việc Ngài làm, thì tin Ngài; nhưng vài người trong đám họ đi đến các người Pha-ri-si, thuật lại việc Đức Giê-su đã làm. Các thượng tế và nhóm Pha-ri-si liền họp hội đồng bảo nhau: “Người nầy làm quá nhiều dấu lạ, chúng ta phải tính sao đây? Nếu chúng ta cứ để yên như vậy, mọi người sẽ tin theo hắn, rồi quân La Mã sẽ đến chiếm nơi nầy và cả quê hương xứ sở chúng ta!” Nhưng một người trong nhóm là Cai-pha, đang giữ chức vụ trưởng tế năm đó, lý luận: “Quý vị chẳng hiểu gì cả! Sao không nghiệm ra rằng: Thà để một người chết thay cho toàn dân hơn là cả dân tộc bị hủy diệt?” Không phải ông ta tự mình thốt ra như vậy, nhưng vì là vị trưởng tế, nên ông nói tiên tri về việc Đức Giê-su sắp phải chết vì dân; chẳng những vì dân thôi đâu, mà còn để hợp nhất các con cái của Đức Chúa Trời đang bị tản lạc. Từ ngày đó trở đi, họ âm mưu giết Ngài. Vì vậy, Đức Giê-su không còn công khai đi lại giữa vòng người Do Thái, nhưng lánh đến vùng gần đồng hoang, vào một thành tên Ép-ra-im, ở đó với các môn đệ Ngài. Lúc ấy, gần đến ngày lễ Vượt Qua của người Do Thái, dân chúng từ khắp các miền lên Giê-ru-sa-lem để chịu thanh tẩy trước kỳ lễ. Họ trông ngóng Đức Giê-su nên tụ họp trong đền thờ hỏi nhau: “Anh em đoán sao? Chắc ông ấy sẽ không lên dự lễ đâu, phải không?” Các thượng tế và nhóm Pha-ri-si đã ra lệnh, hễ ai biết Ngài ở đâu, phải báo cho họ biết để họ bắt Ngài. Nhưng sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su vẫn đến Bê-tha-ni, nơi có La-xa-rơ, người mà Đức Giê-su đã khiến sống lại. Người ta làm tiệc đãi Chúa tại đó. Ma-thê hầu bàn, còn La-xa-rơ cùng những người khác dự tiệc với Ngài. Lúc ấy, Ma-ri lấy ra một cân dầu cam tùng tinh chất quý giá xức chân Đức Giê-su và lấy tóc mình lau chân Ngài. Mùi thơm tỏa khắp nhà. Nhưng Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, môn đệ sau nầy phản Chúa, lên tiếng: “Sao không đem dầu nầy đi bán, lấy ba trăm đồng đê-na-ri để bố thí cho kẻ nghèo?” Anh ta nói vậy chẳng phải vì quan tâm gì đến người nghèo, nhưng vì vốn là tay trộm cắp mà lại giữ túi tiền, nên hễ có tiền vào là anh lấy bớt. Nhưng Đức Giê-su bảo: “Cứ để mặc nàng, vì nàng đã để dành dầu này cho ngày tẩm liệm Ta! Vì các ngươi lúc nào cũng có người nghèo bên mình, nhưng không có Ta luôn đâu!” Khi người Do Thái biết Đức Giê-su đang có mặt ở đó, họ liền kéo đến thật đông, không những để gặp Ngài, mà cũng để xem La-xa-rơ, người mà Ngài đã khiến sống lại. Nhưng các thượng tế bàn định với nhau để giết cả La-xa-rơ nữa, vì tại ông, nhiều người Do Thái đã bỏ họ mà tin theo Đức Giê-su. Hôm sau, nghe tin Đức Giê-su cũng lên Giê-ru-sa-lem, đoàn người đông đảo đã về dự lễ, lấy cành chà là ra đón Ngài, tung hô:“Hô-sa-na!Phước cho Đấng nhân danh Chúa mà đến!Vua của Y-sơ-ra-ên!” Tìm được một con lừa con, Đức Giê-su cưỡi lên đúng như Kinh Thánh chép: “Con gái thành Si-ôn đừng sợ nữa!Kìa, Vua ngươi ngự đến,Cưỡi lừa con!” Lúc đầu các môn đệ Ngài chưa hiểu rõ, nhưng về sau, khi Đức Giê-su được hiển vinh, họ mới nhớ lại câu Kinh Thánh trên viết về Ngài và thấy ứng nghiệm đúng cho Ngài. Nhóm người có mặt lúc Ngài gọi La-xa-rơ ra khỏi mộ và khiến ông sống lại cứ tiếp tục làm chứng về việc nầy. Cũng chính vì nghe nói Ngài làm dấu lạ đó mà đoàn dân đông đảo đã ra nghênh đón Ngài. Nhưng nhóm Pha-ri-si bảo nhau: “Thấy chưa? Các ông chẳng được tích sự gì! Kìa, cả thiên hạ đều kéo theo Người!” Nhân kỳ lễ nầy cũng có mấy người Hy Lạp trong số khách hành hương lên thờ phượng Đức Chúa Trời. Họ đến gặp Phi-líp, người thành Bết-sai-đa, vùng Ga-li-lê, mà thỉnh cầu: “Thưa ông, chúng tôi mong được gặp Đức Giê-su!” Phi-líp đi nói với An-rê, rồi cả An-rê và Phi-líp cùng đến thưa lại với Đức Giê-su. Đức Giê-su đáp: “Giờ phút hiển vinh của Con Người đã đến! Thật vậy, Ta bảo các con: Hạt giống lúa mì gieo xuống đất không chết đi thì hạt giống vẫn hoàn hạt giống, còn nếu chết đi thì mới kết quả thêm nhiều! Ai quý chuộng mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều bỏ mạng sống mình ở đời nầy sẽ giữ lại được trong cõi sống vĩnh phúc! Người nào phục vụ Ta thì phải theo Ta. Ta ở đâu thì kẻ phục vụ Ta cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Ta sẽ được Cha Ta quý trọng. Giờ đây, tâm hồn Ta phiền não. Ta sẽ nói làm sao? Thưa Cha, xin cứu con khỏi giờ phút nầy! Nhưng cũng chính vì giờ phút nầy, nên Con đã đến? Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha!” Bỗng có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh rồi, lại còn tôn vinh nữa!” Đoàn dân đứng quanh nghe tiếng nói thì bảo là sấm. Những người khác lại nói: “Một thiên sứ vừa nói chuyện với Ngài đó!” Đức Giê-su bảo: “Tiếng nầy vọng xuống chính vì các người chứ chẳng phải vì Ta! Thế gian này đã đến lúc bị xét xử, vua chúa đời này đã đến thời bị truất quyền. Còn phần Ta, khi thân bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta!” Đức Giê-su bảo vậy để ám chỉ Ngài sắp chịu chết cách nào. Đoàn dân nói lại: “Chính chúng tôi có nghe Kinh Luật dạy rằng Chúa Cứu Thế còn mãi muôn đời, sao Thầy lại nói Con Người phải bị treo thân? Con Người đó là ai vậy?” Đức Giê-su đáp: “Ánh sáng chỉ còn soi giữa các người ít lâu nữa mà thôi! Hãy bước đi trong khi các người còn có ánh sáng kẻo bóng tối bất chợt bao trùm các người! Người đi trong tối tăm không biết mình đi đâu. Hãy tin cậy nơi ánh sáng trong khi các người còn có ánh sáng để được trở thành con cái của ánh sáng.”Dạy bảo xong, Đức Giê-su ẩn mặt, lánh xa họ. Ngài đã làm bao nhiêu dấu lạ trước mặt họ như vậy mà họ vẫn không chịu tin Ngài, để cho lời tiên tri I-sa được ứng nghiệm:“Lạy Chúa, ai đã tin nhận lời chúng con tường trình,Và cánh tay Chúa đã được tỏ cho ai?” Sở dĩ họ không thể nào tin được là vì I-sa đã nói: “Chúa đã làm cho mắt họ mù lòa,Cho lòng họ chai đá,Để có mắt mà không thấy,Có tâm trí mà không hiểu,Và cũng chẳng hoán cải để Ta chữa lành họ!” I-sa nói những điều nầy là nói về chính Chúa, vì ông đã được trông thấy vinh quang Ngài. Dù sao, cũng có nhiều người trong giới lãnh đạo tin Ngài, nhưng vì cớ người Pha-ri-si, họ không dám tuyên xưng, sợ bị khai trừ khỏi hội đường; và vì họ coi trọng vinh quang của loài người hơn vinh quang từ Đức Chúa Trời. Đức Giê-su lên tiếng tuyên bố: “Người nào tin Ta, thật ra không phải chỉ tin Ta, nhưng tin Đấng đã sai Ta đến. Còn người nào thấy Ta chính là thấy Đấng đã sai Ta. Ta đã đến làm ánh sáng cho thế gian để những ai tin Ta không còn ở trong tối tăm nữa! Nếu ai nghe lời Ta mà không vâng giữ, thì không phải Ta kết án kẻ ấy, vì Ta đến không phải để kết án, nhưng để cứu vớt thế gian. Ai khước từ Ta và không tiếp nhận lời Ta thì đã có biện pháp xét xử rồi; chính lời Ta phán dạy sẽ kết án họ trong ngày sau cùng. Vì Ta không tự mình giảng dạy, nhưng Cha là Đấng sai Ta đã truyền cho Ta điều răn phải giảng và phải dạy. Ta biết điều răn Ngài là sự sống vĩnh phúc. Vậy, những lời Ta nói đều do Cha truyền bảo Ta phải nói.” Trước kỳ lễ Vượt Qua, Đức Giê-su biết là đã đến lúc Ngài phải rời thế gian để trở về cùng Cha. Ngài đã yêu những người của mình trong thế gian, thì Ngài cứ yêu cho đến cuối cùng. Trong bữa ăn tối, quỷ vương đã gieo vào lòng Giu-đa, con của Si-môn Ích-ca-ri-ốt, ý tưởng phản bội Ngài. Ngài biết Cha đã trao mọi sự vào tay mình; vì Ngài đã đến từ Đức Chúa Trời lại sắp trở về cùng Đức Chúa Trời, nên Ngài đứng dậy khỏi bàn ăn, cởi áo ngoài ra, quấn khăn ngang lưng, rồi đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ. Rửa xong, Ngài lấy khăn đã quấn ngang lưng mà lau. Khi đến Si-môn Phê-rơ, ông thưa: “Chúa ơi! Chúa mà lại rửa chân cho con sao?” Đức Giê-su trả lời: “Việc Ta làm bây giờ con chưa hiểu nhưng sau này sẽ rõ.” Phê-rơ thưa lại: “Đời nào con để Chúa rửa chân cho con!” Đức Giê-su đáp: “Nếu không để Ta rửa, con sẽ không có phần gì với Ta cả.” Phê-rơ thưa: “Lạy Chúa, thế thì chẳng những chỉ rửa chân thôi mà còn cả tay và đầu nữa.” Đức Giê-su dạy: “Người tắm rồi thì thân thể đã sạch, nên chỉ cần rửa chân thôi. Các con đã sạch rồi, nhưng không phải tất cả đều trong sạch.” Vì Chúa đã rõ ai là người sẽ phản bội Ngài, nên mới nói có người chưa trong sạch. Sau khi đã rửa chân các môn đệ xong, Ngài mặc lại áo ngoài, trở về bàn ăn và hỏi họ: “Các con có hiểu việc Ta vừa làm cho các con không? Các con xưng Ta là Thầy là Chúa, phải lắm, vì chính Ta đúng là như vậy. Đã là Thầy là Chúa mà Ta còn rửa chân cho các con, thì chính các con cũng phải rửa chân cho nhau. Ta đã làm như vậy cốt để làm gương cho các con noi theo. Thật vậy, Ta bảo các con: ‘Tớ không hơn chủ, sứ giả không hơn người sai phái mình.’ Các con biết những điều này và đem ra thực hành thì được phước. Ta không nói về tất cả các con đâu. Ta biết rõ những người Ta chọn, nhưng lời Kinh Thánh này phải ứng nghiệm: ‘Kẻ từng ăn bánh của Ta đã trở gót phản bội Ta.’ Bây giờ, Ta báo trước cho các con để khi sự việc xảy ra, các con sẽ tin chính Ta là Đấng Hằng Hữu. Thật vậy, Ta bảo các con: Ai tiếp người mà Ta sai đến là tiếp rước Ta, còn ai tiếp Ta là tiếp rước Đấng đã sai Ta.” Sau khi Đức Giê-su dạy các điều đó xong, thì tâm thần Ngài bối rối. Ngài nói rõ: “Thật vậy, Ta bảo các con: Một người trong các con sẽ phản Ta.” Các môn đệ nhìn nhau hoang mang, không biết Ngài nói về ai. Một trong các môn đệ là người được Đức Giê-su yêu quý, lúc ấy đang ngồi sát bên cạnh Chúa. Si-môn Phê-rơ gật đầu ra dấu bảo ông ấy hỏi xem Thầy ám chỉ người nào vậy. Ông nghiêng người sát bên ngực Chúa, và hỏi: “Thưa Chúa, ai vậy?” Đức Giê-su trả lời: “Đó là người Ta sẽ trao miếng bánh mà Ta nhúng nước chấm này.” Rồi Ngài lấy một miếng bánh, nhúng vào nước chấm trao cho Giu-đa, con của Si-môn Ích-ca-ri-ốt. Ngay khi Giu-đa nhận miếng bánh, Sa-tan nhập vào hắn. Đức Giê-su bảo: “Việc anh sắp làm hãy làm nhanh lên!” Không một ai có mặt tại bàn ăn hiểu vì sao Ngài lại bảo hắn như thế. Vì Giu-đa đang phụ trách giữ tiền, nên một vài môn đệ tưởng Ngài bảo hắn đi mua sắm cho ngày lễ hay lấy tiền bố thí kẻ nghèo. Giu-đa nhận miếng bánh, liền ra đi. Trời sập tối. Khi Giu-đa bỏ đi, Đức Giê-su dạy tiếp: “Con Người giờ đây được tôn vinh và Đức Chúa Trời cũng được tôn vinh trong Ngài. Nếu Đức Chúa Trời được tôn vinh trong Ngài, thì Đức Chúa Trời sẽ tôn vinh Con Người trong chính mình và Đức Chúa Trời sẽ thực hiện tức khắc. Hỡi các con bé thơ, Ta chỉ còn ở với các con được ít lâu nữa. Rồi các con sẽ tìm kiếm Ta, nhưng bây giờ Ta nhắc cho các con điều Ta đã bảo người Do Thái: ‘Nơi Ta đi các người sẽ không thể đến được.’ Bây giờ Ta truyền cho các con một điều răn mới: ‘Các con hãy yêu thương nhau. Ta đã yêu thương các con thể nào, các con cũng hãy yêu nhau thể ấy. Nếu các con yêu thương nhau, thì nhờ đó mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ Ta.’” Si-môn Phê-rơ hỏi Chúa: “Lạy Chúa, Chúa đi đâu vậy?” Đức Giê-su đáp: “Nơi Ta sắp đi con không thể theo được, nhưng về sau con sẽ theo Ta.” Phê-rơ lại hỏi: “Lạy Chúa, sao hiện giờ con không thể theo được? Con sẵn sàng chết vì Chúa.” Đức Giê-su đáp lại: “Con có thật sẵn sàng chết vì Ta không? Thật vậy, Ta bảo con: Trước khi gà gáy, con sẽ chối Ta ba lần.” “Đừng để tâm trí các con bị bối rối. Đã tin Đức Chúa Trời, các con cũng hãy tin Ta nữa. Trong nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở. Nếu không, Ta đã nói cho các con rồi. Ta ra đi để sửa soạn chỗ ở cho các con; nếu Ta đi và sửa soạn một chỗ cho các con, Ta cũng sẽ trở lại đón các con về với Ta, để Ta ở đâu các con cũng ở đó. Các con biết đường đến nơi Ta đi.” Thô-ma lên tiếng: “Thưa Chúa, chúng con không rõ Chúa đi đâu, làm sao biết đường?” Đức Giê-su đáp: “Ta chính là Con Đường, Chân Lý và Nguồn Sống, chẳng bởi Ta thì không ai đến cùng Cha được. Nếu các con đã biết rõ Ta, các con cũng sẽ biết rõ Cha Ta. Từ nay, các con biết được Ngài và thấy rõ Ngài.” Phi-líp thưa: “Lạy Chúa, xin chỉ Cha cho chúng con thì cũng đủ rồi.” Đức Giê-su đáp: “Phi-líp, Ta từng ở với các con bấy lâu mà con chưa biết Ta sao? Người nào thấy Ta là đã thấy Cha. Vậy sao con còn nói: Xin chỉ Cha cho chúng con. Con không tin rằng Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta sao? Những lời Ta truyền dạy các con chẳng phải Ta tự nói ra, nhưng chính Cha là Đấng đang ngự trong Ta thực hiện công việc của Ngài. Khi Ta bảo Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta, các con hãy tin lời Ta; bằng không, hãy căn cứ vào những việc Ta làm mà tin vậy. Thật vậy, Ta bảo các con: Người nào tin Ta, thì cũng sẽ làm những việc Ta làm, và còn làm những việc vĩ đại hơn nữa, vì Ta trở về cùng Cha. Bất cứ điều gì các con nhân danh Ta cầu xin, Ta sẽ làm cho, để Cha được tôn vinh trong Con. Bất cứ điều gì các con nhân danh Ta cầu xin, thì chính Ta sẽ làm cho. Nếu các con yêu kính Ta, các con sẽ giữ các điều răn Ta. Ta sẽ xin Cha và Ngài sẽ ban cho các con một Đấng Phù Hộ ở cùng các con đời đời. Ngài là Thần Chân Lý mà thế gian không thể tiếp nhận được, vì không thấy Ngài và cũng chẳng biết Ngài. Nhưng chính các con biết Ngài, vì Ngài đang ở với các con và sẽ ở trong các con. Ta không để cho các con mồ côi đâu. Ta sẽ trở lại cùng các con. Chẳng bao lâu, thế gian sẽ không còn thấy Ta nữa nhưng các con sẽ thấy Ta; vì Ta sống thì các con cũng sẽ sống. Trong ngày ấy, các con sẽ biết rằng Ta ở trong Cha Ta và các con ở trong Ta cũng như Ta ở trong các con. Người nào yêu kính Ta thì tiếp nhận và tuân giữ các điều răn Ta. Cha Ta sẽ yêu quý người nào yêu kính Ta. Ta cũng yêu quý người và sẽ tỏ bày chính Ta cho người.” Giu-đa (không phải là Giu-đa Ích-ca-ri-ốt) hỏi: “Thưa Chúa, sao Chúa lại tỏ mình cho chúng con mà không tỏ cho thế gian?” Đức Giê-su đáp: “Ai yêu kính Ta sẽ vâng giữ lời Ta. Cha Ta sẽ yêu quý người, chúng ta sẽ đến ở với người đó. Ai không yêu kính Ta thì không giữ lời Ta. Lời mà các con nghe đó chẳng phải của Ta nhưng của Cha là Đấng đã sai Ta. Ta tỏ cho các con những điều này đang khi Ta còn có mặt với các con. Nhưng khi Đấng Phù Hộ đến, tức là Thánh Linh mà Cha nhân danh Ta phái đến, Ngài sẽ dạy dỗ mọi điều và nhắc lại cho các con nhớ tất cả những gì Ta đã truyền dạy các con. Ta để lại sự bình an cho các con. Sự bình an Ta ban cho các con không phải như của thế gian cho. Đừng sờn lòng nản chí và sợ hãi. Các con đã nghe Ta bảo: Ta sắp ra đi, nhưng Ta sẽ trở lại cùng các con; nếu các con yêu kính Ta, các con hẳn mừng rỡ vì Ta sắp về cùng Cha; Ngài cao trọng hơn Ta. Giờ đây, Ta bảo trước cho các con, để khi những sự việc ấy xảy đến thì các con tin. Ta sẽ không còn nói nhiều với các con nữa vì lãnh tụ của thế gian sắp đến. Nó chẳng có quyền hành gì trên Ta cả. Nhưng để thế gian biết rằng Ta yêu kính Cha, Ta làm theo tất cả những gì Cha truyền bảo. Đứng dậy, chúng ta hãy ra khỏi nơi này.” “Chính Ta là cây nho thật, còn Cha Ta là người trồng nho. Nhánh nào trong Ta mà không ra quả thì Ngài nhấc lên, và Ngài tỉa sửa những nhánh nào ra quả để càng nhiều quả hơn. Các con được trong sạch rồi, nhờ lời Ta truyền dạy. Hãy cứ ở trong Ta như chính Ta ở trong các con. Như nhánh nho, nếu không liền với cây nho, thì tự nó không ra quả được; khi các con không ở trong Ta thì cũng chẳng kết quả gì. Chính Ta là cây nho, còn các con là nhánh; người nào cứ ở trong Ta và Ta trong người ấy thì chắc sẽ sinh nhiều quả, vì ngoài Ta các con không làm gì được. Nếu ai không ở trong Ta thì bị ném ra ngoài, như nhánh nho lìa khỏi cây nho sẽ khô héo. Người ta sẽ gom lại ném vào lửa thì nó cháy rụi. Nếu các con cứ ở trong Ta và các lời của Ta vẫn ở trong các con, hãy cầu xin điều gì mình ước muốn thì sẽ được. Điều làm Cha Ta được tôn vinh là các con kết được nhiều quả và như thế chứng tỏ là môn đệ Ta. Như Cha đã yêu Ta thể nào thì chính Ta cũng yêu các con thể ấy. Hãy cứ ở trong tình yêu của Ta. Nếu các con vâng giữ điều răn của Ta thì các con sẽ còn ở trong tình yêu của Ta cũng như Ta đã giữ các điều răn của Cha Ta và còn ở mãi trong tình yêu Ngài. Ta bảo cho các con những điều này để niềm vui của Ta ở cùng các con và niềm vui của các con được đầy trọn.” “Đây là điều răn Ta truyền: Các con hãy yêu thương nhau như Ta đã yêu các con. Chẳng có tình yêu nào vĩ đại hơn là tình yêu của người chịu hy sinh tính mạng cho bạn hữu mình. Các con là bạn hữu của Ta nếu các con thi hành điều Ta truyền. Ta không còn gọi các con là đầy tớ nữa, vì đầy tớ không biết điều chủ mình làm; nhưng Ta đã gọi các con là bạn hữu, vì mọi điều nghe được nơi Cha, Ta đã cho các con biết. Không phải các con đã chọn Ta, nhưng chính Ta đã chọn các con và sai phái các con, để các con ra đi đạt nhiều thành quả và bông trái của các con tồn tại mãi. Như vậy, bất kỳ điều gì các con nhân danh Ta mà cầu xin Cha, Ngài sẽ ban cho các con. Ta truyền dạy các con những điều này để các con yêu thương nhau. Nếu thế gian ghét các con, thì hãy biết là họ đã từng ghét Ta trước rồi. Nếu các con ra từ thế gian nầy thì thế gian sẽ yêu chuộng người của họ. Nhưng vì các con không thuộc thế gian và Ta đã tuyển chọn các con từ trong thế gian, nên thế gian hẳn sẽ ghét các con. Hãy ghi nhớ lời Ta dạy bảo các con: Không đầy tớ nào hơn chủ mình được. Nếu họ đã bắt bớ Ta thì cũng sẽ bắt bớ các con. Nếu họ đã vâng giữ lời Ta dạy thì cũng sẽ vâng giữ lời các con. Nhưng họ sẽ đối xử với các con như vậy vì danh Ta và cũng vì họ không biết Đấng đã sai phái Ta. Nếu Ta không đến bảo cho họ hay thì họ đã khỏi mắc tội, nhưng bây giờ họ không thể viện cớ gì để bào chữa tội lỗi mình được. Người nào ghét Ta là ghét cả Cha Ta. Nếu Ta không làm giữa họ những việc chưa ai từng làm nổi, thì họ khỏi mắc tội, nhưng bây giờ họ đã thấy rõ mà lại còn ghét Ta cùng Cha Ta. Nhưng việc phải xảy đến như vậy để lời trong Kinh Luật được ứng nghiệm: ‘Họ đã ghét Ta vô cớ.’ Khi Đấng Phù Hộ đến, Đấng mà Ta bởi Cha sẽ sai đến với các con, Ngài là Thần Chân Lý xuất phát từ Cha; chính Ngài sẽ làm chứng về Ta. Và chính các con cũng sẽ làm nhân chứng, vì các con đã ở cùng Ta từ lúc ban đầu.” “Ta đã bảo các con những điều này để các con khỏi vấp ngã. Các con sẽ bị trục xuất khỏi hội đường, nhưng sẽ có lúc người ta tưởng rằng giết các con là phục vụ Đức Chúa Trời. Họ làm những việc này vì không biết Chúa Cha và Ta. Nhưng Ta đã nói cho các con những điều này để đến lúc ấy, các con sẽ nhớ lại là chính Ta đã báo trước rồi. Sở dĩ Ta chẳng nói ra từ ban đầu vì Ta còn ở với các con. Nhưng bây giờ, Ta sắp trở về cùng Đấng đã sai Ta đến, mà không ai trong các con hỏi Thầy đi đâu? Vì Ta nói cho các con những điều này nên lòng các con đầy buồn lo. Nhưng Ta bảo các con sự thật này: Ta ra đi là ích lợi cho các con, vì nếu Ta không đi thì Đấng Phù Hộ sẽ không đến cùng các con. Nhưng nếu Ta đi, Ta sẽ phái Ngài đến cùng các con. Khi đến, Ngài sẽ làm thế gian nhận thức về tội lỗi, về lẽ công chính và về sự định tội: Về tội lỗi, vì họ không tin Ta; về lẽ công chính vì Ta sắp đi về cùng Cha và các con không còn thấy Ta nữa; và về sự định tội vì lãnh tụ trần gian này đã bị kết án rồi. Ta còn nhiều điều muốn bày tỏ cho các con nhưng bây giờ các con chưa đủ sức nhận. Nhưng khi Thánh Linh là Thần Chân Lý đến, Ngài sẽ hướng dẫn các con vào chân lý toàn vẹn, vì Ngài không tự mình nói ra nhưng chỉ nói những gì Ngài nghe và loan báo cho các con những việc đang xảy đến. Ngài sẽ tôn vinh Ta vì Ngài nhận từ Ta và truyền lại cho các con. Tất cả những gì của Cha đều thuộc về Ta, nên Ta mới nói Thánh Linh nhận từ Ta và truyền lại cho các con.” “Chẳng bao lâu nữa các con sẽ không thấy Ta, nhưng rồi ít lâu sau các con lại sẽ thấy Ta.” Vì thế, một số môn đệ của Ngài hỏi nhau: “Ngài bảo chúng ta ‘chẳng bao lâu các con sẽ không thấy Ta’ rồi ‘ít lâu sau các con lại sẽ thấy Ta’, và lại ‘vì Ta sắp về cùng Cha’, là nghĩa gì?” Họ lại tiếp: “Ngài nói ‘chẳng bao lâu’ là thế nào? Chúng ta không hiểu Ngài nói gì đây?” Đức Giê-su biết ý họ muốn hỏi nên Ngài nói: “Các con thảo luận với nhau để tìm hiểu lời Ta dạy ‘chẳng bao lâu các con sẽ không còn thấy Ta rồi lại ít lâu sau sẽ thấy Ta’ là nghĩa gì phải không? Thật vậy, Ta bảo các con: Các con sẽ khóc lóc, than vãn, nhưng thế gian lại vui cười; các con sẽ ưu sầu, nhưng nỗi buồn của các con sẽ biến thành niềm vui. Người đàn bà đau đớn khi sinh nở vì giờ mình sắp đến, nhưng khi con đã lọt lòng, người mẹ không còn nhớ đến nỗi đau đớn nữa, vì vui mừng thấy con mình đã ra đời. Chính các con giờ đây cũng ưu sầu, nhưng rồi sẽ gặp lại Ta, thì lòng các con sẽ vui mừng và không ai đoạt mất niềm vui của các con được. Ngày ấy, các con không còn phải hỏi Ta điều gì. Thật vậy, Ta bảo các con: Điều gì các con nhân danh Ta cầu xin Cha, Ngài sẽ ban cho. Cho đến bây giờ, các con chưa hề nhân danh Ta cầu xin điều gì cả. Hãy cầu xin đi, các con sẽ nhận được để các con hưởng trọn niềm vui. Lâu nay Ta dùng ẩn dụ dạy bảo những điều nầy, giờ đây Ta không còn dùng ẩn dụ nữa, nhưng công bố rõ rệt về Cha cho các con. Ngày ấy, các con sẽ nhân danh Ta mà cầu xin, và Ta không còn nói là Ta sẽ cầu thay với Cha cho các con. Bởi Cha yêu mến các con vì các con yêu kính Ta và tin rằng Ta đến từ Đức Chúa Trời. Ta từ Cha xuống trần gian, rồi sẽ rời trần gian về với Cha.” Các môn đệ thưa: “Bây giờ Thầy nói rõ ra, không dùng ẩn dụ nữa. Giờ đây, chúng con biết Thầy am tường mọi điều, không cần có ai phải hỏi thầy, nên chúng con tin Thầy đến từ Đức Chúa Trời.” Đức Giê-su tiếp: “Bây giờ các con tin chưa? Nầy, thì giờ sắp điểm, thật ra đã điểm rồi, các con sẽ bị tan lạc mỗi người một ngả và bỏ Ta lại một mình; nhưng Ta không đơn độc đâu vì Cha đang ở cùng Ta. Ta bảo cho các con những điều này để các con được bình an trong Ta. Trong thế gian, các con sẽ gặp hoạn nạn; nhưng hãy an tâm! Ta đã thắng thế gian rồi.” Đức Giê-su truyền dạy những điều đó xong, thì ngước mắt lên trời cầu nguyện: “Thưa Cha, giờ đã điểm, xin tôn vinh Con của Cha để Con cũng tôn vinh Cha, Vì Cha đã ban cho Con thẩm quyền trên tất cả chúng sinh, cốt để Con cũng ban sự sống vĩnh phúc cho mọi người Cha đã giao cho Con. Sự sống vĩnh phúc chính là nhận biết Cha là Đức Chúa Trời chân thật duy nhất và Chúa Cứu Thế Giê-su mà Cha sai đến. Con đã tôn vinh Cha trên đất, đã hoàn tất công việc Cha giao cho Con làm, nên bây giờ thưa Cha, xin chính Cha tôn vinh Con trước mặt Cha bằng vinh quang mà Con vốn có lúc ở cùng Cha, trước khi vũ trụ hiện hữu. Con đã làm sáng tỏ danh Cha giữa những người Cha ban cho Con từ thế gian này. Họ đã thuộc về Cha và Cha ban họ cho Con. Họ đã vâng giữ lời Cha. Giờ đây họ đã biết rõ mọi điều Cha ban cho Con đều do Cha mà đến. Vì nhờ Con đã truyền cho họ mọi lời Cha dạy Con, nên họ tiếp nhận và biết Con thực sự đến từ Cha cùng tin rằng chính Cha đã sai Con đến. Con cầu thay cho họ, không phải cho thế gian, nhưng cho những người Cha đã ban cho Con, vì họ thuộc về Cha. Mọi điều Con có đều là của Cha, và tất cả những gì của Cha cũng là của Con, và Con được tôn vinh nơi họ. Con không ở trong thế gian nữa, nhưng họ vẫn ở lại trong trần gian, còn Con đi về cùng Cha. Thưa Cha Thánh, xin bảo toàn họ trong uy danh Cha mà Cha đã ban cho Con để họ hiệp nhất cũng như Cha và Con. Khi còn ở với họ, Con đã giữ gìn họ an toàn trong uy danh của Cha mà Cha đã ban cho Con. Con đã bảo vệ họ, trừ đứa con của sự hủy diệt ra, không một người nào bị hư mất, để cho lời Kinh Thánh được ứng nghiệm. Bây giờ, Con đi về cùng Cha, Con nói những điều này ra trong thế gian để họ hưởng trọn niềm vui mừng của Con; Con truyền lời Cha cho họ. Người đời ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. Con không cầu xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ an toàn khỏi kẻ ác. Họ không thuộc về trần gian, cũng như Con không thuộc về trần gian. Xin Cha dùng chân lý thánh hóa họ. Lời Cha chính là chân lý. Như Cha đã sai Con đến trần gian, thì Con cũng phái họ vào trần gian. Vì họ mà Con thánh hiến chính mình, để họ cũng được thánh hóa trong chân lý. Không những Con cầu thay cho họ thôi đâu, mà còn cho những người nào tiếp nhận lời họ và tin theo Con nữa. Thưa Cha, Con cầu xin cho họ tất cả đều hiệp nhất cũng như Cha trong Con và Con trong Cha, để họ cũng ở trong Cha và Con. Do đó, thế gian sẽ tin rằng chính Cha đã sai Con đến. Con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho Con, để họ được hiệp nhất cũng như Cha với Con là một. Con ở trong họ và Cha ở trong Con, để họ được hoàn toàn hiệp nhất và nhờ đó, thế gian biết rõ là Cha đã sai Con và Cha yêu quý họ như Cha đã yêu Con. Thưa Cha, Cha đã ban họ cho Con và Con muốn Con ở đâu, thì họ cũng ở đó với Con, để họ được chiêm ngưỡng vinh quang của Con mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu Con trước khi sáng tạo vũ trụ. Thưa Cha công chính, thế gian không biết Cha, nhưng Con biết Cha và những người này cũng biết chính Cha đã sai Con đến. Con đã tiết lộ danh Cha cho họ và sẽ còn bày tỏ thêm, để tình Cha thương Con ở trong họ và để Con còn ở trong họ mãi.” Sau khi cầu xin những điều này, Đức Giê-su cùng các môn đệ băng qua khe Kít-rôn, tại đó có một khu vườn, Ngài và các môn đệ vào khu vườn. Tên phản bội Giu-đa cũng biết chỗ này, vì Chúa thường họp với các môn đệ tại đó. Giu-đa dẫn một đội lính và một số thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pha-ri-si vào vườn, mang theo đèn đuốc và khí giới. Đức Giê-su đã biết mọi việc sắp xảy đến cho Ngài, nên bước ra hỏi họ: “Các người tìm ai?” Họ đáp: “Giê-su, người Na-xa-rét.” Ngài trả lời: “Chính Ta đây.” Giu-đa, tên phản bội, cũng đang đứng đó với họ. Nghe Ngài bảo: “Chính Ta đây,” họ giật lùi, ngã nhào xuống đất. Ngài lại hỏi họ một lần nữa: “Các người tìm ai?” Họ đáp: “Giê-su, người Na-xa-rét.” Đức Giê-su đáp: “Ta đã bảo các người, chính Ta đây. Nếu các người tìm bắt Ta hãy để những người nầy đi.” Việc này nhằm ứng nghiệm lời Ngài đã nói: “Những người Cha ban cho Con, Con không để mất một ai cả.” Si-môn Phê-rơ sẵn có thanh gươm, nên rút ra chém đứt vành tai bên mặt của Man-chu, đầy tớ của vị trưởng tế. Đức Giê xu bảo Phê-rơ: “Hãy nạp gươm vào vỏ; chén Cha đã ban cho Ta, Ta không uống sao?” Sau đó, đội lính dưới quyền viên chỉ huy cùng các thuộc hạ của giới thẩm quyền Do Thái bắt Đức Giê-su trói lại. Họ giải Ngài đến An-ne trước, vì ông là nhạc phụ của Cai-pha, vị trưởng tế đương niên. Chính Cai-pha trước đây đã bàn với giới thẩm quyền Do Thái: “Thà để một người chết thay cho toàn dân vẫn hơn.” Si-môn Phê-rơ và một môn đệ nữa đi theo Ngài. Môn đệ kia nhờ quen biết vị trưởng tế nên vào được trong sân dinh với Đức Giê-su, còn Phê-rơ đứng ngoài cửa. Môn đệ quen biết vị trưởng tế ra nói với đứa tớ gái gác cổng, rồi đưa Phê-rơ vào trong. Đứa tớ gái gác cổng hỏi Phê-rơ: “Ông không thuộc nhóm môn đệ của người ấy sao?” Phê-rơ trả lời: “Không phải tôi!” Các gia nhân và đám thuộc hạ đốt một đống lửa rồi đứng sưởi vì trời giá lạnh; Phê-rơ cũng đứng sưởi với họ. Vị trưởng tế tra hỏi Đức Giê-su về các môn đệ của Ngài và những giáo lý Ngài dạy dỗ. Đức Giê-su đáp: “Ta đã tuyên bố công khai cho cả thiên hạ. Ta thường dạy dỗ trong các hội đường hay trong đền thờ, nơi tập họp của người Do Thái. Ta chẳng nói điều gì lén lút cả. Sao ông lại hạch hỏi Ta? Hãy tra hỏi những người nghe Ta, xem Ta bảo họ những gì. Chính họ biết rõ những điều Ta dạy dỗ.” Nghe Đức Giê-su nói vậy, một tên thuộc hạ đang đứng bên cạnh vả mặt Ngài mà trách: “Sao anh dám trả lời vị trưởng tế như vậy?” Đức Giê-su đáp: “Nếu Ta sai, hãy chỉ ra Ta sai chỗ nào, còn nếu Ta nói phải, sao lại đánh Ta?” Rồi An-ne sai giải Đức Giê-su vẫn còn bị trói, sang trưởng tế Cai-pha. Đang khi Si-môn Phê-rơ đứng sưởi tại đó, mấy người kia hỏi: “Chắc anh cũng thuộc nhóm môn đệ của ông ta chứ gì?” Nhưng Phê-rơ chối: “Không phải tôi đâu!” Một gia nhân của vị trưởng tế, có họ hàng với người bị Phê-rơ chém đứt tai, nói: “Chính tôi đã chẳng thấy anh ở trong khu vườn với ông ta đó sao!” Phê-rơ lại chối một lần nữa; tức thì gà gáy. Chúng giải Đức Giê-su từ nhà Cai-pha đến dinh thống đốc. Lúc ấy trời còn sớm. Họ không dám vào trong dinh vì sợ bị ô uế, không ăn lễ Vượt Qua được. Cho nên Phi-lát đi ra bên ngoài hỏi: “Các người tố cáo người này tội gì?” Họ trả lời: “Nếu hắn không làm ác, chúng tôi đã chẳng giải đến nộp quan.” Phi-lát bảo họ: “Thế thì hãy chiếu luật của các người mà xử tội hắn đi!” Những người Do Thái thưa lại: “Chúng tôi không có quyền xử tử ai hết.” Việc này xảy ra để ứng nghiệm điều Đức Giê-su đã bảo trước Ngài phải chết cách nào. Phi-lát trở vào trong dinh gọi Đức Giê-su hỏi: “Có phải anh là Vua dân Do Thái không?” Đức Giê-su trả lời: “Ông hỏi Ta như vậy hay có ai trình với ông về Ta?” Phi-lát nói: “Ta là người Do Thái sao? Dân tộc anh và các thượng tế đã nộp anh cho ta. Anh đã làm gì vậy?” Đức Giê-su đáp: “Vương quốc Ta không thuộc thế gian nầy. Nếu vương quốc Ta thuộc thế gian nầy, các môn đệ Ta đã chiến đấu để Ta khỏi bị nộp vào tay người Do Thái. Không, vương quốc Ta không thuộc thế gian nầy.” Phi-lát liền hỏi Ngài: “Vậy anh là vua sao?” Đức Giê-su đáp: “Chính quan vừa bảo Ta là vua. Ta sinh ra và đến thế gian này nhằm mục đích làm chứng cho chân lý. Ai thuộc về chân lý thì nghe theo tiếng Ta.” Phi-lát hỏi: “Chân lý là gì?” Nói xong, Phi-lát trở ra bên ngoài bảo các người Do Thái: “Ta không tìm được lý do nào để buộc tội người nầy cả. Nhưng theo tục lệ của các người, ta thường phóng thích cho các người một tù nhân trong dịp lễ Vượt Qua này. Các người muốn ta phóng thích vua dân Do Thái cho các người không?” Họ lại la lớn phản đối: “Không, đừng tha hắn. Xin tha cho Ba-ra-ba.” Ba-ra-ba là một tướng cướp. Đoạn Phi-lát ra lệnh giải Đức Giê-su đi và sai đánh đòn Ngài. Quân lính bện một mão gai đội lên đầu Ngài, khoác áo choàng màu đỏ sẫm cho Ngài; rồi lần lượt tiến đến trước Ngài chế giễu: “Muôn tâu vua Do Thái.” Họ cũng vả vào mặt Ngài. Phi-lát bước ra ngoài một lần nữa, nói với đoàn dân: “Này ta sẽ đưa người ấy ra đây cho các người biết ta không tìm được lý do nào để tuyên án cả.” Thế là Đức Giê-su bị giải ra, đầu đội mão gai, mình khoác áo đỏ sẫm. Phi-lát bảo họ: “Kìa, người ấy đây.” Vừa khi các thượng tế và đám thuộc hạ thấy Ngài, họ la hét: “Đóng đinh hắn, đóng đinh hắn trên thập tự giá!” Phi-lát bảo: “Thế thì các người tự bắt người mà đóng đinh đi. Ta không thấy người nầy có tội gì cả.” Đám đông la ó: “Chúng tôi có luật, chiếu luật đó hắn phải chết, vì hắn tự cho mình là Con Đức Chúa Trời.” Phi-lát nghe như thế càng thêm sợ hãi. Ông ta trở vào nội điện, hỏi Đức Giê-su: “Anh từ đâu đến?” Nhưng Đức Giê-su không trả lời. Phi-lát nói với Ngài: “Anh không chịu nói với ta sao? Hãy nhớ là ta có quyền tha mạng hay đóng đinh anh.” Đức Giê-su trả lời: “Ông chỉ có quyền trên Ta khi Đức Chúa Trời ban cho ông quyền đó. Vì vậy người nộp Ta cho ông còn nặng tội hơn.” Từ đó, Phi-lát tìm cách tha Đức Giê-su, nhưng đám người Do Thái la hét: “Nếu thống đốc tha hắn thì thống đốc không phải là bạn của Sê-sa. Bất kỳ người nào xưng vương đều chống nghịch Sê-sa.” Khi Phi-lát nghe những lời nầy, ông đưa Đức Giê-su ra ngoài, và ngồi xử tại chỗ gọi là Nền Lát Đá (tiếng Do Thái là Ga-ba-tha). Hôm ấy là ngày Chuẩn Bị của Lễ Vượt Qua, khoảng giữa trưa. Phi-lát nói với dân chúng: “Đây là Vua của các người.” Họ gào thét: “Giết hắn đi! Giết hắn đi! Đóng đinh hắn trên thập tự giá!” Phi-lát hỏi họ: “Các người muốn ta đóng đinh Vua của các người sao?” Các thượng tế trả lời: “Vua duy nhất của chúng tôi là Sê-sa.” Sau đó, Phi-lát giao Đức Giê-su cho họ đóng đinh.Họ liền giải Đức Giê-su đi. Ngài đi ra, vác thập tự giá đi đến chỗ tên là Cái Sọ, tiếng Do Thái gọi là Gô-gô-tha. Tại đó, họ đóng đinh Ngài. Họ cũng đóng đinh hai người khác hai bên, còn Đức Giê-su ở chính giữa. Phi-lát cho viết một tấm bảng treo lên cây thập tự, ghi rằng: “Giê-su, người Na-xa-rét, Vua dân Do Thái.” Nhiều người Do Thái đọc bảng nầy vì nơi Đức Giê-su bị đóng đinh gần thành phố. Bảng nầy được ghi bằng các thứ tiếng Do Thái, La Tinh và Hy Lạp. Các thượng tế thưa cùng Phi-lát: “Xin đừng ghi ‘Vua dân Do Thái’ nhưng đổi lại ‘Người nầy nói: Ta là Vua Do Thái.’” Phi-lát trả lời: “Điều ta đã viết rồi, cứ để vậy.” Toán lính đóng đinh Đức Giê-su xong, lấy áo xống Ngài chia làm bốn phần, mỗi người một phần. Còn áo trong của Ngài, vì dệt nguyên tấm, không có đường may, nên họ bảo nhau: “Đừng xé áo ra nhưng chúng ta hãy bắt thăm xem ai được.” Như vậy để ứng nghiệm lời Kinh Thánh:“Chúng chia nhau áo xống tôiVà bắt thăm lấy áo trong của tôi.”Bọn lính đã làm đúng những điều đó. Mẹ của Đức Giê-su, dì của Ngài, Ma-ri vợ của Cơ-lê-ô-ba, và Ma-ri Ma-đơ-len đứng gần thập tự giá của Chúa. Đức Giê-su thấy mẹ Ngài và môn đệ Ngài yêu quý đứng đó thì thưa với mẹ: “Xin mẹ nhận người này làm con!” Rồi Ngài bảo môn đệ ấy: “Đây là mẹ con!” Từ lúc ấy, môn đệ này rước bà về ở với mình. Đức Giê-su biết mọi việc đã hoàn tất để ứng nghiệm Kinh Thánh thì bảo: “Ta khát.” Tại đó có một bình đầy giấm, nên người ta lấy một miếng bọt biển nhúng giấm, gắn vào đầu một cành bài hương đưa lên tận miệng Ngài. Sau khi nếm giấm, Đức Giê-su thốt lên: “Xong rồi.” Đoạn, Ngài gục đầu xuống, trút linh hồn. Vì hôm đó nhằm ngày Chuẩn Bị của lễ Vượt Qua, các nhà lãnh đạo Do Thái không muốn xác chết còn trên thập tự giá trong ngày Sa-bát, và vì là ngày Sa-bát trọng đại, nên họ xin Phi-lát cho đánh giập ống chân những người bị đóng đinh để hạ xác xuống. Quân lính đến đánh gãy ống chân người thứ nhất, rồi đến người kế đang cùng bị đóng đinh với Ngài. Nhưng khi đến gần Đức Giê-su, thấy Ngài đã chết, nên họ không đánh gãy chân Ngài. Nhưng một tên lính lấy giáo đâm vào hông Ngài, tức thì máu và nước trào ra. Người chứng kiến việc này đã làm chứng. Lời chứng của người là đúng và người ấy biết mình nói sự thật để anh chị em cũng tin. Những điều này hoàn thành để ứng nghiệm lời Kinh Thánh:“Không một cái xương nào của Người bị gãy.” Và một câu Kinh Thánh khác cũng chép:“Người ta sẽ nhìn xem Người họ đã đâm.” Sau đó Giô-sép, người làng A-ri-ma-thê, đến xin Phi-lát cho đem thi thể Đức Giê-su về (Giô-sép là một môn đệ của Đức Giê-su, nhưng theo Ngài cách thầm lén vì sợ nhà cầm quyền Do Thái). Phi-lát cho phép nên ông đến lấy thi thể Ngài. Ni-cô-đem, người trước kia đã đến thăm Đức Giê-su ban đêm, cùng đi với Giô-sép, mang theo khoảng ba mươi bốn ký-lô nhựa thơm trộn với lô hội. Hai người đưa thi thể Đức Giê-su về liệm bằng vải gai tẩm hương liệu theo tục lệ ướp xác của người Do Thái. Tại khu vườn nơi Đức Giê-su bị đóng đinh, có một hang mộ mới chưa chôn cất ai. Vì hôm ấy là ngày Chuẩn Bị của người Do Thái và ngôi mộ lại ở gần, nên họ mai táng Ngài tại đó. Ngày thứ nhất trong tuần lễ, lúc trời còn mờ mờ tối, Ma-ri Ma-đơ-len đến mộ, thấy tảng đá chận cửa đã dời đi. Nàng vội chạy đi gặp Si-môn Phê-rơ và môn đệ Chúa yêu quý mà báo: “Họ dời thi hài Chúa ra khỏi mộ rồi, không biết họ để Ngài ở đâu.” Vậy Phê-rơ và môn đệ kia liền ra xem mộ. Cả hai đều chạy, nhưng môn đệ kia nhanh hơn, đến mộ trước, cúi nhìn vào mộ, thấy mấy cuộn vải dưới đất, nhưng không bước vào. Si-môn Phê-rơ đến sau, bước vào mộ, thấy mấy cuộn vải nằm đó, còn khăn liệm quấn đầu Chúa không để cùng với mấy cuộn vải nhưng cuốn lại để riêng một chỗ. Lúc ấy, môn đệ kia đã đến mộ trước, cũng bước vào, thấy thì tin như thế. Họ vẫn chưa hiểu lời Kinh Thánh chép rằng Đức Giê-su phải từ kẻ chết sống lại. Hai môn đệ đi về. Nhưng Ma-ri đứng bên ngoài mộ mà khóc. Vừa khóc, vừa cúi nhìn vào mộ, nàng thấy hai thiên sứ mặc y phục trắng đang ngồi ngay chỗ đã đặt thi hài Đức Giê-su, một vị ngồi phía đầu, một vị phía chân. Hai thiên sứ hỏi: “Chị ơi, sao chị khóc?” Nàng đáp: “Họ đã đem Chúa tôi đi đâu mất, không biết để Ngài ở đâu?” Nói xong, nàng quay người lại, thấy Đức Giê-su đứng đó, nhưng không nhận ra Ngài. Chúa hỏi: “Con ơi, sao con khóc? Con tìm ai?” Tưởng đây là người làm vườn, nàng khẩn khoản: “Thưa ông, nếu ông dời Ngài đi, xin cho tôi biết ông đặt Ngài ở đâu để tôi đến đem về.” Đức Giê-su gọi: “Ma-ri!” Ma-ri quay lại, reo lên bằng tiếng Do Thái: “Ra-bu-ni!” (nghĩa là: Thưa Thầy) Đức Giê-su bảo: “Con đừng cầm giữ Ta, vì Ta chưa lên cùng Cha! Nhưng con hãy đi báo tin cho các anh em Ta rằng Ta lên cùng Cha Ta và Cha các con, cùng Đức Chúa Trời Ta và Đức Chúa Trời các con.” Ma-ri Ma-đơ-len đi loan báo cho các môn đệ Ngài: “Tôi đã thấy Chúa” và thuật cho họ nghe những điều Ngài đã bảo nàng. Buổi chiều ngày đầu tuần lễ đó, khi các môn đệ đang họp, các cửa ra vào đều đóng chặt vì sợ người Do Thái, Đức Giê-su đến đứng giữa họ, phán rằng: “Bình an cho các con!” Nói xong, Chúa đưa tay và hông cho họ xem. Các môn đệ quá vui mừng vì được thấy Chúa. Đức Giê-su lại bảo: “Bình an cho các con! Như Cha đã sai phái Ta, giờ đây Ta cũng sai phái các con!” Vừa nói Chúa vừa hà hơi trên các môn đệ, truyền bảo: “Hãy nhận lãnh Thánh Linh! Các con tha tội ai thì họ được tha. Các con buộc tội ai thì họ bị buộc tội.” Lúc ấy, Thô-ma (còn có tên là Sinh Đôi), một trong mười hai sứ đồ, không có mặt với các môn đệ khi Đức Giê-su đến. Nghe các môn đệ kia bảo họ đã thấy Chúa, ông nhất quyết: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở bàn tay Ngài, không đặt ngón tay tôi vào dấu đinh đó và không đặt tay tôi vào hông Ngài, thì tôi không tin!” Tám ngày sau, các môn đệ Chúa lại họp nhau, Thô-ma cũng có mặt. Cửa ngõ đều đóng chặt, nhưng Đức Giê-su đến đứng giữa họ, phán rằng: “Bình an cho các con!” Rồi Ngài bảo Thô-ma: “Hãy đặt ngón tay con vào đây và xem hai bàn tay Ta. Hãy lấy tay đặt vào hông Ta! Đừng nghi ngờ, nhưng hãy tin!” Thô-ma thưa: “Lạy Chúa của con và Đức Chúa Trời của con.” Đức Giê-su bảo Thô-ma: “Có phải con tin vì thấy Ta không? Phước cho những người chưa được thấy mà đã tin Ta.” Vậy Đức Giê-su còn làm nhiều dấu lạ khác trước mặt các môn đệ mà không ghi lại trong sách nầy. Nhưng những điều nầy được ghi chép để anh chị em tin Đức Giê-su là Chúa Cứu Thế, Con của Đức Chúa Trời, và nhờ đức tin đó anh chị em được sống trong Danh Ngài. Sau các việc nầy, Đức Giê-su lại hiện ra cho các môn đệ tại bờ biển Ti-bê-ri-át. Việc Ngài hiện ra diễn tiến như sau: Si-môn Phê-rơ, Thô-ma (còn có tên là Sinh Đôi), Na-tha-na-ên, quê ở Ca-na, miền Ga-li-lê, các con trai của Xê-bê-đê và hai môn đệ nữa đang họp nhau. Si-môn Phê-rơ nói: “Tôi đi đánh cá đây!” Mấy người kia đáp: “Chúng tôi cùng đi với anh!” Họ ra đi, xuống thuyền, nhưng suốt đêm ấy chẳng bắt được gì cả. Trời vừa rạng đông, Đức Giê-su đến đứng trên bờ, nhưng các môn đệ không nhận ra Ngài. Đức Giê-su hỏi họ: “Các con ơi, không được con cá nào sao?” Họ thưa: “Không được chi cả.” Ngài bảo: “Các con hãy thả lưới bên phải mạn thuyền thì sẽ được.” Họ thả lưới thì được quá nhiều cá, nên kéo lên không nổi. Lúc ấy, môn đệ Đức Giê-su yêu quý bảo Phê-rơ: “Chúa đấy!” Vừa nghe bạn nói: “Chúa đấy!” Si-môn Phê-rơ liền lấy áo ngoài khoác lên mình (vì ông đang ở trần) và nhảy xuống nước. Các môn đệ khác chèo thuyền vào, kéo theo mẻ lưới đầy cá. Họ không cách xa bờ bao nhiêu, chỉ độ một trăm thước mà thôi. Vừa lên bờ, họ thấy có cá đang nướng trên lửa than và có cả bánh nữa. Đức Giê-su bảo họ: “Giờ hãy đem vài con cá các con mới đánh được lại đây!” Si-môn Phê-rơ lên thuyền, kéo lưới đầy cá lớn vào bờ, đếm được một trăm năm mươi ba con. Dù cá nhiều đến thế, mà lưới vẫn không rách. Đức Giê-su bảo họ: “Các con hãy lại ăn điểm tâm!” Không một môn đệ nào dám hỏi Ngài: “Ông là ai?” vì họ biết rõ chính là Chúa. Đức Giê-su lại gần, lấy bánh đưa cho các môn đệ, rồi cũng đưa cá nữa. Đây là lần thứ ba Đức Giê-su hiện ra cho các môn đệ sau khi Ngài sống lại từ kẻ chết. Khi họ ăn điểm tâm xong, Đức Giê-su hỏi Si-môn Phê-rơ: “Si-môn, con của Giăng! Con yêu kính Ta hơn những người này không?” Ông thưa: “Vâng, thưa Chúa, Chúa biết con yêu mến Ngài.” Chúa bảo: “Hãy nuôi dưỡng đàn chiên con của Ta.” Ngài lại hỏi lần thứ nhì: “Si-môn, con của Giăng! Con yêu kính Ta không?” Ông thưa: “Vâng, lạy Chúa, Chúa biết con yêu mến Ngài.” Ngài bảo: “Hãy chăn đàn chiên của Ta.” Ngài lại hỏi lần thứ ba: “Si-môn, con của Giăng! Con yêu mến Ta chăng?” Phê-rơ buồn lòng vì Chúa hỏi mình đến lần thứ ba: “Con yêu mến Ta chăng?” Nên thưa lại: “Lạy Chúa, Ngài biết tất cả. Ngài hiểu rõ là con yêu mến Ngài.” Đức Giê-su bảo: “Hãy nuôi dưỡng đàn chiên Ta. Thật vậy, Ta bảo con: Khi còn trẻ, con tự mình nai nịt, đi đâu tùy ý; nhưng khi về già, con sẽ đưa tay lên, để người khác nai nịt cho và đưa đến nơi mình không muốn.” Chúa nói như vậy để ám chỉ Phê-rơ sẽ chết cách nào để vinh hiển Đức Chúa Trời. Rồi Ngài bảo: “Con hãy theo Ta!” Phê-rơ quay lại thấy môn đệ Chúa yêu quý đi theo, là người đã nghiêng sát ngực Đức Giê-su trong bữa ăn lễ Vượt Qua để hỏi: “Thưa Chúa, ai là người sẽ phản Ngài?” Thấy môn đệ này, Phê-rơ hỏi Đức Giê-su: “Lạy Chúa, còn anh này thì sao?” Đức Giê-su đáp: “Nếu Ta muốn anh ấy sống mãi cho tới khi Ta đến thì liên hệ gì đến con? Phần con, hãy theo Ta!” Vì thế, có tin đồn giữa các anh em là môn đệ này sẽ không chết. Nhưng Đức Giê-su không nói anh ta không chết, Ngài chỉ nói: “Nếu Ta muốn anh ấy sống mãi cho tới khi Ta đến, thì liên hệ gì đến con.” Đây chính là môn đệ đã chứng kiến những việc nầy và ghi chép lại; chúng ta biết lời chứng của người nầy là thật. Đức Giê-su còn làm nhiều điều khác nữa, nếu ghi chép lại từng điều một, thiết tưởng cả thế giới cũng không chứa nổi các sách phải viết ra. Trong quyển thứ nhất, tôi có tường thuật đầy đủ mọi điều Đức Giê-su đã thực hiện và giáo huấn từ lúc ban đầu cho đến ngày được tiếp về trời, sau khi cậy Đức Thánh Linh truyền dạy các sứ đồ Ngài tuyển chọn. Sau cái chết thống khổ, Ngài tỏ mình đang sống bằng nhiều chứng cớ rõ ràng cho họ thấy. Ngài hiện đến với các sứ đồ suốt bốn mươi ngày và dạy bảo họ những điều về Nước Đức Chúa Trời. Trong khi họp mặt, Ngài căn dặn họ: “Các con đừng ra khỏi thành Giê-ru-sa-lem, nhưng phải chờ đợi điều Cha đã hứa, là điều các con đã nghe Ta nói. Vì Giăng đã làm báp-tem bằng nước nhưng ít ngày nữa, các con sẽ nhận báp-tem bằng Đức Thánh Linh.” Vì vậy những người đang họp với nhau, hỏi Ngài: “Lạy Chúa, có phải đây là lúc Chúa khôi phục vương quốc cho Y-sơ-ra-ên không?” Chúa đáp: “Các con không nên biết thì giờ hay thời kỳ, là điều thuộc quyền Cha định đoạt, nhưng các con sẽ nhận lãnh quyền năng khi Đức Thánh Linh đến trên các con, và các con sẽ làm nhân chứng cho Ta tại Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri, cho đến tận cùng quả đất.” Sau khi phán dạy xong các lời ấy, Chúa được tiếp đón về trời, đang lúc các môn đệ nhìn theo Ngài, một đám mây tiếp Ngài khuất đi, không còn trông thấy nữa. Họ còn chăm chú nhìn theo Ngài lên trời, bỗng có hai người nam mặc áo trắng hiện ra đứng bên họ, bảo: “Các người Ga-li-lê kia, sao các anh cứ đứng nhìn lên trời làm gì? Đức Giê-su này vừa được tiếp đón về trời khỏi các anh cũng sẽ trở lại như cách các anh thấy Ngài lên trời vậy!” Sau đó, họ từ núi Ô-liu về Giê-ru-sa-lem. Núi ấy ở gần Giê-ru-sa-lem, chỉ cách một quãng đường đi một ngày Sa-bát. Về đến nơi, họ lên lầu và ở tại đó. Hiện diện có Phê-rơ, Giăng, Gia-cơ, An-rê, Phi-líp, Thô-ma, Ba-thê-lê-mi, Ma-thi-ơ, Gia-cơ (con An-phê), Si-môn người thuộc nhóm Sê-lốt và Giu-đa (con Gia-cơ). Tất cả các người đó đều đồng tâm kiên trì cầu nguyện liên tục cùng với các bà và Ma-ri là mẹ Đức Giê-su và các em trai Ngài. Trong những ngày ấy, Phê-rơ đứng lên giữa nhóm anh em đông khoảng một trăm hai mươi người, và nói: “Thưa các anh em, lời Kinh Thánh mà Đức Thánh Linh đã phán từ xưa qua môi miệng Đa-vít phải được ứng nghiệm. Lời Chúa nói về Giu-đa, kẻ đã dẫn đường cho bọn người đi bắt Đức Giê-su. Hắn là một người trong số chúng tôi và dự phần vào chức vụ này. Giu-đa đã lấy tiền thưởng cho công tác tội ác đi mua một đám ruộng, nhưng nó ngã đâm đầu xuống giữa ruộng, bụng nứt, ruột đổ ra. Việc này cả dân Giê-ru-sa-lem đều biết rõ, nên họ gọi đám ruộng đó là Hắc-ên-đa-ma (nghĩa là Ruộng Huyết). Vì Thánh Thi đã chép:‘Nguyện chỗ ở nó phải hoang tànVà cũng không còn ai cư trú tại đó vàNguyện một người khác thay thế chức vị nó!’ Vì thế, cần phải chọn một người trong nhóm từng ở với chúng tôi suốt thời gian Chúa Giê-su đi lại giữa chúng ta, bắt đầu từ khi Giăng làm báp-tem cho đến ngày Đức Giê-su được tiếp lên trời khỏi chúng ta. Phải có một người trong nhóm này hiệp với chúng tôi làm nhân chứng về sự sống lại của Chúa!” Vậy, họ đề cử hai người: Giô-sép gọi là Ba-sa-ba (biệt danh là Giúc-tu) và Ma-thia, và cầu nguyện: “Lạy Chúa là Đấng biết rõ lòng dạ mọi người, xin Chúa chỉ cho chúng con biết ai là người Chúa chọn trong hai người này, để thay thế nhiệm vụ và chức sứ đồ của Giu-đa, kẻ đã từ bỏ để đi vào nơi riêng của nó!” Họ bắt thăm, trúng Ma-thia, nên ông được liệt vào hàng sứ đồ chung với mười một vị kia. Đến ngày lễ Ngũ Tuần, các môn đệ Chúa tập họp tại một chỗ. Thình lình có tiếng động từ trời như tiếng gió thổi mạnh, đầy cả nhà môn đệ ngồi Có những lưỡi như lửa xuất hiện, rải ra và đậu trên mỗi người. Tất cả đều đầy dẫy Thánh Linh, bắt đầu nói các ngôn ngữ khác theo như Thánh Linh cho họ nói. Bấy giờ, tại thành Giê-ru-sa-lem có những người Do Thái kính sợ Đức Chúa Trời từ khắp các nước trong thiên hạ. Khi tiếng động vang ra, một đoàn dân đông đảo tụ tập lại. Họ kinh ngạc vì nghe các môn đệ Chúa mỗi người nói được thứ tiếng của dân tộc mình. Họ vô cùng sửng sốt hỏi nhau: “Tất cả những người này không phải là dân Ga-li-lê sao? Sao chúng ta nghe mỗi người nói tiếng bản xứ của chúng ta? Nào là người Bạc-thê, Mê-đi, Ê-lam, dân Lưỡng Hà, Giu-đê, Cáp-ba-đốc, Bông-tu, A-si, Phơ-ri-gi, Bam-phi-li, Ai-cập, vùng Li-by, gần Sy-ren, du khách từ La-mã, người Do Thái và người tân tòng, người Cơ-rết và Ả-rập, chúng ta nghe họ dùng ngôn ngữ của chúng ta để nói lên những công việc vĩ đại của Đức Chúa Trời.” Tất cả đều sửng sốt, bối rối hỏi nhau: “Việc này có nghĩa gì đây?” Nhưng có kẻ khác lại chế giễu: “Họ say rượu ngọt đó!” Nhưng Phê-rơ đứng lên với mười một sứ đồ, lớn tiếng tuyên bố với đám đông:“Thưa anh em ở Giu-đê và tất cả quý vị đang ở Giê-ru-sa-lem! Xin quý vị lắng nghe lời tôi trình bày để biết rõ điều này. Những anh em này không say rượu như quý vị tưởng đâu, vì bây giờ mới chín giờ sáng. Nhưng đây chính là điều Chúa đã phán qua nhà tiên tri Giô-ên. Đức Chúa Trời phán: ‘Trong những ngày sau cùng,Ta sẽ đổ Thánh Linh Ta trên tất cả mọi người,Con trai và con gái các ngươi sẽ nói tiên tri,Thanh niên sẽ thấy khải tượngNgười già sẽ thấy chiêm bao. Trong những ngày ấy,Ta sẽ đổ Thánh Linh Ta trên các tôi trai, tớ gái của Ta,Và họ sẽ nói tiên tri. Ta sẽ ban các phép mầu trên trờiVà dấu lạ dưới đất là máu,Lửa và luồng khói. Mặt trời sẽ trở nên tối tăm,Mặt trăng sẽ đỏ như máuTrước ngày vĩ đại và vinh quang của Chúa đến. Và ai cầu khẩnDanh Chúa đều sẽ được cứu.’ Thưa đồng bào Y-sơ-ra-ên, xin hãy nghe các lời này: Đức Giê-su, người Na-xa-rét đã được Đức Chúa Trời chứng nhận trước mặt quý vị bằng những việc quyền năng, phép mầu và dấu lạ mà qua Ngài, Đức Chúa Trời đã làm giữa quý vị như chính quý vị đã biết rõ. Ngài đã bị nộp cho quý vị theo chương trình và sự biết trước của Đức Chúa Trời, và quý vị đã mượn tay kẻ gian ác mà đóng đinh xử tử Ngài trên thập tự giá. Nhưng Đức Chúa Trời đã làm cho Ngài sống lại, giải cứu Ngài khỏi nỗi thống khổ của sự chết, vì nó không thể giam giữ Ngài được. Bởi vua Đa-vít đã nói về Ngài:‘Tôi luôn luôn thấy Chúa trước mặt tôiVì Ngài ở bên phải tôi,Nên tôi sẽ không bị rúng động. Vì thế, lòng tôi vui mừng, lưỡi tôi hoan caThân thể tôi sẽ sống trong niềm hy vọng. Vì Chúa sẽ chẳng bỏ linh hồn tôi nơi Âm Phủ,Cũng chẳng cho Đấng Thánh của Ngài thấy sự hư nát. Chúa đã cho tôi biết con đường sự sống.Chúa sẽ làm cho tôi đầy dẫy sự vui mừng trước mặt Ngài.’ Thưa các anh em, tôi có thể nói rõ về tổ phụ Đa-vít rằng người đã chết và được an táng, lăng tẩm người vẫn còn ở giữa chúng ta đến ngày nay. Nhưng người là một tiên tri nên biết Đức Chúa Trời đã hứa bằng một lời thề rằng Ngài sẽ đặt một hậu tự của người lên ngai. Thấy trước việc tương lai, vua Đa-vít nói về sự phục sinh của Chúa Cứu Thế rằng: Ngài chẳng bị bỏ nơi Âm Phủ, thân thể Ngài không bị hư nát. Đức Chúa Trời đã khiến Đức Giê-su này sống lại, và tất cả chúng tôi đều là nhân chứng về sự kiện này. Vì thế, Ngài được đưa lên bên phải Đức Chúa Trời, nhận lãnh Thánh Linh từ Cha, như đã hứa, và đổ Thánh Linh ra như quý vị đang nghe thấy. Vì vua Đa-vít không lên trời nhưng lại nói:‘Chúa phán cùng Chúa tôi:Hãy ngồi bên phải Ta Cho đến khi nào Ta đặt các kẻ thù nghịch conDưới bệ chân con.’ Vậy xin toàn dân Y-sơ-ra-ên hãy biết chắc chắn rằng Đức Chúa Trời đã lập Đức Giê-su mà quý vị đã đóng đinh trên thập tự giá làm Chúa Tể và Chúa Cứu Thế.” Nghe xong, lòng họ đau nhói, nên hỏi Phê-rơ và các sứ đồ: “Anh em ơi, chúng tôi phải làm chi?” Phê-rơ đáp: “Hãy ăn năn, và mỗi người phải nhân danh Chúa Cứu Thế Giê-su mà chịu báp-tem để tội lỗi quý vị được tha thứ, rồi sẽ nhận được ân tứ Thánh Linh. Vì lời hứa đó dành sẵn cho quý vị, con cái quý vị và tất cả những người ở xa xôi, tức là những người mà Chúa là Đức Chúa Trời chúng ta kêu gọi.” Phê-rơ cũng dùng nhiều lời khác để cảnh cáo và khích lệ họ rằng: “Quý vị hãy thoát khỏi thế hệ băng hoại này.” Vậy, những người đáp ứng lời kêu gọi của Phê-rơ đều chịu báp-tem; hôm ấy số tín đồ tăng thêm ba ngàn người. Họ chuyên cần giữ lời giáo huấn của các sứ đồ, sự thông công với anh em, lễ bẻ bánh và các buổi cầu nguyện. Mọi người đều kinh sợ vì nhiều phép mầu và dấu lạ được các sứ đồ thực hiện. Tất cả các tín hữu đều hợp nhất với nhau, lấy mọi vật sở hữu làm của chung, bán tài sản của cải mà phân phát cho mọi tín hữu tùy theo nhu cầu của mỗi người. Hằng ngày, họ cứ đồng tâm chuyên cần đến Đền Thờ, họp nhau bẻ bánh từ nhà này sang nhà khác, dùng bữa với nhau cách vui vẻ rộng lượng, ca ngợi Đức Chúa Trời và được lòng tất cả mọi người. Mỗi ngày, Chúa tăng thêm số người được cứu. Phê-rơ và Giăng đi lên Đền Thờ vào giờ cầu nguyện lúc ba giờ chiều. Một anh què từ lúc sơ sinh hằng ngày được khiêng đến Đền Thờ, đặt tại Cổng Đẹp để xin khách vào đền bố thí. Thấy Phê-rơ và Giăng bước vào Đền Thờ, anh xin họ cho ít tiền. Phê-rơ và Giăng đều chăm chú nhìn anh. Phê-rơ bảo: “Anh hãy nhìn chúng tôi đây!” Anh què ngước nhìn hai người, mong được họ cho chút gì. Phê-rơ nói: “Bạc, vàng tôi không có, nhưng điều tôi có, xin tặng cho anh: Nhân danh Chúa Cứu Thế Giê-su ở Na-xa-rét, anh hãy bước đi!” Phê-rơ nắm tay phải anh đỡ đứng dậy. Lập tức, bàn chân và xương mắt cá anh trở nên vững vàng, anh què nhảy lên, đứng dậy, bước vào Đền Thờ với hai sứ đồ, vừa đi, vừa nhảy và ca ngợi Đức Chúa Trời. Tất cả dân chúng đều thấy anh bước đi và ca ngợi Đức Chúa Trời. Họ nhận ra anh chính là người thường ngồi ăn xin tại Cổng Đẹp của Đền Thờ nên họ vô cùng kinh ngạc sửng sốt khi thấy việc này xảy ra. Anh đang nắm tay Phê-rơ và Giăng, tất cả dân chúng đều lấy làm lạ, chạy đến, tại chỗ gọi là hành lang Sa-lô-môn. Thấy thế, Phê-rơ bảo họ: “Đồng bào Y-sơ-ra-ên! Tại sao quý vị ngạc nhiên? Tại sao quý vị nhìn sững chúng tôi dường như chúng tôi cậy quyền năng hoặc đức độ của mình mà khiến người què này đi được. Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp, Đức Chúa Trời của tổ phụ chúng ta đã tôn vinh đầy tớ Ngài là Đức Giê-su. Đồng bào đã nộp Ngài cho người ta xử tử, quý vị đã khước từ Ngài trước mặt Phi-lát khi ông ta quyết định phóng thích Ngài. Nhưng quý vị đã khước từ Đấng Thánh và công chính và xin Phi-lát thi ân tha cho một kẻ sát nhân. Quý vị đã giết Chúa Sự Sống, mà Đức Chúa Trời đã làm cho sống lại từ kẻ chết; chúng tôi là nhân chứng về việc đó. Bởi đức tin trong danh Giê-su, người què mà quý vị thấy và biết đã được lành mạnh. Chính danh Giê-su và đức tin trong Ngài đã làm cho người què được chữa lành trước mặt tất cả quý vị. Bây giờ, thưa anh em, tôi biết anh em đã hành động cách vô ý thức, cũng như các nhà lãnh đạo của mình. Nhưng Đức Chúa Trời làm ứng nghiệm điều Ngài đã báo trước qua môi miệng tất cả các nhà tiên tri rằng Chúa Cứu Thế của Ngài phải chịu đau thương. Vậy anh em hãy ăn năn, quay về Đức Chúa Trời, ngõ hầu tội lỗi của anh em được tẩy sạch, để thời kỳ tươi mới được đến từ Chúa, và để Đức Chúa Trời sai Chúa Cứu Thế Giê-su mà Ngài đã chọn sẵn từ trước, đến với anh em. Chúa Cứu Thế còn phải ở lại trên trời cho đến thời kỳ Đức Chúa Trời khôi phục vạn vật, như Ngài đã hứa từ lâu qua các tiên tri thánh của Ngài. Vì Môi-se đã nói: ‘Chúa là Đức Chúa Trời của anh em sẽ dấy lên giữa dân chúng một tiên tri như tôi; anh em phải nghe theo mọi lời Ngài dạy bảo. Nếu ai không nghe theo lời Ngài sẽ bị khai trừ ra khỏi dân chúng.’ Thật thế, tất cả các tiên tri từ Sa-mu-ên trở xuống, ai đã lên tiếng nói tiên tri, đều báo trước những ngày này. Anh em là con cháu của các tiên tri và của giao ước Đức Chúa Trời đã lập với các tổ phụ. Ngài đã bảo Áp-ra-ham:‘Nhờ Hậu Tự con mà tất cả các dân tộc trên thế giới đều sẽ được phước.’ Khi Đức Chúa Trời dấy Đầy Tớ Ngài lên, Ngài đã sai Người đến với anh em trước hết để ban phước cho anh em, bằng cách khiến cho mỗi người lìa bỏ con đường gian ác.” Phê-rơ và Giăng đang nói với dân chúng thì các vị tế lễ, viên sĩ quan chỉ huy vệ binh Đền Thờ và các người Sa-đu-sê chợt đến nơi. Họ rất bực mình vì các sứ đồ dạy bảo dân chúng và công bố rằng Đức Giê-su đã sống lại nên sẽ có sự sống lại cho người chết. Họ bắt Phê-rơ và Giăng, nhưng trời đã tối, nên đem tạm giam vào ngục qua đêm. Tuy nhiên, nhiều người đã được nghe lời Chúa thì tin. Số nam môn đệ lên đến năm ngàn. Hôm sau, các nhà lãnh đạo, các trưởng lão và các chuyên gia kinh luật hội họp tại Giê-ru-sa-lem. Có trưởng tế An-na, các ông Cai-pha, Giăng, A-lịch-sơn và các người khác trong gia đình vị trưởng tế tham dự. Họ cho giải hai sứ đồ đến đứng giữa họ rồi tra vấn: “Các anh nhờ quyền năng nào và nhân danh ai mà làm việc nầy?” Lúc ấy Phê-rơ được đầy dẫy Thánh Linh, đáp lời: “Thưa quý vị lãnh đạo nhân dân và quý vị trưởng lão! Hôm nay, chúng tôi bị tra xét về một việc lành là giúp một người tàn tật, và quý vị hỏi nhờ đâu mà người ấy được lành. Xin tất cả quý vị và toàn dân Y-sơ-ra-ên biết cho rằng đó là nhân danh Chúa Cứu Thế Giê-su, người Na-xa-rét! Quý vị đã đóng đinh Ngài trên thập tự giá nhưng Đức Chúa Trời làm cho Ngài sống lại từ kẻ chết. Nhờ Danh Ngài mà người nầy được lành và đứng trước mặt quý vị. Ngài là Tảng Đá đã bị quý vị là những thợ nề xây nhà khinh dể,Nhưng lại trở thành Tảng Đá đầu góc nhà. Không có sự cứu rỗi trong một ai khác cả, vì dưới trời không có Danh nào khác được ban cho loài người để chúng ta phải nhờ Danh ấy mà được cứu.” Khi thấy Phê-rơ và Giăng can đảm như thế, và nhận xét rằng hai ông là người tầm thường, kém học thức, họ đều kinh ngạc nhưng phải nhìn nhận rằng hai ông đã từng ở với Đức Giê-su. Tuy nhiên vì thấy người què được chữa lành đang đứng với hai ông nên họ chẳng chối cãi gì được. Họ liền ra lệnh cho hai ông ra khỏi phòng họp hội đồng, rồi bàn luận với nhau rằng: “Chúng ta sẽ làm gì với mấy người nầy đây? Vì họ đã làm một dấu lạ hiển nhiên, tất cả dân chúng Giê-ru-sa-lem đều biết rõ, nên chúng ta không thể nào chối cãi. Nhưng muốn cho việc nầy đừng lan rộng thêm giữa dân chúng, chúng ta hãy đe dọa, đừng cho họ nhắc đến Danh nầy nữa!” Vậy họ gọi hai ông vào và cấm tuyệt đối không được nói hay dạy về Danh Đức Giê-su nữa. Nhưng Phê-rơ và Giăng đáp: “Điều nào phải lẽ hơn? Trước mặt Đức Chúa Trời, nên vâng lời quý vị hay là vâng lời Đức Chúa Trời? Xin quý vị vui lòng thẩm định. Nhưng chúng tôi không thể nào không nói lên những điều chúng tôi đã nghe và thấy.” Họ đe dọa thêm nữa rồi phóng thích hai người. Họ không tìm được cách nào trừng phạt hai người vì toàn thể dân chúng đều tôn vinh Đức Chúa Trời về việc vừa xảy ra. Người đàn ông được phép lạ chữa lành đã hơn bốn mươi tuổi. Sau khi được phóng thích, hai người quay về với anh em mình và thuật lại những lời các thượng tế và trưởng lão đe dọa. Nghe xong, họ đồng lòng lớn tiếng cầu nguyện với Đức Chúa Trời rằng:“Lạy Chúa, Ngài đã sáng tạo trời, đất, biển và vạn vật. Chúa đã nhờ Đức Thánh Linh phán dạy qua môi miệng Đa-vít, đầy tớ Ngài, cũng là tổ phụ chúng tôi:‘Tại sao các nước nổi giậnVà các dân âm mưu vô ích? Các vua trên thế gianVà các lãnh tụ họp nhauChống nghịch ChúaVà Chúa Cứu Thế của Ngài.’ Thật thế, Hê-rốt và Bôn-xơ Phi-lát toa rập với các dân ngoại quốc và người Y-sơ-ra-ên ngay trong thành phố nầy mà chống nghịch Đức Giê-su, Đầy Tớ Thánh của Chúa đã được Chúa xức dầu để thực hiện những điều mà bàn tay Chúa và ý chỉ Chúa đã ấn định từ trước. Và bây giờ, lạy Chúa, xin Chúa đoái xem các sự đe dọa của họ và ban cho các đầy tớ Ngài lòng đầy dũng cảm để rao giảng lời Chúa. Xin Chúa ra tay chữa bệnh và làm các dấu lạ, phép mầu nhân danh Đầy Tớ Thánh Ngài là Đức Giê-su.” Họ đang cầu nguyện thì phòng họp rúng động. Tất cả đều được đầy dẫy Thánh Linh, rao giảng lời Đức Chúa Trời cách dũng cảm. Bấy giờ cả cộng đồng tín hữu đều đồng tâm nhất trí, không ai coi tài sản mình là của riêng, nhưng kể mọi vật là của chung. Các sứ đồ cậy quyền năng lớn lao cứ làm chứng về sự sống lại của Chúa Giê-su và tất cả đều được ân sủng dồi dào. Trong các tín hữu, không còn ai nghèo thiếu, vì những người có ruộng, có nhà đều bán đi, đem tiền bán tài sản đặt nơi chân các sứ đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người tùy theo nhu cầu cá nhân. Giô-sép, người được các sứ đồ gọi là Ba-na-ba nghĩa là “Con Trai Niềm An Ủi”, thuộc dòng họ Lê-vi, sinh trưởng tại đảo Síp, bán đám ruộng của mình và đem số tiền đặt nơi chân các sứ đồ. Nhưng có một người tên A-na-nia cùng vợ là Sa-phi-ra bán một tài sản, giữ lại một phần tiền thu được, rồi đem số tiền còn lại đặt nơi chân các sứ đồ. (Người vợ cũng biết rõ việc này.) Phê-rơ hỏi: “Ông A-na-nia, sao Sa-tan đã đầy dẫy lòng ông đến nỗi ông nói dối với Đức Thánh Linh mà giữ lại một phần tiền bán đất như thế? Trước khi bán, tài sản ấy không thuộc quyền sở hữu của ông sao? Sau khi bán rồi, tiền đó vẫn thuộc quyền sử dụng của ông kia mà? Tại sao ông chủ tâm hành động như thế? Không phải ông dối người đâu mà dối Đức Chúa Trời đó!” Nghe các lời đó, A-na-nia ngã xuống, tắt thở. Tất cả những ai nghe tin đều khiếp sợ. Nhưng các thanh niên đứng dậy liệm xác A-na-nia và khiêng đi chôn. Độ ba giờ sau, vợ A-na-nia bước vào, nhưng vẫn chưa biết việc mới xảy ra. Phê-rơ hỏi bà: “Bà bán đất được bao nhiêu đó, phải không? Xin bà cho biết!” Bà đáp: “Vâng, chỉ được chừng ấy thôi!” Phê-rơ nói: “Tại sao ông bà đồng mưu thử Đức Thánh Linh của Chúa? Kìa chân của những kẻ chôn chồng bà đã về tới cửa, họ sẽ khiêng bà đi luôn!” Lập tức, bà ngã xuống nơi chân Phê-rơ, tắt thở. Các thanh niên bước vào, thấy bà đã chết, nên họ khiêng đi chôn bên cạnh mộ chồng bà. Toàn thể Hội Thánh và tất cả những ai nghe tin này đều rất khiếp sợ. Chúa dùng tay các sứ đồ thực hiện nhiều dấu lạ và phép mầu giữa dân chúng. Tất cả các tín hữu đồng tâm hội họp tại hành lang Sa-lô-môn. Nhưng người ngoài không ai dám tham dự, mặc dù các tín hữu đều được dân chúng ca ngợi. Và số người tin nhận Chúa ngày càng gia tăng đông đảo gồm cả nam lẫn nữ, đến nỗi người ta đem những người bệnh ra ngoài đường phố, đặt trên giường chõng, để khi Phê-rơ đi qua, ít ra bóng ông cũng ngả trên một vài người. Dân chúng các thành phố quanh Giê-ru-sa-lem cũng họp nhau khiêng những người bệnh và những người bị các tà linh hành hạ, và tất cả đều được chữa lành. Lúc ấy, vị trưởng tế và tất cả các bạn đồng sự thuộc phái Sa-đu-sê, đều đầy lòng ganh tị, đứng lên bắt các sứ đồ tống giam vào khám công. Nhưng ban đêm một thiên sứ của Chúa mở các cửa khám, dẫn họ ra ngoài và bảo: “Các ông hãy đi vào Đền Thờ, đứng đó rao truyền cho dân chúng tất cả những lời của sự sống!” Nghe theo lời dặn bảo, các sứ đồ vào trong Đền Thờ lúc trời mới rạng đông, bắt đầu dạy dân chúng. Khi vị trưởng tế và các bạn đồng sự đến, họ liền triệu tập Hội Đồng và toàn thể viện trưởng lão Y-sơ-ra-ên, rồi sai người vào khám giải các sứ đồ đến. Tuy nhiên, khi vào trong khám các cảnh vệ không thấy các sứ đồ đâu cả, liền trở về báo cáo rằng: “Chúng tôi thấy khám đóng chặt, hoàn toàn an ninh, bọn lính canh đang đứng gác khắp các cổng, nhưng khi mở cửa khám, chúng tôi chẳng tìm thấy một tên nào cả!” Nghe lời báo cáo, viên sĩ quan chỉ huy vệ binh Đền Thờ và các thượng tế hoang mang, không hiểu việc này sẽ diễn biến thế nào. Bỗng có người đến báo cáo: “Kìa, những người quý vị tống giam vào khám đang đứng trong Đền Thờ dạy dân chúng!” Viên sĩ quan chỉ huy đội tuần cảnh liền đem lính đi bắt các sứ đồ nhưng không dùng bạo lực vì sợ dân chúng ném đá. Họ giải các sứ đồ đến hầu trước Hội Đồng. Vị trưởng tế tra vấn: “Chúng tôi đã nghiêm cấm các anh dạy dỗ về Danh này, thế mà các anh lại làm cho thành Giê-ru-sa-lem đầy tràn đạo giáo của các anh. Các anh định đổ tội giết Người ấy cho chúng ta sao?” Phê-rơ và các sứ đồ đáp: “Phải vâng lời Đức Chúa Trời hơn là vâng lời loài người! Đức Chúa Trời của tổ phụ chúng ta đã khiến Đức Giê-su sống lại. Người đã bị quý vị giết chết bằng cách treo trên cây gỗ. Chính Người lại được Đức Chúa Trời tôn lên làm Đấng Lãnh Đạo và Đấng Cứu Thế ở bên phải Đức Chúa Trời, để đem lại lòng ăn năn cho dân Y-sơ-ra-ên để họ được tha tội. Chính chúng tôi đã chứng kiến các sự kiện này, nên xin làm nhân chứng cùng với Đức Thánh Linh mà Đức Chúa Trời ban cho những người vâng lời Ngài.” Nghe xong các nhân viên Hội Đồng đều tức giận, quyết định giết các sứ đồ. Nhưng một người Pha-ri-si tên Ga-ma-liên, một giáo sư Kinh Luật được dân tôn kính, đứng dậy giữa Hội Đồng, ra lệnh đem các sứ đồ ra ngoài trong chốc lát, rồi phát biểu: “Thưa đồng bào Y-sơ-ra-ên, xin quý vị thận trọng trong việc xử trí những người này. Trước đây, Thêu-đa nổi dậy, xưng hùng xưng bá; có độ bốn trăm người theo nó; nhưng nó bị giết, tất cả đồng bọn đều bị tan rã, không còn gì cả. Sau đó, Giu-đa, người Ga-li-lê, nổi dậy trong thời kỳ kiểm tra dân số, lôi cuốn được nhiều người theo mình; nhưng nó cũng bỏ mạng và tất cả đồng bọn đều bị phân tán. Vậy, bây giờ tôi khuyên quý vị: Hãy tránh xa những người này đi, cứ để mặc họ; vì nếu mưu định và công việc này là của loài người thì sẽ bị tiêu diệt; nhưng nếu là của Đức Chúa Trời thì quý vị không tài nào tiêu diệt được, mà còn trở thành những kẻ chiến đấu chống nghịch Đức Chúa Trời!” Hội Đồng nghe theo lời ông, gọi các sứ đồ vào, sai đánh đòn, và cấm nhặt không cho nói về Danh Giê-su, rồi phóng thích. Các sứ đồ rời Hội Đồng ra về, hân hoan vì được kể là xứng đáng chịu sỉ nhục vì Danh Chúa. Hằng ngày, dù ở trong Đền Thờ hoặc đi từ nhà này sang nhà khác, họ cứ tiếp tục dạy dỗ và truyền giảng về Đức Giê-su là Chúa Cứu Thế. Thời ấy, khi số môn đệ Chúa gia tăng gấp bội, các tín hữu Hy Lạp gốc Do Thái phàn nàn về người Do Thái bản xứ vì các quả phụ trong nhóm họ bị bỏ bê trong việc cung cấp vật thực hằng ngày. Mười hai sứ đồ triệu tập toàn thể tín hữu tuyên bố: “Bỏ việc phục vụ Lời của Đức Chúa Trời để đi hầu bàn là điều không nên làm. Vậy thưa anh em, xin hãy chọn giữa vòng mình bảy người được chứng nhận là tốt, đầy dẫy Thánh Linh và khôn ngoan; chúng tôi sẽ giao trách nhiệm này. Còn chúng tôi sẽ chuyên tâm cầu nguyện và phục vụ Lời Chúa.” Toàn thể tín hữu rất hài lòng với đề nghị này. Họ chọn Sê-tiên (người đầy dẫy đức tin và Thánh Linh) Phi-líp, Bô-cô-rơ, Ni-ca-nô, Ty-môn, Bác-mê-na, và Ni-cô-la (người tân tòng quê ở An-ti-ốt), rồi trình diện họ trước các sứ đồ. Các sứ đồ cầu nguyện và đặt tay trên các người ấy. Đạo của Đức Chúa Trời ngày càng phát triển, số tín hữu tại Giê-ru-sa-lem gia tăng nhiều lắm, cả một số đông các thầy tế lễ cũng thuận phục Đạo. Sê-tiên đầy dẫy ân sủng và quyền năng Đức Chúa Trời, thực hiện nhiều phép mầu và dấu lạ vĩ đại giữa dân chúng. Một số hội viên của Hội Đường Tự Do hợp với các người ở Sy-ren, A-lê-xan-đơ-ri, Si-li-si và Tiểu Á tranh luận với Sê-tiên. Nhưng họ không chống lại nổi trí khôn cùng Đức Thánh Linh mà Sê-tiên nhờ cậy để nói; nên họ ngầm xúi giục mấy người tố cáo: “Chúng tôi đã nghe nó xúc phạm đến Môi-se và Đức Chúa Trời!” Vậy họ sách động quần chúng, các trưởng lão và các chuyên gia kinh luật, rồi bắt Sê-tiên giải ra trước Hội Đồng và đặt nhân chứng khai man rằng: “Tên này liên tục nói những lời chống nghịch Đền Thánh và Kinh Luật; vì chúng tôi nghe nó bảo: ‘Giê-su, người Na-xa-rét, sẽ phá hủy nơi này và cải cách phong tục mà Môi-se đã truyền cho chúng ta.’” Tất cả các hội viên có mặt trong Hội Đồng chăm chú nhìn Sê-tiên, thấy gương mặt ông sáng rực như dung nhan thiên sứ. Vị trưởng tế hỏi: “Các lời tố cáo đó có đúng không?” Sê-tiên đáp: “Thưa quý anh, quý cha, xin nghe tôi trình bày. Đức Chúa Trời vinh quang đã hiện ra gặp tổ phụ chúng ta là Áp-ra-ham khi người còn ở xứ Lưỡng Hà, trước khi cư trú tại Cha-ran và bảo người: ‘Hãy ra khỏi đất nước ngươi và từ giã bà con ngươi mà đi vào miền đất mà Ta sẽ chỉ cho.’ Áp-ra-ham liền ra khỏi xứ Canh-đê và đến cư trú tại Cha-ran. Sau khi thân phụ qua đời, Đức Chúa Trời khiến người di cư qua miền đất này, là xứ quý vị đang ở. Chúa chẳng cho người sản nghiệp nào, dù một mảnh đất đặt bàn chân cũng không, nhưng Chúa hứa sẽ cho người và dòng dõi người làm chủ miền đất này, mặc dù lúc ấy người chưa có con. Đức Chúa Trời phán dạy rằng:‘Dòng dõi con sẽ kiều ngụ trong đất nước người,sẽ bị họ bắt làm nô lệ và bạc đãi suốt bốn trăm năm. Nhưng Ta sẽ phán xét dân tộc mà họ phục dịch.Sau đó, dòng dõi con sẽ ra đi và thờ phượng Ta tại nơi này.’ Rồi Chúa lập giao ước cắt bì với người. Vậy Áp-ra-ham sinh Y-sác và cắt bì cho con vào ngày thứ tám. Y-sác sinh Gia-cốp, Gia-cốp sinh mười hai con là các trưởng tộc Y-sơ-ra-ên. Các trưởng tộc ganh tị với Giô-sép nên bán người qua Ai-cập. Nhưng Đức Chúa Trời ở cùng người và giải thoát người khỏi tất cả các hoạn nạn, ban cho người được ân huệ và khôn ngoan trước mặt Pha-ra-ôn, vua Ai-cập. Pha-ra-ôn cử người làm tể tướng thống lãnh Ai-cập và cả hoàng gia. Nhưng nạn đói xảy ra khắp đất Ai-cập và Ca-na-an, gây tai họa lớn, các tổ phụ chúng ta không tìm ra thực phẩm nữa. Nghe tin Ai-cập còn lúa gạo, Gia-cốp sai các trưởng tộc chúng ta xuống đó lần thứ nhất. Đến lần thứ nhì, Giô-sép tiết lộ cho các anh em biết mình là ai, và Pha-ra-ôn được biết về gia đình Giô-sép. Giô-sép sai người mời Gia-cốp cha mình và toàn thể gia đình gồm bảy mươi lăm người tất cả. Gia-cốp xuống Ai-cập. Sau đó, người và các trưởng tộc đều qua đời. Người ta dời mộ họ về Si-chem, cải táng tại khu mộ mà Áp-ra-ham đã trả tiền mua của các con trai Hê-mô ở Si-chem. Gần đến thời kỳ Đức Chúa Trời thực thi lời hứa với Áp-ra-ham, dân số chúng ta tại Ai-cập gia tăng rất nhiều. Rồi một vua khác lên ngôi trị vì Ai-cập, chẳng biết gì đến Giô-sép. Vua này thi hành chính sách quỷ quyệt đối với đồng bào ta, bạc đãi các tổ phụ ta bằng cách buộc họ phải vứt bỏ các trẻ sơ sinh cho chết. Đến thời điểm ấy, Môi-se sinh ra, xinh đẹp trước mặt Đức Chúa Trời, được nuôi ba tháng trong nhà cha mình đến khi phải bị vứt bỏ, Môi-se được công chúa Ai-cập đem về nuôi dưỡng như con ruột. Người được giáo dục trong mọi ngành tri thức Ai-cập, lại có khả năng trong lời nói và việc làm. Nhưng được bốn mươi tuổi, lòng nảy ra ý định thăm viếng anh em đồng bào là dòng dõi Y-sơ-ra-ên, chợt thấy một đồng bào bị hà hiếp, ông liền bênh vực và báo thù bằng cách giết người Ai-cập. Ông tưởng đồng bào hiểu rằng Đức Chúa Trời sẽ dùng mình giải cứu họ nhưng họ không hiểu. Hôm sau, Môi-se bắt gặp mấy người đang đánh nhau, liền thử giải hòa hai bên: ‘Các ông ơi, đã là anh em, sao nỡ hại nhau?’ Nhưng người đang ức hiếp anh em lại xô Môi-se ra mà bảo: ‘Ai cử anh làm lãnh tụ và thẩm phán cho chúng tôi? Hay anh muốn giết tôi như giết người Ai-cập hôm qua?’ Nghe lời ấy, Môi-se bỏ trốn qua xứ Ma-đi-an mà kiều ngụ. Tại đó, ông có hai con trai. Bốn mươi năm trôi qua, Môi-se gặp một thiên sứ hiện ra trong một ngọn lửa, giữa bụi gai cháy phừng tại đồng hoang gần núi Si-nai. Môi-se thấy khải tượng ấy, ngạc nhiên lại gần để xem, bỗng nghe tiếng Chúa phán dạy: ‘Ta là Đức Chúa Trời của các tổ phụ con, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp!’ Nhưng Môi-se run sợ, không dám nhìn. Chúa bảo: ‘Con hãy cởi dép ra vì nơi con đứng là đất thánh. Thật Ta đã thấy rõ dân Ta bị áp bức tại Ai-cập. Ta đã nghe tiếng rên la của họ, và xuống giải cứu họ. Bây giờ, lại đây Ta sẽ sai con vào Ai-cập.’ Chính Môi-se này mà đồng bào khước từ: ‘Ai cử anh làm lãnh tụ và thẩm phán?’ thì nay Đức Chúa Trời sai làm lãnh tụ và cứu tinh, do thiên sứ đã hiện ra với người trong bụi gai. Chính người đã đem dân ta ra, làm những phép mầu và dấu lạ trong đất Ai-cập, trên Hồng Hải và trong đồng hoang suốt bốn mươi năm. Chính Môi-se này là người đã bảo dân Y-sơ-ra-ên: ‘Đức Chúa Trời sẽ dấy lên cho các người từ giữa anh em một tiên tri giống như tôi.’ Đây là người đã ở với hội chúng trong đồng hoang, và thiên sứ đã nói chuyện với người trên núi Si-nai như với các tổ phụ chúng ta, và người đã tiếp nhận lời hằng sống để truyền lại cho đồng bào. Tuy nhiên, tổ phụ chúng ta không chịu vâng lời người, nhưng từ bỏ người và trở lòng hướng về Ai-cập. Họ bảo A-rôn: Ông hãy chế tạo các thần để hướng dẫn chúng tôi, vì ông Môi-se này là người từng lãnh đạo chúng tôi ra khỏi đất Ai-cập đã gặp phải chuyện gì chúng tôi không rõ! Đó là lúc họ chế tạo thần tượng bò con, dâng tế lễ cho thần và làm lễ ăn mừng tượng họ đã làm ra. Nhưng Đức Chúa Trời xoay lưng, bỏ mặc họ thờ phượng các tinh tú trên trời, như đã chép trong Kinh Tiên Tri:‘Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên! Các ngươi có dâng các thú vật và sinh tế cho TaSuốt bốn mươi năm trong đồng hoang không? Không có! Nhưng các ngươi đã khiêng kiệu thờ thần Mô-lócVà ngôi sao thần Rom-pha của các ngươi,Là những thần tượng các ngươi chế tạo để thờ phượng.Vì thế, Ta sẽ lưu đày các ngươi qua bên kia xứ Ba-by-lôn!’ Các tổ phụ chúng ta giữ lều chứng cớ với họ trong đồng hoang, dựng lên theo lệnh đã truyền cho Môi-se, đúng theo kiểu mẫu mà ông đã xem thấy. Sau khi nhận được lều chứng cớ, các tổ phụ chúng ta cùng Giô-suê đem lều ấy theo trong cuộc chiếm cứ các xứ mà dân cư đã bị Đức Chúa Trời tống đuổi trước mặt họ. Lều còn trong đất nước cho đến thời Đa-vít, là người được ân sủng trước mặt Đức Chúa Trời. Ông xin phép xây cất một Đền Thờ cho Đức Chúa Trời của Gia-cốp. Nhưng Sa-lô-môn mới là người xây Đền Thờ cho Ngài. Tuy nhiên, Đấng Chí Cao không ngự trong đền đài do loài người xây dựng, như một tiên tri của Chúa đã nói: ‘Bầu trời là ngai Ta,Và đất là bệ chân Ta.Các ngươi sẽ cất cho Ta loại nhà nào?Chúa phán hỏi như thế.Nơi nào là chỗ Ta nghỉ ngơi? Không phải bàn tay Ta sáng tạo mọi vật này sao?’ Này, những người cứng cổ, những người có lòng và tai chưa chịu cắt bì, luôn luôn chống cự Thánh Linh, giống hệt như tổ phụ mình. Có tiên tri nào của Chúa mà tổ phụ các ông không bức hại? Họ đã sát hại những người báo trước sự xuất hiện của Đấng Công Chính mà nay các ông lại phản bội và giết Ngài đi. Các ông đã tiếp nhận Kinh Luật do các thiên sứ ban hành nhưng lại không vâng giữ!” Nghe đến đây, họ giận dữ, nghiến răng nhìn Sê-tiên. Nhưng Sê-tiên đầy dẫy Thánh Linh, ngước nhìn lên trời, thấy vinh quang của Đức Chúa Trời và Đức Giê-su đang đứng bên phải Đức Chúa Trời. Ông nói: “Kìa, tôi thấy bầu trời mở ra và Con Người đang đứng bên phải Đức Chúa Trời!” Họ liền bịt tai, hét lên, chạy lại bắt Sê-tiên, kéo ra ngoài thành phố và ném đá ông. Các nhân chứng cởi áo đặt dưới chân một thanh niên tên Sau-lơ. Đang khi bị họ ném đá, Sê-tiên cầu nguyện: “Lạy Chúa Giê-su, xin tiếp nhận linh hồn con!” Rồi ông quỳ xuống, kêu xin rất lớn tiếng: “Lạy Chúa, xin đừng quy tội này cho họ!” Cầu nguyện như thế xong thì ông ngủ. Sau-lơ tán thành việc giết Sê-tiên. Trong lúc ấy, Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem bắt đầu bị bắt bớ dữ dội. Ngoại trừ các sứ đồ, tất cả các tín hữu đều phải chạy tan lạc trong khắp miền Giu-đê và Sa-ma-ri. Nhưng có những người tin kính, an táng Sê-tiên và khóc thương ông rất nhiều. Nhưng Sau-lơ phá hoại Hội Thánh, đi lùng từ nhà này qua nhà khác, bắt các tín hữu cả nam lẫn nữ và tống giam vào ngục. Vậy những người di tản đi đến đâu cũng truyền giảng Phúc Âm. Phi-líp xuống một thành phố miền Sa-ma-ri, truyền giảng Chúa Cứu Thế cho dân chúng. Đoàn dân đông rất chú ý đến lời Phi-líp giảng vì mọi người đều nghe ông giảng và thấy các dấu lạ ông làm. Nhiều tà linh hét lên mà xuất khỏi những người bị ám. Nhiều người bại liệt và què quặt được chữa lành, nên thành phố tràn ngập niềm vui. Một người tên Si-môn trước kia hành nghề phù thủy trong thành phố, đã làm cho cả dân Sa-ma-ri đều kinh ngạc. Ông tự xưng là bậc đại tài. Mọi người trong thành từ nhỏ đến lớn đều trọng vọng và ca tụng: “Ông này có quyền năng của Thần gọi là Đại Năng.” Họ nghe theo ông vì lâu nay ông đã trổ tài ma thuật làm cho họ phải kinh ngạc. Nhưng khi nghe Phi-líp truyền giảng Phúc Âm về Nước Đức Chúa Trời và danh Chúa Cứu Thế Giê-su thì họ đều tin nhận và chịu phép báp-tem, cả nam lẫn nữ. Chính Si-môn cũng tin và sau khi chịu phép báp-tem, cứ theo sát bên Phi-líp. Khi Si-môn thấy các dấu lạ và việc quyền năng vĩ đại Phi-líp làm thì ngạc nhiên vô cùng. Nghe tin dân chúng Sa-ma-ri đã tiếp nhận Đạo Chúa, các sứ đồ ở Giê-ru-sa-lem liền sai Phê-rơ và Giăng xuống thăm. Đến nơi, hai ông cầu nguyện cho các tín hữu nhận lãnh Thánh Linh, vì Thánh Linh chưa giáng xuống trên người nào cả; họ chỉ mới chịu phép báp-tem nhân danh Chúa Giê-su mà thôi. Rồi hai ông đặt tay trên các tín hữu thì họ đều nhận lãnh Thánh Linh. Si-môn nhận thấy hễ các sứ đồ đặt tay trên ai thì Thánh Linh được ban cho người ấy, liền dâng tiền bạc cho họ và yêu cầu: “Xin quý ông cho tôi quyền uy này để tôi đặt tay trên ai thì người đó cũng nhận được Thánh Linh!” Phê-rơ đáp: “Bạc của anh cũng hãy hư vong với anh! Vì anh tưởng có thể lấy tiền bạc mà mua ân tứ của Đức Chúa Trời! Anh chẳng được dự phần hoặc hưởng điều gì trong chức vụ này, vì lòng anh không ngay thẳng trước Đức Chúa Trời. Anh hãy ăn năn về điều ác này và cầu nguyện với Chúa có lẽ Ngài sẽ tha thứ cho anh về tư tưởng ấy trong lòng. Vì tôi thấy anh đầy dẫy mật đắng và đang làm nô lệ cho tội lỗi.” Si-môn thưa: “Xin các ông cầu nguyện Chúa giúp tôi, để tôi khỏi bị các điều ông nói đó!” Sau khi làm chứng và công bố Đạo Chúa, Phê-rơ và Giăng trở về Giê-ru-sa-lem, vừa đi vừa truyền giảng Phúc Âm trong nhiều làng Sa-ma-ri. Một thiên sứ của Chúa bảo Phi-líp: “Ông hãy xuống miền nam, đến con đường hoang vắng chạy từ Giê-ru-sa-lem xuống Ga-xa.” Phi-líp đứng dậy lên đường. Kìa, có một người Ê-thi-ô-bi là thái giám của Can-đác, nữ vương Ê-thi-ô-bi, làm tổng giám đốc ngân khố. Ông đã lên Giê-ru-sa-lem thờ phượng và trên đường về nước, đang ngồi trên xe ngựa mà đọc sách tiên tri I-sa. Thánh Linh bảo Phi-líp: “Con hãy lại gần và theo sát xe ấy!” Phi-líp chạy đến, nghe ông ta đọc sách tiên tri I-sa, liền hỏi: “Ông có hiểu những điều ông đang đọc đó không?” Thái giám đáp: “Nếu không ai hướng dẫn làm sao tôi hiểu được?” Thái giám mời Phi-líp lên xe ngồi với mình. Đoạn Kinh Thánh thái giám đang đọc là:Người bị dắt đi như chiên đến lò thịt,Như chiên câm trước mặt kẻ hớt lông;Thế mà Người chẳng mở miệng. Trong khi bị sỉ nhục, quyền lợi của Người bị tước đoạt.Ai sẽ nói đến dòng dõi Người?Vì mạng sống Người bị cất đi khỏi mặt đất. Thái giám hỏi Phi-líp: “Tôi xin hỏi ông: Tiên tri của Chúa nói về ai đây? Về chính ông ta hay về ai khác?” Phi-líp bắt đầu từ đoạn Kinh Thánh ấy mà truyền giảng về Đức Giê-su cho thái giám. Đang đi giữa đường, đến chỗ có nước, thái giám hỏi Phi-líp: “Sẵn có nước đây! Có điều gì ngăn trở tôi chịu phép báp-tem không?” (Phi-líp nói: “Nếu ông hết lòng tin ông có thể chịu phép báp-tem.” Thái giám đáp: “Tôi tin Chúa Cứu Thế Giê-su là Con Đức Chúa Trời.”) Thái giám ra lệnh dừng xe lại. Phi-líp và thái giám cùng xuống dưới nước; Phi-líp làm phép báp-tem cho thái giám. Khi lên khỏi nước, Thánh Linh đem Phi-líp đi mất, thái giám không còn thấy người nữa, nhưng cứ hân hoan tiếp tục cuộc hành trình. Thấy mình đang ở A-xốt, Phi-líp đi qua và truyền giảng Phúc Âm trong tất cả các thành trên con đường đến tận Sê-sa-rê. Trong thời gian ấy, Sau-lơ cứ đe dọa tàn sát các môn đệ của Chúa; ông đến với vị trưởng tế, xin các ủy nhiệm thư gửi cho các hội đường Đa-mách để khi qua đó tìm được người nào theo Đạo Chúa cả nam lẫn nữ, thì trói lại giải về Giê-ru-sa-lem. Nhưng đang đi đường đến gần Đa-mách, bỗng có ánh sáng từ trời chiếu lòa chung quanh Sau-lơ. Ông té xuống đất, và nghe có tiếng gọi mình: “Sau-lơ! Sau-lơ! Sao ngươi bắt bớ Ta?” Ông thưa: “Lạy Chúa, Ngài là ai?”“Ta chính là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ! Nhưng ngươi hãy đứng dậy, vào trong thành phố, ngươi sẽ được chỉ bảo những điều phải làm.” Các bạn đồng hành của ông đều đứng yên lặng không nói được vì nghe tiếng mà không thấy ai cả. Sau-lơ đứng dậy, mở mắt ra, nhưng chẳng thấy gì hết. Người ta cầm tay ông dắt vào thành Đa-mách. Suốt ba ngày, ông bị mù, không ăn uống gì. Tại Đa-mách, có một môn đệ của Chúa tên là A-na-nia. Trong khải tượng, Chúa gọi: “A-na-nia!” Ông thưa: “Lạy Chúa, có con đây!” Chúa bảo: “Con hãy đứng dậy đến Phố Thẳng, tìm trong nhà Giu-đa một người tên Sau-lơ quê ở Tạc-sơ, vì người đang cầu nguyện và đã thấy trong khải tượng một người tên A-na-nia bước vào đặt tay trên mình để được sáng mắt lại.” A-na-nia thưa: “Lạy Chúa, con đã nghe nhiều người nói về người này, về bao nhiêu việc ác ông ta đã làm cho các thánh đồ tại Giê-ru-sa-lem. Bây giờ ở đây, ông ta đã được các thượng tế ủy quyền để bắt giam tất cả những người kêu cầu danh Chúa!” Nhưng Chúa bảo A-na-nia: “Con cứ đi, vì người này là một lợi khí Ta đã chọn để truyền bá danh Ta trước mặt các dân tộc ngoại quốc, các vua và con dân Y-sơ-ra-ên. Ta sẽ cho Sau-lơ biết phải chịu bao nhiêu đau khổ vì danh Ta.” A-na-nia ra đi, bước vào nhà ấy, đặt tay trên Sau-lơ mà bảo: “Anh Sau-lơ! Chúa đã sai tôi đến, chính Đức Giê-su đã hiện ra với anh trên con đường anh đi đến đây, để anh được sáng mắt lại và đầy dẫy Thánh Linh!” Lập tức, có vật gì như vảy cá rơi ra khỏi mắt Sau-lơ nên ông thấy được. Ông liền đứng dậy, chịu phép báp-tem. Sau khi ăn uống, sức khỏe ông được bình phục.Sau-lơ ở lại vài ngày với các môn đệ Chúa tại Đa-mách. Lập tức ông vào các hội đường Do Thái truyền giảng rằng Đức Giê-su chính là Con Đức Chúa Trời. Tất cả những người nghe đều sửng sốt bảo: “Không phải ông này đã giết hại những người cầu khẩn Danh đó tại Giê-ru-sa-lem và đến đây nhằm mục đích bắt trói bọn ấy giải về cho các thượng tế sao?” Nhưng Sau-lơ ngày càng đầy quyền năng bắt bẻ những người Do Thái tại Đa-mách, lập luận chứng minh rằng Đức Giê-su chính là Chúa Cứu Thế. Nhiều ngày trôi qua, người Do Thái bàn kế giết Sau-lơ, nhưng ông biết được âm mưu đó. Họ canh giữ rất nghiêm mật các cổng thành cả ngày lẫn đêm để bắt giết ông. Nhưng ban đêm, các môn đệ Chúa đem ông đặt vào cái thúng dòng dây thả xuống bên ngoài tường thành. Về đến Giê-ru-sa-lem, ông cố gắng gia nhập với các môn đệ Chúa nhưng tất cả đều gờm sợ, không tin rằng ông là môn đệ thật. Nhưng Ba-na-ba nhận ông, đưa đến gặp các sứ đồ và tường thuật cách ông được thấy Chúa trên đường, được Chúa phán dạy và cách ông mạnh dạn truyền giảng tại Đa-mách nhân danh Đức Giê-su. Vậy, Sau-lơ ở lại với họ, tự do ra vào thành Giê-ru-sa-lem, mạnh dạn truyền giảng trong danh Chúa. Ông cũng nói chuyện và tranh luận với những người Do Thái nói tiếng Hy Lạp nhưng họ tìm cách ám sát ông. Được tin ấy, các anh em tín hữu đưa ông xuống Sê-sa-rê rồi phái đi Tạc-sơ. Vì thế, Hội Thánh khắp vùng Giu-đê, Ga-li-lê và Sa-ma-ri được bình an một thời gian. Hội Thánh được xây dựng, sống trong sự kính sợ Chúa, và nhờ Đức Thánh Linh nâng đỡ, số tín hữu ngày càng gia tăng. Phê-rơ đi khắp nơi, một lần kia ông đến thăm các thánh đồ tại Ly-đa. Tại đây, ông gặp một người bại tên Ê-nê đau liệt giường đã tám năm. Phê-rơ bảo: “Anh Ê-nê! Chúa Cứu Thế Giê-su chữa lành cho anh! Anh hãy đứng dậy, dọn giường đi!” Lập tức, Ê-nê đứng dậy. Tất cả dân chúng ở Ly-đa và Sa-rôn thấy Ê-nê lành bệnh đều quay về với Chúa. Tại Giốp-bê, có một môn đồ tên là Ta-bi-tha, nghĩa là Hoàng Dương, thường làm việc thiện và cứu giúp người nghèo khổ. Lúc ấy, bà mắc bệnh và qua đời. Người ta tắm rửa xác bà và đặt nằm trong một phòng trên lầu. Vì Ly-đa ở gần Giốp-bê nên khi các môn đệ Chúa nghe tin Phê-rơ đang ở Ly-đa liền sai hai người qua đó nài xin: “Mời ông đến ngay!” Phê-rơ đứng dậy lên đường với hai người. Đến nơi, ông được đưa lên lầu. Tất cả các quả phụ đứng quanh ông vừa khóc vừa chỉ các bộ áo và y phục mà bà Hoàng Dương đã may cho khi bà còn sống với họ. Phê-rơ mời tất cả ra khỏi phòng rồi quỳ gối cầu nguyện. Quay lại xác chết ông bảo: “Bà Ta-bi-tha, hãy dậy!” Bà mở mắt, thấy Phê-rơ, liền ngồi dậy. Phê-rơ đưa tay nâng bà đứng dậy rồi gọi các thánh đồ và các quả phụ đến cho họ thấy bà đang sống. Tin này loan báo khắp cả khu vực Giốp-bê nên nhiều người tin nhận Chúa. Phê-rơ ở lại Giốp-bê lâu ngày trọ tại nhà Si-môn, một người thợ thuộc da. Tại Sê-sa-rê có một người tên Cọt-nây, là đội trưởng, thuộc trung đoàn Y-ta-lia. Ông và cả gia đình là người sùng kính Đức Chúa Trời, thường cứu giúp những người nghèo khổ và thường xuyên cầu nguyện Đức Chúa Trời. Một hôm vào khoảng ba giờ chiều, ông thấy rõ ràng khải tượng một thiên sứ của Đức Chúa Trời bước vào nhà gọi ông: “Cọt-nây!” Ông nhìn chăm chăm thiên sứ, run sợ đáp: “Thưa Chúa, có việc chi?” Thiên sứ bảo: “Các lời cầu nguyện và việc cứu tế của ông đã thấu đến và được ghi nhận trước mặt Đức Chúa Trời. Bây giờ, ông hãy sai người đến Giốp-bê, mời Si-môn gọi là Phê-rơ. Ông ta đang ở trọ với Si-môn, thợ thuộc da, nhà ở gần biển.” Khi thiên sứ nói chuyện cùng ông đã đi rồi, ông gọi hai gia nhân và một quân nhân sùng kính Đức Chúa Trời đang phục vụ mình và thuật cho họ nghe mọi chi tiết rồi sai họ đi Giốp-bê. Hôm sau, khi họ gần đến Giốp-bê, khoảng giữa trưa Phê-rơ lên mái nhà cầu nguyện. Ông đói và thèm ăn. Khi người ta đang dọn ăn thì ông xuất thần, thấy bầu trời mở ra và có vật gì như tấm khăn lớn buộc bốn góc hạ xuống đất, chứa đủ các loài vật bốn chân, loài bò sát dưới đất và loài chim trời. Rồi một tiếng nói bảo ông: “Phê-rơ, hãy đứng dậy làm thịt mà ăn!” Nhưng Phê-rơ thưa: “Lạy Chúa! Không được đâu! Con chẳng bao giờ ăn vật gì ô uế hoặc không tinh sạch.” Tiếng ấy lại bảo: “Đừng coi những vật Đức Chúa Trời đã thanh tẩy là ô uế!” Việc đó lập lại ba lần, rồi lập tức tấm khăn được thu lên trời. Phê-rơ đang phân vân tìm hiểu ý nghĩa khải tượng này. Ngay lúc ấy, những người Cọt-nây sai đi đã tìm ra nhà của Si-môn, vừa đến đứng ngay trước cửa. Họ lớn tiếng hỏi: “Si-môn gọi là Phê-rơ có trọ tại đây không?” Phê-rơ còn đang suy nghiệm về khải tượng ấy, thì Thánh Linh bảo: “Kìa có ba người đang tìm con. Con hãy đứng dậy xuống dưới nhà và đi với họ, đừng do dự, vì Ta đã sai họ đến!” Phê-rơ xuống và bảo họ: “Tôi là người các ông đang tìm, vì lý do nào các ông đến đây?” Họ đáp: “Đội trưởng Cọt-nây sai chúng tôi đến đây. Ông ta là người công chính và sùng kính Đức Chúa Trời, được toàn dân Do Thái kính nể. Một thiên sứ thánh đã bảo ông ta mời ông về nhà để nghe những điều ông dạy.” Phê-rơ mời họ vào nhà nghỉ. Hôm sau, Phê-rơ cùng họ lên đường, có vài anh em tín hữu ở Giốp-bê tháp tùng. Ngày hôm sau, họ đến Sê-sa-rê. Cọt-nây đang chờ đợi và đã mời bà con, thân hữu tề tựu đông đủ. Phê-rơ vừa bước vào, Cọt-nây ra đón, quỳ dưới chân ông mà lạy. Nhưng Phê-rơ đỡ Cọt-nây dậy, bảo rằng: “Xin ông đứng lên cho! Tôi cũng là người thường thôi!” Vừa nói chuyện với Cọt-nây, vừa tiến vào trong nhà, Phê-rơ thấy một đám đông đang tụ họp. Ông nói: “Quý vị thừa biết theo phong tục người Do Thái, kết thân với người khác chủng tộc hoặc đến thăm họ là điều cấm kỵ. Nhưng Đức Chúa Trời đã tỏ cho tôi biết tôi không được gọi ai là phàm tục hoặc ô uế cả. Do đó, khi được mời là tôi đến ngay, không phản đối gì. Vậy xin quý vị cho biết vì lý do nào quý vị mời tôi đến đây?” Cọt-nây đáp: “Bốn ngày trước đây, vào khoảng giờ này, tức ba giờ chiều, tôi đang ở nhà cầu nguyện. Bỗng một người mặc áo sáng rực đến đứng ngay trước mặt tôi mà bảo: ‘Ông Cọt-nây, Đức Chúa Trời đã nghe lời cầu nguyện ông và ghi nhớ việc ông cứu tế người nghèo khổ, Hãy sai người đến Giốp-bê tìm Si-môn gọi là Phê-rơ. Ông ấy đang trọ ở nhà Si-môn, thợ thuộc da, nhà ở gần biển.’ Vậy nên tôi lập tức sai người đi mời ông và ông có lòng tốt đến đây. Giờ đây, tất cả chúng tôi hiện diện trước mặt Đức Chúa Trời để nghe mọi điều Chúa đã truyền dạy ông.” Phê-rơ bắt đầu nói: “Bây giờ, tôi ý thức rằng Đức Chúa Trời thật chẳng thiên vị ai, nhưng trong tất cả các dân tộc, hễ ai kính sợ Ngài và làm điều công chính đều được Ngài hài lòng. Đây là sứ điệp Đức Chúa Trời gửi cho người Y-sơ-ra-ên, nói về Phúc Âm bình an qua Chúa Cứu Thế Giê-su, là Chủ Tể của mọi người. Quý vị đã rõ các diễn biến tại toàn xứ Giu-đê, bắt đầu từ xứ Ga-li-lê sau phép báp-tem mà Giăng truyền giảng. Thế nào Đức Chúa Trời đã xức dầu Đức Giê-su ở Na-xa-rét bằng Thánh Linh và quyền năng, Ngài đi khắp nơi làm việc phúc đức và chữa lành tất cả những người bị quyền lực quỷ vương áp bức, vì Đức Chúa Trời ở với Ngài. Chúng tôi là nhân chứng đã thấy tận mắt tất cả những việc Ngài làm trong đất nước người Do Thái và tại Giê-ru-sa-lem. Họ đã giết Ngài bằng cách treo Ngài trên cây gỗ. Nhưng ba ngày sau, Đức Chúa Trời đã làm cho Ngài sống lại và cho người ta thấy Ngài. Không phải cho toàn thể dân chúng, nhưng chỉ những nhân chứng mà Đức Chúa Trời đã lựa chọn, tức chúng tôi là những người đã từng ăn uống với Chúa sau khi Ngài chết rồi sống lại. Chúa ra lệnh cho chúng tôi truyền giảng cho dân chúng và xác chứng rằng Ngài là Đấng được Đức Chúa Trời lập làm Thẩm Phán xét xử mọi người, kẻ sống và kẻ chết. Tất cả các tiên tri của Chúa đều làm chứng về Ngài rằng ai tin cậy Ngài đều được tha tội nhờ danh Ngài.” Phê-rơ còn đang nói, Thánh Linh đã giáng xuống trên tất cả những người nghe sứ điệp ấy. Các tín hữu Do Thái tháp tùng Phê-rơ đều kinh ngạc vì ân tứ Thánh Linh cũng đổ xuống trên người ngoại quốc nữa, vì họ cũng nghe những người ấy nói các tiếng lạ và ca tụng Đức Chúa Trời. Lúc ấy, Phê-rơ tuyên bố: “Những người này đã tiếp nhận Thánh Linh cũng như chúng ta. Thế thì còn ai dám ngăn họ chịu phép báp-tem bằng nước nữa?” Vậy, ông bảo làm phép báp-tem cho họ nhân danh Chúa Cứu Thế Giê-su. Họ mời ông lưu lại vài ngày nữa. Các sứ đồ và anh em tín hữu khắp xứ Giu-đê nghe tin người ngoại quốc cũng đã tiếp nhận Đạo Đức Chúa Trời. Khi Phê-rơ lên Giê-ru-sa-lem, các tín hữu đã chịu cắt bì chỉ trích ông rằng: “Ông vào thăm nhà những kẻ không chịu cắt bì và ăn với họ!” Phê-rơ tường thuật thứ tự mọi việc diễn biến cho họ nghe: “Hôm ấy, tôi ở thành phố Giốp-bê, đang cầu nguyện thì trong một cơn xuất thần, tôi được thấy khải tượng. Có vật gì giống như tấm khăn lớn, buộc bốn góc, từ trời hạ xuống tận nơi tôi. Nhìn vào, tôi nhận thấy đủ các loài vật bốn chân, loài dã thú, loài bò sát và loài chim trời. Tôi nghe một tiếng nói bảo tôi: ‘Phê-rơ, con hãy đứng dậy, làm thịt mà ăn!’ Tôi thưa: ‘Lạy Chúa, không được đâu! Vì con chẳng bao giờ ăn món gì ô uế hoặc không tinh sạch!’ Tiếng từ trời lại bảo tôi lần thứ nhì: ‘Đừng coi những vật Đức Chúa Trời đã thanh tẩy là ô uế!’ Việc đó lập lại ba lần, rồi tất cả được thu lên trời. Ngay lúc ấy có ba người mà người ta phái từ Sê-sa-rê đến mời tôi, đến đứng trước cửa nhà. Đức Thánh Linh bảo tôi đi với họ, đừng nghi ngại gì. Có sáu anh em này cùng đi với tôi và chúng tôi vào nhà người ấy. Ông ta thuật cho chúng tôi rằng ông đã thấy một thiên sứ xuất hiện tại nhà mình mà bảo: ‘Hãy sai người đến Giốp-bê tìm Si-môn gọi là Phê-rơ. Người ấy sẽ bảo cho ông biết lời Chúa; nhờ đó ông và cả nhà ông sẽ được cứu.’ Tôi vừa bắt đầu nói thì Đức Thánh Linh đã giáng xuống trên họ cũng như trên chúng ta lúc ban đầu. Tôi nhớ lại lời Chúa dạy: ‘Giăng đã làm phép báp-tem bằng nước nhưng các con sẽ được báp-tem bằng Đức Thánh Linh?’ Nếu Đức Chúa Trời đã ban cho họ ân tứ giống hệt như ân tứ Ngài đã ban cho chúng ta ngày trước, khi chúng ta tin nhận Chúa Cứu Thế Giê-su, thì tôi là ai mà dám ngăn trở Đức Chúa Trời?” Nghe vậy, họ thôi chỉ trích Phê-rơ và ca ngợi Đức Chúa Trời rằng: “Thế là Đức Chúa Trời cũng đã ban cho các dân tộc ngoại quốc lòng ăn năn để được sống!” Các tín hữu phải di tản trong cuộc bắt bớ do vụ Sê-tiên đi qua xứ Phê-ni-xi, đảo Síp và An-ti-ốt, nhưng chỉ truyền giáo cho người Do Thái mà thôi. Tuy nhiên, vài người trong số ấy, gốc ở Síp và Sy-ren đến An-ti-ốt và bắt đầu truyền giảng Phúc Âm về Chúa Giê-su cho người ngoại quốc. Quyền năng Chúa ở cùng họ nên một số đông người tin nhận và quay về với Chúa. Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem nghe tin, liền phái Ba-na-ba đến An-ti-ốt. Đến nơi được chứng kiến ân sủng của Đức Chúa Trời, ông vui mừng, khích lệ tất cả anh em quyết tâm kiên trì theo Chúa, vì Ba-na-ba là người tốt, đầy dẫy Thánh Linh và đức tin. Số người tin Chúa lại gia tăng rất nhiều. Ba-na-ba đi Tạc-sơ tìm Sau-lơ. Tìm được rồi, ông đưa Sau-lơ về An-ti-ốt. Suốt một năm, Ba-na-ba và Sau-lơ họp với Hội Thánh và giảng dạy cho nhiều người. Tại An-ti-ốt, lần đầu tiên, các tín hữu được gọi là Cơ-đốc nhân. Trong thời gian ấy, có vài nhà tiên tri từ Giê-ru-sa-lem đến An-ti-ốt. Một người tên A-ga-bút đứng dậy và cậy quyền năng Thánh Linh báo trước rằng sẽ có nạn đói lớn xảy ra khắp nơi có cư dân (Nạn đói này xảy ra dưới triều Cơ-lốt). Các môn đệ Chúa quyết định mỗi người sẽ tùy khả năng gửi quà cứu trợ các anh em tín hữu tại Giu-đê. Họ thực thi công cuộc cứu tế, nhờ Ba-na-ba và Sau-lơ chuyển giao tặng phẩm cho các trưởng lão. Vào lúc ấy, vua Hê-rốt khủng bố một số người trong Hội Thánh. Vua sai xử trảm Gia-cơ, anh của Giăng. Thấy việc đó được dân Do Thái hoan nghênh, vua lại cho tìm bắt Phê-rơ vào mùa lễ Bánh Không Men. Bắt được Phê-rơ, vua đem tống giam vào ngục, giao cho bốn tiểu đội canh gác, định sau lễ Vượt qua sẽ đưa ra xét xử trước dân chúng. Vì thế, Phê-rơ bị giam trong ngục, nhưng Hội Thánh cứ khẩn thiết cầu nguyện Đức Chúa Trời cho ông. Hôm trước ngày vua Hê-rốt đưa Phê-rơ ra tòa, giữa đêm, Phê-rơ đang mang hai xiềng, ngủ giữa hai binh sĩ, còn trước cổng có các lính canh gác. Bỗng, một thiên sứ của Chúa hiện ra, ánh sáng chiếu vào ngục tối. Thiên sứ đập vào sườn Phê-rơ, đánh thức ông và bảo: “Đứng dậy nhanh lên!” Lập tức hai xiềng rớt ra khỏi tay Phê-rơ. Thiên sứ lại bảo: “Cài nịt, mang dép vào!” Phê-rơ làm theo. Thiên sứ tiếp: “Hãy choàng áo ngoài vào rồi theo tôi!” Phê-rơ theo thiên sứ ra khỏi ngục, nhưng ông không biết việc do thiên sứ làm là chuyện thật, lại tưởng mình đang thấy khải tượng. Qua khỏi trạm canh thứ nhất và thứ nhì, thiên sứ và Phê-rơ vừa đến trước cổng sắt dẫn vào thành, thì cổng tự mở ra cho họ đi qua. Đi vào một đường phố, thiên sứ lập tức rời Phê-rơ. Phê-rơ hồi tỉnh lại, tự bảo: “Bây giờ tôi mới biết chắc chắn. Chúa đã sai thiên sứ Ngài đến giải cứu tôi thoát khỏi Hê-rốt và mọi điều dân Do Thái mong muốn.” Ý thức rõ ràng như thế, ông đến nhà bà Ma-ri, mẹ của Giăng cũng gọi là Mác, nơi đây nhiều tín hữu đang nhóm họp cầu nguyện. Nghe tiếng ông gõ cửa, một chị giúp việc tên Rô-đa tiến lại gần cửa nghe ngóng. Nhận ra tiếng nói của Phê-rơ, chị mừng quá quên cả mở cửa, chạy vào báo tin Phê-rơ đang đứng trước cửa. Các tín hữu quở: “Mày điên à?” Nhưng chị quả quyết là đúng. Họ lại bảo: “Đấy là thiên sứ của Phê-rơ.” Nhưng Phê-rơ cứ tiếp tục gõ cửa. Mở cửa ra thấy ông, họ kinh ngạc vô cùng. Ông lấy tay làm hiệu bảo họ im lặng, và thuật lại cho họ nghe Chúa cứu mình ra khỏi ngục cách nào, rồi bảo: “Xin báo tin cho Gia-cơ và các anh em biết việc này!” Nói xong ông lánh qua một nơi khác. Đến sáng, có vụ rối loạn không nhỏ trong hàng ngũ binh sĩ vì điều đã xảy ra cho Phê-rơ. Vua Hê-rốt ra lệnh tầm nã gắt gao nhưng tìm không được Phê-rơ. Vua cho thẩm vấn lại các lính gác và ra lệnh xử tử hết. Sau đó, vua rời Giu-đê xuống ở tại Sê-sa-rê một thời gian. Trước kia, vua căm giận dân Ty-rơ và dân Si-đôn, nhưng họ đồng lòng đến chầu vua. Sau khi thuyết phục được Ba-la-tư, một cận thần của vua, họ xin cầu hòa vì dân nước họ phải nhờ nước vua cung cấp lương thực. Đến ngày đã ấn định, Hê-rốt mặc triều phục, ngồi trên tòa ban huấn thị cho dân. Dân chúng tung hô vua: “Đây là tiếng nói thần linh chứ không phải tiếng người!” Lập tức một thiên sứ của Chúa đánh Hê-rốt vì vua không quy vinh quang về Đức Chúa Trời và vua bị trùng cắn mà chết. Nhưng Đạo Chúa tiếp tục tăng trưởng và phát triển. Sau khi chu toàn nhiệm vụ, Ba-na-ba và Sau-lơ rời Giê-ru-sa-lem quay về An-ti-ốt đem theo Giăng, cũng gọi là Mác. Tại Hội Thánh An-ti-ốt có các tiên tri và giáo sư: Ba-na-ba, Si-môn biệt danh là Ni-giê, Lu-xi-út, người Ly-bi, Ma-na-ên, em nuôi của vua Hê-rốt và Sau-lơ. Họ đang thờ phượng Chúa và kiêng ăn, Đức Thánh Linh bảo: “Các con hãy dành riêng Ba-na-ba và Sau-lơ cho Ta để họ làm công tác Ta đã kêu gọi họ.” Sau khi kiêng ăn và cầu nguyện, họ đặt tay trên hai người và phái đi. Được Đức Thánh Linh sai đi, hai ông xuống Sê-lơ-xi, đáp tàu qua đảo Síp. Đến Sa-la-môn, họ công bố Đạo Đức Chúa Trời tại các hội đường Do Thái, có Giăng phụ tá. Đi qua suốt cả hải đảo đến Ba Phô, họ gặp một thầy phù thủy là tiên tri giả người Do Thái tên Ba-Giê-su, đang ở với tổng trấn Sê-giu Phao-lô, một người khôn ngoan. Tổng trấn cho mời Ba-na-ba và Sau-lơ để tìm hiểu Đạo Chúa. Nhưng tên phù thủy (cũng gọi là Ê-ly-ma) chống đối họ và cố gắng đánh lạc hướng để tổng trấn đừng tin Chúa. Nhưng Sau-lơ, cũng gọi là Phao-lô được đầy Thánh Linh, nhìn thẳng người phù thủy mà bảo: “Anh là người đầy gian dối, lừa gạt, là con của quỷ vương, kẻ thù địch của mọi sự công chính! Anh không chấm dứt việc xuyên tạc đường lối ngay thẳng của Chúa sao? Này, bây giờ tay Chúa đánh anh, nên anh sẽ bị mù, không thấy ánh sáng mặt trời một thời gian.” Lập tức mù lòa và bóng tối bao trùm Ê-ly-ma, anh ta phải đưa tay sờ soạng, nhờ người nắm tay dắt mình đi. Thấy thế, tổng trấn liền tin Chúa và vô cùng kinh ngạc về giáo huấn của Chúa. Từ Ba Phô, Phao-lô và các bạn đồng hành đáp thuyền đi Bẹt-ga, thuộc Bam-phi-li. Đến đây, Giăng bỏ họ quay về Giê-ru-sa-lem. Từ Bẹt-ga, họ đi đến tận An-ti-ốt, xứ Bi-si-đi. Nhằm ngày Sa-bát, họ vào ngồi trong hội đường của người Do Thái. Sau khi đọc Kinh Luật và Kinh Tiên Tri, các nhân viên quản trị hội đường cho mời họ và nói: “Thưa các anh em, nếu ai có lời khích lệ hội chúng thì xin cứ phát biểu!” Phao-lô đứng dậy, đưa tay ra hiệu và nói: “Thưa người Y-sơ-ra-ên và các người kính sợ Đức Chúa Trời, xin nghe tôi trình bày. Đức Chúa Trời của người Y-sơ-ra-ên đã chọn tổ phụ chúng ta và cho họ thịnh đạt trong thời gian ngụ tại đất Ai-cập. Ngài dùng tay quyền năng cao cả dìu dắt họ ra khỏi nước này. Ngài chịu đựng họ trong đồng hoang suốt bốn mươi năm. Ngài tiêu diệt bảy dân tộc trong đất Ca-na-an và cho họ thừa hưởng đất nước ấy. Thời kỳ này độ bốn trăm năm mươi năm. Sau đó, Ngài ban cho họ các thẩm phán cho đến đời tiên tri Sa-mu-ên. Lúc ấy họ đòi xin một vị vua. Đức Chúa Trời cho Sau-lơ, con trai của Kích, thuộc chi tộc Bên-gia-min, lên ngôi vua và trị vì bốn mươi năm. Rồi Ngài loại Sau-lơ và đặt Đa-vít lên ngôi, là người được Ngài chứng nhận:‘Ta đã tìm thấy Đa-vít, con Gie-sê, người mà Ta hài lòng,Người sẽ thực hiện tất cả ý định của Ta.’ Do dòng dõi của Đa-vít, Đức Chúa Trời ban cho Y-sơ-ra-ên Đấng Cứu Thế là Đức Giê-su theo lời hứa của Ngài. Trước khi Đức Giê-su xuất hiện, Giăng đã tuyên bố cho toàn dân Y-sơ-ra-ên phép báp-tem ăn năn tội. Khi gần hoàn thành nhiệm vụ, Giăng tuyên bố: ‘Các người nghĩ tôi là ai? Tôi không phải là Đấng đó, nhưng kìa, Ngài đến sau tôi, tôi không xứng đáng cởi dép cho Ngài.’ Thưa các anh em là dòng dõi Áp-ra-ham và những người kính sợ Đức Chúa Trời, Đạo cứu rỗi này đã được ban bố cho chúng ta. Vì dân cư Giê-ru-sa-lem và các nhà lãnh đạo của họ không nhận biết Đức Giê-su nhưng khi lên án Ngài, họ lại làm ứng nghiệm lời các tiên tri của Chúa vẫn được đọc mỗi ngày Sa-bát. Dù không tìm thấy lý do nào để kết án tử hình, họ vẫn yêu cầu Phi-lát xử tử Ngài. Khi họ đã làm trọn tất cả những lời đã chép về Ngài, họ hạ xác Ngài xuống khỏi thập tự giá và an táng trong một ngôi mộ. Nhưng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài sống lại từ kẻ chết, và những người đã theo Ngài từ miền Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem được thấy Ngài trong nhiều ngày. Hiện nay, họ đều làm chứng về Ngài trước dân chúng. Chúng tôi báo tin mừng cho quý vị: Điều Đức Chúa Trời đã hứa với tổ phụ chúng ta, Ngài đã thực hiện cho chúng ta là dòng dõi họ, bằng cách khiến Đức Giê-su sống lại như Thánh Thi thứ nhì đã chép:‘Ngươi là con Ta,Ngày nay Ta đã sinh ngươi.’ Sự kiện Đức Chúa Trời khiến Ngài sống lại từ kẻ chết, không bị rữa nát bao giờ, đã được phán:‘Ta sẽ cho các con phước hạnh thánh và chắc chắn mà Ta đã hứa với Đa-vít.’ Do đó, trong một chương khác, Kinh Thánh lại nói:‘Chúa sẽ không cho Đấng Thánh của Ngài bị rữa nát.’ Nhưng sau khi phục vụ Đức Chúa Trời theo ý Ngài trong thời đại mình, vua Đa-vít đã chết, được chôn cất bên cạnh tổ tiên, và phải bị rữa nát. Còn Đấng được Đức Chúa Trời làm cho sống lại thì không bao giờ bị rữa nát. Vậy, thưa anh em, xin nhận thức rằng chính nhờ Đức Giê-su mà ơn tha tội được công bố cho các anh em. Tất cả những ai tin Ngài đều được tuyên xưng công chính về mọi điều mà Kinh Luật Môi-se không thể nào tuyên xưng công chính được. Vậy hãy coi chừng để khỏi bị mắc phải điều các tiên tri Chúa đã cảnh cáo: ‘Hỡi những kẻ khinh miệt, xem đây!Hãy kinh ngạc và chết đi!Vì trong thời các ngươi, Ta sẽ làm một việc,Dù nghe ai nóiCác ngươi cũng không tin!’” Khi ra về, dân chúng yêu cầu hai ông ngày Sa-bát sau, cũng giảng luận thêm cho họ nghe các điều ấy nữa. Cuộc họp đã tan, nhiều người Do Thái và người ngoại quốc theo Do Thái giáo đi theo Phao-lô và Ba-na-ba. Hai ông chuyện trò với họ và khích lệ họ cứ tiếp tục sống theo ân sủng của Đức Chúa Trời. Ngày Sa-bát sau, hầu hết dân trong thành đều họp lại để nghe Đạo Chúa. Thấy đoàn dân đông đảo, những người Do Thái đầy lòng ganh tị, chống đối những điều Phao-lô giảng dạy và nhục mạ ông. Nhưng Phao-lô và Ba-na-ba mạnh dạn tuyên bố: “Cần phải truyền Đạo Đức Chúa Trời cho các người trước nhất, vì các người chối bỏ Đạo Chúa và tự xét mình không xứng đáng được sự sống vĩnh phúc nên bây giờ chúng tôi quay sang các dân tộc ngoại quốc. Vì Chúa đã truyền bảo tôi:‘Ta đã lập con lên làm ánh sáng cho các dân tộc,Để con đem sự cứu rỗi đến tận cùng quả đất.’” Nghe lời này, người ngoại quốc hân hoan và tôn vinh Đạo Chúa; những người đã được định để hưởng sự sống vĩnh phúc đều tin nhận Chúa. Đạo Chúa được truyền bá khắp cả miền ấy. Nhưng người Do Thái sách động một số phụ nữ quý phái theo Do Thái giáo và các cấp lãnh đạo của thành phố, xúi giục họ bắt bớ Phao-lô và Ba-na-ba, và trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ. Để phản ứng lại, hai ông phủi bụi dính chân mình và qua thành Y-cô-ni. Còn các môn đệ Chúa được đầy dẫy Thánh Linh và vui mừng. Tại Y-cô-ni cũng thế, Phao-lô và Ba-na-ba vào hội đường Do Thái giảng luận đến nỗi một số rất đông người Do Thái và người Hy Lạp tin nhận Chúa. Nhưng những người Do Thái không tin theo lại sách động người ngoại quốc, đầu độc tâm trí họ để chống lại các anh em tín hữu. Dù vậy, hai sứ đồ lưu lại đây một thời gian dài, tiếp tục giảng về Chúa cách dũng cảm. Chúa cho các sứ đồ thực hiện các dấu lạ và phép mầu để xác chứng cho Đạo ân sủng của Ngài. Nhưng dân trong thành chia làm hai phe, một phe theo người Do Thái, phe kia theo các sứ đồ. Cả người ngoại quốc lẫn người Do Thái âm mưu với cấp lãnh đạo của họ để ngược đãi và ném đá các sứ đồ. Được tin này hai ông liền lánh qua các thành Lít-tra và Đẹt-bơ thuộc Ly-cao-ni và miền phụ cận. Ở đó họ tiếp tục truyền giảng Phúc Âm. Tại Lít-tra, có một người liệt chân, từ lúc sơ sinh không bao giờ đi được. Anh ngồi nghe Phao-lô giảng dạy. Phao-lô nhìn chăm mặt anh, thấy anh có đức tin có thể chữa lành được, liền lớn tiếng bảo: “Anh hãy đứng thẳng lên trên chân mình!” Anh nhảy lên và bước đi. Đám đông dân chúng thấy việc Phao-lô làm liền reo lên bằng tiếng Ly-cao-ni: “Các thần linh đã hiện thân làm người, xuống thăm chúng ta!” Họ gọi Ba-na-ba là Mộc Tinh và Phao-lô là Thủy Tinh vì ông hướng dẫn cuộc giảng luận. Vị tế lễ của thần Mộc Tinh, có đền thờ ở ngay bên ngoài thành, đem nhiều bò đực và tràng hoa đến cổng thành, định cùng với dân chúng dâng tế lễ cho các sứ đồ. Nghe tin, hai sứ đồ Ba-na-ba và Phao-lô liền xé áo mình, xông vào giữa đám đông, lớn tiếng kêu gọi: “Thưa quý vị, tại sao lại làm như vậy? Chúng tôi cũng là người như quý vị mà thôi, chỉ truyền giảng Phúc Âm để quý vị lìa bỏ những việc hư không này mà quay về với Đức Chúa Trời Hằng Sống, là Đấng đã dựng nên trời, đất, biển và vạn vật trong đó. Trong các đời trước, Ngài đã để cho tất cả các dân tộc đi theo đường lối của mình. Tuy nhiên, không phải Chúa không để lại các bằng chứng cho Ngài đâu: Ngài tỏ lòng nhân ái cho mưa đổ xuống từ trời, cho mùa màng hoa quả, thực phẩm dồi dào và cho lòng chúng ta đầy dẫy vui mừng.” Nói đến thế mà các sứ đồ cũng phải chật vật lắm mới can ngăn được dân chúng dâng tế lễ cho mình. Bấy giờ có mấy người Do Thái từ An-ti-ốt và Y-cô-ni đến, sách động dân chúng ném đá Phao-lô, tưởng ông đã chết, nên kéo xác bỏ ra bên ngoài thành. Nhưng trong khi các môn đệ Chúa xúm quanh, Phao-lô vùng dậy, đi vào thành. Hôm sau, ông cùng đi với Ba-na-ba qua Đẹt-bơ. Họ truyền bá Phúc Âm trong thành ấy, khiến nhiều người tin Chúa. Rồi quay lại Lít-tra, Y-cô-ni và An-ti-ốt, các sứ đồ củng cố tinh thần các môn đệ, khích lệ họ bền lòng tin Chúa mà rằng: Chúng ta phải trải qua nhiều hoạn nạn mới vào được Nước Đức Chúa Trời. Sau khi cử các trưởng lão trong mỗi Hội Thánh, cầu nguyện và kiêng ăn, hai sứ đồ giao thác các tín hữu cho Chúa, là Đấng họ đã tin. Vượt qua Bi-si-đi, đến xứ Bam-phi-li, họ giảng Đạo Chúa ở Bẹt-ga, rồi xuống hải cảng A-ta-li đáp tàu đi An-ti-ốt. Đây chính là nơi họ từng được ủy nhiệm cho ân sủng của Đức Chúa Trời để thực hiện các công tác vừa mới làm xong. Về đến nơi, họ triệu tập Hội Thánh, báo cáo mọi việc Đức Chúa Trời đã cùng làm với mình và xác nhận rằng Ngài đã mở cửa đức tin cho các dân tộc ngoại quốc. Họ cứ ở lại đây với các môn đệ Chúa một thời gian khá lâu. Có mấy người từ Giu-đê xuống An-ti-ốt dạy bảo anh em rằng: “Nếu không chịu cắt bì theo đúng luật Môi-se, thì các anh không được cứu đâu!” Việc này gây nên sự bất đồng ý kiến và tranh luận giữa Phao-lô và Ba-na-ba với các người đó. Vậy Phao-lô và Ba-na-ba cùng mấy tín hữu khác được cử lên gặp các sứ đồ và trưởng lão tại Giê-ru-sa-lem nhằm giải quyết vấn đề này. Hội Thánh đưa hai ông lên đường. Khi đi qua xứ Phê-ni-xi và Sa-ma-ri, họ tường thuật việc các dân tộc ngoại quốc trở về với Đức Chúa Trời, làm cho tất cả các anh em tín hữu đều hết sức vui mừng. Đến Giê-ru-sa-lem, được Hội Thánh, các sứ đồ và trưởng lão hoan nghênh, họ báo cáo mọi việc Đức Chúa Trời đã cùng làm với họ. Nhưng có mấy người thuộc nhóm Pha-ri-si đã tin Đạo, đứng lên đòi hỏi: “Phải làm lễ cắt bì cho các tín hữu ấy và buộc họ phải tuân giữ Kinh Luật Môi-se!” Các sứ đồ và trưởng lão nhóm họp để xét vấn đề này. Sau khi thảo luận kỹ lưỡng, Phê-rơ đứng dậy, tuyên bố: “Thưa các anh em! Anh em biết rõ từ trước, Đức Chúa Trời đã chọn tôi giữa các anh em, để dùng miệng tôi nói cho các dân tộc ngoại quốc nghe Phúc Âm, để họ tin nhận Chúa. Đức Chúa Trời là Đấng thấu hiểu lòng dạ loài người đã xác nhận Ngài tiếp nhận họ bằng cách ban Đức Thánh Linh cho họ, cũng như cho chúng ta ngày trước; Ngài không phân biệt chúng ta với họ, nên đã tẩy sạch lòng họ vì họ tin nhận Ngài. Thế thì tại sao anh em thử Đức Chúa Trời mà đặt trên cổ các môn đệ một cái ách mà tổ phụ chúng ta lẫn chúng ta cũng chẳng từng mang nổi? Nhưng chúng ta tin rằng bởi ân sủng của Chúa Giê-su, chúng ta được cứu cùng một cách như họ vậy.” Cả hội nghị đều im lặng nghe Ba-na-ba và Phao-lô thuật lại những dấu lạ và phép mầu mà Đức Chúa Trời đã dùng họ thực hiện giữa các dân tộc ngoại quốc. Khi họ dứt lời, Gia-cơ phát biểu: “Thưa các anh em, xin nghe tôi nói: Si-môn đã công bố việc Đức Chúa Trời thăm viếng các dân tộc ngoại quốc buổi đầu như thế nào để tuyển chọn một dân cho Danh Ngài. Điều này phù hợp với lời các tiên tri của Chúa: ‘Sau các việc này,Ta sẽ trở lại và tái thiết nhà trại của Đa-vít đã hư sập;Ta sẽ xây dựng lạiVà trùng tu những nơi đổ nát Ngõ hầu những người còn lại trong nhân loại có thể tìm kiếm Chúa,Cùng tất cả các dân tộc ngoại quốc mang Danh Ta.Chúa là Đấng thực hiện việc này phán vậy. Suốt các thời đại, ai cũng biết điều đó.’ Vì thế, tôi xét rằng không nên quấy rối những người từ trong các dân tộc ngoại quốc đang quay về với Đức Chúa Trời. Nhưng cần viết thư dặn họ giữ mình khỏi hoen ố vì các thần tượng hoặc vì tội gian dâm, cũng đừng ăn thịt thú vật chết ngạt và huyết. Vì từ những đời trước, trong mỗi thành phố, Môi-se đã được truyền giảng, và trong các hội đường vào mỗi ngày Sa-bát, Kinh Luật Môi-se cũng được tuyên đọc.” Vậy, các sứ đồ và trưởng lão cùng toàn thể Hội Thánh quyết định chọn hai người giữa vòng họ để cử đi An-ti-ốt với Phao-lô và Ba-na-ba: Giu-đa biệt danh là Ba-sa-ba và Si-la, thuộc hàng lãnh đạo các anh em tín hữu. Họ viết bức thư đưa cho hai ông chuyển giao, như sau:Các anh em sứ đồ và trưởng lão,Kính gửi đến các anh em người ngoại quốc ở khắp An-ti-ốt, tại Sy-ri và Si-li-si lời chào thân ái. Vì chúng tôi nghe có mấy người giữa vòng chúng tôi đã nói những lời quấy rối và gây hoang mang cho anh em mặc dù chúng tôi không bao giờ ủy nhiệm họ, nên chúng tôi đồng lòng hiệp ý chọn vài đại biểu cùng với các thân hữu của chúng tôi là Ba-na-ba và Phao-lô và cử họ đến thăm anh em. Họ là những người từng liều thân vì Danh Chúa chúng ta là Chúa Cứu Thế Giê-su. Vì thế, chúng tôi sai Giu-đa và Si-la đích thân xác nhận bằng lời nói những điều chúng tôi viết trong thư. Vì Đức Thánh Linh và chúng tôi quyết định không chất thêm gánh nặng nào khác trên anh em, ngoại trừ các điều cần thiết này: Phải kiêng của cúng thần tượng, huyết cùng các thú vật chết ngạt và đừng gian dâm. Anh em giữ các điều ấy là tốt. Kính chào anh em! Các đại biểu được tiễn đưa, lên đường xuống An-ti-ốt, triệu tập Hội Thánh và trao bức thư. Các tín hữu đọc thư xong đều vui mừng vì lời khích lệ ấy. Giu-đa và Si-la cũng là các tiên tri của Chúa lại dùng nhiều lời giảng dạy, đem lại niềm khích lệ và giúp các anh em thêm vững mạnh. Sau khi lưu lại đây một thời gian, các đại biểu được anh em tiễn chân cách bình an lên đường trở về với các vị lãnh đạo đã sai phái họ. Nhưng Si-la quyết định ở lại đây. Phao-lô và Ba-na-ba cũng lưu lại An-ti-ốt, hiệp với nhiều người khác dạy dỗ và truyền giảng lời Chúa. Sau đó một thời gian, Phao-lô bảo Ba-na-ba: “Chúng ta hãy trở lại thăm viếng các anh em tín hữu trong mỗi thành chúng ta đã truyền rao lời Chúa, xem họ ra thế nào!” Ba-na-ba muốn đem theo Giăng, biệt danh là Mác. Nhưng Phao-lô cho rằng không nên đem Mác theo vì Mác đã rời bỏ họ tại Bam-phi-li và không cùng họ tiếp tục công việc. Hai ông bất đồng ý kiến đến nỗi chia rẽ nhau. Ba-na-ba đem Mác đáp tàu qua đảo Síp. Còn Phao-lô chọn Si-la rồi lên đường đi, sau khi được anh em ủy thác mình cho ân sủng Chúa. Ông đi qua khắp miền Sy-ri và Si-li-si, làm cho các Hội Thánh vững mạnh. Phao-lô đến Đẹt-bơ và Lít-tra. Tại đây, có một môn đệ tên Ti-mô-thê, con trai một nữ tín hữu Do Thái và một người Hy Lạp, được các anh em ở Lít-tra và Y-cô-ni làm chứng tốt. Phao-lô muốn đem Ti-mô-thê theo, nên ông làm lễ cắt bì cho thanh niên này vì người Do Thái trong vùng đó ai cũng biết cha Ti-mô-thê là người Hy Lạp. Đi từ thành này qua thành khác, họ truyền đạt cho anh em tín hữu quyết nghị của các sứ đồ và trưởng lão tại Giê-ru-sa-lem để mọi người tuân giữ. Nhờ đó, các Hội Thánh được củng cố đức tin và gia tăng nhân số hằng ngày. Phái đoàn đi suốt vùng Phi-ri-gi và Ga-la-ti, vì Thánh Linh ngăn họ truyền giảng Đạo Chúa tại Tiểu Á. Đến ngang My-si, họ cố gắng vào xứ Bi-thi-ni nhưng Thánh Linh của Đức Giê-su cũng không cho phép. Vậy họ vượt qua My-si, xuống thành Trô-ách. Ban đêm, Phao-lô thấy khải tượng một người Ma-xê-đoan đứng trước mặt nài nỉ: “Xin ông vào xứ Ma-xê-đoan cứu giúp chúng tôi!” Sau khi Phao-lô thấy khải tượng này, chúng tôi lập tức tìm cách đi vào xứ Ma-xê-đoan vì kết luận rằng Đức Chúa Trời đã kêu gọi chúng tôi truyền bá Phúc Âm tại đó. Đáp tàu tại Trô-ách, chúng tôi chạy thẳng qua Sa-mô-tra-xơ, hôm sau đến Nê-a-bô-li, từ đó qua Phi-líp ở địa đầu tỉnh Ma-xê-đoan, là một thành thuộc địa La Mã, chúng tôi ở lại thành này vài ngày. Ngày Sa-bát, chúng tôi ra ngoài cổng thành bên bờ sông vì nghĩ rằng đó là nơi nhóm cầu nguyện. Vừa ngồi xuống, chúng tôi nói chuyện với các phụ nữ đến họp. Một bà tên Ly-đi, buôn hàng lụa tía, gốc ở thành Thi-a-ti-rơ, là người có lòng thờ kính Đức Chúa Trời. Bà nghe và được Chúa mở lòng nên lưu ý những lời Phao-lô giảng dạy. Sau khi cùng với gia đình chịu phép báp-tem, bà tha thiết mời chúng tôi: “Nếu quý ông nhìn nhận rằng tôi trung tín với Chúa, thì xin mời quý ông về nhà tôi trú ngụ!” Rồi bà ép mời vào. Một hôm, đang đi đến nơi cầu nguyện, gặp một cô gái nô lệ bị quỷ bói khoa ám. Cô dùng thuật bói toán thu lợi nhiều cho chủ. Cô cứ theo Phao-lô và chúng tôi, la lớn tiếng: “Những người này là đầy tớ của Đức Chúa Trời Chí Cao! Họ rao truyền cho quý vị con đường cứu rỗi!” Cứ thế nhiều ngày liên tiếp, Phao-lô rất bực mình nên quay lại bảo tà linh: “Nhân danh Chúa Cứu Thế Giê-su, ta ra lệnh cho ngươi phải xuất khỏi cô này!” Quỷ liền ra khỏi cô ấy ngay giờ phút đó. Các chủ của cô nhận thấy không còn hy vọng trục lợi nữa liền bắt Phao-lô và Si-la kéo đến quảng trường, nộp cho nhà chức trách. Họ điệu hai ông ra tòa, trước các thẩm phán mà tố cáo: “Các tên này là người Do Thái, đã gây loạn trong thành phố chúng ta, tuyên truyền những tục lệ mà công dân La Mã chúng ta không được phép chấp nhận hoặc thi hành.” Đoàn dân cũng hùa nhau nổi lên chống nghịch các sứ đồ. Các thẩm phán ra lệnh xé áo và đánh đòn hai ông. Sau khi đánh đòn, các thẩm phán cho tống giam các sứ đồ và truyền giám ngục canh giữ cẩn mật. Được lệnh, giám ngục giam hai ông vào ngục kín và cùm chân lại. Khoảng nửa đêm, Phao-lô và Si-la đang cầu nguyện và ca ngợi Đức Chúa Trời, các tù nhân đều lắng nghe. Bỗng, có cơn động đất lớn đến nỗi nền nhà ngục rung chuyển. Ngay lúc ấy, tất cả các cửa đều mở tung, xiềng xích tù nhân đều tháo rời. Giám ngục thức dậy thấy các cửa ngục mở toang cả, tưởng tù nhân đã trốn thoát, liền rút gươm toan tự sát. Nhưng Phao-lô gọi lớn: “Đừng hủy mình! Vì tất cả chúng tôi còn ở lại đây!” Giám ngục sai lấy đèn, vội vàng chạy đến, run rẩy quỳ trước mặt Phao-lô và Si-la, rồi đưa hai ông ra ngoài mà hỏi: “Thưa các ngài, tôi phải làm chi để được cứu rỗi?” Họ đáp: “Hãy tin Chúa Giê-su, thì ông và gia đình ông sẽ được cứu!” Họ giảng giải Đạo Chúa cho giám ngục và tất cả người trong gia đình ông. Giữa đêm khuya, ngay giờ đó, giám ngục đem hai người đi rửa các vết thương; rồi lập tức ông và cả gia đình đều chịu phép báp-tem. Giám ngục đưa hai ông về nhà riêng, dọn tiệc thết đãi. Ông và cả gia đình đều tràn ngập vui mừng vì đã tin Đức Chúa Trời. Sáng hôm sau, các thẩm phán sai cảnh sát đến bảo giám ngục: “Ông hãy phóng thích mấy người đó đi!” Giám ngục báo tin cho Phao-lô: “Các thẩm phán đã ra lệnh phóng thích hai ông! Vậy, hai ông hãy ra và lên đường bình an!” Nhưng Phao-lô bảo họ: “Chúng tôi là công dân La Mã, dù không có án gì họ đã công khai đánh đòn chúng tôi và tống giam chúng tôi vào ngục. Bây giờ họ lại bí mật trục xuất chúng tôi sao? Không được đâu! Họ phải đến đây đưa chúng tôi ra!” Các cảnh sát về báo cáo; các thẩm phán sợ hãi khi được biết hai người là công dân La Mã. Họ liền đến năn nỉ, đưa hai ông ra, và yêu cầu rời khỏi thành. Các sứ đồ ra khỏi ngục, đến nhà bà Ly-đi thăm viếng, khích lệ các anh em tín hữu, rồi lên đường. Phao-lô và Si-la đi ngang qua hai thành Am-phi-bô-li và A-bô-lô-ni rồi đến Tê-sa-lô-ni-ca; trong thành này có một hội đường của người Do Thái. Phao-lô theo thói quen vào hội đường và liên tiếp trong ba ngày Sa-bát, dùng Kinh Thánh tranh luận với người Do Thái, giải thích và chứng minh rằng Chúa Cứu Thế phải chịu thống khổ và sống lại từ kẻ chết. Ông nói: “Đức Giê-su này mà tôi rao truyền cho các ông đây chính là Chúa Cứu Thế!” Một số người được thuyết phục, kết hợp với Phao-lô và Si-la, gồm rất nhiều người Hy Lạp từng kính thờ Đức Chúa Trời và một số đông phụ nữ thuộc giới thượng lưu. Nhưng người Do Thái ghen ghét, rủ bọn côn đồ hung ác ngoài chợ, và tập họp đám đông, gây rối loạn trong thành phố. Họ kéo đến nhà Gia-sôn tìm hai người để đem nộp cho đám đông. Tìm không được, họ kéo Gia-sôn và vài anh em tín hữu đến các nhà cầm quyền thành phố, lớn tiếng tố cáo: “Bọn gây rối thế giới đã đến đây, và Gia-sôn chứa chấp chúng! Cả bọn chúng đều phạm luật của Sê-sa! Chúng bảo có một vua khác tên là Giê-su!” Nghe lời tố cáo, dân chúng và các nhà cầm quyền thành phố đều náo động. Nhưng họ chỉ bắt Gia-sôn và các đồng bạn nộp tiền thế chân rồi thả ra. Trời vừa tối, anh em tín hữu lập tức đưa Phao-lô và Si-la qua Bê-rê. Vừa đến nơi, hai ông vào hội đường Do Thái. Những người này cởi mở hơn người Tê-sa-lô-ni-ca; họ nhiệt thành tiếp nhận Đạo Chúa, hằng ngày tra cứu Kinh Thánh để xét xem lời giảng có đúng không. Vì thế nhiều người Do Thái tin nhận Chúa, ngoài ra còn có một số đông phụ nữ Hy Lạp thuộc giới thượng lưu và nhiều đàn ông cũng tin. Nhưng khi người Do Thái ở Tê-sa-lô-ni-ca nghe tin Đạo Đức Chúa Trời cũng được Phao-lô công bố tại Bê-rê, họ liền kéo sang, sách động và gây rối trong quần chúng. Anh em tín hữu lập tức đưa Phao-lô ra tận bờ biển, còn Si-la và Ti-mô-thê cứ lưu lại Bê-rê. Các người hướng đạo đưa Phao-lô đến tận A-then, rồi quay về đem chỉ thị cho Si-la và Ti-mô-thê phải đến với Phao-lô càng sớm càng tốt. Trong khi chờ đợi hai người tại A-then, Phao-lô tức giận vì thấy thành phố đầy dẫy thần tượng. Ông biện luận với các người Do Thái trong hội đường, với những người Hy Lạp có lòng kính thờ Đức Chúa Trời và những người đến tại quãng trường hằng ngày. Mấy triết gia thuộc hai trường phái Khoái Lạc và Khắc Kỷ tranh luận với Phao-lô. Vài người bảo: “Tên lắm lời này muốn nói gì đây?” Mấy người khác lại bảo: “Dường như nó tuyên truyền cho các quỷ thần ngoại quốc!” Họ nói thế vì nghe Phao-lô truyền giảng Phúc Âm về Đức Giê-su và sự sống lại. Họ giữ Phao-lô lại, đưa đến trước hội đồng A-rê-ô-ba và bảo rằng: “Chúng tôi muốn biết giáo huấn mới mà ông đang nói đó! Vì ông mang đến cho chúng tôi mấy điều lạ tai. Chúng tôi muốn biết ý nghĩa của những điều đó!” (Tất cả dân A-then và ngoại kiều tại A-then chỉ dành thì giờ bàn tán và nghe những tư tưởng mới lạ nhất.) Phao-lô đứng giữa hội đồng A-rê-ô-ba và nói: “Thưa quý vị là nguời A-then, tôi nhận thấy bất luận việc gì quý vị cũng rất sùng kính. Khi đi qua quan sát các nơi thờ tự của quý vị, tôi có thấy một bàn thờ khắc chữ ‘Thờ Thần Không Biết’. Thần quý vị thờ mà không biết đó chính là thần tôi đang truyền cho quý vị. Đức Chúa Trời đã sáng tạo vũ trụ và vạn vật, là Chúa tể của trời và đất; Ngài không ngự trong các đền miếu do tay người làm ra, cũng không cần tay người phục dịch như thể Ngài cần điều gì; Ngài ban sự sống, hơi thở và mọi vật cho mọi người. Từ một người, Ngài dựng lên tất cả các dân tộc trong nhân loại cho họ ở khắp mặt địa cầu, định thời gian hiện hữu và biên giới cho họ cư trú, để tìm kiếm Đức Chúa Trời, may ra có thể dò dẫm mà tìm được Ngài, dù Ngài không ở xa mỗi người trong chúng ta. Vì ‘Trong Ngài, chúng ta sinh hoạt, cử động và hiện hữu’, như vài thi sĩ của quý vị đã nói: ‘Chúng ta cũng là dòng dõi của Ngài.’ Vậy, đã là dòng dõi của Đức Chúa Trời, chúng ta đừng tưởng bản tính thần linh Ngài giống như vàng, bạc, đá, hình tượng điêu khắc hay sản phẩm tư tưởng của con người. Trong quá khứ, Đức Chúa Trời đã bỏ qua sự ngu muội ấy, nhưng bây giờ Ngài ra lệnh cho tất cả loài người phải ăn năn, vì Ngài đã ấn định một ngày để phán xét nhân loại cách công minh, do một Người Ngài đã chỉ định. Đức Chúa Trời đã xác chứng cho mọi người bằng cách khiến Người sống lại từ cõi chết.” Nghe nói kẻ chết sống lại, một số người chế giễu, nhưng một số khác lại nói: “Chúng tôi muốn nghe ông nói chuyện này một lần nữa!” Đến đây, Phao-lô bước ra khỏi hội đồng. Nhưng có mấy người theo ông và tin nhận Chúa. Trong số ấy có Đê-ni, một nhân viên hội đồng A-rê-ô-ba, một bà tên Đa-ma-ri và những người khác nữa. Sau đó, Phao-lô rời A-then qua Cô-rinh-tô. Tại đây, ông gặp một người Do Thái tên A-qui-la, sinh quán ở Bông-tu, mới cùng vợ là Bê-rít-sin ở Y-ta-li đến, vì hoàng đế Cơ-lốt đã ra lệnh trục xuất tất cả người Do Thái ra khỏi thủ đô Rô-ma. Phao-lô đi thăm họ, và ở lại làm việc với họ, vì ông sinh sống nhờ nghề may lều cũng như cặp vợ chồng này. Mỗi ngày Sa-bát, ông biện luận trong hội đường, thuyết phục cả người Do thái lẫn người Hy Lạp. Khi Si-la và Ti-mô-thê từ Ma-xê-đoan đến, Phao-lô tập trung vào việc giảng Đạo, chứng minh cho người Do Thái rằng Đức Giê-su chính là Chúa Cứu Thế. Thấy họ chống đối và phạm thượng, ông giũ áo mà bảo họ: “Máu các ông đổ lại trên đầu các ông! Còn tôi đã hết nhiệm vụ! Từ nay tôi sẽ đi đến các dân tộc ngoại quốc!” Bỏ hội đường, ông vào ngôi nhà của Ti-ti-u Giúc-tu, một người kính thờ Đức Chúa Trời có nhà bên cạnh hội đường. Cơ-rít-bu, người quản lý hội đường và cả gia đình đều tin Chúa. Nhiều người Cô-rinh-tô nghe ông giảng cũng tin và chịu phép báp-tem. Ban đêm, Chúa bảo Phao-lô trong một khải tượng: “Con đừng sợ! nhưng cứ nói, đừng làm thinh, vì Ta ở với con. Không ai làm hại con được, vì Ta có rất nhiều người trong thành phố này!” Ông lưu lại đây một năm sáu tháng dạy Đạo Đức Chúa Trời cho họ. Vào thời Ga-li-ô làm tổng trấn A-chai, người Do Thái cấu kết nhau tấn công Phao-lô và đưa ông ra tòa. Họ tố cáo: “Tên này xúi giục người ta thờ Đức Chúa Trời trái luật!” Phao-lô vừa mở miệng đáp thì Ga-li-ô bảo những người Do Thái: “Này, các anh Do Thái, nếu là tội ác hay phạm pháp, thì ta mới nhận lời khiếu tố của các anh, nhưng nếu là vấn đề ngôn từ, danh hiệu, và luật lệ riêng của các anh, thì các anh cứ việc giải quyết với nhau, Ta không muốn xét xử các chuyện ấy đâu!” Rồi ông đuổi chúng ra khỏi tòa án. Mọi người bắt Sốt-then, viên quản lý hội đường mà đánh đòn trước tòa án, nhưng Ga-li-ô cũng chẳng buồn lưu ý. Phao-lô ở lại Cô-rinh-tô lâu ngày, rồi từ giã anh em tín hữu, đáp tàu về Sy-ri, có Bê-rít-sin và A-qui-la đồng đi. Tại Sen-cơ-rê, ông xuống tóc vì có lời thề nguyện. Đến Ê-phê-sô, Phao-lô để vợ chồng A-qui-la tại đây, còn ông vào hội đường thảo luận với người Do Thái. Họ mời ông ở lại thêm một thời gian; nhưng ông từ khước. Khi từ giã họ, ông nói rằng: “Nếu Đức Chúa Trời muốn, tôi sẽ trở lại với quý vị một lần nữa,” rồi đáp tàu rời Ê-phê-sô. Đến Sê-sa-rê, ông lên bờ đến thăm Hội Thánh rồi về An-ti-ốt. Sau một thời gian, ông lại ra đi, tuần tự thăm khắp vùng Ga-la-ti và Phi-ri-gi làm cho tất cả các môn đệ Chúa đều vững mạnh. Trong khi đó, một người Do Thái đến Ê-phê-sô. Người này tên A-bô-lô, quê ở A-lê-xan-đơ-ri, có tài hùng biện và thông thạo Kinh Thánh. Đã được thụ huấn Đạo Chúa, ông hăng hái giảng và dạy cách chính xác những sự kiện về Đức Giê-su. Tuy nhiên, ông chỉ biết về phép báp-tem của Giăng. A-bô-lô bắt đầu diễn giải cách bạo dạn trong hội đường. Nghe ông nói, Bê-rít-sin và A-qui-la mời về nhà giải thích Đạo Chúa cho ông cách chính xác hơn nữa. Khi A-bô-lô định qua xứ A-chai, anh em tín hữu khích lệ ông và viết thư yêu cầu các môn đệ Chúa nghênh tiếp. Đến nơi, ông cậy ân sủng Chúa giúp ích nhiều cho các tín hữu. Vì ông công khai cực lực biện bác người Do Thái, dùng Kinh Thánh chứng minh rằng Đức Giê-su chính là Chúa Cứu Thế. Khi A-bô-lô ở Cô-rinh-tô, Phao-lô theo con đường xuyên nội địa đến Ê-phê-sô. Gặp một số môn đệ tại đây, ông hỏi họ: “Khi anh em tin đã nhận lãnh được Thánh Linh chưa?” Họ đáp: “Chúng tôi cũng chưa nghe nói có Thánh Linh nào cả!” Ông hỏi: “Vậy anh em chịu phép báp-tem nào?” Họ đáp: “Phép báp-tem của Giăng.” Phao-lô nói: “Giăng làm phép báp-tem ăn năn tội, nhưng ông đã bảo dân chúng phải tin Đấng đến sau mình, nghĩa là tin Đức Giê-su.” Nghe vậy, họ đều chịu báp-tem nhân danh Chúa Giê-su. Khi Phao-lô đặt tay trên họ, thì Thánh Linh giáng xuống trên các môn đệ đó, họ nói các tiếng lạ và lời tiên tri. Số môn đệ ấy tổng cộng độ mười hai người đàn ông. Phao-lô vào hội đường giảng cách dạn dĩ trong ba tháng, biện luận và thuyết phục người nghe về Nước Đức Chúa Trời. Nhưng có một số người ngoan cố, không chịu tin còn xuyên tạc Đạo Chúa trước công chúng, nên ông bỏ họ, tập họp riêng các môn đệ hằng ngày thảo luận trong trường học của Ty-ra-nu. Việc này tiếp tục hai năm, đến nỗi tất cả mọi người ở tỉnh Tiểu Á, cả người Do Thái lẫn người Hy Lạp, đều được nghe Đạo Chúa. Đức Chúa Trời dùng tay Phao-lô làm những việc quyền năng phi thường, đến nỗi người ta đem khăn tay hoặc khăn choàng ông đã dùng đặt lên người bệnh thì các chứng bệnh đều được chữa lành và các tà linh bị trục xuất. Có mấy người Do Thái đi từ nơi này đến nơi khác trừ quỷ, cũng thử dùng Danh Chúa Giê-su để trừ tà linh. Họ bảo quỷ: “Ta trục xuất nhà ngươi nhân danh Đức Giê-su mà Phao-lô truyền giảng!” Đó là bảy con trai của Sê-va, một thượng tế Do Thái, đã làm như thế. Nhưng quỷ đáp: “Ta biết Đức Giê-su và cũng rõ Phao-lô, nhưng các ngươi là ai?” Người bị quỷ ám xông vào khống chế và áp đảo cả bọn đến nỗi họ phải bỏ nhà ấy chạy trốn, mình mẩy trần truồng và đầy thương tích. Tất cả người Do Thái và Hy Lạp trong thành Ê-phê-sô biết việc ấy đều khiếp sợ và Danh Chúa Giê-su càng được tôn kính. Nhiều tín đồ đến, công khai xưng tội và kể ra các việc họ đã làm. Một số đông người từng thực hành ma thuật đã gom góp sách phù chú và đốt đi trước mặt công chúng. Các sách này trị giá tổng cộng đến năm mươi ngàn miếng bạc. Vậy nhờ năng lực Chúa, Đạo Ngài ngày càng tăng trưởng và vững mạnh. Sau các việc đó, Phao-lô quyết định trong lòng sẽ đi qua Ma-xê-đoan và A-chai để về Giê-ru-sa-lem. Ông nói: “Sau khi về đó, tôi cũng phải đến thăm Rô-ma.” Ông sai hai người phụ tá là Ti-mô-thê và Ê-rát đi trước qua Ma-xê-đoan, trong khi ông còn ở lại Tiểu Á thêm một thời gian. Bấy giờ, một cuộc náo loạn lớn xảy ra tại Ê-phê-sô vì Đạo Chúa. Một người thợ bạc tên Đê-mê-triu chuyên làm các điện thờ nữ thần Ác-tê-mít bằng bạc, đem lại nguồn lợi lớn cho giới thợ bạc. Ông triệu tập toàn thể thợ bạc và những người đồng nghiệp, và bảo: “Thưa các đồng nghiệp, các bạn đã biết nhờ nghề này mà chúng ta được giàu có. Chính các bạn cũng đã nghe và thấy rằng tên Phao-lô này dám bảo: Các thần tượng do tay người làm ra không phải là thần. Nó thuyết phục được nhiều người, không những ở thành Ê-phê-sô mà gần khắp cả Tiểu Á nữa. Chẳng những chúng ta sợ nghề nghiệp mình bị bêu riếu, lại còn có nguy cơ Đền thờ của đại nữ thần Ác-tê-mít cũng sẽ bị khinh dể, và đại danh của nữ thần được mọi người trong cả Tiểu Á và toàn thế giới tôn thờ cũng sẽ bị tiêu tan!” Nghe những lời ấy, họ nổi giận, hét lên: “Vĩ đại thay nữ thần Ác-tê-mít của người Ê-phê-sô!” Cả thành phố đều rối loạn. Người ta cùng nhau ào ào chạy vào hý trường, kéo theo Gai-út và A-ri-tạc, hai người Ma-xê-đoan bạn đồng hành của Phao-lô. Phao-lô định vào giáp mặt đám đông nhưng các môn đệ Chúa ngăn cản. Vài nhà lãnh tụ Tiểu Á là bạn của Phao-lô cũng sai người đến khuyên ông đừng mạo hiểm vào hý trường. Đám đông thật là hỗn loạn: Người hô thế này, kẻ gào thế khác. Phần đông cũng chẳng hiểu vì lý do nào mình đến tụ họp. Một số người từ đám đông chỉ dẫn cho A-léc-xan-đơ nên nói gì vì người Do Thái đẩy ông ra đứng trước. A-léc-xan-đơ lấy tay ra hiệu, định tự bào chữa trước công chúng Nhưng vừa nhận ra ông là người Do Thái, đoàn dân đồng thanh hô lớn trong suốt hai tiếng đồng hồ: “Nữ thần Ác-tê-mít của người Ê-phê-sô vĩ đại thay!” Tổng thư ký thành phố trấn an đoàn dân và bảo: “Đồng bào Ê-phê-sô! Ai lại không biết thành phố Ê-phê-sô có nhiệm vụ canh giữ đền thờ đại nữ thần Ác-tê-mít và tượng của nữ thần đã từ trời giáng xuống sao? Vậy, vì không ai chối cãi được điều đó, nên đồng bào nên bình tĩnh, đừng làm gì vội vã! Đồng bào đã giải mấy người này đến đây, nhưng họ không có trộm cắp của Đền Thờ cũng không phạm thượng đến nữ thần của đồng bào! Vậy, nếu Đê-mê-triu và các đồng nghiệp muốn kiện cáo ai thì đã có các tòa án và các thẩm phán, cứ để họ đưa nhau ra tòa! Nếu đồng bào còn đòi hỏi điều gì, thì xin giải quyết tại hội đồng hợp pháp. Vì thật ra, chúng ta có cơ nguy bị tố cáo về tội nổi loạn vì vụ tập họp đông đảo hôm nay mà không có lý do nào biện minh được.” Nói xong, viên tổng thư ký giải tán đám đông. Khi cuộc rối loạn đã êm, Phao-lô triệu tập các môn đệ Chúa, khích lệ họ rồi từ giã, lên đường đi Ma-xê-đoan. Ông đi qua các vùng này, dùng nhiều sứ điệp khích lệ anh em tín hữu. Đến Hy Lạp, ông ở lại ba tháng. Đang chuẩn bị đáp tàu đi về Sy-ri, ông khám phá được âm mưu của người Do Thái hại ông, nên ông quyết định đi đường bộ trở về qua ngả Ma-xê-đoan. Cùng đi có Sô-ba-tê, con Phi-ru, người Bê-rê; A-ri-tạc, Sê-cung-đu, người Tê-sa-lô-ni-ca, Gai-út, người Đẹt-bơ; Ti-mô-thê, Ti-chi-cơ và Trô-phim ở Tiểu Á. Họ đi trước và đợi chúng tôi tại Trô-ách. Sau lễ bánh không men, chúng tôi xuống tàu tại Phi-líp, năm ngày sau, gặp họ tại Trô-ách, chúng tôi ở lại đây một tuần lễ. Vào ngày thứ nhất trong tuần lễ, chúng tôi họp nhau ăn bữa tiệc tương giao. Phao-lô giảng luận cho anh em tín hữu. Vì hôm sau phải lên đường, nên ông tiếp tục giảng cho đến nửa đêm. Trong phòng họp trên lầu có đốt nhiều đèn. Một thanh niên tên Ơ-tích ngồi trên thành cửa sổ ngủ gục trong khi Phao-lô giảng dài. Vì ngủ say quá, nên anh từ trên tầng thứ ba té xuống. Người ta đỡ dậy, thấy anh đã chết rồi. Nhưng Phao-lô đi xuống, nằm sấp người trên anh, ôm anh rồi bảo: “Đừng sợ! Linh hồn còn ở trong người!” Phao-lô lên lầu bẻ bánh ăn và tiếp tục giảng luận đến sáng mới lên đường. Người ta đưa thanh niên ấy về nhà, thấy còn sống nên được an ủi nhiều. Chúng tôi đi trước, đáp tàu qua A-sốt, chờ đón Phao-lô; vì ông định đi bộ nên đã xếp đặt như thế. Gặp nhau tại A-sốt, chúng tôi đón ông xuống tàu qua My-ti-len. Hôm sau, rời bến My-ti-len, tàu chúng tôi đến ngang đảo Chi-ô, đi được một ngày, ghé vào cảng Sa-mốt. Tàu chạy thêm một ngày nữa thì đến Mi-lê. Phao-lô đã quyết định đi qua Ê-phê-sô chứ không ghé lại để khỏi mất thì giờ tại Tiểu Á. Ông cố đi gấp để nếu được, có thể về đến Giê-ru-sa-lem cho kịp lễ Ngũ Tuần. Từ Mi-lê, Phao-lô sai người qua Ê-phê-sô triệu tập các trưởng lão của Hội Thánh. Khi họ đến đông đủ, ông trình bày: “Anh em biết nếp sống tôi suốt thời gian qua, từ ngày tôi mới đặt chân đến Tiểu Á. Tôi hầu việc Chúa với cả lòng khiêm nhường, đổ nhiều nước mắt, chịu đựng những cuộc thử thách do âm mưu ám hại của người Do Thái. Tôi công bố cho anh em đủ điều lợi ích, không giữ lại chút nào, dạy dỗ anh em giữa công chúng cũng như từ nhà này qua nhà khác. Tôi khuyến cáo cả người Do Thái lẫn người Hy Lạp phải ăn năn trở về với Đức Chúa Trời và tin nhận Chúa Giê-su. Kìa nay được Đức Thánh Linh ràng buộc, tôi đi về Giê-ru-sa-lem, chẳng biết sẽ gặp những gì tại đó. Tôi chỉ biết một điều: trong mỗi thành phố, Thánh Linh đều bảo tôi rằng ngục tù và hoạn nạn đang chờ đón tôi. Tuy nhiên tôi chẳng kể mạng sống mình là quý, miễn sao chạy xong cuộc đua và hoàn tất chức vụ nhận lãnh từ nơi Chúa Giê-su, để xác chứng cho Phúc Âm về ân sủng Đức Chúa Trời. Kìa, nay tôi biết rằng tất cả quý anh em đã được nghe tôi truyền giảng về Nước Đức Chúa Trời không một ai còn thấy mặt tôi nữa. Vì thế, hôm nay tôi xin thưa rằng tôi trong sạch, không phải chịu trách nhiệm về máu của một ai. Vì tôi đã công bố cho anh em biết tất cả ý định của Đức Chúa Trời, không giữ lại điều gì. Anh em hãy giữ mình và toàn thể bầy chiên mà Thánh Linh đã đặt anh em làm giám mục, để chăn dắt Hội Thánh của Đức Chúa Trời mà Ngài đã mua bằng chính huyết mình. Tôi biết rằng sau khi tôi ra đi, sẽ có muông sói dữ tợn xen vào giữa anh em, chẳng dung tha bầy chiên đâu. Và giữa anh em sẽ có những người nổi lên dùng lời xuyên tạc để lôi cuốn các môn đồ theo họ. Vậy anh em phải tỉnh thức, hãy nhớ rằng suốt ba năm, cả ngày lẫn đêm tôi không ngừng đổ nước mắt khuyên bảo mỗi người luôn. Bây giờ, tôi giao thác anh em cho Chúa và cho Đạo ân sủng của Ngài, là Đạo có khả năng gây dựng và đem lại cho anh em cơ nghiệp giữa tất cả các thánh đồ. Tôi chẳng tham bạc, vàng, hoặc y phục của ai cả. Chính anh em biết rõ hai bàn tay này đã cung ứng các nhu cầu của tôi và các bạn đồng lao tôi. Trong mọi việc tôi làm, tôi bày tỏ cho anh em thấy rằng phải làm việc như thế để giúp đỡ những người đau yếu, hãy nhớ lại lời Chúa Giê-su dạy: ‘Ban cho thì có phước hơn là nhận lãnh.’” Nói xong, Phao-lô quỳ gối cầu nguyện với tất cả các trưởng lão. Tất cả đều khóc lóc, ôm Phao-lô mà hôn. Điều làm họ buồn thảm nhất là câu ông nói họ sẽ chẳng bao giờ thấy mặt ông nữa. Rồi họ tiễn ông xuống tàu. Chúng tôi từ giã họ ra khơi. Tàu chạy thẳng qua đảo Cốt, hôm sau chúng tôi đến đảo Rô-đơ rồi đến Ba-ta-ra. Gặp một chiếc tàu đi Phê-ni-xi, chúng tôi xuống tàu và rời bến. Thấy bờ biển Síp, chúng tôi chạy ngang phía nam đảo này, trực chỉ Sy-ri, rồi cập bến Ty-rơ cho tàu dỡ hàng. Tại đây, chúng tôi gặp một số môn đồ nên ở lại với họ bảy ngày. Các môn đồ được Thánh Linh báo trước đã khuyên Phao-lô đừng lên Giê-ru-sa-lem. Nhưng sau những ngày đó, chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình. Tất cả môn đồ cùng vợ và các con đều tiễn chúng tôi ra ngoài thành phố, và quỳ gối trên bãi biển mà cầu nguyện. Từ giã nhau, chúng tôi xuống tàu, còn các môn đồ trở về nhà. Chặng hải trình từ Ty-rơ chấm dứt tại Bê-tô-lê-mai. Chúng tôi lên bờ chào các môn đồ và ở lại với họ một ngày. Hôm sau, đến Sê-sa-rê, chúng tôi vào trọ nhà ông truyền giáo Phi-líp là một trong bảy vị chấp sự. Ông có bốn con gái đồng trinh thường nói tiên tri. Mấy ngày sau, A-ga-bút một nhà tiên tri từ xứ Giu-đê xuống, đến thăm chúng tôi, lấy nịt lưng của Phao-lô tự trói tay chân mình và nói: “Đây là điều Thánh Linh phán dạy: Người chủ chiếc dây nịt này sẽ bị người Do Thái trói như vầy tại Giê-ru-sa-lem và nộp vào tay người ngoại quốc.” Nghe xong, chúng tôi và các môn đồ địa phương đều nài nỉ Phao-lô đừng lên Giê-ru-sa-lem. Nhưng Phao-lô đáp: “Anh em làm gì mà khóc lóc cho đau lòng tôi. Chẳng những tôi chịu trói mà còn sẵn lòng chịu chết vì danh Chúa Giê-su tại Giê-ru-sa-lem!” Sau khi không thuyết phục được Phao-lô thì họ nói rằng: “Nguyện ý Chúa được nên!” Sau đó, chúng tôi chuẩn bị và đi lên Giê-ru-sa-lem. Có vài môn đồ ở Sê-sa-rê cùng đi và đưa chúng tôi đến trọ tại nhà của Ma-na-sơn, một người Síp và là một môn đồ kỳ cựu. Đến Giê-ru-sa-lem, chúng tôi được anh em tín hữu vui mừng tiếp đón. Hôm sau, Phao-lô cùng chúng tôi đến thăm Gia-cơ. Tất cả các trưởng lão đều có mặt. Chào hỏi xong, Phao-lô tường thuật từng chi tiết những việc Đức Chúa Trời đã thực hiện giữa các dân tộc ngoại quốc qua chức vụ mình. Nghe xong, họ ca ngợi Đức Chúa Trời, rồi bảo Phao-lô: “Anh ơi, anh thấy không? Bao nhiêu vạn người Do Thái đã tin theo Đạo và tất cả đều cuồng nhiệt về Kinh Luật Môi-se. Họ đã được báo cáo rằng anh dạy người Do Thái ở khắp các nước ngoài bỏ Kinh Luật Môi-se, đừng làm lễ cắt bì cho trẻ con và đừng theo tục lệ Do Thái nữa. Chắc hẳn họ đã nghe tin về anh rồi, bây giờ chúng ta phải làm sao? Vậy anh nên nghe lời chúng tôi khuyên: Ở đây có bốn người mắc lời hứa nguyện. Anh cứ đưa họ đi và làm lễ tẩy sạch với họ, cũng chịu tiền cho họ xuống tóc, thì mọi người sẽ biết rằng người ta đã báo cáo không đúng về anh, chứ anh cũng tuân giữ Kinh Luật. Về những tín hữu trong các dân tộc ngoại quốc, chúng tôi đã viết thư cho họ biết rằng họ không được ăn của cúng thần tượng, huyết, thú vật chết ngạt và đừng gian dâm.” Phao-lô đem bốn người ấy đi và hôm sau cùng làm lễ tẩy sạch với họ. Rồi ông vào Đền Thờ báo cáo ngày nào cuộc tẩy sạch sẽ hoàn tất và lễ vật sẽ dâng lên cho mỗi người trong nhóm mình. Gần xong bảy ngày ấy, bỗng có mấy người Do Thái gốc Tiểu Á thấy Phao-lô trong Đền Thờ. Họ liền sách động quần chúng bắt Phao-lô, và gào thét: “Đồng bào Y-sơ-ra-ên! Giúp chúng tôi với! Chính tên này đã tuyên truyền khắp nơi, xui giục mọi người chống lại dân tộc, Kinh Luật và nơi thánh này.” Hơn thế nữa, hắn còn dẫn người Hy-lạp vào trong đền thờ, làm ô uế nơi thánh nầy. Vì trước đó họ đã thấy Trô-phim, người Ê-phê-sô ở trong thành phố với Phao-lô, nên họ tưởng ông đem Trô-phim vào trong Đền Thờ. Cả thành phố đều náo loạn, dân chúng từ khắp nơi chạy đến, bắt Phao-lô kéo ra khỏi Đền Thờ. Lập tức, các cửa đền đóng lại. Họ đang tìm cách giết Phao-lô thì viên tư lệnh quân La Mã được tin báo rằng cả thành phố đều rối loạn. Lập tức, ông điều động một số sĩ quan và binh sĩ tức tốc kéo đến chỗ đám đông. Thấy viên quan La Mã và binh sĩ, dân chúng ngưng tay không đánh đập Phao-lô nữa. Viên quan đến gần, bắt Phao-lô và ra lệnh trói lại bằng hai sợi xích, rồi mới hỏi: “Tên này là ai? Đã làm những gì?” Trong đám đông người gào thế này, kẻ thét thế kia, tạo nên một sự lộn xộn đến nỗi viên quan không thể nào tìm biết sự việc diễn tiến ra sao cả, nên ông ra lệnh cho binh sĩ giải Phao-lô vào trong đồn. Khi Phao-lô lên tới các bậc thềm, dân chúng càng hung bạo đến nỗi binh sĩ phải khiêng ông đi. Dân chúng kéo theo đông đảo, gầm thét: “Giết nó đi!” Khi sắp được khiêng vào trong đồn, Phao-lô hỏi viên quan: “Tôi có được phép ngỏ đôi lời với ngài không?” Viên quan nói: “Anh biết tiếng Hy Lạp sao? Thế anh không phải là tên phản loạn Ai Cập trước đây đã lãnh đạo bốn ngàn quân khủng bố kéo vào đồng hoang sao?” Phao-lô đáp: “Tôi là người Do Thái, quê ở Tạc-sơ, thuộc Si-li-si, công dân một thành danh tiếng. Xin ngài cho tôi được nói với dân chúng!” Được phép rồi, Phao-lô đứng trên bực thềm đồn quân, ra hiệu cho dân chúng. Khi ai nấy yên lặng, ông phát biểu bằng tiếng A-ram rằng: “Thưa quý anh, quý cha, xin quý vị nghe tôi phân trần.” Nghe ông nói tiếng A-ram dân chúng càng yên lặng. Phao-lô tiếp: “Tôi là người Do Thái, sinh tại Tạc-sơ thuộc Si-li-si nhưng được dưỡng dục trong thành phố này, học với giáo sư Ga-ma-liên. Tôi được giáo dục một cách nghiêm nhặt về Kinh Luật của tổ tiên và có nhiệt tâm đối với Đức Chúa Trời cũng như tất cả quý vị ngày nay. Tôi đã bắt bớ những người theo Đạo này cho đến chết, bắt trói cả đàn ông lẫn đàn bà mà tống giam vào ngục; điều này vị trưởng tế và cả Hội Đồng Trưởng Lão có thể xác nhận cho tôi. Tôi còn xin họ viết các bức thư giới thiệu cho các vị lãnh đạo ở Đa-mách để tôi thân hành đến tận nơi bắt trói các người theo Đạo này giải về Giê-ru-sa-lem trừng trị. Trên đường đi, gần đến thành Đa-mách, khoảng giữa trưa, bỗng có ánh sáng cực kỳ chói lọi từ trời rọi xuống xung quanh tôi. Tôi ngã nhào xuống đất, và nghe có tiếng nói rằng: ‘Sau-lơ, Sau-lơ, tại sao ngươi bắt bớ Ta?’ Tôi thưa: ‘Lạy Chúa, Chúa là ai?’ Ngài đáp lời tôi: ‘Ta là Giê-su, người Na-xa-rét mà con đang bắt bớ.’ Lúc ấy những bạn đồng hành với tôi đều thấy ánh sáng ấy nhưng họ không nghe tiếng phán cùng tôi. Tôi hỏi: ‘Lạy Chúa, con phải làm chi?’ Chúa đáp: ‘Con hãy đứng dậy, đi vào thành Đa-mách, tại đó con sẽ được chỉ bảo tất cả những gì Đức Chúa Trời sắp xếp cho con làm!’ Vì ánh sáng rực rỡ đó nên tôi bị mù mắt; các bạn đồng hành nắm tay tôi dẫn vào thành Đa-mách. Tại Đa-mách, có A-na-nia một người sốt sắng vâng giữ Kinh Luật, được tất cả đồng bào Do Thái địa phương kính trọng. Ông ấy đến thăm, đứng gần tôi và bảo: ‘Anh Sau-lơ, hãy nhìn thấy rõ trở lại!’ Ngay lúc ấy, tôi nhìn thấy A-na-nia.” Ông tiếp: “Đức Chúa Trời của tổ tiên chúng ta đã an bài từ trước cho anh biết ý chỉ Ngài, được gặp Đấng Công Chính và được nghe tiếng Ngài phán dạy, vì anh sẽ làm chứng cho Ngài trước mặt mọi người về những điều anh đã thấy và nghe. Bây giờ, anh còn chờ đợi gì nữa? Anh hãy đứng dậy, kêu cầu Danh Chúa và chịu phép báp-tem để được thanh tẩy tội lỗi mình đi! Trở về Giê-ru-sa-lem, đang lúc cầu nguyện trong Đền Thờ thì tôi xuất thần, thấy Chúa phán bảo tôi: ‘Nhanh lên, con hãy ra khỏi Giê-ru-sa-lem ngay vì họ sẽ không công nhận lời chứng của con về Ta đâu!’ Tôi thưa: ‘Lạy Chúa, họ biết con đã từng bắt bớ, đánh đập các tín đồ của Chúa khắp các hội đường, và khi họ giết Sê-tiên thì con đứng bên họ, tán thành việc họ làm, và giữ áo xống cho những kẻ giết người.’ Nhưng Chúa bảo tôi: ‘Con hãy đi vì Ta sai con đến các dân tộc ngoại quốc ở nơi xa xăm!’” Dân chúng nghe đến đây liền nổi lên hò hét: “Hãy tiêu diệt loại người đó khỏi mặt đất! Nó không đáng sống nữa!” Họ gào thét, phất áo tung bụi đất lên trời. Viên quan truyền đem Phao-lô vào đồn tra tấn bằng roi đòn để biết rõ vì sao mà ông bị dân chúng tố cáo. Khi bị căng ra để đánh đòn, Phao-lô hỏi một sĩ quan đứng gần: “Công dân La Mã chưa thành án mà đã bị đánh đòn thì có hợp pháp không?” Nghe câu ấy, sĩ quan này liền đến báo cáo cho viên quan: “Ngài định làm gì đây? Vì tên này có quốc tịch La Mã!” Viên quan đến gặp Phao-lô mà hỏi: “Anh khai thật đi! Anh có phải là công dân La Mã không?” Phao-lô đáp: “Phải!” Viên quan tiếp: “Ta phải trả một số tiền lớn mới được quốc tịch La Mã đấy!” Phao-lô đáp: “Còn tôi sinh ra thì đã là công dân La Mã rồi!” Các binh sĩ sắp tra tấn ông lập tức rút lui. Viên quan cũng lo sợ vì đã xiềng xích một công dân La Mã. Hôm sau, muốn biết chắc chắn vì lý do nào người Do Thái tố cáo Phao-lô, viên quan cởi giây xích cho Phao-lô và ra lệnh triệu tập các thượng tế và toàn thể Hội Đồng, rồi đưa Phao-lô ra đứng trước mặt họ. Phao-lô nhìn thẳng vào Hội Đồng và nói: “Thưa các anh em, cho đến nay tôi vẫn sống trước mặt Đức Chúa Trời với một lương tâm hoàn toàn ngay thẳng.” Mới nghe đến đó, trưởng tế An-na-nia ra lệnh cho những kẻ đứng gần Phao-lô vả vào miệng ông, Phao-lô nói: “Đức Chúa Trời sẽ đánh ông, bức tường sơn trắng kia! Ông chiếu luật ngồi xét xử tôi, mà ra lệnh đánh tôi trái luật sao?” Những kẻ đứng gần đó trách: “Anh dám sỉ nhục vị trưởng tế của Đức Chúa Trời sao?” Phao-lô đáp: “Các anh ơi, tôi đâu có biết đó là vị trưởng tế! Vì Kinh Thánh đã chép: Ngươi đừng mạ lỵ các nhà lãnh đạo dân mình!” Vì biết Hội Đồng gồm hai thành phần: Sa-đu-sê và Pha-ri-si, Phao-lô tuyên bố: “Thưa các anh em, tôi là người Pha-ri-si, con của người Pha-ri-si! Tôi bị đưa ra tòa chính vì niềm hy vọng về sự sống lại của người chết!” Nghe ông nói thế, Hội Đồng chia ra hai phe: Người Pha-ri-si và người Sa-đu-sê tranh chấp với nhau. Người Sa-đu-sê nói rằng người chết không bao giờ sống lại, cũng chẳng tin có thiên sứ, thần linh, còn người Pha-ri-si thừa nhận cả ba điều đó. Có cuộc cãi vã to tiếng và mấy chuyên gia kinh luật thuộc phái Pha-ri-si đứng dậy, hết sức tranh luận rằng: “Chúng ta không tìm thấy người này có tội ác gì cả! Biết đâu một thần linh hoặc một thiên sứ đã phán bảo ông ta?” Thấy cuộc tranh chấp trở nên dữ dội, viên quan sợ Phao-lô bị họ xé xác nên ra lệnh cho các binh sĩ xuống dùng sức mạnh kéo ông ra khỏi Hội Đồng và đem vào đồn. Đêm sau, Chúa đến đứng bên cạnh Phao-lô bảo: “Con cứ can đảm lên! Con đã làm chứng cho Ta tại Giê-ru-sa-lem thể nào, con cũng phải làm chứng tại Rô-ma thể ấy!” Đến sáng, người Do Thái âm mưu với nhau và thề sẽ nhịn ăn nhịn uống cho đến khi nào giết được Phao-lô. Có hơn bốn mươi người tham gia âm mưu ám sát này. Họ đến trình với các thượng tế và các trưởng lão: “Chúng tôi đã thề sẽ tuyệt thực cho đến khi nào giết được Phao-lô. Bây giờ, xin quý vị và Hội Đồng yêu cầu viên quan La Mã giải nó xuống, làm như quý vị muốn điều tra vụ này cho chính xác hơn. Còn chúng tôi sẽ chuẩn bị sẵn sàng để giết nó trước khi nó đến đây.” Nhưng cháu gọi Phao-lô bằng cậu nghe trộm được âm mưu này, liền vào đồn báo tin cho Phao-lô. Phao-lô gọi một đội trưởng và yêu cầu: “Xin đội trưởng đưa cậu này lên gặp vị tư lệnh, vì cậu ấy cần có việc báo cáo!” Đội trưởng đem cậu này lên trình tư lệnh: “Tù nhân Phao-lô yêu cầu tôi đưa thanh niên này lên quan. Cậu ấy có việc cần báo cáo!” Viên tư lệnh nắm tay thanh niên, kéo riêng ra một nơi mà hỏi: “Cậu có việc gì cần báo cáo cho ta?” Cậu thưa: “Người Do Thái đã cấu kết với nhau thỉnh cầu ngài đưa Phao-lô ra trước Hội Đồng ngày mai, làm như họ muốn điều tra vụ này thêm cho chính xác hơn. Nhưng xin ngài đừng nghe lời họ. Vì hiện có hơn bốn mươi người trong bọn họ đang mai phục chờ Phao-lô đến, những người này đã thề nhịn ăn nhịn uống cho đến khi nào giết được ông ta. Bây giờ, họ đã sẵn sàng, chỉ chờ ngài chấp thuận!” Viên tư lệnh cho cậu thanh niên ra về và dặn: “Cậu đừng nói cho ai biết rằng cậu đã báo cáo những điều này cho ta!” Rồi ông gọi hai đội trưởng vào ra lệnh: “Hãy chuẩn bị sẵn sàng hai trăm bộ binh, bảy mươi kỵ binh và hai trăm lính cầm giáo, ngay chín giờ tối nay xuất quân đi Sê-sa-rê. Cũng sắm sửa ngựa cho Phao-lô cưỡi để đưa ông ta lên thống đốc Phê-lít cho an toàn!” Viên tư lệnh cũng viết một công văn như sau: “Cơ-lâu Ly-sia,Kính gởi ngài thống đốc Phê-lít,Kính chào ngài thống đốc. Người Do Thái bắt người này sắp giết đi, thì tôi đem quân vào cứu kịp, vì biết rằng đương sự có quốc tịch La Mã. Muốn biết rõ tội trạng họ tố cáo, tôi đã đưa đương sự ra Hội Đồng. Tôi chỉ thấy họ tố cáo đương sự những vấn đề giáo luật của họ, chứ chẳng có tội gì đáng xử tử hoặc bỏ tù. Được tin có âm mưu ám hại đương sự, nên tôi lập tức giải đương sự lên trình thống đốc. Tôi cũng ra lệnh cho bọn nguyên cáo đến hầu quý tòa để trình bày cáo trạng...” Tuân lệnh, lính La Mã đang đêm đưa Phao-lô xuống tận An-ti-ba-tri. Hôm sau, kỵ binh tiếp tục đem ông đến Sê-sa-rê, còn các đơn vị khác quay về đồn. Đến Sê-sa-rê, đội kỵ binh trình công văn và giao nạp Phao-lô cho thống đốc. Đọc công văn và hỏi quê quán của Phao-lô cùng biết được ông gốc tỉnh Si-li-si, thống đốc bảo: “Khi nào bọn nguyên cáo đến hầu tòa, tôi sẽ nghe anh khai!” Rồi thống đốc ra lệnh giam giữ Phao-lô trong điện Hê-rốt. Năm ngày sau, trưởng tế A-na-nia xuống Sê-sa-rê, cùng với các trưởng lão và một nhà hùng biện tên Tê-tu-lu để tố cáo Phao-lô trước tòa thống đốc. Khi Phao-lô được gọi đến, Tê-tu-lu bắt đầu buộc tội như sau: “Thưa ngài thống đốc, nhờ ngài thấy xa, thi hành cải cách, mà quốc gia chúng tôi được hưởng thái bình lâu dài. Vì thế, thưa ngài thống đốc Phê-lít! Bất cứ nơi nào và bất luận việc gì, chúng tôi cũng xin hoan nghênh ngài với cả tấm lòng tri ân. Nhưng muốn khỏi phiền ngài thêm nữa, kính xin ngài kiên nhẫn nghe chúng tôi trình bày vắn tắt vài lời. Chúng tôi bắt gặp tên ôn dịch này giữa lúc nó đi lại xúi giục người Do Thái khắp thế giới. Nó là tên đầu đảng phe Na-xa-rét; Nó còn toan tính làm ô uế Đền Thờ, nên chúng tôi bắt nó, và chúng tôi muốn xử nó theo luật của chúng tôi. Ngài có thể đích thân thẩm vấn nó mọi chi tiết để biết rõ những điều chúng tôi tố cáo.” Các nhà lãnh đạo Do Thái cũng hùa theo, quả quyết rằng nội vụ thật đúng như vậy. Thống đốc ra dấu bảo Phao-lô khai, ông liền nói: “Tôi biết ngài đã làm thẩm phán cho nước này lâu năm nên tôi hân hoan tự biện hộ. Như ngài có thể phối kiểm, tôi vừa về Giê-ru-sa-lem để thờ phượng không quá mười hai ngày nay. Họ không hề bắt gặp tôi, hoặc trong Đền Thờ, hoặc trong các hội đường, hoặc trong thành phố, đang tranh luận với ai hay tụ tập đám đông bao giờ. Họ cũng chẳng đưa ra được tang chứng nào về những điều họ tố cáo tôi. Nhưng tôi xin nhìn nhận với ngài một điều: Tôi thờ phượng Đức Chúa Trời của tổ tiên theo Đạo mà họ bảo là một bè phái. Tôi tin tất cả những điều ghi chép trong Kinh Luật Môi-se và Kinh Tiên Tri. Cũng như họ, tôi đặt niềm hy vọng nơi Đức Chúa Trời, trông mong sự sống lại của kẻ chết, cả người công chính lẫn người bất chính. Do đó, tôi luôn luôn cố gắng giữ lương tâm không chê trách trước mặt Đức Chúa Trời và loài người. Sau nhiều năm xa vắng, tôi về thăm tổ quốc, đem theo nhiều tặng phẩm cứu tế và lễ vật dâng hiến. Khi họ bắt gặp tôi trong Đền Thờ, thì tôi đang làm lễ tẩy sạch, chứ tôi không tụ tập dân chúng hoặc gây náo loạn gì cả. Nhưng mấy người Do Thái quê tỉnh Tiểu Á, nếu họ có điều gì khiếu nại thì cứ đứng ra tố cáo tôi đi, hay các người ở đây phải cho tôi biết tôi đã phạm tội gì khi tôi ứng hầu trước Hội Đồng, họa chăng chỉ có một câu tôi lớn tiếng giãi bày: ‘Tôi bị ra tòa hôm nay chỉ vì tin rằng người chết sẽ sống lại!’” Thống đốc Phê-lít đã biết rõ về Đạo nên cho hoãn phiên tòa: “Khi nào Tư lệnh Ly-sia đến đây, ta sẽ phán quyết nội vụ!” Thống đốc ra lệnh cho một đội trưởng canh giữ Phao-lô, nhưng để ông được thong thả và cho phép bạn hữu ông cung cấp những gì cần thiết. Mấy ngày sau, Phê-lít cùng vợ là Đa-ru-si, người Do Thái, đến tòa án cho gọi Phao-lô và nghe ông giảng giải về đức tin trong Chúa Cứu Thế Giê-su. Nghe Phao-lô giải luận về công chính, tự chủ và cuộc phán xét tương lai, Phê-lít lo sợ bảo: “Bây giờ anh về đi! Khi nào có dịp, tôi sẽ gọi lại!” Đồng thời, Phê-lít cũng mong Phao-lô đút lót cho mình nên thường đòi ông đến nói chuyện. Hai năm sau, Bốt-kiu Phê-tu đến thay Phê-lít. Muốn được lòng người Do Thái, Phê-lít cứ giam giữ Phao-lô trong ngục. Sau khi nhậm chức được ba ngày, thống đốc Phê-tu rời Sê-sa-rê lên Giê-ru-sa-lem. Các thượng tế và các nhà lãnh đạo Do Thái buộc tội Phao-lô, và xin thống đốc đặc ân cho giải ông về Giê-ru-sa-lem (vì họ định phục kích giết ông dọc đường). Vì thế, Phê-tu đáp: “Phao-lô đang bị giam giữ tại Sê-sa-rê và chính ta cũng sắp về đó. Vậy một vài bậc lãnh đạo trong vòng các ông hãy theo ta xuống đó, nếu đương sự có tội gì thì cứ việc tố cáo!” Phê-tu lưu lại với họ tám hoặc mười ngày, rồi xuống Sê-sa-rê. Hôm sau thống đốc ra tòa, truyền lệnh giải Phao-lô đến. Phao-lô vừa vào tòa án, những người Do Thái ở Giê-ru-sa-lem xuống liền vây quanh tố cáo ông nhiều tội nặng nhưng không nêu được bằng chứng. Phao-lô tự biện hộ: “Tôi chẳng phạm tội gì trái luật Do Thái, hoặc xúc phạm Đền Thờ, hoặc chống nghịch hoàng đế La Mã bao giờ.” Nhưng Phê-tu muốn được lòng dân Do Thái, nên hỏi Phao-lô: “Anh có muốn lên Giê-ru-sa-lem cho ta xét xử việc này không?” Phao-lô đáp: “Tôi đang ứng hầu trước tòa án Hoàng Đế là nơi tôi phải được xét xử. Tôi chẳng phạm tội gì với người Do Thái, chính ngài thống đốc thừa biết như thế. Vậy nếu tôi phạm pháp hoặc làm gì đáng bị tử hình thì tôi không xin tha chết đâu! Nhưng nếu họ tố cáo tôi vô bằng cớ thì không ai có quyền nộp tôi cho họ. Tôi khiếu nại lên Hoàng Đế!” Phê-tu thảo luận với các cố vấn rồi đáp: “Anh đã khiếu nại lên Hoàng Đế thì sẽ được ứng hầu Hoàng Đế!” Mấy ngày sau vua Ạc-ríp-ba và Bê-rê-nít đến Sê-sa-rê chào Phê-tu. Hai người lưu lại đây nhiều ngày; Phê-tu đem vụ Phao-lô trình bày với vua: “Phê-lít có để lại một tù nhân. Khi tôi ở Giê-ru-sa-lem các thượng tế và các trưởng lão Do Thái buộc tội nó và yêu cầu tôi kết án. Tôi đáp rằng theo thông lệ La Mã, không thể nào giải nạp một bị cáo khi chưa có dịp đối chất với nguyên cáo để tự bào chữa. Khi họ họp tại đây, tôi triệu tập phiên tòa ngay hôm sau, không trì hoãn và truyền giải đương sự đến. Các nguyên cáo đứng trước tòa chẳng tố cáo đương sự về tội ác nào như tôi tưởng, nhưng chỉ tranh chấp với đương sự về những vấn đề trong tôn giáo của họ và về một người tên Giê-su đã chết nhưng Phao-lô quả quyết vẫn còn sống. Tôi thật khó hiểu cuộc tranh luận này nên hỏi Phao-lô có muốn lên Giê-ru-sa-lem để hầu tòa về vụ này không. Khi Phao-lô khiếu nại xin trình lên Hoàng Đế phán quyết, thì tôi ra lệnh cứ giam giữ đương sự cho đến ngày giải nạp đương sự lên Hoàng Đế.” Ạc-ríp-ba bảo Phê-tu: “Chính ta cũng muốn nghe người ấy nói!” Phê-tu thưa: “Ngày mai, bệ hạ sẽ nghe!” Hôm sau, Ạc-ríp-ba và bà Bê-rê-nít ngự vào công đường với nghi lễ long trọng cùng các quan cao cấp và các nhà lãnh đạo trong thành phố. Phê-tu ra lệnh điệu Phao-lô đến, rồi ngỏ lời: “Tâu bệ hạ và tất cả quý vị quan khách, Người này đã bị toàn dân Do Thái xin tôi kết án, tại Giê-ru-sa-lem cũng như tại Sê-sa-rê đây. Họ nói rằng đương sự không đáng sống nữa. Tôi thấy đương sự chẳng phạm tội gì đáng xử tử cả, nhưng vì đương sự khiếu nại lên Hoàng Đế La Mã nên tôi quyết định giải đương sự đến Rô-ma. Tuy nhiên, tôi chưa có lý do gì cụ thể để viết sớ tâu trình hoàng đế. Vì thế, tôi cho điệu đương sự đến hầu quý vị, nhất là bệ hạ, tâu vua Ạc-ríp-ba, để nhờ cuộc điều tra này mà tôi có tài liệu viết sớ. Thiết tưởng giải nạp một tù nhân mà không định rõ tội trạng thật là phi lý!” Vua Ạc-ríp-ba bảo Phao-lô: “Nhà ngươi được phép tự biện hộ!” Vậy, Phao-lô đưa tay lên rồi tự bào chữa: “Tâu vua Ạc-ríp-ba!Tôi lấy làm may mắn được hầu tòa bệ hạ hôm nay để tự biện hộ về những điều người Do Thái tố cáo tôi, đặc biệt nhất vì bệ hạ đã quen thuộc cả phong tục, tập quán lẫn những cuộc tranh chấp của người Do Thái. Vì thế, kính xin bệ hạ kiên nhẫn nghe tôi trình bày. Người Do Thái đều biết rõ nếp sống tôi từ thời thơ ấu. Họ biết từ ban đầu tôi đã sinh hoạt cách nào tại quê hương cũng như tại Giê-ru-sa-lem. Họ đã biết tôi từ lâu và có thể làm chứng là tôi đã hành xử đúng với cung cách người Pha-ri-si, là phái nghiêm khắc nhất của tôn giáo chúng tôi. Bây giờ, chính vì niềm hy vọng nơi lời hứa của Đức Chúa Trời với tổ tiên tôi mà hôm nay tôi phải bị xét xử. Lời hứa ấy cả mười hai chi tộc chúng tôi đều hy vọng được hưởng trong khi sốt sắng thờ phượng Đức Chúa Trời ngày đêm. Muôn tâu, chính vì niềm hy vọng ấy mà tôi đang bị người Do Thái tố cáo! Tại sao trong quý vị có người cho rằng việc Đức Chúa Trời khiến người chết sống lại là điều không thể nào tin được? Chính tôi đã từng nghĩ rằng phải tìm đủ cách chống lại Danh Giê-su ở Na-xa-rét. Đó là điều tôi đã thi hành tại Giê-ru-sa-lem. Được các thượng tế ủy quyền, tôi đã bắt bớ nhiều người thánh, tống giam họ vào ngục; và khi họ bị kết án xử tử thì tôi cũng tán thành. Nhiều phen tôi đi khắp các hội đường để trừng phạt họ, cố gắng ép buộc họ nói phạm thượng. Tôi căm giận họ đến nỗi đi ra tận các thành phố ngoại quốc để bắt bớ họ. Chính vì mục đích ấy, sau khi được các thượng tế ủy quyền và cho phép, tôi đi lên Đa-mách. Trên đường đi, vào lúc giữa trưa, muôn tâu, tôi bỗng thấy ánh sáng từ trời, sáng hơn cả mặt trời, ánh sáng chiếu xuống chung quanh tôi và các bạn đồng hành. Tất cả chúng tôi đều ngã nhào xuống đất. Tôi nghe một tiếng phán cùng tôi bằng ngôn ngữ Hy Bá: ‘Sau-lơ, Sau-lơ, sao ngươi bức hại Ta? Đá vào gậy nhọn thì phải chịu đau đớn!’ Tôi hỏi: ‘Lạy Chúa, Ngài là ai?’ Chúa đáp: ‘Ta là Giê-su mà ngươi đang bức hại! Nhưng hãy ngồi dậy, đứng lên! Ta xuất hiện gặp con nhằm mục đích lập con làm đầy tớ và nhân chứng về những điều con thấy nơi Ta cùng những điều Ta sẽ tỏ cho con sau này. Ta sẽ giải cứu con khỏi người Do Thái và các dân tộc ngoại quốc mà Ta sai con đến để mở mắt họ, dìu dắt họ từ tối tăm quay về ánh sáng, từ quyền lực của Sa-tan trở lại với Đức Chúa Trời, và nhờ tin Ta họ được tha tội và hưởng phần cơ nghiệp với các thánh đồ.’ Muôn tâu, vì thế, tôi không dám bất phục khải tượng từ trời. Nhưng tôi kêu gọi mọi người, trước hết ở Đa-mách, rồi sau tại Giê-ru-sa-lem, khắp cả vùng Giu-đê và các dân ngoại phải ăn năn, quay về Đức Chúa Trời và làm công việc xứng hợp với sự ăn năn. Vì lý do đó, người Do Thái đã bắt tôi trong Đền Thờ và toan giết tôi. Nhưng tôi đã được Đức Chúa Trời phù hộ cho đến ngày nay, nên tôi còn đứng đây làm chứng cho mọi người lớn nhỏ, không nói gì hơn những điều các tiên tri của Chúa và Môi-se tiên báo sẽ xảy ra, tức là Chúa Cứu Thế sẽ phải chịu thương khó nhưng sẽ sống lại đầu tiên trong số những người đã chết, rồi công bố ánh sáng cho dân Ngài và các dân tộc ngoại quốc.” Đến đây, Phê-tu lớn tiếng ngắt lời Phao-lô: “Ngươi điên rồi, Phao-lô ơi! Ngươi học quá nhiều đến nỗi quẫn trí!” Phao-lô đáp: “Thưa ngài thống đốc, tôi không điên đâu! Tôi chỉ nói lên sự thật và những lời hợp lý. Đức vua thừa biết những sự kiện này nên tôi bạo dạn trình bày. Tôi tin chắc rằng trong những việc này, chẳng có điều nào che giấu được đức vua vì sự việc không xảy ra trong bóng tối đâu! Muôn tâu, bệ hạ có tin các tiên tri của Chúa không? Tôi biết bệ hạ tin!” Vua Ạc-ríp-ba bảo Phao-lô: “Chỉ trong thời gian ngắn ngủi mà ngươi tưởng có thể làm cho ta thành môn đồ Chúa Cứu Thế sao?” Phao-lô đáp: “Dù thời gian dài hay ngắn, tôi cầu xin Đức Chúa Trời cho bệ hạ và tất cả quý vị đang nghe tôi nói hôm nay đều trở thành như tôi, ngoại trừ xiềng xích này!” Vua Ạc-ríp-ba, thống đốc, bà Bê-rê-nít và tất cả quan khách đều đứng dậy. Khi ra về, họ bảo nhau: “Người này chẳng làm điều gì đáng xử tử hoặc bỏ tù cả!” Vua Ạc-ríp-ba bảo Phê-tu: “Nếu đương sự không khiếu nại lên Hoàng Đế thì có thể phóng thích!” Khi đã quyết định cho chúng tôi đi tàu thủy qua nước Y-ta-li, người ta giao Phao-lô và vài tù nhân khác cho đội trưởng Giu-li, thuộc trung đoàn ngự lâm quân. Chúng tôi đáp một chiếc tàu đến từ A-tra-mít sắp chạy về các hải cảng tỉnh Tiểu Á. Tàu nhổ neo ra khơi. Có A-ri-tạc, người Ma-xê-đoan ở Tê-sa-lô-ni-ca, cùng đi với chúng tôi. Hôm sau, chúng tôi đến Si-đôn. Đội trưởng Giu-li đối xử tử tế với Phao-lô, cho phép ông đi thăm bạn hữu và được họ chăm sóc. Rời bến Si-đôn, vì bị ngược gió, tàu chúng tôi phải chạy sát đảo Síp. Chúng tôi vượt ngang hải phận Si-li-si và Bam-phi-li, đến My-ra, thuộc Ly-sia. Tại đây, đội trưởng thấy một chiếc tàu từ A-lê-xan-đơ-ri đến, sắp đi Y-ta-li, liền cho chúng tôi lên tàu. Tàu chúng tôi chạy chậm chạp mất nhiều ngày, phải vất vả lắm mới đến ngang thành phố Cơ-nít. Vì gió ngược, tàu phải chạy sát đảo Cơ-rết vượt ngang Mũi Sanh-môn. Cứ chạy sát bờ biển, chật vật lắm tàu mới đến một bến gọi là Mỹ Cảng, gần thành phố La-sê. Chúng tôi ở lại đây một thời gian dài, quá ngày đại lễ Chuộc Tội; đến lúc này vượt biển thật là nguy hiểm. Phao-lô khuyên họ: “Thưa các ông, tôi nhận thấy chuyến hải trình từ đây thật nguy hiểm, chẳng những thiệt hại lớn cho chiếc tàu và hàng hóa, mà còn nguy hiểm cho tính mạng chúng ta nữa.” Nhưng đội trưởng Giu-li tin lời bàn của thuyền trưởng và chủ tàu hơn lời Phao-lô nói. Vì hải cảng này không tiện đậu mùa đông, nên đa số đồng ý ra khơi, để may ra có thể chạy đến Phê-nít để tạm trú qua mùa đông. Phê-nít là một hải cảng của đảo Cơ-rết, ngó ra hướng tây nam và tây bắc. Thấy gió nam bắt đầu thổi nhẹ, họ tưởng có thể thực hiện được điều dự định, nên nhổ neo chạy dọc theo bờ đảo Cơ-rết. Chẳng bao lâu, một trận bão dữ dội tên là Đông Bắc từ trên đảo thổi quật xuống. Tàu bị bão dập dồi, không thể nào chạy ngược chiều gió được nữa, nên chúng tôi bỏ mặc cho gió cuốn tàu đi. Tạt ngang phía nam một đảo nhỏ tên là Cơ-lô-đa, chúng tôi phải chật vật lắm mới giữ được chiếc thuyền cấp cứu. Người ta kéo thuyền lên và tìm cách buộc chặt tàu lại. Sợ bị mắc cạn trên bãi cát ngoài hải phận Si-rơ-tơ, nên họ thả neo xuống, để mặc cho tàu bị cuốn đi. Bão tiếp tục thổi vô cùng dữ dội, nên hôm sau, người ta quăng hàng hóa xuống biển. Ngày thứ ba, hành khách tự tay ném dụng cụ trên tàu xuống biển. Suốt nhiều ngày, mặt trời không xuất hiện, các ngôi sao cũng không, mà bão thì cứ tiếp tục thổi rất mạnh. Rốt cuộc, chúng tôi đành tuyệt vọng, không còn mong được cứu thoát nữa. Sau khi cả tàu nhịn ăn lâu ngày, Phao-lô đứng dậy giữa mọi người khuyên nhủ: “Thưa các ông, giá các ông nghe lời tôi và không rời đảo Cơ-rết thì đã khỏi bị thiệt hại mất mát như thế này. Nhưng bây giờ, tôi khuyên các ông hãy vui lên! Vì không một ai trong các ông thiệt mạng cả, chỉ mất chiếc tàu mà thôi. Đêm qua, một thiên sứ của Đức Chúa Trời đứng bên tôi bảo rằng: ‘Phao-lô ơi! Đừng sợ vì anh phải ứng hầu Hoàng Đế La Mã và này, Đức Chúa Trời đã ban cho anh tất cả những người đồng thuyền với anh, tôi thuộc về Đức Chúa Trời và đang phục vụ Ngài. *** Vậy, xin các ông hãy vui lên đi! Vì tôi tin chắc nơi Đức Chúa Trời rằng sự việc sẽ xảy ra như lời đã phán cùng tôi. Nhưng chắc hẳn chúng ta sẽ phải tấp vào một hòn đảo nào đó!’ Đã đến đêm thứ mười bốn mà chúng tôi vẫn lênh đênh giữa biển A-đờ-ria. Khoảng nửa đêm, các thủy thủ đoán rằng tàu chúng tôi đang tới gần một vùng đất nào đó. Họ thả trái dò đo được hai mươi sải; đi một ít nữa, lại dò thấy mười sải. Sợ tàu đụng phải đá ngầm, họ thả bốn neo đặt sau lái xuống biển, đợi đến sáng. Các thủy thủ tìm cách trốn khỏi tàu nên họ hạ chiếc thuyền con xuống giả bộ đi thả neo trước mũi tàu. Phao-lô bảo đội trưởng Giu-li và các binh sĩ: ‘Nếu những người này không ở lại trên tàu thì quý ông không được cứu thoát đâu!’” Các binh sĩ liền cắt các dây buộc, cho chiếc thuyền con rơi xuống biển. Trời gần sáng, Phao-lô nài khuyên mọi người hãy ăn: “Hôm nay nữa là được mười bốn ngày các ông nhịn ăn, chờ đợi, không ăn gì cả. Vì thế, tôi nài khuyên các ông hãy ăn để bảo toàn mạng sống. Vì không một ai trong các ông sẽ mất đến một sợi tóc trên đầu!” Vừa nói ông vừa lấy bánh, tạ ơn Đức Chúa Trời trước mặt mọi người rồi bẻ ăn. Mọi người đều được khích lệ nên cũng ăn. Tổng số người trên tàu đếm được hai trăm bảy mươi sáu. Ăn no nê xong, người ta quăng lúa mì xuống biển cho nhẹ tàu. Trời đã sáng, các thủy thủ cũng không nhận ra được đó là vùng đất nào; nhưng thấy một cái vịnh có bãi cát, họ quyết định cho tàu cập vào đó. Họ cắt neo bỏ xuống biển, đồng thời mở dây buộc lái tàu, kéo buồm đàng mũi lên cho tàu theo chiều gió chạy vào bờ. Nhưng tàu chạy nhằm chỗ hai dòng nước gặp nhau, nên bị mắc cạn, mũi tàu cắm xuống bãi cát ngầm, không xoay trở được, trong khi phía đuôi tàu bị sóng đánh tan nát. Binh sĩ bàn định giết các tù nhân vì sợ có người lội trốn thoát, nhưng đội trưởng Giu-li muốn cứu Phao-lô nên bác bỏ đề nghị này. Đội trưởng ra lệnh: “Những người biết bơi cứ nhảy xuống nước trước để vào bờ, số còn lại bám vào các tấm ván, hoặc các mảnh vỡ của chiếc tàu.” Thế là tất cả đều vào tới bờ an toàn. Thoát nạn rồi, chúng tôi mới biết đây là đảo Man-ta. Thổ dân tỏ lòng tử tế khác thường với chúng tôi. Họ nhóm một đám lửa để hoan nghênh tất cả chúng tôi vì trời đang mưa và lạnh lẽo. Phao-lô lượm một bó củi chất vào lửa, bỗng một con rắn độc bị nóng bò ra quấn chặt vào bàn tay ông. Thấy con rắn đeo trên tay Phao-lô, thổ dân bảo nhau: “Anh này đúng là tay giết người nên dù thoát chết ngoài khơi mà công lý vẫn không cho sống nữa!” Nhưng Phao-lô rảy con rắn vào lửa mà không hề hấn gì cả. Thổ dân chắc rằng ông sẽ bị sưng phù lên hoặc ngã chết tức khắc; nhưng đợi đã lâu mà không thấy ông bị hại gì, họ lại đổi ý, tôn xưng ông là một vị thần. Cạnh nơi này có đất đai của tù trưởng đảo Man-ta, tên là Búp-li-u. Tù trưởng đón chúng tôi về nhà và tiếp đãi thân mật trọn ba ngày. Thân phụ của Búp-li-u bị sốt nặng và kiết lỵ, phải nằm liệt giường. Phao-lô vào thăm, cầu nguyện và đặt tay chữa lành. Sau việc đó, những người đau yếu khác trên đảo cũng kéo đến và đều được chữa lành. Họ cho chúng tôi nhiều quà. Khi rời đảo, chúng tôi được họ cung cấp đầy đủ mọi thứ cần dùng. Ba tháng sau, chúng tôi đáp một chiếc tàu tên là thần Song Sinh từ cảng A-lê-xan-đơ-ri đến, tàu này đã trú mùa đông tại đảo. Đến Si-ra-cu-sơ chúng tôi ở lại ba ngày. Từ đó tàu chạy đến thành Rê-ghi-um. Hôm sau, gió nam bắt đầu thổi, nên chạy hai ngày chúng tôi đến thành Bu-tô-lơ. Tại đây gặp anh em tín hữu, và được họ thiết tha mời mọc, chúng tôi ở lại với họ bảy ngày, rồi lên đường đi Rô-ma. Anh em tín hữu Rô-ma nghe tin chúng tôi đến đã ra tận quảng trường Áp-bi-u và Ba Quán đón tiếp. Thấy anh em, Phao-lô cảm tạ Đức Chúa Trời và vững lòng. Vào đến thủ đô Rô-ma, đội trưởng Giu-li cho phép Phao-lô ở riêng với một binh sĩ canh giữ. Ba ngày sau, Phao-lô mời các cấp lãnh đạo Do Thái địa phương họp mặt. Phao-lô trình bày: “Thưa các anh em, tôi chẳng làm điều gì chống nghịch dân chúng hoặc phạm đến tục lệ của tổ tiên, nhưng tôi bị bắt tại Giê-ru-sa-lem và giao nạp cho người La Mã. Họ đã thẩm tra, và định trả tự do cho tôi vì họ không thấy tôi có tội nào đáng xử tử cả. Nhưng một số người Do Thái phản đối, nên buộc lòng tôi phải khiếu nại lên Hoàng Đế La Mã, chứ không phải tôi có điều gì tố cáo quốc dân ta đâu! Vậy, vì lý do đó tôi mời anh em đến để gặp gỡ, chuyện trò; chính vì niềm hy vọng của Y-sơ-ra-ên mà tôi phải mang chiếc xiềng này.” Họ đáp: “Chúng tôi chẳng được thư từ gì từ xứ Giu-đê nói về anh, cũng chẳng có đồng bào nào đến đây báo cáo hoặc nói xấu anh cả. Nhưng thiết tưởng cũng nên xin anh cho biết ý kiến vì chúng tôi được biết giáo phái này bị chống đối khắp nơi.” Đúng ngày hẹn, họ kéo đến đông đảo gặp Phao-lô tại nhà trọ. Từ sáng đến chiều ông làm chứng, trình bày về Nước Đức Chúa Trời, trưng dẫn Kinh Luật Môi-se và các Kinh Tiên Tri, cố gắng thuyết phục họ tin nhận Đức Giê-su. Một số người chịu thuyết phục, còn những kẻ khác không chịu tin. Họ không đồng ý với nhau và giải tán, sau khi Phao-lô nói câu này: “Thánh Linh đã dùng tiên tri của Ngài là I-sa phán bảo tổ phụ các anh thật đúng: ‘Hãy đi bảo dân này rằng:Các ngươi cứ nghe mãi mà không hiểu.Các ngươi cứ nhìn hoài mà chẳng thấy, Vì tâm trí dân này đã chai lì,Tai nặng không nghe,Mắt nhắm chẳng chịu thấy.Họ ngại rằng mắt họ thấy rõ,Tai họ nghe ra,Trí họ hiểu được,Thì họ quay về với Ta, Đức Chúa Trời phán, Rồi Ta chữa lành cho họ.’” Phao-lô kết luận: “Vậy, anh em phải biết rằng sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời đã được truyền bá cho các dân tộc ngoại quốc. Họ sẽ nghe theo!” Nghe nói xong, người Do Thái ra về, cãi nhau dữ dội. Phao-lô ở tại nhà trọ suốt hai năm, tiếp đón tất cả những người đến thăm, truyền giảng Nước Đức Chúa Trời và mạnh dạn dạy dỗ về Chúa Cứu Thế Giê-su, không bị ai ngăn cấm. Tôi là Phao-lô, tôi tớ của Chúa Cứu Thế Giê-su, được kêu gọi làm sứ đồ và biệt riêng ra để truyền bá Phúc Âm của Đức Chúa Trời.Kính gởi tất cả các thánh đồ, là những người được Đức Chúa Trời yêu dấu tại Rô-ma. Phúc Âm này là về Con Ngài đã hứa từ trước qua các tiên tri của Ngài trong Kinh Thánh, là Đấng về thể xác thì ra từ dòng dõi vua Đa-vít, về tâm linh thánh khiết thì được tuyên bố là Con quyền năng của Đức Chúa Trời bởi sự sống lại từ cõi chết, đó là Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta; nhờ Ngài chúng tôi nhận được ân sủng và chức sứ đồ để vì danh Ngài đem mọi dân tộc đến sự tùng phục dựa trên đức tin; trong số những người được kêu gọi thuộc về Chúa Cứu Thế Giê-su cũng có anh chị em nữa. Nguyện xin Đức Chúa Trời, Cha chúng ta và Chúa Cứu Thế Giê-su ban ân sủng và bình an cho anh chị em. Trước hết, nhờ Chúa Cứu Thế Giê-su tôi tạ ơn Đức Chúa Trời tôi về hết thảy anh chị em vì đức tin anh chị em được đồn khắp thế giới. Vì Đức Chúa Trời, Đấng tôi hết lòng phụng sự trong việc rao giảng Phúc Âm về Con Ngài, chứng giám cho tôi rằng tôi không ngớt nhắc đến anh chị em mỗi khi cầu nguyện, nài xin Đức Chúa Trời giờ đây thuận ý cho tôi có lúc nào đó được dịp tiện đến cùng anh chị em. Vì tôi mong mỏi gặp anh chị em để chia sẻ cho anh chị em linh ân nhằm gây dựng anh chị em nghĩa là để chúng ta cùng khuyến khích nhau bởi đức tin của anh chị em và của tôi. Hỡi anh chị em, tôi không muốn anh chị em chẳng biết rằng đã bao lần tôi toan tính đến cùng anh chị em, để gặt hái ít nhiều bông trái giữa vòng anh chị em cũng như giữa vòng người ngoại quốc khác vậy, nhưng đều bị ngăn trở cho đến bây giờ. Tôi mắc nợ cả người văn minh lẫn người lạc hậu, cả người thông thái lẫn người dốt nát. Vì thế tôi cũng nóng lòng đến giảng Phúc Âm cho anh chị em là những người ở Rô-ma nữa. Thật vậy, tôi không hổ thẹn về Phúc Âm vì đây là quyền năng của Đức Chúa Trời để cứu mọi người tin, trước là người Do Thái và sau là người Hy Lạp. Vì trong Phúc Âm ấy sự công chính của Đức Chúa Trời được tỏ ra từ đức tin đến đức tin như Kinh Thánh chép: “Này, người công chính sẽ sống bởi đức tin.” Vì cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời đã bộc lộ từ trời nghịch lại mọi hình thức không tôn kính Đức Chúa Trời và bất chính của những người lấy bất chính áp chế sự thật. Bởi những gì có thể biết về Đức Chúa Trời đều rõ ràng đối với họ vì Đức Chúa Trời đã tỏ bày cho họ rồi. Vì những gì của Đức Chúa Trời mà mắt trần không thấy được, kể cả quyền năng vĩnh cửu lẫn thần tính của Ngài, thì từ thuở sáng tạo vũ trụ đã được thấy rõ nhờ nhận thức về các tạo vật, nên họ không còn cách nào bào chữa được. Vì họ đã biết Đức Chúa Trời nhưng không tôn vinh cảm tạ Ngài là Đức Chúa Trời, trái lại họ suy tưởng những chuyện hư không và lòng dạ ngu dốt của họ ra tăm tối. Tự cho mình là khôn ngoan, họ đã trở thành ngu dại, đổi vinh quang của Đức Chúa Trời bất diệt ra giống như hình tượng của loài người hư nát, của chim trời, của thú đồng và loài bò sát. Vì thế theo dục vọng của lòng họ, Đức Chúa Trời đã bỏ mặc họ đắm chìm vào trong sự nhơ nhuốc đến nỗi họ cùng làm nhục thân thể mình với nhau. Họ đổi chân lý Đức Chúa Trời lấy điều giả trá và thờ lạy, phụng sự tạo vật thay vì Đấng Tạo Hóa, là Đấng đáng được chúc tôn đời đời, A-men. Bởi đó Đức Chúa Trời đã bỏ mặc họ cho tình dục bỉ ổi, ngay cả đàn bà cũng đổi cách luyến ái tự nhiên ra cách trái tự nhiên, đàn ông cũng vậy, bỏ cách luyến ái tự nhiên với đàn bà mà un đốt cuồng dục lẫn nhau, đàn ông làm điều đồi bại với đàn ông, và chuốc lấy cho mình quả báo xứng với sự sai lạc của họ. Và vì họ cho rằng không đáng nhận biết Đức Chúa Trời, nên Đức Chúa Trời cũng phó mặc họ cho tâm trí hư hỏng để làm những điều trái đạo đức. Họ đầy dẫy mọi thứ bất chính, xấu xa, tham lam, gian ác, đầy lòng ganh ghét, sát nhân, tranh cãi, man trá, hiểm độc, nói hành, gièm chê, thù ghét, xấc xược, kiêu căng, khoác lác, khéo bày việc ác, không vâng phục cha mẹ, u mê, thất tín, vô tâm, bất nhân. Tuy họ biết rõ theo án luật của Đức Chúa Trời, những kẻ nào làm những điều như thế thì đáng chết, vậy mà chẳng những họ làm những điều đó mà thôi, nhưng còn tán thành cho những kẻ khác làm nữa. Vậy, hỡi ngươi là người lên án người khác, ngươi không làm sao bào chữa được, bởi khi ngươi lên án người khác là ngươi lên án chính mình vì ngươi làm chính những điều ngươi lên án. Vì chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời theo chân lý phán xét người làm những việc như thế. Hỡi người, ngươi làm chính điều mà khi người khác làm thì ngươi lên án, ngươi tưởng mình sẽ thoát được sự phán xét của Đức Chúa Trời sao? Hay ngươi khinh thường lòng đầy nhân từ, khoan dung và nhẫn nại của Ngài mà không nhận biết rằng sự nhân từ của Đức Chúa Trời là để dẫn ngươi đến hối cải sao? Nhưng cứ theo lòng chai lì và không hối cải của ngươi, ngươi tích trữ cho mình thịnh nộ vào ngày thịnh nộ, là ngày sự đoán xét công bình của Đức Chúa Trời sẽ bày tỏ. Ngài là Đấng báo ứng từng người tùy theo việc họ làm. Một mặt Ngài ban sự sống vĩnh phúc cho những ai kiên tâm làm lành, tìm kiếm vinh quang, danh dự và sự bất diệt. Mặt khác Ngài dành lôi đình thịnh nộ cho những kẻ kiếm tư lợi không vâng theo chân lý nhưng vâng theo sự bất chính. Ngài giáng hoạn nạn và khốn khổ trên mọi kẻ làm ác, trước là người Do Thái, sau là người Hy Lạp, nhưng ban vinh quang, danh dự và bình an cho mọi người làm lành, trước là người Do Thái, sau là người Hy Lạp. Bởi Đức Chúa Trời không thiên vị ai. Vì những ai không có kinh luật mà phạm tội thì cũng sẽ không kinh luật mà hư mất; còn ai có kinh luật mà phạm tội thì sẽ bị xét đoán theo kinh luật. Vì không phải hễ nghe suông kinh luật là trở thành công chính trước mặt Đức Chúa Trời nhưng ai tuân giữ kinh luật mới được xưng công chính. Vì khi người ngoại quốc không có kinh luật mà tự nhiên làm những điều kinh luật dạy, dù không có kinh luật thì đó cũng là kinh luật cho họ rồi. Họ tỏ ra rằng những điều kinh luật đòi hỏi đã được ghi trong lòng họ, lương tâm họ cũng chứng thực như thế, và tư tưởng họ tranh biện nhau khi thì lên án, khi thì bênh vực vào ngày mà Đức Chúa Trời, bởi Chúa Cứu Thế Giê-su phán xét những điều kín giấu của loài người y theo Phúc Âm của tôi. Nhưng nếu ngươi tự đắc mình là dòng giống Do Thái, ỉ lại vào kinh luật và khoe mình trong Đức Chúa Trời, hiểu biết ý chỉ Chúa cùng thẩm định được những điều tốt lành, nhờ được giáo huấn trong kinh luật, tự thị là người dẫn đường kẻ mù, là ánh sáng cho những người ở trong tối tăm, là người giáo hóa kẻ ngu, là thầy dạy cho những người ấu trĩ, vì trong kinh luật ngươi có được hiện thân của tri thức và chân lý. Vậy, ngươi dạy người khác mà sao không dạy chính mình? Ngươi giảng đừng trộm cắp mà sao ngươi lại trộm cắp? Ngươi bảo đừng ngoại tình sao ngươi lại ngoại tình? Ngươi gớm ghét hình tượng sao ngươi lại cướp các đền miếu? Ngươi khoe mình trong kinh luật, mà lại phạm pháp, làm nhục Đức Chúa Trời? Như Kinh Thánh chép: “Các ngươi đã làm cho Danh Đức Chúa Trời bị xúc phạm giữa dân ngoại quốc.” Thật vậy, sự cắt bì của ngươi chỉ thật có giá trị nếu ngươi thực hành kinh luật, nhưng nếu ngươi vi phạm kinh luật thì sự cắt bì của ngươi trở thành như không cắt bì. Vì thế nếu người không cắt bì mà giữ giới răn của kinh luật thì người đó sẽ chẳng được kể như đã chịu cắt bì rồi sao? Và những người thể xác không cắt bì nhưng tuân giữ kinh luật sẽ đoán xét ngươi là kẻ có kinh luật và chịu cắt bì mà vi phạm kinh luật. Vì không phải người Do Thái bề ngoài là người Do Thái thật, cũng không phải cắt bì phần xác bên ngoài là cắt bì thật. Nhưng người Do Thái thật là người Do Thái bề trong và cắt bì thật là cắt bì trong lòng, bởi Thánh Linh chứ không phải bởi văn tự. Người như thế thì được khen không phải từ người ta mà từ Đức Chúa Trời. Vậy thì người Do Thái được gì thuận lợi hơn? Hay phép cắt bì có lợi ích gì? Lợi nhiều về mọi mặt. Trước hết, người Do Thái được ký thác Lời của Đức Chúa Trời. Nhưng nếu một số người không tin nhận thì sao? Sự thất tín của họ có làm vô hiệu sự thành tín của Đức Chúa Trời không? Chắc chắn là không. Đức Chúa Trời vẫn chân thật dù mọi người đều giả dối, như có chép:“Hầu cho Chúa được công nhận là công chính khi Ngài phánVà đắc thắng khi Ngài phán xét.” Nhưng nếu sự bất chính của chúng ta làm tỏ rạng sự công chính của Đức Chúa Trời thì chúng ta sẽ nói làm sao? Có phải Đức Chúa Trời bất công khi Ngài giáng thịnh nộ trên chúng ta không? (Tôi nói theo lối người đời.) Chắc chắn là không. Nếu vậy làm sao Đức Chúa Trời phán xét thế gian được? Nhưng nếu chân lý của Đức Chúa Trời nhờ sự nói dối của tôi làm gia tăng vinh quang cho Ngài thì tại sao tôi còn bị xử như người có tội? Sao không nói như một số người đã vu khống chúng tôi, quả quyết là chúng tôi nói: “chúng ta cứ làm điều ác để có thể đem lại điều lành.” Những kẻ nói như thế là đáng bị hình phạt lắm. Vậy thì sao? Chúng ta có gì trổi hơn không? Hoàn toàn không; vì chúng tôi đã tuyên bố rằng người Do Thái lẫn người Hy Lạp, tất cả đều ở dưới quyền tội lỗi. Như có chép:“Chẳng có ai công chính cả, dù một người cũng không.Chẳng có ai hiểu biết. Chẳng có ai tìm kiếm Đức Chúa Trời;Tất cả đều lầm lạc,Đều trở thành vô ích; Chẳng ai làm điều lành,Không được lấy một người. Cổ họng chúng như huyệt mả mở toang,Lưỡi chúng lừa dối,Dưới môi chúng chứa nọc rắn độc; Miệng chúng nó đầy nguyền rủa và cay đắng; Chân chúng nó mau lẹ làm đổ máu, Chúng gieo rắc tàn phá và đau khổ trên đường chúng đi qua, Và chúng chẳng hề biết con đường bình an. Trước mắt chúng chẳng có sự kính sợ Đức Chúa Trời.” Nhưng chúng ta biết rằng những điều kinh luật dạy là dạy cho người ở dưới kinh luật để mọi miệng phải ngậm lại và để cả thế gian đều chịu tội trước Đức Chúa Trời. Vì không một cá nhân nào do việc làm theo kinh luật được xưng công chính trước mặt Ngài, vì qua kinh luật người ta nhận biết rõ được tội lỗi. Nhưng ngày nay, không cậy vào kinh luật, sự công chính của Đức Chúa Trời mà kinh luật và các tiên tri làm chứng đã được bày tỏ ra, tức là sự công chính của Đức Chúa Trời nhờ đức tin nơi Chúa Cứu Thế Giê-su, ban cho mọi người tin, không phân biệt ai cả; vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất vinh quang của Đức Chúa Trời, nhờ ân sủng của Ngài và sự cứu chuộc trong Chúa Cứu Thế Giê-su họ được xưng công chính mà không phải trả một giá nào. Đức Chúa Trời, bởi huyết của Chúa Cứu Thế Giê-su đã lập Ngài làm sinh tế chuộc tội cho mọi người tin. Như vậy Đức Chúa Trời đã tỏ ra sự công chính của Ngài bởi lòng khoan nhẫn, bỏ qua những tội phạm trong quá khứ, Ngài cũng bày tỏ ra sự công chính của Ngài trong hiện tại, chứng tỏ Ngài là công chính ngay trong việc xưng công chính người nào đặt lòng tin nơi Đức Giê-su. Vậy sự khoe khoang ở đâu? Hoàn toàn bị loại rồi. Bởi luật nào? Luật của việc làm công đức phải không? Không phải, nhưng bởi luật của đức tin. Vì chúng ta khẳng định rằng loài người được xưng công chính bởi đức tin chứ không bởi việc làm theo kinh luật. Hay Đức Chúa Trời chỉ là của người Do Thái mà không phải của các dân tộc khác? Không, Ngài là Đức Chúa Trời của người ngoại quốc nữa. Vì Đức Chúa Trời là một, Ngài sẽ tuyên xưng công chính những người chịu cắt bì bởi đức tin, và tuyên xưng công chính những người không cắt bì cũng bởi đức tin. Vậy qua đức tin chúng ta phế bỏ kinh luật sao? Chẳng phải vậy, nhưng ngược lại chúng ta làm vững kinh luật. Vậy chúng ta sẽ nói làm sao về việc Áp-ra-ham, tổ chúng ta theo phần xác, ông đã tìm thấy gì? Vì nếu Áp-ra-ham được tuyên xưng công chính bởi việc làm thì người có cớ để khoe khoang; nhưng trước mặt Đức Chúa Trời không có như vậy. Vì Kinh Thánh nói gì? “Áp-ra-ham tin Đức Chúa Trời và vì thế được kể là công chính.” Đối với người làm việc thì tiền công không được kể là ơn mà phải kể là nợ; còn đối với người không làm nhưng chỉ tin vào Đấng xưng công chính kẻ vô đạo thì đức tin của người ấy được kể là công chính. Ngay vua Đa-vít cũng nói như vậy về phước hạnh của người mà Đức Chúa Trời kể là công chính không bởi việc làm: “Phước cho ngườiĐược tha vi phạm,Được khỏa lấp tội lỗi; Phước cho những aiMà Chúa sẽ chẳng bắt tội.” Vậy phước lành này chỉ ban cho người chịu cắt bì thôi hay cũng cho cả người không chịu cắt bì nữa? Vì chúng ta nói: “Bởi đức tin Áp-ra-ham được kể là công chính.” Vậy người được kể là công chính như thế nào? Sau khi đã chịu cắt bì hay trước khi chịu cắt bì? Không phải sau mà là trước khi chịu cắt bì. Người đã nhận dấu cắt bì là dấu ấn cho sự công chính bởi đức tin mà người đã có khi chưa chịu cắt bì. Như vậy, Áp-ra-ham trở thành cha mọi người tin mà không cắt bì và họ cũng được kể là công chính, và cũng làm cha những người chịu cắt bì, là những người không phải chỉ chịu cắt bì thôi nhưng cũng bước theo dấu chân đức tin của tổ phụ Áp-ra-ham chúng ta khi người chưa chịu cắt bì nữa. Vì lời hứa cho Áp-ra-ham hay cho dòng dõi người rằng người sẽ thừa hưởng thế giới không phải bởi tuân giữ kinh luật nhưng bởi sự công chính đến từ đức tin. Vì nếu nhờ tuân giữ kinh luật mà thừa hưởng cơ nghiệp thì đức tin thành vô ích, và lời hứa trở nên vô hiệu lực. Vì kinh luật gây ra thịnh nộ, ở đâu không có kinh luật thì cũng không có sự vi phạm. Cho nên bởi đức tin thì lời hứa mới dựa trên ân sủng và được bảo đảm cho toàn thể dòng dõi, không phải chỉ cho dòng dõi sống theo kinh luật mà cho cả dòng dõi có đức tin như Áp-ra-ham, tổ phụ của tất cả chúng ta, như Kinh Thánh chép:“Ta đã lập ngươi làm cha nhiều dân tộc.”Trước mặt Đức Chúa Trời, Đấng người đã tin, Đấng làm cho kẻ chết sống lại và định những điều chưa có như có rồi; Người vẫn tin trong hy vọng dù không còn gì để hy vọng, nên người trở thành cha của nhiều dân tộc như lời đã phán: “Dòng dõi ngươi sẽ như thế;” người không giảm sút đức tin khi thấy thân thể mình cũng như dạ bà Sa-ra như đã chết, vì người đã gần một trăm tuổi; Người không vì lòng vô tín mà nghi ngờ lời hứa của Đức Chúa Trời, nhưng được mạnh mẽ trong đức tin tôn vinh Đức Chúa Trời và hoàn toàn tin chắc rằng điều gì Đức Chúa Trời đã hứa thì Ngài cũng có đủ quyền năng làm được. Vì thế người được kể là công chính. Câu: “người được kể là công chính” không phải được ghi lại chỉ vì một mình người mà thôi, nhưng cũng vì chúng ta nữa, những người Ngài sẽ kể là công chính, là những người tin vào Đấng đã làm cho Đức Giê-su, Chúa chúng ta, từ chết sống lại, Ngài bị nộp cho chết vì tội lỗi chúng ta và được làm cho sống lại để chúng ta được xưng công chính. Vì vậy, đã được xưng công chính bởi đức tin, chúng ta được bình an với Đức Chúa Trời qua Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta. Cũng nhờ Ngài chúng ta được vào trong ân sủng này, là ân sủng mà chúng ta hiện đang đứng vững và hân hoan về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Đức Chúa Trời. Không chỉ có thế thôi, nhưng chúng ta cũng hân hoan trong hoạn nạn nữa, vì biết rằng hoạn nạn làm cho chúng ta kiên nhẫn, kiên nhẫn làm cho chúng ta được tôi luyện, tôi luyện làm cho hy vọng, và hy vọng không làm hổ thẹn. Vì tình yêu thương của Đức Chúa Trời đổ đầy lòng chúng ta bởi Đức Thánh Linh là Đấng đã được ban cho chúng ta. Thật vậy, khi chúng ta thiếu năng lực thì Chúa Cứu Thế theo đúng kỳ hạn đã chết cho kẻ vô đạo. Vì khó có ai chết cho một người công chính, họa may còn có người dám chết cho người tốt. Nhưng Đức Chúa Trời đã tỏ tình yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là tội nhân thì Chúa Cứu Thế đã chết thay cho chúng ta. Huống chi, bây giờ chúng ta đã được xưng công chính bởi huyết của Ngài thì nhờ Ngài chúng ta lại càng được cứu khỏi thịnh nộ là dường nào. Vì nếu khi chúng ta là kẻ thù nghịch mà còn được giải hòa với Đức Chúa Trời qua sự chết của Con Ngài thì khi đã được hòa giải rồi chúng ta lại càng sẽ được cứu bởi chính sự sống của Ngài là dường nào. Không chỉ có thế, nhưng chúng ta cũng hân hoan trong Đức Chúa Trời qua Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta, nhờ Ngài mà hiện nay chúng ta nhận được sự hòa giải. Bởi thế, do một người mà tội lỗi đã vào trong thế gian, và bởi tội lỗi mà có sự chết; như thế, sự chết thâm nhập trong mọi người, vì mọi người đều đã mắc tội. Trước khi có kinh luật thì tội đã có trong thế gian rồi, nhưng khi chưa có luật thì tội cũng không được kể. Dầu vậy, sự chết đã ngự trị từ A-đam cho đến Môi-se, ngay cả trên những người không phạm tội giống như của A-đam. A-đam là người làm hình bóng của Đấng sẽ đến. Nhưng ân huệ thì không như sự phạm tội. Vì nếu bởi sự phạm tội của một người mà nhiều người đã chết thì ân sủng của Đức Chúa Trời và tặng phẩm đến từ ân sủng của một Người là Chúa Cứu Thế Giê-su cho nhiều người lại càng dư dật hơn bội phần. Tặng phẩm thì không như hệ quả của một người phạm tội; vì một mặt, sự phán xét một người phạm tội đưa đến hình phạt; mặt khác, ân huệ thì sau nhiều tội phạm lại đưa đến sự xưng công chính. Vì nếu bởi tội phạm của một người mà qua người đó sự chết thống trị thì cũng bởi một Người, Chúa Cứu Thế Giê-su, mà những người nhận được ân sủng và tặng phẩm công chính cách dư dật, sẽ thống trị trong đời sống bội phần hơn là dường nào? Vì thế, bởi tội phạm của một người mà mọi người bị đoán phạt. Cũng vậy, bởi việc công chính của một Người mà sự xưng công chính để được sống được rải ra cho mọi người. Như bởi sự không vâng phục của một người mà nhiều người thành ra tội nhân thì cũng bởi sự vâng phục của một Người mà nhiều người được thành ra công chính. Kinh luật đến để sự phạm pháp gia tăng; nhưng ở đâu tội lỗi gia tăng thì ân sủng lại càng dồi dào hơn, hầu cho tội lỗi thống trị bằng sự chết thể nào thì ân sủng cũng thống trị bằng sự công chính để đem lại sự sống vĩnh phúc qua Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta, thể ấy. Vậy chúng ta sẽ nói gì? Chúng ta cứ tiếp tục sống trong tội lỗi để ân sủng được dư dật sao? Không thể như vậy được. Chúng ta là những người đã chết đối với tội lỗi thì làm sao chúng ta lại cứ sống trong tội lỗi nữa? Anh chị em không biết rằng tất cả chúng ta đã được báp-tem vào trong Chúa Cứu Thế Giê-su là chúng ta được báp-tem vào trong sự chết của Ngài sao? Vậy, qua Báp-tem chúng ta được chôn với Ngài vào trong sự chết, cho nên cũng như Chúa Cứu Thế nhờ vinh quang của Cha được từ chết sống lại thì chúng ta cũng có thể sống trong đời sống mới thể ấy. Vì nếu chúng ta kết hợp với Ngài trong sự chết giống như sự chết của Ngài thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ kết hợp với Ngài trong sự sống lại của Ngài. Chúng ta biết điều này: Con người cũ của chúng ta đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Ngài để con người tội lỗi bị diệt đi, chúng ta không còn nô lệ cho tội lỗi nữa. Vì ai chết rồi thì được thoát khỏi tội lỗi. Nhưng nếu chúng ta cùng chết với Chúa Cứu Thế thì chúng ta tin rằng chúng ta cũng sẽ sống với Ngài. Chúng ta biết rằng Chúa Cứu Thế đã từ chết sống lại, Ngài không còn chết nữa, sự chết không còn cai trị trên Ngài. Bởi vì Ngài chết là chết cho tội lỗi một lần đầy đủ cả, nhưng Ngài sống là sống cho Đức Chúa Trời. Vậy anh chị em cũng hãy coi mình thật sự chết đối với tội lỗi, và sống là sống cho Đức Chúa Trời trong Chúa Cứu Thế Giê-su. Vì thế đừng để cho tội lỗi thống trị trên thân thể hay chết của anh chị em khiến anh chị em phải tuân theo dục vọng của nó. Đừng hiến chi thể anh chị em làm đồ dùng bất chính cho tội lỗi nữa, nhưng hãy hiến chính mình anh chị em cho Đức Chúa Trời như một người từ chết sống lại, và dâng chi thể anh chị em làm đồ dùng công chính cho Đức Chúa Trời. Vì tội lỗi sẽ không còn thống trị anh chị em, bởi anh chị em không ở dưới kinh luật nhưng ở dưới ân sủng. Vậy thì sao? Chúng ta có thể cứ phạm tội bởi vì chúng ta không ở dưới kinh luật mà ở dưới ân sủng phải không? Không thể như vậy được. Anh chị em không biết rằng anh chị em hiến mình làm nô lệ vâng phục ai thì anh chị em là nô lệ cho người mà anh chị em vâng phục sao? Hoặc nô lệ cho tội lỗi thì dẫn đến sự chết, hoặc cho sự vâng phục để đưa đến sự công chính sao? Nhưng tạ ơn Đức Chúa Trời, trước kia anh chị em là nô lệ cho tội lỗi nhưng anh chị em đã thành tâm vâng phục mẫu mực giáo huấn đã ký thác cho anh chị em, được giải thoát khỏi tội lỗi anh chị em trở thành nô lệ cho sự công chính. Tôi nói theo cách loài người bởi vì xác thịt yếu đuối của anh chị em. Anh chị em đã từng hiến chi thể mình làm nô lệ cho sự nhơ nhuốc, tội ác thêm tội ác thể nào thì bây giờ hãy hiến chi thể mình làm nô lệ cho sự công chính để được thánh hóa thể ấy. Bởi vì khi anh chị em là nô lệ cho tội lỗi thì anh chị em được tự do đối với sự công chính. Và bấy giờ anh chị em đã nhận được thành quả gì? Thành quả mà hiện nay anh chị em hổ thẹn. Vì cuối cùng của những điều đó là sự chết. Nhưng bây giờ anh chị em đã được giải phóng khỏi tội lỗi và trở nên nô lệ cho Đức Chúa Trời thì thành quả anh chị em đạt được đưa đến thánh hóa, và chung cuộc là sự sống vĩnh phúc. Vì tiền công của tội lỗi là sự chết, nhưng tặng phẩm của Đức Chúa Trời là sự sống vĩnh phúc trong Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta. Hỡi anh chị em, vì tôi nói với những người biết kinh luật, anh chị em không biết rằng luật chỉ cai trị trên người ta trong thời gian đang còn sống sao? Bởi vậy, người đàn bà có chồng, khi chồng còn sống thì bị luật ràng buộc phải sống với chồng; nhưng nếu chồng chết thì người đàn bà được thoát khỏi luật tòng phu. Vì thế trong lúc chồng đang còn sống nếu người ấy lấy một người đàn ông khác thì sẽ bị gọi là người ngoại tình; nhưng nếu chồng chết thì người ấy được tự do khỏi luật, không còn bị gọi là người ngoại tình khi lấy một người đàn ông khác. Vậy, hỡi anh chị em của tôi, qua thân xác Chúa Cứu Thế anh chị em cũng đã chết đối với kinh luật để anh chị em có thể thuộc về người khác là người từ chết sống lại hầu cho chúng ta kết quả cho Đức Chúa Trời. Vì khi trước chúng ta ở trong xác thịt, thì tham dục tội lỗi nhờ kinh luật khích động, hoạt động trong chi thể chúng ta đưa đến kết quả là sự chết; nhưng bây giờ chúng ta được thoát khỏi luật, chết đối với điều đã giam giữ chúng ta để chúng ta phục vụ trong cách mới mẻ của Thánh Linh chứ không còn trong cách cũ của văn tự nữa. Vậy chúng ta sẽ nói gì? Kinh luật là tội sao? Chẳng hề như vậy; nếu không nhờ kinh luật thì tôi không biết tội là gì; tôi cũng không biết tham lam là gì nếu kinh luật không nói: “Ngươi chớ tham lam;” nhưng qua điều răn, tội lỗi đã nắm lấy cơ hội mà làm ra trong tôi đủ thứ tham dục; vì không có luật thì tội lỗi chết. Xưa kia không kinh luật thì tôi sống; nhưng khi có điều răn thì tội lỗi sống lại, còn tôi thì chết, tôi nhận ra rằng điều răn nhằm đem sự sống thì lại đưa đến chỗ chết; vì qua điều răn, tội lỗi lợi dụng cơ hội lừa dối tôi và giết chết tôi. Cho nên, kinh luật là thánh, điều răn cũng là thánh, công chính và tốt lành. Vậy điều lành lại trở thành sự chết cho tôi sao? Chẳng hề như vậy; nhưng chính tội lỗi, đã lấy điều lành làm cho tôi chết hầu cho nó hiện rõ ra là tội lỗi. Như thế qua điều răn, tội lỗi trở thành cực kỳ ác. Vì chúng ta biết rằng luật là thiêng liêng, nhưng tôi là con người xác thịt đã bị bán làm nô lệ cho tội lỗi. Vì tôi không hiểu điều tôi làm; tôi không làm điều tôi muốn, nhưng tôi lại làm điều tôi ghét. Nhưng nếu tôi làm điều tôi không muốn thì tôi đồng ý kinh luật là tốt lành. Bây giờ chẳng phải tôi làm điều đó, nhưng là tội lỗi ở trong tôi làm. Vì tôi biết rằng điều lành chẳng ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi; vì ý muốn làm điều lành thì có trong tôi, nhưng tôi không thể làm được; vì tôi không làm điều lành tôi muốn, nhưng lại làm điều ác tôi không muốn. Nhưng nếu tôi làm điều tôi không muốn thì không còn phải là tôi làm nữa, nhưng là tội lỗi ở trong tôi. Vậy tôi tìm thấy có luật này: Đó là khi tôi muốn làm điều lành thì điều ác cứ vương vấn tôi; Vì theo con người bề trong thì tôi thích kinh luật của Đức Chúa Trời, Nhưng tôi nhận thấy trong chi thể tôi một luật khác tranh chiến với luật của tâm trí tôi, và bắt tôi làm nô lệ cho luật tội lỗi là luật ở trong các chi thể tôi. Khốn khổ cho tôi; ai sẽ giải cứu tôi khỏi thân thể hay chết này; Cảm tạ Đức Chúa Trời, nhờ Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta. Như vậy, một mặt với tâm trí, tôi phục kinh luật của Đức Chúa Trời, mặt khác với xác thịt, tôi phục luật của tội lỗi. Vậy bây giờ không còn sự đoán phạt đối với những người ở trong Chúa Cứu Thế Giê-su. Vì trong Chúa Cứu Thế Giê-su luật của Thánh Linh sự sống đã giải thoát tôi khỏi luật của tội lỗi và của sự chết. Vì điều mà kinh luật không làm được bởi đã bị xác thịt làm cho suy yếu thì Đức Chúa Trời đã làm bằng cách sai Con Ngài đến trong xác thịt giống như xác thịt tội lỗi, và đã đoán phạt tội lỗi trong xác thịt, để cho những đòi hỏi công chính của kinh luật được trọn vẹn trong chúng ta là những người không sống theo xác thịt nhưng theo Thánh Linh. Những kẻ sống theo xác thịt thì chú tâm về những điều của xác thịt, còn những người sống theo Thánh Linh thì chú tâm về những điều của Thánh Linh. Vì tâm trí theo xác thịt là sự chết, còn tâm trí theo Thánh Linh là sự sống và bình an. Do đó tâm trí theo xác thịt là thù nghịch với Đức Chúa Trời; vì nó không thuận phục kinh luật của Đức Chúa Trời, và thật sự nó cũng không có khả năng thuận phục được. Ai sống theo xác thịt thì không thể nào làm đẹp lòng Đức Chúa Trời. Nếu Thánh Linh của Đức Chúa Trời thật sự ngự trong anh chị em thì anh chị em không sống theo xác thịt nhưng theo Thánh Linh, nếu ai không có Thánh Linh của Chúa Cứu Thế thì người đó không thuộc về Ngài. Nếu Chúa Cứu Thế ở trong anh chị em thì một mặt thân thể chết vì cớ tội lỗi, mặt khác tâm linh sống vì cớ sự công chính. Nhưng nếu Thánh Linh của Đấng làm cho Đức Giê-su từ chết sống lại ở trong anh chị em thì Đấng đã làm cho Chúa Cứu Thế Giê-su từ chết sống lại đó sẽ nhờ Thánh Linh ngự trong anh chị em làm sống lại những thân thể hay chết của anh chị em. Vậy, hỡi anh chị em, chúng ta chẳng mắc nợ xác thịt để phải sống theo xác thịt. Vì nếu anh chị em sống theo xác thịt thì anh chị em sẽ chết; nhưng nếu nhờ Thánh Linh anh chị em làm chết các việc làm của thân xác thì anh chị em sẽ sống. Vì tất cả những ai được Thánh Linh của Đức Chúa Trời dẫn dắt đều là con của Đức Chúa Trời. Anh chị em không nhận thần trí nô lệ để lại sợ hãi, nhưng là thần trí của con nuôi, nhờ đó anh chị em gọi Đức Chúa Trời là A-ba, Cha! Chính Đức Thánh Linh hiệp với tâm linh làm chứng cho chúng ta rằng chúng ta là con của Đức Chúa Trời. Nếu là con cái thì cũng là kẻ thừa tự, một mặt là kẻ thừa tự của Đức Chúa Trời, mặt khác là kẻ đồng thừa tự với Chúa Cứu Thế, vì chúng ta cùng chịu khổ với Ngài để chúng ta cũng đồng được vinh quang với Ngài. Vì tôi xác nhận rằng những sự đau đớn trong hiện tại không đáng so với sự vinh quang trong tương lai sẽ được bày tỏ cho chúng ta. Tạo vật nôn nóng tha thiết trông chờ sự hiện ra của các con cái Đức Chúa Trời. Vì tạo vật quy phục sự hư ảo, không phải do tự nguyện, nhưng do Đấng bắt chúng quy phục trong hy vọng, bởi vì chính tạo vật sẽ được giải phóng khỏi làm nô lệ cho sự hư nát để được tự do vinh quang của con cái Đức Chúa Trời. Vì chúng ta biết rằng toàn thể tạo vật đều cùng rên xiết và quằn quại cho đến ngày nay. Không phải chỉ có vạn vật thôi mà cả chúng ta, những kẻ có quả đầu mùa của Thánh Linh, cũng rên xiết, trong lòng tha thiết trông chờ sự làm con nuôi, là sự cứu chuộc thân thể chúng ta. Trong niềm hy vọng đó chúng ta đã được cứu; nhưng hy vọng mà đã thấy rồi thì không còn là hy vọng nữa; vì điều gì người ta thấy thì còn hy vọng gì nữa? Nhưng nếu chúng ta không thấy điều chúng ta hy vọng thì chúng ta tha thiết trông chờ trong kiên trì. Tương tự như vậy, Đức Thánh Linh cũng giúp sự yếu đuối của chúng ta; vì chúng ta không biết chúng ta nên cầu xin điều gì cho phải lẽ, nhưng chính Đức Thánh Linh cầu nguyện thay cho chúng ta bằng những lời rên xiết không nói được. Đấng xét thấu lòng dạ con người biết ý tưởng của Đức Thánh Linh, vì Ngài cầu nguyện thay cho các thánh đồ theo như ý của Đức Chúa Trời. Chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho những người yêu kính Đức Chúa Trời, tức là những người được kêu gọi theo mục đích của Ngài. Vì những người Ngài đã biết trước thì Ngài cũng đã định trước cho họ nên giống như hình ảnh Con của Ngài để Con này trở thành con cả giữa nhiều anh chị em. Những người nào Ngài đã định trước thì Ngài cũng đã kêu gọi; những người Ngài đã kêu gọi thì Ngài cũng đã làm cho trở nên công chính, người nào Ngài đã làm cho công chính thì Ngài cũng đã tôn vinh. Vậy thì chúng ta sẽ nói gì về những điều này? Nếu Đức Chúa Trời đứng với chúng ta thì còn ai chống nghịch được chúng ta? Đấng thật đã không tiếc chính Con Ngài nhưng đã phó Con ấy vì tất cả chúng ta thì làm sao mà Ngài chẳng ban mọi sự luôn với Con đó cho chúng ta? Ai sẽ kiện cáo những người được lựa chọn của Đức Chúa Trời? Đức Chúa Trời là Đấng xưng công chính. Ai là người sẽ kết án? Chúa Cứu Thế Giê-su là Đấng đã chết, nhưng cũng đã sống lại, đang ngự bên phải của Đức Chúa Trời, cầu khẩn thay cho chúng ta. Ai sẽ phân rẽ chúng ta khỏi tình yêu thương của Chúa Cứu Thế? Phải chăng là hoạn nạn, cực khổ, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm hay gươm giáo? Như Kinh Thánh chép rằng:“Vì Ngài mà chúng tôi bị giết suốt cả ngày,Chúng tôi bị kể như chiên của lò sát sinh.” Nhưng trong tất cả những điều này chúng ta hoàn toàn chiến thắng nhờ Đấng đã yêu thương chúng ta. Vì chúng tôi tin chắc rằng không có sự chết, sự sống, các thiên sứ, các giới quyền lực, việc bây giờ, việc tương lai, các năng lực, bề cao, bề sâu, hay tạo vật nào khác có thể phân rẽ chúng ta khỏi tình yêu thương của Đức Chúa Trời trong Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta. Trong Chúa Cứu Thế tôi nói thật, tôi không nói dối, lương tâm tôi làm chứng cho tôi trong Đức Thánh Linh rằng lòng tôi rất buồn rầu và đau đớn triền miên. Vì tôi đã từng ước nguyện chính mình chịu dứt bỏ khỏi Chúa Cứu Thế thay cho anh chị em tôi, bà con tôi về phần xác, tức là người Do Thái, dân được nhận làm con nuôi, được vinh quang, có giao ước, được ban cho kinh luật, sự thờ phượng, và lời hứa, họ ra từ các tổ phụ, Chúa Cứu Thế về phần xác thì ra từ họ, nguyện Đức Chúa Trời, Đấng trên hết mọi loài, đáng được chúc tụng đời đời, A-men. Dĩ nhiên không phải Lời Đức Chúa Trời đã thất bại. Vì không phải tất cả những người ra từ Y-sơ-ra-ên đều là người Y-sơ-ra-ên; cũng không phải tất cả dòng giống của Áp-ra-ham đều là con của Áp-ra-ham, nhưng như có chép: “Bởi Y-sác dòng giống ngươi sẽ được gọi theo tên ngươi.” Nghĩa là không phải con cái về phần xác là con cái Đức Chúa Trời, nhưng con cái của lời hứa mới được kể là dòng giống thật. Về lời hứa thì có lời nói thế này: “Sang năm cũng vào kỳ này ta sẽ đến và Sa-ra sẽ có một con trai.” Không chỉ vậy thôi, nhưng khi Rê-bê-ca từ một người là Y-sác, tổ phụ chúng ta mà có thai; thì dù hai con chưa được sinh ra, cũng chưa làm điều gì thiện hay ác, để cho mục đích theo sự lựa chọn của Đức Chúa Trời được giữ vững, không do việc làm nhưng do sự kêu gọi của Chúa, thì bà được nói cho biết: Đứa lớn sẽ phục sự đứa nhỏ; như đã có chép:“Ta yêu Gia-cốp, nhưng ghét I-sau.” Vậy chúng ta sẽ nói làm sao? Không phải Đức Chúa Trời bất công đó sao? Chẳng hề như vậy. Vì Chúa có nói với Môi-se rằng:“Ta sẽ nhân từ với kẻ nào Ta muốn nhân từ,Ta sẽ thương xót kẻ nào Ta muốn thương xót.” Vì thế không phải bởi người ta ước muốn, cũng không phải bởi bôn ba mà được, nhưng bởi sự nhân từ của Đức Chúa Trời. Kinh Thánh phán với Pha-ra-ôn rằng: Chính vì điều này mà Ta lập ngươi lên, để Ta có thể dùng ngươi tỏ quyền năng của Ta ra, và để cho Danh Ta được vang ra khắp đất. Như vậy Ngài muốn nhân từ với ai thì nhân từ, muốn làm cứng lòng ai thì làm. Anh chị em sẽ nói với tôi: Tại sao Ngài còn quở trách? Vì ai có thể chống lại ý Ngài? Hỡi người, ngươi là ai mà dám đối đáp nghịch với Đức Chúa Trời? Có thể nào vật được nắn lên nói với người nắn nên nó: Tại sao ông nắn tôi nên như thế này? Hay người thợ gốm không có quyền từ cùng một đống đất sét mà nắn nên bình này dùng cho việc sang, bình kia dùng cho việc hèn sao? Nhưng nếu Đức Chúa Trời, Đấng muốn tỏ ra thịnh nộ và làm cho người ta biết quyền năng của Ngài, đã kiên nhẫn chịu đựng rất nhiều những bình đáng giận chỉ hợp cho sự hủy diệt. Và để cho biết sự giàu có vinh quang Ngài trên những bình được thương xót mà Ngài đã chuẩn bị sẵn để được vinh quang, tức là chúng ta, những người được kêu gọi không phải chỉ từ trong người Do Thái mà từ các dân tộc khác nữa. Như Ngài có phán trong Ô-sê:“Ta sẽ gọi kẻ không phải dân Ta là dân Ta,Kẻ chẳng được yêu dấu là yêu dấu, vàChính tại nơi Ta đã nói với họ:Các ngươi không phải là dân Ta,Thì họ lại được gọi là con của Đức Chúa Trời hằng sống.” I-sa đã kêu lên về dân Do Thái:“Dù số dân Do Thái đông như cát biểnThì cũng chỉ một số dân sót lại sẽ được cứu mà thôi. Chúa sẽ chắc chắnVà nhanh chóng làm thành lời Ngài trên đất.” I-sa cũng đã nói trước:“Nếu Chúa Vạn QuânKhông chừa lại những người nối dõi cho chúng taThì chúng ta đã trở thành như Sô-đômVà giống như Gô-mô-rơ rồi.” Vậy chúng ta sẽ nói thế nào? Các dân ngoại quốc không tìm kiếm sự công chính thì lại đã được sự công chính, nhưng là sự công chính do đức tin; còn dân Do Thái tìm kiếm kinh luật của sự công chính thì lại không đạt được. Tại sao? Tại vì họ tìm kiếm không nhờ đức tin mà nhờ việc làm; họ đã vấp phải hòn đá cản, như Kinh Thánh chép:“Này Ta để tại Si-ôn một hòn đá cản,Tức là tảng đá làm vấp ngã,Và ai tin Ngài sẽ không bị hổ thẹn.” Hỡi anh chị em, lòng tôi ao ước và cầu xin Đức Chúa Trời cho họ được sự cứu rỗi. Vì tôi làm chứng cho họ rằng họ có lòng sốt sắng về Đức Chúa Trời, nhưng không theo sự hiểu biết. Vì không nhận biết sự công chính của Đức Chúa Trời, họ tìm cách thiết lập sự công chính riêng, họ không thuận theo sự công chính của Đức Chúa Trời. Vì Chúa Cứu Thế là cứu cánh của kinh luật để ban sự công chính cho những người tin. Môi-se có viết về sự công chính nhờ kinh luật rằng: Người nào làm những điều nầy thì sẽ nhờ nó mà sống. Nhưng sự công chính bởi đức tin thì nói thế này: Đừng nói trong lòng ngươi rằng: Ai sẽ lên trời? Ngụ ý để đem Chúa Cứu Thế xuống; Hay là ai sẽ xuống vực sâu? Ngụ ý để đem Chúa Cứu Thế từ cõi chết lên. Nhưng nói gì? “Nói đạo ở gần ngươi, trong miệng ngươi và trong lòng ngươi;” đây là đạo đức tin mà chúng tôi truyền giảng. Vì nếu miệng ngươi xưng nhận Đức Giê-su là Chúa và lòng ngươi tin rằng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài từ chết sống lại thì ngươi sẽ được cứu; Vì tin trong lòng thì được sự công chính, và xưng nhận nơi miệng thì được sự cứu rỗi. Kinh Thánh nói rằng: Bất cứ ai tin Ngài sẽ không bị hổ thẹn. Không có sự phân biệt giữa người Do Thái và người Hy Lạp. Vì Ngài là Chúa của tất cả, ban ơn dồi dào cho mọi người kêu cầu Ngài. Tất cả người nào kêu cầu danh Chúa đều được cứu. Nhưng làm sao họ có thể kêu cầu cùng Đấng họ chưa tin? Làm sao họ có thể tin Đấng họ chưa nghe? Làm sao họ có thể nghe khi không có người truyền giảng? Làm sao họ có thể truyền giảng nếu họ không được sai đi? Như Kinh Thánh có chép:“Bàn chân của người truyền giảng Phúc Âm xinh đẹp biết bao!” Nhưng không phải tất cả mọi người đều vâng theo Phúc Âm. Vì I-sa có nói: “Lạy Chúa! Ai chịu tin lời rao truyền của chúng con?” Vậy, có đức tin là do nghe, và nghe là khi Lời Chúa Cứu Thế được truyền giảng. Nhưng tôi xin hỏi: Họ chưa nghe sao? Không, họ đã nghe rồi, như Kinh Thánh có nói:“Tiếng chúng vang ra khắp đấtVà lời chúng vang đến tận cùng trần gian.” Tôi lại hỏi: Người Do Thái chưa biết sao? Trước hết Môi-se có nói:“Ta sẽ làm các ngươi ghen với một dân không phải là dân,Ta sẽ làm ngươi tức giận một dân ngu dốt.” I-sa đã mạnh dạn nói rằng:“Những kẻ không tìm kiếm Ta thì Ta cho gặp,Ta tỏ mình ra cho những kẻ chẳng cầu hỏi Ta.” Nhưng về dân Do Thái thì ông nói:“Suốt cả ngày Ta giang tayHướng về một dân bất tuân và chống nghịch.” Vậy, tôi xin hỏi: “Đức Chúa Trời có loại bỏ dân Ngài không? Không bao giờ! Vì chính tôi là người Y-sơ-ra-ên, dòng dõi Áp-ra-ham, thuộc chi tộc Bên-gia-min. Đức Chúa Trời không bỏ dân tộc Ngài biết trước. Anh em không biết Kinh Thánh nói gì về Ê-li khi ông thưa kiện dân Y-sơ-ra-ên trước mặt Đức Chúa Trời sao?” Lạy Chúa:“Họ đã sát hại các tiên tri Chúa, đào phá bàn thờ Ngài; chỉ còn lại một mình tôi mà họ cũng tìm giết luôn.”Nhưng Đức Chúa Trời đáp lời thế nào? “Ta đã dành riêng cho Ta bảy ngàn người nam chẳng chịu quỳ lạy Ba-anh.” Ngày nay cũng thế, có thành phần sót lại được lựa chọn theo ân sủng. Nếu đã theo ân sủng thì không theo công đức nữa, bằng không thì ân chẳng còn là ân. Điều này có nghĩa gì? Dân Y-sơ-ra-ên chẳng tìm được điều họ tìm; những người được chọn thì tìm được, phần còn lại, thì lòng chai đá, như Kinh Thánh đã chép:“Đức Chúa Trời đã khiến tâm trí họ u mê,Mắt mù,Tai điếcCho đến ngày nay.” Đa-vít cũng nói:“Cầu cho bàn tiệc họ trở thành cạm bẫy,Lưới bủa, đá vấp chân và dịp báo trả cho họ. Cầu cho mắt họ mờ không thấy đượcVà lưng họ cứ khòm luôn!” Tôi lại hỏi: “Có phải họ đã bị sẩy chân để rồi ngã nhào xuống không? Không bao giờ! Do họ vấp phạm mà sự cứu rỗi đến với các dân tộc ngoại quốc, để làm họ ganh đua. Nhưng nếu sự vấp phạm của họ làm giàu cho thế gian và sự thất bại của họ làm cho các dân tộc ngoại quốc phong phú, một khi họ được đông đủ thì sự phong phú càng vĩ đại đến chừng nào?” Tôi nói với anh chị em là người ngoại quốc: “Bấy lâu nay làm sứ đồ cho các dân tộc ngoại quốc, tôi làm vẻ vang cho chức vụ mình. Nếu tôi kích thích lòng ganh đua của đồng bào tôi, chỉ là để cứu rỗi một số người trong vòng họ. Vì nếu khi họ bị vứt bỏ mà cả thế gian được phục hòa với Đức Chúa Trời thì khi họ được Ngài tiếp nhận sẽ là việc cải tử hoàn sinh. Nếu lúa đầu mùa đã thánh thì cả đống bột cũng thánh; nếu cái rễ đã thánh thì các cành cũng thánh. Nếu vài cành bị bỏ và ngươi vốn thuộc cây ô-liu hoang lại được ghép vào giữa các cành ấy và được chia sẻ nhựa sống từ rễ cây ô-liu, thì chớ khoa trương nghịch các cành ấy. Nếu ngươi khoa trương thì hãy nhớ rằng không phải ngươi cưu mang cái rễ mà cái rễ cưu mang ngươi. Ngươi sẽ nói: ‘Các cành kia bị bẻ đi để ta được ghép vào!’ Đúng lắm, các cành kia bị bẻ đi vì tội vô tín, còn ngươi bởi đức tin mà tồn tại; đừng kiêu căng hợm hĩnh, nhưng hãy kính sợ! Vì Đức Chúa Trời chẳng dung tha các cành tự nhiên thì Ngài cũng sẽ không dung tha ngươi. Vậy hãy gẫm xem lòng nhân từ và nghiêm minh của Đức Chúa Trời, nghiêm minh đối với những người đã ngã, Đức Chúa Trời nhân từ với ngươi nếu ngươi kiên trì trong lòng nhân từ Ngài; bằng không ngươi cũng sẽ bị cất bỏ. Còn đối với họ, nếu họ không kiên trì trong sự vô tín, họ sẽ lại được tháp vào; vì Đức Chúa Trời có quyền tháp họ lại. Nếu ngươi đã được cắt ra từ bản chất cây ô-liu hoang và đem ghép vào cây ô-liu tốt, trái với bản chất tự nhiên, thì các cành tự nhiên này lại càng đáng được ghép vào chính cây ô-liu của chúng. Thưa anh chị em, tôi không muốn anh chị em chẳng biết huyền nhiệm này để anh chị em không tự cho mình là khôn ngoan: Một phần Y-sơ-ra-ên cứ ngoan cố cho đến khi số người các dân tộc ngoại quốc gia nhập đầy đủ. Vậy cả Y-sơ-ra-ên sẽ được cứu, như Kinh Thánh đã chép:‘Đấng Cứu Tinh sẽ ra từ Si-ônDẹp bỏ sự vô đạo khỏi nhà Gia-cốp Và đây là giao ước Ta lập với họKhi Ta xóa sạch tội lỗi họ rồi.’ Một mặt, theo Phúc Âm thì họ là thù địch vì cớ anh chị em. Mặt khác theo ơn lựa chọn thì họ là người thân yêu vì cớ các tổ phụ. Vì tặng phẩm Chúa ban và tiếng Chúa gọi không bao giờ hủy bỏ được. Như anh chị em ngày trước không vâng phục Đức Chúa Trời, nhưng hiện nay đã được thương xót vì họ không vâng phục, thì họ cũng thế, dù hiện nay không vâng phục, nhưng do lòng thương xót của Chúa đối với anh chị em, thì bây giờ họ cũng có thể được Ngài thương xót. Vì Đức Chúa Trời đã ràng buộc mọi người trong sự bất phục để tỏ lòng thương xót tất cả. Ôi, sự giàu có, khôn ngoan và hiểu biết của Đức Chúa Trời thật sâu thẳm!Sự phán xét của Ngài không ai thấu triệt,Đường lối Ngài không ai dò tìm nổi. Vì ai biết tâm trí Chúa?Ai làm cố vấn cho Ngài? Có ai từng dâng hiếnĐể được Ngài đền đáp? Vì mọi sự đều từ Chúa, bởi Chúa và hướng về Chúa.Vinh quang quy về Ngài đời đời vô cùng! A-men.” Thưa anh chị em, vì thế tôi nài xin anh chị em, do lòng thương xót của Đức Chúa Trời, hãy dâng hiến chính mình như những sinh tế sống, thánh khiết, đẹp lòng Đức Chúa Trời, đó là sự thờ phượng hợp lẽ của anh chị em. Đừng rập khuôn theo đời này, nhưng hãy được biến hóa bởi sự đổi mới tâm trí, để thử nghiệm cho biết ý định tốt lành, trọn vẹn và đẹp lòng Đức Chúa Trời. Vì nhờ ân sủng Chúa ban cho tôi, tôi xin nói với mỗi người trong anh chị em: Đừng nghĩ về mình cao quá, nhưng hãy bình tâm suy nghĩ, đúng theo lượng đức tin Đức Chúa Trời đã ban phát cho mình. Vì như trong một thân thể, ta có nhiều phần, nhưng tất cả các phần không có cùng một chức năng, cũng thế, dù chúng ta đông người, nhưng chỉ có một thân thể trong Chúa Cứu Thế và mỗi người là các phần của nhau. Ta được ân tứ khác nhau theo ân sủng Chúa; ai được ân nói tiên tri, hãy nói theo lượng đức tin; ai phục vụ, hãy tận tâm phục vụ; ai dạy dỗ hãy chăm mà dạy dỗ; ai được ân khích lệ, hãy khích lệ anh chị em; ai được ân ban phát hãy rộng rãi ban phát; ai được ân lãnh đạo, hãy chuyên cần lãnh đạo; ai làm việc từ thiện, hãy hăng hái mà làm. Tình yêu thương phải chân thành. Hãy ghê tởm điều dữ, gắn bó với điều lành. Hãy lấy tình huynh đệ mà thương yêu nhau cách mặn nồng. Hãy kính nhường nhau với lòng tôn kính, Hãy nhiệt thành, chớ rụt rè. Phải có lòng sốt sắng, phải phục vụ Chúa. Hãy vui mừng trong niềm hy vọng; kiên trì trong cơn hoạn nạn, kiên tâm cầu nguyện, Hãy dự phần cung cấp các nhu cầu cho các thánh đồ, chuyên cần tiếp khách. Hãy chúc phước cho kẻ bắt bớ anh chị em, hãy chúc phước, đừng nguyền rủa. Hãy vui với những người vui, khóc với những người khóc. Hãy sống hòa thuận với nhau. Đừng lo nghĩ những chuyện cao xa, nhưng hãy tự hạ, hòa mình với những người hèn mọn. Đừng tự cho mình là khôn ngoan. Đừng lấy ác báo ác cho ai cả; hãy làm điều thiện trước mặt mọi người. Nếu có thể được, anh em hãy hết sức sống hòa thuận với mọi người. Anh chị em thân yêu, đừng tự báo thù ai, nhưng hãy nhường chỗ cho cơn thịnh nộ của Chúa, vì Kinh Thánh đã chép: “Sự báo trả thuộc về Ta; Ta sẽ báo ứng! Chúa phán vậy.” Nhưng nếu kẻ thù anh chị em đói, hãy cho ăn,Có khát hãy cho uốngVì làm như vậy là anh chị em chất than hồng trên đầu nó. Đừng để điều ác thắng mình nhưng hãy lấy điều thiện thắng điều ác. Mỗi người phải tùng phục các nhà cầm quyền trên mình, vì không có thẩm quyền nào không do Đức Chúa Trời đặt ra, và các nhà cầm quyền hiện có đều do Ngài thiết lập. Cho nên ai chống lại thẩm quyền là chống lại mệnh lệnh Đức Chúa Trời; những người chống nghịch ấy sẽ rước lấy hình phạt cho mình. Vì những người cai trị không phải để cho người làm lành sợ mà cho người ác khiếp sợ. Muốn khỏi sợ nhà cầm quyền, ngươi hãy làm điều lành thì sẽ được họ khen ngợi. Vì nhà cầm quyền là đầy tớ của Đức Chúa Trời để giúp ích cho ngươi. Nếu ngươi làm dữ thì hãy sợ hãi vì họ cầm gươm không phải là vô ích; họ là đầy tớ của Đức Chúa Trời, kẻ thừa hành để giáng cơn thịnh nộ xuống kẻ làm ác. Vậy, phải thuận phục nhà cầm quyền, không phải chỉ vì sợ cơn thịnh nộ nhưng cũng vì lương tâm nữa. Đây cũng là lý do anh chị em hãy nộp thuế, vì nhà cầm quyền là tôi tớ Đức Chúa Trời lo thi hành phận sự đó. Hãy trả lại cho mọi người món nợ mình đã mắc, nạp thuế cho người mình phải nạp, đóng tiền cho người mình phải đóng, sợ kẻ mình đáng sợ, kính kẻ mình đáng kính. Đừng mắc nợ ai gì cả ngoại trừ món nợ yêu thương nhau, vì ai yêu thương người lân cận là làm trọn kinh luật. Vì các điều răn: “Ngươi chớ ngoại tình”, “ngươi chớ giết người”, “ngươi chớ trộm cắp”, “ngươi chớ tham lam”, và bất cứ điều răn nào khác cũng đều tóm lược trong một câu này: “Ngươi hãy yêu thương người lân cận như mình.” Tình yêu thương không làm hại người lân cận, cho nên yêu thương là làm trọn kinh luật. Hãy làm điều ấy vì biết rõ thời thế: Đã đến giờ anh chị em từ ngủ thức dậy vì bây giờ sự cứu rỗi gần chúng ta hơn lúc chúng ta mới tin Chúa. Đêm đã khuya, ngày gần rạng. Vậy ta hãy vứt bỏ những công việc đen tối, mặc lấy áo giáp sáng láng. Ta hãy sống đúng đắn như bước đi giữa ban ngày. Đừng truy hoan, say sưa, đồi bại, vô độ, xung đột và ganh ghét, nhưng anh chị em hãy mặc lấy Chúa Cứu Thế Giê-su; đừng nghĩ đến cách làm thỏa mãn các dục vọng của xác thịt. Hãy tiếp nhận người yếu đức tin, đừng lên án những vấn đề không biết chắc: Người này tin có thể ăn mọi thức ăn, nhưng người kia yếu đuối chỉ ăn rau. Người ăn đừng khinh bỉ kẻ không ăn và người không ăn chớ lên án kẻ ăn vì Đức Chúa Trời đã tiếp nhận người ấy. Ngươi là ai mà lên án đầy tớ của người khác? Nó đứng vững hay ngã xuống, đó là việc của chủ nó; nhưng nó sẽ đứng vững vì Chúa có quyền cho nó đứng vững vàng. Người này coi ngày này trọng hơn ngày kia, kẻ khác coi ngày nào cũng như nhau. Mỗi người hãy tin quyết trong trí mình. Người giữ ngày là giữ vì Chúa; kẻ ăn là ăn vì Chúa, vì người ấy tạ ơn Đức Chúa Trời. Người không ăn cũng kiêng cữ vì Chúa và cũng tạ ơn Đức Chúa Trời. Vì không một ai trong chúng ta sống cho chính mình hoặc chết cho chính mình, vì nếu chúng ta sống là sống cho Chúa; và nếu chúng ta chết là chết cho Chúa. Như thế, dù sống hay chết, chúng ta đều thuộc về Chúa cả. Chính vì đó mà Chúa Cứu Thế chịu chết và sống lại ngõ hầu làm Chúa kẻ chết và kẻ sống. Còn ngươi, tại sao lên án anh chị em mình? Sao ngươi khinh bỉ anh chị em mình? Vì tất cả chúng ta đều sẽ ứng hầu trước tòa án của Đức Chúa Trời. Vì Kinh Thánh đã chép:“Chúa phán: Thật như Ta hằng sống,Mọi đầu gối sẽ quỳ trước mặt TaVà mọi lưỡi sẽ tuyên xưng Đức Chúa Trời.” Như thế, mỗi người trong chúng ta phải tường trình công việc mình cho Đức Chúa Trời. Vậy nên chúng ta đừng lên án lẫn nhau nữa, nhưng quyết định không làm trở ngại hay gây cớ vấp ngã cho anh chị em mình. Tôi biết và tin quyết trong Chúa Giê-su rằng: Chẳng có một vật gì tự nó là ô uế, trừ khi có ai kể nó là ô uế thì nó mới là ô uế cho kẻ đó. Vì nếu anh chị em ngươi buồn phiền vì món ăn của ngươi thì ngươi đâu còn sống theo tình yêu thương nữa! Đừng vì một món ăn mà làm cho người khác bị hư mất; vì người đó đã được Chúa chết thay. Đừng để việc tốt mình làm bị mang tiếng xấu. Vì Nước Đức Chúa Trời không phải là vấn đề ăn uống nhưng là sự công chính, bình an và vui mừng trong Thánh Linh. Vì người nào phục vụ Chúa Cứu Thế cách này thì được Đức Chúa Trời hài lòng và loài người chấp nhận. Vậy, ta hãy đeo đuổi những việc đem lại hòa thuận và xây dựng nhau. Đừng vì món ăn mà hủy hoại công việc của Đức Chúa Trời. Mọi vật thật ra đều trong sạch, nhưng người nào gây vấp phạm cho kẻ khác vì món ăn là sai quấy rồi. Tốt hơn là đừng ăn thịt, uống rượu hoặc làm điều gì gây cho anh chị em mình vấp phạm. Người tin điều gì, đó là việc giữa người và Đức Chúa Trời. Phước cho ai không lên án chính mình vì điều mình chấp nhận. Nhưng nếu anh còn nghi ngờ mà vẫn ăn là bị lên án rồi vì không hành động bởi đức tin. Phàm làm việc gì không bởi đức tin là phạm tội. Chúng ta là người mạnh phải gánh vác những khiếm khuyết của người yếu; chớ nên chỉ làm hài lòng mình. Mỗi người trong chúng ta hãy làm hài lòng người lân cận để giúp ích và xây dựng họ. Vì chính Chúa Cứu Thế cũng không làm cho đẹp lòng mình, như lời Kinh Thánh chép: “Lời sỉ vả của những kẻ phỉ báng Chúa đã đổ trên tôi.” Tất cả những điều được ghi từ xưa đều nhằm giáo huấn chúng ta, ngõ hầu nhờ lòng kiên nhẫn và sự an ủi của Kinh Thánh mà chúng ta có niềm hy vọng. Cầu xin Đức Chúa Trời là nguồn kiên nhẫn và an ủi làm cho anh chị em được đồng tâm nhất trí với nhau theo gương Chúa Cứu Thế Giê-su ngõ hầu anh chị em có thể đồng lòng, cùng một miệng tôn vinh Đức Chúa Trời là Cha của Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta. Vậy, anh chị em hãy tiếp nhận nhau như Chúa Cứu Thế đã tiếp nhận chúng ta để đem vinh quang cho Đức Chúa Trời. Tôi nói Chúa Cứu Thế đã vì chân lý phục vụ những kẻ chịu cắt bì để xác nhận lời hứa với các tổ phụ, ngõ hầu các dân tộc ngoại quốc cũng tôn vinh Đức Chúa Trời vì lòng thương xót của Ngài. Như Kinh Thánh đã chép:“Bởi thế, Con sẽ tuyên xưng Chúa giữa các dân tộc,Con sẽ hát ca ngợi Danh Chúa.” Kinh Thánh cũng chép:“Hỡi các dân tộc, hãy cùng hân hoan với dân Chúa.” Kinh Thánh lại viết:“Hỡi tất cả các nước, hãy ca tụng Chúa.Mọi dân tộc hãy ca ngợi Ngài.” I-sa lại nói:“Sẽ có Cái Rễ ra từ Gie-sê,Là Đấng đứng lên thống trị các nướcCác dân sẽ hy vọng nơi Ngài.” Cầu xin Đức Chúa Trời là nguồn hy vọng ban cho anh chị em đầy dẫy mọi sự vui mừng và bình an khi anh chị em tin cậy Ngài, đến nỗi anh chị em đầy tràn niềm hy vọng bởi quyền năng Thánh Linh! Thưa anh chị em, chính tôi tin chắc rằng anh chị em vốn là những người đầy thiện tâm, lại giàu trí thức, cũng có khả năng khuyên bảo nhau. Sở dĩ có vài điều tôi nói mạnh với anh chị em là để nhắc nhở anh chị em vì Đức Chúa Trời đã ban ơn, lập tôi làm đầy tớ Chúa Cứu Thế Giê-su nhằm phục vụ các dân tộc ngoại quốc, làm thầy tế lễ cho Phúc Âm Đức Chúa Trời, ngõ hầu họ trở thành lễ vật đẹp lòng Chúa và được Thánh Linh thánh hóa. Vậy, tôi có lý do tự hào trong Chúa Cứu Thế Giê-su về sự hầu việc Đức Chúa Trời. Vì tôi không dám nói điều gì ngoài những việc Chúa Cứu Thế dùng tôi thực hiện, trong lời nói và trong việc làm, khiến các dân tộc ngoại quốc vâng phục Chúa. Qua những dấu lạ và phép mầu đầy uy lực, bởi quyền năng Thánh Linh, đến nỗi tôi làm trọn việc truyền bá Phúc Âm của Chúa Cứu Thế khắp mọi nơi, từ Giê-ru-sa-lem và miền phụ cận đến tận xứ Y-ly-ri. Tôi cố gắng truyền bá Phúc Âm nơi nào Danh Chúa Cứu Thế chưa được công bố, để tôi khỏi xây cất trên nền người khác. Nhưng như Kinh Thánh đã chép:“Những kẻ chưa được loan báo về Ngài thì sẽ thấy Ngài,Những kẻ chưa nghe về Ngài sẽ được hiểu biết.” Đó là điều đã nhiều lần ngăn trở tôi đến thăm anh chị em, nhưng bây giờ chẳng có gì ràng buộc tôi trong các miền này nữa. Đã nhiều năm tôi ước mong đến thăm anh chị em. Khi nào đi Tây-ban-nha, tôi mong trên đường đi sẽ ghé thăm anh chị em; sau khi được thỏa lòng ở với anh chị em một ít lâu, tôi sẽ nhờ anh chị em giúp tôi đi qua đó. Nhưng bây giờ, tôi đang đi Giê-ru-sa-lem để phục vụ các thánh đồ. Vì người Ma-xê-đoan và A-chai có nhã ý quyên góp để giúp các người nghèo túng trong vòng các thánh đồ tại Giê-ru-sa-lem. Họ có nhã ý này vì thật ra họ cũng mắc nợ các thánh đồ ấy, vì các thánh đồ đã chia sẻ các phúc lành thiêng liêng cho các dân tộc ngoại quốc thì các dân tộc này cũng phải cung cấp cho các thánh đồ ấy của cải vật chất. Khi chu toàn nhiệm vụ tức là trao xong tặng phẩm này cho họ tận tay, tôi sẽ ra đi, ghé anh chị em rồi qua Tây-ban-nha. Tôi biết rằng khi đến tôi sẽ đem theo phúc lành dồi dào của Chúa Cứu Thế. Thưa anh chị em, nhân danh Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta và do lòng yêu thương trong Thánh Linh, tôi nài xin anh chị em hãy cùng tôi chiến đấu trong sự cầu nguyện cho tôi trước mặt Đức Chúa Trời, để tôi được giải thoát khỏi những kẻ vô tín ở Giu-đê và để chức vụ của tôi ở Giê-ru-sa-lem được các thánh đồ chấp nhận, ngõ hầu tôi được hân hoan khi đến thăm anh chị em và đẹp ý Chúa, cũng được tĩnh dưỡng với anh chị em. Nguyện xin Đức Chúa Trời bình an ở với tất cả anh chị em! A-men! Tôi gửi gắm chị Phê-bê của chúng tôi cho anh chị em; chị là nữ chấp sự của Hội Thánh tại Sơn-cơ-rê. Xin anh chị em đón tiếp chị cách xứng đáng trong Chúa như tiếp đón các thánh đồ. Xin giúp đỡ chị khi chị có điều gì cần anh chị em giúp đỡ, vì chị cũng đã giúp đỡ nhiều người, kể cả tôi nữa. Xin kính chào Bê-rít-sin và A-qui-la, hai bạn đồng lao của tôi trong Chúa Cứu Thế Giê-su. Họ đã liều chết cứu mạng sống tôi, không phải chỉ có tôi cảm tạ họ mà tất cả các Hội Thánh của các dân tộc ngoại quốc cũng ghi ơn họ nữa. Xin kính chào Hội Thánh họp tại nhà họ. Kính chào Ê-bai-nết, người thân yêu của tôi, cũng là trái đầu mùa cho Chúa Cứu Thế trong vùng Tiểu Á. Kính chào bà Ma-ri, là người có công khó phục vụ anh chị em. Kính chào An-trô-ni-cơ và Giu-nia, là bà con và bạn đồng tù với tôi, cũng là những người lỗi lạc giữa vòng các sứ đồ. Họ đã tin Chúa Cứu Thế trước tôi. Kính chào Am-li-a, người thân yêu của tôi trong Chúa. Kính chào U-rơ-ban, bạn đồng lao của tôi trong Chúa Cứu Thế và Ích-ta-chi, người thân yêu của tôi. Kính chào A-be-lô, người được Chúa Cứu Thế chấp nhận,kính chào những người thuộc gia đình A-rích-tô-bu. Kính chào Hê-rô-đi-ôn là họ hàng tôi.Hãy chào gia đình Nát-xít là những người trong Chúa. Kính chào Try-phe-nơ và Try-phô-sơ là hai người làm việc trong Chúa.Kính chào chị Bẹt-si-đơ bạn thân của tôi, người gánh vác nhiều việc trong Chúa. Kính chào Ru-hu, người được Chúa chọn và thân mẫu của anh cũng là thân mẫu tôi. Kính chào A-sin-cơ-rich, Phơ-lê-gôn, Hẹt-me, Pha-trô-ba, Hẹt-ma và các anh chị em ở với họ. Kính chào Phi-lô, Giu-lý, hai chị em Nê-rê, Ô-lim-phi và tất cả các thánh đồ ở với họ. Hãy chào thăm nhau trong tình thân ái.Tất cả các Hội Thánh của Chúa Cứu Thế đều gửi lời chào anh chị em. Thưa anh chị em, tôi khuyên anh chị em đề phòng những kẻ gây chia rẽ và gây vấp phạm, trái với giáo huấn mà anh chị em đã học; hãy lánh xa họ đi! Vì những kẻ đó chẳng phục vụ Chúa Cứu Thế, Chúa chúng ta đâu, song phục vụ cái bụng họ và dùng những lời đường mật nịnh bợ để quyến rũ lòng người thật thà. Mọi người đều rõ tinh thần vâng phục của anh chị em, vì thế tôi mừng cho anh chị em, mong anh chị em khôn ngoan về điều lành và tinh khiết về điều ác. Đức Chúa Trời bình an sẽ sớm chà đạp quỷ Sa-tan dưới chân anh chị em. Nguyện xin ân sủng của Đức Giê-su, Chúa chúng ta, ở cùng anh chị em! Ti-mô-thê, bạn đồng lao của tôi, kính chào anh chị em. Lu-xi-út, Gia-sôn, Sô-si-pha-tê là bà con tôi kính chào anh chị em. Tôi là Tẹt-tiu, người chép thư này, kính chào anh chị em trong Chúa. Gai-út, người tiếp đãi tôi và cả Hội Thánh, kính chào anh chị em. Ê-rát, trưởng ngân khố của thành phố này và anh em chúng ta là Qua-rơ-tu, kính chào anh chị em. Vinh quang đời đời đều quy về Đấng có khả năng củng cố anh chị em theo Phúc Âm của tôi và sự truyền giảng Chúa Cứu Thế Giê-su cùng theo huyền nhiệm đã giấu kín từ mọi đời trước, mà nay được khải thị qua các Kinh Tiên Tri, theo lệnh của Đức Chúa Trời hằng sống, nhằm giúp tất cả các dân tộc hiểu biết và đưa họ đến niềm tin vâng phục. Ngài là Đức Chúa Trời khôn ngoan duy nhất, được tôn vinh qua Chúa Cứu Thế Giê-su đến đời đời. A-men. Tôi là Phao-lô, theo ý Đức Chúa Trời được kêu gọi làm sứ đồ của Chúa Cứu Thế Giê-su, cùng Sốt-then, anh em chúng ta, Kính gởi Hội Thánh của Đức Chúa Trời tại thành phố Cô-rinh-tô, tức là những người đã được thánh hóa trong Chúa Cứu Thế Giê-su, cũng được gọi là các thánh, cùng với tất cả những người ở khắp mọi nơi cầu khẩn danh Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa của họ và của chúng ta. Nguyện xin Đức Chúa Trời, Cha chúng ta và Chúa Cứu Thế Giê-su ban ân sủng và bình an cho anh chị em. Tôi luôn luôn tạ ơn Đức Chúa Trời vì anh chị em về những ân sủng Ngài ban cho anh chị em trong Chúa Cứu Thế Giê-su. Vì nhờ ở trong Ngài mọi lời nói lẫn sự hiểu biết của anh chị em đều được phong phú. Ngay cả lời chứng về Chúa Cứu Thế đã được thiết lập vững vàng trong anh chị em, đến nỗi anh chị em không thiếu một ân tứ nào trong khi trông đợi Chúa Cứu Thế Giê-su chúng ta hiện ra. Chính Ngài sẽ gìn giữ anh chị em vững vàng cho đến cuối cùng, khỏi bị khiển trách trong ngày của Chúa Cứu Thế Giê-su chúng ta. Đức Chúa Trời là Đấng thành tín. Ngài đã kêu gọi anh chị em tham dự trong sự thông công với Con Ngài, Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta. Thưa anh chị em, nhân danh Chúa Cứu Thế Giê-su chúng ta, tôi khuyên anh chị em tất cả hãy nhất trí và đừng chia rẽ, hãy đồng một lòng, hợp một ý với nhau. Anh chị em thân mến của tôi, người nhà Cơ-lô-ê cho tôi hay rằng giữa anh chị em có sự xung khắc. Tôi nói như vậy, vì trong anh chị em có người nói rằng: Tôi theo Phao-lô, người khác: Tôi theo A-bô-lô, người khác: Tôi theo Phê-rơ, tôi theo Chúa Cứu Thế. Chúa Cứu Thế có bị phân rẽ không? Phao-lô đâu có chịu đóng đinh trên thập tự giá cho anh chị em, hay là anh chị em nhân danh Phao-lô mà chịu phép báp-tem sao? Cảm tạ Đức Chúa Trời, ngoại trừ Cơ-rít-bu và Gai-út, tôi không làm phép báp-tem cho ai cả, để không ai có thể nói rằng: Tôi đã nhân danh Phao-lô chịu phép báp-tem. Thực ra, tôi cũng đã làm phép báp-tem cho người nhà Sê-pha-na, ngoài ra tôi không nhớ có làm phép báp-tem cho ai khác nữa. Vì Chúa Cứu Thế không sai tôi làm phép báp-tem nhưng đi truyền bá Phúc Âm, không phải bằng lời nói khôn khéo e rằng sự chết của Chúa Cứu Thế trên thập tự giá sẽ trở nên vô ích chăng. Vì đối với những người hư mất, sứ điệp của thập tự giá là ngu dại. Nhưng đối với chúng ta, những người được cứu rỗi, thì đó là quyền năng của Đức Chúa Trời. Vì Kinh Thánh chép:“Ta sẽ hủy diệt sự khôn ngoan của người khôn ngoan.Và phá bỏ sự hiểu biết của người thông thái.” Người khôn ngoan đâu rồi? Học giả đâu rồi? Những nhà hùng biện của đời này đâu rồi? Không phải Đức Chúa Trời đã làm cho sự khôn ngoan của thế gian thành điên dại hay sao? Bởi vì cứ theo sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời, thế gian cậy sự khôn ngoan riêng của mình không nhận biết Đức Chúa Trời, nên Ngài vui lòng dùng điều bị coi là ngu dại của việc truyền giảng Phúc Âm để cứu rỗi những người tin. Vì người Do Thái đòi hỏi dấu lạ còn người Hy Lạp tìm kiếm sự khôn ngoan. Nhưng chúng ta truyền giảng Phúc Âm về Chúa Cứu Thế bị đóng đinh trên thập tự giá, là điều người Do Thái cho là nhục hình và người ngoại quốc cho là ngu dại. Nhưng đối với những người được Chúa kêu gọi, cả người Do Thái lẫn người Hy Lạp, Chúa Cứu Thế là quyền năng và sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời. Vì điều bị cho là dại dột của Đức Chúa Trời vẫn trổi hơn sự thông sáng của loài người và sự yếu đuối của Đức Chúa Trời mạnh hơn sức mạnh loài người. Anh chị em hãy xem xét lúc Chúa kêu gọi anh chị em. Giữa vòng anh chị em không có mấy người khôn ngoan theo trần tục, không mấy người có quyền thế, cũng không có nhiều người quý phái. Nhưng Đức Chúa Trời đã chọn những điều dại dột trong thế gian để làm hổ thẹn những người khôn. Đức Chúa Trời đã chọn những điều yếu đuối trong thế gian để làm hổ thẹn những kẻ mạnh. Đức Chúa Trời đã chọn những gì hèn hạ, bị khinh khi trong thế gian và những điều không ra gì để hủy bỏ những điều trọng đại. Cho nên loài người không ai có thể khoe khoang trước mặt Đức Chúa Trời. Nhờ Đức Chúa Trời mà anh chị em ở trong Chúa Cứu Thế Giê-su, là Đấng Đức Chúa Trời đã làm thành sự khôn ngoan, công chính, thánh khiết và cứu chuộc cho chúng ta. Như Kinh Thánh đã chép:“Ai tự hào, hãy tự hào trong Chúa.” Thưa anh chị em, khi tôi đến với anh chị em, tôi công bố cho anh chị em huyền nhiệm của Đức Chúa Trời không phải bằng lời nói cao siêu hay khôn khéo, vì giữa vòng anh chị em, tôi quyết định không biết gì ngoài Chúa Cứu Thế Giê-su là Đấng đã bị đóng đinh trên thập tự giá. Về phần tôi, khi đến với anh chị em, tôi tỏ ra yếu đuối, sợ sệt và run rẩy. Tôi dạy và truyền giảng không phải bằng lời thuyết phục khôn khéo nhưng do sự thể hiện Đức Thánh Linh và quyền năng. Vì thế, đức tin anh chị em không xây dựng trên sự khôn ngoan loài người, nhưng trên quyền năng Đức Chúa Trời. Dù vậy, chúng tôi vẫn truyền giảng sự khôn ngoan giữa vòng những người trưởng thành, không phải khôn ngoan theo thế tục hay khôn ngoan của các nhà lãnh đạo đời này, là những kẻ sẽ hư vong. Nhưng chúng tôi truyền giảng sự khôn ngoan huyền bí của Đức Chúa Trời, là điều đã được giấu kín và điều Ngài định từ trước các thời đại cho chúng ta được vinh quang. Đó là điều mà không một nhà lãnh đạo nào của đời này biết; vì nếu họ biết, họ đã không đóng đinh Chúa vinh quang trên thập tự giá. Nhưng như Kinh Thánh chép:“Những điều mắt chưa thấy,Tai chưa ngheVà lòng người chưa nghĩ đến,Thì Đức Chúa Trời đã chuẩn bị sẵn cho những kẻ yêu kính Ngài.” Đức Chúa Trời đã khải thị cho chúng ta qua Đức Thánh Linh. Vì Đức Thánh Linh thông suốt mọi sự, ngay cả những điều sâu nhiệm của Đức Chúa Trời. Vì ai biết được tư tưởng trong lòng người ngoại trừ tâm linh trong chính người ấy? Cũng vậy, không ai có thể biết được tư tưởng của Đức Chúa Trời, ngoại trừ Thánh Linh của Đức Chúa Trời. Chúng ta không tiếp nhận thần trí của thế gian, nhưng nhận Thánh Linh đến từ Đức Chúa Trời để chúng ta hiểu những ân phúc Đức Chúa Trời ban cho mình. Chúng tôi truyền giảng không phải bằng lời nói khôn ngoan do loài người dạy dỗ nhưng do Đức Thánh Linh dạy dỗ, giải thích những vấn đề thiêng liêng cho người thuộc linh. Nhưng người tự nhiên không thể nhận những ân phúc do Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời ban, vì cho rằng đó là những điều ngu dại; họ cũng không thể hiểu nổi vì phải nhờ Đức Thánh Linh mà suy xét. Nhưng người thuộc linh suy xét mọi sự và không bị ai đoán xét mình. Vì ai biết được tâm trí của Chúa.Ai sẽ cố vấn cho Ngài? Nhưng chúng ta có tâm trí của Chúa Cứu Thế. Thưa anh chị em, tôi vẫn không thể nói với anh chị em như nói với những người thuộc linh, nhưng nói với những người xác thịt, như những trẻ sơ sinh trong Chúa Cứu Thế. Tôi đã cho anh chị em uống sữa, chứ chưa cho ăn được vì anh chị em chưa đủ sức. Nhưng cho đến bây giờ, anh chị em vẫn chưa đủ sức. Vì anh chị em vẫn còn xác thịt. Anh chị em vẫn còn ganh tị, xung đột, như thế không phải anh chị em vẫn còn xác thịt và sống như người thế gian sao? Vì khi có người nói: Tôi theo Phao-lô, người khác: Tôi theo A-bô-lô. Như thế không phải là người thế gian sao? A-bô-lô là ai? Phao-lô là ai? Họ chỉ là người tôi tớ, nhờ họ anh chị em đã tin và mỗi tôi tớ làm theo điều Chúa đã ban cho mình. Tôi đã trồng, A-bô-lô đã tưới, nhưng chính Đức Chúa Trời đã làm cho lớn lên. Cho nên người trồng, kẻ tưới đều không quan trọng gì, chỉ có Đức Chúa Trời là Đấng làm cho lớn lên mới quan trọng. Người trồng, kẻ tưới đều như nhau, mỗi người sẽ nhận phần thưởng tùy theo công lao của mình. Vì chúng tôi là người cùng làm việc với Đức Chúa Trời, anh chị em là đồng ruộng của Đức Chúa Trời, là nhà của Đức Chúa Trời. Nhờ ân sủng Đức Chúa Trời đã ban cho tôi, như một chuyên gia xây cất giỏi, tôi đã đặt nền móng, còn người khác xây dựng lên. Nhưng mỗi người phải cẩn thận về công trình xây cất của mình. Vì không ai có thể đặt một nền móng nào khác ngoài nền đã lập tức là Chúa Cứu Thế Giê-su. Hễ ai dùng vàng, bạc, đá quý, gỗ, cỏ khô hay rơm rạ để xây nhà trên nền ấy, thì công việc của mỗi người sẽ được phơi bày rõ ràng. Ngày phán xét sẽ phô bày công trình đó ra vì ngày ấy sẽ xuất hiện trong lửa và lửa sẽ thử nghiệm công việc của mỗi người. Nếu công trình của người nào đã xây dựng còn tồn tại, người đó sẽ được phần thưởng. Nếu công trình của người nào đã xây dựng bị thiêu đốt, thì công trình ấy sẽ mất đi còn người đó sẽ được cứu nhưng dường như qua lửa vậy. Anh chị em không biết rằng anh chị em chính là đền thờ của Đức Chúa Trời và Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời ở trong anh chị em sao? Nếu ai phá hủy đền thờ của Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời sẽ hủy hoại kẻ đó. Vì đền thờ của Đức Chúa Trời là thánh khiết và đền thờ đó chính là anh chị em. Đừng tự lừa dối mình. Nếu có ai trong vòng anh chị em nghĩ rằng mình khôn ngoan theo đời này, hãy trở nên dại dột để được khôn ngoan thật. Đối với Đức Chúa Trời, khôn ngoan của thế gian này là ngu dại. Vì Kinh Thánh chép:“Ngài bắt lấy kẻ khôn ngoanbằng chính mưu kế xảo quyệt của họ.” Và cũng thế:“Chúa biết tư tưởng của người khôn ngoan chỉ là vô ích.” Thế thì, đừng ai khoe khoang về loài người vì mọi sự đều thuộc về anh chị em. Dù là Phao-lô hay A-bô-lô, Sê-pha hay thế gian, sự sống hay cái chết, hiện tại hoặc tương lai, tất cả đều thuộc về anh chị em. Anh chị em thuộc về Chúa Cứu Thế và Chúa Cứu Thế thuộc về Đức Chúa Trời. Thế thì người ta nên coi chúng tôi như tôi tớ của Chúa Cứu Thế và là người quản trị sự huyền nhiệm của Đức Chúa Trời. Hơn thế nữa, điều cần yếu nơi người quản trị là trung tín. Đối với tôi, dù bị anh chị em đoán xét hay bị tòa án loài người đoán xét cũng không quan hệ gì. Tôi cũng không đoán xét chính tôi. Vì tôi thấy mình không có gì trái, nhưng không phải vì thế mà tôi được tuyên xưng là công chính. Người đoán xét tôi chính là Chúa. Thế thì, đừng đoán xét ai trước kỳ Chúa đến. Ngài sẽ làm sáng tỏ những bí mật đen tối và phô bày những mưu mô trong lòng người. Lúc ấy, chính Đức Chúa Trời là Đấng sẽ khen thưởng mỗi người tùy công việc mình. Thưa anh chị em thân mến, vì lợi ích cho anh chị em, tôi đã áp dụng những điều này cho chính tôi và A-bô-lô để anh chị em noi gương chúng tôi. Chớ vượt quá lời đã chép; để không ai trong anh chị em sinh kiêu ngạo, theo người này chống lại người kia. Vì ai phân biệt anh chị em với người khác? Điều mà anh chị em có không phải do anh chị em đã nhận lãnh sao? Nếu anh chị em đã nhận lãnh tại sao anh chị em lại khoe khoang như chưa bao giờ phải nhận lãnh? Anh chị em đã no đủ rồi, giàu có rồi, anh chị em đã trở nên những lãnh chúa cai trị mà không cần chúng tôi. Ước gì anh chị em được cai trị để chúng tôi cũng đồng cai trị với anh chị em. Vì tôi nghĩ rằng Đức Chúa Trời đã đặt chúng tôi, là các sứ đồ vào chỗ sau chót, như những người bị án tử hình. Chúng tôi trở thành trò giải trí cho thế gian, cho thiên sứ và nhân loại. Vì cớ Chúa Cứu Thế, chúng tôi trở nên ngu dại nhưng anh chị em được khôn ngoan trong Chúa Cứu Thế. Chúng tôi yếu kém nhưng anh chị em mạnh mẽ. Anh chị em được tôn trọng còn chúng tôi bị khinh bỉ. Cho đến bây giờ, chúng tôi vẫn đói khát, rách rưới, bị đánh đập và lưu lạc. Chúng tôi đã lao động bằng chân tay. Chúng tôi chúc phước khi bị mắng nhiếc, chúng tôi nhịn nhục khi bị ngược đãi. Khi bị bêu xấu, chúng tôi trả lời dịu dàng. Chúng tôi trở nên cặn bã của thế gian, lúc nào cũng như rác rưởi cho đến bây giờ. Tôi viết những điều này không phải để làm anh chị em hổ thẹn, nhưng để khuyên bảo anh chị em như là con cái yêu dấu của tôi. Dầu anh chị em có hàng vạn thầy kèm trẻ trong Chúa Cứu Thế, nhưng anh chị em không có nhiều cha. Vì nhờ Phúc Âm tôi đã sanh anh chị em trong Chúa Cứu Thế Giê-su. Thế thì, tôi khuyên anh chị em hãy trở nên như tôi. Vì vậy, tôi đã sai Ti-mô-thê đến với anh chị em. Người là con yêu dấu và trung tín của tôi ở trong Chúa. Người sẽ nhắc nhở anh chị em đường lối của tôi trong Chúa Cứu Thế Giê-su như tôi vẫn dạy tất cả các Hội Thánh khắp nơi. Có mấy người trở nên kiêu căng vì tưởng rằng tôi sẽ không đến với anh chị em nữa. Nhưng nếu Chúa muốn, không bao lâu nữa tôi sẽ đến với anh chị em ngay và tôi sẽ biết không những chỉ lời nói của mấy người kiêu căng ấy, mà cả quyền năng của họ nữa. Vì Nước Đức Chúa Trời không phải tùy thuộc vào lời nói nhưng vào quyền năng. Anh chị em muốn điều nào? Muốn tôi đến bằng roi vọt hay bằng tình yêu thương với tinh thần nhu mì? Thật ra có tin lan truyền rằng giữa anh chị em có điều dâm ô đến nỗi người ngoại đạo cũng không dâm loạn như thế. Có người lấy vợ kế của cha mình. Đã thế, anh chị em vẫn kiêu căng, thay vì than khóc và nên loại bỏ người có hành động ấy ra khỏi anh chị em. Vì tôi, dù thể xác xa cách nhưng tâm thần vẫn hiện diện với anh chị em. Tôi đã quyết định lên án người này như là tôi có mặt tại đó. Khi anh chị em hội họp lại, hãy nhân danh Chúa Giê-su, và tâm thần tôi cũng hiện diện với anh chị em, cùng với quyền năng của Chúa Giê-su chúng ta, mà giao phó kẻ đó cho quỷ Sa-tan hủy hoại phần xác để phần hồn được cứu rỗi trong ngày của Chúa. Điều anh chị em khoe khoang, không có gì tốt cả. Anh chị em không biết rằng một chút men làm cả đống bột dậy lên sao? Hãy tẩy sạch men cũ đi, để anh chị em trở nên bột mới, như bánh không men. Vì Chúa Cứu Thế chính là con chiên sinh tế của chúng ta trong lễ Vượt Qua đã bị hy sinh. Vậy, hãy cử hành lễ Vượt Qua, không phải với men cũ là men vu cáo, gian ác nhưng với bánh không men tức là lòng chân thành và lẽ thật. Trong thư tôi viết cho anh chị em có dặn anh chị em không nên giao thiệp với những kẻ gian dâm. Ý tôi nói không phải những kẻ gian dâm của thế gian này, hay là những kẻ tham lam, kẻ lường gạt hay thờ thần tượng, nếu thế anh chị em tất phải lìa bỏ thế gian này. Nay tôi viết cho anh chị em bảo đừng giao thiệp với bất cứ ai tự xưng mình là anh chị em mà gian dâm, tham lam, thờ thần tượng, chửi rủa, say sưa, lường gạt, cũng đừng ăn uống với người như thế. Tại sao tôi lại xét đoán người ngoài làm gì? Không phải anh chị em xét đoán người trong Hội Thánh sao? Đức Chúa Trời là Đấng đoán xét người ngoài. Anh chị em hãy loại bỏ kẻ gian ác khỏi anh chị em. Ai trong vòng anh chị em có vấn đề kiện cáo nhau lại dám đem cho người ngoại không công chính xét xử thay vì đem đến cho các tín hữu thánh? Anh chị em không biết rằng các tín hữu thánh sẽ xét xử thế gian sao? Nếu thế gian sẽ bị anh chị em xét xử, anh chị em lại không xứng đáng để xét xử những việc nhỏ mọn sao? Anh chị em không biết rằng chúng ta sẽ xét xử thiên sứ sao? Huống gì những việc thường ngày. Thế mà khi anh chị em có những vấn đề kiện cáo thông thường lại cử những người bị Hội Thánh coi không ra gì để xét xử sao? Tôi nói vậy để anh chị em hổ thẹn. Không có một người nào trong vòng anh chị em khôn ngoan đủ để có thể phân xử giữa anh chị em mình sao? Nhưng anh chị em kiện cáo nhau và lại đem cho người không tin xét xử. Thật ra khi kiện cáo nhau tức là anh chị em đã thất bại rồi. Sao anh chị em chẳng thà cam chịu bất công? Sao anh chị em chẳng thà chịu bị lừa gạt? Nhưng chính anh chị em bất công, lừa gạt, rồi lại làm như vậy cho anh chị em mình. Anh chị em không biết rằng người không công chính sẽ không được thừa hưởng Nước Đức Chúa Trời hay sao? Chớ để bị lừa dối! Những kẻ gian dâm, thờ thần tượng, ngoại tình, nữ đồng tính luyến ái, nam đồng tính luyến ái, trộm cắp, tham lam, say sưa, kẻ hay chửi rủa, lường gạt đều sẽ không được hưởng Nước Đức Chúa Trời. Trước kia một vài anh chị em vốn là người như thế. Nhưng nhờ danh Chúa Cứu Thế Giê-su và trong Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời chúng ta, anh chị em đã được rửa sạch, được thánh hóa và được tuyên xưng công chính. Tôi được phép làm mọi sự, nhưng không phải mọi việc đều có ích. Mọi sự tôi được phép làm, nhưng tôi sẽ không để bị nô lệ cho điều gì cả. Đồ ăn là vì bụng và bụng để chứa đồ ăn, nhưng Đức Chúa Trời sẽ hủy diệt bụng lẫn đồ ăn. Thân thể không phải để gian dâm nhưng vì Chúa và Chúa vì thân thể. Đức Chúa Trời đã làm cho Chúa sống lại thể nào thì cũng sẽ dùng quyền năng của Ngài làm anh chị em sống lại thể ấy. Anh chị em không biết rằng thân thể anh chị em là một phần thân thể của Chúa Cứu Thế hay sao? Thế thì tôi có nên lấy một phần thân thể của Chúa Cứu Thế làm thân thể của gái điếm không? Không khi nào. Anh chị em không biết rằng: Ai ăn nằm với gái điếm tức là kết hợp thành một thân thể với nó sao? Vì Kinh Thánh chép:“Hai người sẽ trở nên một thân.” Nhưng ai kết hợp với Chúa thì có cùng một tinh thần với Ngài. Hãy tránh xa sự gian dâm, mọi tội người ta phạm đều là ngoài thân thể, nhưng người gian dâm phạm đến chính thân thể mình. Anh chị em không biết rằng thân thể mình là đền thờ của Đức Thánh Linh đang ở trong anh chị em, là Đấng anh chị em đã nhận từ Đức Chúa Trời sao? Anh chị em cũng không còn thuộc về chính mình nữa. Vì anh chị em đã được mua bằng một giá rất cao. Vậy hãy lấy thân thể mình mà tôn vinh Đức Chúa Trời. Còn về những điều anh chị em đã viết thư hỏi tôi. Như việc đàn ông không ăn nằm với đàn bà là điều tốt. Nhưng vì tình trạng dâm ô, mỗi người đàn ông nên có vợ và đàn bà nên có chồng. Chồng phải chu toàn bổn phận đối với nhu cầu của vợ, vợ cũng phải chu toàn bổn phận đối với chồng. Vợ không có quyền trên thân xác mình nhưng chồng có quyền; chồng cũng không có quyền trên thân xác mình nhưng vợ có quyền. Vợ chồng không nên từ chối ăn nằm với nhau, trừ khi hai người đồng ý kiêng một thời gian để chuyên tâm cầu nguyện, sau đó hãy trở lại với nhau như cũ để khỏi bị quỷ Sa-tan cám dỗ khi anh chị em thiếu tự chế. Điều tôi nói đây là thuận phép chứ không phải mạng lệnh. Tôi muốn mọi người được như tôi. Nhưng Đức Chúa Trời ban cho mỗi người một ân tứ riêng, người được ân tứ này, kẻ được ân tứ khác. Tôi khuyên những người độc thân và góa bụa nên ở vậy như tôi thì tốt hơn. Nhưng nếu anh chị em không thể kiềm chế mình, thì hãy cưới gả vì lập gia đình vẫn tốt hơn là để tình dục nung đốt. Đối với những người đã lập gia đình, tôi truyền, không phải tôi, nhưng Chúa truyền, vợ không được ly thân chồng. Nếu đã ly thân, hãy ở vậy hoặc phải hòa giải với chồng. Chồng cũng không được ly dị vợ. Còn những người khác, tôi khuyên, tôi chứ không phải Chúa, nếu anh chị em nào có vợ không tin Chúa, nhưng người ấy đồng ý sống với mình, thì đừng bỏ vợ. Nếu phụ nữ nào có chồng không tin Chúa, nhưng người đó đồng ý sống với mình thì đừng bỏ chồng. Vì người chồng không tin Chúa, nhờ vợ, được thánh hóa và vợ không tin Chúa, nhờ chồng, được thánh hóa. Nếu không phải vậy thì con cái anh chị em bị ô uế nhưng nay chúng nó vẫn thánh khiết. Nhưng nếu người không tin Chúa muốn phân rẽ, hãy để cho phân rẽ. Trong trường hợp này, anh chị em không chịu trách nhiệm. Đức Chúa Trời kêu gọi chúng ta sống trong hòa bình. Vì, hỡi các bà, biết đâu các bà có thể cứu chồng mình hoặc, thưa các ông, biết đâu các ông có thể cứu vợ mình. Mỗi người nên sống theo sự phân định của Chúa; và nên sống theo ơn kêu gọi của Đức Chúa Trời. Đây là nguyên tắc tôi giảng dạy trong tất cả các hội thánh. Ai, khi được kêu gọi, đã chịu cắt bì rồi, thì đừng bỏ dấu ấy. Ai chưa chịu phép cắt bì mà được kêu gọi, thì đừng tìm cách chịu phép ấy. Chịu phép cắt bì hay không cắt bì cũng không quan trọng. Điều quan trọng là vâng giữ điều răn của Đức Chúa Trời. Mỗi người đang ở vị thế nào khi được kêu gọi thì cứ ở vị thế ấy. Anh chị em là nô lệ khi được Đức Chúa Trời kêu gọi? Đừng lo, nhưng nếu có thể được tự do hãy nắm lấy cơ hội đó. Vì kẻ nô lệ được Đức Chúa Trời kêu gọi trong Chúa là người tự do thuộc về Chúa. Cũng vậy, người tự do được kêu gọi thì trở nên nô lệ của Chúa Cứu Thế. Chúa đã trả một giá cao để chuộc anh chị em, đừng trở nên nô lệ cho loài người. Mỗi người trong anh chị em đã được kêu gọi ở vị thế nào, hãy ở vị thế đó trước mặt Đức Chúa Trời. Về vấn đề các trinh nữ, tôi không có mệnh lệnh của Chúa nhưng nhờ ơn Chúa đưa ý kiến như là một người đáng tin cậy. Tôi nghĩ rằng vì sự khó khăn hiện tại, một người nên ở độc thân là hơn. Anh đã có vợ? Đừng tìm cách ly dị. Nếu chưa vợ, đừng kiếm vợ. Nhưng nếu anh lập gia đình, không mắc tội gì. Và nếu một trinh nữ lấy chồng cũng không có tội. Nhưng những người có gia đình sẽ có khó khăn trong đời này. Tôi chỉ mong anh chị em tránh khỏi điều ấy. Tôi muốn nói với anh chị em thế này: Thì giờ ngắn ngủi. Từ nay, người có vợ hãy sống như người chưa vợ. Những kẻ than khóc, như người không than khóc; người vui mừng như không vui; người mua sắm như kẻ không có gì. Kẻ hưởng của cải thế gian như người không tận hưởng, vì thế giới trong hình trạng này sẽ qua đi. Nhưng tôi muốn anh chị em không lo lắng gì. Người không lập gia đình, thì lo việc Chúa, tìm cách làm đẹp lòng Chúa. Còn người có gia đình thì lo việc thế gian, tìm cách làm hài lòng vợ; như thế tâm trí bị phân chia. Đàn bà không chồng và trinh nữ thì lo việc Chúa để tận hiến cả đời sống thể xác lẫn tâm linh. Nhưng đàn bà có chồng thì lo việc thế gian, lo sao cho đẹp lòng chồng. Tôi nói như vậy là vì lợi ích cho anh chị em, không phải để cản trở anh chị em, nhưng hướng dẫn anh chị em đến điều thích hợp và không xao lãng trong việc phụng vụ Chúa. Nếu có ai nghĩ rằng mình không xử sự hợp lẽ với vị hôn thê mình; nếu tình dục quá nung đốt và nghĩ rằng họ nên lập gia đình, thì hãy cưới nàng, như thế không mắc tội gì. Nhưng nếu người ấy quyết định dứt khoát trong lòng, không phải vì ép buộc nhưng có quyền tự ý quyết định trong lòng rằng nên giữ nàng như là vị hôn thê trinh trắng, người ấy làm điều phải. Như thế, cưới vị hôn thê mình là làm điều tốt và kẻ không cưới hôn thê mình lại làm điều tốt hơn. Chồng còn sống bao lâu thì vợ phải ràng buộc với chồng bấy lâu. Nhưng nếu chồng chết, thì vợ được tự do lấy ai tùy ý, miễn là ở trong Chúa. Nhưng theo ý tôi, người ấy cứ ở vậy thì có phước hơn. Tôi nghĩ rằng tôi cũng có Thánh Linh của Đức Chúa Trời. Về vấn đề đồ cúng thần tượng, chúng ta biết rằng “mọi người đều hiểu biết.” Nhưng sự hiểu biết sinh kiêu ngạo, còn tình yêu thương xây dựng. Nếu ai nghĩ rằng mình hiểu biết điều gì thì người ấy chưa hiểu biết như đáng phải biết. Nhưng nếu ai yêu kính Đức Chúa Trời, Ngài biết người ấy. Về việc ăn đồ cúng thần tượng, chúng ta biết rằng thần tượng trong thế gian chỉ là hư không và không có trời nào khác ngoại trừ Đức Chúa Trời duy nhất. Vì mặc dầu người ta nói có nhiều thần trên trời, dưới đất, dù cho thật có nhiều thần, nhiều chúa, nhưng đối với chúng ta, chỉ có một Đức Chúa Trời là Cha; mọi vật do Ngài sáng tạo và chúng ta sống cho Ngài; và chỉ có một Chúa là Chúa Cứu Thế Giê-su, nhờ Ngài mọi vật hiện hữu và chúng ta cũng nhờ Ngài mà sống. Nhưng không phải ai cũng hiểu biết như vậy. Có người cho đến nay vẫn còn quan niệm cũ về thần tượng nên khi ăn đồ cúng thần tượng, lương tâm vốn yếu đuối của họ bị ô uế. Thực ra, thức ăn không giúp chúng ta được chấp nhận trước mặt Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta không ăn cũng không hại gì; nếu chúng ta ăn cũng không ích lợi gì. Nhưng hãy cẩn thận, đừng để quyền tự do của anh chị em gây cho những người yếu đức tin vấp phạm. Nếu có ai thấy anh chị em là người hiểu biết ngồi ăn trong đền thờ thần tượng, vì lương tâm yếu đuối họ được khuyến khích cũng ăn đồ cúng thì sao? Vì thế sự hiểu biết của anh chị em hủy diệt người yếu đuối ấy, là người anh chị em Chúa Cứu Thế cũng đã chết thay cho. Như vậy khi phạm tội cùng anh chị em mình và làm tổn thương lương tâm yếu kém của họ, anh chị em cũng phạm tội cùng Chúa Cứu Thế. Thế thì nếu thức ăn gây cho anh chị em tôi vấp phạm, tôi sẽ không bao giờ ăn thịt để khỏi gây cho anh chị em tôi vấp phạm. Tôi không được tự do sao? Tôi không phải là sứ đồ sao? Không phải tôi đã thấy Chúa Giê-su sao? Không phải anh chị em chính là công trình của tôi trong Chúa sao? Nếu đối với những người khác tôi không phải là sứ đồ, thì ít ra tôi là sứ đồ đối với anh chị em; vì anh chị em chính là dấu ấn cho chức sứ đồ của tôi trong Chúa. Đối với những người phê bình tôi, đây là lời biện hộ của tôi. Chúng tôi không có quyền ăn, uống sao? Chúng tôi không có quyền đem theo một chị em làm vợ như các sứ đồ khác hoặc như các em của Chúa và như Sê-pha sao? Hay là chỉ có tôi và Ba-na-ba mới phải tự túc làm việc để sống? Có ai ăn cơm nhà mà đi đánh giặc không công? Có ai trồng nho mà không ăn quả? Hay có ai chăn nuôi súc vật mà không lấy sữa nó? Phải chăng tôi nói vậy là theo thói người phàm? Kinh Luật không dạy như vậy sao? Vì Kinh Luật Môi-se chép:“Chớ khớp miệng bò khi nó đang đạp lúa!”Có phải Đức Chúa Trời lo cho bò không? Hay Ngài hoàn toàn phán về chúng ta? Về chúng ta có lời chép rằng:“Người cày ruộng cày trong hy vọngvà kẻ đạp lúa hy vọng được chia phần lúa.” Nếu chúng tôi đã gieo điều thiêng liêng cho anh chị em thì việc gặt hái vật chất từ anh chị em là quá đáng sao? Nếu những người khác còn có quyền ấy đối với anh chị em, chúng tôi không có sao?Nhưng chúng tôi đã không dùng quyền này, chúng tôi chịu đựng tất cả để không làm trở ngại cho Phúc Âm của Chúa Cứu Thế. Anh chị em không biết rằng ai phục vụ trong đền thờ thì nhận phần ăn từ đền thờ, ai giúp việc nơi bàn thờ thì được chia phần sinh tế nơi bàn thờ sao? Cũng vậy, chính Chúa đã dạy:“Ai truyền giảng Phúc Âm thì được nuôi sống bởi Phúc Âm.” Nhưng tôi đã không sử dụng những quyền này. Tôi cũng không viết những lời này để đòi quyền ấy. Tôi thà chết còn hơn là mất đi niềm kiêu hãnh ấy. Nếu tôi truyền giảng Phúc Âm, tôi không có gì để khoe khoang vì tôi buộc phải giảng. Nhưng khốn nạn cho tôi nếu tôi không truyền giảng Phúc Âm. Vì nếu tôi tình nguyện làm việc này, tôi sẽ được thưởng. Nếu tôi không muốn làm, trách nhiệm vẫn giao cho tôi. Thế thì phần thưởng của tôi là gì? Ấy là khi truyền giảng Phúc Âm, tôi giảng không công, chẳng đòi hỏi quyền lợi gì của người giảng Phúc Âm. Vì dù tôi được tự do đối với mọi người, chính tôi tự làm nô lệ cho tất cả để có thể chinh phục nhiều người hơn. Đối với người Do Thái, tôi trở nên giống như người Do Thái để chinh phục người Do Thái. Đối với người sống theo Kinh Luật, tôi sống như người theo Kinh Luật, dù tôi không bị Kinh Luật ràng buộc, để chinh phục những người theo Kinh Luật. Đối với những người không có Kinh Luật, tôi sống như người không Kinh Luật, không phải tôi không có Kinh Luật của Đức Chúa Trời, vì tôi có Kinh Luật của Chúa Cứu Thế, để chinh phục người không Kinh Luật. Đối với người yếu kém tôi trở nên như người yếu kém để chinh phục họ. Tôi trở nên mọi sự cho mọi người để bằng mọi cách cứu rỗi một vài người. Tôi làm mọi sự vì cớ Phúc Âm để trở nên kẻ dự phần với Phúc Âm. Anh chị em không biết rằng trên vận động trường, tất cả đều tranh đua, nhưng chỉ có một người thắng giải sao? Vậy, hãy chạy sao cho thắng cuộc. Mỗi lực sĩ đều theo kỷ luật khắt khe về đủ mọi thứ, họ chịu như vậy để đoạt mão hoa chiến thắng sẽ tàn héo, nhưng chúng ta chịu như thế để nhận được mão hoa chiến thắng không phai tàn. Về phần tôi, tôi chạy đua không phải là chạy vu vơ, tôi đánh, không phải là đánh gió. Nhưng tôi phải áp dụng kỷ luật và khắc phục thân thể tôi, e rằng sau khi giảng dạy người khác, chính tôi lại bị loại chăng. Thưa anh chị em, tôi muốn anh chị em nhớ rằng tổ tiên chúng ta tất cả đã ở dưới đám mây và tất cả cũng đã đi ngang qua biển. Tất cả đều nhân danh Môi-se mà chịu phép báp-tem trong đám mây và dưới biển. Tất cả cũng đã ăn cùng một thức ăn thiêng liêng, và tất cả đã uống cùng một thứ nước thiêng liêng. Vì họ đã uống nước từ tảng đá thiêng liêng đi theo họ, tảng đá đó chính là Chúa Cứu Thế. Nhưng đa số tổ phụ không đẹp lòng Đức Chúa Trời cho nên đã bỏ xác trong đồng hoang. Những điều này trở thành một bài học để cảnh cáo chúng ta chớ có ham muốn điều ác như họ. Cũng đừng trở nên những kẻ thờ thần tượng như một số người trong họ. Như Kinh Thánh chép:“Dân chúng ngồi xuống ăn uốngrồi đứng lên vui chơi trụy lạc.” Chúng ta cũng không nên dâm dục như một số người trong họ đã dâm dục nên trong một ngày mà hai mươi ba ngàn người ngã gục. Chúng ta cũng không nên thử Chúa Cứu Thế như một số người trong họ đã thử nên bị rắn hủy diệt. Cũng đừng lằm bằm oán trách như một số người trong họ đã oán trách rồi bị thần chết hủy diệt. Những điều này đã xảy ra cho họ như là một bài học và cũng được ghi chép lại để làm gương cảnh cáo chúng ta, là những người đang sống vào thời đại cuối cùng này. Thế thì, ai tưởng mình đứng vững, hãy cẩn thận kẻo ngã. Chẳng có cơn cám dỗ nào đã chinh phục anh chị em mà vượt quá sức loài người. Nhưng Đức Chúa Trời là Đấng thành tín, Ngài sẽ không để anh chị em bị cám dỗ quá sức mình, nhưng trong khi bị cám dỗ sẽ mở lối thoát để anh chị em có thể chịu đựng được. Vì vậy, anh chị em yêu dấu của tôi, hãy tránh thờ thần tượng. Tôi nói với anh chị em như nói với những người khôn ngoan. Hãy suy xét những điều tôi nói. Chén tiệc thánh mà chúng ta cảm tạ không phải là chén thông công với huyết của Chúa Cứu Thế sao? Bánh mà chúng ta bẻ không phải là bánh thông công với thân thể của Chúa Cứu Thế sao? Vì chỉ có một ổ bánh, chúng ta dù nhiều người vẫn là một thân thể, vì tất cả chúng ta cùng dự phần trong một ổ bánh. Hãy xem người Do Thái theo huyết thống! Không phải những kẻ ăn đồ dâng tế thông công với bàn thờ sao? Thế thì tại sao tôi nói như thế? Vì của cúng thần tượng là gì hay thần tượng là gì đâu? Vì khi người ta dâng tế là dâng tế ma quỷ, không phải Đức Chúa Trời. Tôi không muốn anh chị em trở nên thông công với ma quỷ. Anh chị em không thể uống chén của Chúa cùng chén của ma quỷ. Anh chị em không nên ăn chung bàn với Chúa và với ma quỷ. Hay chúng ta muốn khiêu khích Chúa? Chúng ta mạnh hơn Ngài sao? Mọi sự đều được phép làm, nhưng không phải mọi sự đều hữu ích. Mọi sự đều được phép làm nhưng không phải mọi sự đều xây dựng. Đừng tìm kiếm lợi riêng cho mình nhưng hãy tìm lợi cho người khác nữa. Hãy ăn bất cứ những gì bày bán nơi chợ, đừng vì lương tâm mà thắc mắc. Vì cả quả đất và mọi vật đều thuộc về Chúa. Nếu có ai không tin Chúa mời anh chị em, và anh chị em muốn đi, hãy ăn tất cả những gì dọn ra bàn, lương tâm không phải thắc mắc gì. Nhưng nếu có người bảo đây là đồ cúng thì anh chị em đừng ăn vì người ấy đã cho biết và cũng vì lương tâm. Tôi không có ý nói lương tâm anh chị em nhưng lương tâm người ấy. Vì tại sao sự tự do của tôi lại bị lương tâm người khác đoán xét? Nếu tôi tạ ơn mà ăn, tại sao tôi lại bị trách vì món ăn tôi đã tạ ơn. Vậy thì, hoặc ăn, hoặc uống hay làm việc gì hãy vì vinh quang của Chúa mà làm. Đừng xúc phạm người Do Thái hay người Hy Lạp hay Hội Thánh Đức Chúa Trời. Hãy như tôi, cố làm vui lòng mọi người, không tìm kiếm lợi ích riêng, nhưng lợi ích cho nhiều người để họ có thể được cứu rỗi. Hãy bắt chước tôi, như chính tôi bắt chước Chúa Cứu Thế. Tôi khen ngợi anh chị em vì anh chị em đã nhớ tất cả những gì tôi truyền dạy cho anh chị em và cẩn thận gìn giữ những truyền thống ấy. Nhưng tôi muốn anh chị em biết rằng Chúa Cứu Thế là đầu của tất cả đàn ông, người đàn ông là đầu của đàn bà và Đức Chúa Trời là đầu của Chúa Cứu Thế. Mỗi người đàn ông khi cầu nguyện hay nói tiên tri mà trùm đầu tức là làm nhục đầu mình. Nhưng đàn bà khi cầu nguyện hay nói tiên tri mà không trùm đầu tức là làm nhục đầu mình. Vì nếu đàn bà không che đầu thì hãy hớt tóc đi. Nhưng nếu đàn bà hớt tóc hay cạo đầu là việc hổ thẹn thì hãy che đầu lại. Vì thật ra đàn ông không nên che đầu vì từ ban đầu họ là hình ảnh và vinh quang của Đức Chúa Trời. Còn đàn bà là vinh quang của đàn ông. Vì đàn ông không phải được tạo dựng từ đàn bà nhưng đàn bà từ đàn ông. Và đàn ông không phải được tạo dựng cho đàn bà nhưng đàn bà cho đàn ông. Bởi đó vì các thiên sứ, phụ nữ nên mang trên đầu một dấu hiệu của uy quyền. Tuy nhiên trong Chúa đàn bà không thể sống độc lập với đàn ông và đàn ông cũng không thể độc lập với đàn bà. Vì như đàn bà được tạo dựng từ đàn ông thì đàn ông cũng do đàn bà sinh ra, và tất cả đều từ Đức Chúa Trời mà ra. Anh chị em hãy tự xét về điều này: Đàn bà có nên che đầu khi cầu nguyện với Đức Chúa Trời hay không? Có phải bản chất tự nhiên dạy anh chị em rằng: Nếu đàn ông để tóc dài tức là tự làm nhục mình, còn đàn bà để tóc dài lại là xinh đẹp hay sao? Vì tóc dài là để thay thế cho khăn che đầu. Nhưng nếu có ai tranh luận về vấn đề này thì chúng tôi không có tập tục ấy và các Hội Thánh của Đức Chúa Trời cũng không có như thế. Còn về những điều sau đây, tôi không khen ngợi anh chị em được vì những buổi nhóm họp của anh chị em không đem lại lợi ích nhưng chỉ hại thêm. Trước hết tôi nghe rằng có sự chia rẽ khi anh chị em nhóm họp thờ phượng. Tôi cũng tin một phần nào. Vì phải có sự khác biệt giữa vòng anh chị em để nhận ra những người chân thật. Khi anh chị em nhóm họp một chỗ, anh chị em không dự tiệc thánh của Chúa. Vì khi dự tiệc, mỗi người cứ ăn trước phần ăn của mình cho nên người thì đói, kẻ thì no say. Anh chị em không có nhà riêng để ăn uống sao? Hay anh chị em khinh bỉ Hội Thánh của Đức Chúa Trời và coi thường người thiếu thốn? Tôi phải nói gì với anh chị em? Tôi có nên khen anh chị em không? Không! Tôi không khen anh chị em về vấn đề này đâu. Vì điều tôi đã nhận từ nơi Chúa, tôi truyền cho anh chị em. Ấy là trong đêm Chúa Giê-su bị phản bội, Ngài lấy bánh; sau khi tạ ơn, bẻ ra và phán: Đây là thân thể Ta hy sinh vì các con. Hãy làm điều này để nhớ đến Ta. Cũng vậy, sau khi ăn Ngài lấy chén và phán: Chén nước này là giao ước mới trong huyết Ta. Mỗi khi các con uống, hãy làm điều này để nhớ đến Ta. Vì mỗi khi các con ăn bánh và uống chén này hãy truyền bá sự chết của Chúa cho đến khi Ngài đến. Vì thế, ai ăn bánh và uống chén của Chúa một cách không xứng đáng sẽ mắc tội với thân và huyết của Chúa. Mỗi người nên xét chính mình, khi ăn bánh và uống chén này. Vì người nào ăn hoặc uống mà không phân biệt thân Chúa tức là ăn và uống sự phán xét cho mình. Vì vậy, trong anh chị em có nhiều người đau yếu, bệnh tật và một số chết. Nếu chúng ta tự xét mình, chúng ta sẽ không bị đoán xét. Nhưng khi chúng ta bị Chúa xét đoán để sửa phạt, chúng ta sẽ khỏi bị hình phạt chung với thế gian. Thế thì, anh chị em của tôi, khi nhóm họp để dự tiệc thánh hãy chờ đợi nhau. Nếu có ai đói, hãy ăn ở nhà hầu cho anh chị em nhóm họp không phải để bị đoán phạt. Còn nhiều điều khác khi tôi đến sẽ giải quyết. Còn về các linh ân, thưa anh chị em, tôi không muốn anh chị em thiếu hiểu biết. Anh chị em biết rằng khi anh chị em còn là người ngoại đạo, thế nào anh chị em đã bị lôi cuốn vào việc thờ cúng các thần tượng câm. Vì thế, tôi muốn anh chị em biết rằng không ai có Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời mà rủa: Đức Giê-su đáng bị nguyền rủa. Cũng không ai có thể xưng Đức Giê-su là Chúa Tể nếu không bởi Đức Thánh Linh. Có nhiều ân tứ khác nhau, nhưng chỉ có một Đức Thánh Linh. Có nhiều việc phục vụ khác nhau nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều công việc khác nhau nhưng chỉ có một Đức Chúa Trời là Đấng làm mọi sự trong mọi người. Mỗi người được ban cho sự biểu hiện của Đức Thánh Linh vì lợi ích chung. Người thì được Đức Thánh Linh ban cho lời nói khôn ngoan, người khác cũng do cùng một Thánh Linh được lời nói tri thức, người khác nữa cũng do cùng một Thánh Linh được đức tin, người khác nữa được ân tứ chữa bệnh cũng do một Thánh Linh, kẻ thì làm phép lạ, người khác nói tiên tri, người thì phân biệt các thần linh, kẻ khác nói các tiếng lạ, người khác thông dịch các tiếng ấy. Tất cả những ân tứ trên đều do cùng một Đấng là Đức Thánh Linh hành động, Ngài phân phối cho mỗi người tùy ý Ngài. Vì như chỉ có một thân thể nhưng có nhiều chi thể và tất cả chi thể của thân tuy nhiều nhưng vẫn thuộc về một thân thể. Chúa Cứu Thế cũng vậy. Vì trong cùng một Thánh Linh mà chúng ta chịu phép báp-tem để sát nhập vào một thân thể, người Do Thái cũng như Hy Lạp, kẻ nô lệ cũng như tự do, tất cả chúng ta đều được uống cùng một Thánh Linh. Vì thân thể không phải chỉ có một chi thể nhưng nhiều chi thể. Nếu chân nói: Vì tôi không phải là tay, tôi không thuộc về thân thể. Có phải vì nói như thế mà chân không thuộc về thân thể sao? Và nếu tai nói: Vì tôi không phải là mắt, tôi không thuộc về thân thể này. Có phải vì nói như thế mà tai không thuộc về thân thể sao? Nếu toàn thân thể là mắt cả thì nghe làm sao? Nếu tất cả là tai thì ngửi thế nào? Nhưng Đức Chúa Trời đã xếp đặt mọi chi thể trong thân thể, mỗi bộ phận tùy theo ý Ngài. Nếu tất cả chỉ là một bộ phận thì thân thể ở đâu? Nay tuy có nhiều chi thể nhưng chỉ có một thân thể. Mắt không thể nói với tay: Tôi không cần anh; đầu cũng không thể nói với chân: Tôi không cần anh. Nhưng trái lại, những chi thể xem có vẻ yếu đuối trong thân thể lại là cần thiết. Những chi thể xem có vẻ kém quan trọng trong thân thể thì ta phải tôn trọng nhiều hơn; và những chi thể ít được chú ý chúng ta phải chú trọng nhiều hơn. Còn những chi thể nào đã được tôn trọng rồi thì không cần chú ý nữa. Nhưng Đức Chúa Trời đã xếp đặt thân thể để cho chi thể nào kém cỏi thì được tôn trọng hơn. Như thế để không có sự chia rẽ trong thân thể, nhưng các chi thể đồng chăm sóc cho nhau. Nếu một chi thể đau đớn, tất cả các chi thể cùng đau. Nếu một chi thể được tôn trọng, tất cả các chi thể khác cùng vui mừng. Vậy anh chị em là thân thể của Chúa Cứu Thế và mỗi người là một phần của thân thể ấy. Đức Chúa Trời đã lập trong Hội Thánh trước nhất là sứ đồ, thứ hai là tiên tri, thứ ba là giáo sư, thứ đến là người làm phép lạ, rồi đến người chữa bệnh, người giúp đỡ, người quản trị, người nói tiếng lạ. Có phải tất cả đều là sứ đồ sao? Có phải tất cả đều là tiên tri sao? Có phải tất cả đều là giáo sư sao? Có phải tất cả đều làm phép lạ sao? Có phải tất cả đều được ân tứ chữa bệnh sao? Có phải tất cả đều nói tiếng lạ sao? Có phải tất cả đều thông dịch tiếng lạ sao? Hãy khao khát tìm kiếm những ân tứ lớn lao hơn. Bây giờ tôi chỉ cho anh chị em một con đường tốt đẹp hơn. Dù tôi nói được các thứ tiếng loài người và thiên sứ, nhưng không có tình yêu thương thì tôi chỉ như tiếng cồng khua vang hay chập chỏa inh ỏi. Dù tôi được ân tứ nói tiên tri và hiểu biết tất cả mọi huyền nhiệm cũng như tri thức, dù tôi có tất cả đức tin đến nỗi có thể dời núi được, nhưng không có tình yêu thương, thì tôi vẫn không là gì cả. Dù tôi phân phát tất cả gia tài của tôi cho người nghèo, và hy sinh thân thể để chịu thiêu đốt, nhưng không có tình yêu thương thì cũng chẳng ích lợi gì cho tôi. Tình yêu thương hay nhẫn nhục, tình yêu thương nhân từ, không ghen ghét, không khoe khoang, không kiêu ngạo, không khiếm nhã, không tìm tư lợi, không dễ nóng giận, không ghi nhớ việc ác, không vui về việc bất chính nhưng chung vui trong sự thật. Tình yêu thương dung thứ mọi sự, tin tưởng mọi sự, hy vọng mọi sự, chịu đựng mọi sự. Tình yêu thương không bao giờ chấm dứt, các việc nói tiên tri rồi sẽ hết, những ân tứ nói tiếng lạ cũng sẽ ngưng, tri thức cũng sẽ hết. Vì chúng ta chỉ mới hiểu biết một phần nào, chúng ta nói tiên tri cũng chỉ một phần nào thôi. Nhưng khi sự toàn hảo đến thì cái không toàn hảo sẽ hết. Khi tôi còn bé thơ, tôi nói như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con, lý luận như trẻ con, nhưng khi đã thành nhân tôi từ bỏ những hành vi trẻ con. Vì hiện nay chúng ta chỉ thấy mập mờ qua gương, đến bấy giờ chúng ta sẽ thấy tận mặt. Bây giờ chúng ta chỉ hiểu biết một phần, đến bấy giờ chúng ta sẽ biết hoàn toàn như Chúa biết chúng ta vậy. Nên bây giờ còn ba điều này: Đức tin, hy vọng và tình yêu thương. Nhưng điều lớn hơn hết là tình yêu thương. Hãy theo đuổi tình yêu thương, hãy khao khát tìm kiếm các linh ân, đặc biệt là ân tứ nói tiên tri. Vì người nói tiếng lạ không phải nói với người nhưng nói với Đức Chúa Trời, vì không ai hiểu người ấy nói gì và người do Đức Thánh Linh nói những sự huyền nhiệm. Còn tiên tri thì rao truyền cho loài người để xây dựng, khích lệ và an ủi. Người nói tiếng lạ chỉ xây dựng chính mình, nhưng tiên tri xây dựng Hội Thánh. Tôi mong tất cả anh chị em nói tiếng lạ nhưng mong anh chị em nói tiên tri hơn. Người nói tiên tri quan trọng hơn người nói tiếng lạ mà không được thông dịch để Hội Thánh được xây dựng. Thưa anh chị em, nếu bây giờ tôi đến với anh chị em mà không nói lời mạc khải từ Chúa, lời tri thức hay lời tiên tri hoặc lời dạy dỗ nhưng nói tiếng lạ thì ích gì cho anh chị em? Cũng vậy, những nhạc cụ không sinh động như sáo, đàn hạc khi phát ra âm thanh, nếu âm điệu không phân biệt thì làm sao biết được sáo hay đàn hạc chơi điệu gì? Và nếu người ta không phân biệt được tiếng kèn thổi thì làm sao chuẩn bị ra trận? Anh chị em cũng vậy, khi nói tiếng lạ, anh chị em nói tiếng không rõ nghĩa làm sao ai hiểu được anh chị em nói gì? Như thế anh chị em đang nói vu vơ. Trên thế giới có nhiều ngôn ngữ nhưng ngôn ngữ nào cũng có ý nghĩa. Vậy nếu tôi không hiểu ngôn ngữ của người nói thì tôi sẽ là người ngoại quốc đối với người ấy và người ấy cũng là người ngoại quốc đối với tôi. Anh chị em cũng vậy, vì anh chị em khao khát tìm kiếm các linh ân, thì hãy hết sức tìm kiếm để xây dựng Hội Thánh. Vì vậy người nói tiếng lạ nên cầu nguyện để có thể thông dịch tiếng ấy. Nếu tôi cầu nguyện bằng tiếng lạ thì tâm linh tôi cầu nguyện nhưng tâm trí lại bất động. Thế thì tôi phải làm gì? Tôi sẽ cầu nguyện bằng tâm linh nhưng cũng bằng tâm trí nữa. Tôi sẽ ca ngợi bằng tâm linh nhưng cũng ca ngợi bằng tâm trí nữa. Nếu anh chị em chỉ cảm tạ Chúa bằng tâm linh mà thôi, thì thế nào một người bình thường đáp “A-men” cùng với lời cảm tạ của anh chị em được, vì người ấy không hiểu anh chị em nói gì. Vì dù lời cảm tạ của anh chị em thật tốt lành, nhưng không xây dựng được người khác. Cảm tạ Đức Chúa Trời, tôi nói tiếng lạ nhiều hơn hết thảy anh chị em. Nhưng trong Hội Thánh, tôi thà chỉ nói năm lời bằng tâm trí để dạy dỗ người khác hơn là nói một vạn lời bằng tiếng lạ. Thưa anh chị em, đừng suy nghĩ như trẻ con, nhưng về sự ác hãy như trẻ con, hãy trưởng thành trong sự suy nghĩ. Trong Kinh Luật có chép:“Chúa phán: Ta sẽ nhờ những người nói tiếng khácVà dùng môi miệng người ngoại quốcĐể phán với dân này,Nhưng dầu vậy họ vẫn không nghe Ta.” Như thế các tiếng lạ là một dấu không phải cho những người tin nhưng cho những người không tin; còn nói tiên tri không phải cho những người không tin nhưng cho tín hữu. Vậy, khi cả Hội Thánh họp lại và tất cả mọi người đều nói tiếng lạ, chợt có người bình thường hoặc người chưa tin bước vào, có phải họ sẽ nghĩ rằng anh chị em điên cuồng chăng? Nhưng nếu mỗi người đều nói tiên tri, chợt có ai không tin hoặc người bình thường bước vào, người ấy sẽ bị mọi người thuyết phục và xét đoán. Những bí ẩn trong lòng người ấy sẽ bị tỏ bày và người ấy sẽ quỳ xuống thờ lạy Đức Chúa Trời mà công bố rằng: Thật có Đức Chúa Trời giữa anh chị em. Thưa anh chị em, thế thì vấn đề là gì? Khi anh chị em họp lại với nhau, người thì có thánh ca, người có lời dạy dỗ, người có lời mạc khải, người nói tiếng lạ, người thông dịch tiếng lạ. Hãy làm mọi sự để xây dựng. Nếu có ai nói tiếng lạ thì chỉ nên hai hay ba người là nhiều nhất, phải theo thứ tự và một người phải thông dịch. Nếu không có ai thông dịch, người ấy nên im lặng trong Hội Thánh; chỉ nói với riêng mình và với Đức Chúa Trời. Chỉ nên hai hay ba tiên tri rao giảng và những người khác suy xét. Nhưng nếu có người ngồi đó được Chúa mạc khải thì người đang nói trước đó hãy im lặng. Vì theo thứ tự, mỗi anh chị em đều có thể nói tiên tri để tất cả cùng được học hỏi và được khích lệ. Tâm thần của các tiên tri phải được các tiên tri kiểm soát. Vì Đức Chúa Trời không phải là Đức Chúa Trời hỗn loạn mà là Đức Chúa Trời bình an như trong tất cả các Hội Thánh của các thánh đồ. Trong các buổi hội họp phụ nữ nên yên lặng vì họ không được phép nói nhưng hãy thuận phục như Kinh Luật dạy. Nếu họ muốn học hỏi điều gì, hãy hỏi chồng mình ở nhà, vì phụ nữ nói lên trong Hội Thánh là điều đáng hổ thẹn. Có phải lời Đức Chúa Trời phát xuất từ anh chị em không? Hay là lời Chúa chỉ đến với anh chị em thôi sao? Nếu có ai nghĩ rằng mình là tiên tri hay người được linh ân thì hãy biết rằng những điều tôi viết cho anh chị em là mạng lệnh của Chúa. Nhưng nếu ai không công nhận điều này thì người ấy cũng không được công nhận. Thế thì, thưa anh chị em, hãy khao khát tìm kiếm ân tứ làm tiên tri và đừng ngăn cấm việc nói tiếng lạ. Nhưng hãy làm mọi sự một cách thích đáng và trong trật tự. Thưa anh chị em, nay tôi muốn nhắc nhở anh chị em Phúc Âm mà tôi đã truyền giảng, và anh chị em đã nhận cũng như đứng vững trong Phúc Âm ấy. Nhờ Phúc Âm ấy anh chị em được cứu rỗi nếu anh chị em giữ vững đạo mà tôi đã truyền cho, nếu không anh chị em dù đã tin cũng vô ích. Vì trước hết, tôi truyền lại cho anh chị em điều chính tôi đã nhận lãnh, ấy là Chúa Cứu Thế đã chết vì tội lỗi chúng ta như lời Kinh Thánh. Ngài được chôn và đến ngày thứ ba Ngài sống lại đúng như lời Kinh Thánh. Ngài đã hiện ra cho Phê-rơ, rồi cũng hiện ra cho nhóm mười hai sứ đồ. Sau đó Ngài hiện ra cùng một lúc cho hơn năm trăm anh chị em mà phần lớn vẫn còn sống cho đến ngày nay, nhưng vài người đã chết. Ngài cũng hiện ra cho Gia-cơ và tất cả các sứ đồ. Sau cùng, Ngài cũng hiện ra với tôi, như một hài nhi sanh non. Vì tôi vốn thấp kém nhất trong vòng các sứ đồ; không xứng đáng được gọi là sứ đồ vì tôi đã bắt bớ Hội Thánh của Đức Chúa Trời. Nhưng nhờ ân sủng Đức Chúa Trời tôi được như ngày nay và ơn Ngài ban cho tôi không phải vô ích đâu, trái lại tôi đã làm việc khó nhọc hơn tất cả những người khác. Thật ra không phải chính tôi mà là ân sủng Đức Chúa Trời đã hành động trong tôi. Thế thì, dù tôi hay các sứ đồ, đây là điều chúng tôi đã giảng dạy và điều anh chị em đã tin. Và nếu anh chị em được truyền giảng rằng Đức Chúa Trời đã khiến Chúa Cứu Thế sống lại từ kẻ chết thì sao trong anh chị em có người nói rằng những người chết không sống lại? Nếu những người chết không sống lại thì Chúa Cứu Thế cũng đã không sống lại được. Nếu Chúa Cứu Thế đã không sống lại, thì sứ điệp Phúc Âm mà chúng tôi truyền giảng thành vô ích và đức tin anh chị em cũng vô ích. Hơn nữa, chúng tôi bị coi như những nhân chứng gian dối về Đức Chúa Trời vì chúng tôi đã làm chứng về Đức Chúa Trời rằng: Đức Chúa Trời đã khiến Chúa Cứu Thế sống lại. Nhưng Ngài đã không khiến Chúa Cứu Thế sống lại nếu thật ra người chết không sống lại. Vì nếu người chết không được sống lại thì Chúa Cứu Thế không sống lại được. Nếu Chúa Cứu Thế không sống lại thì đức tin anh chị em là vô ích, anh chị em vẫn còn ở trong tội lỗi mình. Và như thế những tín hữu đã qua đời trong Chúa Cứu Thế đều bị hư mất. Nếu hy vọng của chúng ta trong Chúa Cứu Thế chỉ về đời này mà thôi thì chúng ta là những kẻ đáng thương hại hơn hết trong tất cả mọi người. Nhưng giờ đây Chúa Cứu Thế đã sống lại từ kẻ chết, là trái đầu mùa của những người đã chết. Vì bởi tại một người mà có sự chết thì cũng bởi một người mà có sự sống lại từ kẻ chết. Vì như trong A-đam tất cả đều phải chết thì trong Chúa Cứu Thế tất cả đều sẽ được sống lại. Nhưng mỗi người theo thứ tự riêng; Chúa Cứu Thế là trái đầu mùa, rồi đến những người thuộc về Chúa Cứu Thế khi Ngài quang lâm. Kế đến là tận thế, sau khi tiêu diệt tất cả các giới cai trị, mọi uy quyền và thế lực, Ngài sẽ giao Nước Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Trời là Đức Chúa Cha. Vì Ngài phải cai trị cho đến khi đặt mọi kẻ thù dưới chân mình, kẻ thù cuối cùng sẽ bị hủy diệt là sự chết. Vì Kinh Thánh chép: “Đức Chúa Trời đã đặt mọi sự dưới chân Ngài.” Khi nói rằng mọi sự quy phục thì rõ ràng là phải trừ ra Đấng đã bắt mọi sự quy phục Ngài. Khi mọi sự đã quy phục Ngài, bấy giờ chính Đức Con cũng sẽ quy phục Đấng đã bắt mọi sự quy phục mình để Đức Chúa Trời là mọi sự cho mọi người. Mặt khác, những người chịu phép báp-tem cho kẻ chết thì sao? Nếu quả thật kẻ chết không sống lại thì tại sao người ta chịu phép báp-tem cho họ? Còn chính chúng tôi đây, tại sao cũng chịu nguy hiểm từng giây phút? Thưa anh chị em, tôi chết từng ngày một. Thật vậy, điều này cũng chắc chắn như điều tôi vẫn hãnh diện về anh chị em trong Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta. Nếu nói theo người phàm, tôi chiến đấu với thú dữ tại Ê-phê-sô có ích lợi gì? Nếu người chết không sống lại, thì:“Chúng ta hãy ăn, uống,Vì ngày mai chúng ta sẽ chết.” Chớ để bị lừa dối.“Bạn bè xấu làm hư tính nết tốt.” Hãy bình tâm sáng trí trở lại và đừng phạm tội nữa. Vì cớ một số người không hiểu biết Đức Chúa Trời, tôi nói thế để anh chị em hổ thẹn. Có người hỏi: Người chết sống lại bằng cách nào? Họ lấy xác nào mà trở lại? Này người khờ dại. Khi anh chị em gieo hạt, hạt ấy không thể sống nếu không chết đi trước đã. Vật anh gieo xuống, chỉ là hạt lúa mì hay một loại hạt nào khác chứ không phải cả cái cây từ hạt giống mọc lên. Nhưng Đức Chúa Trời ban cho hạt ấy một loại thân như ý Ngài muốn. Mỗi hạt giống có một loại thân riêng. Không phải mọi cơ thể đều giống nhau nhưng cơ thể loài người khác, cơ thể loài súc vật khác, cơ thể loài chim khác, cơ thể loài cá khác. Và có những vật thể thiên thượng cũng như vật thể địa giới, nhưng vinh quang của vật thể thiên thượng khác với vinh quang của vật thể địa giới. Vinh quang của mặt trời khác, vinh quang của mặt trăng khác, vinh quang của tinh tú khác; vinh quang của ngôi sao này với vinh quang của ngôi sao kia cũng khác nhau. Sự sống lại của những kẻ chết cũng như thế. Vật gì khi gieo ra thì hư nát, lúc sống lại không hư nát. Vật gì khi gieo ra thì chịu ô nhục, nhưng sống lại trong vinh quang. Vật gì gieo ra trong yếu đuối, nhưng sống lại trong quyền năng. Khi gieo ra là thân thể phàm tục, lúc sống lại là thân thể thiêng liêng. Nếu có một thân thể phàm tục thì cũng có một thân thể thiêng liêng. Vì Kinh Thánh chép: “Người đầu tiên, A-đam, trở nên một linh hồn sống, còn A-đam cuối cùng trở nên một thần linh ban sự sống.” Nhưng không phải thân thể thiêng liêng có trước mà là thân thể phàm tục, rồi đến thân thể thiêng liêng. Người đầu tiên đến từ đất, là bụi đất. Người thứ hai đến từ trời. Người ra từ đất thể nào, thì những người thuộc về đất cũng thể ấy, còn người đến từ trời thể nào thì những người thuộc về trời cũng thể ấy. Cũng thế, như chúng ta đã mang hình ảnh của người thuộc về bụi đất, chúng ta cũng sẽ mang hình ảnh của người thuộc về trời. Thưa anh chị em, tôi muốn nói thế này: Thể xác và máu không thể thừa hưởng Nước Đức Chúa Trời được. Sự hư nát cũng không thể thừa hưởng sự không hư nát. Nầy, tôi cho anh chị em biết một sự huyền nhiệm: Không phải tất cả chúng ta đều sẽ ngủ, nhưng tất cả đều sẽ được biến hóa. Trong tích tắc, trong nháy mắt, khi tiếng kèn chót thổi. Vì kèn sẽ thổi lên, những người chết sẽ sống lại không hư nát và chúng ta sẽ được biến hóa. Vì sự hư nát này phải mặc lấy sự không hư nát và sự hay chết sẽ mặc lấy sự bất tử. Vì khi thân hư nát này đã mặc lấy sự không hư nát và thân hay chết này trở nên bất tử, lúc ấy Kinh Thánh sẽ được ứng nghiệm: “Sự chết đã bị tiêu diệt trong chiến thắng!” Hỡi sự chết, chiến thắng của mày ở đâu?Hỡi sự chết, nọc độc của mày ở đâu? Nọc của sự chết là tội lỗi, sức mạnh của tội lỗi là Kinh Luật. Nhưng tạ ơn Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta chiến thắng nhờ Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta. Thế thì, anh chị em yêu dấu của tôi, hãy vững lòng, chớ lay chuyển, hãy luôn luôn hết sức phụng sự Chúa, hãy nhớ rằng công lao của anh chị em vì Chúa không phải là vô ích đâu. Còn về việc quyên tiền cho các thánh đồ, anh chị em cũng hãy làm như tôi đã truyền cho các hội thánh tại Ga-la-ti. Vào ngày đầu tuần lễ, mỗi người để dành riêng ra một số tiền tại nhà tùy khả năng, chứ không phải đợi tôi đến rồi mới quyên góp. Khi tôi đến, tôi sẽ gởi thư và quà cho người mà anh chị em tín nhiệm đem đi Giê-ru-sa-lem. Và nếu tôi cần phải đi thì họ sẽ cùng đi với tôi. Tôi sẽ ghé thăm anh chị em khi đi ngang qua tỉnh Ma-xê-đoan vì tôi sẽ đi ngang qua Ma-xê-đoan. Có lẽ tôi sẽ lưu lại với anh chị em hoặc ở lại suốt mùa đông để anh chị em đưa tôi đi đến nơi tôi muốn đi. Lần này tôi không muốn chỉ ghé thăm qua anh chị em vì tôi hy vọng ở lại với anh chị em ít lâu nếu Chúa cho phép. Tôi sẽ ở lại thành Ê-phê-sô cho đến lễ Ngũ Tuần. Vì một cánh cửa lớn và đầy hứa hẹn đang rộng mở cho tôi mặc dầu cũng có nhiều chống đối. Nếu Ti-mô-thê đến thăm anh chị em, xin anh chị em đừng để người phải e sợ điều gì giữa anh chị em vì người cũng làm công việc Chúa như chính tôi vậy. Vì thế đừng ai coi thường người. Hãy đưa người lên đường bình an để người về với tôi, vì tôi đang mong đợi người cùng những anh chị em khác. Còn về A-bô-lô, anh em chúng ta, tôi hết sức thúc giục người đi thăm anh chị em cùng với những anh chị em khác nhưng người nhất định chưa muốn đi ngay bây giờ, tuy nhiên khi có dịp người sẽ đi. Hãy tỉnh thức, hãy vững vàng trong đức tin, hãy can đảm và mạnh mẽ. Mọi điều anh chị em làm, hãy làm trong tình yêu thương. Anh chị em biết, nhà Sê-pha-na là gia đình tín hữu đầu tiên ở xứ A-chai và họ đã tận tâm phục vụ các thánh đồ. Vậy, hãy phục tòng những người như thế cũng như những người đồng lao cộng tác với chúng ta. Tôi vui mừng vì các ông Sê-pha-na, Phốt-tu-na và A-chai-cơ đã đến, họ đền bù lại sự vắng mặt của anh chị em. Vì họ đã làm cho tinh thần của tôi cũng như của anh chị em được tươi tỉnh. Hãy quý trọng những người như thế. Các Hội Thánh tại tỉnh Tiểu Á gởi lời chào anh chị em. Ông A-qui-la, bà Bê-rít-sin cùng Hội Thánh họp trong nhà hai người ấy cũng gởi lời thân ái chào anh chị em trong Chúa. Tất cả anh chị em tại đây chào anh chị em. Hãy chào thăm nhau trong tình thân ái. Tôi, Phao-lô, chính tay tôi viết lời này. Ai không yêu mến Chúa, người ấy đáng bị nguyền rủa. Lạy Chúa, xin hãy đến. Nguyện xin ân sủng của Chúa Giê-su ở cùng anh chị em. Tôi yêu quý tất cả anh chị em trong Chúa Cứu Thế Giê-su. A-men. Tôi là Phao-lô, sứ đồ của Chúa Cứu Thế Giê-su theo ý Đức Chúa Trời, cùng với Ti-mô-thê, một anh em chúng ta,Kính gởi Hội Thánh Đức Chúa Trời tại thành Cô-rinh-tô cùng tất cả thánh đồ ở khắp vùng A-chai. Nguyện xin Đức Chúa Trời là Cha chúng ta và Chúa Cứu Thế Giê-su ban ân sủng và bình an cho anh chị em. Chúc tụng Đức Chúa Trời, Cha của Chúa Cứu Thế Giê-su chúng ta, là Cha thương xót và Đức Chúa Trời ban mọi niềm an ủi. Ngài luôn an ủi chúng ta trong mọi cơn hoạn nạn để chúng ta, nhờ sự an ủi đã nhận được từ Đức Chúa Trời, có thể an ủi những người khác trong mọi cơn hoạn nạn họ gặp. Như sự đau đớn của Chúa Cứu Thế tràn ngập trong đời sống chúng ta thể nào thì nhờ Chúa Cứu Thế niềm an ủi của chúng ta cũng dồi dào thể ấy. Khi chúng tôi chịu hoạn nạn cũng là để cho anh chị em được an ủi và giải cứu. Hoặc chúng tôi được an ủi, ấy là vì sự an ủi mà anh chị em kinh nghiệm khi kiên trì chịu đựng cùng những nỗi đau đớn chúng tôi đã chịu. Hy vọng của chúng tôi nơi anh chị em thật vững chắc. Vì chúng ta biết rằng như anh chị em đã chia sẻ sự đau đớn của chúng tôi thể nào thì anh chị em cũng dự phần trong niềm an ủi của chúng tôi thể ấy. Vì, thưa anh chị em, chúng tôi muốn anh chị em biết rằng hoạn nạn đã xảy ra cho chúng tôi tại Tiểu-á thật nặng nề quá sức chịu đựng, đến nỗi chúng tôi không còn chút hy vọng sống sót nào nữa. Thật vậy, chúng tôi cảm thấy mình phải mang án tử hình để không còn cậy nơi chính mình, nhưng nương cậy Đức Chúa Trời là Đấng làm cho kẻ chết sống lại. Chính Ngài đã giải cứu chúng tôi khỏi hiểm họa chết chóc lớn như thế thì Ngài cũng sẽ giải cứu chúng tôi nữa. Chúng tôi hy vọng nơi Đức Chúa Trời rằng Ngài sẽ tiếp tục giải cứu chúng tôi, khi anh chị em hợp tác giúp đỡ chúng tôi bằng lời cầu thay để nhờ lời cầu nguyện của nhiều người mà chúng tôi được ân tứ và nhiều người cũng cảm tạ Chúa vì chúng tôi. Điều hãnh diện cho chúng tôi là thế này, có lương tâm chúng tôi làm chứng rằng chúng tôi cư xử trong thế gian, nhất là đối với anh chị em với tấm lòng thánh khiết và chân thật của Đức Chúa Trời, không phải bằng sự khôn ngoan xác thịt nhưng bằng ân sủng của Đức Chúa Trời. Vì chúng tôi không viết cho anh chị em những gì mà anh chị em không thể đọc và hiểu được. Tôi hy vọng anh chị em sẽ hiểu thấu, như anh chị em đã hiểu một phần nào rằng anh chị em có thể hãnh diện về chúng tôi cũng như chúng tôi hãnh diện về anh chị em trong ngày của Chúa Giê-su chúng ta. Tôi tin chắc rằng tôi muốn đến thăm anh chị em trước để anh chị em được vui mừng gấp bội. Tôi định ghé thăm anh chị em trên đường đi Ma-xê-đoan và khi về Giu-đê, tôi đến với anh chị em để anh chị em đưa tôi đi. Tôi dự định như thế, nào có phải vì nhẹ dạ đâu? Hay tôi quyết định theo xác thịt đến nỗi tôi lúc thì phải, phải, lúc thì không, không, sao? Đức Chúa Trời là thành tín. Vì thế lời tôi nói với anh chị em không phải khi thì phải khi thì không đâu. Vì Con Đức Chúa Trời, là Chúa Cứu Thế Giê-su, Đấng mà chúng tôi, tức là tôi, Sinh-vanh và Ti-mô-thê, đã truyền giảng cho anh chị em, không phải là Đấng vừa “phải” vừa “không” nhưng trong Ngài chỉ toàn là “phải.” Vì bất luận bao nhiêu lời hứa của Đức Chúa Trời đều thành tựu trong Ngài và cũng bởi Ngài mà chúng ta nói “a-men” tôn vinh Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời là Đấng thiết lập chúng tôi với anh chị em vững vàng trong Chúa Cứu Thế, cũng là Đấng xức dầu cho chúng tôi; Đấng đóng ấn sở hữu trên chúng tôi và ban Đức Thánh Linh trong lòng chúng tôi để bảo chứng. Còn chính tôi, xin Đức Chúa Trời chứng giám cho linh hồn tôi; tôi không trở lại Cô-rinh-tô nữa là vì dung thứ anh chị em; chứ không phải muốn khống chế đức tin anh chị em vì đức tin anh chị em rất vững vàng, trái lại chúng tôi là người đồng lao với anh chị em để anh chị em được vui mừng. Vì vậy tôi đã quyết định rằng tôi không trở lại cùng anh chị em để khiến anh chị em buồn phiền. Vì nếu tôi làm cho anh chị em buồn phiền thì còn ai là người làm cho tôi vui nếu không phải là người mà tôi đã làm buồn lòng? Tôi đã viết cho anh chị em như thế để khi tôi đến, tôi không phải buồn vì chính những người đáng lý làm cho tôi vui. Tôi tin tưởng ở tất cả anh chị em rằng niềm vui của tôi cũng là niềm vui của tất cả anh chị em. Vì tôi đã viết cho anh chị em trong nỗi đau đớn, tấm lòng quặn thắt, nước mắt đầm đìa, không phải để làm anh chị em buồn phiền, trái lại để anh chị em biết rõ tình yêu thương sâu đậm tôi dành cho anh chị em. Nếu người nào đã gây ra điều buồn phiền, không phải chỉ làm buồn phiền tôi mà thôi, tôi không có ý nghiêm khắc quá đâu, nhưng đã làm buồn phiền tất cả anh chị em phần nào. Kẻ ấy đã bị đa số anh chị em trừng phạt, như thế đủ rồi. Vậy, anh chị em nên tha thứ và an ủi kẻo người ấy bị sự buồn rầu quá lớn quật ngã. Nên tôi xin anh chị em hãy xác nhận tình yêu thương đối với người ấy. Vì lý do này tôi viết cho anh chị em để thử xem anh chị em có vâng lời trong mọi việc không. Nhưng anh chị em tha thứ ai điều gì, tôi cũng tha thứ và khi tôi đã tha, nếu có điều gì để tha, thì tôi vì anh chị em mà tha trước mặt Chúa Cứu Thế; để chúng ta không bị Sa-tan lợi dụng vì chúng ta không lạ gì mưu chước của nó. Khi tôi đến thành Trô-ách để truyền giảng Phúc Âm của Chúa Cứu Thế, dù Chúa đã mở cho tôi một cánh cửa tại đó. Tôi không an tâm được vì chưa tìm gặp Tích, một anh em tôi tại đó, nên tôi từ giã họ đi qua xứ Ma-xê-đoan. Nhưng tạ ơn Đức Chúa Trời, Ngài luôn luôn dẫn đầu chúng tôi trong cuộc diễn hành chiến thắng trong Chúa Cứu Thế và dùng chúng tôi để tỏa hương thơm, tức là sự hiểu biết về Ngài ra khắp nơi. Vì chúng tôi là hương thơm của Chúa Cứu Thế trước mặt Đức Chúa Trời giữa những người được cứu rỗi; còn giữa những người hư mất, đối với họ chúng tôi là tử khí đưa đến sự chết; đối với những người kia chúng tôi là sinh khí đưa đến sự sống. Nếu thế, ai là người xứng đáng cho những việc này? Vì chúng tôi không bán rẻ Lời Đức Chúa Trời như nhiều người khác, nhưng với lòng thành thật, được Đức Chúa Trời sai đi; trước sự hiện diện của Đức Chúa Trời chúng tôi truyền giảng Lời Ngài trong Chúa Cứu Thế. Có phải chúng tôi lại bắt đầu tự đề cao sao? Hay như những người khác, chúng tôi cần thư giới thiệu với anh chị em hay từ anh chị em chăng? Chính anh chị em là thư của chúng tôi, đã viết trong lòng chúng tôi, được mọi người đều biết và đọc. anh chị em đã chứng tỏ rằng anh chị em là bức thư của Chúa Cứu Thế do chức vụ chúng tôi soạn thảo, không phải viết bằng mực nhưng bằng Thánh Linh của Đức Chúa Trời hằng sống, không phải viết trên tảng đá nhưng trong lòng người. Nhờ Chúa Cứu Thế chúng tôi tin tưởng như vậy trước mặt Đức Chúa Trời. Không phải tự chúng tôi có khả năng để người ta thừa nhận rằng một việc gì như thế do chúng tôi mà ra, trái lại khả năng của chúng tôi do Đức Chúa Trời ban. Đấng đã ban cho chúng tôi khả năng phục vụ giao ước mới, không phải giao ước bằng chữ viết nhưng giao ước Thánh Linh. Vì chữ viết thì giết chết nhưng Thánh Linh ban sự sống. Nếu chức vụ của sự chết, ghi khắc bằng chữ trên bảng đá còn được vinh quang đến nỗi người Y-sơ-ra-ên không thể nhìn thẳng vào mặt Môi-se vì mặt ông sáng lòa hào quang, dù hào quang ấy chóng tàn phai. Huống gì chức vụ của Đức Thánh Linh lại không vinh quang hơn nhiều sao? Vì nếu chức vụ kết án mà vinh quang như thế thì chức vụ đem lại công chính còn vinh quang hơn biết bao! Thật vậy, trong trường hợp này chức vụ cũ đã được vinh quang sẽ không còn vinh quang nữa so với sự vinh quang vô hạn. Vì nếu cái sẽ tàn phai đi còn được vinh quang như thế huống gì cái tồn tại mãi mãi sẽ được vinh quang nhiều hơn biết bao! Vì có niềm hy vọng đó, chúng tôi rất mạnh dạn. Chúng ta không như Môi-se lấy màn che mặt để dân Y-sơ-ra-ên khỏi nhìn thấy sự kết thúc của hào quang chóng tàn. Nhưng tâm trí họ vẫn tối tăm, mãi đến ngày nay khi họ đọc Cựu Ước tấm màn ấy vẫn còn chưa được cất đi, vì chỉ trong Chúa Cứu Thế tấm màn ấy mới được cất đi. Thật vậy, cho đến nay khi họ đọc Kinh Luật của Môi-se, tấm màn ấy vẫn còn che trên lòng họ. Nhưng nếu họ quay về với Chúa, tấm màn ấy mới được cất đi. Chúa là Thánh Linh, Thánh Linh của Chúa ở đâu, ở đó có tự do. Và tất cả chúng ta, với mặt trần không bị màn che, đều phản chiếu vinh quang của Chúa và được biến đổi theo hình ảnh Ngài từ vinh quang này đến vinh quang khác nhờ Chúa là Thánh Linh. Vì vậy, khi lãnh chức vụ này, chúng tôi được ơn Chúa thương nên không nản lòng. Hơn nữa chúng tôi từ khước những điều giấu giếm đáng hổ thẹn, không hành động xảo quyệt, không giả mạo lời Đức Chúa Trời, trái lại trong khi công khai trình bày chân lý, chúng tôi được lương tâm mọi người ca ngợi trước mặt Đức Chúa Trời. Nhưng nếu Phúc Âm của chúng tôi vẫn bị che khuất thì chỉ bị che khuất đối với những kẻ hư mất là những người vô tín mà thần đời này đã làm mờ tối tâm trí để họ không thấy ánh sáng Phúc Âm tỏa vinh quang của Chúa Cứu Thế, chính Ngài là hình ảnh của Đức Chúa Trời. Vì chúng tôi không truyền giảng về chúng tôi nhưng về Chúa Cứu Thế Giê-su, tức là Chúa Tể, còn chúng tôi vì cớ Đức Giê-su mà làm tôi tớ cho anh chị em. Vì Đức Chúa Trời là Đấng đã phán: Ánh sáng, hãy chiếu ra từ nơi tối tăm, cũng là Đấng đã soi sáng tấm lòng chúng tôi để đem đến cho chúng tôi ánh sáng hiểu biết về vinh quang của Đức Chúa Trời trên mặt Chúa Cứu Thế Giê-su. Chúng tôi chứa đựng bảo vật này trong những bình đất để bày tỏ quyền năng vô hạn đến bởi Đức Chúa Trời, chứ không phải từ chúng tôi. Chúng tôi bị chèn ép đủ điều nhưng vẫn không bị đè bẹp, chúng tôi có bối rối nhưng không bao giờ tuyệt vọng, Chúng tôi bị bắt bớ nhưng không bị bỏ rơi, chúng tôi bị đánh ngã nhưng không bị hủy diệt, Chúng tôi luôn luôn mang sự chết của Đức Giê-su trong thân thể mình để sự sống của Đức Giê-su cũng được thể hiện trong thân thể chúng tôi. Vì tuy vẫn sống, nhưng vì cớ Đức Giê-su chúng tôi luôn luôn bị đưa vào chỗ chết để sự sống của Đức Giê-su được thể hiện trong thân xác hay chết của chúng tôi. Điều này có nghĩa là sự chết hành động trong chúng tôi nhưng sự sống hành động trong anh chị em. Và chúng tôi có cùng một tinh thần đức tin như Kinh Thánh chép: “Ta đã tin vì thế ta nói ra.” Chúng tôi cũng tin vì thế chúng tôi cũng nói ra. Chúng tôi biết rằng Đấng đã khiến Đức Giê-su sống lại cũng sẽ khiến chúng tôi sống lại với Đức Giê-su và đặt chúng tôi cùng anh chị em đứng trước mặt Ngài. Tất cả mọi điều ấy đều được thực hiện vì cớ anh chị em để khi ân sủng gia tăng cho nhiều người hơn thì càng có nhiều người cảm tạ Chúa hơn, để đem lại vinh quang cho Đức Chúa Trời. Cho nên chúng tôi không nản lòng, trái lại dù con người bên ngoài của chúng tôi bị suy tàn, con người bên trong chúng tôi cứ đổi mới mỗi ngày. Vì hoạn nạn nhẹ và tạm của chúng tôi đem lại cho chúng tôi vinh quang vô hạn đời đời không gì sánh được. Vì chúng tôi không chú tâm vào những sự vật hữu hình, nhưng vào những sự vật vô hình vì sự vật hữu hình chỉ là tạm thời, còn sự vật vô hình mới là vĩnh cửu. Vì chúng ta biết rằng nếu trại tạm trú của chúng ta dưới đất bị hủy diệt, chúng ta còn có nhà vĩnh cửu ở trên trời là nhà do Đức Chúa Trời xây dựng chứ không phải do loài người làm ra. Thật vậy, chúng ta than thở trong trại tạm trú này, mong ước mặc lấy nhà trên trời. Khi đã mặc lấy thì không bị trần truồng. Còn sống trong trại tạm trú bao lâu, chúng ta còn than thở não nề, không phải vì chúng ta muốn lột bỏ nó nhưng muốn mặc thêm vào để cái chết bị sự sống nuốt đi. Đấng đã chuẩn bị điều này cho chúng ta chính là Đức Chúa Trời, Ngài cũng ban Đức Thánh Linh cho chúng ta làm bảo chứng. Vì thế, chúng ta luôn luôn tin tưởng và biết rằng khi nào còn sống trong nhà của thân xác thì chúng ta xa cách Chúa. Vì chúng ta sống bởi đức tin, chứ không phải bởi điều mắt thấy. Chúng ta tin tưởng và mong ước rời khỏi thân xác để về nhà với Chúa thì tốt hơn. Như thế, dù còn trong thân xác hay lìa khỏi thân xác, mục đích của chúng ta là sống đẹp lòng Chúa. Vì tất cả chúng ta đều phải ra trước tòa án Chúa Cứu Thế để mỗi người sẽ nhận phần của mình, tùy theo những điều thiện, điều ác mình đã làm khi còn ở trong thân xác. Vậy, vì biết thế nào là kính sợ Chúa, chúng tôi thuyết phục người ta, còn Chúa thì biết rõ chúng tôi và tôi hy vọng anh chị em cũng biết rõ chúng tôi trong lương tâm mình. Chúng tôi cũng không tự đề cao mình với anh chị em đâu, nhưng tạo cho anh chị em cơ hội để hãnh diện về chúng tôi, để có thể đối đáp với những kẻ chỉ khoe khoang về bề ngoài chứ không phải trong lòng. Vì nếu chúng tôi cuồng trí, ấy là vì Chúa, nếu chúng tôi tỉnh táo, ấy là vì anh chị em. Vì tình yêu của Chúa Cứu Thế kiềm chế chúng tôi, chúng tôi xét rằng: Một Người đã chết thay cho mọi người thì mọi người đều đã chết; Ngài đã chết cho mọi người để những kẻ sống không sống cho chính mình nữa nhưng sống vì Đấng đã chết và sống lại cho mình. Vì vậy, từ nay chúng tôi không đánh giá một người nào theo quan điểm phàm tục nữa; dù trước kia chúng tôi đã đánh giá Chúa Cứu Thế theo quan điểm phàm tục nhưng nay chúng tôi không còn đánh giá như thế nữa. Vì vậy nếu ai ở trong Chúa Cứu Thế, người ấy là một sinh vật mới; những điều cũ đã qua đi, kìa mọi sự đều trở nên mới. Mọi việc này đều do Đức Chúa Trời thực hiện, Ngài là Đấng đã nhờ Chúa Cứu Thế hòa giải với chúng ta và ban cho chúng tôi chức vụ hòa giải. Thật vậy, Đức Chúa Trời đã giải hòa với nhân loại trong Chúa Cứu Thế; không còn kể những vi phạm của loài người nữa và giao cho chúng ta sứ điệp giải hòa. Vậy chúng tôi là đại sứ của Chúa Cứu Thế, như thể Đức Chúa Trời nhờ chúng tôi mà khuyên bảo. Nhân danh Chúa Cứu Thế chúng tôi van nài anh chị em hãy hòa giải với Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã làm cho Chúa Cứu Thế, Đấng vốn chẳng biết tội lỗi, trở nên tội lỗi vì chúng ta để nhờ ở trong Chúa Cứu Thế chúng ta trở nên công chính trong Đức Chúa Trời. Vốn là những người cộng tác với Chúa, chúng tôi khuyên nài anh chị em chớ nhận lãnh ân sủng Đức Chúa Trời một cách vô ích. Vì Ngài phán:“Ta đã nhận lời con trong thời thuận tiện,Ta đã phù hộ con trong ngày cứu rỗi.Kìa, hiện nay là thời thuận tiện,Kìa, hiện nay là ngày cứu rỗi!” Chúng tôi không gây cho ai vấp ngã để chức vụ khỏi bị người ta chỉ trích. Trái lại, trong mọi sự chúng tôi chứng tỏ mình là tôi tớ Đức Chúa Trời. Chúng tôi hết sức kiên trì, chịu hoạn nạn, bị thiếu thốn, khổ não, bị đánh đập, giam cầm, quấy rối, làm việc nhọc nhằn, thao thức mất ngủ, nhịn ăn nhịn uống; trong sự tinh khiết, trong hiểu biết, trong kiên nhẫn, nhân từ, trong Đức Thánh Linh, trong tình thương không giả dối, trong lời nói chân thật, trong năng lực của Đức Chúa Trời; chúng tôi dùng vũ khí công chính trong lúc tiến công lẫn phòng thủ; trong vinh quang lẫn tủi nhục, dù được tiếng khen hay bị chê bai. Chúng tôi bị coi như kẻ lừa dối nhưng là người thành thật, bị coi như người xa lạ nhưng là quen biết cả, bị coi như đang chết mà chúng tôi vẫn sống, dù bị hình phạt nhưng không mất mạng; thấy như đau khổ nhưng luôn luôn vui mừng, thấy như nghèo ngặt nhưng làm cho nhiều người giàu có, thấy như không có gì nhưng lại đầy đủ mọi sự. Thưa anh chị em tại Cô-rinh-tô, chúng tôi nói với anh chị em một cách thẳng thắn, lòng chúng tôi rộng mở đối với anh chị em. Chúng tôi không hẹp hòi đối với anh chị em, nhưng chính lòng anh chị em hẹp hòi. Hãy đền đáp chúng tôi xứng đáng, tôi nói với anh chị em như nói với con cái, cũng hãy mở rộng lòng anh chị em. Đừng mang ách chung với người không tin. Vì công chính với gian ác có thể nào chung phần được không? Hay ánh sáng và bóng tối có thể nào liên hợp được không? Chúa Cứu Thế hòa hợp với quỷ vương sao được? Hay người tin có chung phần gì với kẻ không tin? Đền thờ Đức Chúa Trời có thể chứa thần tượng được không? Vì chúng ta là đền thờ của Đức Chúa Trời hằng sống như Đức Chúa Trời đã phán:“Ta sẽ ở và đi lại giữa họTa sẽ là Đức Chúa Trời của họVà họ sẽ là dân Ta.” Vì thế Chúa phán:“Hãy ra khỏi giữa vòng chúng nó,Hãy phân rẽ khỏi họ,Chớ động đến đồ ô uế,Thì Ta sẽ tiếp nhận các con Ta sẽ là Cha các conVà các con sẽ là con trai, con gái Ta,Chúa Toàn Năng phán vậy.” Anh chị em yêu dấu, vì chúng ta có những lời hứa như thế, hãy thanh tẩy chính mình cho sạch những điều ô uế về phần thân thể lẫn tâm linh, hãy hoàn thành sự thánh hóa trong niềm kính sợ Đức Chúa Trời. Hãy mở rộng lòng anh chị em cho chúng tôi. Chúng tôi không đối xử bất công với ai, không làm hại ai, không lừa gạt ai. Tôi nói như thế không phải kết án anh chị em vì tôi đã nói rằng anh chị em ở trong lòng chúng tôi đến nỗi chúng ta cùng sống chết với nhau. Tôi rất tin tưởng nơi anh chị em và hãnh diện về anh chị em; tôi vẫn được đầy sự an ủi, tràn ngập niềm vui ngay giữa mọi cơn hoạn nạn. Vì khi đến Ma-xê-đoan, thể xác chúng tôi không được nghỉ ngơi chút nào, lại còn khốn khổ đủ điều, bên ngoài thì tranh đấu, bên trong thì lo sợ. Nhưng Đức Chúa Trời, Đấng vẫn an ủi kẻ nản lòng, đã an ủi chúng tôi bằng cách đưa Tích đến thăm chúng tôi. Chúng tôi được an ủi không những chỉ vì sự thăm viếng của Tích nhưng cũng vì người được anh chị em an ủi. Tích cho chúng tôi biết lòng anh chị em mong đợi, khóc lóc và sốt sắng đối với tôi, nên tôi càng vui mừng hơn. Tôi không còn hối tiếc vì bức thư của tôi đã làm anh chị em buồn rầu, dù lúc ấy tôi đã hối tiếc, vì tôi biết bức thư ấy chỉ làm anh chị em buồn rầu ít lâu thôi. Nay tôi vui mừng, không phải mừng vì đã làm anh chị em buồn nhưng vì sự buồn rầu ấy đã giúp anh chị em hối cải. Vì anh chị em đã buồn rầu theo ý Đức Chúa Trời, như thế chúng tôi đã không làm hại gì cho anh chị em. Vì sự buồn rầu theo ý Đức Chúa Trời đem lại hối cải để được cứu rỗi, đó là điều không cần hối tiếc. Nhưng sự buồn rầu theo thế gian đem lại sự chết. Vậy, anh chị em hãy xem, sự buồn rầu theo ý Đức Chúa Trời đã sinh ra trong anh chị em tấm lòng tha thiết là dường nào. Lại thêm sự cố gắng thanh minh, ân hận, sợ sệt, mong đợi, nhiệt thành, trách phạt. Về mọi mặt, anh chị em đã chứng tỏ mình trong sạch trong vấn đề ấy. Thế thì dù tôi viết cho anh chị em, tôi không viết vì cớ người làm điều quấy cũng không phải viết vì cớ người bị xúc phạm nhưng để chứng tỏ lòng nhiệt thành của anh chị em đối với chúng tôi trước mặt Chúa. Nhờ thế chúng tôi được an ủi. Ngoài sự an ủi ấy, chúng tôi lại càng vui mừng hơn vì Tích được vui vẻ, nhờ tất cả anh chị em đã giúp cho tâm linh người được bình an. Nếu tôi đã khoe với Tích điều gì về anh chị em thì tôi cũng không phải hổ thẹn. Trái lại, cũng như tất cả những điều chúng tôi nói với anh chị em đều thật, nên lời khoe của chúng tôi về anh chị em với Tích cũng chân thật. Lòng quý mến của người đối với anh chị em càng gia tăng bội phần khi người nhớ lại thế nào tất cả anh chị em đã vâng lời, đã kính cẩn run sợ đón tiếp người. Tôi vui mừng vì có thể hoàn toàn tín nhiệm anh chị em. Thưa anh chị em, chúng tôi muốn anh chị em biết về ân sủng Đức Chúa Trời đã ban cho các Hội Thánh tại Ma-xê-đoan. Vì trong khi bị hoạn nạn thử thách ngặt nghèo thì lòng họ đầy tràn vui mừng và lúc họ nghèo khổ cùng cực thì tấm lòng giàu có rộng rãi càng dư dật. Tôi xin làm chứng, không những họ đã tự nguyện quyên góp theo khả năng, nhưng còn vượt quá khả năng nữa. Họ tha thiết nài nỉ chúng tôi làm ơn cho họ dự phần cứu trợ các thánh đồ. Đó là điều vượt quá điều chúng tôi mong mỏi, trước hết họ đã dâng hiến chính mình cho Chúa và cũng cho chúng tôi theo ý muốn Đức Chúa Trời. Vậy, nên chúng tôi khuyên Tích hãy hoàn thành công việc ân phúc này giữa anh chị em như người đã khởi sự từ trước. Thế thì, như anh chị em đều trổi hơn trong mọi sự: Trong đức tin, lời nói, kiến thức, nhiệt thành mọi mặt và lòng yêu thương chúng tôi, thì cũng hãy làm trổi hơn trong việc ân phúc này. Tôi nói như thế, không có ý ra lệnh cho anh chị em nhưng chỉ muốn nêu lên sự nhiệt thành của những người khác để chứng tỏ lòng yêu thương của anh chị em là chân thật. Anh chị em biết ân huệ của Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta, Ngài vốn giàu sang, nhưng vì anh chị em tự làm nên nghèo khổ để bởi sự nghèo khổ của Ngài anh chị em được trở nên giàu sang. Về vấn đề này tôi xin góp ý: Tốt nhất anh chị em hãy hoàn tất điều mà từ năm ngoái anh chị em không những chỉ khởi sự làm nhưng cũng mong muốn làm cho xong nữa. Bây giờ hãy hoàn tất công việc ấy đi như anh chị em vẫn tha thiết mong muốn, hãy hoàn tất việc ấy theo khả năng anh chị em. Nếu anh chị em sẵn lòng thì những gì mình có đều được chấp nhận, những gì mình không có thì không kể. Tôi không có ý muốn để những người khác được thong thả còn anh chị em lại bị cơ cực, nhưng tôi muốn có sự quân bình. Hiện tại anh chị em đang dư dả thì giúp đỡ cho họ trong lúc túng thiếu; để khi được dư dả họ sẽ giúp đỡ anh chị em khi anh chị em bị túng thiếu. Như vậy là bằng nhau. Như có lời chép rằng:“Kẻ thu nhiều cũng không thừa,Người thu ít cũng chẳng thiếu!” Tạ ơn Đức Chúa Trời đã ban cho Tích cũng có cùng một lòng nhiệt thành đối với anh chị em. Người không những nhận lời kêu gọi của chúng tôi nhưng cũng sốt sắng tự ý đến thăm anh chị em. Chúng tôi cử một anh em cùng đi với người, người này được các Hội Thánh ca ngợi về chức vụ truyền giảng Phúc Âm. Hơn thế nữa, Tích cũng được các Hội Thánh chọn làm bạn đồng hành với chúng tôi trong việc ân phúc này mà chúng tôi đang thi hành để tôn vinh Chúa và bày tỏ lòng nhiệt thành của chúng tôi. Chúng tôi cẩn thận như thế để không ai có thể chỉ trích về việc quyên góp lớn lao ấy. Vì chúng tôi muốn làm điều tốt đẹp không những chỉ trước mặt Chúa nhưng cũng trước mặt loài người nữa. Chúng tôi cũng cử một anh em đi với họ; anh này vẫn chứng tỏ rất hăng hái trong nhiều công tác, nay vì rất tín nhiệm anh chị em nên lại càng hăng hái hơn. Về Tích, người là bạn đồng lao của tôi và là người cùng làm việc cho anh chị em. Về các anh em kia, họ là sứ giả của các Hội Thánh, là vinh quang của Chúa Cứu Thế. Vậy, trước mặt các Hội Thánh, anh chị em hãy chứng tỏ lòng yêu thương mình cũng như xác nhận niềm hãnh diện của chúng tôi về anh chị em. Còn về việc cứu trợ các thánh đồ thì tôi không cần phải viết cho anh chị em nữa. Vì tôi biết nhiệt tâm của anh chị em như tôi vẫn khoe với các tín hữu ở Ma-xê-đoan rằng anh chị em tại A-chai đã chuẩn bị từ năm ngoái và lòng hăng hái của anh chị em đã khích động rất nhiều anh chị em khác. Nhưng tôi đã gửi mấy anh em này đến để những lời chúng tôi khen ngợi anh chị em trong vấn đề này không phải là những lời khen rỗng tuếch và để anh chị em chuẩn bị sẵn sàng như tôi đã nói. Kẻo khi các anh em từ Ma-xê-đoan cùng tôi đến lại thấy anh chị em chưa sẵn sàng thì chúng tôi, ấy là chưa kể đến anh chị em nữa, đều sẽ bị hổ thẹn vì tôi đã tín nhiệm anh chị em. Vì vậy, tôi nghĩ cần phải nhờ các anh em kia đến với anh chị em trước chúng tôi để chuẩn bị sẵn sàng công việc từ thiện mà anh chị em đã hứa. Như thế món quà lạc quyên sẽ sẵn sàng do từ tâm chứ không phải bị ép buộc. Anh chị em nên nhớ điều này, hễ ai gieo ít thì gặt ít, ai gieo nhiều thì gặt nhiều. Mỗi người nên quyên giúp tùy lòng đã định, không phải vì miễn cưỡng hay bị ép buộc. Vì Đức Chúa Trời yêu người hiến tặng một cách vui lòng. Đức Chúa Trời có thể ban cho anh chị em mọi ân phúc dồi dào để anh chị em luôn luôn được đầy đủ trong mọi sự lại còn dư dả để làm mọi việc lành, như Kinh Thánh chép:“Ngài đã ban phát rộng rãi,Ngài ban cho kẻ nghèo khó.Sự công chính của Ngài tồn tại đời đời.” Đấng đã cung cấp hạt giống dồi dào cho người gieo và bánh làm thực phẩm, cũng sẽ cung cấp và gia tăng hạt giống của anh chị em. Ngài cũng sẽ làm cho hoa quả công chính của anh chị em sinh sôi nẩy nở thêm nhiều. Anh chị em được phong phú về mọi mặt để làm mọi việc từ thiện rộng rãi qua chúng tôi, nhờ thế mà nhiều người tạ ơn Đức Chúa Trời. Vì công cuộc cứu trợ này không những đáp ứng sự thiếu thốn của các thánh đồ nhưng cũng đem lại nhiều lời cảm tạ Đức Chúa Trời. Nhờ bằng chứng của công việc này, người ta tôn vinh Đức Chúa Trời vì anh chị em đã vâng phục trong việc xưng nhận Phúc Âm của Chúa Cứu Thế và trong việc rộng lượng chia sẻ với họ cũng như với tất cả mọi người. Và trong khi mong chờ anh chị em họ sẽ cầu nguyện cho anh chị em vì ân sủng tuyệt hảo Đức Chúa Trời đã ban cho anh chị em. Cảm tạ Đức Chúa Trời vì tặng phẩm không sao tả xiết của Ngài. Nhờ đức nhu mì và nhân từ của Chúa Cứu Thế, tôi, Phao-lô, nài khuyên anh chị em. Tôi là người mềm mỏng khi ở trước mặt anh chị em nhưng lúc vắng mặt lại rất cứng rắn đối với anh chị em. Đến khi có mặt, xin anh chị em đừng để tôi bạo dạn dùng biện pháp mạnh mà đối xử với những người cho rằng chúng tôi sống theo xác thịt. Vì dù sống trong xác thịt, chúng tôi không chiến đấu theo xác thịt đâu. Vì vũ khí chiến đấu của chúng tôi không phải là loại vũ khí xác thịt nhưng là quyền năng Đức Chúa Trời để phá hủy các thành lũy, đánh đổ các lý luận, và mọi sự kiêu căng nghịch với sự hiểu biết về Đức Chúa Trời, chúng tôi cũng bắt mọi tư tưởng phải vâng phục Chúa Cứu Thế. Và khi anh chị em đã hoàn toàn vâng phục, chúng tôi cũng sẵn sàng sửa phạt mọi hành động không vâng lời. Anh chị em đang xem xét theo bề ngoài. Nếu có ai tin rằng mình thuộc về Chúa Cứu Thế thế nào thì chúng tôi cũng thuộc về Ngài thể ấy. Dù tôi có hơi tự hào đôi chút về thẩm quyền Chúa ban cho chúng tôi để xây dựng anh chị em, chứ không phải để phá hoại, thì tôi cũng không hổ thẹn. Tôi cũng không muốn ra vẻ đe dọa anh chị em bằng thư từ. Vì có người nói thư Phao-lô viết thì nặng lời và mạnh bạo nhưng khi có mặt thì yếu ớt và lời nói không ra gì. Kẻ ấy phải hiểu rằng khi chúng tôi vắng mặt, lời trong thư thế nào, thì khi có mặt, hành động của chúng tôi cũng thế ấy. Vì chúng tôi không muốn xếp hạng hoặc sánh mình với những người tự đắc. Nhưng họ tự lấy mình đo mình và lấy mình so sánh với nhau thì rõ là thiếu hiểu biết. Chúng tôi không tự hào quá mức nhưng theo mức độ mà Đức Chúa Trời đã phân định cho chúng tôi; trong giới hạn đó, chúng tôi đến với anh chị em. Chúng tôi không vượt quá giới hạn mình như một người chưa từng đến cùng anh chị em, nhưng chúng tôi là người đầu tiên đem Phúc Âm của Chúa Cứu Thế đến tận anh chị em. Chúng tôi không tự hào quá mức về công lao của những người khác. Nhưng hy vọng rằng khi đức tin anh chị em tăng trưởng thì phạm vi hoạt động của chúng tôi giữa anh chị em cũng gia tăng bội phần, đến nỗi chúng tôi có thể truyền giảng Phúc Âm vượt quá lãnh vực anh chị em, tuy nhiên chúng tôi không tự hào về công việc đã làm trong địa phận người khác. Vì ai tự hào hãy tự hào trong Chúa. Vì không phải ai tự hào thì được nhìn nhận là có giá trị nhưng chỉ người nào được Chúa khen. Ước gì anh chị em chịu đựng một chút điên dại của tôi. Thật ra anh chị em đang chịu đựng. Tôi ghen với lòng ghen thiêng liêng vì tôi đã gả anh chị em cho một người chồng độc nhất, trình diện anh chị em như một trinh nữ trong trắng cho Chúa Cứu Thế. Nhưng tôi sợ rằng như Con Rắn đã dùng sự xảo quyệt lừa dối Ê-va, thì tâm trí anh chị em cũng bị quyến rũ từ bỏ tấm lòng đơn sơ, trong trắng đối với Chúa Cứu Thế. Vì nếu có ai đến truyền giảng một Giê-su khác với Đức Giê-su mà chúng tôi đã truyền giảng, hoặc anh chị em tiếp nhận một linh khác với Linh anh chị em đã nhận, hay một phúc âm khác với Phúc Âm anh chị em đã tiếp nhận thì anh chị em vui vẻ chấp nhận ngay! Tôi nghĩ rằng tôi không thua kém các sứ đồ siêu đẳng ấy tí nào. Dù tôi không giỏi khoa hùng biện nhưng về kiến thức thì không kém ai. Trái lại, trong mọi sự và giữa mọi người chúng tôi đã làm sáng tỏ điều đó cho anh chị em. Hay là tôi có phạm lỗi vì đã hạ mình xuống để anh chị em được đề cao, hoặc vì tôi đã truyền giảng Phúc Âm của Đức Chúa Trời cho anh chị em miễn phí? Tôi đã vơ vét từ các Hội Thánh khác bằng cách nhận lương của họ để phục vụ anh chị em. Khi ở với anh chị em, gặp lúc thiếu thốn tôi đã không làm phiền ai cả vì các anh chị em từ Ma-xê-đoan đến đã cung cấp các nhu cầu cho tôi. Trong mọi sự tôi vẫn gìn giữ để khỏi phiền lụy đến anh chị em và tôi cũng sẽ tiếp tục như thế. Như chân lý của Chúa Cứu Thế ở trong tôi thể nào thì cũng không ai bưng bít được niềm tự hào này của tôi tại các vùng A-chai. Tại sao như thế? Vì tôi không yêu thương anh chị em sao? Đức Chúa Trời biết cho tôi. Nhưng điều tôi đang làm, tôi sẽ tiếp tục làm để khỏi tạo cơ hội cho những kẻ muốn lợi dụng mà khoe khoang rằng họ cũng hành động như chúng tôi. Vì những người như thế là sứ đồ giả, là công nhân gian dối, là kẻ ngụy trang làm sứ đồ của Chúa Cứu Thế. Điều này không lạ gì! Chính quỷ Sa-tan cũng thường ngụy trang thành thiên sứ sáng láng. Thế thì các tôi tớ nó ngụy trang thành tôi tớ của sự công chính cũng đâu có gì lạ, kết cuộc họ sẽ lãnh đầy đủ hậu quả những điều họ làm. Tôi lặp lại: Đừng ai xem tôi là điên khùng. Nếu ai tưởng như thế, thì cứ chấp nhận tôi như một người điên để tôi có thể tự hào đôi chút. Điều tôi nói, tôi không nói theo tinh thần của Chúa, nhưng nói như một người điên với sự quả quyết tự hào này. Bởi có nhiều người tự hào theo xác thịt, tôi cũng tự hào. Vì vốn khôn ngoan, anh chị em lại vui lòng chịu đựng những kẻ điên. Thật vậy, anh chị em chịu người ta áp chế, bóc lột, lợi dụng, lên mặt ngạo nghễ và tát vào mặt anh chị em. Tôi lấy làm hổ thẹn mà nói rằng: Chúng tôi đã quá yếu đuối để làm như thế. Nhưng bất cứ điều gì người ta dám khoe, tôi nói như người điên, tôi cũng dám khoe. Họ là người Do Thái ư? Tôi cũng vậy. Họ là người Y-sơ-ra-ên ư? Tôi cũng vậy. Họ là dòng dõi Áp-ra-ham ư? Tôi cũng vậy. Họ là người phục vụ Chúa Cứu Thế chăng? Tôi nói như người điên khùng. Tôi còn hơn họ nữa. Tôi đã lao khổ nhiều hơn, bị tù nhiều hơn, bị đánh đập quá nhiều, suýt chết nhiều lần. Năm lần tôi bị người Do Thái đánh đòn, mỗi lần chỉ thiếu một roi đầy bốn chục. Ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần chìm tàu, một ngày một đêm lênh đênh trên biển cả. Trong nhiều cuộc hành trình, tôi bị nguy hiểm trên sông ngòi, nguy hiểm vì trộm cướp, nguy hiểm vì chính dân mình, nguy hiểm nơi dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, nơi sa mạc, ngoài biển, nguy hiểm vì các anh chị em giả, lao lực, khó nhọc, nhiều lúc thức đêm, chịu đói chịu khát, nhiều khi bị đói khát, rét buốt và trần truồng, chưa kể những việc khác, mỗi ngày tôi băn khoăn lo lắng cho tất cả các Hội Thánh. Có ai yếu đuối mà tôi không thấy yếu đuối? Có ai vấp ngã mà lòng tôi không như nung như đốt? Nếu tôi phải tự hào, tôi sẽ tự hào về những điều yếu đuối của tôi. Đức Chúa Trời là Cha của Chúa Giê-su, là Đấng đáng ca ngợi đời đời, biết rằng tôi không nói dối. Tại Đa-mách, tổng đốc của vua A-rê-ta canh gác thành Đa-mách để bắt tôi. Nhưng từ cửa sổ tôi được thòng xuống trong một cái thúng qua tường thành. Thế là tôi thoát khỏi tay ông ta. Tôi phải tự hào, dù chẳng được lợi gì, về các khải tượng và mạc khải Chúa ban cho tôi. Tôi biết một người trong Chúa Cứu Thế, mười bốn năm trước đây đã được đem lên đến tầng trời thứ ba, hoặc trong thân xác hoặc ngoài thân xác, tôi không biết, chỉ có Đức Chúa Trời biết. Tôi biết người đó, hoặc trong thân xác hoặc ngoài thân xác, tôi không biết được, chỉ có Đức Chúa Trời biết, được đem lên tận Pa-ra-đi và nghe những lời không thể nào diễn tả mà loài người cũng không được phép nói ra. Về con người đó, tôi sẽ tự hào, còn về chính tôi, tôi không dám tự hào, chỉ tự hào về sự yếu kém của tôi mà thôi. Dù tôi muốn tự hào, tôi cũng không phải là người điên dại vì tôi nói sự thật. Nhưng tôi đã tự kiềm chế, không nói để không ai nghĩ về tôi tốt hơn những điều họ nghe thấy nơi tôi. Và để tôi khỏi kiêu căng vì những mạc khải siêu việt, Chúa đã cho một cái dằm đâm vào thân xác tôi, một sứ giả của quỷ Sa-tan, để đánh tôi và làm cho tôi không kiêu căng. Đã ba lần tôi nài xin Chúa cho nó lìa khỏi tôi. Nhưng Ngài phán với tôi: Ân sủng Ta đủ cho con rồi, vì quyền năng của Ta trở nên trọn vẹn trong sự yếu đuối. Vì vậy tôi rất vui mừng, tự hào trong sự yếu đuối của tôi, để quyền năng của Chúa Cứu Thế có thể ở luôn trong tôi. Cho nên vì Chúa Cứu Thế, tôi cam chịu yếu đuối, sỉ nhục, gian khổ, bắt bớ, hoạn nạn. Vì khi tôi yếu đuối, ấy chính là lúc tôi mạnh mẽ. Tôi đã trở nên điên dại! Chính anh chị em đã ép tôi làm như thế. Đáng lẽ anh chị em phải khen ngợi tôi, vì dù tôi không ra gì, cũng không kém các sứ đồ siêu đẳng kia chút nào. Những dấu hiệu của một sứ đồ đã được thực hiện giữa vòng anh chị em với tất cả kiên trì, dấu lạ, phép mầu và phép lạ. Vì, có gì đã làm cho anh chị em thua kém các hội thánh kia đâu? Trừ việc chính tôi không phiền lụy anh chị em, xin anh chị em tha thứ cho tôi điều bất công ấy. Đây là lần thứ ba tôi sẵn sàng đến thăm anh chị em; tôi cũng sẽ không phiền lụy anh chị em đâu. Vì điều tôi tìm kiếm không phải là tài sản của anh chị em mà chính là anh chị em đó. Bởi vì không phải con cái nên tồn trữ của cải cho cha mẹ mà là cha mẹ tồn trữ cho con cái. Về phần tôi, tôi rất vui lòng tiêu phí của cải và phí cả chính mình tôi nữa vì linh hồn anh chị em. Nếu tôi yêu mến anh chị em càng hơn, thì tôi được anh chị em yêu mến càng kém chăng? Đồng ý rằng chính bản thân tôi không làm gánh nặng cho anh chị em. Nhưng có người cho rằng tôi vốn xảo trá, đã dùng sự lừa dối mà bắt lấy anh chị em. Trong những người tôi đã sai đến cùng anh chị em, tôi có dùng người nào để lợi dụng anh chị em không? Tôi đã nhờ Tích đi thăm anh chị em và đã cử một anh em khác đi với người. Tích có lợi dụng anh chị em không? Chúng tôi đã chẳng sống trong cùng một tinh thần, theo cùng một đường lối sao? Lâu nay, anh chị em tưởng rằng chúng tôi đã tự bào chữa trước mặt anh chị em. Anh chị em yêu dấu, ấy là trước mặt Đức Chúa Trời và trong Chúa Cứu Thế mà chúng tôi nói tất cả những điều này để gây dựng anh chị em. Vì tôi e rằng khi đến nơi, tôi không thấy anh chị em được như ý tôi muốn và anh chị em cũng không thấy tôi như ý anh chị em muốn. Tôi e rằng có sự cãi vã, ghen ghét, nóng giận, ích kỷ, nói xấu, ngồi lê đôi mách, kiêu căng, hỗn loạn. Tôi cũng e rằng khi đến thăm anh chị em, Đức Chúa Trời của tôi sẽ để tôi bẽ mặt vì anh chị em và tôi phải than khóc cho nhiều người trước đây đã phạm tội mà nay vẫn không ăn năn về những việc ô uế, gian dâm và phóng đãng của họ. Đây là lần thứ ba tôi đến thăm anh chị em. Mọi vấn đề cứ theo lời chứng của hai hoặc ba người mà xác lập. Khi thăm viếng anh chị em lần thứ hai, tôi đã cảnh cáo những người trước đây đã phạm tội và mọi người khác, giờ đây dù vắng mặt tôi cũng cảnh cáo trước rằng khi tôi trở lại thăm anh chị em, tôi sẽ không dung thứ đâu. Vì anh chị em tìm kiếm bằng cớ chứng tỏ Chúa Cứu Thế phán dạy qua tôi; Ngài không nhu nhược khi đối xử với anh chị em, trái lại Ngài đầy quyền năng giữa vòng anh chị em. Bởi vì dù đã bị đóng đinh trên thập tự giá trong sự yếu kém nhưng Ngài đã sống do quyền năng của Đức Chúa Trời. Cũng vậy dù yếu kém trong Ngài, chúng tôi sẽ sống với Ngài do quyền năng của Đức Chúa Trời mà đối xử với anh chị em. Anh chị em hãy tự xét mình xem có ở trong đức tin không. Hãy tự thử mình, anh chị em không biết rằng Chúa Cứu Thế Giê-su đang ở trong anh chị em sao? Trừ khi anh chị em không đạt tiêu chuẩn. Nhưng tôi hy vọng anh chị em nhận biết chúng tôi không phải là không hội đủ tiêu chuẩn. Chúng tôi cầu xin Đức Chúa Trời giữ anh chị em đừng làm điều gì ác, không phải để chứng tỏ chúng tôi đủ tiêu chuẩn, nhưng để anh chị em làm điều lành, dù cho lúc ấy chúng tôi có vẻ như không đủ tiêu chuẩn. Vì chúng ta không thể nghịch với sự thật nhưng chỉ có thể thuận theo sự thật. Chúng tôi mừng vì khi nào chúng tôi yếu đuối thì anh chị em lại mạnh mẽ. Chúng tôi cầu xin cho anh chị em được trọn vẹn. Vì vậy, khi vắng mặt, tôi viết những điều này để khi có mặt, tôi khỏi phải xử nghiêm khắc theo như thẩm quyền Chúa đã ban cho tôi, là thẩm quyền để gây dựng chứ không phải để phá hủy. Sau cùng, thưa anh chị em, hãy vui mừng lên, hãy cải thiện cách sống, hãy khuyến khích nhau, đoàn kết và hòa thuận với nhau thì Đức Chúa Trời yêu thương và bình an sẽ ở cùng anh chị em. Hãy chào thăm nhau trong tình thân ái. Tất cả các thánh đồ chào anh chị em. Nguyện xin ân sủng của Chúa Cứu Thế Giê-su, tình yêu thương của Đức Chúa Trời và sự thông công của Đức Thánh Linh ở cùng tất cả anh chị em! Tôi là Phao-lô, một sứ đồ không phải từ loài người cũng không phải do một người nào ủy nhiệm, nhưng do Chúa Cứu Thế Giê-su và do Đức Chúa Trời là Cha, Đấng đã khiến Ngài sống lại từ cõi chết, cùng tất cả anh em đang ở với tôi,Kính gởi các Hội Thánh miền Ga-la-ti. Nguyện xin Đức Chúa Trời là Cha chúng ta và Chúa Cứu Thế Giê-su ban ân sủng và bình an cho anh chị em. Chúa Giê-su đã hy sinh chính mình Ngài vì tội lỗi chúng ta để giải cứu chúng ta thoát khỏi đời gian ác hiện tại đúng theo ý muốn của Đức Chúa Trời, Cha chúng ta. Nguyện Ngài được tôn vinh đời đời vô cùng. A-men. Tôi ngạc nhiên thấy anh chị em vội vã từ bỏ Đấng đã kêu gọi anh chị em bởi ân sủng Chúa Cứu Thế để theo một phúc âm khác. Không có phúc âm nào khác đâu, chỉ có mấy người làm rối trí anh chị em và muốn xuyên tạc Phúc Âm của Chúa Cứu Thế. Nhưng nếu có ai, dù chính mình chúng tôi hay một thiên sứ từ trời truyền bá một phúc âm nào khác với Phúc Âm chúng tôi đã truyền giảng cho anh chị em thì kẻ ấy đáng bị nguyền rủa. Như chúng tôi đã nói, nay tôi xin nói lại: Nếu ai truyền cho anh chị em một phúc âm nào khác với Phúc Âm anh chị em đã nhận, thì kẻ ấy đáng bị nguyền rủa. Vậy, giờ đây tôi cố gắng để được lòng loài người hay Đức Chúa Trời? Hay tôi cố tìm cách làm đẹp lòng loài người chăng? Nếu tôi vẫn muốn làm đẹp lòng loài người thì tôi không phải là đầy tớ của Chúa Cứu Thế. Thật vậy, thưa anh chị em, tôi muốn anh chị em biết rằng Phúc Âm mà tôi truyền giảng không phải đến từ loài người. Vì tôi đã nhận Phúc Âm ấy không phải từ một người nào, cũng không do ai dạy tôi, nhưng do Chúa Cứu Thế Giê-su mạc khải cho tôi. Anh chị em hẳn đã nghe về lối sống của tôi khi còn theo Do Thái Giáo, thể nào tôi đã bắt bớ dữ dội và muốn phá hủy hội thánh của Đức Chúa Trời. Trong việc giữ đạo Do Thái, tôi vượt xa hơn nhiều người đồng bào đồng tuổi với tôi. Tôi hết sức nhiệt thành giữ các truyền thống của tổ tiên. Nhưng khi Đức Chúa Trời là Đấng đã chọn tôi từ trong lòng mẹ và bởi ân sủng kêu gọi tôi, vui lòng mạc khải Con Ngài trong tôi để tôi truyền giảng Phúc Âm về Con Ngài giữa vòng các dân tộc ngoại quốc, thì lập tức tôi không bàn luận với người phàm, cũng không lên thành phố Giê-ru-sa-lem để gặp những vị đã làm sứ đồ trước tôi, nhưng đi qua Ả-rập rồi trở lại thành Đa-mách. Ba năm sau, tôi lên Giê-ru-sa-lem để thăm Phê-rơ và ở lại với ông mười lăm ngày. Tôi không gặp một sứ đồ nào khác ngoại trừ Gia-cơ là em của Chúa. Những điều tôi viết cho anh chị em đây, có Đức Chúa Trời chứng giám, tôi không nói dối! Sau đó tôi qua xứ Sy-ri và Si-li-si. Lúc ấy các Hội Thánh của Chúa Cứu Thế tại xứ Giu-đê chưa biết mặt tôi. Họ chỉ nghe rằng người đã bắt bớ họ trước đây, nay đang rao truyền Phúc Âm về đức tin mà người đã cố sức tiêu diệt. Như thế, họ tôn vinh Đức Chúa Trời vì tôi. Mười bốn năm sau, tôi lại lên thành phố Giê-ru-sa-lem cùng với Ba-na-ba, cũng có Tích đi theo nữa. Tôi theo lời mạc khải đi lên đó và đã trình bày Phúc Âm mà tôi đã truyền giảng giữa người ngoại quốc cho họ, nhưng chỉ trình bày riêng cho những người được tôn trọng, vì e rằng cuộc chạy đua của tôi trước đây và bây giờ trở nên vô ích chăng. Dù Tích, người cùng đi với tôi là một người Hy Lạp cũng không bị ép buộc phải chịu cắt bì. Sở dĩ như thế là vì mấy anh em giả xâm nhập; len lỏi dò thám sự tự do mà chúng tôi có trong Chúa Cứu Thế Giê-su để bắt chúng tôi làm nô lệ. Đối với những kẻ đó, chúng tôi không chịu nhượng bộ chút nào, dù chỉ trong giây phút, để chân lý của Phúc Âm được vững bền giữa anh chị em. Còn về những người được coi là quan trọng đi nữa thì cũng không quan hệ gì đến tôi. Đức Chúa Trời không thiên vị ai hết. Vì những người dù được coi là quan trọng lắm cũng không giúp gì cho tôi. Trái lại khi thấy việc truyền bá Phúc Âm cho người không cắt bì đã được ủy nhiệm cho tôi cũng như việc truyền bá Phúc Âm cho người cắt bì đã được ủy nhiệm cho Phê-rơ, vì Đấng đã tác động trong Phê-rơ, đề cử ông làm sứ đồ cho người cắt bì cũng tác động trong tôi, đề cử tôi làm sứ đồ cho người ngoại quốc. Khi nhận biết ân sủng Đức Chúa Trời đã ban cho tôi thì Gia-cơ, Sê-pha và Giăng là những người được tôn trọng như cột trụ, trao tay hữu kết thân với tôi và Ba-na-ba, để chúng tôi đi đến cùng dân ngoại quốc còn họ thì lo cho người cắt bì. Chỉ có điều họ muốn chúng tôi phải giúp người nghèo, điều đó tôi vẫn tích cực làm. Nhưng khi Sê-pha đến thành An-ti-ốt, tôi đã công khai phản đối ông vì thật là đáng trách. Bởi vì trước khi mấy người của Gia-cơ đến, ông vẫn ăn uống chung với người ngoại quốc. Nhưng khi họ đến thì ông rút lui và tách riêng ra vì sợ những người cắt bì. Những người Do Thái khác cũng hành động đạo đức giả như Phê-rơ đến nỗi cả Ba-na-ba cũng bị lôi cuốn hành động giả dối như thế. Nhưng khi thấy họ không ngay thẳng theo chân lý của Phúc Âm tôi nói với Sê-pha ngay trước mặt mọi người: Nếu ông là người Do Thái mà sống như người ngoại quốc, không theo cách người Do Thái thì làm sao ông lại ép người ngoại quốc sống theo cách người Do Thái? Chúng ta sinh ra là người Do Thái, không phải dân ngoại quốc tội lỗi. Chúng ta biết rằng con người được tuyên xưng công chính không phải vì các việc tuân giữ Kinh Luật, nhưng vì tin vào Chúa Cứu Thế Giê-su, ngay chính chúng ta cũng đã tin vào Chúa Cứu Thế Giê-su để được tuyên xưng công chính nhờ đức tin nơi Chúa Cứu Thế, không phải nhờ các việc tuân giữ Kinh Luật, bởi vì không ai được tuyên xưng công chính nhờ các việc tuân giữ Kinh Luật. Nhưng nếu đang khi tìm cách để được tuyên xưng công chính trong Chúa Cứu Thế chính chúng tôi lại bị coi là tội lỗi, như thế chẳng lẽ Chúa Cứu Thế là kẻ phục vụ tội lỗi sao? Không bao giờ! Vì nếu tôi xây dựng lại những gì tôi đã phá hủy thì tôi chứng tỏ mình là kẻ phạm pháp. Vì bởi Kinh Luật mà tôi đã chết đối với Kinh Luật để sống cho Đức Chúa Trời. Tôi bị đóng đinh vào thập tự giá với Chúa Cứu Thế. Nay tôi sống, không còn là tôi nữa nhưng Chúa Cứu Thế sống trong tôi. Hiện nay, tôi sống trong thân xác, tức là sống trong đức tin nơi Con Đức Chúa Trời, là Đấng đã yêu tôi và hiến chính mình Ngài vì tôi. Tôi không làm cho ân sủng của Đức Chúa Trời thành vô hiệu; vì nếu nhờ Kinh Luật mà được tuyên xưng công chính thì Chúa Cứu Thế chịu chết là vô ích. Hỡi những người Ga-la-ti ngu muội, ai đã mê hoặc anh chị em là những người mà việc Chúa Cứu Thế Giê-su bị đóng đinh trên thập tự giá đã được trình bày tỏ tường trước mắt? Tôi chỉ muốn anh chị em cho biết một điều này: Anh chị em đã nhận lãnh Đức Thánh Linh bởi các việc tuân giữ Kinh Luật hay do nghe và tin? Sao anh chị em ngu muội đến thế? anh chị em đã bắt đầu trong Thánh Linh nay lại muốn hoàn tất theo xác thịt? Anh chị em đã chịu nhiều đau khổ như thế để trở nên vô ích sao? Quả thật điều đó là vô ích. Vậy, Đấng đã ban Thánh Linh cho anh chị em và làm các phép lạ giữa anh chị em là vì các việc tuân giữ Kinh Luật hay vì nghe và tin? Cũng như Áp-ra-ham đã tin Đức Chúa Trời nên Ngài kể ông là công chính. Vậy anh chị em nên biết rằng: Những ai có đức tin, những người ấy là con cái Áp-ra-ham. Kinh Thánh đã thấy trước rằng: Đức Chúa Trời sẽ tuyên xưng các dân ngoại là công chính bởi đức tin, nên đã rao truyền trước cho Áp-ra-ham Phúc Âm này: Nhờ ngươi muôn dân sẽ được phước. Vì thế những ai tin thì được phước với Áp-ra-ham, là người có lòng tin. Vậy tất cả những ai cậy các việc tuân giữ Kinh Luật đều bị rủa sả. Vì Kinh Thánh chép: Đáng rủa thay cho kẻ không bền chí tuân giữ mọi điều đã chép trong Kinh Luật. Vả lại, không có ai nhờ Kinh Luật mà được tuyên xưng công chính trước mặt Đức Chúa Trời, đây là điều hiển nhiên vì: “Người công chính sẽ sống bởi đức tin”. Vả lại Kinh Luật thì không tùy thuộc vào đức tin, nhưng ai thi hành các Kinh Luật thì sẽ nhờ đó mà sống, Chúa Cứu Thế đã chuộc chúng ta khỏi sự rủa sả của Kinh Luật khi Ngài chịu rủa sả thay cho chúng ta vì Kinh Thánh chép: Đáng rủa thay cho kẻ bị treo trên cây gỗ. Như thế, nhờ Chúa Cứu Thế Giê-su các phúc lành của Áp-ra-ham cũng được ban cho các dân ngoại, và nhờ đức tin chúng ta nhận được Đức Thánh Linh đã hứa. Thưa anh chị em, tôi nói theo cách của loài người: Khi một giao ước đã lập thì không ai có quyền hủy bỏ hay thêm bớt điều gì. Về các lời hứa đã được ban cho Áp-ra-ham và dòng dõi ông, Kinh Thánh không nói: Cho các dòng dõi ngươi, như là cho nhiều người, nhưng nói: Cho dòng dõi ngươi, như là cho một người tức là Chúa Cứu Thế. Tôi muốn nói thế này: Giao ước đã được Đức Chúa Trời thiết lập thì Kinh Luật, là điều mãi bốn trăm ba mươi năm sau mới có, không thể hủy bỏ giao ước đó và làm cho lời hứa trở nên vô hiệu được. Vì nếu bởi Kinh Luật mà hưởng gia tài thì không còn nhờ lời hứa nữa. Nhưng Đức Chúa Trời đã dùng lời hứa để ban ân phúc cho Áp-ra-ham. Thế thì Kinh Luật để làm gì? Kinh Luật đã được thêm vào vì sự vi phạm cho đến khi Đấng, tức là dòng dõi đã hứa, đến. Kinh Luật được ban bố bởi các thiên sứ và qua một người trung gian, mà người trung gian thì không đại diện cho một bên mà thôi, nhưng Đức Chúa Trời thì chỉ có một. Như thế, Kinh Luật nghịch với các lời hứa của Đức Chúa Trời sao? Không bao giờ! Vì nếu Kinh Luật đã được ban bố có khả năng ban sự sống thì quả là sự công chính nhờ Kinh Luật mà ra. Nhưng Kinh Thánh công bố: Tất cả mọi vật đều bị nhốt trong tội lỗi để nhờ đức tin nơi Chúa Cứu Thế Giê-su mà lời hứa được ban cho những kẻ tin. Trước khi đức tin này đến, chúng ta bị Kinh Luật canh giữ cho đến khi đức tin được mạc khải. Như vậy, Kinh Luật là người giám hộ dẫn chúng ta đến Chúa Cứu Thế để nhờ đức tin chúng ta được tuyên xưng công chính. Nhưng khi đức tin ấy đã đến thì chúng ta không còn ở dưới quyền giám hộ nữa. Như vậy, tất cả các anh chị em đều là con Đức Chúa Trời bởi đức tin trong Chúa Cứu Thế Giê-su. Vì anh chị em tất cả đều đã chịu phép báp-tem vào trong Chúa Cứu Thế thì đã mặc lấy Chúa Cứu Thế. Không còn phân biệt giữa người Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà, nhưng anh chị em tất cả đều là một trong Chúa Cứu Thế Giê-su. Nếu anh chị em thuộc về Chúa Cứu Thế thì anh chị em là dòng dõi Áp-ra-ham, tức là những người thừa kế theo lời hứa. Tôi muốn nói rằng: Bao lâu người thừa kế còn vị thành niên thì không khác gì một nô lệ dù người là chủ mọi tài sản; Người phải ở dưới quyền các giám hộ và quản lý cho đến ngày người cha đã định. Chúng ta cũng vậy, khi còn vị thành niên, chúng ta phải làm nô lệ cho các thần linh trong vũ trụ. Nhưng đến đúng thời kỳ viên mãn Đức Chúa Trời sai Con Ngài đến, do một người nữ sinh ra, sinh ra dưới Kinh Luật, để chuộc những người ở dưới Kinh Luật và để chúng ta nhận được ơn làm con nuôi. Vì anh chị em là con nên Đức Chúa Trời sai Thánh Linh của Con Ngài ngự vào lòng chúng ta và kêu lên: A-ba, Cha ơi! Như vậy, nhờ ơn Đức Chúa Trời anh chị em không còn là nô lệ nữa mà là con, nếu đã là con thì cũng là người thừa kế. Trước kia, khi chưa biết Đức Chúa Trời anh chị em đã làm nô lệ cho những vị mà tự bản chất không phải là thần. Nhưng hiện nay, anh chị em đã biết Đức Chúa Trời, hay anh chị em đã được Đức Chúa Trời biết đến thì đúng hơn, sao còn quay trở lại với các thần hèn yếu, nghèo nàn kia, anh chị em muốn làm nô lệ chúng một lần nữa sao? Anh chị em còn giữ các ngày, tháng, mùa, năm ư? Tôi lo sợ cho anh chị em, e rằng tôi đã lao lực luống công vô ích vì anh chị em. Thưa anh chị em, tôi nài xin anh chị em, hãy trở nên giống như tôi vì tôi cũng như anh chị em. Anh chị em đã không làm hại gì tôi cả. Anh chị em biết rằng qua sự đau yếu trong thân thể mà tôi đã truyền giảng Phúc Âm cho anh chị em lần đầu tiên. Mặc dù tình trạng sức khỏe của tôi là một thử thách cho anh chị em, anh chị em đã không khinh khi, không phỉ nhổ; trái lại anh chị em đã tiếp tôi như một thiên sứ của Đức Chúa Trời, như chính Chúa Cứu Thế Giê-su vậy. Thế thì niềm vui ấy của anh chị em đâu rồi? Vì tôi làm chứng cho anh chị em rằng: Nếu có thể được thì anh chị em cũng móc mắt hiến cho tôi. Vậy mà bây giờ tôi đã trở nên kẻ thù của anh chị em vì nói sự thật cho anh chị em sao? Những người đó nhiệt thành đối với anh chị em không phải là có ý tốt, nhưng chỉ muốn ngăn cách anh chị em với chúng tôi để anh chị em nhiệt thành với họ. Nhiệt thành là điều tốt, miễn là vì mục đích tốt, lúc nào cũng thế chứ không phải chỉ khi tôi có mặt với anh chị em. Các con bé nhỏ của ta, vì các con mà ta lại chịu cơn đau chuyển bụng sinh một lần nữa cho đến khi Chúa Cứu Thế được thành hình trong các con. Ta mong được có mặt với các con lúc này và thay đổi cách nói vì ta lấy làm bối rối về các con. Hãy nói cho tôi biết, những người muốn sống dưới Kinh Luật, anh chị em chưa nghe Kinh Luật dạy sao? Vì Kinh Thánh chép rằng: Áp-ra-ham có hai con trai, một đứa do một nữ nô lệ sinh ra, một đứa do một phụ nữ tự do. Nhưng con của nữ nô lệ thì sinh ra theo xác thịt, còn con của người nữ tự do thì sinh ra theo lời hứa. Điều này là một biểu tượng: Hai người đàn bà đó tượng trưng cho hai giao ước, một là giao ước tại núi Si-nai thì sinh ra làm nô lệ, ấy là nàng A-ga. Và A-ga tức là núi Si-nai thuộc miền Ả-rập, tương ứng với thành Giê-ru-sa-lem hiện nay đang cùng với con dân nó làm nô lệ. Nhưng Giê-ru-sa-lem thiên thượng thì tự do, ấy là mẹ chúng ta. Vì Kinh Thánh chép:“Hãy vui lên! Hỡi phụ nữ hiếm hoi,Không sinh con!Hỡi phụ nữ chưa hề đau đẻ!Hãy cất tiếng reo hò!Vì con cái của phụ nữ bị bỏ còn đông hơnCon cái của phụ nữ có chồng.” Về phần chúng ta, thưa anh chị em, cũng như Y-sác, chúng ta là con cái theo lời hứa. Nhưng cũng như lúc bấy giờ, đứa con sinh ra theo xác thịt bắt bớ đứa con sinh ra theo Thánh Linh, thì bây giờ cũng vậy. Tuy nhiên Kinh Thánh nói gì? “Hãy đuổi người nữ nô lệ và con nó đi; vì con trai của người nữ nô lệ không được thừa kế với con trai của người nữ tự do.” Như vậy, thưa anh chị em, chúng ta không phải là con cái của người nữ nô lệ nhưng là con cái của người tự do. Vì tự do mà Chúa Cứu Thế đã giải thoát chúng ta. Vậy anh chị em hãy đứng vững, đừng mang lấy ách nô lệ một lần nữa. Này, chính tôi là Phao-lô bảo anh chị em rằng: Nếu anh chị em chịu phép cắt bì thì Chúa Cứu Thế không ích lợi gì cho anh chị em cả. Một lần nữa, tôi long trọng xác nhận với mọi người chịu phép cắt bì rằng: Họ buộc phải tuân giữ trọn vẹn Kinh Luật. Anh chị em nào muốn được tuyên xưng công chính bởi Kinh Luật thì bị đoạn tuyệt với Chúa Cứu Thế, mất ân sủng. Về phần chúng ta, nhờ Thánh Linh, bởi đức tin chúng ta mong đợi sự công chính mà chúng ta vẫn hy vọng. Vì trong Chúa Cứu Thế Giê-su, chịu phép cắt bì hay không cắt bì cũng chẳng lợi ích gì, chỉ đức tin hành động trong tình yêu thương mới ích lợi. Cho đến nay anh chị em vẫn chạy giỏi; vậy ai đã ngăn cản anh chị em không cho vâng phục chân lý? Sự xúi giục này không đến từ Đấng kêu gọi anh chị em. Một chút men làm cả đống bột nổi lên. Chính tôi, tôi có niềm tin nơi anh chị em rằng, ở trong Chúa anh chị em không có quan điểm nào khác. Còn kẻ quấy rầy anh chị em, bất kể người ấy là ai, sẽ phải chịu hình phạt. Về phần tôi, thưa anh chị em, nếu tôi vẫn còn truyền giảng phép cắt bì thì tại sao tôi lại vẫn bị bắt bớ? Nếu quả như thế thì sự xúc phạm do thập tự giá gây ra đã bị hủy đi rồi. Ước gì những kẻ quấy rối anh chị em, họ tự cắt mình đi là hơn. Thưa anh chị em, về phần anh chị em đã được kêu gọi để hưởng tự do thì đừng lấy tự do làm dịp tiện thỏa mãn tính xác thịt. Nhưng hãy lấy tình yêu thương phục vụ lẫn nhau. Vì toàn thể Kinh Luật được hoàn thành trong một điều răn này: “Hãy yêu thương người khác như chính mình.” Nhưng nếu anh chị em cắn xé và ăn nuốt nhau, hãy coi chừng, kẻo anh chị em tiêu diệt lẫn nhau. Tôi muốn nói rằng: Nếu anh chị em sống theo Thánh Linh thì sẽ không thi hành theo dục vọng xác thịt. Vì bản tính xác thịt ham muốn những điều trái với Thánh Linh và Thánh Linh ước muốn những điều trái với bản tính xác thịt; hai bên chống nghịch nhau như vậy, nên anh chị em không làm được những điều mình muốn. Nhưng nếu anh chị em được Thánh Linh hướng dẫn thì không lệ thuộc dưới Kinh Luật. Các hành động theo tính xác thịt thật rõ ràng, ấy là: Gian dâm, ô uế, phóng đãng, thờ thần tượng, phù thủy, thù hận, tranh chấp, ganh ghét, giận dữ, tham vọng ích kỷ, chia rẽ, bè phái, ghen tị, say sưa, chè chén và những điều khác tương tự. Tôi xin cảnh cáo anh chị em như tôi đã từng cảnh cáo rằng: Những người làm các điều ấy sẽ không được thừa hưởng Nước Đức Chúa Trời. Nhưng trái của Thánh Linh là: Yêu thương, vui mừng, bình an, nhẫn nại, nhân từ, lương thiện, trung tín, nhu mì, tiết độ, không có luật nào ngăn cấm các điều đó. Những người thuộc về Chúa Cứu Thế Giê-su đã đóng đinh bản tánh xác thịt cùng với tình dục và dục vọng mình vào thập tự giá. Nếu chúng ta nhờ Thánh Linh mà sống thì hãy bước theo Thánh Linh. Chúng ta chớ nên tự phụ, khiêu khích lẫn nhau, ganh tị lẫn nhau. Thưa anh chị em, nếu có ai tình cờ phạm lỗi gì, thì anh chị em là những người thuộc linh, hãy lấy tinh thần nhu mì mà sửa chữa người ấy. Chính anh chị em hãy đề phòng, kẻo cũng bị cám dỗ. Hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy anh chị em sẽ chu toàn luật của Chúa Cứu Thế. Vì nếu có ai tưởng mình là quan trọng nhưng thật ra chẳng là gì cả thì chỉ tự lừa dối mình đấy thôi. Nhưng mỗi người nên xem xét việc làm của chính mình rồi sẽ thấy hãnh diện, nhưng chỉ vì chính mình chứ không phải vì so sánh với người khác. Vì mỗi người đều phải mang gánh riêng của mình. Người được học Lời Chúa hãy chia sẻ tất cả tài vật tốt đẹp với người dạy dỗ mình. Đừng để bị lừa dối. Đức Chúa Trời không chịu khinh thường đâu. Vì ai gieo điều gì thì sẽ gặt điều ấy. Người nào theo tính xác thịt mình mà gieo thì sẽ do tính xác thịt gặt lấy sự hủy hoại. Còn người nào theo Thánh Linh mà gieo thì sẽ từ Thánh Linh gặt sự sống vĩnh phúc. Chớ nản chí trong việc làm điều lành, vì nếu không chểnh mảng thì đến đúng kỳ chúng ta sẽ gặt. Vậy, đang khi có dịp tiện, chúng ta hãy làm việc lành cho mọi người, nhất là cho những anh chị em trong cùng gia đình đức tin. Anh chị em hãy xem, chính tay tôi viết những dòng chữ thật lớn cho anh chị em. Tất cả những kẻ muốn phô trương các nghi lễ về phần xác là người cố ép anh chị em chịu phép cắt bì. Họ làm như thế chỉ để khỏi bị bắt bớ vì thập tự giá của Chúa Cứu Thế. Vì ngay cả những kẻ cắt bì, chính họ cũng không tuân giữ Kinh Luật nhưng muốn anh chị em chịu cắt bì để có thể khoe khoang về các nghi lễ trên thân xác anh em. Còn về phần tôi, tôi không khoe khoang, ngoại trừ khoe về thập tự giá của Chúa Cứu Thế Giê-su chúng ta. Nhờ thập tự giá đó, thế gian đã bị đóng đinh đối với tôi và tôi đối với thế gian cũng vậy. Vì cắt bì hay không cắt bì đều chẳng quan trọng gì, nhưng điều quan trọng là một con người mới. Nguyện xin Chúa ban bình an và lòng thương xót trên tất cả những ai noi theo quy tắc này, và trên người Y-sơ-ra-ên của Đức Chúa Trời. Từ nay về sau, đừng ai quấy rầy tôi nữa. Vì tôi mang dấu vết của Đức Giê-su trên thân thể tôi. Thưa anh chị em, nguyện xin Chúa Cứu Thế Giê-su chúng ta ban ân sủng trên tâm linh anh chị em. A-men. Tôi là Phao-lô, sứ đồ của Chúa Cứu Thế Giê-su theo ý Đức Chúa Trời,Kính gởi các thánh đồ tại Ê-phê-sô, là những người trung tín trong Chúa Cứu Thế Giê-su. Nguyện Đức Chúa Trời, Cha chúng ta và Chúa Cứu Thế Giê-su ban ân sủng và bình an cho anh chị em. Chúc tụng Đức Chúa Trời, Cha của Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta, là Đấng đã ban đủ mọi phúc lành thiêng liêng trên trời cho chúng ta trong Chúa Cứu Thế. Trước khi sáng tạo vũ trụ, Đức Chúa Trời đã chọn chúng ta trong Chúa Cứu Thế để chúng ta trở nên thánh hóa không có gì đáng trách trước mặt Ngài. Vì yêu thương và theo mục đích tốt đẹp của ý định Ngài, Đức Chúa Trời đã tiền định cho chúng ta làm con nuôi của Ngài nhờ Chúa Cứu Thế Giê-su, để chúng ta ca ngợi ân sủng vinh quang mà Đức Chúa Trời đã ban tặng cho chúng ta trong Con yêu dấu của Ngài. Trong Chúa Cứu Thế, chúng ta nhờ huyết Ngài được cứu chuộc, được tha thứ các tội phạm theo lượng ân sủng phong phú mà Đức Chúa Trời đã ban xuống tràn đầy trên chúng ta cùng với tất cả sự khôn ngoan và thông sáng. Ngài tỏ bày cho chúng ta biết sự huyền nhiệm của ý chỉ Ngài theo như mục đích tốt đẹp mà Ngài đã định trước trong Chúa Cứu Thế, để đến thời đại khi thời gian đã viên mãn, Ngài sẽ tập trung vạn vật, trên trời cũng như dưới đất, về dưới một thủ lãnh trong Chúa Cứu Thế. Trong Chúa Cứu Thế, chúng ta cũng được chọn thừa hưởng cơ nghiệp, được tiền định theo chương trình của Đức Chúa Trời, Đấng thực hiện mọi sự theo mục đích Ngài muốn, để chúng ta, những người đầu tiên đặt hy vọng nơi Chúa Cứu Thế, ca ngợi vinh quang Ngài. Anh chị em được kết hiệp trong Chúa Cứu Thế khi nghe đạo chân lý tức là Phúc Âm đã cứu rỗi anh chị em và cũng ở trong Ngài sau khi tin, anh chị em được Đức Chúa Trời niêm ấn bằng Thánh Linh như đã hứa. Đức Thánh Linh là Đấng bảo chứng cho cơ nghiệp của chúng ta cho đến khi chúng ta nhận trọn sự cứu chuộc và ca ngợi vinh quang Ngài. Vì thế, khi nghe nói về đức tin của anh chị em trong Chúa Giê-su và tình yêu thương của anh chị em đối với tất cả các thánh đồ, tôi không ngớt cảm tạ Chúa vì anh chị em, hằng nhắc đến anh chị em mỗi khi cầu nguyện. Tôi cầu xin Đức Chúa Trời của Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta, chính Cha vinh quang ban cho anh chị em tâm linh khôn ngoan và được khải thị để nhận biết Ngài. Soi sáng con mắt trong lòng anh chị em để hiểu thấu niềm hy vọng của ơn Ngài kêu gọi là gì, thế nào là cơ nghiệp giàu có vinh quang của Ngài giữa vòng các thánh, và thế nào là quyền năng vĩ đại siêu việt Ngài dành cho anh chị em, là những người tin, theo như năng lực mạnh mẽ của Ngài hành động. Đây là năng lực Ngài tác động trong Chúa Cứu Thế, khiến Con Ngài sống lại từ trong kẻ chết, ngự trị bên phải Đức Chúa Trời trên các tầng trời, trổi hơn mọi giới lãnh đạo, thẩm quyền, năng lực và thống trị; vượt trên mọi danh hiệu được tôn xưng trong đời này và đời sẽ đến nữa. Đức Chúa Trời đã bắt vạn vật phục dưới chân Chúa Cứu Thế, lập Ngài đứng đầu trên mọi sự, làm đầu Hội Thánh. Hội Thánh chính là thân thể Ngài, là sự đầy đủ trọn vẹn của Đấng làm viên mãn mọi sự trong mọi loài. Anh chị em đã chết vì những vi phạm và tội lỗi mình; sống như thế, anh chị em đã theo đường lối của đời này, theo kẻ lãnh đạo cầm quyền chốn không trung, là tà linh hiện đang hành động trong những người không vâng phục Đức Chúa Trời. Trước kia chúng ta cũng ở trong số người đó, tất cả đều sống theo những đam mê của xác thịt, thỏa mãn các dục vọng của thân xác và tư tưởng mình. Theo lẽ tự nhiên, chúng ta đáng chịu cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời như những người khác. Nhưng Đức Chúa Trời giàu lòng thương xót, yêu quý chúng ta vô cùng, nên dù chúng ta đã chết vì các vi phạm mình, Ngài làm cho chúng ta cùng sống với Chúa Cứu Thế. Ấy chính nhờ ân sủng mà anh chị em được cứu, và Đức Chúa Trời làm cho chúng ta đồng sống lại và đồng ngự trị trên trời trong Chúa Cứu Thế Giê-su, để qua lòng nhân từ đối với chúng ta trong Chúa Cứu Thế Giê-su, bày tỏ cho các thời đại tương lai biết sự phong phú vô hạn của ân sủng Ngài. Thật vậy, nhờ ân sủng, bởi đức tin mà anh chị em được cứu rỗi, đây không phải tự sức anh chị em, nhưng là một tặng phẩm Đức Chúa Trời ban, cũng không phải do công đức anh chị em làm, để không ai có thể khoe mình. Vì chúng ta là tác phẩm của Đức Chúa Trời, được tạo nên trong Chúa Cứu Thế Giê-su để làm những việc thiện lành, là việc Đức Chúa Trời đã chuẩn bị trước cho chúng ta để theo đó mà tiến hành. Vậy, hãy nhớ lại, trước kia khi anh chị em sinh ra vốn là người ngoại quốc, bị những kẻ cắt bì, nhưng cắt bì trong thể xác do bàn tay người phàm, coi là kẻ không cắt bì. Thuở ấy, anh chị em không có Chúa Cứu Thế, không có quyền công dân Y-sơ-ra-ên, không được dự phần vào các giao ước Đức Chúa Trời đã hứa, không có niềm hy vọng và không có Đức Chúa Trời trong thế gian. Trước kia, anh chị em vốn xa cách, nhưng nay, trong Chúa Cứu Thế Giê-su, anh chị em nhờ huyết Chúa Cứu Thế được gần gũi. Vì chính Ngài là sự bình an của chúng ta. Qua thân xác mình, Ngài kết hợp hai khối dân tộc làm một, phá tan bức tường ngăn cách đôi bên, là sự thù ghét, hủy bỏ Kinh Luật với các điều răn, giáo điều, để từ hai dân tộc tạo nên một dân mới trong Ngài, như thế tạo lập sự hòa hiệp. Qua thập tự giá, Chúa Cứu Thế đã hủy diệt sự thù ghét giữa đôi bên, đem giải hòa cả hai với Đức Chúa Trời trong một thân thể duy nhất. Ngài đến loan báo tin mừng bình an cho anh chị em là những người trước kia vốn xa cách, và bình an cho những kẻ ở gần. Vì nhờ Chúa Cứu Thế, chúng ta cả đôi bên đều ở trong cùng một Thánh Linh, được đến với Đức Chúa Cha. Thật vậy, bây giờ anh chị em không còn là người lạ hay kiều dân nhưng là người đồng hương với các thánh đồ và là người nhà của Đức Chúa Trời. Anh chị em được xây dựng trên nền tảng các sứ đồ và các tiên tri, còn chính Chúa Cứu Thế Giê-su là Đá góc nhà. Trong Ngài, cả tòa nhà được xây dựng chặt chẽ và phát triển thành đền thánh trong Chúa. Cũng trong Ngài, anh chị em được xây dựng nối kết với nhau thành ngôi nhà của Đức Chúa Trời trong Thánh Linh. Vì lý do ấy, tôi, Phao-lô, là tù nhân của Chúa Cứu Thế Giê-su vì anh chị em, những người ngoại quốc. Chắc hẳn anh chị em đã nghe về việc quản trị ân sủng mà Đức Chúa Trời đã ủy thác cho tôi để giúp ích anh chị em. Tôi nhờ Chúa khải thị được biết huyền nhiệm, như tôi vừa viết vắn tắt cho anh chị em. Đọc những lời này, anh chị em có thể nhận thấy tôi đã am hiểu huyền nhiệm của Chúa Cứu Thế. Huyền nhiệm này, Đức Chúa Trời đã không cho loài người trong các thế hệ trước biết, nhưng hiện nay, Ngài dùng Đức Thánh Linh khải thị cho các sứ đồ thánh và các tiên tri của Ngài. Đó là nhờ Phúc Âm và trong Chúa Cứu Thế Giê-su, các dân tộc ngoại quốc được cùng thừa kế cơ nghiệp của Chúa với người Do Thái, trở thành chi thể của cùng một thân, và cùng chung hưởng lời Chúa hứa. Do món quà ân sủng Đức Chúa Trời ban cho tôi, và nhờ quyền năng Ngài tác động, tôi đã trở thành người phục vụ Phúc Âm. Tôi vốn hèn mọn nhất trong tất cả các thánh, nhưng Đức Chúa Trời lại ban cho tôi đặc ân này là truyền giảng cho các dân tộc ngoại quốc Phúc Âm về sự phong phú vô biên của Chúa Cứu Thế, và soi sáng cho mọi người biết chương trình huyền nhiệm là gì. Đức Chúa Trời, Đấng sáng tạo vạn vật, đã giữ kín chương trình huyền nhiệm này từ muôn thuở, để hiện nay, nhờ Hội Thánh, các giới lãnh đạo và thẩm quyền trên các tầng trời được biết sự khôn ngoan mọi đường của Đức Chúa Trời. Điều này đúng theo mục đích đời đời Đức Chúa Trời đã thực thi trong Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta. Trong Chúa Cứu Thế và nhờ đức tin nơi Ngài, chúng ta được tự do và tin tưởng đến cùng Đức Chúa Trời. Vậy thì, xin anh chị em đừng nản lòng vì các hoạn nạn tôi phải chịu cho anh chị em. Đó chính là vinh quang của anh chị em. Vì lý do này, tôi quỳ gối trước mặt Chúa Cha, nhờ Ngài mà mọi gia tộc trên trời và dưới đất được đặt tên. Tôi cầu xin Chúa Cha, theo sự phong phú vinh quang Ngài, nhờ quyền năng Đức Thánh Linh, tăng cường con người bề trong của anh chị em. Tôi cầu xin, bởi đức tin, Chúa Cứu Thế ngự trong lòng anh chị em để khi đã đâm rễ và lập nền trong tình yêu thương, anh chị em có đủ sức cùng tất cả thánh đồ hiểu thấu chiều rộng, chiều dài, chiều cao, chiều sâu của tình yêu ấy. Và để biết được tình yêu của Chúa Cứu Thế, là tình yêu vượt quá sự hiểu biết, anh chị em sẽ được đầy dẫy mọi sự sung mãn của Đức Chúa Trời. Xin tôn vinh Đức Chúa Trời là Đấng dùng quyền năng tác động trong chúng ta, có thể thực hiện muôn phần hơn mọi điều chúng ta cầu xin hoặc suy tưởng. Nguyện xin Ngài được tôn vinh trong Hội Thánh và trong Chúa Cứu Thế Giê-su suốt mọi thế hệ, cho đến đời đời vô cùng. A-men. Vậy, là một tù nhân vì Chúa, tôi khuyên anh chị em hãy sống xứng đáng với ơn kêu gọi của Ngài. Phải hết sức khiêm nhường, nhu mì và kiên nhẫn, lấy tình yêu thương chịu đựng lẫn nhau. Hãy hết sức gìn giữ sự hiệp nhất do Thánh Linh đem lại, bằng sợi dây xích hòa thuận. Chỉ có một thân thể và một Thánh Linh, cũng như chỉ có một niềm hy vọng cho anh chị em khi được kêu gọi. Chỉ có một Chúa, một đức tin, một phép báp-tem, một Đức Chúa Trời, là Cha của tất cả, ở trên tất cả, thấu suốt tất cả và ở trong tất cả. Mỗi người trong chúng ta nhận được ân sủng tùy theo lượng mà Chúa Cứu Thế ban cho mình. Do đó, Kinh Thánh chép:“Ngài đã lên nơi cao,Dẫn dắt các tù binh,Và ban ân tứ cho loài người.” Khi nói “Ngài lên” có nghĩa gì nếu không phải là “Ngài cũng đã xuống những nơi thấp của trái đất.” Đấng đã xuống cũng chính là Đấng đã lên cao hơn mọi tầng trời để làm viên mãn mọi sự. Chính Ngài cho một số người làm sứ đồ, một số làm tiên tri, một số làm truyền giáo, một số làm mục sư và giáo sư, nhằm mục đích trang bị các thánh đồ cho công tác phục vụ, gây dựng Thân Thể Chúa Cứu Thế, cho đến khi tất cả chúng ta đạt đến sự hợp nhất trong đức tin và trong sự hiểu biết Con của Đức Chúa Trời, đến mức trưởng thành, đến tầm thước vóc dáng đầy trọn của Chúa Cứu Thế. Lúc ấy, chúng ta sẽ không còn là trẻ con nữa, bị sóng đánh trôi dạt và cuốn theo mọi luồng gió đạo lý của những người bịp bợm, xảo trá dùng thủ đoạn lừa gạt. Nhưng Ngài muốn chúng ta lấy tình yêu thương nói lên sự thật, để trong mọi sự chúng ta tăng trưởng, vươn lên Đấng làm đầu, tức là Chúa Cứu Thế. Nhờ Ngài toàn thân kết hiệp và ăn khớp với nhau do gân cốt hỗ trợ; khi mỗi bộ phận hoạt động thích nghi, thân thể sẽ tăng trưởng và tự gây dựng trong tình yêu thương. Vậy, tôi xin nói điều này và nhân danh Chúa nài xin anh chị em: đừng tiếp tục sống như người ngoại, theo tâm trí hư không của họ. Trí óc họ tối tăm, họ xa lạ với sự sống của Đức Chúa Trời vì lòng ngu muội và chai đá. Họ lì lợm buông mình theo thói trụy lạc, thích làm mọi điều ô uế. Nhưng anh chị em không học theo Chúa Cứu Thế như vậy. Quả thật, anh chị em đã nghe về Ngài và được dạy dỗ trong Ngài đúng theo chân lý đã thể hiện trong Đức Giê-su. Anh chị em phải lột bỏ con người cũ theo lối sống trước đây, là con người bị các dục vọng lừa dối hủy hoại. Hãy để Chúa đổi mới tâm linh và tâm trí anh chị em. Hãy mặc lấy con người mới giống như hình ảnh Đức Chúa Trời, được sáng tạo trong chân lý công chính và thánh khiết. Vì thế, đã lột bỏ mọi điều dối trá, anh chị em mỗi người hãy nói thật với người lân cận mình vì chúng ta đều là chi thể của nhau. Anh chị em tức giận, nhưng đừng phạm tội, đừng cưu mang giận hờn cho đến khi mặt trời lặn, cũng đừng để quỷ vương thừa cơ lợi dụng. Kẻ quen trộm cắp, đừng trộm cắp nữa, nhưng hãy siêng năng tự tay mình làm ăn lương thiện để có thể giúp người túng thiếu. Môi miệng anh chị em đừng thốt ra một lời ác độc nào, nhưng nếu cần hãy nói lời lành để xây dựng, để đem lại ân phúc cho người nghe. Đừng làm buồn lòng Thánh Linh của Đức Chúa Trời, nhờ Ngài anh chị em được đóng ấn cho ngày cứu chuộc. Hãy lột bỏ khỏi anh chị em tất cả những cay đắng, thịnh nộ, giận hờn, kêu rêu, xúc phạm cùng mọi tính hiểm độc. Anh chị em hãy nhân từ, thương cảm lẫn nhau, tha thứ nhau như Đức Chúa Trời đã tha thứ anh chị em trong Chúa Cứu Thế. Vì thế, anh chị em là con yêu dấu của Đức Chúa Trời, hãy cố gắng trở nên giống Chúa. Hãy sống trong tình yêu thương như Chúa Cứu Thế đã yêu thương anh chị em và hiến thân Ngài làm tế lễ và sinh tế có mùi thơm cho Đức Chúa Trời. Vấn đề gian dâm, mọi thứ ô uế và tham lam, anh chị em phải tránh, dù chỉ nói đến thôi, như thế mới xứng đáng là thánh đồ. Đừng bao giờ nói lời tục tĩu, rồ dại hay giễu cợt bẩn thỉu là những điều không thích đáng; nên dâng lời cảm tạ Chúa thì hơn. Anh chị em phải biết rõ điều này: mọi kẻ gian dâm, ô uế hoặc tham lam, vì tham lam là thờ thần tượng, đều không được hưởng cơ nghiệp trong vương quốc của Chúa Cứu Thế và của Đức Chúa Trời. Đừng để ai lừa dối anh chị em bằng những lời rỗng tuếch, chính vì những điều đó mà Đức Chúa Trời giáng cơn thịnh nộ trên những kẻ không vâng phục. Vậy, anh chị em đừng tham dự với họ. Vì trước kia anh chị em tối tăm, nhưng hiện nay anh chị em là ánh sáng trong Chúa, hãy sống như con cái ánh sáng, vì bông trái của ánh sáng là tất cả những điều tốt đẹp, công chính và chân thật. Hãy thử nghiệm cho biết điều gì đẹp lòng Chúa. Đừng tham dự vào những việc vô ích tối tăm, nhưng hãy vạch trần chúng ra thì hơn. Vì những điều họ làm vụng trộm, dù chỉ nhắc đến cũng xấu hổ rồi. Nhưng tất cả những điều bị ánh sáng vạch trần đều sẽ được thấy rõ, và mọi điều đã được thấy rõ trở nên ánh sáng. Vì thế, Ngài phán:“Nầy, người đang ngủ, hãy thức dậy,Đứng lên từ cõi chết,Thì Chúa Cứu Thế sẽ chiếu sáng người!” Vậy, anh chị em hãy hết sức thận trọng về nếp sống của mình, đừng sống như người khờ dại nhưng như người khôn ngoan. Hãy tận dụng thì giờ, vì thời buổi hiện tại là thời xấu xa. Vậy, đừng trở nên ngu dại, nhưng phải hiểu biết ý muốn của Đức Chúa Trời. Đừng say rượu, vì rượu đưa đến trụy lạc, nhưng phải đầy dẫy Thánh Linh. Hãy dùng thánh thi, thánh ca và ca khúc thiêng liêng mà đối đáp nhau, hãy hết lòng đàn ca chúc tụng Chúa. Trong mọi việc, hãy luôn luôn nhân danh Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta, cảm tạ Đức Chúa Trời là Cha. Hãy thuận phục nhau vì kính sợ Chúa Cứu Thế. Hỡi các người vợ, hãy tùng phục chồng mình như tùng phục Chúa, vì chồng là đầu vợ, như Chúa Cứu Thế là Đầu của Hội Thánh, Hội Thánh là thân thể Ngài, chính Ngài là Đấng Cứu Thế của Thân Thể. Như Hội Thánh tùng phục Chúa Cứu Thế, người vợ cũng tùng phục chồng trong mọi việc. Hỡi các người chồng, hãy yêu vợ như Chúa Cứu Thế yêu Hội Thánh và hiến thân Ngài vì Hội Thánh, để thánh hóa Hội Thánh sau khi đã thanh tẩy bằng nước và đạo; để trình ra cho chính Ngài một Hội Thánh quang vinh, không tì ố, không vết nhăn, không có gì khiếm khuyết, nhưng thánh khiết và toàn bích. Cũng thế, các người chồng phải yêu vợ như yêu chính bản thân; chồng yêu vợ là yêu chính bản thân. Chẳng có ai ghét bản thân, trái lại nuôi dưỡng, chăm sóc nó, Chúa Cứu Thế cũng nuôi dưỡng, chăm sóc Hội Thánh như vậy, vì chúng ta là các phần của Thân Thể Ngài. Vì lý do này, “đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà kết hiệp với vợ mình, cả hai sẽ thành một thân.” Huyền nhiệm này thật vĩ đại, tôi nói đến Chúa Cứu Thế và Hội Thánh. Tuy nhiên, mỗi người trong anh em phải yêu thương vợ như bản thân, còn vợ phải kính trọng chồng. Hỡi các con cái, hãy vâng lời cha mẹ trong Chúa, vì như thế là phải đạo. “Hãy hiếu kính cha mẹ”, đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: “Để con được phước và sống lâu trên đất.” Hỡi những người làm cha, đừng chọc tức con cái mình nhưng hãy dưỡng dục chúng theo kỷ luật và giáo huấn của Chúa. Hỡi những người tôi tớ, hãy vâng lời chủ mình ở thế gian với thái độ kính sợ run rẩy, và lòng chân thật như vâng phục Chúa Cứu Thế. Không phải chỉ vâng phục trước mặt chủ, làm việc chỉ để lấy lòng người mà thôi, nhưng hãy như người tôi tớ của Chúa Cứu Thế, hết lòng làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Hãy phục vụ với thiện chí như phục vụ Chúa chứ không phải cho người ta, vì anh chị em biết rằng, bất luận tôi tớ hay tự chủ, hễ ai làm việc tốt đẹp, đều sẽ được Chúa tưởng thưởng. Hỡi các người chủ, anh chị em cũng hãy đối xử với tôi tớ như thế, đừng đe dọa, vì biết rằng họ và anh chị em có cùng một Chủ trên trời, Ngài không thiên vị ai cả. Sau hết, anh chị em hãy mạnh mẽ trong Chúa và trong sức mạnh quyền năng của Ngài. Hãy trang bị toàn bộ vũ khí của Đức Chúa Trời để anh chị em có thể đứng vững chống cự lại các mưu kế của quỷ vương. Vì chúng ta chiến đấu, không phải với người phàm, nhưng chống lại những kẻ lãnh đạo, giới thẩm quyền, và những bậc quyền thế của thế giới tối tăm này cùng những thần linh gian ác trên các tầng trời. Vì thế, hãy nhận lấy toàn bộ vũ khí của Đức Chúa Trời để anh chị em có thể chống cự nổi trong ngày gian khổ và sau khi thực hiện mọi sự, anh chị em đứng vững. Vậy, anh chị em hãy đứng lên; nai nịt bằng chân lý, mặc áo giáp công chính, mang vào chân giày sẵn sàng của Phúc Âm bình an. Luôn luôn lấy đức tin làm thuẫn, nhờ đó anh chị em có thể dập tắt các tên lửa của kẻ ác; đội mão cứu rỗi, cầm gươm Thánh Linh là Lời Đức Chúa Trời. Bằng mọi lời cầu nguyện và nài xin, hãy luôn luôn cầu nguyện trong Đức Thánh Linh. Để đạt mục đích ấy, hãy tỉnh thức và hết sức kiên trì, cũng hãy cầu thay cho tất cả các thánh đồ. Xin cầu thay cho tôi để khi tôi lên tiếng, Chúa ban cho lời phải nói, và cho tôi được bạo dạn công bố huyền nhiệm Phúc Âm. Vì tôi là sứ giả của Phúc Âm trong vòng xiềng xích, nên xin cầu thay cho tôi mạnh dạn công bố đúng như tôi phải nói. Ty-chi-cơ, người anh em thân yêu và người phục vụ Chúa trung tín, sẽ cho anh chị em hay mọi tin tức để anh chị em biết tình hình và công việc của tôi. Tôi phái anh ấy đến với anh chị em vì mục đích này, để anh chị em biết được tình trạng chúng tôi và để anh ấy khích lệ lòng anh chị em. Nguyện xin Đức Chúa Trời là Cha và Chúa Cứu Thế Giê-su ban cho anh chị em bình an, tình yêu thương cùng với đức tin. Nguyện xin Đức Chúa Trời ban ân sủng cho tất cả những người yêu kính Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta bằng một tình yêu bất diệt. Chúng tôi là Phao-lô và Ti-mô-thê, tôi tớ của Chúa Cứu Thế Giê-su,Kính gởi toàn thể thánh đồ trong Chúa Cứu Thế Giê-su tại thành Phi-líp cùng các giám mục và chấp sự. Nguyện xin Đức Chúa Trời là Cha chúng ta và Chúa Cứu Thế Giê-su ban ân sủng và bình an cho anh chị em. Tôi cảm tạ Đức Chúa Trời của tôi mỗi khi nhớ đến anh chị em. Luôn luôn mỗi khi cầu nguyện, tôi vui mừng cầu nguyện cho tất cả anh chị em. Vì anh chị em đã cộng tác trong việc truyền bá Phúc Âm từ buổi ban đầu cho đến nay. Tôi tin chắc điều này, Đấng đã bắt đầu làm một việc tốt lành trong anh chị em cũng sẽ hoàn thành việc đó cho đến ngày của Chúa Cứu Thế Giê-su. Cảm nghĩ của tôi về tất cả anh chị em như vậy là phải, vì tôi mang anh chị em trong lòng. Dù khi tôi bị tù tội cũng như lúc bênh vực hoặc củng cố Phúc Âm, tất cả anh chị em đã cùng chia sẻ ân sủng với tôi. Có Đức Chúa Trời làm chứng cho tôi rằng tôi trìu mến tất cả anh chị em với tấm lòng của Chúa Cứu Thế Giê-su. Điều tôi cầu xin là tình yêu thương của anh chị em ngày càng gia tăng cùng với sự hiểu biết và tất cả nhận thức, để anh chị em nhận biết điều gì là tốt đẹp nhất và được trong sạch, không có gì đáng trách cho đến ngày của Chúa Cứu Thế; Được đầy trái công chính bởi Chúa Cứu Thế Giê-su để tôn vinh và ca ngợi Đức Chúa Trời. Thưa anh chị em, tôi muốn anh chị em biết rằng những điều đã xảy đến cho tôi thật ra đã giúp việc truyền bá Phúc Âm tiến bộ thêm. Kết quả là toàn thể lính gác công đường cũng như tất cả những người khác đều biết tôi vì Chúa Cứu Thế mà bị xiềng xích. Và phần nhiều anh chị em qua việc tôi bị xiềng xích đã vững tin hơn trong Chúa, dám rao truyền lời Chúa mà không sợ hãi điều gì. Thật vậy, có vài kẻ truyền giảng Chúa Cứu Thế vì ganh tị và cạnh tranh nhưng những người khác truyền giảng vì thiện chí. Những người này truyền giảng do lòng yêu thương; họ biết rằng tôi được ủy nhiệm để bênh vực Phúc Âm. Còn những kẻ kia truyền giảng Chúa Cứu Thế vì lòng ích kỷ, không thành thật; tưởng rằng như thế họ làm tôi đau khổ thêm trong khi bị xiềng xích. Nhưng có hề gì? Dù thế nào đi nữa, hoặc giả bộ hay thành thật, Chúa Cứu Thế vẫn được rao truyền. Như thế thì tôi vui mừng. Vâng, tôi sẽ tiếp tục vui mừng. Vì tôi biết rằng nhờ anh chị em cầu nguyện và nhờ Thánh Linh của Chúa Cứu Thế Giê-su phù hộ, điều này sẽ trở nên ích lợi cho sự phóng thích của tôi như tôi vẫn tha thiết mong đợi và hy vọng. Trong bất cứ hoàn cảnh nào tôi cũng không bị hổ thẹn nhưng luôn luôn đầy can đảm, đặc biệt là bây giờ, để Chúa Cứu Thế được tôn vinh trong thân thể tôi, dù sống hay chết. Vì đối với tôi, sống tức là Chúa Cứu Thế và chết là ích lợi. Nhưng nếu tôi còn sống trong thân xác thì tôi sẽ làm công việc có kết quả; tôi không biết nên chọn điều nào. Tôi bị giằng co giữa hai đường: Tôi muốn ra đi để ở cùng Chúa Cứu Thế là điều tốt hơn. Nhưng tôi cứ ở lại trong thân xác, ấy là điều cần thiết hơn cho anh chị em. Tin chắc như vậy, tôi biết rằng tôi sẽ còn ở lại và sẽ ở cùng hết thảy anh chị em để giúp anh chị em tăng trưởng và vui mừng trong đức tin. Như vậy, anh chị em sẽ vô cùng hãnh diện về tôi trong Chúa Cứu Thế Giê-su khi tôi trở lại thăm anh chị em. Chỉ có điều anh chị em phải sống xứng đáng với Phúc Âm của Chúa Cứu Thế để khi tôi đến thăm anh chị em, hoặc vắng mặt, nhưng nghe về anh chị em rằng anh chị em vẫn đứng vững, đồng tâm, đồng một lòng cùng tranh đấu cho đức tin của Phúc Âm. Không việc gì phải sợ những kẻ thù nghịch, đây là dấu hiệu chứng tỏ họ sẽ bị hủy diệt, còn anh chị em sẽ được cứu rỗi và điều này đến từ Đức Chúa Trời. Vì nhờ Chúa Cứu Thế anh chị em đã được ban ân sủng không những để tin Ngài mà thôi nhưng cũng chịu khổ vì Ngài nữa. Anh chị em đang dự một trận chiến như anh chị em đã thấy nơi tôi và bây giờ cũng nghe tôi vẫn còn chiến đấu. Vậy, nếu anh chị em có điều khuyến khích nào trong Chúa Cứu Thế, có điều an ủi nào từ tình yêu thương, có sự thông công nào với Thánh Linh, có lòng dịu dàng và thương xót nào, xin anh chị em hãy hiệp ý với nhau, cùng một tình yêu thương, đồng tâm, nhất trí để tôi được vui mừng trọn vẹn. Đừng làm điều gì vì tham vọng ích kỷ hoặc hư vinh nhưng hãy khiêm tốn, coi người khác hơn mình. Mỗi người trong anh chị em chớ tìm lợi riêng cho mình nhưng hãy chú trọng đến lợi ích của người khác nữa. Hãy có cùng một tâm tình như Chúa Cứu Thế Giê-su đã có. Vì Ngài vốn có bản thể của Đức Chúa TrờiNhưng không coi sự bình đẳng với Đức Chúa Trời là điều phải nắm giữ. Nhưng chính Ngài tự bỏ mình,Mang lấy bản thể của một tôi tớ,Trở nên giống như loài người, có hình dạng như một người. Ngài đã tự hạ mình xuống,Chịu vâng phục cho đến chết,Thậm chí chết trên thập tự giá. Chính vì thế, Đức Chúa Trời đã tôn Ngài lênVà ban cho Ngài danh trên hết mọi danh hiệu; Để khi nghe đến danh của Đức Giê-su, mọi đầu gốiTrên trời dưới đất, bên dưới đất đều phải quỳ xuống, Và mọi lưỡi phải tuyên xưng Chúa Cứu Thế Giê-su là ChúaMà tôn vinh Đức Chúa Trời là Đức Chúa Cha. Vậy, thưa anh chị em yêu dấu của tôi, như anh chị em vẫn luôn luôn vâng phục, không những khi tôi có mặt mà thôi nhưng nhất là bây giờ, lại càng vâng phục hơn khi tôi vắng mặt. Hãy lấy lòng kính sợ và run rẩy mà hành động để hoàn thành sự cứu rỗi mình. Vì Đức Chúa Trời là Đấng đang tác động trong lòng anh chị em để anh chị em vừa muốn vừa làm theo ý chỉ tốt lành của Ngài. Hãy làm mọi việc mà không càu nhàu hay cãi cọ để anh chị em trở nên không có gì đáng trách, tinh khiết, là con cái Đức Chúa Trời không tì vết giữa một thế hệ gian ác, đồi trụy. Anh chị em hãy chiếu sáng trong thế hệ đó như những vì sao trong thế gian. Hãy nắm vững những lời ban sự sống để đến ngày của Chúa Cứu Thế tôi được hãnh diện vì đã không chạy thi vô ích và lao khổ uổng công. Nếu tôi phải đổ huyết ra để rưới lên lễ vật hy sinh mà anh chị em lấy đức tin dâng cho Đức Chúa Trời thì tôi cũng vui lòng và cùng chia sẻ niềm vui với tất cả anh chị em. Anh chị em cũng vậy, hãy vui lên và cùng chia sẻ niềm vui với tôi. Nhờ ơn Chúa Giê-su, tôi hy vọng sớm cử Ti-mô-thê đến thăm anh chị em để tôi biết tin tức về anh chị em mà an tâm. Thật vậy, tôi không có ai khác có cùng một tâm tình như Ti-mô-thê, là người thật tình lo lắng cho anh chị em. Vì ai nấy đều tìm lợi ích riêng cho mình chứ không tìm lợi ích cho Chúa Cứu Thế Giê-su. Nhưng anh chị em biết phẩm cách của Ti-mô-thê, người đã cùng tôi, như con với cha, phục vụ Phúc Âm. Vậy, tôi hy vọng sẽ cử Ti-mô-thê đi ngay khi tôi biết rõ tình cảnh của tôi như thế nào. Tôi tin tưởng trong Chúa rằng chính tôi sẽ sớm đến thăm anh chị em. Tôi nghĩ cần phải gởi Ê-ba-phô-đi về với anh chị em, ông là một người anh em, một người đồng lao, một chiến hữu của tôi, ông cũng là sứ giả của anh chị em gởi đến để giúp đỡ các nhu yếu cho tôi. Vì ông ấy mong ước gặp lại tất cả anh chị em và lo âu vì anh chị em đã nghe tin mình bị đau. Thật vậy ông ấy đã mắc bệnh nặng gần chết nhưng Đức Chúa Trời đã thương xót, không những chỉ thương xót ông mà cả tôi nữa, để tôi không phải chịu hết buồn phiền này đến buồn phiền khác. Vì thế, tôi cử ông ấy trở về để anh chị em gặp lại ông và vui mừng, còn tôi thì khỏi lo âu. Vậy, hãy hết sức vui mừng mà hoan nghênh ông trong Chúa và hãy kính trọng những người như thế. Chính vì công việc của Chúa Cứu Thế mà ông đã suýt chết; liều mạng sống mình để làm thay những việc mà anh chị em không thể làm được để giúp đỡ tôi. Sau hết, thưa anh chị em của tôi, hãy vui mừng trong Chúa. Nhắc lại cho anh chị em những điều này không có gì phiền cho tôi nhưng bảo đảm cho anh chị em. Hãy coi chừng bọn chó, hãy coi chừng đám công nhân gian ác, hãy coi chừng những kẻ cắt da thịt. Vì chúng ta mới thật là những người được cắt bì, những người nhờ Thánh Linh của Đức Chúa Trời mà thờ phượng, hãnh diện trong Chúa Cứu Thế Giê-su chứ không nhờ cậy vào thân xác phàm tục. Mặc dầu chính tôi cũng có lý do để kiêu hãnh về thân xác phàm tục. Nếu ai khác tưởng họ có lý do để kiêu hãnh về thân xác phàm tục, tôi đây có nhiều hơn. Tôi chịu phép cắt bì khi sinh được tám ngày, thuộc dòng dõi Y-sơ-ra-ên, chi tộc Bên-gia-min, là người Do Thái, con của người Do Thái, theo Kinh Luật là một người Pha-ri-si, về lòng nhiệt thành là kẻ bắt bớ Hội Thánh, về đời sống công chính theo Kinh Luật là người không thể trách được. Nhưng bất cứ những gì xưa kia tôi coi là lợi thì nay vì Chúa Cứu Thế tôi coi là lỗ. Hơn thế nữa, tôi coi mọi sự như là lỗ vì sự hiểu biết Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa tôi, là điều tối trọng đại. Vì Ngài, tôi chịu lỗ tất cả, tôi coi những điều đó như rơm rác để được Chúa Cứu Thế và được ở trong Ngài. Được như thế không phải nhờ sự công chính của tôi dựa trên Kinh Luật, nhưng bởi đức tin nơi Chúa Cứu Thế, là sự công chính do Đức Chúa Trời ban cho nhờ đức tin và để biết Ngài, biết quyền năng phục sinh của Ngài, chia sẻ sự thương khó của Ngài, biết thông công với Ngài trong sự chết của Ngài; với niềm mong ước thể nào tôi cũng được sống lại từ cõi chết. Nói thế, không phải là tôi đã đoạt giải hay được hoàn hảo rồi, nhưng tôi cứ theo đuổi để đoạt cho được giải, vì chính tôi đã được Chúa Cứu Thế Giê-su chiếm đoạt. Thưa anh chị em, tôi không nghĩ rằng tôi đã chiếm được rồi. Nhưng chỉ chú tâm vào một điều: Quên đi những điều đã qua, phóng mình đuổi theo những điều phía trước, nhắm mục đích đoạt được giải thưởng, là sự kêu gọi thiên thượng của Đức Chúa Trời trong Chúa Cứu Thế Giê-su. Vậy tất cả chúng ta là những người trưởng thành hãy có thái độ này, và nếu có điều gì anh chị em nghĩ khác thì Đức Chúa Trời sẽ khải thị điều này cho anh chị em. Tuy nhiên, đã đạt đến đâu, chúng ta hãy cứ giữ hướng ấy mà đi. Thưa anh chị em, hãy cùng nhau noi gương tôi và nhìn xem những người sống theo gương mà chúng tôi để lại cho anh chị em. Vì tôi đã nói với anh chị em nhiều lần, nay tôi phải nói lại trong nước mắt: Có nhiều người sống như kẻ thù nghịch thập tự giá của Chúa Cứu Thế. Kết cuộc của họ là sự hư vong, họ lấy cái bụng làm Đức Chúa Trời mình và vinh quang trong cái đáng hổ thẹn. Họ chỉ nghĩ đến những điều thế tục. Trái lại chúng ta là công dân trên trời, chúng ta đang trông đợi Đấng Cứu Thế từ đó đến, là Chúa Cứu Thế Giê-su. Ngài, bởi quyền năng đã bắt muôn loài quy phục mình, sẽ biến đổi thân thể hèn mọn của chúng ta ra giống như thân thể vinh quang Ngài. Vậy, thưa anh chị em yêu dấu và mong nhớ, là niềm vui và mão hoa của tôi, anh chị em yêu dấu, hãy đứng vững vàng như vậy trong Chúa. Tôi khuyên Ê-ô-đi và khuyên Sin-ti-cơ nên đồng ý với nhau trong Chúa. Vâng, tôi cũng xin anh, người đồng lao thật, hãy giúp đỡ hai bà ấy. Họ là người cùng tôi tranh đấu cho Phúc Âm cùng với Cơ-lê-măn và những người cộng sự khác của tôi mà tên tuổi đã được ghi vào sách sự sống rồi. Hãy vui mừng trong Chúa luôn luôn; tôi xin nhắc lại: Hãy vui mừng lên. Hãy cho mọi người biết đức hòa nhã của anh chị em, Chúa gần đến rồi. Đừng lo lắng gì cả, nhưng trong mọi việc hãy cầu nguyện, nài xin và cảm tạ mà trình các nhu cầu của mình cho Đức Chúa Trời. Sự bình an của Đức Chúa Trời, là bình an vượt trên mọi hiểu biết, sẽ bảo vệ tấm lòng và tâm trí anh chị em trong Chúa Cứu Thế Giê-su. Sau hết, thưa anh chị em, bất cứ điều gì chân thật, điều gì đáng kính, điều gì công chính, điều gì thanh sạch, điều gì đáng yêu chuộng, điều gì cao quý; nếu có đức hạnh nào, nếu có điều gì đáng khen, anh chị em hãy suy nghĩ đến. Những gì anh chị em đã học, đã nhận, đã nghe và đã thấy nơi tôi, hãy thực hành đi thì Đức Chúa Trời, là Đấng ban bình an, sẽ ở cùng anh chị em. Tôi rất vui mừng trong Chúa vì cuối cùng anh chị em lại quan tâm đến tôi. Thật ra anh chị em vẫn quan tâm đến tôi nhưng không có dịp tiện bày tỏ. Tôi nói thế không phải vì thiếu thốn, vì tôi đã tập thỏa lòng trong mọi cảnh ngộ. Tôi biết thế nào là nghèo túng, thế nào là sung túc. Trong mỗi nơi và mọi hoàn cảnh tôi đã học được bí quyết để sống no đủ hay đói khát, sung túc hay thiếu thốn. Tôi đủ sức làm được mọi việc nhờ Đấng ban thêm năng lực cho tôi. Tuy nhiên khi chia sẻ hoạn nạn với tôi anh chị em đã làm một điều tốt đẹp. Thưa anh chị em thành Phi-líp, chính anh chị em biết rằng trong thời gian bắt đầu truyền giảng Phúc Âm, khi tôi rời khỏi xứ Ma-xê-đoan, không Hội Thánh nào tham gia trong việc chi phí và hỗ trợ cho tôi, ngoại trừ anh chị em. Vì ngay khi tôi còn ở Tê-sa-lô-ni-ca anh chị em đã gởi đồ tiếp tế cho tôi một hai lần. Ấy không phải tôi cầu mong quà biếu, nhưng cầu mong kết quả dồi dào cho tài khoản của anh chị em. Giờ đây tôi có đầy đủ và còn dư dật nữa. Tôi đã nhận đầy đủ tặng phẩm của anh chị em do Ê-ba-phô-đi trao như hương thơm, như lễ vật Đức Chúa Trời chấp nhận và đẹp lòng. Và Đức Chúa Trời của tôi sẽ cung cấp đầy đủ mọi nhu cầu cho anh chị em theo như sự giàu có vinh quang của Ngài trong Chúa Cứu Thế Giê-su. Xin tôn vinh Đức Chúa Trời, cha chúng ta đời đời. A-men. Xin chào tất cả các thánh đồ trong Chúa Cứu Thế Giê-su. Những anh chị em đang ở với tôi chào anh chị em. Toàn thể các thánh đồ chào anh chị em; đặc biệt là những người trong hoàng cung. Nguyện xin Chúa Cứu Thế Giê-su ban ân sủng cho tâm linh anh chị em. Tôi là Phao-lô, một sứ đồ của Chúa Cứu Thế Giê-su theo ý Đức Chúa Trời và Ti-mô-thê, người anh em, Kính gởi anh chị em là những người thánh thiện và trung tín với Chúa Cứu Thế tại thành Cô-lô-se. Nguyện xin Đức Chúa Trời là Cha chúng ta ban ân sủng và bình an cho anh chị em. Mỗi khi cầu nguyện cho anh chị em, chúng tôi luôn luôn dâng lời tạ ơn Đức Chúa Trời, là Cha của Chúa Cứu Thế Giê-su chúng ta, vì chúng tôi đã nghe nói về đức tin của anh chị em nơi Chúa Cứu Thế Giê-su và về lòng yêu thương của anh chị em đối với tất cả các thánh đồ. Vì niềm hy vọng dành sẵn trên trời cho anh chị em, điều này anh chị em đã được nghe trước đây trong Đạo chân lý là Phúc Âm. Phúc Âm mà anh chị em đã nghe cũng được truyền bá khắp thế giới, hiện đang kết quả và tăng trưởng cũng y như nơi anh chị em từ ngày anh chị em được nghe và hiểu thấu chân lý về ân sủng của Đức Chúa Trời. Anh chị em đã học điều đó với Ê-pháp-ra, người bạn đồng lao thân yêu của chúng tôi, cũng là nguời trung tín phục vụ Chúa Cứu Thế thay cho anh chị em. Ê-pháp-ra cũng đã thuật cho chúng tôi nghe về lòng yêu thương của anh chị em trong Thánh Linh. Vì lý do đó, từ ngày được tin về anh chị em, chúng tôi không ngừng cầu nguyện cho anh chị em, xin Đức Chúa Trời cho anh chị em hiểu thấu ý chỉ Ngài bằng tất cả sự khôn ngoan và hiểu biết thiêng liêng, để anh chị em sống xứng đáng với Chúa, làm hài lòng Ngài mọi điều, kết quả trong mọi việc lành và càng ngày càng hiểu biết Đức Chúa Trời sâu rộng hơn. Nguyện xin Đức Chúa Trời tăng cường mọi quyền năng cho anh chị em theo sức mạnh vinh quang Ngài để anh chị em kiên trì chịu đựng mọi sự và hân hoan tạ ơn Chúa Cha đã làm cho anh chị em xứng đáng để hưởng phần cơ nghiệp với các thánh đồ trong sự sáng láng. Ngài đã giải cứu chúng ta khỏi uy quyền tối tăm và chuyển đưa chúng ta vào Vương Quốc của Con yêu dấu Ngài. Trong Đức Con chúng ta được cứu chuộc và tha tội. Đức Con là hiện thân của Đức Chúa Trời vô hình, là trưởng nam trên tất cả vạn vật. Vì mọi sự vật trên trời hay dưới đất, hữu hình hay vô hình, đều được sáng tạo trong Ngài, dù ngôi thứ, hoặc kẻ thống trị, giới lãnh đạo, bậc thẩm quyền, tất cả đều được dựng nên bởi Ngài và cho Ngài. Ngài hiện hữu trước tất cả vạn vật và vạn vật được giữ vững trong Ngài. Ngài là Đầu của thân thể, tức là Hội Thánh. Ngài là ban đầu, là trưởng nam của những người sống lại từ cõi chết ngõ hầu trong mọi sự Ngài là đệ nhất. Vì Đức Chúa Trời đã vui lòng để tất cả sự trọn vẹn toàn hảo của Ngài trong Đức Con và qua Đức Con giải hòa muôn loài vạn vật với chính mình, dùng huyết Ngài trên thập tự giá đem lại sự bình an cho vạn vật ở dưới đất hay ở trên trời. Trước kia, anh chị em đã bị xa cách với Đức Chúa Trời, tâm trí anh chị em thù nghịch với Ngài do công việc ác của mình, nhưng bây giờ nhờ Đức Con hy sinh thân báu, Đức Chúa Trời đã giải hòa với anh chị em để trình diện anh chị em trước mặt Ngài, là những người thánh sạch không tì vết, không ai chê trách được, nếu anh chị em tiếp tục duy trì đức tin trên nền tảng chắc chắn, vững vàng, không xê dịch khỏi niềm hy vọng của Phúc Âm mà anh chị em đã nghe. Phúc Âm ấy được công bố cho tất cả vạn vật dưới bầu trời, mà chính tôi, Phao-lô, là người phục vụ. Hiện nay, tôi vui mừng trong khi chịu đau khổ vì anh chị em. Vì thân thể Ngài tức là Hội Thánh, tôi mang đầy trong thân thể mình hoạn nạn còn sót lại của Chúa Cứu Thế. Tôi trở nên người phục vụ của Hội Thánh theo sự phân công của Đức Chúa Trời: Tôi được ủy thác phải trình bày đầy đủ lời của Đức Chúa Trời cho anh chị em, tức là huyền nhiệm đã giấu kín từ bao nhiêu thời đại và thế hệ, nhưng bây giờ được tỏ ra cho các thánh đồ của Chúa. Đức Chúa Trời muốn tỏ cho họ biết vinh quang phong phú của huyền nhiệm đó giữa dân ngoại, tức là Chúa Cứu Thế ở trong anh chị em, là hy vọng về vinh quang. Chúng tôi truyền giảng Chúa Cứu Thế, dùng tất cả sự khôn ngoan để cảnh cáo mọi người, dạy dỗ mọi người, ngõ hầu chúng tôi trình diện mọi người cho Đức Chúa Trời như những người trưởng thành trong Chúa Cứu Thế. Nhằm mục đích ấy, tôi đang lao khổ đấu tranh, nhờ tất cả quyền năng của Ngài đang tác động mạnh mẽ trong tôi. Tôi mong muốn anh chị em biết tôi đã tranh đấu cam go thế nào cho anh chị em, cho các tín hữu Lao-đi-xê và cho tất cả các anh chị em chưa từng gặp mặt tôi, ngõ hầu họ được khích lệ trong lòng và hợp nhất trong tình yêu thương, được tất cả sự phong phú của tri thức chắc chắn mà hiểu thấu huyền nhiệm của Đức Chúa Trời, tức là Chúa Cứu Thế. Trong Ngài ẩn chứa mọi kho tàng của sự khôn ngoan và tri thức. Tôi nói với anh chị em điều ấy để không một ai trong anh chị em bị lừa gạt bởi những lời thuyết phục lôi cuốn. Vì dù thân tôi xa vắng, nhưng tâm linh tôi vẫn hiện diện với anh chị em, tôi vui mừng khi thấy anh chị em giữ vững hàng ngũ trật tự và đức tin vững vàng trong Chúa Cứu Thế. Vậy, vì anh chị em đã tiếp nhận Chúa Cứu Thế Giê-su là Chúa, hãy bước đi trong Ngài, hãy đâm rễ và xây nền trong Ngài, tăng cường đức tin như anh chị em đã được dạy dỗ, và chan chứa lời cảm tạ. Hãy cẩn thận, đừng để ai lường gạt mình với triết lý giả dối và rỗng tuếch dựa vào truyền thống của loài người, theo nguyên tắc của thế gian, chứ không theo Chúa Cứu Thế. Vì trong Ngài tất cả đầy đủ thần tính Đức Chúa Trời ngự trong thân xác, và cũng ở trong Ngài mà anh chị em nhận được sự sống sung mãn. Ngài cầm quyền tối cao trên tất cả các bậc lãnh đạo và giới thẩm quyền. Cũng trong Ngài, anh chị em chịu cắt bì không phải bởi tay con người nhưng được “cắt bì” bởi Chúa Cứu Thế tức là lột bỏ bản chất xác thịt. Khi chịu báp-tem, anh chị em được đồng chôn với Chúa, và trong Ngài anh chị em được đồng sống lại bởi đức tin nơi quyền năng tác động của Đức Chúa Trời, là Đấng đã làm cho Ngài sống lại từ cõi chết. Trước kia, anh chị em đã chết vì các tội ác và vì bản tính xác thịt mình chưa được cắt bì, nhưng Đức Chúa Trời đã cho anh chị em đồng sống lại với Chúa Cứu Thế và tha thứ tất cả các tội ác của chúng ta. Ngài hủy bỏ phiếu nợ ràng buộc chúng ta cùng các quy luật nghịch với chúng ta, dẹp bỏ tất cả và đem đóng đinh tại cây thập tự. Ngài tước quyền các bậc lãnh đạo và giới thẩm quyền, qua thập tự giá Ngài bêu xấu họ và điệu họ đi trong cuộc diễu binh thắng trận của Ngài. Vì thế, đừng để ai đoán xét anh chị em về thức ăn thức uống, về nghi lễ tôn giáo, về lễ trăng mới hay ngày Sa-bát. Những điều ấy chỉ là bóng của những điều sẽ đến, còn hình thật là Chúa Cứu Thế. Đừng để ai lên án anh chị em: Họ tự xưng là trổi hơn anh chị em vì được những khải tượng đặc biệt nhưng lại giả bộ khiêm nhường và thờ lạy các thiên sứ, họ tự tôn tự đại vô lối theo tâm trí xác thịt. Họ dứt liên lạc với Đầu. Nhờ đầu cả thân thể đều được nuôi dưỡng và kết hợp với nhau do các khớp xương, dây chằng và tăng trưởng đúng theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Nếu anh chị em đã chết với Chúa Cứu Thế và được giải thoát khỏi các thần linh đang cai trị thế gian, tại sao anh chị em còn sinh hoạt như người thế gian? Tại sao anh chị em còn giữ những luật lệ: “Chớ lấy, chớ nếm, chớ sờ!” Tất cả những thứ ấy một khi đã dùng đến là băng hoại, theo quy luật và giáo huấn của loài người. Những điều ấy thật có vẻ khôn ngoan vì thờ lạy theo quy tắc con người tự đặt ra, với sự khiêm nhường và khắc khổ thân thể, nhưng không có giá trị gì để kiềm chế đam mê xác thịt. Nếu anh chị em đã được đồng sống lại với Chúa Cứu Thế, hãy tìm kiếm những việc thiên thượng, là nơi Chúa Cứu Thế đang ngự bên phải Đức Chúa Trời. Hãy tập trung tâm trí vào các việc thiên thượng, đừng lo nghĩ những việc trần gian, vì anh chị em đã chết, sự sống mình đã giấu kín với Chúa Cứu Thế trong Đức Chúa Trời. Khi nào Chúa Cứu Thế, là sự sống của chúng ta, hiển hiện, lúc ấy anh chị em cũng sẽ hiển hiện với Ngài trong vinh quang. Vậy, hãy giết chết những dục vọng thuộc về trần tục như gian dâm, ô uế, dục vọng ích kỷ, dục vọng xấu xa, tham lam, tham lam là thờ thần tượng. Vì những điều ấy, cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời sẽ giáng xuống trên những kẻ không vâng phục Ngài. Trước kia, thật ra anh chị em cũng đã làm những điều ấy khi còn sống như vậy. Nhưng bây giờ, anh chị em hãy loại bỏ tất cả những điều ấy, tức là thịnh nộ, tức giận, gian ác, phạm thượng, môi miệng tục tĩu. Đừng nói dối nhau vì đã lột bỏ người cũ và các việc làm của nó, và đã mặc lấy người mới, là con người đang được đổi mới trong sự hiểu biết theo hình ảnh Đấng sáng tạo nó. Vậy, ở đây không còn phân biệt người Hy Lạp hay Do Thái, cắt bì hay không cắt bì, người dã man hay người lạc hậu, người nô lệ hay tự do, nhưng Chúa Cứu Thế là tất cả mọi sự trong mọi người. Vậy, đã là dân được Đức Chúa Trời chọn lựa, thánh hóa và yêu quý, anh chị em hãy mặc lấy lòng thương xót, nhân từ, khiêm tốn, nhu mì và kiên nhẫn. Hãy khoan dung, tha thứ nhau khi anh chị em có điều than phiền nhau, như Chúa đã tha thứ anh chị em, thì anh chị em cũng phải tha thứ. Trên hết các mỹ đức ấy, hãy thêm tình yêu thương, là sợi dây ràng buộc toàn hảo. Hãy để sự bình an của Chúa Cứu Thế ngự trị trong lòng anh chị em. Đức Chúa Trời đã kêu gọi anh chị em hợp nhất trong một thân thể; lại phải biết ơn. Hãy để lời Chúa Cứu Thế sống phong phú trong lòng anh chị em với tất cả sự khôn ngoan. Hãy dạy dỗ, khuyên răn lẫn nhau, hết lòng hát thánh thi, thánh ca, linh khúc với lời cảm tạ để ca ngợi Đức Chúa Trời. Bất cứ điều gì anh chị em làm, dù trong lời nói hay hành động, hãy nhân danh Chúa Giê-su mà làm mọi điều, nhờ Ngài mà tạ ơn Đức Chúa Trời là Cha. Hỡi các người vợ, hãy tùng phục chồng mình, hợp theo nếp sống trong Chúa. Hỡi các người chồng, hãy yêu thương vợ mình, đừng cay nghiệt với nàng. Hỡi các con cái, hãy vâng lời cha mẹ mình trong mọi sự; điều này đẹp lòng Đức Chúa Trời. Hỡi các người cha, đừng chọc giận con cái mình, kẻo chúng nản lòng. Hỡi các tôi tớ, hãy vâng phục chủ ở trần gian trong mọi sự, không phải vâng phục cho người ta thấy để làm đẹp lòng người, nhưng vâng phục với lòng chân thành vì kính sợ Chúa. Bất luận làm gì, hãy tận tâm mà làm, như làm cho Chúa, không phải làm cho người ta, vì biết rằng anh chị em sẽ nhận lãnh từ nơi Chúa cơ nghiệp làm phần thưởng; vì Chúa Cứu Thế chính là Đấng anh chị em phục vụ. Ai làm điều bất chính sẽ bị báo trả xứng đáng, không thiên vị ai. Hỡi các chủ nhân, hãy đối xử với tôi tớ mình cách ngay thẳng và công bình, vì biết rằng anh chị em cũng có Chủ trên trời. Hãy kiên nhẫn cầu nguyện, tỉnh thức trong khi cầu nguyện và tạ ơn. Xin cũng cầu nguyện cho chúng tôi để Đức Chúa Trời mở cửa cho chúng tôi truyền giảng sứ điệp về sự huyền nhiệm của Chúa Cứu Thế, chính vì đó mà tôi bị xiềng xích. Xin cầu nguyện để tôi có thể công bố sứ điệp ấy rõ ràng như tôi phải nói. Hãy đối xử khôn khéo với người ngoài, và tận dụng thì giờ. Lời nói của anh chị em phải có ân hậu và nêm thêm muối ngõ hầu anh chị em biết cách đối đáp với mọi người. Ty-chi-cơ, một anh em yêu dấu, một người phục vụ trung tín và bạn đồng lao trong Chúa, sẽ cho anh chị em biết tin tức về tôi. Tôi sai anh ấy đi chính vì mục đích đó, để cho anh chị em biết tình trạng chúng tôi và để khích lệ lòng anh chị em. Cùng đi có Ô-nê-sim, người em trung tín yêu quý, đồng hương với anh chị em. Hai người ấy sẽ cho tất cả anh chị em biết mọi việc ở đây. A-ri-tạc, bạn tù của tôi kính lời chào anh chị em. Mác, em họ Ba-na-ba cũng vậy, anh chị em đã nhận được chỉ thị về Mác, nếu Mác đến thăm, anh chị em phải tiếp đón người. Giê-su, biệt danh là Giúc-tu cũng kính lời chào anh chị em. Trong những người chịu cắt bì, chỉ có ba người đó là bạn đồng lao cùng phục vụ Nước Đức Chúa Trời với tôi và làm nguồn an ủi cho tôi. Ê-pháp-ra, người đồng hương của anh chị em, đầy tớ của Chúa Cứu Thế Giê-su, kính lời chào anh chị em. Người đã vì anh chị em mà chiến đấu luôn luôn trong sự cầu nguyện để anh chị em đứng vững, trưởng thành và hoàn toàn vững tin trong mọi ý chỉ của Đức Chúa Trời. Tôi xin xác nhận người chịu nhiều khốn khổ vì anh chị em, vì các tín hữu Lao-đi-xê và Hi-ê-ra-bô-li. Lu-ca, vị y sĩ thân yêu và Đê-ma kính lời chào anh chị em. Xin chuyển lời chào thăm anh chị em ở Lao-đi-xê, chị Nim-pha và Hội Thánh đang họp trong nhà chị. Sau khi nghe đọc thư này, xin anh chị em chuyển qua cho Hội Thánh Lao-đi-xê đọc với, để anh chị em cũng được đọc bức thư gởi cho họ. Xin nhắn nhủ A-chíp: “Anh hãy lưu ý chu toàn chức vụ anh đã lãnh từ nơi Chúa!” Tôi là Phao-lô, tự tay tôi viết câu chào thăm này. Xin anh chị em ghi nhớ xiềng xích của tôi. Nguyện xin Chúa ban ân sủng cho anh chị em. Chúng tôi là Phao-lô, Sinh-vanh và Ti-mô-thê,Kính gởi Hội Thánh Tê-sa-lô-ni-ca ở trong Đức Chúa Trời, là Cha và ở trong Chúa Cứu Thế Giê-su. Xin chúc anh chị em được đầy ân sủng và bình an. Chúng tôi hằng cảm tạ Đức Chúa Trời về tất cả anh chị em, thường nhắc đến anh chị em trong khi cầu nguyện. Trước mặt Đức Chúa Trời, Cha chúng ta, chúng tôi nhớ đến công việc anh chị em làm do đức tin, lao khổ anh chị em chịu vì tình yêu thương và lòng kiên trì của anh chị em nhờ hy vọng nơi Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta. Thưa anh chị em, là những người được Đức Chúa Trời yêu quý, chúng tôi biết rằng Đức Chúa Trời đã chọn anh chị em. Vì Phúc Âm chúng tôi đã truyền cho anh chị em không phải chỉ bằng lời nói nhưng bằng quyền năng, nhờ Đức Thánh Linh và đầy lòng tin quyết. Anh chị em biết rõ, khi ở giữa anh chị em, chúng tôi đã sống như thế nào để lợi ích cho anh chị em. Anh chị em cũng đã bắt chước chúng tôi và theo gương Chúa. Dù gặp nhiều hoạn nạn, anh chị em đã đón tiếp Lời Chúa với niềm vui của Đức Thánh Linh. Vì vậy anh chị em trở thành gương tốt cho tất cả tín hữu ở miền Ma-xê-đoan và A-chai. Thật vậy, từ nơi anh chị em Lời Chúa đã vang ra không những ở miền Ma-xê-đoan và A-chai mà thôi nhưng niềm tin anh chị em đặt nơi Đức Chúa Trời cũng được lan truyền khắp mọi nơi, cho nên chúng tôi không cần phải nói thêm gì nữa. Vì chính họ thuật lại thể nào anh chị em đã tiếp đón chúng tôi, thể nào anh chị em đã quay về với Đức Chúa Trời và từ bỏ thần tượng để phục vụ Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật, Và để chờ đợi Con Ngài từ trên trời là Con mà Đức Chúa Trời đã khiến sống lại từ cõi chết, là Đức Giê-su, Đấng giải cứu chúng ta khỏi cơn thịnh nộ sắp đến. Thưa anh chị em, chính anh chị em biết rằng việc anh chị em tiếp đón chúng tôi không phải là vô ích. Nhưng, như anh chị em biết, dù bị đau khổ và sỉ nhục tại Phi-líp chúng tôi vẫn nhờ cậy Đức Chúa Trời chúng ta mạnh dạn truyền Phúc Âm của Đức Chúa Trời cho anh chị em giữa nhiều chống đối. Vì lời kêu gọi của chúng tôi không phải sai lầm, không do động cơ dơ bẩn, không có ý lừa gạt, nhưng vì Đức Chúa Trời đã xác nhận chúng tôi là đáng tin cậy để ủy thác Phúc Âm, nên chúng tôi cứ rao giảng, không phải để làm vừa lòng loài người nhưng đẹp lòng Đức Chúa Trời, là Đấng xem xét lòng chúng tôi. Vì như anh chị em biết, chúng tôi không bao giờ dùng lời xu nịnh, không viện cớ che đậy lòng tham, có Đức Chúa Trời chứng giám. Chúng tôi không bao giờ tìm kiếm vinh quang từ loài người, dù là từ anh chị em hay người khác. Mặc dù với tư cách là sứ đồ của Chúa Cứu Thế chúng tôi có thể đòi anh chị em phải tôn trọng chúng tôi. Trái lại, chúng tôi đã cư xử dịu dàng giữa anh chị em như người mẹ chăm sóc con mình. Chúng tôi yêu mến anh chị em đến nỗi mong ước được chia sẻ cho anh chị em, không những Phúc Âm của Đức Chúa Trời, mà cả đời sống chúng tôi nữa, vì anh chị em đã trở nên những người yêu quý của chúng tôi. Thưa anh chị em, anh chị em còn nhớ công lao khó nhọc của chúng tôi. Trong khi truyền giảng Phúc Âm của Đức Chúa Trời cho anh chị em, chúng tôi đã ngày đêm làm việc để khỏi làm gánh nặng cho một ai trong anh chị em. Có anh chị em và Đức Chúa Trời làm chứng, chúng tôi đã sống giữa anh chị em, là những tín hữu, một cách thanh sạch, công chính và không có gì đáng trách. Anh chị em cũng biết rằng chúng tôi đã đối xử với mỗi người trong anh chị em như cha với con. Chúng tôi đã khuyến khích, an ủi và nài xin anh chị em sống xứng đáng với Đức Chúa Trời, Đấng kêu gọi anh chị em vào Vương Quốc Ngài và hưởng vinh quang với Ngài. Bởi vậy, chúng tôi hằng cảm tạ Đức Chúa Trời, vì khi nghe và tiếp nhận Lời Đức Chúa Trời từ chúng tôi, anh chị em đã đón nhận Lời ấy không phải như lời loài người nhưng thật là Lời Đức Chúa Trời, Lời tác động trong anh chị em, là những tín hữu. Thưa anh chị em, thật vậy, anh chị em đã theo gương các Hội Thánh của Đức Chúa Trời ở miền Giu-đê, là những Hội Thánh trong Chúa Cứu Thế Giê-su. Vì anh chị em đã chịu cùng một nỗi đau khổ do đồng bào mình gây ra, cũng như các Hội Thánh ấy chịu từ người Do Thái; là những người đã giết Chúa Giê-su, giết các tiên tri và đánh đuổi chúng tôi. Họ không đẹp lòng Đức Chúa Trời, thù nghịch với tất cả mọi người; ngăn cản chúng tôi rao giảng cho người ngoại quốc để được cứu rỗi. Họ luôn luôn đầy dẫy tội lỗi nhưng cuối cùng cơn thịnh nộ đã đổ xuống trên họ. Về phần chúng tôi, thưa anh chị em, bấy lâu nay chúng tôi bị xa cách với anh chị em, cách mặt chứ không xa lòng, chúng tôi lại càng tha thiết và rất khao khát được gặp mặt anh chị em. Vì vậy, chúng tôi muốn đến thăm anh chị em, chính tôi, Phao-lô đã mấy lần định đi nhưng quỷ Sa-tan đã ngăn cản chúng tôi. Vì hy vọng, niềm vui và mão hoa vinh dự của chúng tôi trước mặt Chúa Giê-su chúng ta khi Ngài quang lâm là gì? Không phải là chính anh chị em sao? Phải, chính anh chị em là vinh quang và niềm vui của chúng tôi. Vì không thể chờ đợi hơn nữa, chúng tôi đành quyết định ở lại A-then một mình và phái Ti-mô-thê đến thăm anh chị em. Anh là một anh em của chúng tôi, người cùng phục vụ Đức Chúa Trời trong việc truyền giảng Phúc Âm của Chúa Cứu Thế. Anh đến để củng cố và khích lệ đức tin anh chị em. Hầu cho không ai trong anh chị em bị nao núng trong các cơn hoạn nạn này; vì chính anh chị em biết rằng đây là số phận dành cho chúng ta. Thật vậy, khi còn ở cùng anh chị em, chúng tôi đã nói trước cho anh chị em rằng chúng ta sẽ bị hoạn nạn và điều này đã xảy ra như anh chị em biết. Vì vậy, không thể chờ đợi hơn nữa, tôi đã phái Ti-mô-thê đến cho biết đức tin anh chị em như thế nào, e rằng kẻ cám dỗ đã cám dỗ anh chị em và công khó của chúng tôi thành vô ích. Nhưng nay, Ti-mô-thê từ nơi anh chị em trở về cho chúng tôi biết tin mừng về đức tin và tình yêu thương của anh chị em. Anh ấy cũng cho chúng tôi biết rằng anh chị em vẫn luôn luôn giữ kỷ niệm tốt đẹp về chúng tôi và mong ước gặp chúng tôi cũng như chúng tôi ao ước gặp lại anh chị em. Nhờ vậy, thưa anh chị em, tuy gặp phải mọi gian lao, hoạn nạn chúng tôi được khích lệ vì đức tin của anh chị em. Vì hiện nay chúng tôi sống là vì anh chị em đứng vững trong Chúa. Chúng tôi làm sao có thể đủ lời cảm tạ Đức Chúa Trời về anh chị em vì tất cả niềm vui mà nhờ anh chị em chúng tôi có trước mặt Đức Chúa Trời chúng ta. Ngày đêm chúng tôi tha thiết nài xin Ngài cho chúng tôi được thấy mặt anh chị em và bổ sung những gì còn thiếu nơi đức tin của anh chị em. Nguyện xin chính Đức Chúa Trời, Cha chúng ta và xin Đức Giê-su, Chúa chúng ta dẫn đường chúng tôi đến cùng anh chị em. Xin Chúa khiến tình thương của anh chị em tăng thêm và chan chứa đối với nhau và đối với mọi người cũng như tình thương của chúng tôi đối với anh chị em vậy. Xin Chúa làm cho lòng anh chị em vững vàng, thánh khiết, không có gì đáng trách trước mặt Đức Chúa Trời, Cha chúng ta khi Đức Giê-su, Chúa chúng ta quang lâm cùng với tất cả các thánh của Ngài. A-men. Vậy, sau cùng, thưa anh chị em, trong Chúa Giê-su chúng tôi kêu gọi và khuyên anh chị em rằng: Như anh chị em đã học từ chúng tôi thể nào để sống đẹp lòng Đức Chúa Trời và anh chị em đang sống như thế, thì hãy càng tấn tới hơn nữa. Vì anh chị em biết chúng tôi, bởi Chúa Giê-su, đã truyền cho anh chị em những huấn thị nào. Vậy, ý muốn của Đức Chúa Trời là anh chị em phải thánh khiết, tránh gian dâm. Mỗi người phải biết giữ gìn thân thể mình thánh khiết và tôn trọng, chớ chiều theo đam mê dục vọng như những người ngoại đạo không biết Đức Chúa Trời. Đừng ai vi phạm hay lừa gạt anh chị em mình về vấn đề này vì Chúa là Đấng trừng phạt tất cả những điều đó như chúng tôi đã nói trước và cảnh cáo anh chị em. Vì Đức Chúa Trời đã không kêu gọi chúng ta sống ô uế nhưng sống thánh khiết. Cho nên ai bác bỏ lời huấn thị trên thì không phải bác bỏ loài người nhưng khước từ Đức Chúa Trời, Đấng ban Đức Thánh Linh của Ngài cho anh chị em. Còn về tình huynh đệ, anh chị em không cần chúng tôi viết cho anh chị em vì chính anh chị em đã được Đức Chúa Trời dạy hãy yêu thương nhau. Thật ra anh chị em đang làm điều đó cho tất cả anh chị em trong khắp miền Ma-xê-đoan. Tuy nhiên, thưa anh chị em, chúng tôi khuyên anh chị em hãy tấn tới hơn nữa. Hãy cố sống yên lành, chăm lo công việc riêng của mình và tự tay làm việc như chúng tôi đã truyền. Như thế, đời sống anh chị em được người ngoài kính trọng và không thiếu thốn gì cả. Thưa anh chị em, về những người đã ngủ chúng tôi không muốn để anh chị em không biết và đau buồn như những người khác không có hy vọng. Vì nếu chúng ta tin rằng Đức Giê-su đã chết và đã sống lại, thì cũng vậy, Đức Chúa Trời sẽ đem những người đã ngủ trong Đức Giê-su về cùng Ngài. Vậy, theo lời Chúa dạy, chúng tôi nói cho anh chị em biết điều này: Chúng ta là những người đang sống mà còn lại khi Chúa quang lâm, chúng ta sẽ không đi trước những người đã ngủ. Vì khi mệnh lệnh ban ra cùng với tiếng gọi của thiên sứ trưởng và tiếng kèn của Đức Chúa Trời vang lên thì chính Chúa sẽ từ trời giáng xuống. Bấy giờ những người chết trong Chúa Cứu Thế sẽ sống lại trước hết, rồi đến chúng ta là những người đang sống mà còn lại sẽ cùng họ được cất lên trong đám mây để nghênh tiếp Chúa trên không trung. Như vậy, chúng ta sẽ ở cùng Chúa mãi mãi. Thế thì, anh chị em hãy dùng những lời ấy mà an ủi nhau. Thưa anh chị em, về thì giờ và thời kỳ, chúng tôi không cần phải viết cho anh chị em. Vì chính anh chị em biết rõ rằng ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm lúc đêm khuya. Khi người ta tuyên bố: Hòa bình và an ninh thì tai họa sẽ thình lình xảy đến cho họ như cơn đau chuyển bụng sanh xảy đến cho người đàn bà có thai và họ sẽ không trốn thoát được. Nhưng thưa anh chị em, anh chị em không ở trong bóng tối đến nỗi ngày ấy bất ngờ đến với anh chị em như kẻ trộm. Vì tất cả anh chị em đều là con cái của ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về ban đêm hay bóng tối. Vậy, chúng ta không nên ngủ mê như những người khác nhưng hãy cảnh giác và tỉnh thức. Vì ai ngủ thì ngủ ban đêm và ai say sưa thì say sưa ban đêm. Nhưng chúng ta thuộc về ban ngày, hãy tỉnh thức, mặc áo giáp bằng đức tin và tình yêu thương, đội mão bằng hy vọng cứu rỗi. Vì Đức Chúa Trời đã không định cho chúng ta bị cơn thịnh nộ nhưng được hưởng ơn cứu rỗi bởi Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta, Đấng đã chết vì chúng ta để chúng ta dù thức hay ngủ đều được sống với Ngài. Vậy, anh chị em hãy khuyến khích lẫn nhau và xây dựng cho nhau như anh chị em vẫn đang làm. Thưa anh chị em, xin anh chị em quý trọng những người làm việc khó nhọc giữa anh chị em, là những người nhân danh Chúa lãnh đạo và khuyên bảo anh chị em. Hãy lấy tình thương mà tôn kính họ vì công việc họ làm. Anh chị em hãy sống hòa thuận với nhau. Thưa anh chị em, chúng tôi xin anh chị em hãy khuyên bảo những người vô trách nhiệm, khuyến khích những người nhút nhát, nâng đỡ kẻ yếu đuối và kiên nhẫn với mọi người. Hãy cẩn thận, đừng lấy ác báo ác nhưng luôn luôn cố gắng làm điều thiện cho nhau và cho mọi người. Hãy vui mừng mãi mãi; cầu nguyện không ngừng; trong mọi hoàn cảnh, hãy cảm tạ vì đây là ý muốn Đức Chúa Trời cho anh chị em trong Chúa Cứu Thế Giê-su. Chớ dập tắt Thánh Linh, Đừng khinh rẻ lời tiên tri. Hãy xem xét mọi sự, điều gì lành thì hãy giữ lấy, mọi hình thức gian ác thì hãy tránh xa. Nguyện xin chính Đức Chúa Trời bình an thánh hóa anh chị em hoàn toàn. Nguyện tâm linh, tâm hồn và thân thể anh chị em được gìn giữ trọn vẹn, không có gì đáng trách trong ngày Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta quang lâm. Đấng kêu gọi anh chị em là thành tín, chính Ngài sẽ thực hiện điều ấy. Thưa anh chị em, xin anh chị em hãy cầu nguyện cho chúng tôi. Hãy chào tất cả anh chị em trong tình thân ái. Nhân danh Chúa, tôi xin anh chị em hãy đọc thư này cho tất cả anh chị em nghe. Nguyện xin Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta ban ân sủng cho anh chị em. Chúng tôi là Phao-lô, Sin-vanh và Ti-mô-thê,Kính gởi Hội Thánh Tê-sa-lô-ni-ca ở trong Đức Chúa Trời, là Cha chúng ta và ở trong Chúa Cứu Thế Giê-su. Nguyện xin Đức Chúa Trời, Cha chúng ta và Chúa Cứu Thế Giê-su ban ân sủng và bình an cho anh chị em. Thưa anh chị em, chúng tôi phải luôn luôn cảm tạ Đức Chúa Trời vì anh chị em. Đó là điều thật phải lẽ, vì đức tin của anh chị em tăng trưởng nhiều và tình yêu thương của tất cả mỗi người đối với nhau cũng gia tăng. Cho nên chúng tôi rất hãnh diện về anh chị em trong các Hội Thánh của Đức Chúa Trời vì lòng kiên trì và đức tin của anh chị em trong mọi sự bắt bớ và hoạn nạn mà anh chị em đang chịu. Đó là bằng chứng về sự đoán xét công minh của Đức Chúa Trời để anh chị em được coi như xứng đáng với Nước Đức Chúa Trời, chính vì nước đó mà anh chị em chịu khổ. Vì Đức Chúa Trời là Đấng chí công, Ngài ắt sẽ lấy hoạn nạn mà báo trả cho những kẻ gây hoạn nạn cho anh chị em. Và cho anh chị em, những kẻ bị hoạn nạn, được nghỉ ngơi cũng như chúng tôi khi Chúa Giê-su từ trời hiện đến cùng với các thiên sứ quyền năng của Ngài trong ngọn lửa hừng để trừng phạt những kẻ không chịu nhận biết Đức Chúa Trời, những kẻ không vâng phục Phúc Âm của Chúa Giê-su chúng ta. Họ sẽ bị hình phạt hủy diệt đời đời, bị phân cách khỏi sự hiện diện của Chúa và quyền năng vinh quang của Ngài. Vào ngày ấy, khi Ngài đến để được tôn vinh giữa các thánh và được chiêm ngưỡng giữa mọi người đã tin; mà anh chị em là những người trong số đó vì anh chị em đã tin lời chứng của chúng tôi. Cho nên chúng tôi luôn luôn cầu nguyện cho anh chị em để Đức Chúa Trời của chúng ta làm cho anh chị em được xứng đáng với ơn kêu gọi của Ngài, và nhờ năng lực Ngài hoàn tất mọi ước vọng tốt lành cũng như công việc xuất phát từ đức tin. Nhờ thế danh Chúa Giê-su chúng ta được tôn vinh nơi anh chị em, và anh chị em được vinh hiển trong Ngài tùy theo ân sủng của Đức Chúa Trời chúng ta và của Chúa Cứu Thế Giê-su. Thưa anh chị em, về sự quang lâm của Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta và cuộc tụ họp của chúng ta về với Ngài, tôi xin anh chị em chớ vội để tâm trí bối rối hay hoảng sợ chỉ vì một linh ân, một lời giảng dạy hoặc thư từ dường như từ chúng tôi đến nói rằng ngày của Chúa đã đến rồi. Đừng để ai lừa dối anh chị em bằng bất cứ cách nào. Vì sự bội đạo phải đến trước và người đại ác, hiện thân của sự hủy diệt xuất hiện. Hắn chống đối và tôn mình lên trên mọi điều được con người thờ phượng hoặc gọi là thần, đến nỗi vào ngồi trong đền thờ Đức Chúa Trời và tự xưng mình là Đức Chúa Trời. Anh chị em không nhớ sao? Khi còn ở với anh chị em, tôi đã nói những điều này rồi. Hiện nay anh chị em biết rõ điều gì đang cầm giữ để nó chỉ được xuất hiện vào thời kỳ của nó. Vì quyền lực bí mật của tội ác đang hành động rồi nhưng Đấng cầm giữ nó vẫn ngăn giữ cho đến khi Người bị cất đi. Bấy giờ kẻ đại ác sẽ xuất hiện. Hắn là kẻ mà Chúa Giê-su sẽ giết chết bằng hơi thở từ miệng Ngài, và sẽ tiêu diệt bằng ánh hào quang khi Ngài quang lâm. Hắn sẽ nhờ hành động của quỷ Sa-tan mà đến với tất cả quyền năng cũng như dấu lạ, phép mầu giả dối, dùng mọi cách gian ác lừa gạt những người hư mất vì họ từ chối yêu mến chân lý để được cứu rỗi. Vì thế, Đức Chúa Trời cho chúng nó mắc phải lầm lạc để tin tưởng điều giả dối. Như vậy tất cả những người không tin chân lý nhưng ưa thích gian ác đều bị kết án. Thưa anh chị em, những người yêu dấu của Chúa, chúng tôi phải luôn luôn cảm tạ Đức Chúa Trời về anh chị em vì Đức Chúa Trời đã chọn anh chị em từ ban đầu để được cứu rỗi nhờ Thánh Linh thánh hóa và nhờ tin chân lý. Cũng vì thế Ngài đã dùng Phúc Âm của chúng tôi kêu gọi anh chị em để anh chị em được hưởng vinh quang của Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta. Vậy, thưa anh chị em, hãy đứng vững và gìn giữ những truyền thống mà anh chị em đã học với chúng tôi hoặc bằng lời nói hay bằng thư từ. Nguyện xin chính Chúa Cứu Thế Giê-su chúng ta và Đức Chúa Trời, Cha chúng ta là Đấng yêu thương chúng ta; lấy ân phúc mà ban cho chúng ta niềm an ủi vĩnh cửu và hy vọng tốt đẹp. Nguyện Ngài cũng an ủi lòng anh chị em và thêm sức cho anh chị em trong mọi công việc và lời nói tốt lành. Thưa anh chị em, sau cùng, hãy cầu nguyện cho chúng tôi để Lời Chúa được truyền bá nhanh chóng và được tôn vinh như ở giữa anh chị em vậy. Xin cầu nguyện để chúng tôi được giải cứu khỏi những người độc ác và xấu xa; vì không phải mọi người đều có đức tin. Chúa là Đấng thành tín, Ngài sẽ thêm sức cho anh chị em và bảo vệ anh chị em khỏi kẻ ác. Trong Chúa, chúng tôi tin tưởng nơi anh chị em rằng anh chị em đang và sẽ làm những điều chúng tôi truyền. Nguyện xin Chúa hướng dẫn lòng anh chị em hướng về sự yêu mến Đức Chúa Trời và lòng kiên trì trông đợi Chúa Cứu Thế. Thưa anh chị em, nhân danh Chúa Cứu Thế Giê-su chúng ta, chúng tôi truyền cho anh chị em phải xa lánh mọi anh chị em nào sống vô trách nhiệm, không theo truyền thống mà anh chị em đã nhận từ chúng tôi. Chính anh chị em biết rõ phải theo gương chúng tôi làm sao, vì khi ở giữa anh chị em, chúng tôi đã không sống vô trách nhiệm, cũng không ăn bám của ai, nhưng đã làm việc lao lực và khó nhọc ngày đêm để khỏi làm gánh nặng cho một ai trong anh chị em. Không phải vì chúng tôi không có quyền hưởng cấp dưỡng, nhưng để làm gương cho anh chị em noi theo. Vì khi còn ở cùng anh chị em, chúng tôi đã truyền điều này: “Nếu ai không muốn làm việc thì cũng đừng ăn.” Vậy mà chúng tôi nghe rằng trong vòng anh chị em có người sống vô trách nhiệm; không chịu làm việc, chỉ ngồi lê đôi mách. Nhân danh Chúa Cứu Thế Giê-su chúng tôi truyền lịnh và khuyên những người như thế phải yên lặng làm ăn sinh sống. Riêng phần anh chị em, thưa anh chị em, chớ mệt mỏi làm việc thiện. Nhưng nếu có ai không vâng theo lời chúng tôi dặn trong thư này, hãy ghi nhận và đừng giao du với người ấy, để họ biết hổ thẹn. Tuy nhiên, đừng coi người ấy như kẻ thù, nhưng hãy khuyên bảo như anh chị em. Nguyện xin Chúa bình an ban cho anh chị em được luôn luôn an khang về mọi phương diện. Xin Chúa ở cùng tất cả anh chị em. Tôi, Phao-lô, chính tay tôi viết lời chào này. Đó là chữ ký của tôi trong tất cả thư từ, tôi viết như vậy. Nguyện xin ân sủng của Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta ở cùng tất cả anh chị em. Tôi là Phao-lô, sứ đồ của Chúa Cứu Thế Giê-su, theo mệnh lệnh của Đức Chúa Trời là Đấng Cứu Rỗi chúng ta, và theo mệnh lệnh của Chúa Cứu Thế Giê-su là hy vọng của chúng ta, mến gởi Ti-mô-thê, con thật của ta trong đức tin. Nguyện xin Đức Chúa Trời là Cha và Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta ban cho con kinh nghiệm được ân sủng, lòng thương xót và sự bình an của Ngài. Khi qua Ma-xê-đoan, ta khuyên con phải ở lại thành Ê-phê-sô, để răn bảo một số người kia đừng dạy giáo lý sai lạc. Đừng quan tâm đến những chuyện huyền hoặc và gia phả bất tận, vì những thứ đó chỉ gây tranh luận, chẳng ích gì cho chương trình cứu rỗi của Đức Chúa Trời mà chúng ta biết được nhờ đức tin. Con nên răn bảo những người ấy, để khơi dậy trong họ tình yêu thương phát xuất từ tấm lòng trong sạch, lương tâm tốt và đức tin chân thành. Có vài người đi lệch khỏi đường lối ấy nên sa vào những lời bàn vô nghĩa. Họ muốn làm thầy dạy Kinh Luật nhưng chẳng hiểu cả những lời mình nói lẫn những điều mình quả quyết. Chúng ta biết Kinh Luật là tốt, nếu sử dụng cho đúng. Chúng ta thừa hiểu Kinh Luật được đặt ra không phải cho người công chính, nhưng cho người phạm pháp, chống nghịch, vô đạo, tội lỗi, uế tục, phạm thượng, cho kẻ giết cha, giết mẹ, giết người, cho kẻ gian dâm, cho người có tình dục đồng giới, cho kẻ buôn người, nói dối, khai man, hoặc làm bất cứ việc gì trái với đạo lý chân chính, Đó là đạo lý phù hợp với Phúc Âm vinh quang của Đức Chúa Trời phước hạnh, tức là Phúc Âm đã được ủy nhiệm cho ta. Cảm tạ Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta, Đấng đã ban năng lực cho ta, vì Ngài đã tín nhiệm ta, và giao cho ta công tác phục vụ Ngài. Trước đây ta là người phạm thượng, bắt bớ đạo và xấc xược với Ngài, nhưng Ngài đã thương xót ta, vì lúc bấy giờ ta chưa có lòng tin nên chưa ý thức được những việc mình làm. Chúa chúng ta đã ban ân sủng dồi dào cho ta, Ngài ban cho ta đức tin và tình yêu thương mà ta đã nhận được trong sự tương giao với Chúa Cứu Thế Giê-su. Đây là lời đáng tin nhận hoàn toàn: Chúa Cứu Thế Giê-su đã đến trần gian để cứu người tội lỗi, mà ta là người nặng tội nhất. Nhưng ta đã được thương xót chính vì lý do đó. Chính vì ta là kẻ nặng tội nhất, nên Chúa Cứu Thế Giê-su đã bày tỏ lòng nhẫn nhục hoàn toàn đối với ta, để làm gương cho những người sau này tin nhận Ngài mà được sự sống vĩnh phúc. Nguyện Vua muôn đời, là Đức Chúa Trời duy nhất, bất diệt và vô hình được tôn kính và vinh quang đời đời. A-men. Ti-mô-thê, hỡi con, ta căn cứ vào các lời tiên tri về con trước đây mà truyền lời răn bảo này cho con. Con hãy nhớ lại những lời tiên tri ấy mà chiến đấu anh dũng, giữ vững đức tin và lương tâm tốt. Một số người đã chối bỏ lương tâm nên mất đức tin luôn. Trong những người ấy có Hy-mê-nê và A-lịch-sơn, ta đã giao họ cho Sa-tan, để họ học biết đừng phạm thượng nữa. Vậy ta khuyên con, trước hết phải dâng lên Đức Chúa Trời các lời khẩn nguyện, nài xin, cầu thay và tạ ơn cho mọi người, cho các vua, cho tất cả những người có chức có quyền, để chúng ta được sống bình an, yên ổn, kính sợ Chúa hết lòng, và thận trọng giữ gìn tư cách trong mọi sự. Đó là việc tốt và đẹp lòng Đức Chúa Trời, Đấng cứu rỗi chúng ta. Ngài muốn cho mọi người được cứu rỗi và đạt đến sự hiểu biết chân lý. Vì chỉ có một Đức Chúa Trời và một Đấng Trung Gian giữa Đức Chúa Trời và nhân loại, là Chúa Cứu Thế Giê-su, cũng là người. Đúng kỳ hạn ấn định Ngài đã hiến chính mạng sống mình làm giá cứu chuộc mọi người, để chứng tỏ Đức Chúa Trời muốn cho mọi người được cứu rỗi. Chính vì thế mà ta được sai đi làm sứ đồ để rao giảng Phúc Âm, và dạy dỗ các dân ngoại về đức tin và chân lý. Ta nói thật, không nói dối. Vậy, ta muốn người nam khắp nơi đưa tay thánh sạch lên trời cầu nguyện, không giận dữ, không cãi cọ. Cũng vậy, người nữ nên ăn mặc đứng đắn, trang sức giản dị, đoan trang, không làm kiểu tóc cầu kỳ, không đeo vàng ngọc hay chưng diện áo quần đắt tiền, nhưng làm các việc thiện; như thế mới thích hợp với những phụ nữ xưng mình kính sợ Chúa. Phụ nữ nên im lặng học hỏi và vâng phục hoàn toàn. Ta không cho phép người nữ dạy dỗ, hay cầm quyền trên người nam, nhưng phải im lặng. Vì A-đam đã được tạo dựng trước, rồi mới đến Ê-va. A-đam cũng không bị lừa gạt, nhưng người nữ đã bị lừa gạt và phạm tội. Dù vậy, người nữ sẽ được cứu nhờ sinh con cái, miễn là tiếp tục giữ vững đức tin, sống yêu thương, thánh thiện và đoan trang. Đây là lời đáng tin cậy: Nếu ai mong muốn làm giám mục, người đó ước ao một việc tốt đẹp. Vậy, giám mục phải là người không có gì đáng trách, một chồng một vợ, tiết độ, tự chủ, nhã nhặn, hiếu khách, có tài dạy dỗ, không nghiện rượu hoặc hung bạo, nhưng là người hiền hòa, không hay gây gỗ, không tham tiền, khéo quản trị gia đình mình, dạy dỗ con cái biết vâng phục với tất cả lòng tôn kính. Vì người nào không biết quản trị nhà riêng mình, làm sao chăm sóc Hội Thánh của Đức Chúa Trời được? Người mới theo đạo không được làm giám mục, vì có thể kiêu ngạo mà bị kết án như ma quỷ. Giám mục phải được người ngoại đạo làm chứng tốt, để khỏi bị sỉ nhục và sa vào cạm bẫy của ma quỷ. Cũng thế, chấp sự phải là người khả kính, không nói hai lời, không nghiện rượu, không tham lợi phi nghĩa, giữ vững huyền nhiệm của đức tin với lương tâm trong sạch. Họ phải được thử nghiệm trước, nếu không có gì đáng trách, mới được làm chấp sự. Vợ chấp sự cũng vậy, phải đứng đắn, không nói xấu, nhưng tiết độ và trung tín trong mọi việc. Các chấp sự phải là người chỉ có một chồng một vợ, khéo quản trị con cái và gia đình mình. Những chấp sự phục vụ tốt được kính trọng, và nhờ lòng tin vào Chúa Cứu Thế Giê-su nên càng thêm vững vàng khi đến gần Đức Chúa Trời và mạnh mẽ rao truyền Phúc Âm. Ta hy vọng sớm đến thăm con, tuy nhiên, ta viết những điều này cho con phòng khi ta chậm đến, thì con biết cách cư xử trong nhà Đức Chúa Trời, là Hội Thánh của Đức Chúa Trời hằng sống, là cột trụ và nền tảng của chân lý. Không ai có thể phủ nhận mầu nhiệm của Đạo Chúa thật là vĩ đại:Đấng Tạo Hóa đã hiện ra trong thân xác người phàm,Được Thánh Linh tuyên xưng công chính,Được thiên sứ hằng chiêm ngưỡngĐược truyền giảng giữa muôn dân,Được cả thế giới tin nhận,Được cất lên trời trong vinh quang. Đức Thánh Linh phán rõ ràng: Vào thời đại cuối cùng, sẽ có một số người chối bỏ đức tin, chú tâm vào các thần lừa dối và đạo lý của ác quỷ. Họ đi theo những người giả nhân, giả nghĩa, nói dối, có lương tâm chai lì, những người này cấm cưới gả, bắt phải kiêng cữ các thức ăn mà Đức Chúa Trời đã tạo ra cho người tin và hiểu biết chân lý có thể tạ ơn mà nhận lãnh. Tất cả những gì Đức Chúa Trời tạo ra đều tốt đẹp, không có gì đáng bỏ cả, nhưng chúng ta phải biết nhận lãnh với lòng biết ơn, vì lời Đức Chúa Trời và lời cầu nguyện thánh hóa các thứ ấy. Con hãy truyền dạy những điều này cho anh chị em, làm như vậy con mới là một đầy tớ trung tín của Chúa Cứu Thế Giê-su, và chứng tỏ con là người được nuôi dưỡng bằng lời Kinh Thánh, của đức tin và đạo lý chân chính con đã noi theo. Hãy tránh những chuyện huyền hoặc, làm ngược với đức tin, nhưng phải luyện tập lòng tin kính. Thật vậy, sự luyện tập thân thể chỉ ích lợi chút đỉnh còn luyện tập lòng tin kính lại ích lợi mọi bề, vì có lời hứa cho cả đời này lẫn đời sau. Đây là lời đáng tin cậy và đáng được mọi người chấp nhận. Chính vì điều này mà chúng ta lao khổ và chiến đấu, vì chúng ta hy vọng vào Đức Chúa Trời hằng sống, Đấng Cứu Rỗi của toàn thể nhân loại, nhất là các tín hữu. Con hãy khuyên bảo và dạy dỗ những điều đó. Đừng để ai khinh con vì trẻ tuổi, nhưng hãy làm gương cho các tín hữu bằng lời nói, cách xử thế, tình yêu thương, đức tin và nếp sống trong sạch. Trong khi chờ ta đến, con hãy chuyên tâm đọc Kinh Thánh trong các buổi học, khuyến khích và dạy dỗ các tín hữu. Đừng quên, cũng đừng coi thường ân tứ con đang có, là ân tứ Chúa ban cho con qua lời tiên tri, khi các trưởng lão đặt tay trên con. Hãy chú tâm, cẩn thận thực hành những điều ta dạy, để mọi người đều thấy con tiến bộ. Hãy thận trọng trong lối sống và lời giảng dạy của con. Hãy bền chí luyện tập theo lời ta khuyên, vì làm như thế, con và những người nghe con sẽ được cứu. Con không nên nặng lời trách những người lớn tuổi nhưng phải khuyên họ như cha, còn người trẻ tuổi như anh em; cũng khuyên các bà lớn tuổi như mẹ, các thiếu nữ như chị em, với tấm lòng trong sạch hoàn toàn. Con hãy kính trọng mà chăm sóc các bà góa, là những bà góa thật sự không nơi nương tựa. Nếu một bà góa nào có con hay cháu, thì trước nhất con cháu phải học biết tỏ lòng hiếu thảo trong gia đình và báo đền công ơn của ông bà cha mẹ, vì điều đó đẹp lòng Đức Chúa Trời. Một bà góa thật sự là người sống đơn chiếc, đặt tất cả hy vọng của mình vào Đức Chúa Trời, và ngày đêm chuyên tâm khẩn nguyện nài xin. Nhưng bà góa nào còn buông lung theo thú vui thì sống cũng như chết. Vậy, con hãy răn dạy những điều này, để mọi người sống không chỗ trách được. Nhưng nếu có ai không cấp dưỡng cho bà con, nhất là cho gia đình mình, thì kẻ đó đã chối bỏ đức tin, còn tệ hơn người vô tín. Muốn được ghi tên vào danh sách, các bà góa phải đủ sáu mươi tuổi, chỉ có một đời chồng, và được tiếng khen vì những việc lành mình đã làm như là nuôi dạy con cái, tiếp đãi khách lạ, rửa chân các thánh đồ, cứu giúp người cùng khổ, và tận tâm làm đủ mọi việc phước đức. Con hãy từ chối, đừng ghi vào danh sách các bà góa còn trẻ, vì một khi lòng dục lôi cuốn họ sẽ đòi lấy chồng và xây lưng lại với Chúa Cứu Thế. Như vậy, họ sẽ chuốc tội vào mình, vì đã bội lời hứa nguyện ban đầu với Chúa. Họ còn học thói ăn không ngồi rồi, lân la từ nhà này sang nhà khác; chẳng những thế thôi, họ còn lắm chuyện, ngồi lê đôi mách và nói bậy. Vậy, ta muốn các bà góa trẻ nên lấy chồng, sinh con, đảm đương việc nhà, không tạo điều kiện cho kẻ thù có dịp chê trách; vì đã có vài bà trở bước theo Sa-tan. Nếu nữ tín hữu nào có bà góa ở trong nhà, hãy giúp đỡ họ, đừng chất gánh nặng này cho Hội Thánh, để các bà góa bụa thật sự có thể được Hội Thánh giúp đỡ. Các trưởng lão nào khéo lãnh đạo công việc Hội Thánh thì đáng được đãi ngộ gấp đôi, nhất là những người dày công khổ nhọc truyền giảng và dạy dỗ. Vì Kinh Thánh dạy: “Đừng khớp miệng bò đang đạp lúa,” và “công nhân đáng lãnh tiền công.” Đừng bao giờ chấp nhận lời ai đó tố cáo một trưởng lão nào nếu không có hai hoặc ba nhân chứng. Hãy công khai khiển trách kẻ sống trong tội lỗi để làm gương cho người khác thấy đó mà biết sợ. Trước mặt Đức Chúa Trời, Chúa Cứu Thế Giê-su và các thiên sứ được chọn, ta long trọng khuyên con phải vâng giữ những lời giáo huấn này cách vô tư, không làm việc gì vì thành kiến hay thiên vị. Đừng vội đặt tay trên ai để giao cho họ một chức vụ nào trong Hội Thánh, cũng đừng dự phần vào tội lỗi kẻ khác, nhưng phải giữ mình cho trong sạch. Con đừng chỉ uống nước lã nhưng hãy dùng thêm tí rượu nho để giúp cho việc tiêu hóa vì con hay đau yếu. Tội lỗi của một số người thì rõ ràng, ngay trước khi họ bị xét xử, còn tội lỗi của những người khác về sau mới bại lộ. Việc lành cũng vậy, có việc được biết ngay, có việc người ta chưa biết, nhưng không thể giữ kín mãi được. Những người đang mang ách nô lệ nên hết sức tôn trọng chủ mình kẻo Danh Đức Chúa Trời và Đạo Ngài bị xúc phạm. Còn những ai có chủ là tín hữu, không được coi thường chủ vì họ là anh chị em; nhưng lại càng tận tâm phục vụ hơn nữa vì những người được hưởng công khó của mình là tín hữu và là anh chị em yêu quý.Con hãy dạy dỗ và khích lệ họ thực hành các điều này. Nếu có ai dạy những điều khác, không phù hợp với những lời chân chính của Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta, và không phù hợp với Đạo Ngài, là Đạo dạy dỗ chúng ta kính sợ Đức Chúa Trời, thì người ấy đã lên mặt tự kiêu, không hiểu biết gì cả, nhưng có tật ưa tranh luận, và bắt bẻ về lời nói. Do đó sinh ra những chuyện ganh ghét, tranh chấp, phạm thượng, ngờ vực người khác có ác ý, cãi vã xích mích luôn giữa những người có tâm trí bại hoại, không còn biết lẽ thật nữa. Họ lầm tưởng rằng tin theo Đạo là một phương tiện để trục lợi. Thật ra lòng tin kính Chúa kèm theo sự thỏa lòng là một nguồn lợi lớn. Vì chúng ta chào đời chẳng mang gì theo, đến khi qua đời, cũng chẳng đem gì đi được, nên một khi đủ ăn, đủ mặc thì hãy thỏa lòng. Còn những kẻ ham làm giàu thì sa vào chước cám dỗ, mắc vào cạm bẫy của nhiều dục vọng dại dột và tai hại. Chính những dục vọng này đẩy người ta vào cảnh hủy hoại, diệt vong. Mê tham tiền bạc là cội rễ của mọi điều ác; cũng vì đeo đuổi tiền bạc mà một số người đã lầm lạc, lìa bỏ đức tin, và bản thân họ bị nhiều nỗi đau khổ xâu xé. Nhưng hỡi con, là người của Đức Chúa Trời, con phải xa lánh những điều đó; hãy đeo đuổi nếp sống công chính và tin kính; hãy trau dồi đức tin, lòng yêu thương, tính kiên nhẫn và nhu mì. Hãy vì đức tin mà chiến đấu anh dũng để giữ vững sự sống vĩnh phúc. Đức Chúa Trời đã kêu gọi con nhận sự sống ấy khi con mạnh dạn tuyên xưng đức tin trước mặt nhiều nhân chứng. Trước mặt Đức Chúa Trời là Đấng ban sự sống cho muôn loài, và trước mặt Chúa Cứu Thế Giê-su là Đấng đã làm chứng trước tòa thống đốc Bôn-ti Phi-lát khi Ngài mạnh dạn tuyên xưng đức tin, ta truyền bảo con phải vâng giữ lời răn dạy này mà sống cách toàn hảo, không tì vết, không chỗ trách được cho đến ngày Chúa chúng ta là Chúa Cứu Thế Giê-su quang lâm. Chúa Cứu Thế sẽ xuất hiện đúng thời điểm Đức Chúa Trời ấn định. Đức Chúa Trời là Chúa tể duy nhất, là Đấng ban mọi phước lành, là Vua trên muôn Vua, Chúa trên muôn chúa. Chỉ mình Ngài sống mãi, không hề chết. Ngài ngự trong ánh sáng không ai có thể đến gần được. Chưa người nào từng thấy Ngài, cũng không ai có thể thấy Ngài được. Ngài được tôn kính mãi mãi, và uy quyền Ngài còn đến muôn đời. A-men. Con hãy truyền bảo những người giàu có ở đời này đừng tự kiêu, đừng đặt hy vọng nơi của cải phù vân, nhưng phải đặt hy vọng vào Đức Chúa Trời là Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta được hưởng. Họ phải làm điều lành, phải giàu có trong việc thiện, phải sống rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ cho người khác, như vậy, họ tồn trữ cho mình một kho báu làm nền tảng vững chắc cho tương lai, để được sự sống thật. Hỡi Ti-mô-thê, con hãy gìn giữ điều ủy thác cho con. Hãy tránh những lời phàm tục tầm phào và những cuộc tranh luận mạo xưng là tri thức; có những người chủ trương đeo đuổi loại tri thức giả tạo ấy mà lạc mất đức tin.Nguyện xin ân sủng Chúa ở cùng anh chị em! Tôi là Phao-lô, sứ đồ của Chúa Cứu Thế Giê-su do ý chỉ Đức Chúa Trời, với trách nhiệm rao truyền sự sống Đức Chúa Trời hứa ban cho chúng ta trong Chúa Cứu Thế Giê-su. Mến gửi Ti-mô-thê, con yêu dấu của ta. Nguyện xin Đức Chúa Trời là Cha và Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta, ban cho con kinh nghiệm được ân sủng, lòng thương xót và sự bình an của Ngài. Ta tạ ơn Đức Chúa Trời là Đấng ta phụng sự với lương tâm trong sạch như tổ tiên ta đã làm. Ta nhớ mãi không bao giờ quên con mỗi khi ta khẩn nguyện ngày đêm; nhớ dòng nước mắt của con, nên mong sớm gặp mặt con để được đầy dẫy niềm vui thỏa. Ta cũng nhớ lại đức tin chân thành của con, là đức tin mà chính bà ngoại con là cụ Lô-ít, rồi đến mẹ con là bà Ơ-nít đã có trước con, và ta tin chắc con cũng đang có đức tin ấy. Vì lý do đó, ta nhắc con khơi dậy ân tứ Đức Chúa Trời ban cho con khi ta đặt tay trên con. Vì Thánh Linh Đức Chúa Trời ban cho chúng ta không làm cho chúng ta nhút nhát, nhưng trái lại, Thánh Linh Ngài khiến chúng ta nên mạnh mẽ, giàu tình thương và biết tự chủ. Vậy nên, con đừng hổ thẹn trong việc rao giảng về Chúa chúng ta, cũng chớ xấu hổ vì việc ta bị xiềng xích giam cầm vì Ngài nhưng hãy dựa vào quyền năng Đức Chúa Trời mà cùng ta chịu khổ vì Phúc Âm. Đức Chúa Trời là Đấng Cứu Rỗi chúng ta. Ngài kêu gọi chúng ta trở nên dân thánh của Ngài, không phải căn cứ vào công đức của chúng ta, nhưng do chính kế hoạch và ân sủng của Ngài. Từ trước vô cùng Đức Chúa Trời đã ban ân sủng đó cho chúng ta qua trung gian Chúa Cứu Thế Giê-su; và ngày nay, ân sủng đó thể hiện qua sự giáng sinh của Chúa Cứu Thế Giê-su, Đấng Cứu Chuộc chúng ta. Chính Ngài đã hủy diệt quyền lực của sự chết và ban cho chúng ta Phúc Âm sáng chói về sự sống đời đời. Đức Chúa Trời đã sai ta đi làm sứ đồ để loan báo và giảng dạy Phúc Âm. Chính vì lý do đó mà ta chịu khổ như ngày nay. Tuy nhiên, ta chẳng bao giờ hổ thẹn vì ta biết Đấng ta đang tin, chắc chắn Ngài thừa khả năng bảo vệ điều ta ủy thác cho đến Ngày Phán Xét sau cùng. Những lời chân chính con nghe ta dạy, con hãy noi theo đó làm mẫu mực; cũng hãy đứng vững trong đức tin và tình yêu thương chúng ta nhận được trong sự tương giao với Chúa Cứu Thế Giê-su. Hãy nhờ Đức Thánh Linh đang ngự trong chúng ta mà giữ trọn những điều tốt lành đã được ủy thác cho con. Con biết rằng tất cả mọi người ở Tiểu-á đã lìa bỏ ta, có cả Phi-ghen và Hẹt-mô-ghen nữa. Cầu xin Chúa tỏ lòng thương xót gia đình Ô-nê-si-phô-rơ vì anh ấy thường khích lệ ta, chứ chẳng bao giờ hổ thẹn khi thấy ta bị xiềng xích giam cầm. Vừa khi đến thành Rô-ma, anh ấy đã vội vã đi tìm ta cho đến khi gặp được. Cầu xin Chúa thương xót anh trong ngày phán xét sau cùng! Con cũng thừa biết khi còn ở tại Ê-phê-sô, anh ấy đã từng phục vụ ta mọi mặt. Vậy, hỡi con ta, hãy nhờ ân sủng của Chúa Cứu Thế Giê-su làm cho mình mạnh mẽ. Những điều con đã nghe ta dạy trước nhiều nhân chứng, hãy truyền lại cho những người trung tín, để họ có khả năng huấn luyện người khác. Hãy cùng ta chịu gian khổ như một người lính giỏi của Chúa Cứu Thế Giê-su. Ai vào quân đội rồi không được vương vấn đời sống dân sự nữa; có vậy mới đẹp lòng người tuyển mộ mình. Cũng thế, lực sĩ nào tranh tài, phải tranh tài đúng thể lệ mới được thưởng mão hoa chiến thắng. Người nông phu làm ruộng khó nhọc đáng phải là người được hưởng hoa lợi trước nhất. Con hãy nghiền ngẫm điều ta nói, rồi Chúa sẽ cho con hiểu thấu mọi sự. Hãy nhớ rằng Chúa Cứu Thế Giê-su đã chết và sống lại. Ngài vốn thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Đó là Phúc Âm ta rao giảng. Vì Phúc Âm đó mà ta chịu gian khổ đến nỗi mang xiềng xích như một tội phạm; nhưng Đạo Đức Chúa Trời chẳng bao giờ bị xiềng xích đâu. Vậy nên, ta chịu đựng mọi gian khổ chính vì những người được Chúa chọn để họ được cứu rỗi trong Chúa Cứu Thế Giê-su và hưởng vinh quang đời đời. Đây là lời đáng tin cậy.Nếu chúng ta đồng chết với Ngài,Chúng ta sẽ đồng sống với Ngài; Nếu chúng ta chịu gian khổ,Chúng ta sẽ đồng trị với Ngài;Nếu chúng ta chối bỏ Ngài,Ngài cũng sẽ chối bỏ chúng ta, Nhưng nếu chúng ta thất tín,Ngài vẫn thành tínVì Ngài không thể nào tự chối bỏ mình. Con nhắc nhở họ những điều này. Trước mặt Đức Chúa Trời, con hãy cảnh cáo họ đừng cãi nhau về từ ngữ, vì chẳng ích lợi gì, chỉ có hại cho người nghe. Con hãy chuyên tâm phục vụ cho được đẹp lòng Đức Chúa Trời, như người làm công không có gì phải hổ thẹn, thẳng thắn dạy lời chân lý. Nhưng hãy tránh những lời phàm tục tầm phào, vì những kẻ ăn nói như thế ngày càng đi sâu vào đường bất kính. Lời nói của họ như ung nhọt lở loét, trong số những người này có Hy-mê-nê và Phi-lét. Họ lạc mất chân lý, dám nói sự sống lại đã xảy ra rồi, mà phá đổ đức tin của một số người. Tuy nhiên nền móng kiên cố của Đức Chúa Trời đã đặt vẫn còn vững chắc nên đã có đóng ấn lời này: “Chúa biết những người thuộc về Ngài” và “phàm ai đã kêu cầu Danh Chúa phải tránh xa điều ác.” Trong một ngôi nhà lớn không phải chỉ có những đồ vật bằng vàng và bạc, nhưng cũng có đồ vật bằng gỗ, bằng sành nữa; có thứ dùng cho việc sang, cũng có thứ dùng cho việc bình thường. Nếu ai tẩy mình cho sạch những điều gian ác vừa kể ở trên thì sẽ trở nên một đồ vật dùng cho việc sang, dành riêng cho chủ xử dụng. Người đó được thánh hóa, có ích cho chủ, và được chuẩn bị sẵn sàng để làm mọi việc lành. Con phải tránh xa các đam mê của tuổi trẻ, nhưng hãy hiệp cùng những người kêu cầu Chúa với tấm lòng trong sạch mà đeo đuổi nếp sống công chính, trau dồi đức tin, tình yêu thương và giữ gìn sự bình an trong tâm trí. Đừng tham dự vào những cuộc tranh luận điên dại và ngu xuẩn vì biết rằng chúng chỉ sinh ra tranh chấp mà thôi. Tôi tớ Chúa không nên tranh chấp nhưng phải đối xử hòa nhã với mọi người. Phải có khả năng dạy dỗ, biết nhịn nhục, và mềm mại sửa dạy những kẻ chống đối, mong rằng Đức Chúa Trời ban cho họ lòng ăn năn sám hối để nhận biết chân lý, và họ tỉnh ngộ, thoát khỏi cạm bẫy ma quỷ đã dùng để giam giữ và bắt họ làm theo ý nó. Con nên biết trong thời kỳ cuối cùng sẽ có những giai đoạn khó khăn. Vì sẽ có những người vị kỷ, tham tiền, khoe khoang, kiêu căng, ăn nói phạm thượng, không vâng lời cha mẹ, vong ân bội nghĩa, không tôn trọng thần thánh, không tình nghĩa, bất nhân, vu khống, không tiết độ, tàn bạo, thù ghét điều lành, phản phúc, liều lĩnh, tự phụ, thích vui chơi hơn là yêu mến Đức Chúa Trời, giữ hình thức tin kính bề ngoài, nhưng lại chối bỏ quyền năng của đức tin. Con hãy xa lánh những người như thế. Trong bọn đó, có mấy kẻ lẻn vào nhà quyến rũ các phụ nữ nhẹ dạ, đầy ắp mặc cảm tội lỗi, bị đủ thứ đam mê lôi cuốn. Các bà này lúc nào cũng muốn học hỏi, nhưng chẳng bao giờ hiểu được chân lý. Ngày xưa, Gian-nết và Giam-bê chống đối Môi-se thể nào thì những người này cũng chống đối chân lý thể ấy. Họ có tâm trí hư hỏng, đức tin họ không chịu nổi thử thách. Nhưng họ không thể tiếp tục phá hoại được nữa; vì mọi người nhận thấy rõ ràng sự điên dại của họ, cũng như trường hợp hai người chống đối kia. Riêng phần con, con đã theo sát ta, và con biết lời dạy dỗ, nếp sống, chí hướng của ta; con đã thấy đức tin, lòng kiên nhẫn, tình yêu thương và sự chịu đựng của ta; con biết những cảnh bắt bớ và những nỗi khổ đau ta đã gặp, như những chuyện đã xảy ra cho ta tại thành An-ti-ốt, I-cô-ni, và Lít-tra. Ta đã chịu đựng những cảnh bắt bớ dường ấy, nhưng Chúa đã giải thoát ta khỏi tất cả. Thật vậy, tất cả những ai muốn sống cuộc đời tin kính trong Chúa Cứu Thế Giê-su đều phải chịu bắt bớ. Còn những kẻ gian ác, bịp bợm sẽ ngày càng tệ hại hơn, lường gạt người ta rồi bị lường gạt lại. Về phần con, hãy tiếp tục kiên trì trong những điều con đã học và tin quyết, vì biết con đã học với ai. Từ khi còn thơ ấu, con đã biết Kinh Thánh có khả năng khiến con khôn ngoan để được cứu bởi đức tin trong Chúa Cứu Thế Giê-su. Cả Kinh Thánh đều được Đức Chúa Trời thần cảm, có ích cho việc dạy dỗ chân lý, bác bỏ điều sai trái, sửa chữa lỗi lầm, đào luyện con người sống công chính, hầu cho người của Đức Chúa Trời được trang bị đầy đủ và sẵn sàng để làm mọi việc lành. Trước mặt Đức Chúa Trời và trước mặt Chúa Cứu Thế Giê-su, là Đấng sẽ phán xét kẻ sống và kẻ chết, khi Ngài trở lại làm vua tể trị vũ trụ, ta long trọng truyền bảo con: Hãy kiên trì rao giảng lời Chúa, dù gặp thời hay không, hãy thuyết phục, khiển trách, khích lệ với tất cả lòng kiên nhẫn để giáo huấn. Vì sẽ đến thời kỳ người ta không chịu nhận giáo lý chân chính, nhưng chiều theo dục vọng mà quy tụ nhiều giáo sư quanh mình để dạy những điều êm tai. Họ ngoảnh tai đi không chịu nghe chân lý nhưng lại hướng về chuyện hoang đường. Nhưng phần con, hãy luôn luôn sáng suốt, bình tĩnh, chịu đựng gian khổ, làm trọn công việc của một người truyền giảng Phúc Âm và chu toàn nhiệm vụ trong thiên chức mình. Về phần ta, mạng sống ta đang bị đổ ra làm tế lễ, giờ qua đời của ta gần rồi. Ta đã chiến đấu anh dũng trong trận mạc, đã hoàn tất cuộc chạy đua và giữ vững đức tin. Hiện nay, ta đang đợi mão hoa chiến thắng dành cho người công chính mà Chúa là vị Thẩm Phán công minh sẽ trao cho ta trong ngày phán xét cuối cùng; chẳng những cho ta thôi đâu, nhưng cũng cho mọi người yêu mến và trông đợi sự quang lâm của Ngài. Con hãy cố gắng đến với ta thật gấp, vì Đê-ma lìa bỏ ta rồi, tại người ham mê đời này nên đã qua Tê-sa-lô-ni-ca. Cơ-rê-sen thì đi Ga-la-ti, còn Tích qua Đan-ma-ti. Chỉ còn Lu-ca ở với ta. Con hãy đem Mác theo vì Mác giúp ích ta trong chức vụ. Ta đã sai Ty-chi-cơ đi Ê-phê-sô. Khi con đến, nhớ đem chiếc áo choàng ta để lại tại nhà Ca-bút ở thành Trô-ách, và các cuộn sách, nhất là các cuộn bằng da thuộc. A-lịch-sơn, người thợ rèn đã làm hại ta nhiều nên Chúa sẽ báo ứng anh ta tùy theo việc anh làm. Con cũng phải đề phòng người đó, vì hắn kịch liệt chống đối lời chúng ta rao giảng. Khi ta tự biện hộ lần thứ nhất tại tòa, chẳng có ai bênh vực ta; tất cả đều bỏ rơi ta. Cầu xin Chúa đừng quy tội này cho họ. Nhưng Chúa tiếp tục đứng bên cạnh và ban thêm sức cho ta, để ta rao giảng Phúc Âm cách rõ ràng, đầy đủ, cho mọi dân ngoại đều nghe. Chúa cũng đã cứu ta thoát khỏi hàm sư tử. Chúa sẽ còn giải thoát ta khỏi mọi điều ác, và đem ta về an toàn trong Nước Thiên Đàng của Ngài. Nguyện xin Ngài được vinh quang đời đời vô cùng A-men. Ta gửi lời chào thăm anh chị Bê-rít-sin và A-qui-la, và gia đình Ô-nê-si-phô-rơ. Ê-rát ở lại Cô-rinh-tô. Ta phải để Trô-phim ở lại Mi-lê vì người bị bệnh. Con hãy cố gắng đến đây trước mùa đông! Ưu-bô-lư, Phô-đen, Li-nút và Cơ-lau-đia gửi lời chào thăm con. Tất cả anh chị em khác cũng vậy. Nguyện xin Chúa ở cùng tâm linh con! Nguyện xin ân sủng Chúa ở cùng anh chị em! Tôi là Phao-lô, tôi tớ của Đức Chúa Trời và sứ đồ của Chúa Cứu Thế Giê-su, nhằm mục đích giúp đỡ đức tin những người được Đức Chúa Trời chọn, và giúp cho sự nhận biết chân lý, là điều đem lại nếp sống tin kính trong niềm hy vọng sống vĩnh phúc mà Đức Chúa Trời, Đấng không hề nói dối, đã hứa từ trước khi có thời gian. Vào đúng thời kỳ, Ngài bày tỏ Lời Ngài qua việc truyền giảng Phúc Âm đã được ủy nhiệm cho tôi theo lệnh của Đức Chúa Trời, Đấng cứu rỗi chúng ta. Mến gởi Tích, con thật của ta trong đức tin chung. Nguyện xin Đức Chúa Trời là Cha và Chúa Cứu Thế Giê-su, Đấng Cứu Thế của chúng ta ban ân sủng và bình an cho con. Lý do ta để con ở lại đảo Cơ-rết là để con sắp đặt những việc còn lại và lập các trưởng lão trong mỗi thành như ta đã dặn bảo con. Trưởng lão phải là người không có gì đáng trách, một chồng một vợ, con cái đều tin Chúa chứ không bị tố cáo là phóng đãng hay ngỗ nghịch. Vì giám mục, người quản lý nhà Đức Chúa Trời, phải là người không có gì đáng trách, không kiêu căng, không nóng tính, không nghiện rượu, không hung bạo, không tham lam lợi lộc, nhưng là người hiếu khách, yêu chuộng điều thiện, tiết độ, ngay thẳng, sùng kính, tự chủ, giữ vững giáo huấn của đạo đáng tin cậy, để nhờ đạo lý chân chính, có khả năng khuyên bảo hay bác bỏ những kẻ chống đối. Vì có nhiều kẻ bất phục tùng, lời nói hư không vô nghĩa và lừa gạt, nhất là những kẻ trong nhóm người cắt bì. Cần phải bịt miệng họ lại. Họ vì lợi lộc thấp hèn, dạy những điều không đáng dạy, phá hoại toàn thể gia đình một số người. Chính một tiên tri của họ đã nói: “Người Cơ-rết hay nói láo, là thú dữ, ham ăn và lười biếng.” Lời đó thật đúng. Vậy, con hãy nghiêm khắc khiển trách họ, để họ được vững chắc trong đức tin; không quan tâm đến những huyền thoại Do Thái, và các điều răn của những người khước từ chân lý. Đối với người trong sạch, tất cả đều trong sạch, nhưng đối với kẻ bại hoại vô tín, thì chẳng có gì trong sạch cả. Thật ra, cả tâm trí lẫn lương tâm của họ đều bại hoại. Họ tự xưng là người biết Đức Chúa Trời, nhưng lại chối bỏ Ngài trong các hành động của mình. Thật là những kẻ đáng ghê tởm, bất phục tùng và không thể làm một việc gì tốt lành cả. Nhưng con phải dạy những điều đúng theo đạo lý chân chính. Hãy dạy dỗ các bô lão phải chừng mực, nghiêm trang, tiết độ và vững vàng trong đức tin, trong tình yêu thương và kiên nhẫn; các bà lão cũng thế, phải sống cách kỉnh kiền, không được nói xấu, không nghiện rượu, nhưng biết dạy dỗ điều lành. Như thế họ có thể huấn luyện phụ nữ trẻ tuổi biết yêu chồng, thương con, tiết độ, trong trắng, đảm đương việc nhà, nhân từ, tùng phục chồng mình để Đạo của Đức Chúa Trời không bị xúc phạm. Các thanh niên cũng thế, con hãy khuyên họ sống tiết độ. Trong mọi việc, chính con phải làm gương về các việc lành; khi dạy dỗ phải trung thực, nghiêm trang, lời nói lành mạnh, không thể trách được, để kẻ chống đối con phải bị hổ thẹn, không thể nào nói xấu chúng ta điều gì. Con hãy dạy các nô lệ phải phục tùng chủ mình trong mọi việc, làm hài lòng chủ, chứ đừng cãi trả, đừng ăn cắp, nhưng tỏ ra đáng tín nhiệm hoàn toàn, để đạo lý của Đức Chúa Trời, Đấng cứu rỗi chúng ta, được rạng rỡ trong mọi cách. Vì ân sủng của Đức Chúa Trời đã được bày tỏ, đem sự cứu rỗi đến cho mọi người. Ân ấy dạy chúng ta phải từ bỏ tinh thần không tin kính và các dục vọng phàm tục, phải sống tiết độ, công chính và tin kính trong đời này, đang khi trông đợi niềm hy vọng phước hạnh và sự xuất hiện vinh quang của Đức Chúa Trời vĩ đại, là Đấng Cứu Thế của chúng ta, Chúa Cứu Thế Giê-su. Đấng đã dâng hiến chính mình cho chúng ta, để cứu chuộc chúng ta khỏi mọi điều gian ác và tẩy sạch để biến chúng ta thành một dân tộc thuộc riêng về Ngài, một dân sốt sắng làm các việc lành. Đó là những điều con phải dạy dỗ, khích lệ và khiển trách với tất cả uy quyền; đừng để một ai khinh dể con. Hãy nhắc nhở các tín hữu phải vâng phục các nhà lãnh đạo và chính quyền, vâng lời họ, sẵn sàng làm mọi việc lành. Không được nói xấu ai, nhưng phải tỏ sự hòa nhã, dịu dàng, hết sức nhu mì đối với mọi người. Vì đã có một thời chúng ta cũng ngu muội, bất phục tùng, bị lầm lạc, làm nô lệ cho đủ thứ dục vọng và khoái lạc, sống trong gian ác, ghen tị, đáng ghét và ganh ghét lẫn nhau. Nhưng khi Đức Chúa Trời, Đấng cứu rỗi chúng ta, bày tỏ lòng nhân từ và tình thương đối với loài người thì Ngài cứu chúng ta không phải vì những việc công chính chúng ta làm, nhưng vì lòng thương xót của Ngài. Chúa cứu chúng ta bằng việc rửa sạch do sự tái sinh và sự đổi mới bởi Đức Thánh Linh. Ngài đổ Đức Thánh Linh tràn đầy xuống trên chúng ta qua Chúa Cứu Thế Giê-su, Đấng Cứu Thế của chúng ta. Như thế, được tuyên xưng công chính nhờ ân sủng của Ngài, chúng ta trở nên người kế tự trong niềm hy vọng sống vĩnh cửu. Đây là lời đáng tin cậy. Ta muốn con nhấn mạnh những điều đó để người đã tin Đức Chúa Trời kiên quyết tham gia vào những việc tốt lành. Đó là những điều tốt lành và ích lợi cho mọi người. Nhưng con hãy tránh những cuộc tranh luận điên dại, những vấn đề gia phả, những tranh chấp, xung đột về kinh luật, vì các điều ấy vô ích và hư không. Hãy cảnh cáo một hai lần người gây chia rẽ, rồi lánh xa họ, vì biết rằng hạng người như thế đã lầm lạc mà cứ phạm tội thì đã tự kết án cho mình. Khi ta sai A-tê-ma hoặc Ti-chi-cơ qua gặp con, con hãy mau đến ngay với ta ở Ni-cô-bô-li vì ta định ở lại đó qua mùa đông. Hãy hết sức giúp đỡ luật sư Xê-na và ông A-bô-lô khi họ lên đường, đừng để họ thiếu thốn gì cả. Các anh chị em của chúng ta cũng phải học tham gia vào những việc tốt đẹp để đáp ứng các nhu cầu cần yếu và như thế họ sẽ không sống một cuộc đời thiếu kết quả. Tất cả những người đang ở với ta tại đây gởi lời thăm con. Xin gởi lời thăm những anh chị em yêu mến chúng tôi trong niềm tin.Nguyện xin ân sủng ở với toàn thể anh chị em. Tôi là Phao-lô, bị tù vì Chúa Cứu Thế Giê-su, cùng với người anh em là Ti-mô-thê,Mến gởi anh Phi-lê-môn yêu quý, cũng là đồng lao của chúng tôi, chị A-phi, người chị của chúng tôi, anh A-chíp, chiến hữu của chúng tôi, cùng hội thánh họp tại nhà anh. Nguyện xin Đức Chúa Trời, Cha chúng ta và Chúa Cứu Thế Giê-su ban ân sủng và bình an cho anh chị em. Tôi luôn luôn tạ ơn Đức Chúa Trời mỗi khi nhắc đến anh trong khi cầu nguyện. Tôi được nghe về đức tin của anh nơi Chúa Giê-su và tình yêu thương anh bày tỏ cho tất cả các thánh đồ. Tôi cầu xin rằng lòng rộng lượng từ đức tin của anh sẽ giúp anh hiểu biết sâu xa hơn tất cả những phúc lành mà chúng ta có trong Chúa Cứu Thế. Thật vậy, tôi rất vui mừng và được khích lệ vì tình yêu thương của anh, bởi vì, thưa anh, nhờ anh, lòng các thánh đồ được phấn khởi. Cho nên, dù trong Chúa Cứu Thế, tôi có quyền truyền bảo anh về việc anh nên làm, nhưng tôi thà lấy tình yêu thương nài xin anh thì hơn. Tôi là Phao-lô, một người đã già rồi, nay lại còn bị tù vì Chúa Cứu Thế Giê-su. Tôi xin anh giúp cho đứa con mà tôi sinh trong cảnh ngục tù, đó là Ô-nê-sim. Trước kia đối với anh, nó thật là vô dụng nhưng bây giờ đã trở nên hữu dụng cho anh lẫn cho tôi: Tôi xin gởi nó về với anh, nó là tấm lòng của tôi vậy. Về phần tôi, tôi muốn giữ nó lại, để nó thay anh phục vụ tôi trong khi tôi bị xiềng xích vì truyền giảng Phúc Âm. Nhưng tôi không muốn làm gì khi chưa được anh đồng ý để công việc tốt đẹp anh làm là việc tự nguyện chứ không phải ép buộc. Nó đã rời xa anh ít lâu, có lẽ là để anh nhận nó lại mãi mãi, không phải nhận lại như một nô lệ nhưng hơn hẳn một nô lệ, như người anh em thân yêu, rất thân yêu đối với tôi, huống chi đối với anh thì càng thân yêu hơn biết bao! Cả về tình người lẫn tình trong Chúa. Vậy, nếu anh xem tôi là bạn đồng đạo, thì xin anh hãy tiếp nhận nó như tiếp nhận chính mình tôi. Nếu nó có làm thiệt hại hay mắc nợ anh điều gì, anh cứ tính cho tôi. Tôi, Phao-lô, chính tay tôi viết điều này, tôi sẽ hoàn lại cho anh; còn anh mắc nợ tôi về chính bản thân anh thì không nhắc đến. Vâng, thưa anh, xin anh giúp tôi hưởng được niềm vui ấy trong Chúa và làm cho lòng tôi phấn khởi trong Chúa Cứu Thế. Tôi viết thư này cho anh, vì tôi tin rằng anh sẽ nghe theo và tôi cũng biết rằng anh sẽ làm hơn những điều tôi yêu cầu nữa. Nhân thể, xin anh chuẩn bị chỗ trọ cho tôi, vì tôi hy vọng, nhờ anh chị em cầu nguyện, tôi sẽ được trở về với anh chị em. Ê-pháp-ra, người bạn tù của tôi trong Chúa Cứu Thế Giê-su xin gởi lời thăm anh. Mác, A-ri-tạc, Đê-ma, và Lu-ca là các bạn đồng lao của tôi cũng vậy. Nguyện xin Chúa Cứu Thế Giê-su ban đầy ân sủng trên tâm linh anh chị em. Ngày xưa, Đức Chúa Trời đã dùng các tiên tri phán dạy tổ phụ chúng ta nhiều lần, nhiều cách. Đến những ngày cuối cùng này, Đức Chúa Trời lại phán dạy chúng ta bởi Đức Con mà Ngài đã lập lên kế thừa vạn vật; cũng qua Con ấy, Ngài đã sáng tạo vũ trụ. Con là phản ảnh của vinh quang Ngài, là dấu ấn của bản thể Ngài. Dùng lời quyền năng mình, Ngài duy trì vạn vật. Sau khi hoàn thành cuộc thanh tẩy tội lỗi, Con ngồi bên phải Đấng Tôn Nghiêm trên các tầng trời. Con Ngài cao quý hơn các thiên sứ, như danh vị Con thừa hưởng cũng cao hơn danh vị của các thiên sứ vậy. Vì có bao giờ một thiên sứ nào được Đức Chúa Trời bảo:“Ngươi là Con Ta,Ngày nay ta đã sinh ngươi” hoặc“Ta sẽ làm Cha ngườiVà người sẽ làm Con Ta.” Lại nữa, khi đưa Con Trưởng Nam vào trần gian, Đức Chúa Trời phán:“Tất cả các thiên sứ của Đức Chúa Trời hãy thờ lạy Con!” Nói về thiên sứ, Ngài bảo:“Ngài sáng tạo các thiên sứ như trận gióVà các đầy tớ Ngài như ngọn lửa” Nhưng nói về Con, Ngài phán:“Hỡi Đức Chúa Trời, Ngôi Ngài tồn tại đời đời,Vương trượng công chính là vương trượng của vương quốc Ngài. Chúa yêu chuộng công chính và ghét vô đạo.Nên Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời của Chúa đã xức dầu vui mừng cho Chúa,Đặt Chúa cao cả hơn các đồng bạn Ngài.” Đức Chúa Trời cũng phán:“Chúa ơi, ban đầu Chúa xây nền móng cho quả đất,Các tầng trời là công trình tạo tác của bàn tay Chúa. Trời đất sẽ tiêu tan nhưng Chúa vẫn vĩnh hằng.Tất cả đều sẽ cũ mòn như chiếc áo. Chúa sẽ cuốn chúng lại như chiếc áo choàng,Chúng sẽ thay đổi như y phụcNhưng Chúa vẫn y nguyên,Các năm của Chúa sẽ không bao giờ cùng.” Có bao giờ Đức Chúa Trời phán bảo một thiên sứ:“Con hãy ngồi bên phải TaCho đến khi ta bắt các kẻ thù ConLàm bệ dưới chân Con?” Không phải tất cả các thiên sứ là các thần phục dịch được sai đi hầu hạ những người sẽ được thừa hưởng ơn cứu rỗi sao? Vậy, ta càng phải lưu ý hơn nữa đến những điều đã nghe, để khỏi bị trôi lạc. Vì nếu sứ điệp của các thiên sứ là chắc chắn và mỗi kẻ phạm pháp, bất tuân đều bị trừng phạt công minh, thì ta làm sao thoát khỏi nếu coi thường ơn cứu rỗi vĩ đại đến thế? Ơn cứu rỗi ấy được Chúa truyền dạy từ ban đầu, rồi được những người đã nghe xác nhận cho chúng ta. Đức Chúa Trời cũng xác chứng bằng các dấu lạ, phép mầu, nhiều thứ phép lạ và các ân tứ Thánh Linh mà Ngài phân phối theo ý muốn mình. Vì Đức Chúa Trời không đặt thế giới tương lai mà chúng ta nói đây dưới quyền các thiên sứ, nhưng một câu trong Kinh Thánh đã chứng quyết rằng: “Loài người là gì mà Chúa nhớ đến.Con loài người là chi mà Chúa lưu ý. Chúa đặt con người thấp hơn các thiên sứ một chút.Chúa đội cho con người mão hoa vinh quang, danh dự Và đặt mọi vật dưới chân người.”Khi đặt mọi vật dưới chân người, Đức Chúa Trời không chừa gì cả. Nhưng hiện nay, chúng ta chưa thấy con người khắc phục vạn vật. Nhưng chúng ta lại thấy Đức Giê-su, dù được đặt thấp hơn các thiên sứ một chút, nay lại đội mão hoa vinh quang, danh dự vì Ngài đã chịu chết, để bởi ân sủng Đức Chúa Trời, Ngài chết thay cho mọi người. Vì Đức Chúa Trời là cứu cánh và nguồn gốc của vạn vật, khi muốn đem nhiều con cái đến vinh quang, đã hành động thật đúng là khiến Đấng Tác Giả của sự cứu rỗi được hoàn hảo qua các thống khổ. Cả Đấng thánh hóa và những người được thánh hóa đều là con một Cha. Vì thế, Đức Giê-su không thẹn mà gọi họ là anh chị em, Ngài phán:“Con sẽ công bố danh Chúa cho anh chị em con.Giữa hội chúng, Con sẽ ca ngợi Chúa: ‘Ta sẽ tin cậy Ngài.’” và“Tôi đây, với con cái Đức Chúa Trời ban cho tôi.” Như thế, vì con cái dự phần vào huyết và thịt nên Ngài cũng dự phần như vậy, để khi chịu chết, Ngài có thể tiêu diệt kẻ thống trị sự chết là quỷ vương và giải phóng những người vì sợ chết phải làm nô lệ suốt đời. Dĩ nhiên, Ngài không giúp đỡ các thiên sứ nhưng giúp đỡ dòng dõi Áp-ra-ham. Vì lý do đó, Ngài phải trở nên giống như anh em Ngài trong mọi mặt để làm vị thượng tế, đầy lòng thương xót và thành tín trước mặt Đức Chúa Trời để đền tội cho dân chúng. Vì chính Ngài đã chịu khổ khi bị cám dỗ nên mới có thể giúp đỡ những người bị cám dỗ. Vậy thưa anh chị em thánh, là những người được hưởng ơn kêu gọi từ trời, anh chị em hãy tập trung tư tưởng vào Đức Giê-su là sứ giả và vị thượng tế mà chúng ta xưng nhận. Ngài trung tín với Đấng đã lập Ngài lên cũng như Môi-se trung tín trong cả nhà Đức Chúa Trời. Đức Giê-su được vinh quang hơn Môi-se cũng như người xây nhà được vinh dự hơn cái nhà. Nhà nào cũng có người xây cất, còn Đức Chúa Trời là Đấng dựng nên vạn vật. Môi-se trung tín trong cả nhà Đức Chúa Trời như một người đầy tớ và làm chứng về những điều sẽ được loan báo trong tương lai. Nhưng Chúa Cứu Thế thì trung tín như con trai quản trị nhà Đức Chúa Trời. Nhà Đức Chúa Trời chính là chúng ta nếu chúng ta giữ vững lòng tin cậy và tự hào trong niềm hy vọng của mình cho đến cuối cùng. Vậy nên, như Thánh Linh phán dạy:“Ngày nay, nếu các ngươi nghe tiếng Ngài, Thì đừng cứng lòngNhư tổ phụ các ngươi đã khiêu khích Đức Chúa TrờiTrong ngày thử thách tại đồng hoang, Ở đó họ thử nghiệm Ta mặc dù đã chứng kiếnCông việc Ta làm trong bốn mươi năm. Nên Ta nổi giận với thế hệ đóMà bảo rằng: ‘Chúng luôn luôn lầm lạc trong lòng,Không biết đến đường lối Ta.’” Nên Ta đã thề trong cơn thịnh nộ:“Chúng sẽ chẳng được vào sự an nghỉ Ta.” Thưa anh chị em, hãy thận trọng để không một ai trong anh chị em có lòng gian ác và vô tín đến nỗi lìa bỏ Đức Chúa Trời hằng sống. Nhưng cứ khuyến cáo nhau hằng ngày đang khi còn được gọi là “ngày nay” để không một ai bị tội lỗi lừa gạt mà cứng lòng, vì chúng ta được dự phần với Chúa Cứu Thế nếu chúng ta giữ vững niềm tin cậy ban đầu của mình cho đến cuối cùng! Như Kinh Thánh dạy:“Ngày nay, nếu các ngươi nghe tiếng NgàiThì đừng cứng lòngNhư tổ phụ các ngươi trong cuộc khiêu khích Đức Chúa Trời.” Ai đã nghe tiếng Đức Chúa Trời rồi lại khiêu khích Ngài? Không phải tất cả những người được Môi-se đem ra khỏi Ai-cập sao? Đức Chúa Trời nổi giận với ai trong bốn mươi năm? Không phải những kẻ phạm tội phải bỏ xác trong đồng hoang sao? Ngài thề với ai rằng: “Chúng sẽ chẳng được vào sự an nghỉ Ta?” Nếu không phải là những kẻ không vâng phục. Và chúng ta thấy rằng họ không thể vào được vì lòng vô tín. Vậy, chúng ta hãy kính sợ kẻo có ai trong anh chị em bị rớt lại trong khi lời hứa cho vào sự an nghỉ của Ngài vẫn còn hiệu lực. Vì chúng ta cũng được nghe truyền giảng Phúc Âm như họ được nghe ngày trước, nhưng sứ điệp họ nghe chẳng có lợi ích gì vì họ đã không kết hợp với đức tin khi nghe. Còn chúng ta đã tin cậy nên được vào sự an nghỉ, đúng như Ngài đã phán:“Ta đã thề trong cơn thịnh nộ:‘Chúng sẽ chẳng được vào sự an nghỉ Ta.’”Dù công việc của Ngài đã hoàn tất từ khi sáng tạo vũ trụ. Trong Kinh Thánh có chỗ nói về ngày thứ bảy như sau: “Và ngày thứ bảy, Đức Chúa Trời nghỉ tất cả các công việc mình.” Cũng vấn đề này, Ngài lại phán: “Chúng sẽ chẳng được vào sự an nghỉ Ta.” Vậy vẫn còn một số người sẽ được vào sự an nghỉ đó, và những người trước kia được nghe Phúc Âm nhưng không được vào đó vì không vâng phục. Nên Đức Chúa Trời lại ấn định một ngày khác gọi là “ngày nay,” vì sau một thời gian dài Ngài phán dạy qua Đa-vít như đã nói ở trên:“Ngày nay, nếu các ngươi nghe tiếng NgàiThì đừng cứng lòng.” Nếu Giô-suê thật cho họ an nghỉ, thì sau khi đó Đức Chúa Trời đã không phán về một ngày khác. Thế thì vẫn còn sự an nghỉ ngày thứ bảy cho dân Đức Chúa Trời, vì người nào vào sự an nghỉ đó thì nghỉ các công việc mình cũng như Đức Chúa Trời đã nghỉ công việc của Ngài. Vậy, chúng ta hãy gắng sức vào sự an nghỉ đó, để không một ai sa ngã vì theo gương những kẻ không vâng phục. Vì lời của Đức Chúa Trời là lời sống và đầy năng lực, sắc bén hơn mọi gươm hai lưỡi, xuyên thấu, đến nỗi phân chia hồn với linh, khớp với tủy, xét đoán các tư tưởng, và ý định trong lòng người. Không có tạo vật nào che giấu được Đấng Tạo Hóa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mắt Ngài là Đấng chúng ta phải báo cáo mọi việc. Vậy, vì chúng ta có vị thượng tế vĩ đại đã vượt qua các tầng trời là Đức Giê-su, Con Đức Chúa Trời, nên chúng ta hãy giữ vững niềm tin; vì chúng ta không có một vị thượng tế chẳng có thể cảm thông sự yếu đuối chúng ta, nhưng vị thượng tế này đã chịu cám dỗ đủ mọi mặt cũng như chúng ta song không hề phạm tội. Vậy, chúng ta hãy vững lòng đến gần ngai ân sủng, để được thương xót và tìm được ân sủng khả dĩ giúp đỡ chúng ta kịp thời. Mỗi thượng tế đều được lựa chọn giữa loài người, và được bổ nhiệm để thay loài người mà lo những việc phụng sự Đức Chúa Trời, để dâng lễ vật và sinh tế đền tội. Vì người cũng yếu đuối mọi mặt nên có thể thông cảm đúng mức với những kẻ ngu muội và lầm lạc. Chính vì đó, người phải dâng tế lễ vì tội mình cũng như vì tội của dân chúng. Không một ai tự dành cho mình vinh dự làm thượng tế nhưng người được Đức Chúa Trời kêu gọi, như A-rôn chẳng hạn. Cũng vậy Chúa Cứu Thế không tự tôn vinh mình mà làm thượng tế, nhưng Đức Chúa Trời phán bảo Ngài:“Ngươi là Con Ta.Ngày nay, Ta đã sinh ngươi.” Ngài lại phán trong một nơi khác:“Con là vị tế lễ đời đời,Theo dòng Mên-chi-xê-đéc” Trong những ngày sống trong xác thịt, Đức Giê-su đã lớn tiếng dâng những lời cầu nguyện, nài xin với nước mắt lên Đấng có quyền cứu mình khỏi chết, và vì lòng thành kính nên được nhậm lời. Dù là Con, Ngài cũng phải học tập vâng lời trong những điều thống khổ Ngài đã chịu. Khi hoàn tất rồi, Ngài trở nên nguồn cứu rỗi đời đời cho tất cả những người vâng phục Ngài, và Ngài được Đức Chúa Trời chỉ định làm thượng tế theo dòng Mên-chi-xê-đéc. Về vấn đề này, chúng ta có nhiều điều cần phải nói, nhưng khó giải thích vì anh chị em nghe mà chậm hiểu. Thật ra, đáng lẽ bây giờ anh chị em đã thành giáo sư rồi, thế mà anh chị em vẫn cần có người dạy những điều sơ học về lời Đức Chúa Trời. Anh chị em cần ăn sữa thay vì thức ăn đặc. Ai phải bú sữa thì vẫn còn thơ ấu, chưa biết Đạo công chính. Nhưng thức ăn đặc dành cho người trưởng thành là người nhờ thực hành mà luyện tập được khả năng phân biệt thiện, ác. Vì thế, chúng ta hãy từ bỏ bài học vỡ lòng về đạo lý của Chúa Cứu Thế mà tiến lên bậc trưởng thành, tức là không cần phải đặt lại nền móng cho giáo lý ăn năn từ bỏ những công việc chết, đức tin nơi Đức Chúa Trời, giáo huấn về phép báp-tem, lễ đặt tay, sự sống lại của người chết và sự phán xét đời đời. Đây là điều chúng ta sẽ làm nếu Đức Chúa Trời cho phép. Những người từng được soi sáng, từng nếm ân tứ thiên thượng, từng dự phần về Thánh Linh, từng kinh nghiệm lời tốt lành của Đức Chúa Trời cũng như các quyền năng của đời tương lai. Nếu họ sa ngã thì không thể nào phục hồi để ăn năn trở lại; họ đã tự mình đóng đinh Con Đức Chúa Trời một lần nữa và công khai sỉ nhục Ngài. Vì đất mà được mưa dồi dào đượm nhuần, sinh cây cỏ ích lợi cho người canh tác thì nhận được phúc lành từ Đức Chúa Trời. Nhưng nếu sinh gai gốc, chà chuôm thì đất trở thành vô giá trị, gần bị rủa sả và cuối cùng bị thiêu đốt. Thưa anh chị em thân yêu, dù nói thế, chúng tôi tin chắc rằng trường hợp của anh chị em thì tốt đẹp hơn, là những điều tốt đẹp cặp theo sự cứu rỗi. Vì Đức Chúa Trời đâu có bất công mà quên công tác của anh chị em và lòng yêu thương anh chị em đã tỏ ra vì danh Ngài khi phục vụ các thánh đồ và hiện nay vẫn còn phục vụ. Nhưng chúng tôi mong muốn mỗi người trong anh chị em cũng bày tỏ lòng nhiệt thành như thế, để nhận thức được sự bảo đảm đầy đủ về niềm hy vọng cho đến cuối cùng, để anh chị em đừng biếng nhác, nhưng noi gương những người đã hưởng trọn lời hứa bởi đức tin và lòng kiên nhẫn. Khi Đức Chúa Trời hứa với Áp-ra-ham, vì không thể chỉ ai lớn hơn mình nên Ngài chỉ chính mình Ngài mà thề rằng: “Chắc chắn Ta sẽ ban phúc lành cho con và gia tăng dòng dõi con.” Áp-ra-ham đã kiên nhẫn nên nhận được điều Chúa hứa. Người ta thường nhân danh một vị lớn hơn mình mà thề nguyện, nếu có việc tranh chấp thì kết cuộc lấy lời thề mà xác định. Đức Chúa Trời cũng thế, muốn càng chứng tỏ mục đích không thay đổi của Ngài cho những người thừa hưởng lời hứa, Ngài đã xác nhận bằng lời thề. Để nhờ hai điều không thay đổi đó, là những điều Đức Chúa Trời không thể nào nói dối mà chúng ta, những người trốn vào nơi ẩn náu, được khích lệ mạnh mẽ, nắm lấy niềm hy vọng đặt trước mặt mình. Chúng ta có hy vọng nầy như cái neo vững vàng bền chặt của linh hồn, đi vào bên trong bức màn, là nơi thánh Đức Giê-su đã ngự vào, như Đấng Tiên Phong đại diện chúng ta, khi Ngài trở nên vị thượng tế đời đời, theo dòng Mên-chi-xê-đéc. Mên-chi-xê-đéc này là vua của Sa-lem, vị thượng tế của Đức Chúa Trời chí cao, đã đi đón và chúc phước cho Áp-ra-ham khi người chiến thắng các vua trở về. Áp-ra-ham dâng cho vua một phần mười mọi vật. Trước hết, tên Mên-chi-xê-đéc có nghĩa là vua công chính, cũng là vua của Sa-lem nghĩa là vua hòa bình. Người không cha, không mẹ, không gia phả, không có ngày sinh ngày tử; như Con Đức Chúa Trời, làm thượng tế đời đời. Thử nghĩ xem tổ Áp-ra-ham đã dâng phần mười chiến lợi phẩm cho vua thì vua vĩ đại biết bao! Một mặt Kinh Luật quy định cho các vị tế lễ con cháu Lê-vi được thu phần mười của dân chúng, tức là anh chị em mình dù họ cũng là hậu tự Áp-ra-ham. Mặt khác, Mên-chi-xê-đéc dù không phải dòng họ Lê-vi nhưng được thu phần mười của Áp-ra-ham và chúc phước cho ông là người có lời hứa. Người nhỏ được người lớn hơn chúc phước là việc dĩ nhiên. Trong trường hợp này, những người thu nhận phần mười cũng đều là người phàm phải chết cả. Trong trường hợp kia, người ấy được chứng nhận là vẫn còn sống. Vậy, có thể nói Lê-vi, người được thu phần mười sau này đã dâng phần mười qua Áp-ra-ham, vì khi Mên-chi-xê-đéc gặp Áp-ra-ham, Lê-vi còn ở trong lòng tổ phụ. Nếu có thể nhờ chức vị tế lễ của Lê-vi mà được toàn hảo, vì trên căn bản tế lễ ấy Kinh Luật đã được ban hành cho dân chúng, thì tại sao còn cần một vị tế lễ khác dấy lên theo dòng Mên-chi-xê-đéc chứ không theo dòng A-rôn? Vì đã thay đổi chức vị tế lễ thì cũng buộc phải thay đổi Kinh Luật. Đấng được những lời trên nói đến lại thuộc về một chi tộc khác, trong chi tộc ấy không có ai dự phần tế lễ nơi bàn thờ. Rõ ràng Chúa chúng ta xuất thân từ chi tộc Giu-đa, một chi tộc không được Môi-se nói gì về chức tế lễ. Vấn đề càng thêm hiển nhiên nếu có một vị tế lễ giống như Mên-chi-xê-đéc xuất hiện, được lập làm vị tế lễ không căn cứ theo luật lệ, điều răn của thể xác nhưng theo quyền năng sự sống bất diệt. Vì có lời xác chứng:“Con làm vị tế lễ đời đờiTheo dòng Mên-chi-xê-đéc.” Luật lệ cũ bị phế bỏ vì yếu kém, vô hiệu. Vì Kinh Luật không làm cho điều gì toàn hảo được cả nên một niềm hy vọng tốt hơn được giới thiệu, nhờ đó chúng ta được đến gần Đức Chúa Trời. Hơn nữa, còn có lời thề. Các vị tế lễ khác nhậm chức chẳng có lời thề, nhưng Ngài được lập làm vị tế lễ với lời thề khi Đức Chúa Trời bảo Ngài:“Chúa đã thềVà không bao giờ đổi ýCon làm vị tế lễ đời đời...” Vì lời thề đó, Đức Giê-su trở thành đấng bảo đảm cho một giao ước tốt hơn. Mặt khác, số vị tế lễ thật nhiều, vì phải chết nên không thể nào tiếp tục nhiệm vụ. Còn Đức Giê-su tồn tại đời đời nên giữ chức vị tế lễ mãi mãi. Do đó, Ngài có thể cứu rỗi hoàn toàn những người nhờ Ngài mà đến với Đức Chúa Trời vì Ngài hằng sống để cầu thay cho họ. Phải là vị thượng tế như thế mới thích hợp với chúng ta, một đấng thánh khiết, toàn thiện, không ô uế, tách biệt với những người tội lỗi, vượt cao hơn các tầng trời; không giống các thượng tế khác cần phải hằng ngày dâng các sinh tế trước vì tội mình, sau vì tội dân. Ngài làm việc này một lần đủ cả, dâng hiến chính bản thân làm sinh tế. Vì Kinh Luật cứ lập những người yếu kém làm thượng tế, nhưng lời thề đến sau Kinh Luật thì lập Con Ngài làm thượng tế, là Đấng được toàn hảo đời đời. Đại ý những điều vừa nói là chúng ta có một vị thượng tế như thế, đang ngồi bên phải ngai uy nghiêm trên các tầng trời, và đang phục vụ trong nơi thánh là đền thật do Chúa dựng lên, không do loài người xây cất. Mỗi thượng tế đều được lập lên để dâng lễ vật và sinh tế, nên thượng tế này cũng cần dâng một vật gì. Nếu chỉ ở dưới đất, thì Ngài không làm thượng tế vì đã có những người dâng tế lễ theo Kinh Luật. Họ phục vụ trong một đền thờ nhưng đó chỉ là cái bản sao và hình bóng của những vật trên trời, nên Môi-se đã được nhắc nhở khi sắp dựng đền tạm: “Con hãy cẩn thận làm tất cả mọi sự đúng theo khuôn mẫu đã chỉ cho con trên núi!” Nhưng hiện nay, Đức Giê-su nhận lãnh một chức vụ cao quý hơn của các thượng tế cũng như giao ước mà Ngài là Đấng Trung Gian cao quý hơn giao ước cũ vì giao ước này được lập trên các lời hứa tốt đẹp hơn. Vì nếu giao ước thứ nhất đã toàn hảo, thì không cần tìm kiếm giao ước thứ hai. Nhưng Đức Chúa Trời đã hạch tội họ rằng:Chúa phán:“Này, sẽ đến ngày ta lậpVới nhà Y-sơ-ra-ênVà nhà Giu-đaMột giao ước mới. Không theo giao ướcMà ta đã lập với tổ phụ họTrong ngày ta cầm tay họDắt ra khỏi Ai-cập,Vì họ không tiếp tục giữ giao ước Ta,Nên ta bỏ mặc họ.Chúa phán vậy.” Vì đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Y-sơ-ra-ên:“Sau những ngày đó, Chúa phán:Ta sẽ ban Kinh Luật Ta trong trí họ,Và sẽ ghi khắc vào lòng họ,Ta sẽ làm Đức Chúa Trời của họVà họ sẽ làm dân Ta. Không ai còn phải dạy cho công dân mình,Cũng không ai bảo anh chị em mình rằng:‘Hãy nhận biết Chúa’ nữa, vì tất cả đều sẽ biết Ta,Từ kẻ nhỏ nhất đến người lớn nhất. Ta sẽ thương xót các sự bất chính của họVà không còn nhớ đến tội lỗi họ nữa.” Đã gọi là “giao ước mới,” thì Ngài đã làm cho giao ước thứ nhất thành cũ kỹ, và cái gì cũ kỹ già nua thì sắp tiêu biến đi. Giao ước thứ nhất có các luật lệ phụng vụ và một nơi thánh dưới đất. Một đền tạm đã được dựng lên: Phần thứ nhất có chân đèn, bàn và bánh trưng bày trên bàn thờ, gọi là nơi thánh. Đàng sau bức màn thứ nhì có một phần gọi là nơi chí thánh, có bàn thờ dâng hương bằng vàng và rương giao ước bọc toàn vàng, chứa một bình bằng vàng đựng ma-na, cây gậy trổ hoa của A-rôn và các bảng đá giao ước. Bên trên rương có các Chê-ru-bim vinh quang che phủ nắp thi ân; nhưng đây không phải là lúc nói từng chi tiết về các vật đó. Khi mọi thứ này đã xếp đặt xong như thế, một mặt các thầy tế lễ thường xuyên được vào phần thứ nhất của đền tạm để hành lễ phụng vụ. Mặt khác, một mình vị trưởng tế mỗi năm một lần được vào phần thứ nhì, mang huyết theo để dâng tế lễ đền tội cho mình và cho dân chúng ngộ phạm. Đức Thánh Linh dùng điều này để chứng tỏ rằng một khi đền tạm trước vẫn còn thì đường vào nơi chí thánh chưa khai thông. Đây là ví dụ về thời hiện tại, theo đó các lễ vật và sinh tế dâng hiến không đủ khả năng làm lương tâm của người phụng vụ toàn hảo. Đó chỉ là các món ăn, thức uống và các lễ tẩy rửa khác nhau, là các luật lệ xác thịt, áp dụng cho đến thời kỳ cải cách. Khi Chúa Cứu Thế xuất hiện làm vị thượng tế của những sự thiện hảo hiện có, Ngài đi suốt qua đền thờ vĩ đại hơn và toàn hảo không do bàn tay người xây dựng, tức là không thuộc về thế giới thọ tạo này. Ngài không dùng huyết của dê đực hay bò con nhưng dùng chính huyết Ngài mà bước vào nơi chí thánh một lần đủ cả và được sự chuộc tội đời đời. Vì nếu huyết của dê đực và bò đực cùng tro bò cái tơ đem rảy trên người ô uế còn thánh hóa họ cho được thanh sạch về thân xác, thì huyết Chúa Cứu Thế là Đấng nhờ Thánh Linh đời đời dâng hiến chính mình Ngài như một sinh tế không tì vết cho Đức Chúa Trời càng có hiệu lực muôn phần hơn, để thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những công việc chết để phụng vụ Đức Chúa Trời hằng sống. Vì thế, Ngài là Đấng trung gian của giao ước mới; như thế những người được kêu gọi có thể thừa hưởng cơ nghiệp đời đời Ngài đã hứa, vì Ngài đã chịu chết để chuộc họ khỏi những tội ác họ đã phạm dưới giao ước thứ nhất. Trong trường hợp lập chúc thư, cần phải chứng tỏ người lập chúc thư đã chết, vì lẽ chúc thư chỉ có giá trị khi người đã chết, nếu người lập chúc thư còn sống thì nó không hiệu lực. Do đó, giao ước thứ nhất cũng phải dùng huyết mà thiết lập. Sau khi công bố mọi điều răn của Kinh Luật cho toàn dân, Môi-se lấy huyết của bò con và dê đực với nước, rồi dùng dây len đỏ và cành bài hương rảy lên cả cuốn sách lẫn dân chúng, mà nói: “Đây là huyết giao ước mà Đức Chúa Trời đã truyền cho các ngươi tuân giữ!” Cả đền tạm cũng như tất cả khí dụng phụng vụ đều được ông rảy huyết như thế. Theo Kinh Luật, hầu hết mọi vật đều được tẩy thanh bằng huyết, vì không đổ huyết thì không có sự tha tội. Vậy, nếu các bản sao của các vật trên trời đều cần được thanh tẩy bằng các sinh tế thì các vật trên trời cần phải có sinh tế tốt hơn. Vì Chúa Cứu Thế không ngự vào một nơi thánh do bàn tay người xây dựng, mô phỏng theo nơi thánh thật, nhưng Ngài ngự vào chính thiên đàng, để bây giờ xuất hiện đại diện chúng ta trước mặt Đức Chúa Trời. Ngài cũng không vào đó để dâng chính mình hết lần này đến lần khác như các vị trưởng tế phải vào nơi chí thánh hằng năm, dâng huyết không phải của họ. Nếu thế, từ khi sáng tạo vũ trụ, Ngài đã phải chịu thống khổ nhiều lần rồi. Nhưng bây giờ, Ngài xuất hiện chỉ một lần vào thời kỳ cuối cùng, hy sinh chính mình để tiêu trừ tội lỗi. Như đã được ấn định, loài người phải chết một lần, sau đó phải chịu xét đoán. Vậy Chúa Cứu Thế đã hy sinh một lần để xóa bỏ tội lỗi của nhiều người. Ngài sẽ xuất hiện lần thứ nhì, không phải để gánh tội lỗi nữa, nhưng để cứu rỗi những người trông đợi Ngài. Kinh Luật chỉ là cái bóng của những việc tốt lành sắp đến, chứ không phải là thực thể của sự vật, nên chẳng bao giờ làm cho những người đến gần để thờ phụng được toàn hảo bằng cách cứ tiếp tục dâng cùng một thứ sinh tế năm này sang năm khác. Nếu được, thì họ đã chấm dứt việc dâng tế lễ rồi, vì người thờ phượng tất đã được thanh tẩy một lần đủ cả, đâu còn ý thức mình có tội nữa! Nhưng các tế lễ đó hằng năm nhắc nhở về tội lỗi, vì không thể nào dùng huyết bò đực và dê đực mà cất bỏ tội lỗi được. Vậy nên, khi vào trần gian, Chúa Cứu Thế đã tuyên bố:“Chúa không muốn sinh tế, lễ vậtNhưng đã chuẩn bị một thân thể cho tôi, Chúa chẳng bằng lòngTế lễ thiêu hay sinh tế chuộc tội. Bấy giờ, tôi nói: ‘Đây, tôi đến; trong Kinh Sách đã chép về tôi.’Lạy Đức Chúa Trời, tôi đến để thực hành ý định của Ngài.” Trước hết, Ngài nói Chúa không muốn cũng chẳng bằng lòng sinh tế, lễ vật, tế lễ thiêu, hay sinh tế chuộc tội, là những điều phải dâng hiến theo Kinh Luật. Rồi Ngài tiếp: “Đây, tôi đến để thực hành ý định của Chúa.” Ngài dẹp bỏ điều trước để thiết lập điều sau. Theo ý định ấy, chúng ta được thánh hóa nhờ sự dâng hiến thân thể của Chúa Cứu Thế Giê-su một lần đầy đủ tất cả. Một bên, các thượng tế đứng phụng vụ ngày này qua ngày khác, dâng cùng một thứ sinh tế không có khả năng cất bỏ tội lỗi. Bên kia, một Đấng dâng chỉ một sinh tế chuộc tội cho đến đời đời, rồi ngự trị bên phải Đức Chúa Trời. Từ đó, Ngài chờ đợi cho đến khi các kẻ thù nghịch bị làm bệ dưới chân Ngài. Vì dâng một tế lễ duy nhất, Ngài làm hoàn hảo vĩnh viễn những người được thánh hóa. Đức Thánh Linh cũng xác chứng điều này với chúng ta, vì sau khi phán: “Đây là giao ước Ta sẽ thiết lập với họ,Sau thời kỳ đó, Chúa phán,Ta sẽ đặt Kinh Luật ta trong lòng họVà ghi khắc vào tâm trí họ.” Ngài tiếp:“Ta sẽ chẳng bao giờ nhớ lại tội lỗi họVà các việc gian ác của họ nữa!” Nơi nào tội lỗi đã được tha thứ, thì không còn dâng tế lễ đền tội nữa. Vậy, thưa anh chị em, vì chúng ta vững tâm bước vào nơi chí thánh nhờ huyết Đức Giê-su, qua con đường mới và sống mà Ngài đã mở xuyên qua bức màn, nghĩa là xuyên qua thân xác Ngài. Chúng ta cũng có một vị thượng tế vĩ đại được lập lên trên Nhà của Đức Chúa Trời, nên chúng ta hãy đến gần Chúa với lòng chân thành, trong niềm tin vững chắc, tâm khảm đã được tẩy sạch khỏi lương tâm ác, thân thể đã tắm rửa bằng nước tinh sạch. Chúng ta hãy giữ vững không lay chuyển lời tuyên xưng về niềm hy vọng của chúng ta, vì Đấng đã hứa với chúng ta luôn luôn thành tín. Chúng ta hãy lưu ý khích lệ nhau trong tình yêu thương và các việc lành. Đừng bỏ sự nhóm họp với nhau như thói quen của vài người, nhưng hãy khuyến khích nhau; anh chị em nên làm như thế nhiều hơn khi thấy Ngày Chúa càng gần. Sau khi nhận biết chân lý, nếu chúng ta còn cố ý phạm tội, thì không còn sinh tế nào chuộc tội được nữa, Chỉ còn sợ sệt chờ đợi sự xét đoán và lửa hừng sắp thiêu đốt những kẻ chống nghịch. Ai bất chấp luật Môi-se nếu có hai hay ba người chứng thì bị xử tử không thương xót. Huống hồ kẻ chà đạp Con Đức Chúa Trời, coi thường huyết giao ước đã thánh hóa mình và xúc phạm Thánh Linh ban ân sủng, thì anh chị em tưởng kẻ ấy không đáng bị hình phạt nặng nề hơn sao? Vì chúng ta biết Đấng đã phán: “Sự báo thù thuộc về Ta; chính Ta sẽ báo ứng,” lại bảo: “Chúa sẽ xét đoán dân Ngài.” Sa vào tay Đức Chúa Trời Hằng Sống là một điều khủng khiếp! Nhưng anh chị em hãy nhớ lại những ngày trước kia, khi mới được soi sáng, anh chị em đã kiên trì trong một cuộc chiến đấu lớn lao, nhiều đau khổ, khi thì công khai chịu sỉ nhục và hoạn nạn, khi thì chia sẻ nỗi niềm của những người gặp cảnh ngộ ấy. Thật thế, anh chị em đã cùng chịu đau khổ với các tù nhân, vui mừng chấp nhận khi bị tịch thu tài sản vì biết rằng mình có tài sản tốt hơn và còn mãi. Vậy, anh chị em đừng bỏ lòng tin tưởng chắc chắn của mình, là điều đem lại giải thưởng lớn. Anh chị em cần kiên trì để sau khi làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời, anh chị em sẽ hưởng được điều Ngài đã hứa. Vì còn ít lâu, chỉ ít lâu thôi,Thì Đấng ngự đến sẽ tới nơi, không trì hoãn. Nhưng “người công chính của ta sẽ sống bởi đức tin,”Nếu lui bước đi thìLinh hồn ta chẳng vui về người. Nhưng chúng ta không phải là những người chịu lui bước để rồi bị hư vong, nhưng là những người giữ đức tin để được sự sống. Đức tin là thực chất của những điều ta hy vọng, là bằng chứng của những việc ta không xem thấy. Nhờ đức tin mà người xưa được lời chứng tốt. Bởi đức tin, chúng ta hiểu rằng vũ trụ được hình thành bởi Lời Đức Chúa Trời; do đó những vật hữu hình ra từ những sự vô hình. Bởi đức tin, A-bên đã dâng lên Đức Chúa Trời một sinh tế tốt hơn lễ vật của Ca-in. Nhờ đó, ông được chứng nhận là người công chính khi Đức Chúa Trời chấp nhận các lễ vật của ông; nhờ đó, dù chết rồi ông vẫn còn nói. Bởi đức tin, Hê-nóc được cất lên, không phải thấy sự chết, người ta không tìm thấy ông đâu cả vì Đức Chúa Trời đã cất ông lên. Trước khi được cất lên, ông đã được chứng nhận là người đẹp lòng Đức Chúa Trời; không có đức tin thì không thể nào đẹp lòng Đức Chúa Trời vì người đến gần Đức Chúa Trời phải tin Ngài hiện hữu và tưởng thưởng những ai hết lòng tìm kiếm Ngài. Bởi đức tin, Nô-ê được cảnh cáo về những việc chưa thấy và ông thành kính đóng một chiếc tàu để cứu gia đình mình; nhờ đức tin đó, ông kết tội thế gian và trở thành người thừa kế sự công chính bởi đức tin. Bởi đức tin, Áp-ra-ham vâng lời Chúa gọi đi đến nơi mình sẽ nhận làm cơ nghiệp, ông ra đi dù chẳng biết mình đi đâu. Bởi đức tin, ông cư ngụ như một ngoại kiều trong xứ Chúa đã hứa cho mình, sống trong các lều trại cũng như Y-sác và Gia-cốp, là những người đồng thừa kế cùng một lời hứa ấy, vì ông mong đợi một thành phố có nền móng do Đức Chúa Trời thiết kế và xây dựng. Bởi đức tin, chính Sa-ra dù hiếm muộn và tuổi đã quá cao vẫn nhận được năng lực thụ thai vì bà cho rằng Đấng đã hứa cũng giữ đúng lời hứa. Vì thế, chỉ một người coi như đã chết, lại sinh ra con cháu đông như sao trên trời, như cát bãi biển, không thể đếm được. Tất cả những người đó đều chết trong đức tin, chưa nhận được những điều Chúa hứa, chỉ trông thấy và chào mừng những điều ấy từ đàng xa, nhìn nhận mình là người xa lạ và lữ khách trên mặt đất. Những người nói như thế minh định rằng họ đang tìm kiếm một quê hương. Nếu còn nhớ đến quê cũ là nơi họ đã ra đi, tất họ cũng có cơ hội trở về. Trái lại, họ mong ước một quê hương tốt hơn, là quê hương ở trên trời, nên Đức Chúa Trời không hổ thẹn khi được gọi là Đức Chúa Trời của họ vì Ngài đã chuẩn bị cho họ một thành phố. Bởi đức tin, Áp-ra-ham dâng hiến Y-sác làm sinh tế khi bị Chúa thử nghiệm. Ông sẵn sàng dâng hiến con một của mình, dù đứa con đó chính là lời hứa ông đã nhận. Vì Đức Chúa Trời đã phán bảo ông: “Từ Y-sác, con sẽ có một dòng dõi mang tên con.” Vì kể rằng Đức Chúa Trời có khả năng khiến kẻ chết sống lại, nên theo nghĩa bóng Áp-ra-ham đã nhận lại con mình từ cõi chết. Bởi đức tin, Y-sác chúc phước cho Gia-cốp và Ê-sau về những việc tương lai. Bởi đức tin, Gia-cốp chúc phước cho mỗi con trai của Giô-sép lúc gần qua đời và dựa trên gậy mình mà thờ lạy. Bởi đức tin, Giô-sép nói trước về việc con cháu Y-sơ-ra-ên sẽ xuất hành và ra chỉ thị về hài cốt mình lúc sắp lâm chung. Bởi đức tin, Môi-se khi mới sinh, được cha mẹ che giấu đi ba tháng vì thấy con kháu khỉnh, không sợ cấm lệnh của vua. Bởi đức tin, Môi-se lúc đã khôn lớn, từ khước tước vị con trai công chúa Pha-ra-ôn, thà chịu bạc đãi với con dân Đức Chúa Trời trong một thời gian còn hơn thụ hưởng khoái lạc tội lỗi. Ông coi sỉ nhục vì Chúa Cứu Thế là quý hơn châu báu Ai-cập vì ông trông đợi được tưởng thưởng. Bởi đức tin, ông rời Ai-cập, không sợ vua giận, vì ông kiên trì như thấy Đấng không ai thấy được. Bởi đức tin, ông cử hành lễ vượt qua và sự rảy huyết để kẻ hủy diệt không hại đến các con đầu lòng của dân mình. Bởi đức tin, dân Y-sơ-ra-ên đi qua Hồng Hải như đi trên đất khô cạn, còn người Ai-cập thử đi qua lại bị nước biển chôn vùi. Bởi đức tin, các tường lũy Giê-ri-cô sụp đổ sau khi dân Chúa đi vòng quanh bảy ngày. Bởi đức tin, kỵ nữ Ra-háp không chết với những kẻ vô tín, vì nàng đã tiếp đón các thám tử với lòng hòa hiếu. Tôi còn nói gì nữa? Nếu kể chuyện Ghi-đê-ôn, Ba-rác, Sam-sôn, Giép-thê, Đa-vít, Sa-mu-ên và các tiên tri của Chúa thì không đủ thì giờ. Nhờ đức tin, họ đã chiến thắng các vương quốc, thi hành công lý, được các lời hứa, bịt miệng sư tử, tắt đám lửa hừng, thoát khỏi lưỡi gươm, đang yếu đuối trở nên mạnh mẽ, biến thành dũng sĩ trong cuộc chiến tranh, đánh tan quân đội ngoại quốc. Có những phụ nữ nhận được người nhà đã chết rồi sống lại; có những người chịu tra tấn mà không muốn được giải cứu để được sự sống lại tốt hơn. Những kẻ khác chịu đựng sỉ nhục, đòn vọt, những người kia chịu xiềng xích, lao tù. Họ bị ném đá, cám dỗ, cưa làm đôi, chém chết bằng gươm, họ lưu lạc, mặc áo bằng da cừu, da dê, chịu túng ngặt, bị bắt bớ và bạc đãi đủ điều. Thế gian không xứng đáng cho họ sống, họ phiêu lưu giữa sa mạc, trên núi thẳm, trong hang động và hầm hố dưới đất. Nhờ đức tin tất cả những người ấy đều được chứng nhận nhưng vẫn chưa nhận lãnh điều Chúa hứa. Nhưng Đức Chúa Trời đã tiên liệu điều tốt lành hơn cho chúng ta, hầu cho ngoài chúng ta, họ không thể nào được toàn hảo. Vậy nên, vì chúng ta có cả một đám mây nhân chứng rất lớn bao quanh, hãy vứt bỏ mọi gánh nặng và tội lỗi dễ vấn vương, kiên trì chạy trong cuộc đua đã dành sẵn cho mình. Hãy chú tâm, hướng về Đức Giê-su là Đấng Tác Giả và hoàn thành của đức tin. Vì niềm vui mừng đặt trước mặt, Ngài chịu đựng thập tự giá, khinh điều sỉ nhục, nên được ngồi bên phải ngai Đức Chúa Trời. Hãy suy nghiệm về Đấng đã đương đầu với sự chống đối của những kẻ tội lỗi như thế để anh chị em khỏi mệt mỏi, ngã lòng. Trong cuộc chiến đấu với tội lỗi, anh chị em chống cự chưa đến mức đổ máu. Anh chị em đã quên lời khích lệ mình như lời khuyên con:“Con ơi, đừng xem thường sự sửa trị của Chúa,Khi Ngài khiển trách, đừng ngã lòng. Vì Chúa sửa trị những người Ngài yêu,Và ai được Ngài nhận làm con thì Ngài cho roi cho vọt.” Anh chị em hãy chịu đựng sự sửa trị, Đức Chúa Trời đối đãi với anh chị em như con, vì có người con nào mà không được cha sửa trị? Nhưng nếu anh chị em không chịu sửa trị như tất cả đều phải chịu, thì anh chị em là con hoang, không phải con chính thức. Hơn nữa, cha phần thân xác sửa trị mà chúng ta còn tôn kính, huống hồ Cha phần tâm linh, ta phải vâng phục Ngài càng hơn để được sự sống. Cha phần thân xác chỉ sửa trị chúng ta một thời gian ngắn theo điều người cho là phải, nhưng Đức Chúa Trời sửa trị chúng ta vì lợi ích để chúng ta được dự phần trong sự thánh khiết Ngài. Tất cả các sự sửa trị hiện nay thật ra không có gì vui, chỉ là chuyện buồn bã, nhưng về sau đem lại kết quả bình an, công chính cho những người chịu rèn luyện như thế. Vậy nên, hãy làm cho các bàn tay mệt mỏi và đầu gối yếu đuối của anh chị em trở nên mạnh mẽ. Hãy làm đường cho bằng phẳng để anh chị em đi, để người què khỏi bị vấp ngã mà còn được chữa lành nữa. Hãy tìm cầu sự hòa hiếu với mọi người và đeo đuổi sự thánh hóa, vì nếu không thánh hóa, không ai được thấy Chúa. Hãy thận trọng để trong anh chị em đừng có ai hụt mất ân sủng của Đức Chúa Trời; đừng để rễ cay đắng mọc ra gây rối và do đó làm ô uế nhiều người. Hãy thận trọng để đừng có ai dâm dục hoặc phàm tục như Ê-sau, vì một bữa ăn mà tự mình bán đi quyền trưởng nam. Anh chị em biết về sau ông muốn thừa hưởng phúc lành đó lại bị loại bỏ, vì không tìm được cơ hội ăn năn dù ông khóc lóc tìm cầu phúc lành. Anh chị em không đến gần một ngọn núi có thể đụng đến được và có lửa bốc cháy phừng phừng, cũng không đến gần bóng tối, cảnh u ám hoặc gió lốc, hoặc tiếng kèn thổi vang, hoặc tiếng nói mà những người nghe phải nài xin đừng nói thêm lời nào nữa. Họ không chịu đựng nổi mệnh lệnh: “Dù thú vật đụng đến núi này cũng bị ném đá!” Cảnh tượng ấy kinh khủng đến nỗi Môi-se nói: “Chính tôi khiếp sợ đến run rẩy!” Nhưng anh chị em đến gần núi Si-ôn, gần thành phố của Đức Chúa Trời hằng sống, gần Giê-ru-sa-lem trên trời, gần muôn vàn thiên sứ hội họp và hội thánh của các con đầu lòng được ghi tên trên trời, gần Đức Chúa Trời là thẩm phán của mọi người, gần tâm linh của những người công chính đã được toàn hảo, gần Đức Giê-su là Đấng trung gian của giao ước mới, gần huyết rưới ra, huyết ấy nói lên còn hùng hồn hơn huyết của A-bên. Anh chị em hãy cẩn thận, đừng từ khước Đấng đang phán dạy vì nếu những kẻ từ khước người cảnh cáo dưới đất còn không thoát được, thì chúng ta càng khó thoát được nếu chúng ta xây lưng lại với Đấng cảnh cáo từ trời. Ngày xưa, tiếng Ngài phán làm cho đất rúng động, thì ngày nay Ngài lại hứa: “Một lần nữa, Ta sẽ làm rúng động không những trái đất mà luôn cả tầng trời!” Từ “một lần nữa” biểu thị sự dẹp bỏ các vật bị rúng động tức là các loài tạo vật để những điều bất di bất dịch tồn tại mãi mãi. Bởi vậy, vì chúng ta được hưởng một vương quốc không thể nào rúng động, nên ta hãy ghi ơn và hãy lấy lòng kính sợ, tôn kính mà phục vụ Đức Chúa Trời cách đẹp lòng Ngài. Vì Đức Chúa Trời chúng ta là ngọn lửa thiêu đốt. Hãy giữ mãi tình thương huynh đệ. Đừng quên tiếp đãi khách lạ, nhờ đó có người đã tiếp đãi thiên sứ mà không biết. Hãy nhớ những người bị tù như chính mình cũng ở trong vòng lao tù với họ; hãy nhớ những người bị bạc đãi như chính thân mình cũng bị bạc đãi. Hôn nhân phải được mọi người kính trọng, loan phòng phải giữ cho tinh khiết, vì Đức Chúa Trời sẽ đoán phạt kẻ dâm dục và kẻ ngoại tình. Hãy giữ nếp sống không tham tiền, và thỏa lòng với những gì mình hiện có vì Chúa hứa:“Ta không bao giờ lìa con,Chẳng bao giờ bỏ con!” Nên chúng ta mạnh dạn nói:“Chúa phù hộ tôi, tôi sẽ không sợ hãi;Người đời làm gì được tôi?” Anh chị em hãy nhớ những người hướng dẫn, đã truyền lời Chúa cho mình, hãy chú ý xem kết cuộc nếp sống của họ và học hỏi đức tin của họ. Chúa Cứu Thế Giê-su hôm qua, ngày nay và cho đến đời đời không hề thay đổi. Đừng để các giáo huấn xa lạ khác lôi cuốn mình, vì nhờ ân sủng tấm lòng được kiên định là tốt, chứ không phải nhờ các thức ăn, là điều không ích lợi gì cho người theo. Chúng ta có một bàn thờ mà những người phục vụ trong đền tạm không được phép ăn gì từ nơi đó. Vì xác các thú vật mà thầy thượng tế lấy huyết đem vào nơi thánh để chuộc tội đều bị đốt bên ngoài trại quân. Bởi đó, muốn lấy huyết mình để thánh hóa dân chúng, Đức Giê-su phải chịu khổ nạn bên ngoài cổng thành. Vậy, chúng ta hãy ra ngoài trại quân, đi đến với Ngài để chịu sự sỉ nhục Ngài chịu. Vì tại đây, chúng ta không có thành phố nào tồn tại mãi, nhưng chúng ta tìm kiếm thành phố tương lai. Vậy nên, chúng ta hãy nhờ Đức Giê-su mà liên tục dâng lên Đức Chúa Trời tế lễ ca ngợi, tức là kết quả của môi miệng tuyên xưng danh Ngài. Đừng quên làm việc lành và chia sẻ cho người khác, vì đó là những tế lễ đẹp lòng Đức Chúa Trời. Anh chị em hãy vâng lời và phục tùng những người hướng dẫn mình vì họ chăm sóc linh hồn anh chị em như phải khai trình với Chúa, để họ hân hoan thi hành nhiệm vụ, khỏi phải thở than, vì nếu có thì cũng chẳng ích lợi gì cho anh chị em. Xin anh chị em cầu nguyện cho chúng tôi. Chúng tôi tin chắc mình có lương tâm tốt và ước muốn xử sự thích đáng trong mọi việc. Tôi càng tha thiết nài xin anh chị em cầu nguyện để tôi sớm được trả về với anh chị em. Nguyện xin Đức Chúa Trời bình an, là Đấng qua huyết của giao ước đời đời đem Chúa Giê-su chúng ta, Đấng chăn chiên vĩ đại, ra khỏi cõi chết, trang bị cho anh chị em bằng mọi điều tốt lành để thực thi ý định của Ngài và qua Chúa Cứu Thế Giê-su thực hiện trong chúng tôi điều đẹp lòng Ngài. Nguyện vinh quang quy về Ngài đời đời! A-men! Thưa anh chị em, xin hãy vui lòng nhận lời khích lệ này vì tôi chỉ viết vắn tắt ít lời cho anh chị em. Anh em chúng ta là Ti-mô-thê đã được trả tự do, tôi muốn anh chị em biết tin này, nếu anh ấy đến sớm, tôi sẽ đi cùng anh ấy đến thăm anh chị em. Kính chào tất cả các nhà lãnh đạo và toàn thể các thánh đồ. Anh chị em tín hữu Y-ta-lia kính lời chào thăm anh chị em. Nguyện xin ân sủng Chúa ở với tất cả các anh chị em! Gia-cơ, đầy tớ của Đức Chúa Trời và của Chúa Cứu Thế Giê-su,Kính gửi mười hai chi tộc tản mát khắp các nước.Kính chào anh chị em! Thưa anh chị em, khi gặp những thử thách khác nhau, anh chị em hãy xem tất cả là điều vui mừng, vì biết rằng đức tin anh chị em có bị thử nghiệm mới sinh ra kiên nhẫn, kiên nhẫn có hoàn tất công việc thì anh chị em mới trưởng thành, toàn vẹn, không thiếu sót gì. Nếu trong anh chị em có ai thiếu khôn ngoan, hãy cầu xin Đức Chúa Trời thì sẽ được Ngài ban cho; Ngài là Đấng ban cho mọi người cách rộng lượng, không quở trách. Nhưng người ấy hãy lấy đức tin mà cầu xin, không chút nghi ngờ vì người nghi ngờ giống như sóng biển bị gió đưa đẩy, dập dồi. Người như thế đừng mong nhận lãnh điều gì từ nơi Chúa; đó là người hai lòng, không kiên định trong mọi đường lối của mình. Anh chị em nào ở địa vị thấp kém, hãy tự hào về chỗ cao trọng của mình. Kẻ giàu cũng tự hào về chỗ thấp kém của mình vì người sẽ qua đi như hoa cỏ. Mặt trời mọc lên nung nấu làm cỏ khô, hoa rụng, sắc đẹp tàn phai; kẻ giàu cũng sẽ suy tàn trong cuộc đời mình như vậy. Phước cho người chịu đựng thử thách, vì sau cơn thử luyện sẽ được lãnh mão sự sống mà Đức Chúa Trời đã hứa cho Người yêu kính Ngài. Người đang bị cám dỗ đừng nên nói: “Sự cám dỗ này đến từ Chúa” vì Đức Chúa Trời không cám dỗ ai cũng không bị điều ác nào cám dỗ. Nhưng mỗi người bị dục vọng mình lôi cuốn và quyến rũ. Dục vọng thai nghén sinh ra tội lỗi; tội lỗi trưởng thành sinh ra sự chết. Anh chị em thân yêu của tôi ơi! Đừng bị lừa dối: Tất cả các ân huệ tốt lành cũng như tất cả các ân tứ toàn hảo đều đến từ trên cao và do Cha sáng láng ban xuống. Ngài chẳng bao giờ thay đổi, cũng không có bóng biến thiên nào nơi Ngài. Chính Ngài đã sinh thành chúng ta bởi lời chân thật đúng theo ý định Ngài, để chúng ta thành một loại trái đầu mùa của muôn loài Ngài sáng tạo. Thưa anh chị em thân yêu, hãy ý thức điều này: Mỗi người phải mau nghe, chậm nói, chậm giận, vì cơn giận của con người không thể hiện đức công chính của Đức Chúa Trời. Vì thế, hãy bỏ tất cả những điều ô uế, gian ác đang lan tràn, lấy lòng mềm mại nhận lấy lời Chúa đã trồng trong anh chị em, là lời có khả năng cứu rỗi linh hồn anh chị em. Hãy thực hành Lời Chúa, đừng tưởng chỉ nghe là đủ mà tự lừa dối mình. Kẻ nào nghe Lời Chúa mà không thực hành cũng giống như một người soi mặt trong gương, thấy rồi bỏ đi, quên ngay mặt mình như thế nào. Nhưng người nào chăm chú nhìn vào luật toàn hảo, là luật đem lại tự do, lại kiên trì tuân giữ, không phải nghe rồi quên đi, nhưng thực hành luật đó, thì sẽ được phước trong việc mình làm. Nếu ai tưởng mình sùng đạo mà không kiềm chế lưỡi mình thì người ấy tự lừa dối, theo Đạo như thế thật là vô ích. Sống Đạo trong sạch, không ô uế trước mặt Đức Chúa Trời, Cha chúng ta, là chăm sóc cô nhi quả phụ khi họ gặp hoạn nạn và giữ mình khỏi bị thế gian làm hoen ố. Thưa anh chị em, đã là tín đồ của Chúa Cứu Thế Giê-su vinh quang, Chúa chúng ta, anh chị em đừng thiên vị ai cả. Nếu có người đeo nhẫn vàng, ăn mặc sang trọng vào hội đường của anh chị em, lại có người nghèo khổ, ăn mặc rách rưới cũng vào. Anh chị em nhìn người ăn mặc sang trọng và nói: “Mời ông ngồi đây là chỗ tử tế,” nhưng lại bảo người nghèo khổ: “Anh hãy đứng đó hoặc ngồi dưới bệ chân tôi!” Thế có phải anh chị em kỳ thị lẫn nhau và lấy ác ý mà xét người không? Thưa anh chị em thân yêu của tôi, xin nghe đây: Không phải Đức Chúa Trời đã chọn người nghèo trong thế gian để làm cho họ giàu có trong đức tin và kế thừa Vương Quốc mà Ngài đã hứa cho những ai yêu kính Ngài sao? Nhưng anh chị em lại làm nhục người nghèo! Không phải kẻ giàu đã áp bức anh chị em và đưa anh chị em ra tòa sao? Không phải họ đã phạm thượng đến danh cao quý mà anh chị em được mang sao? Nếu thật anh chị em làm trọn luật của Vua như đã chép trong Kinh Thánh: “Hãy yêu thương người lân cận như chính mình,” thì anh chị em làm điều tốt. Nhưng nếu thiên vị người ta là anh chị em phạm tội và bị Kinh Luật lên án như một người phạm pháp. Vì người nào giữ trọn cả Kinh Luật, dù chỉ phạm một điều cũng mắc tội như đã phạm tất cả. Vì Đấng đã phán: “Đừng phạm tội ngoại tình” cũng dạy: “Đừng giết người.” Nếu anh không ngoại tình nhưng giết người, anh cũng là người phạm pháp. Vậy anh chị em hãy nói và làm như những người bị xét xử theo Kinh Luật đem lại tự do. Ai hành động thiếu thương xót sẽ bị xử đoán không chút thương xót; nhưng lòng thương xót thắng hơn sự xử đoán. Thưa anh chị em, nếu có ai bảo mình có đức tin nhưng không hành động thì có ích gì không? Đức tin ấy cứu người đó được không? Nếu gặp anh chị em nào đó thiếu cơm ăn áo mặc, mà có người bảo: “Chúc anh chị bình an! Cứ mặc cho ấm, ăn cho no nhé!” Nhưng không cung ứng cho họ nhu cầu thể xác, thì có ích lợi gì? Đức tin cũng thế, nếu đức tin không có hành động thì tự nó chết đi. Nhưng có người sẽ nói: “Anh có đức tin, còn tôi có hành động.” Anh hãy chỉ cho tôi đức tin không có hành động của anh, rồi tôi sẽ cho anh thấy đức tin bằng hành động của tôi. Anh tin có một Đức Chúa Trời. Tốt lắm các ác quỷ cũng tin điều ấy và run sợ. Hỡi kẻ dại khờ! Anh muốn biết đức tin không có hành động là vô ích không? Áp-ra-ham, tổ phụ chúng ta, chẳng từng được kể là công chính do hành động hiến dâng con mình là Y-sác trên bàn thờ sao? Anh thấy đức tin đồng công với các hành động của ông và nhờ các hành động mà đức tin được kiện toàn, Và lời Kinh Thánh này được ứng nghiệm: “Áp-ra-ham tin Đức Chúa Trời nên được kể là công chính và được gọi là bạn hữu của Đức Chúa Trời.” Anh chị em thấy con người được công chính bởi hành động, chứ không phải chỉ bởi đức tin mà thôi. Cũng vậy, kỵ nữ Ra-háp không phải được kể là công chính bởi hành động sao? Nàng đã tiếp đãi các sứ giả và đưa họ ra đi theo một con đường khác. Xác không hồn thì chết, đức tin không hành động cũng chết như vậy. Thưa anh chị em, trong anh chị em không nên có nhiều người làm thầy vì biết rằng mình sẽ bị xét đoán nghiêm khắc hơn. Vì tất cả chúng ta đều vấp phạm nhiều cách. Ai không vấp phạm trong lời nói mới là người toàn hảo, có khả năng kiềm chế cả thân thể. Chúng ta thắng cương vào miệng ngựa để bắt phục nó và điều khiển toàn thân nó. Hãy xem các chiếc tàu dù lớn lao và bị gió mạnh dập dồi nhưng một bánh lái nhỏ đủ điều khiển nó theo ý người hoa tiêu. Cũng thế, cái lưỡi là một chi thể nhỏ nhưng khoe khoang những việc lớn. Hãy xem một mồi lửa nhỏ đốt cháy cả khu rừng lớn biết bao. Cái lưỡi là một ngọn lửa, một thế giới gian ác giữa các chi thể của thân thể ta. Nó làm băng hoại cả con người, đốt cháy cả cuộc đời và chính mình nó bị hỏa ngục đốt cháy. Tất cả các loài thú vật, chim chóc, loài bò sát, và sinh vật dưới biển đều đang bị và đã bị loài người chế ngự, nhưng không có người nào chế ngự được cái lưỡi, là một vật dữ phóng túng đầy chất độc giết người. Chúng ta dùng lưỡi ca ngợi Chúa và Cha chúng ta, cũng dùng nó để nguyền rủa con người là kẻ được tạo nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời. Từ một miệng mà phát ra cả lời lành lẫn nguyền rủa sao? Thưa anh chị em, không nên làm thế! Dòng nước xuất phát từ một mạch lại ra cả nước ngọt lẫn nước đắng sao? Không thể nào được! Thưa anh chị em của tôi, cây vả có sinh trái ô-liu hay cây nho có sinh trái vả được không? Nguồn nước mặn cũng không chảy ra nước ngọt được. Trong anh chị em có ai là người khôn ngoan, hiểu biết không? Hãy thể hiện hành động của mình trong cách cư xử tốt đẹp bởi tính nhu mì do sự khôn ngoan. Nhưng nếu anh chị em ganh ghét, cay đắng, tranh cạnh trong lòng thì đừng khoe khoang và nói dối trái với sự thật. Sự khôn ngoan này không phải từ thiên thượng xuống, nhưng từ trần gian, từ bản tính tự nhiên và ác quỷ. Nơi nào có ganh ghét, tranh cạnh thì chỉ có rối loạn và đủ mọi hành động bất lương. Nhưng sự khôn ngoan thiên thượng trước hết là trong sạch, rồi hòa hiếu, tiết độ, thuận phục, đầy dẫy lòng thương xót và quả tốt lành, không thiên vị cũng chẳng đạo đức giả. Những người hòa giải gieo trong hòa bình thì gặt hái hoa quả công chính. Vì đâu sinh ra những cuộc chiến đấu, tranh chấp giữa anh chị em? Không phải do những ham muốn đang đấu tranh với nhau trong chi thể của anh chị em sao? Anh chị em tham muốn mà chẳng được gì; anh chị em giết người và ganh ghét mà không chiếm đoạt được; anh chị em vẫn tranh chấp và chiến đấu. Anh chị em không được chi vì không cầu xin; anh chị em cầu xin mà không nhận được vì cầu xin với ý xấu, để dùng cho khoái lạc. Này những người ngoại tình kia, anh chị em không biết kết bạn với thế gian là thù nghịch với Đức Chúa Trời sao? Vậy ai muốn kết bạn với thế gian đều trở thành kẻ thù nghịch của Đức Chúa Trời. Hay anh chị em tưởng lời Kinh Thánh này vô hiệu sao? “Thánh Linh ngự trong chúng ta khao khát đến nỗi ghen tuông.” Nhưng Ngài ban cho chúng ta ân sủng vĩ đại hơn nên Kinh Thánh nói:“Đức Chúa Trời chống kẻ kiêu ngạoNhưng ban ân sủng cho người khiêm tốn.” Vậy, hãy đầu phục Đức Chúa Trời nhưng chống lại quỷ vương thì nó sẽ trốn xa anh chị em. Hãy đến gần Đức Chúa Trời, Ngài sẽ đến gần anh chị em. Này, người có tội, hãy rửa sạch tay mình! Người hai lòng hãy tẩy thanh lòng dạ. Hãy đau buồn, chịu tang và khóc lóc. Hãy đổi cười ra khóc, đổi vui ra buồn. Hãy hạ mình xuống trước mặt Đức Chúa Trời thì Ngài sẽ đề cao anh chị em. Thưa anh chị em, đừng nói hành nhau. Kẻ nói hành hoặc lên án anh chị em mình là nói hành Kinh Luật và lên án Kinh Luật. Nếu anh chị em lên án Kinh Luật anh chị em không phải là người thi hành Kinh Luật nhưng làm quan tòa xét xử Kinh Luật. Chỉ có một Đấng ban hành Kinh Luật và xét xử, là Đấng có khả năng cứu rỗi và tiêu diệt. Nhưng anh chị em là ai mà lên án người đồng loại mình? Bây giờ, hãy nghe đây, những người đang nói: “Nay mai chúng ta sẽ đi đến thành phố kia, làm việc một năm, buôn bán kiếm lời!” Nhưng anh chị em không biết ngày mai đời sống mình ra sao! anh chị em giống như hơi nước, hiện ra chốc lát rồi biến mất. Đáng lẽ anh chị em nói rằng: “Nếu Chúa muốn thì chúng ta sẽ sống, chúng ta sẽ làm việc này việc kia!” Nói như anh chị em là khoe khoang tự phụ; phàm khoe khoang như thế là xấu. Vậy, ai biết điều lành mà không làm là phạm tội. Bây giờ, hãy nghe đây, những người giàu có! Anh chị em hãy khóc lóc kêu la vì tai ương sắp đổ xuống trên anh chị em! Tài sản anh chị em bị mục nát, áo quần bị mối ăn; vàng và bạc của anh chị em han gỉ, chất gỉ ấy làm chứng tố cáo anh chị em và ăn thịt anh chị em như lửa thiêu đốt. Anh chị em đã tích trữ tài sản trong thời cuối cùng. Này, tiền công các thợ gặt đã làm việc trong đồng ruộng anh chị em mà anh chị em giữ lại đang to tiếng tố cáo anh chị em. Tiếng kêu than của các thợ gặt ấy đã thấu đến tai Chúa Vạn Quân. Anh chị em đã sống xa xỉ, bê tha trên mặt đất. Anh chị em đã nuôi mình mập béo cho ngày làm thịt. Anh chị em đã kết án và giết người công chính mà họ không chống cự. Thưa anh chị em, hãy kiên nhẫn cho đến khi Chúa quang lâm. Kìa, người nông phu chờ đợi hoa quả quý báu của đất ruộng, kiên nhẫn đợi chờ cho đến khi đượm mưa thu và mưa xuân. Anh chị em cũng hãy kiên nhẫn và vững lòng vì ngày Chúa quang lâm gần rồi. Thưa anh chị em, đừng phàn nàn trách móc nhau để anh chị em khỏi bị xét đoán. Kìa, Đấng Thẩm Phán đang đứng trước cửa. Thưa anh chị em, hãy noi gương chịu bạc đãi và kiên nhẫn của các tiên tri đã nhân danh Chúa mà nói. Kìa, những người có lòng kiên trì chúng ta xem là có phước. Anh chị em đã nghe về tính kiên nhẫn của Gióp và thấy kết quả Chúa đãi ông thế nào, vì Chúa nhân từ và đầy lòng thương xót. Nhưng thưa anh chị em của tôi, trên hết mọi việc, đừng thề thốt; đừng chỉ trời, chỉ đất hay chỉ bất kỳ vật gì khác mà thề. Nhưng đối với anh chị em, phải thì nói phải, không thì nói không, để anh chị em khỏi bị kết án. Có ai trong anh chị em bị bạc đãi, người ấy hãy cầu nguyện. Có ai vui mừng hãy đàn hát ca ngợi. Có ai trong anh chị em yếu đau, hãy mời các trưởng lão của hội thánh đến, để họ nhân danh Chúa xức dầu rồi cầu nguyện cho mình. Lời cầu nguyện bởi đức tin sẽ cứu chữa người bệnh; Chúa sẽ đỡ người ấy dậy. Nếu người bệnh phạm tội cũng sẽ được tha. Vậy hãy xưng tội với nhau và cầu thay cho nhau, để anh chị em được lành bệnh. Lời cầu xin của người công chính rất mạnh mẽ và hiệu nghiệm. Ê-li cũng là con người cùng bản chất như chúng ta. Ông khẩn thiết cầu nguyện xin cho đừng mưa thì không có mưa rơi xuống đất suốt ba năm rưỡi. Ông cầu nguyện lại thì trời mưa xuống và đất sinh hoa màu. Thưa anh chị em của tôi, nếu có ai trong anh chị em lầm lạc xa cách chân lý và có người đưa kẻ ấy trở lại, thì xin anh chị em biết rằng người dìu dắt tội nhân trở lại khỏi đường lầm lạc, sẽ cứu linh hồn người ấy khỏi chết và che giấu rất nhiều tội lỗi. Tôi là Phê-rơ, sứ đồ của Chúa Cứu Thế Giê-su,Kính gởi những người được chọn là những người đang lưu lạc trong các xứ Bông-ty, Ga-la-ti, Cáp-ba-đốc, Tiểu-á và Bi-thi-ni. Anh chị em đã được chọn lựa theo sự biết trước của Đức Chúa Trời là Cha và được thánh hóa bởi Đức Thánh Linh để vâng phục và được rảy huyết của Chúa Cứu Thế Giê-su. Nguyện xin anh chị em được tràn đầy ân sủng và bình an. Ca ngợi Đức Chúa Trời là Cha Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta! Vì lòng thương xót lớn lao, Ngài đã cho chúng ta được tái sinh với đầy hy vọng sống nhờ Chúa Cứu Thế Giê-su sống lại từ kẻ chết, để thừa hưởng gia tài không thể bị phá hủy, không hư hoại hay phai tàn đã dành cho anh chị em trên trời, là những người nhờ đức tin được quyền năng của Đức Chúa Trời gìn giữ cho sự cứu rỗi, là điều sẵn sàng để được bày tỏ trong thời cuối cùng. Hãy vui mừng về việc này, mặc dù hiện nay anh chị em phải đau buồn vì bị thử thách nhiều bề trong ít lâu. Mục đích là để chứng tỏ đức tin anh chị em quý hơn vàng, là vật có thể bị hủy diệt được thử trong lửa, để nhờ đó anh chị em được ngợi khen, vinh quang và tôn trọng khi Chúa Cứu Thế Giê-su hiện đến. Anh chị em yêu kính Ngài, mặc dù không thấy Ngài, anh chị em tin Ngài dù hiện tại không thấy Ngài, nên anh chị em được tràn đầy niềm vui khôn tả và vinh quang rực rỡ, vì anh chị em nhận được mục đích đức tin là sự cứu rỗi linh hồn anh chị em. Vì sự cứu rỗi đó, các tiên tri đã nghiên cứu, tra xét, và cũng đã truyền phán về ân sủng ban cho anh chị em. Họ cố gắng tìm xem cách nào và thời gian nào mà Linh của Chúa Cứu Thế ở trong họ chỉ cho, khi Ngài nói trước về sự khổ nạn của Chúa Cứu Thế và sự vinh quang sau đó. Điều này đã được tỏ ra cho họ rằng không phải họ phục vụ chính mình nhưng vì anh chị em. Những điều họ đã nói là những gì đang được các nhà truyền giảng Phúc Âm bởi Đức Thánh Linh từ trời sai xuống rao truyền cho anh chị em. Đây là những việc mà ngay cả các thiên sứ cũng muốn hiểu. Vậy, anh chị em hãy chuẩn bị tâm trí, bình tĩnh, đặt sự hy vọng hoàn toàn vào ân sủng sẽ được ban cho anh chị em trong ngày Chúa Cứu Thế Giê-su hiện ra. Như con cái hay vâng lời, đừng làm theo những dục vọng lúc trước, khi anh chị em còn sống trong dốt nát. Nhưng như Đấng kêu gọi anh chị em là thánh, anh chị em phải nên thánh trong mọi cách sống mình. Vì Kinh Thánh chép rằng: “Các ngươi phải thánh, vì ta là thánh.” Và nếu anh chị em xưng Ngài là Cha, là Đấng không thiên vị nhưng xét xử mỗi người tùy theo việc họ làm, thì hãy ăn ở với lòng kính sợ trong thời gian sống tha hương. Vì anh chị em biết rằng chẳng phải bởi những vật hay hư nát như bạc hoặc vàng mà anh chị em được chuộc khỏi lối sống vô dụng thừa hưởng của tổ tiên, nhưng bằng chính huyết báu của Chúa Cứu Thế, như huyết chiên con không khuyết tật, không vết nhơ. Ngài đã được định trước khi sáng thế, nhưng hiện ra trong thời kỳ cuối cùng này vì cớ anh chị em. Nhờ Ngài, anh chị em tin vào Đức Chúa Trời là Đấng đã khiến Ngài sống lại từ cõi chết và ban cho Ngài vinh quang, như thế anh chị em đặt niềm tin và hy vọng nơi Đức Chúa Trời. Nhờ vâng phục chân lý, linh hồn anh chị em đã được tinh luyện để yêu thương anh chị em một cách chân thật. Hãy hết lòng, tha thiết yêu thương lẫn nhau. Vì anh chị em đã được tái sanh không phải bởi những hạt giống hư nát nhưng bởi hạt giống không hư nát, là lời hằng sống và hằng còn của Đức Chúa Trời. Vì:“Loài người ví như cỏ,Tất cả vinh quang của họ ví như hoa dại.Cỏ khô, hoa rụng, Nhưng lời Đức Chúa Trời còn lại đời đời.” Lời đó, chính là Phúc Âm đã được rao truyền cho anh chị em. Anh chị em hãy từ bỏ hết những gian ác, lường gạt, giả dối, ganh ghét, và mọi điều vu cáo. Hãy trở nên như những đứa trẻ mới sinh, ham thích sữa thuộc linh tinh khiết, nhờ đó anh chị em có thể trưởng thành trong sự cứu rỗi, nếu anh chị em đã nếm sự nhân từ của Chúa. Hãy đến cùng Ngài là tảng đá sống, đã bị loài người loại bỏ nhưng được Đức Chúa Trời chọn lựa và quý trọng. Anh chị em cũng được xem như những tảng đá sống được dùng để xây dựng nhà thiêng liêng, và qua Chúa Cứu Thế Giê-su anh chị em sẽ nên thầy tế lễ thánh để dâng sinh tế thiêng liêng đẹp lòng Đức Chúa Trời. Vì Kinh Thánh đã chép:“Này, Ta đã đặt trên Si-ônMột tảng đá góc nhà được chọn lựa và quý giá,Và người nào tin cậy đá ấySẽ chẳng hổ thẹn.” Tảng đá này cũng quý giá cho anh chị em là những kẻ tin. Nhưng cho những kẻ không tin:“Tảng đá mà thợ xây nhà loại ra,Sẽ trở nên tảng đá đầu góc nhà,” và là:“Một tảng đá chướng ngại,Làm cho họ vấp ngã.” Họ vấp ngã vì không vâng giữ Đạo và việc đó cũng đã định sẵn rồi. Nhưng anh chị em là dân tộc được lựa chọn, vị tế lễ của hoàng gia, một dân thánh, con dân thuộc về Đức Chúa Trời để anh chị em rao truyền các công việc lạ lùng của Ngài là Đấng đã kêu gọi anh chị em ra khỏi chốn tối tăm để vào nơi sáng láng diệu kỳ của Ngài. Trước kia anh chị em không phải là một dân tộc, nhưng nay là con dân của Đức Chúa Trời; trước kia anh chị em không nhận được sự thương xót, nhưng nay anh chị em được thương xót. Anh chị em yêu dấu, tôi xin anh chị em, là khách tha hương và kẻ lưu lạc trong trần gian, chớ để cho dục vọng xác thịt lôi cuốn vì nó chống nghịch với linh hồn anh chị em. Hãy sống một cuộc sống lương thiện giữa những dân ngoại, là những kẻ vẫn nói xấu anh chị em như là người làm ác, họ sẽ thấy các việc lành của anh chị em mà tôn vinh Đức Chúa Trời trong ngày Ngài thăm viếng. Vì cớ Chúa, hãy thuận phục mọi thể chế của loài người hoặc đối với vua là người có quyền hành tối cao, hoặc đối với các thống đốc là những người vua sai đến để trừng phạt những kẻ làm điều ác và khen ngợi những người làm điều thiện. Vì ý muốn của Đức Chúa Trời cho anh chị em là làm điều thiện, để làm im lặng lời ngu dốt của những kẻ điên dại. Hãy sống như những người được tự do, nhưng đừng dùng sự tự do của anh chị em để che đậy điều ác; hãy sống như đầy tớ của Đức Chúa Trời. Hãy tôn trọng mọi người, yêu thương anh em, kính sợ Đức Chúa Trời, tôn trọng vua. Đầy tớ phải vâng phục chủ với tất cả lòng kính sợ, chẳng những đối với chủ tốt và chu đáo, nhưng cũng với chủ khắc nghiệt nữa. Nếu một người vì Đức Chúa Trời mà chịu đau đớn do những khổ nạn bất công, đó là điều đáng khen. Nếu làm điều ác mà bị đánh đập và chịu đựng được thì có gì đáng khoe? Nhưng nếu anh chị em làm điều thiện mà chịu đau khổ, việc này rất đáng khen trước mặt Đức Chúa Trời. Bởi việc này mà anh chị em được kêu gọi, vì Chúa Cứu Thế đã chịu khổ để làm gương cho anh chị em, hầu cho anh chị em theo bước chân Ngài. “Ngài không hề phạm tội,Và nơi miệng Ngài không hề có lời dối trá nào.” Khi họ lăng nhục Ngài, Ngài không hề rủa lại; khi Ngài chịu khổ, Ngài không hăm dọa. Ngài phó thác chính mình Ngài cho Đấng xét đoán công bình. Chính Ngài đã gánh tội lỗi của chúng ta trong thân thể Ngài trên cây gỗ, nhờ đó chúng ta chết đối với tội lỗi và sống cho sự công chính; nhờ vết thương của Ngài, anh chị em được chữa lành. Vì anh chị em như chiên đi lạc, nhưng nay anh chị em đã trở lại cùng Đấng Chăn Chiên và giám mục của linh hồn mình. Cùng một cách ấy, người vợ cũng phải vâng phục chồng mình, để nếu chồng không tin đạo nhưng nhờ cách cư xử của vợ cũng được chinh phục theo không cần phải dùng đến lời nói, vì họ thấy sự trong sạch và cung kính trong đời sống của chị em. Vẻ đẹp của chị em không bởi trang sức bề ngoài như gióc tóc, đeo nữ trang bằng vàng hay áo quần đẹp đẽ, nhưng bằng con người bên trong, thầm kín với một vẻ đẹp không phai mờ, là tinh thần nhu mì và im lặng, điều đó rất quý giá trước mặt Đức Chúa Trời. Đây là cách mà các bà thánh thuở xưa, là những người đặt hy vọng nơi Đức Chúa Trời, đã trang sức cho mình và các bà đã vâng phục chồng mình, như Sa-ra vâng lời Áp-ra-ham, gọi người là chúa mình. Chị em là con cái của bà nếu chị em làm điều chính đáng và không để mối kinh hoàng nào làm sợ hãi. Những người làm chồng cũng vậy, khi chung sống với vợ hãy quan tâm đến vợ vì họ là phái yếu. Hãy tôn trọng vợ mình vì anh em cùng họ thừa hưởng ân phúc sự sống, hầu cho sự cầu nguyện của anh chị em không bị trở ngại. Cuối cùng, hết thảy anh chị em nên có tinh thần hiệp nhất, cảm thông, yêu thương anh chị em, lòng thương người và khiêm nhường. Đừng lấy ác trả ác hoặc rủa sả trả rủa sả, nhưng ngược lại, hãy chúc phước, vì việc này mà anh chị em được kêu gọi, nhân đó anh chị em có thể được hưởng phúc lành. Vì:“Ai yêu sự sốngVà muốn thấy những ngày lànhPhải giữ lưỡi mình khỏi điều ácVà môi mình khỏi lời giả dối. Phải tránh điều dữ và làm điều lành,Hãy tìm kiếm hòa bình và đeo đuổi nó. Vì con mắt của Chúa ở trên người công chính,Và lỗ tai Ngài mở ra để nghe lời cầu nguyện của họ.Nhưng mặt Chúa chống lại những kẻ làm ác.” Có ai hại anh chị em nếu anh chị em nhiệt thành làm điều thiện đâu? Nếu anh chị em chịu khổ vì làm điều công chính, anh chị em sẽ được phước. “Đừng sợ những gì họ sợ, đừng kinh hãi.” Nhưng trong lòng anh chị em hãy biệt riêng Chúa Cứu Thế làm Chúa. Luôn luôn sẵn sàng để trả lời cho bất cứ ai hỏi anh chị em lý do nào anh chị em có hy vọng đó. Phải làm điều này với sự nhu mì và kính trọng, giữ cho lương tâm trong sạch, để những ai nói xấu về hành vi tốt của anh chị em trong Chúa Cứu Thế sẽ bị xấu hổ vì những lời vu khống của họ. Nếu đó là ý Chúa, thà chịu khổ vì làm việc thiện hơn là làm việc ác. Vì Chúa Cứu Thế đã chết cho tội lỗi một lần đầy đủ cả, Đấng công chính cho người không công chính, để đem anh chị em đến với Đức Chúa Trời, Ngài đã chịu chết phần thân thể nhưng làm cho sống phần linh hồn. Bởi đó, Ngài đi giảng cho những linh hồn bị tù, là những người thuở xưa không vâng lời Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời kiên nhẫn chờ đợi trong thời của Nô-ê khi chiếc tàu được đóng. Chỉ có một ít người, tám người cả thảy, được cứu qua nước, nước ấy là hình bóng phép báp-tem, để cứu anh chị em ngày hôm nay, không phải để làm sạch sự dơ dáy khỏi thân thể, nhưng là một lời nguyện ước từ lương tâm trong sạch dâng lên Đức Chúa Trời qua sự sống lại của Chúa Cứu Thế Giê-su, là Đấng đã về thiên đàng và hiện đang ngự bên phải Đức Chúa Trời, với các thiên sứ, các bậc thẩm quyền và năng lực đầu phục Ngài. Vậy, vì Chúa Cứu Thế chịu khổ trong thân thể, hãy trang bị chính mình anh chị em bằng thái độ như thế, người nào đã chịu khổ trong thân thể được dứt khỏi tội lỗi. Vì kết quả đó, người ấy còn sống bao lâu sẽ không sống theo dục vọng con người, nhưng cho ý muốn của Đức Chúa Trời. Vì anh chị em đã phí nhiều thì giờ trong quá khứ để làm những việc mà người ngoại ưa làm, sống trụy lạc, dục vọng, say sưa, chè chén trác táng, chơi bời và hình tượng gớm ghiếc. Họ lấy làm lạ vì anh chị em không nhập cuộc với họ vào cuộc sống ngông cuồng, và họ nói xấu anh chị em. Nhưng họ phải khai trình với Đấng sẵn sàng để xét đoán kẻ sống và kẻ chết. Vì lý do đó Phúc Âm được rao giảng cho cả những người chết, để họ dù bị xét xử theo loài người về phần thể xác nhưng được sống theo Đức Chúa Trời về phần tâm linh. Sự cuối cùng của muôn vật đã gần. Vậy hãy có một tâm trí sáng suốt và tự chủ để cầu nguyện. Trên tất cả mọi sự, hãy yêu nhau sâu đậm, vì tình yêu thương che phủ vô số tội lỗi. Hãy tiếp đãi nhau nhưng chớ cằn nhằn. Mỗi một người nên dùng ân tứ đã nhận lãnh để phục vụ người khác, như một người quản trị giỏi, khéo quản trị ân sủng khác nhau của Đức Chúa Trời. Nếu có ai giảng luận thì hãy giảng như nói ra lời của Đức Chúa Trời; nếu có ai phục vụ, hãy phục vụ bằng sức mạnh Chúa ban, để trong mọi sự Đức Chúa Trời được ca ngợi qua Chúa Cứu Thế Giê-su. Vinh quang và quyền năng thuộc về Ngài đời đời. A-men. Anh chị em yêu dấu, đừng ngạc nhiên vì sự thử thách đau đớn mà anh chị em phải chịu như là việc khác thường xảy ra cho anh chị em. Nhưng hãy vui mừng vì anh chị em được dự phần vào sự đau khổ của Chúa Cứu Thế, để anh chị em được hân hoan vui mừng hơn khi vinh quang Ngài được bày tỏ. Nếu anh chị em bị chê cười vì danh Chúa Cứu Thế, anh chị em được phước vì Thánh Linh vinh quang tức là Thánh Linh của Đức Chúa Trời ngự trên anh chị em. Đừng có ai trong anh chị em chịu khổ như một kẻ giết người, trộm cướp hay làm điều gian ác, ngay cả như người xen vào việc người khác. Tuy nhiên, nếu anh chị em chịu khổ vì là một tín hữu của Chúa Cứu Thế, đừng xấu hổ nhưng hãy ca ngợi Đức Chúa Trời vì được mang tên ấy. Khi thì giờ phán xét đến, bắt đầu với gia đình của Đức Chúa Trời, và nếu việc này xảy ra cho chúng ta, thì hậu quả sẽ như thế nào đối với những người không vâng phục Phúc Âm của Đức Chúa Trời? Và:“Nếu người công chính khó được cứu rỗi,Thì những người vô đạo và tội lỗi sẽ như thế nào?” Vậy, những ai chịu khổ theo ý của Đức Chúa Trời hãy phó chính mình cho Đấng Tạo Hóa thành tín và tiếp tục làm điều thiện. Đối với các trưởng lão trong anh chị em, tôi xin có lời khuyên, tôi cũng là một trưởng lão như họ, một chứng nhân về sự khổ nạn của Chúa Cứu Thế và là người cùng chia sẻ vinh quang sẽ được tỏ ra. Hãy làm kẻ chăn bầy của Đức Chúa Trời, là bầy ở dưới sự chăm sóc của anh em, hầu việc như một người giám mục, không phải vì bắt buộc, nhưng vì vui lòng, như Đức Chúa Trời muốn anh em làm, không làm vì tham tiền nhưng hăng hái phục vụ; không làm chủ trên những kẻ được giao cho nhưng làm gương cho cả bầy. Và khi Đấng Chủ Chăn hiện đến, anh em sẽ nhận mão hoa vinh quang không phai tàn. Những người trẻ tuổi, cũng hãy vâng phục những người lớn tuổi. Mọi người hãy lấy sự khiêm nhường mà đối đãi nhau, vì“Đức Chúa Trời chống cự kẻ kiêu ngạoNhưng ban phước cho người khiêm nhường.” Bởi đó, anh chị em hãy hạ mình dưới tay quyền năng của Đức Chúa Trời, hầu cho đến kỳ Ngài sẽ nâng anh chị em lên. Hãy trao mọi điều lo lắng mình cho Ngài vì Ngài chăm sóc anh chị em. Hãy tự chủ và tỉnh thức. Kẻ thù của anh chị em là ma quỷ như sư tử rống, đang rình rập chung quanh để tìm xem người nào nó có thể ăn nuốt được. Hãy chống cự nó, hãy đứng vững trong đức tin, vì biết rằng các anh chị em khác cũng đang gặp cùng sự khổ nạn trong thế gian. Và Đức Chúa Trời của mọi ân sủng, là Đấng đã gọi anh chị em vào vinh quang đời đời của Ngài trong Chúa Cứu Thế, sau khi anh chị em chịu khổ ít lâu, chính Ngài sẽ phục hồi, làm cho vững, thêm sức và thiết lập anh chị em. Quyền năng thuộc về Ngài cho đến đời đời. A-men. Tôi có nhờ Si-la, là người tôi xem như là một người em trung tín, giúp tôi viết đôi dòng ngắn ngủi cho anh chị em, để khuyến khích và để làm chứng cho anh chị em rằng đây là ân sủng thật của Đức Chúa Trời. Hãy đứng vững trong đó. Hội thánh tại Ba-by-lôn là những người cùng được chọn với anh chị em, gởi lời chào thăm anh chị em, con trai tôi là Mác cũng chào thăm anh chị em. Hãy chào thăm nhau trong tình yêu thương thân ái. Nguyện xin sự bình an ở cùng hết thảy anh chị em là những người ở trong Chúa Cứu Thế. Tôi là Si-môn Phê-rơ, đầy tớ và Sứ Đồ của Chúa Cứu Thế Giê-su, gửi cho những người nhờ sự công chính của Đức Chúa Trời chúng ta và Chúa Cứu Thế Giê-su đã được nhận lãnh một đức tin quý giá như chúng tôi. Nguyện xin ân sủng và bình an tràn ngập trong anh chị em nhờ sự nhận biết Đức Chúa Trời và Đức Giê-su, Chúa chúng ta. Bởi thần năng, Ngài ban cho chúng ta mọi điều cần để sống và sống tin kính, qua sự nhận biết Ngài là Đấng đã kêu gọi chúng ta bằng vinh quang và nhân từ Ngài. Qua những điều này Ngài đã ban cho chúng ta những lời hứa lớn lao và quý báu, bởi đó anh chị em có thể thoát khỏi dục vọng hư hoại của thế gian mà được dự phần vào bản tánh của Đức Chúa Trời. Vì chính lý do nầy, hãy hết sức thêm cho đức tin anh chị em nhân từ, thêm cho nhân từ hiểu biết, thêm cho hiểu biết tiết chế, thêm cho tiết chế kiên trì, thêm cho kiên trì tin kính, thêm cho tin kính tình huynh đệ, thêm cho tình huynh đệ tình yêu thương. Vì nếu anh chị em có những điều này và càng gia tăng thì sẽ không sợ mình vô hiệu năng hoặc không kết quả trong sự hiểu biết Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta. Nhưng nếu ai thiếu những điều đó sẽ thành người cận thị và mù lòa, người ấy quên rằng mình đã được làm sạch khỏi tội lỗi cũ. Bởi đó, hỡi anh chị em, hãy làm hết sức để khiến sự kêu gọi và chọn lựa của anh chị em được chắc chắn. Vì nếu anh chị em làm như thế, anh chị em sẽ chẳng bao giờ bị vấp ngã. Nhờ thế con đường vào nước đời đời của Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta sẽ được rộng mở tiếp đón anh chị em. Nên tôi sẽ nhắc nhở anh chị em luôn luôn về những điều này, mặc dù anh chị em đã biết rồi và nay cũng đã vững vàng trong lẽ thật. Hễ tôi còn sống trong lều tạm nầy bao lâu, tôi nghĩ nên nhắc để anh chị em nhớ cũng là điều đúng. Vì Chúa Cứu Thế Giê-su của chúng ta đã bày tỏ rõ ràng cho tôi. Và tôi sẽ hết sức mình để sau khi tôi đi rồi anh chị em có thể luôn luôn nhớ những điều này. Chúng tôi không theo những huyền thoại bịa đặt khéo léo khi bày tỏ cho anh chị em quyền năng và sự quang lâm của Chúa Cứu Thế Giê-su chúng ta, nhưng chúng tôi là những nhân chứng của sự oai nghi Ngài. Vì Ngài nhận lãnh sự tôn trọng và vinh quang từ Đức Chúa Cha khi có tiếng từ Đấng Vinh Quang Oai Nghiêm phán với Ngài rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, đẹp lòng Ta hoàn toàn.” Chính chúng tôi cũng nghe tiếng ấy đến từ trời khi chúng tôi ở với Ngài trên núi thánh. Chúng tôi có lời của các tiên tri làm cho chắc chắn, và anh chị em nên chú ý vào điều đó, như ánh sáng soi trong nơi tối tăm, cho đến khi bình minh và sao mai mọc lên trong lòng anh chị em. Trên hết mọi sự, anh chị em phải hiểu rằng không có lời tiên tri nào của Kinh Thánh được giải thích theo ý riêng của một người được. Vì không có lời tiên tri nào đến bởi ý người, nhưng người ta được Đức Thánh Linh tác động nói ra từ Đức Chúa Trời. Nhưng cũng có những tiên tri giả trong dân chúng, cũng như có các giáo sư giả giữa vòng anh chị em. Họ sẽ bí mật đưa vào những tà giáo hủy hoại, ngay cả chối bỏ Chúa là Đấng đã mua chuộc họ, chuốc lấy sự hủy diệt nhanh chóng cho chính mình. Có nhiều người sẽ đi theo đường xấu hổ của họ và vì họ mà con đường lẽ thật bị xúc phạm. Họ vì tham lam sẽ bịa đặt nhiều chuyện để bóc lột anh chị em. Sự hình phạt dành cho họ vẫn sẵn sàng từ lâu và sự hủy diệt của họ chẳng hề ngủ. Nếu Đức Chúa Trời không tha cho các thiên sứ khi họ phạm tội nhưng bỏ họ vào địa ngục, giữ nơi vực sâu tối tăm để chờ sự đoán xét. Nếu Đức Chúa Trời không tha thế giới thuở xưa khi Ngài dùng nước lụt hủy diệt thế giới vô đạo nhưng gìn giữ Nô-ê, một nhà truyền giảng công chính, và bảy người khác; nếu Ngài đoán phạt Sô-đôm và Gô-mô-rơ bằng cách đốt hai thành ấy thành tro bụi, để làm gương cho những người gian ác thấy việc sẽ xảy ra cho họ; và nếu Ngài giải cứu Lót, một người công chính, là người buồn vì đời sống nhơ nhớp của những người vô luân. Vì người công chính ấy, sống ở giữa họ ngày nầy qua ngày kia, linh hồn công chính của ông bị đau xót vì những hành động phi pháp mà ông nghe và thấy. Thế thì Chúa biết giải cứu những người tin kính khỏi những thử thách và giữ những người không công chính để hình phạt cho đến ngày phán xét. Đặc biệt là những người chạy theo những dục vọng hư hoại của xác thịt, khinh dễ uy quyền. Những người ấy hỗn láo, kiêu căng không sợ phạm đến các đấng vinh quang. Ngay cả các thiên sứ, dầu mạnh mẽ và quyền năng vẫn không dám dùng lời lăng nhục để tố cáo các bậc ấy trước sự hiện diện của Chúa. Nhưng những người này phạm thượng đến những việc mà họ không hiểu. Họ như loài vật vô tri, sinh vật của thiên nhiên, được sinh ra để bị săn bắt và hủy diệt, họ cũng như thú vật rồi sẽ chết mất. Họ sẽ nhận điều ác vì việc ác họ đã làm. Sung sướng đối với họ là cuộc truy hoan ngay giữa ban ngày. Họ nhơ nhớp và ô uế, vui thú trong sự lừa dối của mình đang khi ăn tiệc với anh chị em. Mắt họ đầy sự ngoại tình, chẳng ngừng phạm tội. Họ quyến rũ những người không vững vàng. Họ quen thói tham lam, là con cái đáng bị rủa sả. Họ lìa đường ngay thẳng mà đi sai lạc, theo con đường của Ba-la-am, con trai Bô-sô, là kẻ ưa chuộng tiền công gian ác. Nhưng người đã bị quở trách vì việc làm sai quấy bởi một con lừa, là con vật câm, nói tiếng người để ngăn cản sự điên dại của tiên tri ấy. Những người này là những suối không có nước, là sương móc bị cơn bão thổi đi, và sự tối tăm u ám dành sẵn cho họ. Họ nói những lời khoe khoang, rỗng tuếch; họ dùng những dục vọng xấu hổ của xác thịt để quyến rũ những người vừa thoát khỏi kẻ có cuộc sống lầm lạc. Họ hứa tự do cho người đang khi chính mình lại làm nô lệ cho sự hư hoại, bởi vì một người là nô lệ cho bất cứ điều gì chinh phục mình. Nếu họ thoát khỏi sự hư hoại của thế gian nhờ nhận biết Chúa và Chúa Cứu Thế Giê-su của chúng ta rồi lại dính dấp vào đó và bị chinh phục, thì số phận sau cùng của họ còn xấu hơn lúc đầu bội phần. Thà họ không biết con đường công chính còn hơn là đã biết rồi lại quay lưng lìa bỏ điều răn thánh đã truyền cho họ. Đối với họ, những châm ngôn này rất đúng: “Chó liếm lại đồ nó đã mửa” và “heo đã tắm sạch lại lăn lóc trong vũng bùn.” Anh chị em yêu dấu, đây là bức thư thứ hai tôi viết cho anh chị em. Tôi viết cả hai thư này để nhắc nhở hầu gợi lên trong anh chị em một tâm trí chân thực. Tôi muốn anh chị em nhớ lại những lời các tiên tri thánh đã nói trước đây và điều răn của Chúa và Đấng Cứu Thế của chúng ta do các sứ đồ truyền lại. Trước hết, anh chị em phải biết rằng trong những ngày cuối cùng những kẻ châm biếm sẽ đến và chê cười, là người sống theo dục vọng cá nhân, chúng nói rằng: “Lời hứa về sự quang lâm của Ngài ở đâu? Từ khi các tổ phụ an nghỉ, mọi vật vẫn tiếp tục như buổi sáng tạo.” Nhưng họ cố ý làm ngơ rằng ngày xưa bởi lời của Đức Chúa Trời mà các tầng trời hiện hữu, và quả đất được hình thành bởi nước và từ nước. Thế giới thời ấy bị nước tràn ngập và hủy diệt. Bởi lời Ngài các tầng trời và quả đất hiện tại đã được để dành cho lửa, được giữ cho ngày đoán xét và hủy diệt những người vô đạo. Nhưng đừng quên điều này, anh chị em yêu dấu: Đối với Chúa một ngày như ngàn năm và ngàn năm như một ngày. Chúa không chậm trễ trong việc giữ lời hứa của Ngài, như một số người hiểu sự chậm trễ. Ngài kiên nhẫn với anh chị em, không muốn cho một ai hư mất, nhưng muốn mỗi người đều ăn năn. Nhưng ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm. Các tầng trời sẽ tiêu tán với một tiếng lớn. Các nguyên tố sẽ bị lửa hủy diệt và thế gian cùng mọi vật trong thế gian sẽ bị thiêu hủy. Vì mọi sự sẽ bị hủy diệt bằng cách nầy, anh chị em phải trở nên như người như thế nào? Anh chị em phải có một đời sống thánh khiết và tin kính như anh chị em trông chờ và mong ngày của Chúa mau quang lâm. Vào ngày đó lửa sẽ hủy diệt các tầng trời và mọi nguyên tố sẽ bị thiêu đốt tan chảy. Nhưng theo lời Ngài đã hứa, chúng ta chờ đợi một trời mới và đất mới, nơi sự công chính cư ngụ. Vì thế, anh chị em yêu dấu, vì anh chị em đang trông chờ việc nầy, nên hãy hết sức giữ mình cho không tì vết, không gì đáng trách và an hòa với Ngài. Hãy nhớ rằng sự kiên nhẫn của Chúa là cho sự cứu rỗi, cũng như Phao-lô, anh em yêu dấu của chúng ta đã viết cho anh chị em theo sự khôn ngoan Đức Chúa Trời ban cho ông. Trong tất cả các thư tín, ông đều nói như vậy về những vấn đề nầy. Các thư của người có những điều khó hiểu mà những kẻ dốt nát, không vững vàng xuyên tạc, như họ đã làm đối với các phần Kinh Thánh khác, đưa đến sự hủy diệt cho chính mình. Vì thế, anh chị em yêu dấu, anh chị em đã biết trước việc nầy, hãy canh giữ chính mình để anh chị em không bị lôi cuốn bởi những lỗi lầm của những người vô luân mà không còn vững vàng chăng? Nhưng hãy lớn lên trong ân sủng và trong sự hiểu biết Đấng Cứu Rỗi, Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta. Nguyện sự vinh quang thuộc về Ngài hiện nay và cho đến đời đời! A-men. Điều vẫn có từ ban đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều mắt chúng tôi đã thấy, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng và tay chúng tôi đã sờ về Ngôi Lời sự sống. Vì sự sống đã xuất hiện, chúng tôi đã thấy và làm chứng về sự sống ấy. Chúng tôi loan báo cho anh chị em sự sống vĩnh phúc vốn ở với Chúa Cha và đã xuất hiện cho chúng tôi thấy. Điều chúng tôi đã thấy và nghe, chúng tôi loan báo cho anh chị em để anh chị em cũng được thông công với chúng tôi. Và sự thông công của chúng tôi là với Đức Cha và với Con Ngài, Chúa Cứu Thế Giê-su. Chúng tôi viết điều này để niềm vui của chúng ta được trọn vẹn. Đây là lời chúng tôi đã nghe từ Ngài và chúng tôi loan truyền cho anh chị em rằng: Đức Chúa Trời là ánh sáng; trong Ngài không hề có một chút tối tăm nào. Nếu chúng ta nói mình được thông công với Ngài mà vẫn sống trong tối tăm, chúng ta nói dối và không làm theo chân lý. Nhưng nếu chúng ta sống trong ánh sáng cũng như Ngài vẫn hằng ở trong ánh sáng thì chúng ta được thông công với nhau và huyết Đức Giê-su, Con Ngài, thanh tẩy mọi tội lỗi chúng ta. Nếu chúng ta nói rằng mình không có tội thì chúng ta tự lừa dối mình và chân lý không ở trong chúng ta. Nếu chúng ta xưng tội lỗi mình thì Ngài là Đấng thành tín và công chính sẽ tha thứ tội lỗi chúng ta và thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính. Nếu chúng ta nói rằng mình đã không phạm tội, chúng ta làm cho Ngài trở thành kẻ nói dối và lời Ngài không ở trong chúng ta. Hỡi các con bé nhỏ của ta! Ta viết cho các con những điều này để các con đừng phạm tội. Nhưng nếu có ai phạm tội, chúng ta có một Đấng biện hộ với Đức Chúa Cha là Chúa Cứu Thế Giê-su, Đấng Công Chính. Chính Ngài là lễ vật hy sinh chuộc tội lỗi chúng ta, không những tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng tội lỗi của cả thế gian nữa. Nhờ điều này chúng ta biết rằng mình đã biết Ngài: Ấy là chúng ta tuân giữ các điều răn của Ngài. Người nào nói: “Tôi biết Ngài”, nhưng không tuân giữ các điều răn của Ngài là người nói dối, chân lý không ở trong người đó. Người nào tuân giữ lời Ngài thì tình yêu thương Đức Chúa Trời trong người ấy thật toàn hảo, nhờ đó chúng ta biết mình ở trong Ngài: Người nào nói mình ở trong Ngài cũng phải sống như chính Ngài đã sống. Anh chị em yêu dấu, tôi không viết cho anh chị em một điều răn mới nhưng là điều răn cũ, mà anh chị em đã có từ lúc khởi đầu. Điều răn cũ này là lời anh chị em đã nghe. Đồng thời tôi viết cho anh chị em một điều răn mới là điều hiện thực trong Ngài cũng như trong anh chị em, vì bóng tối đã tan đi và ánh sáng thật đang chiếu sáng. Người nào nói mình ở trong ánh sáng mà ghét anh chị em mình thì vẫn còn ở trong bóng tối. Ai thương anh chị em mình thì ở trong ánh sáng, và nơi người đó không có gì gây vấp ngã. Nhưng ai ghét anh chị em mình thì ở trong bóng tối, bước đi trong bóng tối và không biết mình đi đâu vì bóng tối làm mắt người đó mù lòa. Các con bé nhỏ! Ta viết cho các conVì nhờ danh Ngài, tội lỗi các con đã được tha thứ. Các bậc phụ lão! Tôi viết cho các ôngVì các ông đã biết Ngài từ lúc ban đầu.Hỡi các bạn trẻ! Tôi viết cho các bạnVì các bạn đã chiến thắng kẻ ác. Hỡi các con bé mọn! Ta viết cho các conVì các con đã biết Đức Chúa Cha.Hỡi các bậc phụ lão! Tôi đã viết cho các ôngVì các ông đã biết Ngài từ lúc ban đầu.Hỡi các bạn trẻ! Tôi đã viết cho các bạnVì các bạn mạnh mẽ,Lời Đức Chúa Trời ở trong các bạn,Và các bạn đã chiến thắng kẻ ác. Đừng yêu thế gian cùng những gì ở trong thế gian. Nếu ai yêu thế gian thì tình yêu thương của Đức Chúa Cha không ở trong người đó. Vì mọi sự trong thế gian như dục vọng của xác thịt, dục vọng của mắt và kiêu ngạo về cuộc sống vật chất đều không đến từ Đức Chúa Cha, nhưng phát xuất từ thế gian. Và thế gian cùng với dục vọng của nó đều qua đi, nhưng ai làm theo ý định của Đức Chúa Trời tồn tại đến đời đời. Hỡi các con bé mọn, đây là thì giờ cuối cùng, như các con đã nghe rằng kẻ Chống Chúa Cứu Thế phải đến, và giờ đây nhiều kẻ Chống Chúa Cứu Thế đã đến, cho nên chúng ta biết rằng đây là giờ cuối cùng. Họ đã từ chúng ta ra đi, nhưng không thuộc về chúng ta. Vì nếu họ thuộc về chúng ta thì đã ở lại với chúng ta. Nhưng họ đã ra đi để chứng tỏ rằng không một người nào trong họ thuộc về chúng ta. Về phần các con được Đấng Thánh xức dầu và tất cả các con đều có sự hiểu biết. Ta đã viết cho các con, không phải vì các con không biết chân lý nhưng vì các con biết chân lý và vì không có sự dối trá nào từ chân lý mà ra. Ai là kẻ dối trá? Nếu không phải là kẻ chối rằng Đức Giê-su không phải là Chúa Cứu Thế. Đó là kẻ chống Chúa Cứu Thế, kẻ chối Đức Chúa Cha lẫn Đức Chúa Con. Ai chối Đức Chúa Con thì cũng không có Đức Chúa Cha. Ai tuyên xưng Đức Chúa Con thì có Đức Chúa Cha. Về phần các con, hãy giữ những điều các con đã nghe từ lúc khởi đầu ở trong các con. Nếu những điều các con đã nghe từ lúc khởi đầu ở trong mình thì các con sẽ ở trong Đức Chúa Con và trong Đức Chúa Cha. Và đây là lời hứa mà Ngài đã hứa cùng chúng ta: Đó là sự sống vĩnh phúc. Ta viết cho các con những điều này nói về những kẻ lừa dối các con. Về phần các con, sự xức dầu các con đã nhận nơi Ngài vẫn ở trong các con và các con không cần ai dạy dỗ nữa. Nhưng sự xức dầu dạy dỗ các con mọi sự và sự xức dầu là thật, không phải giả dối. Như sự xức dầu ấy đã dạy các con, hãy ở trong Ngài. Vậy, giờ đây, hỡi các con bé nhỏ! Hãy ở trong Ngài, để chúng ta có lòng tin quyết lúc Ngài hiện đến, chứ không hổ thẹn trốn tránh Ngài khi Ngài quang lâm. Nếu các con biết Ngài là công chính và các con biết rằng những ai hành động công chính là người được Ngài sinh ra. Các con hãy xem, Đức Chúa Cha đã yêu thương chúng ta là dường nào, đến nỗi chúng ta được gọi là con cái Đức Chúa Trời, và thật vậy, chúng ta là con cái Ngài. Lý do thế gian không nhận biết chúng ta vì họ không biết Ngài. Các con yêu dấu! Giờ đây chúng ta là con cái Đức Chúa Trời. Còn chúng ta sẽ như thế nào thì chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Ngài hiện đến, chúng ta sẽ được giống như Ngài, vì chúng ta sẽ thấy Ngài như Ngài vẫn hiện hữu. Vậy, ai có hy vọng này nơi Ngài thì phải sống trong sạch, cũng như Ngài vốn là Đấng thanh sạch. Ai phạm tội là người vi phạm Kinh Luật vì tội lỗi là vi phạm Kinh Luật. Và các con biết, Ngài đã đến để xóa bỏ tội lỗi và trong Ngài không có tội lỗi. Ai ở trong Ngài thì không phạm tội, còn ai phạm tội thì đã không thấy Ngài mà cũng không biết Ngài. Hỡi các con bé nhỏ! Chớ để ai lừa dối các con. Ai hành động công chính là người công chính, như chính Ngài là Đấng công chính. Ai phạm tội là người của quỷ vương, vì quỷ vương phạm tội từ lúc ban đầu. Lý do Con của Đức Chúa Trời đã đến là để phá hủy các công việc của quỷ vương. Ai được Đức Chúa Trời sinh ra thì không phạm tội, vì bản chất của Ngài ở trong người ấy. Người ấy không thể phạm tội vì đã được Đức Chúa Trời sinh ra. Đây là điều bày tỏ ai là con cái Đức Chúa Trời và ai là con cái quỷ vương: người nào không hành động công chính thì không thuộc về Đức Chúa Trời, kẻ không yêu thương anh chị em mình cũng vậy. Vì đây là lời loan báo mà các con đã nghe từ lúc khởi đầu: Chúng ta hãy yêu thương nhau. Đừng như Ca-in là kẻ thuộc về quỷ dữ và đã giết em mình. Tại sao người lại giết em mình? Vì hành động của người là gian ác, còn hành động của em người là công chính. Thưa anh chị em, đừng ngạc nhiên nếu thế gian ghét anh chị em. Chúng ta biết rằng: Chúng ta đã vượt qua cõi chết, đến sự sống vì chúng ta yêu thương anh chị em mình. Ai không thương yêu vẫn ở trong cõi chết. Ai ghét anh chị em mình là kẻ sát nhân và anh chị em biết rằng không kẻ sát nhân nào có sự sống vĩnh phúc trong nó. Đây là điều giúp chúng ta biết tình yêu thương là gì: Ấy là Ngài đã hy sinh mạng sống mình vì chúng ta. Vậy chúng ta cũng nên hy sinh mạng sống mình vì anh chị em. Nếu ai có của cải thế gian thấy anh chị em mình đang túng thiếu nhưng chặt dạ, không giúp đỡ người đó thì làm sao tình yêu thương của Đức Chúa Trời ở trong người ấy được? Hỡi các con bé nhỏ, chúng ta đừng thương yêu chỉ bằng lời nói và nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng hãy yêu thương bằng hành động và chân thật. Nhờ đó chúng ta biết rằng chúng ta thuộc về chân lý và chúng ta được an tâm trước mặt Ngài khi lòng chúng ta lên án chúng ta. Vì Đức Chúa Trời vĩ đại hơn lòng chúng ta và Ngài biết mọi sự. Các con yêu dấu! Nếu lòng mình không lên án mình thì chúng ta được vững tâm trước mặt Đức Chúa Trời. Và bất cứ điều gì chúng ta cầu xin thì nhận được điều ấy vì chúng ta tuân giữ các điều răn của Ngài và làm điều đẹp lòng Ngài. Đây là điều răn của Ngài: Chúng ta phải tin vào danh Con Ngài tức là Chúa Cứu Thế Giê-su và phải yêu thương nhau như điều răn Ngài đã truyền cho chúng ta. Vậy, ai tuân giữ các điều răn Ngài thì ở trong Ngài và Ngài trong người ấy. Sở dĩ chúng ta biết Ngài ở trong chúng ta là nhờ Đức Thánh Linh mà Ngài đã ban cho chúng ta. Các con yêu dấu, đừng tin tưởng mọi thần linh, nhưng phải thử các thần linh xem có phải phát xuất từ Đức Chúa Trời hay không, vì có nhiều tiên tri giả đã xuất hiện trên thế gian. Nhờ điều này các con biết được thần linh của Đức Chúa Trời: Thần nào tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa Cứu Thế ra đời bằng thân xác thì thần ấy đến từ Đức Chúa Trời. Còn thần linh nào không tuyên xưng Đức Giê-su như thế thì không đến từ Đức Chúa Trời, đó là thần của kẻ chống Chúa Cứu Thế mà các con đã nghe sẽ đến và hiện nay đang ở trong thế gian rồi. Hỡi các con bé nhỏ! Các con thuộc về Đức Chúa Trời và đã chiến thắng chúng nó, vì Đấng ở trong các con vĩ đại hơn kẻ ở trong thế gian. Họ thuộc về thế gian nên nói những điều từ thế gian và thế gian nghe theo họ. Chúng ta thuộc về Đức Chúa Trời. Ai nhận biết Đức Chúa Trời thì nghe chúng ta, ai không thuộc về Đức Chúa Trời thì không nghe chúng ta. Nhờ điều này chúng ta nhận biết thần chân lý và thần linh sai lầm. Các con yêu dấu! Chúng ta hãy yêu thương lẫn nhau, vì tình yêu thương xuất phát từ Đức Chúa Trời. Ai thương yêu thì đã được Đức Chúa Trời sinh ra và nhận biết Đức Chúa Trời. Ai không yêu thương thì không biết Đức Chúa Trời vì Đức Chúa Trời là tình yêu thương. Đây là cách Đức Chúa Trời biểu lộ tình yêu thương của Ngài giữa vòng chúng ta: Đức Chúa Trời đã sai Con Một của Ngài đến thế gian để nhờ Con ấy chúng ta được sống. Tình yêu thương ở trong điều này: Không phải chúng ta đã yêu kính Đức Chúa Trời, nhưng Ngài đã yêu thương chúng ta và sai Con Ngài làm sinh tế hy sinh chuộc tội lỗi chúng ta. Các con yêu dấu! Nếu Đức Chúa Trời đã yêu thương chúng ta như thế, thì chúng ta cũng nên yêu thương nhau. Chưa ai thấy Đức Chúa Trời bao giờ. Nhưng nếu chúng ta yêu thương nhau thì Đức Chúa Trời ở trong chúng ta và tình yêu của Ngài trong chúng ta được toàn hảo. Nhờ điều này chúng ta biết mình ở trong Ngài và Ngài ở trong chúng ta, vì Ngài đã ban cho chúng ta Thánh Linh của Ngài. Vậy, chúng tôi đã thấy và làm chứng rằng Đức Chúa Cha đã sai Con Ngài làm Đấng Cứu Thế của thế gian. Ai tuyên xưng Đức Giê-su là Con Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời ở trong người ấy và người ấy ở trong Đức Chúa Trời. Chúng ta đã nhận biết và tin tưởng tình yêu thương của Đức Chúa Trời đối với chúng ta. Đức Chúa Trời là tình yêu thương, ai ở trong tình yêu thương ở trong Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời ở trong người ấy. Nhờ đó tình yêu thương giữa chúng ta được toàn vẹn để chúng ta được vững tâm trong ngày phán xét, vì Ngài thế nào thì chúng ta cũng như vậy trong thế gian này. Không có sự sợ hãi trong tình yêu thương, trái lại tình yêu toàn vẹn loại bỏ sợ hãi, vì sợ hãi có hình phạt và ai sợ hãi thì không được toàn vẹn trong tình yêu thương. Chúng ta yêu thương vì Đức Chúa Trời đã yêu thương chúng ta trước. Nếu ai nói: Tôi yêu kính Đức Chúa Trời mà lại ghét anh chị em mình, thì người ấy là kẻ nói dối; Vì ai không yêu thương anh chị em mình là người thấy được, thì không thể yêu kính Đức Chúa Trời là Đấng không thấy được. Và chúng ta có điều răn này: Ai yêu kính Đức Chúa Trời thì cũng phải thương yêu anh chị em mình. Ai tin rằng Đức Giê-su là Chúa Cứu Thế thì sanh bởi Đức Chúa Trời, và người nào yêu kính Cha thì cũng yêu thương Con nữa. Đây là cách chúng ta biết được chúng ta yêu thương con dân Đức Chúa Trời: đó là chúng ta yêu kính Đức Chúa Trời và thi hành điều răn của Ngài. Đây là cách yêu thương Đức Chúa Trời: Vâng theo điều răn của Ngài và những điều răn ấy không nặng nề, vì người nào sinh ra từ Đức Chúa Trời chiến thắng được thế gian. Đây là sự chiến thắng đã chiến thắng thế gian, chính là đức tin của chúng ta. Ai đã chiến thắng thế gian? Chỉ những ai tin Đức Giê-su là Con của Đức Chúa Trời. Đây là Đấng đến bởi nước và huyết, Chúa Cứu Thế Giê-su, Ngài không đến chỉ bởi nước mà thôi, nhưng nước và huyết. Và Đức Thánh Linh làm chứng, vì Đức Thánh Linh là chân lý. Có ba nhân chứng: Đức Thánh linh, nước và huyết; và cả ba đều đồng ý. Nếu chúng ta chấp nhận lời chứng của người thì lời chứng của Đức Chúa Trời còn quan trọng hơn; vì đây là lời chứng của Đức Chúa Trời làm chứng cho Con Ngài. Ai tin Con Đức Chúa Trời thì có lời chứng này trong lòng. Ai không tin Đức Chúa Trời thì khiến Ngài thành kẻ nói dối, vì không tin lời chứng của Đức Chúa Trời về Con Ngài. Và đây là lời chứng đó: Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta sự sống vĩnh phúc và sự sống này ở trong Con Ngài. Ai có Đức Chúa Con có sự sống; ai không có Con của Đức Chúa Trời thì không có sự sống. Tôi viết những điều này cho anh chị em là những người tin danh Con của Đức Chúa Trời để anh chị em biết anh chị em có sự sống vĩnh phúc. Đây là sự bảo đảm chúng ta có để đến gần Đức Chúa Trời: Ấy là nếu chúng ta xin bất cứ điều gì theo ý muốn Ngài thì Ngài sẽ nghe chúng ta. Và nếu chúng ta biết Đức Chúa Trời nghe chúng ta, bất cứ điều gì chúng ta xin, chúng ta biết rằng chúng ta có được điều chúng ta đã xin Ngài. Nếu có ai thấy anh chị em mình phạm một tội không đưa đến sự chết, thì người ấy cầu nguyện và Đức Chúa Trời sẽ ban cho người sự sống. Tôi nói đến những người mà tội không đưa đến sự chết, cũng có tội đưa đến sự chết. Tôi không nói anh chị em phải cầu nguyện về tội đó. Mọi sự bất chính đều là tội, nhưng có loại tội không dẫn đến sự chết. Chúng ta biết rằng ai sanh ra bởi Đức Chúa Trời thì không tiếp tục phạm tội; người sanh ra bởi Đức Chúa Trời giữ mình an toàn và ma quỷ không đụng đến người được. Chúng ta biết chúng ta là con dân của Đức Chúa Trời và cả thế gian đều nằm trong sự kiểm soát của ma quỷ. Chúng ta cũng biết Con của Đức Chúa Trời đã đến và đã ban cho chúng ta sự hiểu biết để chúng ta biết Ngài là chân thật. Và chúng ta ở trong Ngài, Đấng chân thật, tức là ở trong Con Ngài, Chúa Cứu Thế Giê-su. Ngài là Đức Chúa Trời chân thật và sự sống vĩnh phúc. Các con thân mến! Hãy giữ mình khỏi hình tượng. Trưởng lão kính gởi bà là người được chọn và các con cái bà là những người tôi yêu thương trong chân lý và không những chỉ có tôi, nhưng cả những ai biết chân lý, vì chân lý ở trong chúng ta và tồn tại trong chúng ta mãi mãi. Nguyện xin ân sủng, lòng thương xót và bình an đến từ Đức Chúa Trời là Cha và từ Chúa Cứu Thế Giê-su, Con của Cha, ở với chúng ta trong chân lý và tình yêu thương. Thật tôi rất vui biết được các con cái của bà đi trong chân lý, theo điều răn chúng ta đã nhận từ nơi Cha. Và bây giờ, thưa bà, tôi không viết cho bà một điều răn nào mới, nhưng là điều chúng ta có từ ban đầu. Tôi nài xin rằng chúng ta hãy yêu thương lẫn nhau. Và đây là tình yêu thương: Chúng ta bước đi theo điều răn của Ngài. Như chúng ta nghe từ ban đầu, điều răn của Ngài là chúng ta bước đi trong tình yêu thương. Nhiều kẻ lừa dối đã đến trong thế gian, là kẻ không công nhận Chúa Cứu Thế Giê-su đã đến trong thân xác. Bất cứ người nào như vậy là kẻ lừa dối và là kẻ chống Chúa Cứu Thế. Coi chừng kẻo bà đánh mất điều mà mình đã thực hiện được, là điều bà có thể được tưởng thưởng đầy đủ. Những ai đi trước mà không tiếp tục ở trong sự giáo huấn của Chúa Cứu Thế thì không có Đức Chúa Trời; ai tiếp tục ở trong sự giáo huấn đó thì có được Đức Chúa Cha lẫn Đức Chúa Con. Nếu có ai đến với bà mà không mang theo lời giáo huấn này, đừng đón tiếp vào nhà hay hoan nghênh người. Bất cứ ai hoan nghênh người tức là cùng làm công việc ác với người. Tôi có nhiều điều để viết cho bà, nhưng tôi không muốn dùng giấy và mực. Thay vì, tôi hy vọng được thăm bà và đuợc đối diện hầu chuyện với bà, để niềm vui của chúng ta được trọn vẹn. Con cái của người chị em được lựa chọn của bà gửi lời chào thăm. Trưởng lão gởi Gai-út thân mến, là người tôi yêu quý trong chân lý. Anh thân mến! Tôi cầu chúc anh được thịnh vượng trên mọi mặt, được mạnh khoẻ về phần xác cũng như vẫn thịnh vượng về phần hồn. Vì tôi rất mừng khi các anh chị em đến đây làm chứng rằng anh có lòng trung thành với chân lý như anh vẫn sống trong chân lý vậy. Không có gì vui mừng hơn cho tôi khi nghe biết con cái mình sống trong chân lý. Anh thân mến! Anh vẫn trung tín trong những việc anh làm cho các anh chị em, dù họ là người xa lạ. Họ làm chứng trước hội thánh về tình yêu thương của anh. Anh sẽ làm một việc tốt đẹp nếu anh giúp đỡ cho cuộc hành trình của họ một cách xứng đáng trước mặt Đức Chúa Trời. Vì họ đã nhân danh Ngài ra đi mà không nhận gì của người ngoại cả. Vậy, chúng ta cần phải hỗ trợ những người như thế để chúng ta trở thành người đồng lao hành động cho chân lý. Tôi đã viết vài điều cho hội thánh, nhưng Đi-ô-trép, người thích đứng đầu hội thánh không chấp nhận chúng tôi. Vì thế, nếu tôi đến, tôi sẽ nêu ra những việc ông ấy đã làm, những lời độc ác vô lý chống lại chúng tôi. Đã thế vẫn chưa đủ, ông ta còn không tiếp đón các anh chị em và ai muốn tiếp đón thì ông ta ngăn cản và đuổi ra khỏi hội thánh. Anh thân mến! Đừng bắt chước điều ác, nhưng hãy bắt chước điều thiện. Ai làm điều thiện là thuộc về Đức Chúa Trời, còn kẻ làm điều ác thì đã chẳng thấy Đức Chúa Trời. Mọi người đều làm chứng tốt cho Đê-mê-triu và chính chân lý cũng làm chứng như thế. Chúng tôi cũng làm chứng tốt cho anh ấy và anh ấy biết rằng lời chứng của chúng tôi là thật. Tôi còn nhiều điều phải viết cho anh, nhưng không muốn viết bằng bút và mực. Tôi hy vọng sớm được thăm anh và trò chuyện mặt đối mặt với nhau. Cầu chúc anh được bình an! Các bạn hữu gởi lời thăm anh. Cho tôi gởi lời thăm các bạn hữu đích danh từng người. Tôi là Giu-đe, đầy tớ của Chúa Cứu Thế Giê-su và em của Gia-cơ,Kính gởi những người được kêu gọi là những người được Đức Chúa Trời là Cha chúng ta yêu thương và được Chúa Cứu Thế Giê-su gìn giữ. Nguyện xin lòng thương xót, bình an và tình yêu thương ban cho anh chị em được gia tăng bội phần. Anh chị em yêu dấu, tôi vẫn mong ước viết cho anh chị em về sự cứu rỗi chung của chúng ta, nhưng tôi thấy cần phải viết để khuyên anh chị em hãy tiếp tục chiến đấu cho đức tin, là đức tin đã được ban cho các thánh đồ một lần đầy đủ cả. Vì có mấy kẻ trà trộn vào giữa vòng anh chị em, là những kẻ từ xưa đã dành riêng để bị hình phạt, là những kẻ không tin kính, đã biến ân sủng của Đức Chúa Trời thành đời sống phóng đãng, chối bỏ Đấng Chủ Tể duy nhất và Chúa chúng ta là Chúa Cứu Thế Giê-su. Mặc dầu anh chị em đã biết tất cả, tôi tưởng cũng nên nhắc lại rằng dù Ngài đã giải cứu dân Ngài ra khỏi xứ Ai-cập, sau đó Ngài lại tiêu diệt những kẻ không tin. Các thiên sứ không chịu giữ địa vị của mình, nhưng lại bỏ chỗ riêng, nên họ bị Đức Chúa Trời tống giam, chịu xiềng xích bất tận trong ngục tối chờ đợi sự phán xét trong ngày lớn. Hãy nhớ lại thành Sô-đôm, Gô-mô-rơ và các thành phố chung quanh; dân chúng trong các thành ấy đã làm không khác gì các thiên sứ kia, phạm tội tà dâm, chạy theo tình dục đồng giới. Họ đang bị lửa đời đời đoán phạt để làm gương. Cũng một cách đó, những người mơ mộng này làm ô uế thân xác, khinh dễ thẩm quyền và báng bổ các thiên sứ vinh quang. Dù thiên sứ trưởng Mi-chên cũng không làm vậy. Trong khi đối chất với quỷ vương về việc ai sẽ được xác của Môi-se, cũng không dám lấy lời lăng mạ tố cáo nhưng chỉ nói rằng: “Chúa sẽ quở trách ngươi!” Nhưng bọn người này lấy lời lăng mạ bất cứ điều gì họ không hiểu; còn những gì họ biết bằng trực giác, giống như các loài thú vô tri, là những điều đang hủy diệt họ. Khốn thay cho họ! Họ đã chọn theo con đường của Ca-in, vì lợi lộc, họ đã tự chuốc cho mình lỗi lầm của Ba-la-am, và phản loạn như Cô-rê, để bị hủy diệt. Họ giống như những vết nhơ trong bữa tiệc thương yêu, cùng dự tiệc mà không biết sợ, chỉ biết lo cho chính mình; họ giống như những áng mây không nước bị gió cuốn trôi đi; họ giống như những cây không trái cuối thu, bị nhổ tận rễ, chết đến hai lần. Họ giống như những lượn sóng cuồng dưới biển, sủi bọt bỉ ổi của mình; giống như những vì sao lạc, sự tối tăm u ám đời đời đã được dành sẵn cho họ. Cũng vì bọn người này mà Hê-nóc là cháu bảy đời của A-đam đã tiên tri rằng: “Xem kìa, Chúa sẽ đến với muôn ngàn thánh để xét đoán mọi người, để định tội hết thảy vì tất cả những việc không tin kính họ đã làm và tất cả lời dữ từ những kẻ tội lỗi không tin kính đã nói nghịch Ngài.” Hạng người này luôn luôn cằn nhằn, trách móc, chạy theo các dục vọng riêng tư, ưa khoe khoang, nịnh hót người ta để trục lợi cho mình. Nhưng anh chị em yêu dấu, nên ghi nhớ những lời các sứ đồ của Chúa Cứu Thế Giê-su chúng ta đã nói trước cho anh chị em. Họ đã nói rằng: “Khi những ngày cuối cùng đến, có nhiều kẻ sẽ chế giễu anh chị em, có nhiều kẻ chạy theo dục vọng vô đạo.” Đây là những kẻ chia rẽ, những con người phàm tục, không có Thánh Linh. Nhưng anh chị em yêu dấu, hãy gây dựng lẫn nhau trong đức tin rất thánh. Hãy cầu nguyện trong Đức Thánh Linh. Hãy giữ mình trong tình yêu thương của Đức Chúa Trời. Mong đợi lòng thương xót của Chúa Cứu Thế Giê-su chúng ta cho được sự sống vĩnh phúc. Hãy thương xót những người này, là người nghi ngờ, hãy cứu vớt những người kia, kéo họ ra khỏi lửa; còn những người khác, hãy thương xót lẫn sợ, ghét cả cái áo bị xác thịt làm ô uế. Nguyện xin Đấng có quyền gìn giữ anh chị em khỏi vấp ngã, trình anh chị em một cách hân hoan và không có gì đáng trách trước sự hiện diện vinh quang của Ngài; là Đức Chúa Trời duy nhất, Đấng cứu rỗi chúng ta qua Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta. Nguyện xin vinh quang, oai nghiêm, năng lực và uy quyền đều thuộc về Ngài từ trước mọi thời đại, hiện tại và cho đến đời đời. A-men. Đây là mạc khải của Chúa Cứu Thế Giê-su, điều Đức Chúa Trời đã ban cho Ngài để bày tỏ cho các đầy tớ Ngài những việc sắp phải xảy ra. Ngài sai thiên sứ Ngài loan báo cho Giăng, đầy tớ Ngài. Giăng làm chứng về lời của Đức Chúa Trời và về lời chứng của Chúa Cứu Thế Giê-su, tức là mọi điều ông đã thấy. Phước cho người nào đọc và nghe các lời tiên tri này và tuân giữ các điều ghi chép ở đây vì thì giờ gần đến rồi. Tôi là Giăng, kính gởi bảy Hội Thánh tại Tiểu Á. Cầu chúc anh chị em hưởng được ân sủng và bình an từ Đấng hiện có, đã có và đang đến và từ bảy thần linh trước ngai Ngài và từ Chúa Cứu Thế Giê-su là nhân chứng thành tín, Đấng trưởng nam trên kẻ chết và là Chủ Tể của các vua khắp thế giới. Đấng yêu thương chúng ta, đã lấy huyết mình giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, và lập chúng ta thành một vương quốc và thành các thầy tế lễ để phục vụ Đức Chúa Trời là Cha Ngài. Nguyện Chúa Cứu Thế Giê-su được vinh quang và năng lực đời đời. A-men! Kìa, Ngài ngự đến với các đám mây.Mọi mắt sẽ trông thấy Ngài,Kể cả những kẻ đã đâm Ngài.Tất cả các dân tộc trên thế giới sẽ than khóc vì Ngài,thật thế, A-men! Chúa là Đức Chúa Trời phán: “Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Đấng hiện có, đã có và đang đến, là Đấng Toàn Năng.” Tôi là Giăng, là anh em và người cùng chia sẻ hoạn nạn, Vương Quốc và sự kiên nhẫn với quý anh chị em trong Đức Giê-su, bị đày ở đảo Bác-mô vì giảng lời Đức Chúa Trời và làm chứng về Đức Giê-su. Vào ngày của Chúa, tôi được Thánh Linh cảm hóa, nghe sau lưng có tiếng lớn như tiếng kèn bảo: “Con hãy ghi chép vào một quyển sách những điều con thấy và gởi cho bảy Hội thánh: Ê-phê-sô, Si-miệc-nơ, Bẹt-găm, Thi-a-ti-rơ, Sạt-đe, Phi-la-đen-phi và Lao-đi-xê.” Tôi xoay người lại xem tiếng nói đã bảo tôi. Vừa xoay lại, tôi thấy bảy giá đèn bằng vàng, và giữa các giá đèn có ai giống như Con Người, mặc áo dài chấm chân, thắt đai vàng ngang ngực, đầu và tóc Ngài trắng như lông chiên, trắng tựa tuyết, mắt Ngài sáng rực như ngọn lửa, hai chân Ngài bóng loáng như đồng luyện trong lò và tiếng Ngài như tiếng nhiều dòng thác. Tay phải Ngài cầm bảy ngôi sao, miệng Ngài hé lộ một thanh gươm hai lưỡi sắc bén. Mặt Ngài như mặt trời chiếu sáng rực rỡ. Khi thấy Ngài, tôi ngã nhào xuống chân Ngài như đã chết, nhưng Ngài đặt tay phải trên tôi mà bảo: “Con đừng sợ! Ta là Đầu Tiên và Cuối cùng, là Đấng hằng sống; Ta đã chết, kìa nay Ta sống đời đời, cầm chìa khóa của sự chết và Âm Phủ. Vì thế, con hãy ghi chép những việc con đã thấy, những việc đang diễn tiến và những việc sẽ xảy ra sau này. Đây là huyền nhiệm về bảy ngôi sao mà con đã thấy trong tay phải Ta và về bảy giá đèn bằng vàng: Bảy ngôi sao là các thiên sứ của bảy hội thánh và bảy giá đèn là bảy hội thánh đó.” Con hãy viết cho thiên sứ của hội thánh Ê-phê-sô: “Đây là lời của Đấng cầm bảy ngôi sao trong tay phải và đi giữa bảy giá đèn bằng vàng. Ta biết các công việc con, sự lao khổ và nhẫn nại của con, biết con không thể nào dung túng những kẻ tà ác, biết con đã thử những kẻ tự xưng là sứ đồ mà thực ra không phải, con đã nhận chân rằng chúng giả dối. Con đã kiên nhẫn và chịu đựng vì danh Ta, không mỏi mệt. Nhưng, Ta có điều trách con vì con đã mất tình yêu ban đầu. Vậy, con hãy nhớ lại con đã vấp ngã từ đâu, hãy ăn năn và làm lại công việc ban đầu. Nếu không, Ta sẽ đến và dời giá đèn của con ra khỏi chỗ của nó, trừ khi con ăn năn. Nhưng con có điều này khá là con ghét các việc làm của bọn Ni-cô-la mà Ta cũng ghét nữa. Ai có tai hãy lắng nghe lời Thánh Linh phán dạy các Hội Thánh: Người nào thắng sẽ được Ta cho ăn trái cây sự sống ở Thiên Đàng của Đức Chúa Trời.” Con hãy viết cho thiên sứ của hội thánh Si-miệc-nơ: “Đấng Đầu Tiên và Cuối Cùng, Đấng chịu chết và sống lại, phán rằng: Ta biết hoạn nạn và nghèo khó của con, nhưng con vẫn giàu có, và lời vu cáo của những kẻ tự xưng là Do Thái mà thực ra không phải, nhưng chúng thuộc về hội đường của Sa-tan. Con đừng sợ những nỗi khổ đau sắp phải chịu. Này, quỷ vương sắp tống ngục một số người của các con để thử các con và các con sẽ bị hoạn nạn trong mười ngày. Con hãy trung tín cho đến chết, thì Ta sẽ ban cho con mão sự sống. Ai có tai hãy lắng nghe lời Thánh Linh phán dạy các Hội thánh: Người nào thắng sẽ chẳng bị sự chết thứ hai làm thương tổn.” Con hãy viết cho thiên sứ của hội thánh Bẹt-găm: “Đấng có thanh gươm hai lưỡi sắc bén phán rằng: Ta biết nơi con ở, nơi Sa-tan đặt ngai, và con giữ vững danh Ta, không chối bỏ niềm tin nơi Ta, ngay giữa những ngày mà An-ti-ba, nhân chứng trung kiên của Ta bị giết nơi các con là nơi Sa-tan ở. Nhưng Ta có ít điều trách con vì nơi con có người dung túng giáo huấn Ba-la-am, kẻ đã dạy Ba-lác đặt đá gây vấp ngã trước mặt con cái Y-sơ-ra-ên, quyến rũ chúng ăn của cúng thần tượng và phạm tội tà dâm. Con cũng có những kẻ theo giáo huấn của Ni-cô-la. Vậy, con hãy ăn năn, nếu không, Ta sẽ đến với con ngay, dùng lưỡi gươm ở miệng Ta mà chiến đấu với chúng. Ai có tai hãy nghe lời Thánh Linh phán dạy các hội thánh: Người nào thắng, Ta sẽ cho ma-na đã được giấu kỹ. Ta sẽ cho người viên đá trắng, trên đá ấy có ghi một tên mới, ngoài người nhận nó, không ai biết được.” Con hãy viết cho thiên sứ của hội thánh Thi-a-ti-rơ: “Con Đức Chúa Trời, Đấng có mắt như ngọn lửa và chân như đồng bóng loáng phán: Ta biết các công việc, tình yêu thương, đức tin, sự phục vụ và lòng kiên nhẫn của con, các công việc con làm về sau còn trổi hơn công việc ban đầu nữa. Nhưng Ta có điều trách con vì con dung túng Giê-sa-bên, người đàn bà tự xưng là nữ tiên tri dạy dỗ và lừa gạt các đầy tớ Ta, quyến rũ họ phạm tội tà dâm và ăn của cúng thần tượng. Ta đã cho nó thì giờ để ăn năn, nhưng nó không chịu ăn năn tội gian dâm mình. Này, Ta sẽ ném nó trên giường đau đớn và những kẻ phạm tội tà dâm với nó, nếu không ăn năn các tội lỗi ấy, cũng sẽ chịu đau đớn khủng khiếp. Ta sẽ giết chết các con cái nó. Lúc ấy tất cả các hội thánh sẽ biết rằng Ta là Đấng dò xét lòng dạ loài người, và Ta sẽ báo trả xứng đáng cho các ngươi, mỗi người tùy theo công việc mình làm. Còn các con là những con cái khác ở Thi-a-ti-rơ, những người không theo giáo huấn đó, không biết đến điều mà chúng gọi là sự mầu nhiệm của Sa-tan, thì Ta bảo các con: Ta không đặt gánh nào khác trên các con. Tuy nhiên, các con hãy giữ vững điều các con đang có cho tới khi Ta đến. Người nào thắng và giữ các công việc của Ta cho đến cuối cùng sẽ được Ta ban thẩm quyền cai trị các nước. Người ấy sẽ chăn dắt họ bằng một cây gậy sắt,Và đập tan chúng như đồ gốm, cũng như Ta đã nhận uy quyền đó nơi Cha Ta, Ta sẽ ban cho người ấy ngôi sao mai. Ai có tai hãy lắng nghe lời Thánh Linh phán dạy các hội thánh.” Con hãy viết cho thiên sứ của hội thánh Sạt-đe: “Đấng có bảy thần linh của Đức Chúa Trời và bảy ngôi sao phán rằng: Ta biết các công việc con, con có tiếng là sống nhưng thực ra là chết. Con hãy tỉnh thức và củng cố những gì còn lại, tức là những gì sắp chết, vì Ta thấy công việc con bất toàn trước mặt Đức Chúa Trời Ta. Vậy, con hãy nhớ lại mình đã nhận và nghe thế nào, rồi giữ vững và ăn năn đi. Vậy, nếu con không tỉnh thức, Ta sẽ đến như kẻ trộm và con không thể biết được giờ nào Ta đến với con. Nhưng ở Sạt-đe con còn có ít người không làm hoen ố áo xống mình, họ sẽ mặc áo trắng mà đi với Ta vì họ xứng đáng. Người nào thắng sẽ được mặc áo tinh bạch như vậy. Ta sẽ chẳng bao giờ xóa tên người khỏi sách sự sống, và Ta sẽ tuyên bố danh người trước mặt Cha Ta và trước mặt các thiên sứ của Ngài. Ai có tai hãy lắng nghe lời Thánh Linh phán dạy các hội thánh.” Con hãy viết cho thiên sứ của hội thánh Phi-la-đen-phi: “Đấng thánh khiết và chân thật, Đấng giữ chìa khóa của Đa-vít, Đấng mở thì không ai đóng được, đóng thì không ai mở được, phán rằng: ‘Ta biết các công việc con. Này, Ta đã mở trước mặt con một cái cửa không ai đóng được, vì con có ít năng lực mà vẫn giữ lời Ta và không chối danh Ta. Này, Ta sẽ ban cho con mấy kẻ thuộc hội đường của Sa-tan, là những kẻ tự xưng là Do Thái mà thực ra không phải, nhưng chúng nói dối. Này, Ta sẽ khiến chúng đến, quỳ gối dưới chân con, và chúng sẽ biết rằng Ta đã yêu con. Vì con đã vâng giữ lời kiên nhẫn Ta, nên Ta sẽ gìn giữ con khỏi giờ thử thách là giờ sẽ đến trong khắp thế gian để thử những người sống trên mặt đất. Ta đến mau chóng, con hãy giữ điều con có để không ai cất lấy mão của con. Người nào thắng, Ta sẽ cho làm cột trụ trong thánh điện Đức Chúa Trời Ta và người sẽ chẳng bao giờ ra khỏi đó nữa. Ta sẽ viết trên người danh của Đức Chúa Trời Ta, và danh của thành phố Đức Chúa Trời Ta, là Giê-ru-sa-lem mới, gốc ở trên trời, từ Đức Chúa Trời Ta mà xuống, và danh mới của Ta.’ Ai có tai hãy lắng nghe lời của Thánh Linh phán dạy các hội thánh.” Con hãy viết cho thiên sứ của hội thánh Lao-đi-xê: “Đấng A-men, Đấng làm nhân chứng thành tín và chân thật, là khởi nguyên của vạn vật Đức Chúa Trời sáng tạo. Ta biết các công việc con; con không lạnh cũng không nóng; Ta ước gì con nóng hoặc lạnh hẳn thì hơn. Vì con hâm hẩm, không nóng cũng không lạnh, nên Ta sắp nhổ con ra khỏi miệng Ta. Vì con nói: ‘Ta giàu, ta đã làm nên giàu có, không cần chi nữa,’ nhưng con không biết mình cùng khốn, đáng thương, nghèo khổ, đui mù và lõa lồ. Ta khuyên con hãy mua vàng tinh luyện bằng lửa của Ta để con được giàu có, mua áo xống tinh bạch để mặc vào và sự xấu hổ vì lõa lồ của con khỏi lộ ra, và mua thuốc nhỏ mắt để nhỏ vào mắt con ngõ hầu con thấy rõ. Còn Ta, những kẻ Ta yêu thì Ta quở trách và sửa phạt. Vậy, con hãy sốt sắng và ăn năn đi! Này, Ta đứng bên cửa mà gõ; nếu ai nghe tiếng Ta mà mở cửa ra, Ta sẽ vào với người ấy; Ta sẽ ăn tối với người, và người với Ta. Người nào thắng, Ta sẽ cho ngồi với Ta trên ngai Ta, cũng như chính Ta đã thắng và ngồi với Cha Ta trên ngai Ngài. Ai có tai hãy lắng nghe lời Thánh Linh phán dạy các hội thánh!” Sau đó, tôi nhìn xem, kìa có một cái cửa đã mở ra trên trời. Và tiếng nói như tiếng kèn tôi đã nghe lần trước bảo tôi: “Con hãy lên đây! Ta sẽ tỏ cho con biết những việc phải xảy ra sau các điều này.” Lập tức, tôi được Thánh Linh cảm hóa. Và kìa, có cái ngai đặt trên trời, trên ngai có một Đấng đang ngồi. Đấng ngồi trên ngai có dạng như ngọc thạch anh và ngọc mã não và có cầu vồng bọc quanh ngai giống như ngọc lục bảo. Quanh ngai, có hai mươi bốn ngai khác và hai mươi bốn trưởng lão đang ngồi trên các ngai, mặc áo tinh bạch, đầu đội mão bằng vàng. Từ nơi ngai phát ra chớp nhoáng, tiếng ầm ầm và tiếng sấm. Bảy ngọn đèn cháy rực thắp trước ngai, đó là bảy thần linh của Đức Chúa Trời. Trước ngai, có vật giống như biển bằng thủy tinh, trong như pha lê. Giữa ngai và quanh ngai có bốn sinh vật trước mặt và sau lưng đầy những mắt. Sinh vật thứ nhất giống như sư tử, sinh vật thứ hai như bò đực, sinh vật thứ ba có mặt như mặt người và sinh vật thứ tư như đại bàng đang bay. Bốn sinh vật ấy mỗi con đều có sáu cánh; quanh thân mình và bên trong đầy những mắt, ngày đêm tung hô không dứt:“Thánh thay, thánh thay, thánh thay,Chúa là Đức Chúa Trời toàn năng,đã có, hiện có và đang đến!” Mỗi khi bốn sinh vật tôn vinh, ca ngợi và cảm tạ Đấng ngự trên ngai là Đấng sống đời đời vô cùng, thì hai mươi bốn trưởng lão quỳ xuống trước Đấng ngự trên ngai và thờ lạy Đấng sống đời đời vô cùng. Họ đặt mão mình trước Ngai mà tung hô: “Lạy Chúa là Đức Chúa Trời của chúng con,Chúa xứng đáng nhận vinh quang, danh dự và quyền năng,Vì Chúa đã sáng tạo vạn vật,Do ý chỉ của Chúa mà vạn vật hiện hữuVà được sáng tạo.” Rồi tôi thấy bên phải Đấng ngự trên ngai một quyển sách viết cả trong lẫn ngoài, được niêm phong bằng bảy ấn. Tôi cũng thấy một thiên sứ dũng mãnh lớn tiếng tuyên bố: “Ai xứng đáng tháo các ấn và mở quyển sách ra?” Nhưng cả trên trời, dưới đất hoặc bên dưới đất cũng chẳng có ai mở được quyển sách hoặc nhìn vào sách nổi, nên tôi khóc nức nở vì không có ai xứng đáng mở cuốn sách hay nhìn vào sách. Nhưng một trưởng lão bảo tôi: “Anh đừng khóc! Kìa, Sư tử của chi tộc Giu-đa, là chồi của Đa-vít đã chiến thắng, để mở quyển sách và tháo bảy ấn ra.” Tôi lại thấy Chiên Con đứng giữa Ngai và bốn sinh vật, ngay giữa các trưởng lão, Chiên Con như đã bị giết, có bảy sừng và bảy mắt, tức là bảy thần linh mà Đức Chúa Trời sai đi khắp mặt đất. Chiên Con đến, lấy quyển sách trong tay phải của Đấng ngự trên ngai. Khi Ngài lấy sách, bốn sinh vật và hai mươi bốn trưởng lão quỳ xuống trước Chiên Con, mỗi người cầm một cây đàn hạc và bưng các lư hương bằng vàng đựng đầy trầm hương, tức là các lời cầu nguyện của các thánh đồ. Họ hát một bài ca mới:“Ngài xứng đáng nhận quyển sáchVà tháo các ấn trên sách raVì Ngài đã chịu chếtVà dùng huyết mình mua chuộc cho Đức Chúa TrờiNhững người trong tất cả các sắc tộc, ngôn ngữ, dân tộc, quốc gia, Khiến họ thành một vương quốc và các thầy tế lễ cho Đức Chúa Trời,Họ sẽ trị vì trên mặt đất.” Lúc ấy, tôi nhìn xem và nghe tiếng của nhiều thiên sứ quanh ngai, các sinh vật và các trưởng lão, số thiên sứ đông hàng muôn hàng triệu, đồng hô lớn:“Chiên Con đã chịu chếtXứng đáng được quyền năng, giàu có, khôn ngoan, dũng lực,Danh dự, vinh quang và ca tụng.” Tôi cũng nghe mỗi tạo vật trên trời, dưới đất, bên dưới đất, ngoài biển và vạn vật trong đó ca rằng:“Đấng ngự trên ngai và Chiên ConĐược ca tụng, danh dự, vinh quang và quyền năngđời đời vô cùng!” Bốn sinh vật nói: “A-men!” Rồi hai mươi bốn trưởng lão quỳ sấp xuống thờ lạy. Tôi nhìn xem khi Chiên Con tháo ấn thứ nhất trong bảy ấn. Tôi nghe một trong bốn sinh vật gọi vang như tiếng sấm: “Đến đây!” Kìa, tôi nhìn thấy một con ngựa trắng. Người cưỡi ngựa cầm một cái cung và được ban cho một mão. Người ra đi như người chiến thắng để chinh phục. Khi Ngài tháo ấn thứ nhì, tôi nghe sinh vật thứ nhì gọi: “Đến đây!” Một con ngựa đỏ xuất hiện. Người cưỡi ngựa được ban quyền dẹp bỏ nền hòa bình thế giới, gây ra cuộc giết hại lẫn nhau. Người cũng được ban cho một thanh gươm lớn. Khi Ngài tháo ấn thứ ba, tôi nghe sinh vật thứ ba gọi: “Đến đây!” Kìa, tôi thấy một con ngựa đen. Người cưỡi ngựa tay cầm cây cân. Tôi nghe như có tiếng nói giữa bốn sinh vật: “Một đồng đê-na-ri một đấu lúa mì, một đồng đê-na-ri ba đấu lúa mạch, còn dầu và rượu, đừng làm hư hại.” Khi Ngài tháo ấn thứ tư, tôi nghe sinh vật thứ tư gọi: “Đến đây!” Kìa, tôi thấy một con ngựa xanh xao. Người cưỡi ngựa tên là Tử Vong, có Âm Phủ theo sau, được quyền trên một phần tư dân số thế giới để tàn sát họ bằng gươm đao, đói kém, nạn dịch và các loài thú dữ trên đất. Khi Ngài tháo ấn thứ năm, tôi thấy dưới bàn thờ các linh hồn của những người bị giết vì Đạo của Đức Chúa Trời và vì lời chứng của họ. Họ lớn tiếng kêu xin: “Lạy Chúa, là Đấng thánh khiết và chân thật! Đến bao giờ Ngài mới xét xử và báo trả các cư dân trên đất về tội đổ máu chúng con?” Mỗi người trong số ấy được ban cho một chiếc áo dài tinh bạch và khuyên phải nghỉ ngơi ít lâu nữa, cho đến khi đủ số bạn đồng lao và các anh chị em sắp bị giết như họ. Khi Chiên Con tháo ấn thứ sáu, tôi thấy một trận động đất lớn, mặt trời tối tăm như tấm nỉ đen, toàn mặt trăng đỏ như máu, các ngôi sao trên trời rơi xuống đất như sung xanh rụng trong trận bão. Bầu trời thu lại như cuốn sách bằng da cuộn lại; tất cả các ngọn núi, hải đảo đều bị nhổ ra khỏi vị trí của mình. Lúc ấy, các vua trên thế giới, các lãnh tụ, các tướng lĩnh, các người giàu có và quyền thế, tất cả nô lệ và người tự do đều ẩn trốn vào các hang hầm và các khe đá trên núi. Họ xin các núi và các tảng đá: “Hãy rơi xuống trên chúng tôi, hãy che khuất chúng tôi để chúng tôi khỏi đối diện với Đấng ngự trên ngai và khỏi cơn thịnh nộ của Chiên Con, vì ngày vĩ đại, ngày thịnh nộ của các Ngài đã đến, ai có thể đứng nổi?” Sau đó, tôi thấy bốn thiên sứ đứng tại bốn góc quả đất, cầm giữ bốn ngọn gió của thế gian để ngăn không cho ngọn gió nào thổi trên đất, trên biển hoặc trên bất kỳ cây cối nào. Tôi cũng thấy một thiên sứ khác từ phương đông đến, mang ấn của Đức Chúa Trời hằng sống. Thiên sứ này lớn tiếng gọi bốn thiên sứ kia, là những vị được ủy quyền phá hoại đất và biển: “Đừng phá hoại đất, biển hoặc các cây cối cho đến khi nào chúng tôi đóng ấn trên trán các đầy tớ của Đức Chúa Trời chúng ta!” Rồi tôi nghe số người được đóng ấn là 144.000 người trong tất cả các chi tộc Y-sơ-ra-ên: 12.000 thuộc chi tộc Giu-đa được đóng ấn,12.000 thuộc chi tộc Ru-bên,12.000 thuộc chi tộc Gát, 12.000 thuộc chi tộc A-se,12.000 thuộc chi tộc Nép-ta-li,12.000 thuộc chi tộc Ma-na-se, 12.000 thuộc chi tộc Si-mê-ôn,12.000 thuộc chi tộc Lê-vi,12.000 thuộc chi tộc Y-sa-ca, 12.000 thuộc chi tộc Sa-bu-luân,12.000 thuộc chi tộc Giô-sép,12.000 thuộc chi tộc Bên-gia-min được đóng ấn. Sau đó, tôi thấy một đoàn người rất đông không ai đếm được, từ tất cả các quốc gia, chủng tộc, dân tộc và ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Chiên Con, mặc áo dài tinh bạch, tay cầm cành chà là. Họ hô lớn:“Ơn cứu rỗi thuộc về Đức Chúa Trời chúng ta,Là Đấng ngự trên ngaiVà thuộc về Chiên Con!” Tất cả các thiên sứ đứng quanh ngai, quanh các trưởng lão và bốn sinh vật. Họ quỳ sấp mặt trước ngai và thờ lạy Đức Chúa Trời, mà tung hô:“A-men!Đức Chúa Trời chúng ta đáng đượcCa tụng, vinh quang,Khôn ngoan, cảm tạ, danh dự,Quyền năng và dũng lựcCho đến đời đời vô cùng.A-men!” Một trong các trưởng lão hỏi tôi: “Những người mặc áo tinh bạch kia là ai và từ đâu đến?” Tôi đáp: “Thưa ngài, ngài biết rõ.” Người ấy bảo tôi: “Họ là những người ra khỏi cuộc Đại Nạn, đã giặt và phiếu trắng áo mình trong huyết Chiên Con. Vì thế,Họ được ở trước ngai Đức Chúa Trời,Ngày đêm phục vụ Ngài trong thánh điện của NgàiVà Đấng ngự trên ngai sẽ bao phủ họ bằng sự hiện diện của Ngài. Họ sẽ không còn đói khát nữa,Cũng chẳng còn bị mặt trờiVà hơi nóng nung đốt nữa. Vì Chiên Con ở giữa ngai sẽ chăn giữ và hướng dẫn họĐến các suối nước sự sống.Đức Chúa Trời sẽ lau sạch tất cả các giọt lệ nơi mắt họ.” Khi Chiên Con tháo ấn thứ bảy, trên trời yên lặng độ nửa giờ. Rồi tôi thấy bảy thiên sứ đứng trước mặt Đức Chúa Trời và được trao cho bảy cây kèn. Một thiên sứ khác cầm lư hương bằng vàng đến bên bàn thờ và nhận được nhiều trầm để dâng lên với lời cầu nguyện của tất cả các thánh đồ trên bàn thờ vàng trước ngai. Từ tay thiên sứ, khói hương cùng với lời cầu nguyện của các thánh đồ dâng lên trước mặt Đức Chúa Trời. Rồi thiên sứ lấy lư hương, gắp lửa từ bàn thờ bỏ đầy vào và ném xuống đất, thì có sấm, chớp, tiếng ầm ầm và động đất. Bảy thiên sứ cầm bảy cây kèn chuẩn bị thổi. Thiên sứ thứ nhất thổi kèn: Có mưa đá và lửa trộn với máu đổ trút xuống đất. Một phần ba mặt đất bị thiêu đốt, một phần ba cây cối và tất cả cỏ xanh cũng cháy rụi. Thiên sứ thứ nhì thổi kèn: Có vật gì như trái núi lớn cháy rực bị ném xuống biển. Một phần ba biển biến ra huyết, một phần ba các sinh vật trong biển đều chết và một phần ba tàu bè bị tiêu diệt. Thiên sứ thứ ba thổi kèn: Một ngôi sao lớn cháy như ngọn đuốc từ trời rơi xuống một phần ba sông ngòi và các suối nước. Ngôi sao ấy tên là ngải cứu. Một phần ba các dòng nước hóa ra đắng, nhiều người bỏ mạng vì uống phải thứ nước đắng ấy. Thiên sứ thứ tư thổi kèn: Một phần ba mặt trời, một phần ba mặt trăng và một phần ba các ngôi sao bị phá, nên chúng bị tối tăm một phần ba, ngày cũng bớt sáng một phần ba và một phần ba của đêm cũng vậy. Tôi đang ngắm nhìn, chợt nghe một con đại bàng bay giữa trời rao lớn rằng: Khốn thay, khốn thay, khốn thay cho các dân cư trên mặt đất vì những tiếng kèn mà ba thiên sứ sắp thổi lên. Thiên sứ thứ năm thổi kèn: Tôi thấy một ngôi sao từ trời sa xuống đất, ngôi sao ấy được trao cho chìa khóa hầm vực thẳm. Ngôi sao mở cửa hầm vực thẳm, khiến khói phun ra như khói của lò lửa lớn, mặt trời và không khí bị luồng khói ấy làm tối mịt. Từ luồng khói, có cào cào bay ra khắp đất, chúng được ban cho quyền uy của bọ cạp trên đất. Chúng được lệnh không được làm hại cỏ trên đất hay bất cứ cây cối, rau xanh nào, ngoại trừ những người không được đóng ấn của Đức Chúa Trời trên trán mình. Chúng không được phép giết họ, nhưng chỉ hành hạ họ trong vòng năm tháng, sự hành hạ đó giống như cơn nhức nhối khi bọ cạp cắn người ta. Trong những ngày đó, người ta tìm cái chết mà không thấy, mong mỏi chết đi mà không được. Hình thù cào cào giống như ngựa chiến, trên đầu như đội mão bằng vàng và mặt chúng giống như mặt người. Chúng có tóc như tóc đàn bà và răng như răng sư tử. Chúng mang giáp che ngực như giáp bằng sắt và tiếng cánh nó bay nghe như tiếng nhiều xe chiến mã xông ra chiến trường. Chúng có đuôi như đuôi và nọc của bọ cạp, đuôi đó có khả năng hành hạ người ta trong vòng năm tháng. Vua của chúng là quỷ thần vực thẳm tiếng Hy Bá gọi là A-ba-đôn, tiếng Hy Lạp gọi là A-bô-li-ôn. Tai họa thứ nhất đã qua, kìa, vẫn còn hai tai họa nữa theo sau. Thiên sứ thứ sáu thổi kèn: Tôi nghe một tiếng nói phát ra từ nơi bốn sừng của bàn thờ bằng vàng trước ngai Đức Chúa Trời, bảo thiên sứ thứ sáu đang cầm kèn rằng: “Hãy mở trói cho bốn thiên sứ đang bị trói trên sông lớn Ơ-phơ-rát!” Bốn thiên sứ đã chuẩn bị sẵn cho chính ngày giờ năm tháng này được mở trói để tàn sát một phần ba nhân loại. Quân số các đoàn kỵ binh là hai trăm triệu, tôi nghe rõ quân số ấy. Vậy, trong khải tượng tôi thấy ngựa chiến và quân kỵ mang giáp trụ đỏ như ngọn lửa, xanh như ngọc Sa-phia, và vàng như lưu huỳnh. Đầu ngựa như đầu sư tử, miệng phun lửa, khói và lưu huỳnh. Một phần ba nhân loại bị tàn sát vì ba nạn hỏa hoạn, khói và lưu huỳnh phát ra từ miệng chúng. Năng lực của đoàn ngựa chiến dồn chứa trong miệng và trong đuôi chúng, vì đuôi chúng giống như rắn độc có đầu dùng để gây tổn thương. Phần nhân loại còn sống sót sau các tai họa ấy vẫn không ăn năn chừa bỏ các công việc ác họ làm, cứ thờ lạy các ác quỷ và các thần tượng bằng vàng, bạc, đồng, đá và gỗ, là các tượng không thấy, không nghe, không đi được. Họ cũng chẳng ăn năn các tội giết người, ma thuật, gian dâm, trộm cắp của mình. Lúc ấy, tôi thấy một thiên sứ dũng mãnh khác từ trời xuống, mặc y phục bằng mây, đầu đội cầu vồng, mặt sáng rực như mặt trời, chân như trụ lửa. Trong tay, thiên sứ cầm một quyển sách nhỏ đã mở ra, chân phải đặt trên biển, chân trái đạp trên đất. Thiên sứ thét lên một tiếng lớn như tiếng gầm sư tử, liền có bảy tiếng sấm vang rền. Khi bảy tiếng sấm nói, tôi sắp ghi chép, thì có tiếng phán từ trời: “Phải giữ kín những điều bảy tiếng sấm nói ra, đừng ghi chép!” Thiên sứ tôi thấy đang đứng trên biển và đất đưa tay phải lên trời, nhân danh Đấng Hằng Sống đời đời, là Đấng sáng tạo bầu trời và mọi vật trên trời, đất và muôn vật trên đất, biển và mọi vật dưới biển, mà thề rằng: “Đã hết thời hạn rồi, Nhưng trong những ngày khi tiếng kèn của thiên sứ thứ bảy sắp thổi lên thì huyền nhiệm của Đức Chúa Trời sẽ hoàn thành, như Ngài đã công bố cho các đầy tớ Ngài là các tiên tri.” Rồi tôi nghe tiếng phán từ trời bảo tôi một lần nữa: “Con hãy đi lấy quyển sách đã mở trong tay thiên sứ đang đứng trên biển và trên đất!” Tôi đi đến với vị thiên sứ, xin người cho tôi quyển sách nhỏ. Thiên sứ bảo tôi: “Anh lấy ăn đi! Nó đắng trong bụng anh nhưng trong miệng sẽ ngọt như mật.” Tôi lấy cuốn sách nhỏ nơi tay thiên sứ mà ăn, trong miệng ngọt như mật nhưng khi nuốt rồi, thấy đắng trong bụng. Các vị ấy bảo tôi: “Anh lại phải nói tiên tri về nhiều dân tộc, quốc gia, ngôn ngữ và vua chúa nữa.” Tôi được ban cho một cây sậy giống như cái thước và được lệnh: “Con hãy đứng dậy đo đền thờ Đức Chúa Trời và bàn thờ, cùng đếm những người thờ lạy trong đó, nhưng bỏ, đừng đo sân ngoài đền thờ vì nó đã được giao cho các dân tộc ngoại quốc. Họ sẽ chà đạp thành thánh trong bốn mươi hai tháng. Ta sẽ ban quyền năng cho hai nhân chứng của Ta; họ sẽ mặc bao gai và nói tiên tri suốt một ngàn hai trăm sáu mươi ngày. Đây là hai cây ô-liu và hai giá đèn đứng trước mặt Chúa Tể thế giới. Nếu có ai muốn hại họ thì lửa từ miệng họ loè ra đốt chết các kẻ thù nghịch. Ai muốn làm hại họ đều phải bị giết cách ấy. Hai người có quyền đóng trời lại không cho mưa xuống đất suốt thời gian họ nói tiên tri, cũng có quyền trên nước, biến nước thành máu và giáng mọi tai họa trên đất bất cứ lúc nào họ muốn. Khi họ hoàn tất cuộc làm chứng, Con Thú từ vực thẳm lên sẽ giao chiến với họ, chiến thắng và giết họ đi. Thây hai người nằm trên đường phố của thành phố lớn, gọi theo nghĩa bóng là Sô-đôm và Ai-cập, là nơi Chúa của họ đã bị đóng đinh. Trải qua ba ngày rưỡi, người ta thuộc mọi dân tộc, ngôn ngữ và quốc gia nhìn xem thây hai người và không cho chôn cất. Các dân cả thế giới sẽ vui mừng hớn hở vì hai người đã chết và gửi tặng phẩm chúc mừng nhau, vì hai tiên tri của Chúa đã làm khổ dân cư cả thế giới. Nhưng sau ba ngày rưỡi, có sinh khí ra từ Đức Chúa Trời nhập vào trong hai người và họ đứng thẳng lên, khiến những kẻ nhìn xem đều phải khủng khiếp. Họ nghe một tiếng gọi lớn từ trời bảo: ‘Lên đây!’ Họ lên trời trong một đám mây; các kẻ thù nghịch họ đều nhìn theo. Trong giờ đó, có cơn động đất lớn, một phần mười thành phố sụp đổ, bảy ngàn người chết trong cơn động đất, và những kẻ còn sống sót đều kinh hoàng và tôn vinh Đức Chúa Trời trên trời.” Tai họa thứ nhì đã qua, kìa, tai họa thứ ba đến mau chóng. Vị thiên sứ thứ bảy thổi kèn, liền có những tiếng lớn trên trời loan báo:“Vương quốc của thế gian nay đã trở thành vương quốc của Chúa chúng ta và của Chúa Cứu Thế của Ngài!Ngài sẽ trị vì đời đời!” Hai mươi bốn trưởng lão đang ngồi trên ngai mình trước mặt Đức Chúa Trời đều sấp mặt xuống, thờ lạy Đức Chúa Trời, và tung hô:“Chúng con tạ ơn Ngài. Lạy Chúa, Đức Chúa Trời Toàn Năng,Là Đấng đang có và đã có!Vì Ngài đã lấy quyền năng vĩ đạiMà trị vì. Các dân tộc nổi giậnNhưng cơn thịnh nộ Ngài đã đổ xuống.Đã đến lúc xử đoán các người chếtVà tưởng thưởng các đầy tớ, tức các tiên tri của Chúa,Các thánh và các người kính sợ danh Ngài,Cả lớn lẫn nhỏ,Cùng hủy diệt những kẻ hủy diệt thế gian.” Lúc ấy, đền thờ Đức Chúa Trời trên trời mở ra, người ta thấy Rương Giao Ước trong đền thờ Ngài, rồi có những chớp nhoáng, tiếng ầm ầm, sấm sét, một cơn động đất và một trận mưa đá lớn. Một dấu lạ lớn xuất hiện trên trời: Một người đàn bà mặc áo bằng mặt trời, dưới chân có mặt trăng, đầu đội mão bằng mười hai ngôi sao. Nàng có thai và kêu la vì đau đớn sắp sinh con. Một dấu lạ khác cũng xuất hiện trên trời: Kìa, một con rồng lớn màu đỏ có bảy đầu và mười sừng, bảy đầu đội bảy mão. Đuôi nó kéo một phần ba các ngôi sao trên trời, đem quăng xuống đất. Con rồng đứng chực trước người đàn bà sắp sinh nở, để nuốt sống đứa con khi sinh ra. Nàng sinh một Con trai. Con trai ấy sắp dùng gậy sắt mà trị vì tất cả các dân tộc. Nhưng Con trai nàng được tiếp đón lên tới Đức Chúa Trời, đến tận ngai Ngài. Còn người đàn bà trốn vào đồng hoang đến một nơi Đức Chúa Trời đã chuẩn bị; ở đó nàng được nuôi dưỡng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày. Một cuộc chiến tranh bùng nổ trên trời: Mi-ca-ên và các thiên sứ mình tiến công con rồng. Con rồng và các thiên sứ nó đánh lại, nhưng không thắng nổi nên mất hết chỗ đứng trên trời. Con rồng lớn, tức con rắn xưa, được gọi là quỷ vương và Sa-tan, là lũ lừa gạt tất cả dân cư thế gian, bị quăng xuống đất cùng với các thiên sứ nó. Tôi nghe một tiếng lớn trên trời tuyên bố:“Bây giờ sự cứu rỗi, quyền năng và vương quốc Đức Chúa Trời chúng taVà thẩm quyền của Chúa Cứu Thế của Ngài đã đến,Vì kẻ tố cáo anh chị em của chúng ta,Ngày đêm buộc tội họ trước mặt Đức Chúa TrờiĐã bị quăng xuống rồi. Họ đã chiến thắng nóBởi huyết Chiên ConVà bởi lời chứng mình;Họ chẳng tham sống sợ chết. Vì thế, các tầng trờiVà dân trên trời hãy vui mừng!Nhưng khốn cho đất và biển,Vì quỷ vương xuống cùng các ngươi!Nó nổi giận vô cùngVì biết thì giờ nó gần hết rồi.” Khi con rồng thấy mình bị quăng xuống đất, liền đuổi bắt người đàn bà đã sinh con trai. Nhưng nàng được ban cho hai cánh đại bàng để bay vào chỗ của nàng trong sa mạc. Tại đó, nàng được nuôi dưỡng một thì, các thì và nửa thì, cách xa mặt con rắn. Miệng con rắn phun nước ra như sông đuổi theo người đàn bà, để cuốn trôi nàng trong dòng nước. Nhưng đất tiếp cứu người đàn bà bằng cách hả miệng nuốt dòng sông phun ra từ miệng con rồng. Con rồng căm giận người đàn bà, nên đi tiến công các dòng dõi khác của nàng, tức là những người vâng giữ các điều răn Đức Chúa Trời và có lời chứng của Đức Giê-su. Con Rồng đứng trên bãi cát bờ biển. Tôi thấy một con thú từ dưới biển lên. Nó có mười sừng và bảy đầu, mười sừng đội mười mão, và bảy đầu mang những danh hiệu phạm thượng. Con thú tôi thấy giống như con báo, nhưng có chân như gấu và miệng như miệng sư tử. Con rồng đã ban cho nó năng lực mình, ngai báu mình và uy quyền lớn. Một trong bảy đầu như bị tử thương, nhưng vết thương ấy được lành và cả thế giới đều kinh ngạc mà theo con thú. Người ta thờ lạy con rồng vì nó đã cho con thú uy quyền mình, cũng thờ lạy con thú mà rằng: “Ai sánh được với con thú. Ai có thể chiến đấu chống lại con thú?” Nó được ban cho cái miệng nói đại ngôn và phạm thượng và được quyền hoạt động trong bốn mươi hai tháng. Nó mở miệng nói phạm thượng chống Đức Chúa Trời, phạm đến danh Ngài, đền tạm Ngài và dân trên trời! Nó được phép tiến công các thánh đồ và thắng họ. Nó cũng được ban cho uy quyền thống trị tất cả các chi tộc, dân tộc, ngôn ngữ và quốc gia. Tất cả dân cư thế gian đều thờ lạy nó, tức là những kẻ không có tên ghi trong sách Sự Sống của Chiên Con là Đấng đã bị giết từ khi sáng tạo vũ trụ. Ai có tai hãy lắng nghe! Ai phải làm tù binhSẽ bị bắt làm tù binh.Ai phải bị gươm giết chếtSẽ bị giết bằng lưỡi gươm. Đây là sự kiên nhẫn và đức tin của các thánh đồ. Tôi lại thấy một con thú khác từ dưới đất lên. Nó có hai sừng như sừng chiên con và nói như một con rồng. Nó sử dụng mọi uy quyền của con thú thứ nhất trước mặt con thú ấy. Nó bắt quả đất và dân cư khắp thế giới thờ lạy con thú thứ nhất, tức con thú có vết tử thương đã được lành. Nó làm những dấu lạ lớn đến nỗi khiến lửa từ trời rơi xuống đất trước mặt người ta. Nó lừa gạt dân cư thế gian bằng những dấu lạ nó được phép thực hiện trước mặt con thú. Nó bảo họ tạc tượng con thú đã bị gươm đâm mà còn sống. Nó được quyền hà sinh khí vào tượng con thú cho tượng nói được và khiến tất cả những người không thờ lạy tượng con thú đều bị giết đi. Nó cũng khiến tất cả loài người, nhỏ lớn, giàu, nghèo, tự do và nô lệ đều phải nhận một dấu hiệu trên tay phải hoặc trên trán, người nào không có dấu hiệu ấy, tức là tên con thú hay chữ số tên nó, đều không thể nào mua bán được. Việc này đòi hỏi sự khôn ngoan: Ai sáng trí hãy tính chữ số con thú, vì đó là chữ số của một người. Chữ số nó là sáu trăm sáu mươi sáu. Kìa, tôi thấy Chiên Con đứng trên núi Si-ôn với 144.000 người mang tên Chiên Con và tên Cha của Chiên Con ghi trên trán. Tôi nghe tiếng phán từ trời như tiếng thác lũ, như tiếng sấm lớn. Tiếng tôi nghe giống như tiếng đàn hạc. Họ hát một bài ca mới trước ngôi, trước bốn sinh vật và các trưởng lão; không ai học được bài ca ấy ngoài 144.000 người được cứu chuộc từ thế gian. Họ không bị ô uế với đàn bà vì vẫn còn trinh trắng. Chiên Con đi đâu, họ theo đó. Họ được cứu chuộc từ loài người, để dâng làm trái đầu mùa cho Đức Chúa Trời và cho Chiên Con. Trong môi miệng họ chẳng có lời dối trá nào; họ thật là những người không tì vết. Tôi lại thấy một thiên sứ bay giữa bầu trời đem Phúc Âm đời đời truyền giảng cho dân cư trên thế giới, cho tất cả các quốc gia, chi tộc, ngôn ngữ và dân tộc. Thiên sứ lớn tiếng tuyên bố: “Hãy kính sợ Đức Chúa Trời và tôn vinh Ngài vì đã đến giờ Ngài phán xét. Hãy thờ phụng Đấng sáng tạo trời, đất, biển và các nguồn nước.” Thiên sứ thứ nhì theo sau tuyên bố: “Ba-by-lôn vĩ đại đã sụp đổ hoàn toàn! Thành đã khiến tất cả các dân tộc uống rượu tình dục dâm loạn của nó.” Thiên sứ thứ ba theo sau lớn tiếng loan báo: “Kẻ nào thờ lạy con thú và tượng của nó cùng nhận con dấu của nó đóng trên trán hoặc trên tay mình sẽ phải uống rượu thịnh nộ của Đức Chúa Trời mà Ngài đã rót nguyên chất vào chén thịnh nộ của Ngài. Họ sẽ bị khổ hình trong lửa và lưu huỳnh trước mặt các thiên sứ thánh và trước mặt Chiên Con. Khói của khổ hình chúng phải chịu cứ phun lên cho đến đời đời. Những kẻ thờ lạy con thú và tượng của nó hoặc nhận con dấu mang tên nó thì ngày đêm sẽ không bao giờ được an nghỉ. Đây là sự kiên nhẫn của các thánh đồ, là những người giữ các điều răn Đức Chúa Trời và đức tin trong Đức Giê-su.” Rồi tôi nghe trên trời có tiếng phán: “Con hãy viết: ‘Từ nay trở đi, phước cho những người chết là chết trong Chúa.’” Thánh Linh phán: “Phải, như vậy để họ nghỉ ngơi không còn lao khổ nữa vì công khó họ sẽ theo họ.” Kìa, tôi thấy một đám mây trắng và trên mây có ai ngự, giống như Con Người, đầu đội mão bằng vàng, tay cầm một lưỡi liềm bén. Một thiên sứ khác ra khỏi thánh điện, lớn tiếng gọi Đấng ngự trên mây: “Xin Ngài cho tra liềm gặt hái vì giờ gặt đã đến; mùa gặt trên đất đã chín.” Đấng ngự trên mây liền ném lưỡi liềm xuống đất và quả đất được gặt hái. Một thiên sứ khác ra khỏi thánh điện trên trời cũng cầm một lưỡi liềm bén. Một thiên sứ khác nữa có quyền quản trị lửa, ra khỏi bàn thờ và lớn tiếng gọi thiên sứ đang cầm lưỡi liềm bén: “Anh hãy tra lưỡi liềm bén đó gặt hái các chùm nho trong vườn nho trên quả đất vì nho đã chín.” Thiên sứ ấy liền quăng lưỡi liềm mình xuống đất, hái nho trên đất và ném vào máy ép nho vĩ đại của cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời. Chúng bị đạp nát trong máy ép nho bên ngoài thành phố và máu trào ra từ máy ép nho, dâng cao đến ngang khớp ngựa và tràn lan khắp một ngàn sáu trăm dặm Ết-ta-đơ. Tôi thấy trên trời có một dấu lớn và kỳ diệu khác: Bảy thiên sứ mang bảy tai họa sau cùng là các tai họa kết thúc cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời. Tôi thấy một cái gì như biển pha lê trộn với lửa. Đứng trên biển pha lê là những người đã chiến thắng con thú, thần tượng của nó và con số của tên nó. Họ cầm đàn hạc của Đức Chúa Trời, hát bài ca của Môi-se, đầy tớ Đức Chúa Trời và bài ca Chiên Con rằng:“Lạy Chúa là Đức Chúa Trời Toàn Năng,Công việc Chúa thật vĩ đại, diệu kỳ!Lạy Vua của các thời đại,Đường lối Chúa là công chính và chân thật! Lạy Chúa, ai không kính sợ NgàiVà tôn vinh danh Ngài?Vì Ngài là Đấng duy nhất thánh khiếtTất cả các dân tộc đều sẽ đếnVà thờ phụng trước mặt Ngài.Vì các hành động công minh của Ngài đã được biểu lộ!” Sau đó, tôi thấy thánh điện trong đền tạm chứng cớ được mở ra trên trời. Bảy thiên sứ ra khỏi thánh điện, mình mặc áo vải gai mịn trong sạch, rực rỡ, ngực thắt đai bằng vàng, tay cầm bảy tai họa. Một trong bốn sinh vật trao cho bảy thiên sứ bảy cái bát bằng vàng đựng đầy thịnh nộ của Đức Chúa Trời là Đấng hằng sống đời đời. Thánh điện đầy khói từ vinh quang và quyền năng của Đức Chúa Trời tỏa ra; không một ai có thể vào trong thánh điện cho đến khi bảy tai họa của bảy thiên sứ kết thúc. Lúc ấy, tôi nghe một tiếng nói vang lên từ thánh điện, ra lệnh cho bảy thiên sứ: “Hãy ra đi, đổ bảy bát thịnh nộ của Đức Chúa Trời ra trên đất!” Thiên sứ thứ nhất đi đổ bát mình trên đất, ung nhọt độc và nhức nhối nổi lên trên những người có đóng dấu con thú và thờ lạy tượng nó. Thiên sứ thứ hai đổ bát mình trên biển, nước biển biến ra như máu người chết, mọi sinh vật dưới biển đều chết hết. Thiên sứ thứ ba đổ bát mình trên sông, suối nước, các sông suối ấy biến thành máu. Lúc ấy, tôi nghe thiên sứ đặc trách về nước nói:“Chúa thật công minhNgài là Đấng hiện có, đã có và cũng là Đấng Thánh,Vì Ngài đã phán quyết những điều này. Bởi chúng đã đổ máu các thánh đồ và các tiên tri của ChúaNay Chúa cho chúng uống máu, thật là đáng!” Rồi tôi nghe bàn thờ đáp:“Vâng, Lạy Chúa là Đức Chúa Trời Toàn Năng,Các phán xét của Chúa là chân thật và công minh!” Thiên sứ thứ tư đổ bát mình trên mặt trời; mặt trời được quyền đốt cháy loài người bằng lửa. Người ta bị nung đốt bởi sức nóng dữ dội, bèn xúc phạm đến danh Đức Chúa Trời, là Đấng có quyền trên các tai họa này, nhưng họ không chịu ăn năn và tôn vinh Ngài. Thiên sứ thứ năm đổ bát mình trên ngai con thú; vương quốc nó liền bị tối tăm. Người ta cắn lưỡi vì đau đớn; và họ phạm thượng với Đức Chúa Trời trên trời vì cơn đau đớn và ung nhọt của mình, nhưng rồi họ cũng không chịu ăn năn các việc mình đã làm. Thiên sứ thứ sáu đổ bát mình trên sông lớn Ơ-phơ-rát, làm cho nước sông cạn khô để dọn đường cho các vua phương đông đến. Lúc ấy, tôi thấy ba tà linh ô uế giống như ếch nhái từ miệng con rồng, miệng con thú và miệng tiên tri giả nhảy ra vì chúng là linh của các quỷ làm dấu lạ, đi đến các vua khắp thế giới nhằm họp họ lại để tham chiến trong ngày vĩ đại của Đức Chúa Trời Toàn Năng. Này, Ta đến như kẻ trộm, phước cho kẻ nào tỉnh thức và giữ gìn áo xống mình để khỏi đi trần truồng và khỏi bị người ta thấy sự xấu hổ mình. Chúng tập họp họ tại một địa điểm, tiếng Hy Bá gọi là Ha-ma-ghê-đôn. Thiên sứ thứ bảy trút bát mình trong không khí thì có tiếng nói lớn trong điện thờ vang ra từ nơi ngai Ngài rằng: “Xong rồi!” Liền có những chớp nhoáng, tiếng động, tiếng sấm và động đất lớn như chưa từng có động đất lớn như vậy từ khi loài người sống trên mặt đất. Thành phố lớn bị nứt ra làm ba phần, còn các thành phố của các dân tộc ngoại quốc đều sụp đổ. Đức Chúa Trời nhớ lại Ba-by-lôn lớn và cho nó uống chén rượu thịnh nộ mãnh liệt của Ngài. Các hải đảo đều trốn đi hết, các ngọn núi không còn nữa. Mưa đá lớn, hạt nặng cả trăm cân từ trời trút xuống loài người. Người ta xúc phạm đến Đức Chúa Trời vì tai họa mưa đá; đó là một tai họa lớn khủng khiếp. Một trong bảy thiên sứ đã bưng bảy bát ấy đến bảo tôi: “Anh lại đây, tôi sẽ chỉ cho anh xem cuộc phán xét con đại kỹ nữ ngự trị trên nhiều dòng nước. Các vua trên thế giới đã phạm tội tà dâm với nó và các dân cư trên đất cũng say vì rượu gian dâm của nó. Thiên sứ ấy đưa tôi đi trong tâm linh vào một đồng hoang, cho tôi thấy một người nữ cưỡi trên một con thú đỏ sậm, mang đầy những danh hiệu phạm thượng, con thú ấy có bảy đầu và mười sừng. Người nữ mặc áo tím và đỏ sậm trang sức bằng vàng, ngọc quý và ngọc trai, tay cầm một cái chén vàng đựng đầy những điều ghê tởm và dâm uế của mình. Trên trán nàng có ghi một tên:Huyền Nhiệm,Ba-by-lôn vĩ đại,mẹ của các kỹ nữvà những điều ghê tởm trên thế giới. Tôi thấy người nữ say máu các thánh đồ và máu các nhân chứng của Đức Giê-su. Khi tôi thấy người nữ tôi vô cùng kinh ngạc. Thiên sứ hỏi: ‘Tại sao anh kinh ngạc? Tôi sẽ nói cho các anh biết huyền nhiệm của người nữ và con thú chở nó, là con thú có bảy đầu và mười sừng. Con thú anh thấy đã xuất hiện trước kia nhưng hiện nay không còn, sắp lên từ vực thẳm và đi vào cõi diệt vong. Các dân cư trên thế giới không có tên ghi trong sách sự sống từ khi sáng thế sẽ kinh ngạc khi thấy con thú vì nó đã có trước kia, nay không thấy nữa, nhưng sẽ xuất hiện. Ở đây, cần có tâm trí khôn ngoan. Bảy đầu là bảy ngọn núi mà người nữ ấy ngự trị, cũng là bảy ông vua, năm vua đã bị đổ, một vua đang trị vì và một vua chưa xuất hiện, khi vua đến, vua này cũng phải tồn tại ít lâu! Con thú trước đã có, nay không còn nữa là vua thứ tám, nó cũng thuộc trong số bảy và đi vào cõi diệt vong. Mười sừng anh thấy là mười vua chưa nhận được vương quốc, nhưng sẽ được nắm vương quyền với con thú trong một giờ. Chúng đồng tâm nhất trí trao năng lực và uy quyền cho con thú. Chúng chiến tranh với Chiên Con và Chiên Con sẽ chiến thắng chúng, vì Ngài là Chúa của các chúa và Vua của các vua, cùng những người ở với Ngài, là những người được gọi, những người được chọn và những người trung tín.’ Rồi thiên sứ ấy bảo tôi: ‘Các dòng nước anh thấy là nơi con kỹ nữ ngự trị, là các dân tộc, đám đông, quốc gia và ngôn ngữ. Con thú và mười sừng anh thấy sẽ ghen ghét con kỹ nữ. Chúng sẽ tàn phá nó, bỏ nó trần truồng. Chúng sẽ ăn thịt nó và thiêu đốt nó trong lửa. Vì Đức Chúa Trời đã khiến chúng thực hiện ý chỉ Ngài bằng cách đồng tâm nhất trí trao vương quốc mình cho con thú cho đến khi lời Đức Chúa Trời được ứng nghiệm. Người nữ anh thấy là thành phố lớn ngự trị trên các vua khắp thế giới.’” Sau đó, tôi thấy một thiên sứ khác từ trên trời xuống, có uy quyền cao cả. Cả thế giới được vinh quang Ngài chiếu sáng. Ngài hô lớn:“Ba-by-lôn lớn đã sụp đổ, sụp đổ rồi.Nó thành sào huyệt của các ác quỷVà ngục tù của tất cả tà linh,Chuồng nhốt tất cả các loài chim ô uế và đáng ghét. Vì tất cả các dân tộcĐã uống rượu tình dục dâm loạn của nó.Và các vua trên thế giới đã phạm tội tà dâm với nó.Các thương gia thế giới đã nhờ sự quá xa xỉ của nó mà làm giàu!” Tôi cũng nghe một tiếng nói khác từ trên trời kêu gọi:“Dân ta ơi, hãy ra khỏi Ba-by-lônĐể các con không can dự vào tội lỗi nóVà nhận lấy tai họa với nó chăng. Vì tội lỗi nó chồng chất đến tận trời.Và Đức Chúa Trời nhớ lại các việc ác nó làm, Báo trả cho nó những điều nó đã tác hại.Trả cho nó gấp đôi những điều nó phạm.Pha cho nó gấp đôi chén rượu nó đã pha. Nó đã huy hoàng, xa xỉ bao nhiêuThì giáng đau đớn và than khóc bấy nhiêu cho nó.Nó tự nhủ:‘Ta ngự trị như một nữ vương, không phải là quả phụ,Ta chẳng bao giờ phải khóc than.’ Vì thế, trong một ngày, các tai họa đều xảy ra:Chết chóc than khóc và đói kémNó sẽ bị lửa hừng thiêu hủyVì Chúa, Đức Chúa Trời, Đấng phán xét nó là Đấng đầy quyền lực. Khi các vua trên thế giới, là những kẻ đã phạm tội tà dâm với nó và chung hưởng xa hoa với nó, thấy khói lửa thiêu đốt nó bay lên, đều khóc lóc than vãn về nó. Họ đứng đàng xa vì sợ phải chịu khổ hình với nó. Họ than:‘Khốn thay, khốn thay, thành phố vĩ đại.Thành Ba-by-lôn hùng cường!Vì chỉ trong một giờ, ngươi đã bị đoán phạt!’ Các thương gia trên thế giới khóc lóc, thương tiếc nó, vì không còn ai mua hàng hóa của họ nữa. Không còn ai mua hàng vàng bạc, bảo thạch, trân châu, vải gai mịn, hàng màu đỏ, tơ lụa, hàng màu điều, các loại gỗ thơm, mọi vật dụng bằng ngà, mọi vật dụng bằng gỗ quý, bằng đồng, sắt, cẩm thạch, nhục quế, gia vị, trầm, dầu thơm, nhũ hương, rượu, dầu, bột mì, lúa miến, các súc vật, cừu, ngựa, xe, nô lệ, và cả linh hồn người ta. Họ bảo: ‘Các trái cây mà linh hồn ngươi ham muốn đã mất rồi! Tất cả những hào nhoáng xa hoa của ngươi đã bị tiêu diệt, không thể nào tìm lại được bao giờ.’ Các thương gia buôn bán các hàng hóa đó, những người đã nhờ Ba-by-lôn mà làm giàu, đều đứng đàng xa vì khiếp sợ khổ hình nó phải chịu, đều khóc lóc, thương tiếc mà nói:‘Khốn thay, khốn thay, thành phố vĩ đạiĐã từng mặc áo vải gai mịn, hàng sắc đỏ và sắc điều,Có trang hoàng bằng vàng, trang sức bằng bảo thạch, trân châu, Vì trong một giờ mà bao nhiêu sự giàu có lớn lao đó đều tiêu tan.’Tất cả các thuyền trưởng, các nhà hàng hải, các thủy thủ và tất cả những người làm ăn ngoài biển, khi thấy khói lửa nó bay lên, đều đứng xa mà nói: ‘Có gì sánh kịp thành phố vĩ đại này?’ Họ rải bụi trên đầu, lớn tiếng khóc lóc, than vãn rằng:‘Khốn thay, khốn thay, thành phố vĩ đại!’Nơi trù phú đã làm giàuCho các chủ tàu buôn bốn biển,Chỉ trong một giờ mà đã điêu tàn: ‘Các tầng trời, hãy hân hoan vì nó!Các thánh đồ, sứ đồ và tiên tri của Chúa cũng hãy hân hoanVì Đức Chúa Trời đã xử phạt nó như cách nó đã đối xử với các người.’ Bấy giờ một thiên sứ dũng mãnh lấy một tảng đá như cối xay lớn ném xuống biển mà bảo:‘Thành phố Ba-by-lôn lớnSẽ bị ném xuống cách dữ dội như thế,Và người ta sẽ không bao giờ thấy nó nữa. Tiếng đàn hạc, nhạc khí, sáo, kènSẽ chẳng bao giờ được nghe nữa tại nơi đây.Nó cũng chẳng bao giờ còn có thợ thuyềnBất cứ nghề nghiệp nào.Người ta cũng không còn ngheTiếng cối xay nữa. Nơi đây, chẳng bao giờ cònMột ngọn đèn soi sáng,Chẳng còn nghe tiếng nóiCủa chàng rể cô dâu,Vì các thương gia của ngươiLà những người thế lực trên thế giới. Các ngươi dùng ma thuật mà lừa gạt mọi dân tộc. Nơi đây, người ta tìm thấy máu các tiên tri và các thánh đồCùng máu của mọi người bị tàn sát khắp mặt đất.’” Sau các việc này, tôi nghe một tiếng hô lớn của một đám rất đông trên trời:“Ha-lê-lu-gia!Sự cứu rỗi, vinh quang và quyền năng đều thuộc về Đức Chúa Trời chúng ta. Vì sự phán xét của Ngài thực công minh và chân thật,Ngài đã kết án con đại kỹ nữTừng làm ô uế thế gian với sự gian dâm của nóVà Ngài báo trả cho nó về máu các đầy tớ Ngài mà nó đã đổ ra!” Họ lại hô lên:“Ha-lê-lu-gia!Khói của nó bay lên mãi cho đến đời đời!” Hai mươi bốn trưởng lão và bốn sinh vật quỳ xuống thờ lạy Đức Chúa Trời đang ngự trên ngai, tung hô:“A-men, Ha-lê-lu-gia!” Một tiếng nói từ trên ngai bảo:“Hãy ca ngợi Đức Chúa Trời chúng ta,Tất cả các người là đầy tớ của Ngài,Là những kẻ kính sợ Ngài,Cả lớn và nhỏ!” Lúc ấy, tôi nghe tiếng ầm ĩ như của một đám người đông đảo, như tiếng ầm ầm của nhiều thác nước, như tiếng sấm vang động dữ dội rằng:“Ha-lê-lu-giaVì Chúa là Đức Chúa Trời Toàn Năng của chúng ta cai trị! Chúng ta hãy hân hoan mừng rỡVà tôn vinh Ngài!Vì lễ cưới Chiên Con đã đếnVà cô dâu Ngài đã chuẩn bị sẵn sàng. Nàng được cấp áo vải gai mịn rực rỡ và trong sạchĐể mặc vào!”Vải gai mịn là các việc công chính của các thánh đồ. Thiên sứ bảo tôi: “Anh hãy viết: Phước cho những người được mời dự tiệc cưới Chiên Con!” thiên sứ tiếp: “Đây là những lời chân thật của Đức Chúa Trời!” Tôi quỳ xuống trước chân thiên sứ để thờ lạy người, nhưng người bảo tôi: “Đừng làm như thế! Tôi chỉ là bạn tôi tớ với anh và với các anh chị em của anh là những người giữ lời chứng của Đức Giê-su. Hãy thờ lạy Đức Chúa Trời! Vì sự làm chứng về Đức Giê-su là tinh thần của các lời tiên tri!” Tôi thấy bầu trời mở ra và kìa, một con ngựa trắng xuất hiện. Đấng cưỡi ngựa tên là Đấng Thành Tín và Chân Thật. Ngài phán xét và chiến đấu cách công minh. Mắt Ngài như ngọn lửa hừng, đầu Ngài đội nhiều mão. Ngài có một danh hiệu ghi trên mình ngoài Ngài ra không ai biết được. Ngài mặc áo nhúng trong huyết và được xưng danh là Lời Đức Chúa Trời. Các quân đội trên trời đều theo Ngài, cưỡi ngựa trắng và mặc áo bằng vải gai mịn trắng trong sạch. Từ miệng Ngài thò ra một lưỡi gươm sắc bén mà Ngài dùng để đánh phạt các dân. Ngài sẽ cai trị họ bằng cây gậy sắt. Ngài đạp nho trong máy ép nho chứa rượu thịnh nộ mãnh liệt của Đức Chúa Trời Toàn Năng. Trên áo và trên đùi Ngài có ghi danh hiệu:VUA CỦA CÁC VUA và CHÚA CỦA CÁC CHÚA. Tôi thấy một thiên sứ đứng trong mặt trời lớn tiếng gọi tất cả các loài chim chóc bay giữa bầu trời: “Hãy đến tập họp để dự đại tiệc của Đức Chúa Trời, để ăn thịt các vua, các tướng lĩnh, các người quyền thế, thịt ngựa và kỵ sĩ, cùng thịt của mọi người tự do và nô lệ, lớn và nhỏ.” Tôi thấy con thú, các vua của thế gian và các quân đội họ tập trung để chiến tranh với Đấng cưỡi ngựa và quân đội Ngài. Nhưng con thú bị bắt sống cùng với tiên tri giả là kẻ đã làm các dấu lạ trước mặt nó để lừa gạt những kẻ đã nhận dấu ấn của con thú và những kẻ thờ lạy thần tượng nó. Cả hai đều bị quăng sống xuống hồ lửa diêm sinh cháy phừng. Những người còn lại đều bị giết do lưỡi gươm ra từ miệng của Đấng cưỡi ngựa và tất cả chim chóc đều ăn thịt họ no nê. Tôi lại thấy một thiên sứ từ trời xuống, mang chìa khóa vực thẳm và tay cầm một sợi xích lớn. Người bắt con rồng, tức con rắn xưa, là quỷ vương tức Sa-tan, và xích nó lại suốt một ngàn năm. Người quăng nó xuống vực thẳm rồi khóa và niêm phong lại ngõ hầu nó không còn lừa gạt các dân tộc nữa cho đến khi mãn hạn một ngàn năm. Sau đó, nó phải được thả ra một thời gian ngắn. Tôi thấy các ngai và những người ngồi trên ngai được ban cho quyền xét xử. Tôi cũng thấy linh hồn những người đã bị chém đầu vì làm chứng về Đức Giê-su và vì Lời Đức Chúa Trời, cùng linh hồn của những người không chịu thờ lạy con thú và thần tượng nó, không nhận dấu ấn của nó trên trán hoặc trên tay. Họ đều sống lại và trị vì với Chúa Cứu Thế suốt một ngàn năm. Những người chết khác chưa được sống lại cho đến khi hết hạn một ngàn năm. Đây là sự sống lại thứ nhất. Phước hạnh và thánh khiết thay là những người được dự phần trong sự sống lại thứ nhất! Sự chết thứ nhì không có quyền gì trên họ, nhưng họ sẽ làm thầy tế lễ của Đức Chúa Trời và của Chúa Cứu Thế và đồng trị vì với Ngài suốt một ngàn năm. Hết hạn một ngàn năm đó, Sa-tan sẽ được thả ra khỏi ngục tù và đi lừa gạt các dân tộc bốn phương trên đất, dân Gót và Ma-gót, rồi tập trung chúng để chiến tranh, đông như cát biển. Chúng kéo lên khắp mặt đất, bao vây trại quân các thánh đồ và thành phố thân yêu, nhưng lửa từ trời đổ xuống thiêu nuốt chúng. Còn quỷ vương là kẻ đã lừa gạt chúng thì bị quăng xuống hồ lửa diêm sinh cháy phừng, là nơi con thú và tiên tri giả đã bị ném xuống từ trước. Chúng đều bị khổ hình cả ngày lẫn đêm cho đến đời đời. Lúc ấy, tôi thấy một ngai lớn màu trắng và Đấng ngự trên ngai. Trước mặt Ngài, trời đất đều trốn biệt, không còn một chỗ nào cho chúng nữa. Tôi cũng thấy những người chết đứng trước ngai cả lớn và nhỏ, và các sách đều mở ra. Có một quyển sách khác mở ra nhan đề là sách sự sống. Các người chết bị phán xét theo việc làm của họ như đã ghi trong các sổ sách. Biển nộp lại những người chết nó giữ. Sự chết và Âm Phủ cũng giao trả những người chết chúng giam. Mỗi người sẽ bị phán xét tùy theo những việc mình đã làm. Rồi sự chết và Âm Phủ bị quăng xuống hồ lửa. Hồ lửa là sự chết thứ hai. Ai không được ghi tên trong sách sự sống đều bị quăng xuống hồ lửa. Lúc ấy, tôi thấy trời mới và đất mới vì trời thứ nhất và đất thứ nhất đã biến mất và biển cũng không còn nữa. Tôi cũng thấy thành phố thánh là Giê-ru-sa-lem mới, từ Đức Chúa Trời trên trời mà xuống, chuẩn bị như cô dâu trang điểm chờ chàng rể. Tôi nghe một tiếng lớn từ nơi ngai nói: “Này, đền tạm của Đức Chúa Trời ở với loài người, Ngài sẽ ở với họ. Họ sẽ làm dân Chúa, chính Ngài sẽ ở với họ và Ngài sẽ là Đức Chúa Trời của họ. Ngài sẽ lau sạch tất cả nước mắt nơi mắt họ, sẽ không còn chết chóc, tang chế hoặc khóc than hay đau khổ nữa, vì những việc trước đã qua rồi.” Đấng ngự trên ngai phán: “Này, Ta tân tạo tất cả vạn vật!” Ngài tiếp: “Con hãy ghi chép vì những lời này đều là thành tín và chân thật.” Ngài lại bảo tôi: “Hoàn tất rồi! Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là đầu tiên và cuối cùng. Người nào khát, Ta sẽ cho uống nước suối hằng sống miễn phí. Người đắc thắng sẽ được thừa kế những điều này và Ta sẽ làm Đức Chúa Trời của người, còn người sẽ làm con Ta. Còn những kẻ hèn nhát, vô tín, đáng ghê tởm, giết người, gian dâm, phù thủy, thờ thần tượng và tất cả những người giả dối thì số phận chúng nó ở trong hồ lửa cháy phừng với diêm sinh; đó là sự chết thứ hai.” Một trong bảy thiên sứ cầm bảy bát đựng đầy bảy tai họa sau cùng bảo tôi: “Anh đến đây! Tôi sẽ chỉ cho anh thấy cô dâu, là vợ của Chiên Con.” Người cất tôi đi trong tâm linh, lên một hòn núi lớn và cao rồi chỉ cho tôi thấy thành phố thánh, là Giê-ru-sa-lem từ Đức Chúa Trời trên trời mà xuống, rực rỡ vinh quang của Đức Chúa Trời. Ánh sáng nó giống như của bảo thạch, như ngọc thạch anh trong suốt giống như pha lê. Tường thành thì lớn và cao; có mười hai cổng, ở các cổng có mười hai thiên sứ canh gác. Trên cổng có ghi tên mười hai chi tộc Y-sơ-ra-ên. Phía đông có ba cổng, phía bắc có ba cổng, phía nam có ba cổng và phía tây có ba cổng. Tường thành xây trên mười hai nền, trên các nền có ghi tên mười hai sứ đồ của Chiên Con. Thiên sứ đang nói chuyện với tôi, mang theo một cái thước tức là cây gậy bằng vàng, để đo thành phố, các cổng và tường thành. Thành phố vuông vức, chiều dài và chiều rộng đều bằng nhau. Người dùng gậy đo thành phố mỗi chiều được mười hai ngàn dặm ết-ta-đơ, ba chiều dài, rộng và cao đều bằng nhau. Người đo tường thành: Tường dày một trăm bốn mươi bốn bộ cu-bít, theo lối đo lường của loài người mà thiên sứ ấy đang dùng. Tường xây bằng ngọc thạch anh, còn thành phố bằng vàng ròng, trong như thủy tinh. Nền móng của tường thành được tô điểm bằng đủ mọi thứ bảo thạch. Nền thứ nhất bằng ngọc thạch anh, nền thứ hai bằng lam ngọc, nền thứ ba bằng ngọc mã não, nền thứ tư bằng bích ngọc, nền thứ năm bằng bạch ngọc, nền thứ sáu bằng ngọc hồng mã não, nền thứ bảy bằng kim lục thạch, nền thứ tám bằng lục ngọc, nền thứ chín bằng hoàng ngọc, nền thứ mười bằng ngọc phỉ túy, nền thứ mười một bằng ngọc hồng bửu, nền thứ mười hai bằng ngọc tử bửu. Mười hai cổng là mười hai hạt ngọc trai, mỗi cổng làm bằng một viên ngọc nguyên khối. Đường phố trong thành đều bằng vàng ròng tợ thủy tinh trong suốt. Trong thành, tôi không thấy thánh điện nào vì Chúa là Đức Chúa Trời Toàn Năng và Chiên Con là thánh điện của thành phố. Thành phố không cần mặt trời hay mặt trăng soi sáng vì vinh quang Đức Chúa Trời chiếu sáng và Chiên Con là ngọn đèn của thành phố. Các dân tộc sẽ qua lại dưới ánh sáng nó; các vua trên thế giới sẽ mang vinh quang mình vào đó. Các cổng thành suốt ngày không đóng vì ở đó không có ban đêm. Người ta sẽ đem vinh quang, vinh dự của các dân tộc vào đó. Mọi vật ô uế cùng những kẻ làm điều ghê tởm và giả dối tuyệt đối không được vào đó, ngoại trừ những người đã được ghi tên vào sách sự sống của Chiên Con. Rồi thiên sứ chỉ cho tôi xem sông nước hằng sống trong như pha lê chảy ra từ ngai Đức Chúa Trời và ngai Chiên Con, chảy giữa đại lộ của thành phố. Hai bên bờ sông trồng cây hằng sống ra trái mười hai mùa, mỗi tháng một lần kết quả, lá cây dùng để chữa bệnh cho các dân tộc. Tại đó sẽ không còn nghe lời nguyền rủa. Ngai Đức Chúa Trời và ngai Chiên Con sẽ đặt trong thành; các đầy tớ Chúa sẽ phụng vụ Ngài. Họ sẽ được thấy mặt Ngài và Danh Ngài được ghi trên trán họ. Đêm tối không còn nữa. Họ sẽ không cần đèn hay ánh sáng mặt trời vì Chúa là Đức Chúa Trời sẽ chiếu sáng họ và họ sẽ trị vì cho đến đời đời. Thiên sứ bảo tôi: “Các điều này đều là thành tín và chân thật. Chính Chúa là Đức Chúa Trời của tâm linh các tiên tri đã sai thiên sứ Ngài tỏ cho các đầy tớ Ngài những biến cố sắp xảy ra. Này, Ta sắp đến! Phước cho người vâng giữ các lời tiên tri trong sách này.” Tôi là Giăng, người đã nghe và thấy các điều này. Tôi quỳ xuống dưới chân thiên sứ đã tỏ cho tôi các việc này để thờ lạy. Nhưng thiên sứ bảo tôi: “Đừng thờ lạy tôi! Tôi cũng là bạn đồng bộc của anh, của các anh chị em là các tiên tri của Chúa, và của tất cả những người vâng giữ các lời ghi trong sách này. Anh hãy thờ lạy Đức Chúa Trời!” Thiên sứ lại bảo tôi: “Anh đừng niêm phong các lời tiên tri trong sách này vì thời điểm đã gần tới! Kẻ bất chính cứ làm điều bất chính, kẻ ô uế vẫn cứ sống ô uế, còn người công chính hãy cứ làm điều công chính và những người thánh khiết hãy tiếp tục sống thánh khiết! Này, Ta sắp đến, đem giải thưởng theo với Ta để báo trả cho mỗi người tùy theo công việc họ làm. Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là thứ nhất và cuối cùng, là ban đầu và chung cuộc. Phước cho những người giặt sạch áo dài mình để được quyền dùng cây hằng sống và được bước qua các cổng mà vào thành phố thánh! Bên ngoài là các loài chó, phù thủy, gian dâm, giết người, thờ thần tượng và tất cả những người ham thích và làm những việc gian dối.” Ta là Giê-su, đã sai thiên sứ Ta làm chứng cho các con những điều này trong các hội thánh. Ta là cội rễ và hậu tự của Đa-vít và sao mai sáng rực. Thánh Linh và cô dâu cùng nói: “Xin hãy đến!” Người nào lắng nghe cũng hãy nói: “Xin hãy đến!” Người nào khát hãy đến, người nào muốn hãy nhận nước hằng sống miễn phí! Ta cảnh cáo mọi người nghe các lời tiên tri trong sách này: “Nếu ai thêm điều gì vào sách này thì Đức Chúa Trời sẽ thêm cho kẻ ấy những tai họa đã ghi trong sách này. Còn ai bớt lời nào trong sách tiên tri này, thì Đức Chúa Trời sẽ cất phần của kẻ ấy trong cây hằng sống và thành phố thánh mà sách này đã ghi.” Đấng làm chứng cho những điều này phán: “Phải, Ta đến mau chóng!”A-men. Lạy Chúa Giê-su, xin Ngài đến!